SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XXI Thường Niên 

Năm C (Chúa Nhật) và Năm Chẵn (trong tuần)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Chúa Nhật

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Is 66, 18-21

"Chúng dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán: "Ta đã biết các việc làm và tư tưởng của chúng; Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta. Ta sẽ đặt nơi chúng một dấu lạ, Ta sẽ sai một số trong những người được giải thoát đến các dân ngoài biển, bên Phi châu và Lyđia, là những dân thiện xạ, đến Ý-đại-lợi và Hy-lạp, đến những hòn đảo xa xăm, đến với những kẻ chưa nghe nói về Ta, và chưa thấy vinh quang của Ta. Chúng sẽ rao giảng cho các dân biết vinh quang của Ta, sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến như của lễ dâng cho Chúa, họ cỡi ngựa, đi xe, đi võng, cỡi la, cỡi lạc đà, đến núi thánh của Ta là Giêrusalem, khác nào con cái Israel mang của lễ trong chén tinh sạch vào nhà Chúa, Chúa phán như thế. Trong những dân đó, Ta sẽ chọn các tư tế, các thầy Lêvi: Chúa phán như vậy". Vì chưng lời Chúa rằng: Cũng như Ta tạo thành trời mới, đất mới đứng vững trước mặt Ta thế nào, thì dòng dõi ngươi và danh tánh các ngươi sẽ vững bền như vậy".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2

Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).

Xướng: 1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người. - Ðáp.

2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Dt 12, 5-7, 11-13

"Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: "Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con; vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con". Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí. Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt. Ngày nay, hẳn ai cũng coi việc sửa dạy là nỗi buồn khổ, hơn là nguồn vui, nhưng sau này, nó sẽ mang lại hoa quả bình an công chính cho những ai được sửa dạy. Vì thế, anh em hãy nâng đỡ những bàn tay bủn rủn và những đầu gối rụng rời. Ðường anh em đi, anh em hãy bạt cho thẳng, để người què khỏi bị trẹo chân, nhưng được an lành.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 13, 22-30

"Người ta sẽ từ đông chí tây đến dự tiệc trong nước Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được. Khi chủ nhà đã vào và đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: 'Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi'. Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi từ đâu tới'. Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: 'Chúng tôi đã ăn uống trước mặt ngài và ngài đã giảng dạy giữa các công trường chúng tôi'. Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta'. Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên sau hết".

Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XXI Thường Niên Năm C hôm nay liên quan đến phần rỗi vô cùng quan trọng của loài người. Vấn đề then chốt được một ai đó hỏi Chúa Giêsu, khi Người “rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem” rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?".

Chúa Kitô đã không trực tiếp trả lời dứt khoát là nhiều hay ít, dù người đặt vấn nạn, theo chiều hướng và ý nghĩa của câu nghi vấn nhưng có tính cách khẳng định của người này, xu hướng về “ít” chứ không thể nào nhiều được. Cũng căn cứ chiều hướng của vấn nạn này thì người đặt câu hỏi không cho rằng “ít” người được rỗi là vì ơn cứu độ của Thiên Chúa vô cùng cao quí, nên “ít” người xứng đáng lãnh nhận và khó có thể lãnh nhận, ngoại trừ một số “ít” có thể lãnh nhận, do công khó của họ, điển hình nhất là thành phần luật sĩ và biệt phái Do Thái vẫn tự nhận mình là công chính!

Thế nhưng, câu kết của Bài Phúc Âm hôm nay là lời cảnh báo cho thành phần tự nhận mình là công chính, tưởng rằng ơn cứu độ là do tự sức mình mà được, hơn là do Thiên Chúa ban cho những ai tin tưởng vào Ngài: “có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên sau hết".

Người sau hết trở nên trước hết” đây là ai, nếu không phải là một người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện, không dám ngước mắt lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn thống hối, chân nhận mình là một tội nhân đáng thương, nên khi ra về đã trở nên công chính, trong khi đó, người biệt phái nghênh ngang trong đền thờ, chẳng những khoe khoang đủ thứ về công trạng của mình, mà còn tỏ ra khinh bỉ người khác: “tôi không phải như tên thu thuế kia”, nên cuối cùng người biệt phái lên đến thờ cầu nguyện này đã thuộc về hạng của “những người trước hết nên sau hết”.

Thật vậy, đúng như lời Chúa Giêsu khẳng định ở cuối Bài Giảng Trên Núi được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại ở đoạn 7, thì “không phải cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời… mà là làm theo ý Thiên Chúa”. Bởi vậy, thành phần tự coi mình là công chính, tưởng rằng nhờ đó mà họ có quyền “xin mở cửa cho chúng tôi”, lại không ngờ bị hoàn toàn phủ nhận và ruồng bỏ: “Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi từ đâu tới'”.

Cho dù bấy giờ họ có nại lý do việc lành phúc đức của mình: “’Chúng tôi đã ăn uống trước mặt ngài và ngài đã giảng dạy giữa các công trường chúng tôi'. Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta'. Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa’”.

Đúng thế, thành phần tưởng mình là ngon lành, tưởng mình thuộc về số “ít” được rỗi này, như Chúa Kitô ám chỉ trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được”. Họ chính là những người “tìm vào (ở chỗ giữ luật) mà không vào được (ở chỗ tự công chính hóa)”, hơn là tin vào Đấng ban ơn cứu độ cho họ. Và đó cũng chính là “cửa hẹp” họ cần phải “vào qua”, nghĩa là họ cần phải hoàn toàn tin tưởng vào một mình Chúa hơn là tự phụ vào bản thân mình, một lòng tin tưởng biến họ trở thành bé nhỏ, hèn mọn đáng thương trước nhan Chúa, trước Lòng Thương Xót Chúa, như người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện.

Vì ơn cứu độ là của Chúa và do chính Chúa ban, chứ không phải của riêng ai và do công lênh của ai, nên ơn cứu độ có tính cách phổ quát  (universal), tính cách công giáo (catholic), nhất là đối với những ai tin vào Ngài, dù họ là dân Do Thái đã từng được Chúa mạc khải trong suốt going lịch sử cứu độ, hay dân ngoại, như Chúa Kitô đã khẳng định và tiên báo trong Bài Phúc Âm hôm nay: “người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa’”. Bởi thế, không phải tất cả dân ngoại đều hư đi, chỉ có dân Chúa mới được cứu độ, vì được Ngài tuyển chọn và tỏ mình ra cho hơn các dân ngoại khác.

Do đó, dù là dân Do Thái, hay Kitô hữu đã lãnh nhận phép rửa và thuộc về Kitô trong Giáo Hội, họ cũng chưa chắc được cứu độ, nếu họ không trung thành với đức tin của họ, không sống đúng với những gì họ tin tưởng, trong việc từ bỏ con người cũ là bản thân đã vướng mắc nguyên tội của họ, và mặc lấy con người mới là Đức Kitô, biết chấp nhận làm theo ý Cha trên trời trong hết mọi sự cho đến cùng.

Nhờ đó, khi bị thử thách đức tin bởi Thiên Chúa, họ có thể chẳng những không nản mà còn gia tăng đức tin hơn bao giờ hết, đúng như những gì Kitô hữu giáo đoàn Do Thái được khuyên nhủ trong Bài Đọc 2 hôm nay:

Anh em thân mến, anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: ‘Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con; vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con’. Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí. Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt. Ngày nay, hẳn ai cũng coi việc sửa dạy là nỗi buồn khổ, hơn là nguồn vui, nhưng sau này, nó sẽ mang lại hoa quả bình an công chính cho những ai được sửa dạy”.

Một khi ý thức được ơn cứu độ vô cùng cao quí Chúa ban, cho chung loài người, bao gồm cả bản thân mình, chứ không phải chỉ ban cho bản thân mình thôi, và phần rỗi vô cùng quan trọng của con người, thì chúng ta không thể nào không cùng với toàn thể nhân loại nói chung và dân ngoại nói riêng, vang lên tâm tư của Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người.

2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời.

 

 

Ngày 21/08: Thánh Piô X, Giáo hoàng

 

Ngày 21/08: Thánh Piô X, Giáo hoàng

 

1. Đôi dòng lý lịch.

Thánh Piô X Giáo hoàng tên thật là Guiseppe Melchierre Sartô, sinh tại làng Riese miền Venetia, ngày 02 tháng 6 năm 1835. Cha Ngài, ông Giovanni Battista Sartô thành hôn với mẹ Ngài là bà Margherita Samon, nhỏ tuổi hơn ông rất nhiều. Vì vậy lên 17 tuổi, Ngài đã mồ côi cha. Thân phụ ngài là một nông dân nghèo, và mẹ ngài là một thợ may quần áo nữ. Ông Giovanni Battista làm nghề chạy giấy của xã, làm cha một gia đình nghèo túng. Chết đi, ông để lại một gia đình càng túng quẫn hơn nữa. Tuy nhiên nhờ lòng đạo đức của cả hai ông bà mà gia đình này đã góp phần đào tạo nên một vị thánh lớn cho Giáo hội.

Piô X là một người rất thông minh, cần mẫn và sáng trí. Ngài xuất thân từ một gia đình bình dân sinh sống tại Venexia nước Ý và là con trai thứ hai trong gia đình gồm mười anh chị em.

Ngay khi còn nhỏ, cũng giống như cha mẹ, ngài rất đạo đức và luôn ước ao được làm Linh Mục. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh kinh tế của gia đình quá eo hẹp thiếu thốn, ước muốn thánh thiện đó hầu như chỉ là một giấc mơ bất thành mà thôi. Khi được mười một tuổi, Beppo - cái tên cúng cơm người ta thường dùng để gọi ngài - hằng ngày phải đi bộ bảy cây số đến học tại trường La-tinh ở Castelfranco để kết thúc được chương trình trung học phổ thông và để theo học triết và thần học, mãi cho tới khi ngài được nhận vào Chủng Viện ở Padua.

Học tại trường làng, Guiseppe đã tỏ ra có nhiều triển vọng, Ngài luôn là một học sinh giỏi đứng đầu lớp học. Theo phong tục thời đó, dù đã vào ban giúp lễ từ hồi 7 tuổi, mãi tới năm 11 tuổi, Guiseppe mới được rước lễ lần đầu. Những ngày tháng mong đợi có lẽ đã khiến Ngài khi lên Giáo hoàng sau này, đã cho phép trẻ em được rước lễ vỡ lòng khi vừa tới tuổi khôn và nhiệt tình cổ võ lòng tôn sùng bí tích Thánh Thể. Trước bàn thờ Đức Mẹ, dịp rước lễ lần đầu, Guiseppe đã khấn dâng mình cho Chúa. Từ lâu rồi Ngài đã nuôi ý định này nhưng không dám tỏ bày với cha mẹ. Khi biết được ý định của con, mẹ Ngài đã hết sức tán thành, cha Ngài ngập ngừng vì thấy gia đình nghèo túng, nhưng rồi cũng quảng đại vâng theo ý Chúa. Mọi người đều vui mừng vì quyết định của Guiseppe, nhất là cha sở Riese. Cha phó dạy tiếng Latinh cho Ngài. Khi đã đủ lực theo bậc trung học ở Castelfrancô cách Riese 7 cây số. Suốt 4 năm trời Ngài thường vác giầy trên vai, để tiết kiệm, và đi bộ tới trường rồi lại đi bộ về nhà. Chính lý tưởng làm Linh mục là sức mạnh giúp Ngài kiên trì như vậy.

Hết 4 năm tại Castelfrancô, năm 1850, Guiseppe lên đại chủng viện Padua. Gia đình Guiseppe nghèo, cha sở xin được cho Ngài một học bổng, giáo dân trong họ hằng năm quyên tiền giúp đỡ Ngài. Thật là những nghĩa cử cao đẹp đối với một ơn gọi. Năm 17 tuổi, ông thân sinh qua đời, Guiseppe muốn bỏ về giúp mẹ và săn sóc cho 7 đứa em. Lại một nghĩa cử cao đẹp khác vun trồng cho ơn gọi Guiseppe chín mùi: mẹ Ngài không chấp nhận ý kiến, mà quyết tâm dâng con cho Chúa. Trong nếp sống nghèo khó nhưng lại giàu lòng quảng đại ấy, Guiseppe đã tiến tới chức Linh mục ngày 28 tháng 9 năm 1858, lúc 23 tuổi.

Sau ngày mở tay tại quê nhà, cha Guiseppe đi nhận phó xứ Tombolo, chín năm sau Ngài được bổ nhiệm làm chính xứ Salzano. 17 năm làm phó xứ rồi chính xứ, cha Guiseppe sống đời hy sinh tận tụy với giáo dân, nhất là với những người nghèo khó. Không hề ao ước danh vọng, Ngài lại được chiếu cố, được tín nhiệm vào chức vụ cao hơn. Đức Giám mục Trevise mời Ngài về làm trưởng ấn toà giám mục, kiêm nhiệm chức vụ giám đốc chủng viện. Ngài luôn luôn thi hành các chức vụ bề trên giao phó một cách chu đáo.

Năm 1884, Đức Lêô XIII, Đấng mà Ngài sẽ kế vị đặt Ngài làm Giám mục cai quản điạ phận Mantua, Ngài muốn từ khước nhưng đã vâng lời và quyết nên mọi sự cho mọi người.

- Dân chúng sẽ thấy tôi luôn kiên trì trong chức vụ, luôn hiền từ và đầy bác ái.

Ôm hôn mẹ hiền, Ngài cho mẹ xem chiếc nhẫn Giám mục của mình. Mẹ Ngài cũng sung sướng cho Ngài xem chiếc nhẫn cưới của mình và nói:

- Không có chiếc nhẫn của mẹ thì chẳng có chiếc nhẫn của con.

Phải thật nhân đức mới có thể đương đầu với tình trạng đáng thương của giáo phận: chủng viện gần như trống rỗng, dân chúng chịu ảnh hưởng của tâm điểm thệ phản thuyết phóng túng nên lòng đạo đức sa sút, chẳng còn nhiệt tâm gì với việc tông đồ, với đời sống nội tâm. Sợ hãi, nhưng Đức cha Sartô bắt tay ngay vào việc canh tân. Ngài đi kinh lý khắp điạ phận rộng lớn. Những cuộc tiếp xúc thường xuyên và thân mật này đã tạo nên những bước tiến cụ thể. Khi mùa gặt đã tới, Ngài lên tiếng kêu gọi cho ngân quỹ vơi cạn của chủng viện và được đáp ứng quảng đại. Ngài triệu tập một hội nghị để trao đổi và để đón nhận các ý kiến. Ngài luôn lo bảo vệ sự toàn vẹn đức tin và không muốn chấp nhận sự sống nhượng bộ khi không được phép:

- Người ta phải tranh đấu nơi thanh thiên bạch nhật.

Công việc ngày một nhiều, nhưng Ngài vẫn thường xuyên thăm viếng các giáo xứ. Buổi sáng kia tới nhà thờ một họ đạo, Ngài thấy giáo dân đứng chờ trước toà giải tội, Ngài vào ngồi tòa, khiến cha sở tới nơi phải bối rối. Trợ giúp hàng giáo sĩ về luân lý lẫn tài chánh đó là nét đặc trưng trong chức vụ của Ngài.

Mỗi hoạt động của vị Giám mục thánh thiện đều tạo thành tiếng vang. Với những cố gắng phục vụ Giáo Hội, lo lắng cho tha nhân, ngày 15 tháng 6 năm 1893, ngài được phong làm Hồng Y Giáo Chủ Venice. Lần này Ngài mau mắn vâng lời.

- Khi vị đại diện Chúa Kitô mở lời, không phải là lúc để nghiệm xét, mà là vâng phục. Không được phép cân nhắc lệnh truyền để tìm giảm thiểu mức độ vâng phục...

Sau 5 năm liền làm cha tổng đại diện ở Treviso, Giáo hoàng Lêô XIII đã chọn và tấn phong linh mục Sarto làm Giám mục Mantua vào năm 1884. Giám mục Sarto điều khiển giáo phận Mantua mãi cho tới năm 1893.

Triều đình Ý trước tiên đã từ chối chuẩn nhiệm (exequatur) ngài với lý do là việc bổ nhiệm ngài là việc của triều đình Áo–Hung. Đức Cha Sarto phải đợi đến 18 tháng sau mới nhận được giáo phận mới của mình.

Đức Hồng y tiếp tục cùng một chương trình canh tân. Ngài xây dựng nhiều thánh đường, cô nhi viện, chủng viện và một phân khoa giáo luật. Ngài can đảm thiết lập thông tấn xã công giáo. Ngài đến nhà thờ và tranh đấu cho việc tôn trọng luật Chúa.

Ngày 08 tháng 7 năm 1903, đức Lêô XIII từ trần. Đức Hồng y giáo chủ Sartô phải đi vay tiền mua vé về họp mật nghị bầu Giáo hoàng. Trong mật nghị, Đức Hồng y Puzyna cai quản Krakow cho biết Hoàng đế nước Áo phủ quyết Đức Hồng y Rampella quốc vụ khanh của Đức Lêô XIII mới từ trần. Cuộc bỏ phiếu đầu ngày 1 tháng 8, Đức Sarto chỉ được 5 phiếu. Đức Hồng y Gibbons người Mỹ xin Ngài đừng phủ quyết cuộc bầu cử và đến cuộc đầu phiếu thứ 7 ngày 4 tháng 10, Ngài được 50/62 (vì sự kiện trên, sau này người ra hiến chế Comomissum Nobis để ngăn chặn mọi mưu toan chính trị tìm khuynh đảo các cuộc bầu cử Giáo hoàng).

Sau kết quả cuộc bầu cử, Đức hồng y niên trưởng đến hỏi:

- Chúng tôi đã nhân danh Thiên Chúa tiến cử Ngài làm Giáo hoàng, Ngài có ưng thuận không ?

Sau giây phút yên lặng trong nước mắt giàn dụa, Ngài nghẹn ngào trả lời?

- Ước gì tôi không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.

Thấy câu trả lời chưa rõ, Đức hồng y niên trưởng hỏi lại lần nữa và Ngài trả lời:

- Tôi xin nhận như nhận một thánh giá.

- Vậy Ngài muốn nhận tên gì ?

- Vì tôi phải chịu khổ nên tôi nhận tên của những vị đã phải đau khổ. Tôi nhận tên là PIÔ.

Thế là cuộc bầu cử Giáo hoàng đã xong. Lễ đăng quang được cử hành ngày 09 tháng 8 năm 1903. Trong thông điệp đầu tiên, E Supreni Apostolatus ngày 04 tháng 10 năm 1903 Ngài công bố:

Nếu người ta muốn hỏi chúng tôi một châm ngôn phát xuất tự đáy lòng, tôi sẽ luôn nói rằng: canh tân mọi sự trong Đức Kitô.

Suốt triều đại Giáo hoàng, Đức Piô X đã thực hiện châm ngôn ấy. Ngài cho phép các trẻ em nhỏ rước lễ sớm khi vừa tới tuổi khôn và khuyến khích việc rước lễ hàng ngày. Với thông điệp Pascendi ngày 08 tháng 9 năm 1908 kết án thuyết duy tâm. Ngài sửa lịch và sách nguyện, canh tân thánh nhạc và truyền dùng trong cả Giáo hội, Ngài thiết lập các viện nghiên cứu âm nhạc và kinh thánh tại Roma. Ngài khởi đầu công cuộc hệ thống hóa giáo luật...Về phương diện chính trị, Ngài tạo ra sự dễ dàng trong việc liên lạc giữa Giáo hội và vương quốc Ý. Khi tổ chức lại các bộ và các toà án, cùng giáo triều Roma, tông hiến Sapienti Consiliô năm 1908 cho thấy dấu hiệu sẵn sàng chấp nhận việc để mất các quốc gia của Giáo hội, cũng không cần đến cơ cấu cai trị dân sự làm khuôn mẫu. Ngay từ năm 1905 Ngài đã cương quyết từ khước hoà ước Napolêon và chấp nhận sự phân biệt Giáo hội với quốc gia vì biết rằng sự nghèo khó của Giáo hội Pháp là có lợi hơn.

Giữa những tình huống hóc búa này, Đức Piô X không bao giờ thực sự cảm thấy mình được phép ở nhà. Ngài là “tù nhân ở Vaticanô”. Một lần tiếp xúc với các bạn cũ, Ngài bật khóc:

- Xem người ta đưa tôi lên ghế này đây.

Tìm lại nếp sống cũ, Ngài đưa các em về Roma để giặt ủi và may vá đồ. Khi đau bệnh, Ngài xin Linh mục là cháu của Ngài cho rước lễ. Ngài còn đưa cả cha tuyên úy và người nấu ăn từ Venetia về. Thích sống thanh đạm, Ngài bỏ các nghi thức nhỏ nhặt và nhiều truyền thống nặng hình thức khác. Khi Ngài qua đời người ta còn thấy trong túi áo Ngài những vật của một học sinh: con dao nhỏ và cây bút chì.

Năm 1914 vào năm thứ 11 sau khi Đức Piô được bầu làm Giáo hoàng, Âu Châu lâm vào cảnh chiến tranh. Ngài ngã bệnh, Ngài dâng lễ cuối cùng vào ngày lễ Mông Triệu. Ngài qua đời ngày 20 tháng 8. Người ta nói rằng: Ngài bị vỡ tim vì lo buồn cho nhân loại, 9 năm sau đã bắt đầu hồ sơ phong thánh và ngày 03 tháng 6 năm 1951 Ngài được phong chân phước, ngày 29 tháng 5 năm 1954, sau 40 năm qua đời Ngài được phong hiển thánh.

Trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma, Giáo hoàng Piô X là một trong những Giáo hoàng vĩ đại đã canh tân Giáo Hội nhiều nhất, đúng với khẩu hiệu của ngài đã chọn khi lên ngôi Giáo hoàng: "Đổi mới tất cả trong Đức Kitô".

Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta biết học theo gương sống của thánh Piô X, canh tân đổi mới trong Đức Kitô, làm tất cả vì lòng yêu mến Chúa và Giáo Hội.


2. Cuộc sống chứng nhân

Ngay từ đầu, Giáo hoàng Piô X đã quan tâm một cách đặc biệt đến chương trình mục vụ trong Giáo Hội. Ngài tìm cách quân bình giữa thế giới tân tiến và truyền thống Kitô giáo. Nhưng trước hết, ngài chăm lo đến việc canh tân nội bộ Giáo Hội, đúng với khẩu hiệu của ngài: "Đổi mới tất cả trong Đức Kitô".

Thật khó có thể kể ra đây hết những việc Đức Pio X đã làm trong cuộc đời của Ngài. Tuy nhiên sau khi đọc lại cuộc đời của Ngài người ta không thể không lưu ý đến những bài học thật sống động làm cho mọi người phải để tâm suy nghĩ:

a/ Trước hết ngài được sống trong một gia đình đạo đức và chính ngài cũng rất yêu quí gia đình của mình. Chính gia đình này đã làm nên một người con thánh thiện cho Giáo Hội.

Lịch sử còn ghi lại tuy gia đình ngài không đến nỗi bần cùng túng quẫn, nhưng được xếp vào hạng nghèo túng. Cha ngài là ông Gioan Bacti Sartô, Mẹ là Magarita Sanson. Ông thân làm nghề chạy giấy tại toà thị xã.

Vì gia đình túng thiếu, bà Magarita vừa phải lo việc nội trợ, vừa đi khâu thuê kiếm ít tiền sinh sống. Bà rất mực đạo đức, nuôi dạy các con theo đúng tinh thần đạo Công giáo. Chính tay bà đã đào tạo nên vị Giáo Hoàng cương quyết và thánh thiện sau này. Người đàn bà nhà quê ấy thật đáng làm gương mẫu cho mọi người với những đức tính nhẫn nại, hy sinh và khiêm nhường. Ngày nay ở trên mộ bà, tại nghĩa trang làng Riese, người ta còn đọc thấy những hàng sau đây mà chính Đức Piô X khi còn đang làm Hồng Y giáo chủ thành Venise, đã truyền ghi khắc vào bia để ghi công đức của mẹ mình: “Magarita Sanson, người đàn bà gương mẫu, người vợ trung thành, người mẹ khôn sánh”.

Truyền thuyết còn ghi ngài có một cuộc sống tình nghĩa rất nặng với gia đình nhất là với mẹ của ngài. Đức Giáo Hoàng Piô X khi còn là cậu bé ở làng Riese mỗi ngày phải đi bộ 7 cây số để đến trường, sáng đi 7 chiều về 7. Bà mẹ, bà Magarita dù nghèo song cũng ráng mua cho con một đôi giày cho con đỡ đau chân. Đứa con tốt lành này cũng rất thương cha mẹ cho nên sáng ra khỏi nhà thì mang giày vào chân kẻo mẹ rày, sau khi xa nhà thì cởi giấy quảy trên vai cho tới khi tới trường mới mang vào để chúng bạn khỏi cười chê. Ra khỏi trường lại cởi ra, về gần tới mới xỏ vào sợ mẹ buồn. Cậu bé Sartô làm như thế vì sợ mòn đôi giày và tốn kém cho cha mẹ.

Khi được được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Mantua, một hôm, ngài về thăm mẹ. Mẹ con ngồi nói chuyện khá lâu, ngài tếu táo khoe với mẹ chiếc nhẫn Giám mục của mình: “Mẹ xem này, chiếc nhẫn Giám mục mới của con đây”.

Mẹ ngài mỉm cười chìa bàn tay thô cộc cho thấy chiếc nhẫn cưới bình dị của mình và nói: “Không có chiếc nhẫn cưới nghèo nàn này của mẹ đây thì chẳng có chiếc nhẫn ấy đâu.”

2. Đức Piô X là người luôn để lòng chăm lo cho đời sống Giáo Hội đặc biệt là các linh mục. Theo ngài, trước hết các Linh Mục phải lo sống thế nào để có được Chúa Giêsu trong chính mình, nếu họ muốn mang Chúa đến cho những kẻ khác. Ngài viết:

Là những Linh Mục của Chúa, chúng ta cần phải giới thiệu Đức Kitô cho mọi người và hành động trong tinh thần của Người. Là bạn hữu nghĩa thiết của Người, chúng ta ‘phải có những tâm tình như Đức Kitô’ (Pl 2,5), Đấng hoàn toàn thánh thiện, vô tội và tinh tuyền. Bởi vì tình bạn luôn đòi hỏi phải cùng ước muốn hay không ước muốn như nhau."

Ngài ưu tiên sống đời sống khó nghèo. Đấy là chúc thư quí báu ngài còn để lại:

 “Tôi sinh ra khó nghèo, sống khó nghèo, và biết rằng sẽ chết trong khó nghèo…

Về phần thi hài tôi, thì tôi ra lệnh, đừng ai đụng chạm đến, và không xức ướp gì cả; tuy làm thế là trái với thói quen thông thường. Tử thi chỉ trưng bày trong mấy tiếng đồng hồ, rồi đem mai táng…”

Hiện nay trên mộ ngài, người ta ghi thấy dòng chữ

Piô X Giáo Hoàng

Khó nghèo và giàu có

Hiền lành và khiêm nhường

Mạnh mẽ bên vực đạo

Chăm chú cải tổ mọi sự trong Chúa Kitô

Đã yên nghỉ thánh thiện trong Chúa ngày 20 tháng 8 năm 1914.

Lạy Thánh Pio X, xin cầu cho Giáo Hội và chúng con. Amen.

aminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp lại theo tài liệu của website TGP Sài Gòn)

Bài đọc 2

Hội Thánh cất tiếng ca dịu dàng

Trích tông hiến Chúa Thánh Thần linh hứng của thánh giáo hoàng Pi-ô X.

Nhờ ơn linh hứng của Thiên Chúa, các thánh vịnh đã được sáng tác. Sưu tập các thánh vịnh đã được đưa vào Kinh Thánh để, ngay từ thời đầu của Hội Thánh, rõ ràng là các thánh vịnh đã có sức nung đúc lòng đạo của các tín hữu một cách lạ lùng. Họ dùng lời ngợi khen làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa, tức là dùng miệng lưỡi mà ca tụng Thánh Danh. Không những thế, theo thói quen đã có từ thời luật cũ, rõ ràng là các thánh vịnh còn góp phần hiển nhiên vào Phụng vụ thánh và Kinh Thần vụ. Từ đó phát sinh “tiếng nói của Hội Thánh”, như thánh Ba-xi-li-ô thường gọi. Tiếng nói đó chính là lối hát thánh vịnh, hay theo cách gọi của vị tiền nhiệm chúng tôi là đức U-ba-nô VIII, thì tiếng nói đó chính là ái nữ của thánh thi ca ngợi hằng được hát lên trước ngai Thiên Chúa và Con Chiên. Theo thánh A-tha-na-xi-ô thì thánh thi còn dạy cho những người đặc biệt lãnh trách nhiệm cử hành phụng tự biết phải ca ngợi Thiên Chúa làm sao, và phải dùng lời lẽ nào mà xưng tụng Người cho phải đạo. Về vấn đề này, thánh Âu-tinh cũng có những lời rất đẹp : “Vì Thiên Chúa muốn cho nhân loại ca ngợi Người một cách xứng hợp, nên Người đã tự ca ngợi mình trước ; Thiên Chúa đã vì thương mà tự ca ngợi chính mình, nên loài người mới biết cách ca ngợi Thiên Chúa.”

Các thánh vịnh cũng có một sức mạnh nội tại phi thường, có khả năng khơi dậy trong các tâm hồn nỗi khát khao mọi nhân đức. Thật vậy, theo thánh A-tha-na-xi-ô, “toàn bộ Kinh Thánh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, đều đã được Thiên Chúa linh hứng và đều hữu ích cho việc giảng dạy, như Kinh Thánh đã chép. Dầu vậy, sách Thánh vịnh ví được như địa đàng có hoa trái của mọi sách khác : sách này đem lại những bài ca, và khi những bài ca đó được hát lên, sách này lại cho ta những hoa trái đặc sắc bên cạnh các sách khác”. Thánh A-tha-na-xi-ô còn thêm một điều chí lý : “Đối với tôi, thánh vịnh ví tựa tấm gương cho người hát soi mình, để, nơi các thánh vịnh, người hát có thể ngắm nghía chính mình cùng với các rung động của riêng tâm hồn mình, và như thế, họ sẽ đầy tâm tình khi ngâm nga thánh vịnh.” Trong sách “Tự thuật”, thánh Âu-tinh cũng viết : “Con đã khóc ròng khi nghe những bản thánh thi và thánh ca dâng kính Ngài, vì quá cảm kích trước giọng ca dịu dàng của Hội Thánh Ngài. Giọng ca ấy rót vào tai con, thì chân lý cũng thấm vào lòng con, khiến rực lên trong con những tâm tình sốt mến, rồi nước mắt tuôn đổ và hạnh phúc trào dâng.”

Quả thế, ai lại không cảm động trước rất nhiều đoạn thánh vịnh hết lời xưng tụng uy nghi vô tận và uy quyền toàn năng của Thiên Chúa, xưng tụng đức công chính, lòng nhân hậu và từ tâm khôn tả, cũng như nhiều phẩm tính vô cùng đáng ca tụng khác của Người ? Ai lại không cảm thấy những tâm tình giống như thế khi dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn lành Người đã ban, hay khi khiêm tốn và tin tưởng cầu xin những điều mình đang mong đợi, hoặc khi cất tiếng kêu van tự đáy lòng thống hối tội lỗi ? Ai lại không cảm thấy bừng cháy lòng yêu mến trước hình ảnh Đức Ki-tô, Đấng Cứu Thế, được hoạ lại cẩn thận ? Thật vậy, thánh Âu-tinh “đã nghe thấy tiếng của Đấng Cứu Thế trong mọi thánh vịnh, khi thì đàn ca, khi lại rên siết, lúc thì hân hoan trong hy vọng, lúc lại thở than trong hoàn cảnh hiện tại”.

 

 

 

Thứ Hai

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Tx 1, 1-5. 11b-12

"Ðể danh Chúa được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người".

Khởi đầu thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Phaolô, Silvanô, và Timôthêu kính gửi lời thăm Giáo đoàn Thêxalônica trong Thiên Chúa là Cha chúng ta, và trong Chúa Giêsu Kitô. Nguyện xin ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô ở cùng anh em. Anh em thân mến, tôi phải luôn luôn cảm tạ ơn Thiên Chúa vì anh em, đó là điều phải lẽ, bởi vì anh em ngày càng thêm lòng tin và hết thảy anh em đều đầy lòng thương yêu nhau, đến nỗi chính chúng tôi cũng được hãnh diện trong các giáo đoàn của Chúa, vì anh em hằng kiên nhẫn và giữ lòng tin trong những cơn bắt bớ gian truân anh em phải chịu. Ðó là dấu chỉ về sự phán xét công minh của Thiên Chúa, để anh em xứng đáng vào nước Thiên Chúa, bởi anh em phải chịu khốn khó vì nước ấy.

Xin Thiên Chúa chúng ta đoái thương làm cho anh em nên xứng đáng ơn Chúa kêu gọi anh em, và xin Người dùng quyền phép mà kiện toàn những ý định ngay lành do lòng tốt của anh em và công việc của lòng tin anh em, để danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người, do ân sủng của Thiên Chúa chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 4-5

Ðáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa muôn dân (c. 3).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới. Hãy ca mừng Chúa đi, toàn thể địa cầu! Hãy ca mừng Chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.

2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa muôn dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.

3) Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen. Người khả uý hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Cr 5, 19

Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian với Người, và đã đặt lời giải hoà trên môi miệng chúng tôi. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 23, 13-22

"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa nước trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào.

"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đọc kinh cho dài để nuốt tài sản của các bà goá, bởi thế, các ngươi sẽ chịu phán xét nặng hơn.

"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi rảo khắp biển khơi và lục địa, để tìm cho được một người tòng giáo, nhưng khi đã cho người đó tòng giáo, các ngươi làm cho nó trở thành con cái hoả ngục gấp hai lần các ngươi.

"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù! Vì các ngươi nói rằng: Ai lấy đền thờ mà thề, thì không có giá trị gì, nhưng ai lấy vàng trong đền thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi kẻ ngu ngốc và đui mù, chớ thì vàng hay là đền thờ thánh hoá vàng, cái nào trọng hơn? Các ngươi còn bảo rằng: Ai lấy bàn thờ mà thề, thì không giá trị gì, nhưng ai lấy của lễ để trên bàn thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi những kẻ đui mù, chớ thì của lễ hay là bàn thờ thánh hoá của lễ, cái nào trọng hơn?

"Vậy ai lấy bàn thờ mà thề, thì lấy cả bàn thờ và mọi sự để trên bàn thờ mà thề. Kẻ nào lấy đền thờ mà thề, thì lấy cả đền thờ và Ðấng ngự trong đền thờ mà thề. Và kẻ nào lấy trời mà thề, thì lấy ngai toà Thiên Chúa và Ðấng ngự trên ngai toà ấy mà thề".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

Coi cái trọng thành cái hèn và coi cái hèn thành cái trọng

 

Tiến trình của Phúc Âm cho ngày thường trong Mùa Thường Niên được phân chia như sau: 9 tuần lễ đầu (từ tuần 1 đến hết tuần 9, và là 9 tuần thường niên Hậu Mùa Giáng Sinh) theo Phúc Âm của Thánh ký Marcô, sau đó là 12 Tuần (từ tuần 10 sang Mùa Phục Sinh đến hết tuần 21) theo Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, và cuối cùng là 13 tuần (từ tuần 22 đến hết tuần 34) theo Phúc Âm của Thánh ký Luca. Còn Phúc Âm của Thánh ký Gioan cho ngày thường trong tuần được Giáo Hội chọn đọc cho các mùa đặc biệt như Mùa Giáng Sinh (cả tuần trước lễ Hiển Linh) Mùa Chay (cả tuần 4 và 5) và Mùa Phục Sinh (liên tục từ Tuần 2 trở đi).


Tuần XXI Thường Niên này là tuần cuối cùng theo Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho ngày thường trong tuần. Ba ngày đầu là những bài Phúc Âm ở đoạn 23, liên quan đến những lời Chúa Giêsu thậm tệ khiển trách thành phần luật sĩ và biệt phái, theo chiều hướng của bài Phúc Âm của Thứ Bảy tuần trước, chiều hướng giả hình của 2 thành phần đóng vai trò làm thày dạy trong dân này

Trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước, Chúa Giêsu chưa trực tiếp khiển trách 2 thành phần này, mà chỉ mới nói về họ với dân chúng và các môn đệ của Người thôi, về thái độ ham danh vọng của họ, và khuyên dân chúng và các môn đệ của Người đừng bắt chước họ liên quan đến 3 danh xưng họ thích được gọi là "cha", là "thày", là "xếp". Trong bài Phúc Âm hôm nay và 2 ngày tới, Người trực tiếp nói thẳng vào mặt họ, vạch trần những sai lầm của họ ra, không phải để bôi xấu họ cho bằng để bênh vực dân chúng cho khỏi chẳng những khuynh hướng ham danh của họ mà còn giáo huấn sai lầm của họ nữa, như Phúc Âm hôm nay cho thấy: 


"Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người bảo: 'Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc'. Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn? Các người còn nói: 'Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc'. Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. Và ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề".

Cái sai lầm lệch lạc nơi giáo huấn của hai thành phần sư phụ trong dân này là ở chỗ họ coi cái trọng thành cái hèn và coi cái hèn thành cái trọng, lấy cái chính làm cái phụ và lấy cái phụ làm cái chính, theo quan niệm thiển cận và phán đoán duy vật của họ, như Chúa Giêsu đã thẳng thắn phân tích cho họ biết một cách nặng lời không kiêng nể như sau: "Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn?.... Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn?" 

Chính vì giáo huấn sai lầm như thế của họ mà Chúa Giêsu đã cảnh báo cho họ biết về hậu quả tại hại liên quan đến mối nguy hiểm cho thành phần được họ dẫn dắt chỉ bảo:

 

"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào... Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người".

Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao thành phần chỉ đạo cho dân chúng là luật sĩ và biệt phái giả hình này sai lầm cả trong giáo huấn của họ như thế mà Chúa lại bảo cứ nghe họ như trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước? Có thể nói chỉ có người ban hành mới có thể sai lầm còn người tuân hành không bao giờ sai lầm, nếu vì lòng ngay không biết, do đó nếu thành phần tuân hành có sai trái cũng không bị phán xét và luận phạt.

 

Việc Chúa Kitô thậm tệ quở trách thành phần luật sĩ và biệt phái giả hình trong Bài Phúc Âm hôm nay quả thực, như Thánh Phaolô viết cho Kitô hữu giáo đoàn Thessalonica ở thư thứ 2 trong Bài Đọc 1 hôm nay là "sự phán xét công minh của Thiên Chúa, để anh em xứng đáng vào nước Thiên Chúa", nhờ đó, họ mới "nên xứng đáng ơn Chúa kêu gọi" ..., như Thánh Phaolô ước nguyện cuối bài đọc 1: "để danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người, do ân sủng của Thiên Chúa chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô".

Nếu thành phần luật sĩ và biệt phái trong Bài Phúc Âm hôm nay chỉ tìm vinh quang Thiên Chúa, hơn là vinh danh bản thân, thì, theo Thánh Vịnh 95 ở Bài Đáp Ca hôm nay, họ mới có thể cảm nhận và chúc tụng Chúa đúng như tâm tình của Bài Đáp Ca này:

 

1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới. Hãy ca mừng Chúa đi, toàn thể địa cầu! Hãy ca mừng Chúa, hãy chúc tụng danh Người.

2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa muôn dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.

3) Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen. Người khả uý hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh.


Ngày 22 tháng 8

Đức Ma-ri-a Nữ Vương

lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Vì cả thân xác cũng đã được biến đổi, Đức Ma-ri-a trong vinh quang mông triệu đã trở nên thành công tối hậu của công trình cứu chuộc. Nhưng Đức Ma-ri-a vô cùng diễm lệ đồng thời cũng rất quyền thế, bởi vì Người là Thánh Mẫu của Đấng mà “triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Chính vì thế, từ bao thế kỷ, các tín hữu đã kính chào Mẹ là Đức Nữ Vương, Đấng Trung Gian tối cao của ân sủng.

 

Nữ Vương thế giới và Nữ Vương hoà bình

Bài đọc 2 phụng vụ giờ kinh sách

Trích bài giảng của thánh A-mê-đê, giám mục Lô-dan.

Trước khi được cất lên trời, danh tuyệt diệu của Đức Ma-ri-a đã toả sáng trên toàn cõi đất và danh thơm lừng lẫy của Mẹ đã lan toả khắp nơi, trước cả khi vẻ huy hoàng lộng lẫy của Mẹ được nâng cao vượt các tầng trời. Bạn xem : điều đó thật là phải lẽ. Thật vậy, vì Mẹ đồng trinh và vì danh dự của người Con do Mẹ sinh ra, trước hết Mẹ phải cai trị ở dưới đất, rồi sau cùng đón nhận cõi trời vinh quang. Mẹ phải được đầy tràn ở dưới đất này, để rồi tiến vào trong sung mãn thánh thiện chốn trời cao. Và vì Mẹ đã được Thần Khí của Chúa đưa từ nhân đức này tới nhân đức khác, thì Mẹ cũng được đưa từ chốn rạng ngời dưới đất đến chốn rạng ngời trên trời.

Vậy tuy đang sống trong thân xác, Mẹ đã được thưởng thức trước những hoa quả đầu mùa của vương quốc mai sau : khi thì vươn lên tới Thiên Chúa nhờ sự hoàn thiện khôn thấu, lúc lại hạ cố đến với tha nhân nhờ đức bác ái khôn tả. Ở trên trời, Mẹ được các thiên sứ tới lui phục vụ, ở dưới đất, Mẹ được loài người hầu hạ kính tôn. Tổng lãnh Gáp-ri-en cùng với các thiên sứ đã cung phụng Mẹ. Còn ông Gio-an trinh khiết thì vui mừng vì Mẹ đồng trinh đã được trao phó cho mình dưới chân thập giá, ông cùng với các Tông Đồ chăm sóc Mẹ. Các thiên sứ hân hoan nhìn nhận Mẹ là nữ vương của mình, các Tông Đồ vui mừng nhìn nhận Mẹ là bà chúa của mình. Và tất cả đều đem lòng đạo đức và yêu mến mà vâng phục Mẹ.

Phần Mẹ, Mẹ đang ngự trên lâu đài cao chót vót của các nhân đức và được các ân huệ của Thiên Chúa bao la như biển cả. Mẹ trổi vượt hơn mọi người nhờ ân sủng dồi dào như vực thẳm, nhưng Mẹ lại tuôn đổ thật rộng rãi xuống trên đoàn dân đang tin tưởng và khao khát. Thật vậy, Mẹ ban sức khoẻ cho thân xác và thần dược cho linh hồn, Mẹ có khả năng giúp thân xác và linh hồn được trỗi dậy từ cõi chết. Có ai từ biệt Mẹ ra về mà vẫn còn đau yếu, buồn phiền và dốt nát không hiểu các mầu nhiệm thiên quốc bao giờ ? Có ai về tới nhà mà lại không hân hoan vui mừng, vì đã nhờ Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Chúa, mà được như lòng mong muốn ?

Mẹ là hiền thê đầy dẫy bao ân phúc cao cả, là Mẹ của Vị Hôn Phu độc nhất, Mẹ dịu dàng và rất đáng mến, vì đầy niềm hân hoan vui sướng. Mẹ như nguồn suối cho các thửa vườn thiêng liêng, như giếng đầy nước hằng sống và đem lại sức sống. Nước ấy xuất phát từ núi Li-băng của Thiên Chúa, chảy như thác lũ. Vì thế, Mẹ làm tuôn chảy những dòng sông hoà bình và những con suối ân sủng thiên quốc, từ núi Xi-on cho đến mọi nước chung quanh. Vì vậy, khi Đức Trinh Nữ trên mọi trinh nữ được Thiên Chúa và được Con của Người là Vua trên các vua dẫn vào thiên cung, trước các thiên sứ đang hân hoan, các tổng lãnh đang vui mừng và thiên cung đang reo hò ca ngợi, thì bấy giờ ứng nghiệm lời sấm đã được tác giả thánh vịnh thưa với Chúa : Bên hữu Ngài hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy.

Lạy Chúa, Chúa đã đặt Thánh Mẫu của Đức Ki-tô Con Chúa làm Thánh Mẫu và Nữ Vương chúng con. Xin nhậm lời Đức Nữ Vương chuyển cầu mà cho chúng con đạt tới phúc vinh quang Chúa dành sẵn trên trời cho con cái Chúa. Chúng con cầu xin

 

Kitô Hữu Nhìn Lên Nữ Vương Maria

(Giáo lý Thánh Mẫu của ĐTC Gioan Phaolô II)


1.- Lòng tôn sùng thịnh hành vốn kêu cầu Mẹ Maria như là một Vị Nữ Vương. Công Đồng Chung Vaticanô II, sau khi nhắc lại Việc Đức Trinh Nữ Mông Triệu “cả xác lẫn hồn vào vinh quang thiên quốc”, đã giải thích rằng Mẹ “được Chúa tôn làm Nữ Vương trên tất cả mọi sự, để Mẹ có thể hoàn toàn nên giống hơn Con Mẹ là Chúa các chúa (x Rev 19:16) và là Đấng chiến thắng tội lỗi cùng sự chết” (Lumen Gentium, 59).

Thật vậy, bắt đầu từ thế kỷ thứ năm, hầu như trong cùng một giai đoạn Công Đồng Chung Êphêsô công bố Mẹ là “Mẹ Thiên Chúa”, thì tước hiệu Nữ Vương cũng đã được bắt đầu được gán cho Mẹ. Nhận biết hơn về vai trò cao cả của Mẹ như thế, dân Kitô giáo muốn đặt Mẹ lên trên tất cả mọi thụ tạo, vinh thăng vai trò và tầm quan trọng của Mẹ nơi đời sống của hết mọi người cũng như của cả thế giới.

Thế nhưng, trong một khúc bài giảng được cho rằng của giáo phụ Origen, cũng đã chất chứa lời dẫn giải này về những lời bà Elizabét thốt lên trong biến cố Thăm Viếng: “Đáng lẽ chị phải đến thăm em, vì em có phúc hơn mọi người nữ, em là Người Mẹ của Chúa chị, em là Vị Tôn Nữ của chị” (Fragment, PG 13, 1902 D).

Bản văn chuyển một cách tự nhiên từ lời diễn tả “Người Mẹ của Chúa chị” sang tước hiệu “Vị Tôn Nữ”, trước cả những gì Thánh Gioan Đamascênô sau này nói khi thánh nhân gán cho Mẹ tước hiệu “Vương Chủ”: “Khi Mẹ trở nên Mẹ của Đấng Hóa Công, Mẹ thực sự trở nên nữ vương của tất cả mọi tạo vật” (De fide orthodaxa, 4, 14, PG 94, 1157).

2.- Vị Tiền Nhiệm đáng kính Piô XII của Tôi, trong bức Thông Điệp Ad coeli Reginam, một văn kiện được bản văn của Hiến Chế Lumen Gentium qui chiếu, xác định việc Mẹ cộng tác vào công cuộc Cứu Chuộc đã là nền tảng cho vai trò nữ vương của Mẹ Maria, thêm vào vai trò mẫu thân của Mẹ. Bức Thông Điệp đã lập lại bản văn phụng vụ: “Có Thánh Maria, Nữ Vương thiên đàng và là Vị Vương Chủ thế giới, đau thương đứng kề bên cây Thập Giá của Chúa Giêsu Kitô” (AAS 46 [1954] 634). Như thế, bức Thông Điệp này đã nêu lên tính cách tương tự giữa Mẹ Maria và Chúa Kitô, một tính cách tương tự giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng nơi trạng thái trung thành của Đức Trinh Nữ. Chúa Kitô là Vua không phải chỉ vì Người là Con Thiên Chúa, mà còn vì Người là Đấng Cứu Chuộc; Mẹ Maria là Nữ Vương không phải chỉ vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, mà còn vì Mẹ đã cộng tác vào công cuộc cứu chuộc loài người, với tư cách là tân Evà cùng với tân Adong.

Trong Phúc Âm Thánh Marcô, chúng ta đọc thấy rằng, vào ngày Thăng Thiên, Chúa Giêsu “được đưa lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (16:19). Theo ngôn ngữ Thánh Kinh, “ngồi bên hữu Thiên Chúa” nghĩa là chia sẻ quyền bính tối cao. Ngồi “bên hữu Cha”, Người thiết lập vương quốc của Người, vương quốc của Thiên Chúa. Được đưa lên trời, Mẹ Maria được liên kết với quyền năng của Con Mẹ, và được giành vào việc phát triển Vương Quốc này, ở chỗ thông phần vào việc ban phát ân sủng thần linh trên thế giới.

Nhìn vào tính cách tương tự giữa việc Chúa Giêsu Thăng Thiên và việc Mẹ Maria Mông Triệu, chúng ta có thể kết luận rằng, Mẹ Maria, dựa vào Chúa Kitô, là một Vị Nữ Vương nắm thượng quyền và thực hiện thượng quyền do Con Mẹ ban Mẹ trên vũ trụ.

3.- Tước hiệu Nữ Vương dĩ nhiên không thay thế cho tước hiệu Làm Mẹ, ở chỗ, vai trò làm nữ vương của Mẹ vốn là hệ quả của sứ vụ đặc biệt làm mẹ, và chỉ để thể hiện quyền năng được ban cho Mẹ để Mẹ thi hành sứ vụ ấy mà thôi.

Trích lại Trọng Sắc Ineffabilis Deus của Đức Piô IX, Đức Piô XII nhấn mạnh đến chiều kích làm mẹ nơi vai trò nữ vương của Đức Trinh Nữ: “Cảm thương chúng ta với lòng từ mẫu và quan tâm đến phần rỗi của chúng ta, Mẹ vươn vòng tay săn sóc của Mẹ ra ôm ấp tất cả loài người. Được Chúa cắt đặt làm Nữ Vương trời đất, được nâng lên trên tất cả mọi ca đoàn thiên thần cũng như tất cả mọi hàng ngũ các thánh trên trời, ngự bên hữu Người Con duy nhất của mình là Chúa Giêsu Kitô, Mẹ chắc chắn chiếm được những gì Mẹ muốn dùng lời nguyện cầu từ mẫu của Mẹ mà kêu xin; Mẹ chiếm được những gì Mẹ tìm kiếm và không bị khước từ” (xem AAS 46 [1954] 636-637).

4.- Bởi thế, Kitô hữu hãy tin tưởng nhìn lên Nữ Vương Maria, và điều này chẳng những không làm suy giảm mà thực sự làm tăng thêm việc trao phó bản thân mình với tình con thảo của họ cho Mẹ, Đấng làm mẹ theo cấp trật ân sủng.

Thật vậy, nỗi quan tâm của Nữ Vương Maria đối với loài người có thể hoàn toàn tác hiệu chính là vì trạng thái vinh hiển của Người xuất phát từ việc Mẹ Mông Triệu. Thánh Germanus I ở Contantinôpôli đã cho thấy sự kiện này rất hay. Thánh nhân chủ trương rằng trạng thái này bảo toàn mối liên hệ thân mật giữa Mẹ Maria với Con của Mẹ, và cho phép Mẹ thực hiện việc Mẹ can thiệp hộ giúp chúng ta. Ngỏ lời cùng Mẹ Maria, thánh nhân viết, Chúa Kitô muốn “có một kết nối giữa môi miệng của Mẹ với lòng trí của Mẹ; bởi thế Người đồng ý với tất cả mọi ước muốn Mẹ bày tỏ cùng Người, khi Mẹ chịu đựng vì con cái của Mẹ, Người làm tất cả mọi sự Mẹ kêu xin Người bằng quyền năng thần linh của Người” (Hom. 1 PG 98, 348).

5.- Người ta có thẻ kết luận rằng Việc Mông Triệu làm cho Mẹ Maria chẳng những hoàn toàn hiệp thông với Chúa Kitô, mà còn với mỗi một người trong chúng ta nữa, ở chỗ, Mẹ ở bên chúng ta, vì tình trạng vinh hiển của Mẹ khiến cho Mẹ có thể theo chúng ta trong cuộc hành trình trần thế hằng ngày của chúng ta. Như chúng ta cũng đọc thấy ở Thánh Germanus: “Mẹ ở với chúng con một cách thiêng liêng, và việc Mẹ hết lòng coi sóc chúng con cho thấy Mẹ hiệp thông đời sống với chúng con” (Hom. 1, PG 98, 344).

Bởi vậy, thay vì tạo nên khoảng cách giữa Mẹ và chúng ta, tình trạng vinh hiển của Mẹ Maria lại tạo nên một tình trạng liên tục gần gũi và chăm sóc. Mẹ biết hết mọi sự xẩy ra trong đời sống của chúng ta, và nâng đỡ chúng ta bằng tình yêu từ mẫu của Mẹ trong những cơn thử thách cuộc đời của chúng ta.

Được đưa về trời vinh hiển, Mẹ Maria hoàn toàn hiến mình cho công cuộc cứu độ, để thông truyền cho hết mọi con người sống động thứ hạnh phúc Mẹ lãnh nhận. Mẹ là một Vị Nữ Vương ban phát tất cả những gì Mẹ chiếm hưởng, trước hết, ở chỗ Mẹ tham dự vào cuộc sống và tình yêu của Chúa Kitô.

 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ
Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 30/7/1997)

 

Vinh Quang Trên Thiên Đàng

 

(Trích Thần Đô Huyền Nhiệm, phần truyện hợp với đời sống thầm lặng của Mẹ, một đời sống làm mẫu gương của Dòng Carmêlô)

 

 

Linh hồn rất thánh của Me. Maria đã hưởng phúc thiên đàng được ba ngày, Thiên Chúa tỏ cho thần thánh biết quyết định hằng hữu của Ngài là phục sinh cho Xác Thể đáng kính của Mẹ. Tới lúc đó, Chúa Giêsu từ trời, đem theo Linh Hồn Mẹ chí ái Ngài xuống mồ Thánh của Mẹ với vô số sư đoàn các thiên thần, các vị tổ phụ và các tiên tri. Đến mồ Mẹ, Chúa phán với đoàn tháp tùng rằng: "Mẹ của Cha đã được đầu thai Vô Nhiễm, đê? Cha mặc lấy Nhân Tính Cha từ nơi bản thể vô nhiễm của Mẹ. Thể xác Cha là thể xác Mẹ hơn nữa, Mẹ còn đồng công vào hết mọi công trình việc cứu chuộc của Cha. Cho nên Cha phải phục sinh cho Me. Cha, như Cha đã sống lại, và phải phục sinh cho Mẹ vào cùng lúc Cha đã sống lại, vì Cha muốn Mẹ nên tương tư. Cha trong mọi sự". Toàn thể các Thánh đều ca tụng Chúa vì sự quyết định ấy, nhất là Adong Eva, thánh ca? Giuse và hai thánh song thân của Me.
 

Tức thì Linh Hồn Hiển Vinh của Mẹ vào lại Thân Xác Đồng Trinh của Mẹ trả lại sự sống cho Thân Xác ấy, mà không hề động chạm gì đến tảng đá che mồ hay đảo lộn những nếp áo và khăn phủ mặt. Không thể nào tả lại được vẻ mỹ lệ và ánh sáng chói ngời trang sức cho Mẹ lúc ấy. Ta chỉ cần nói rằng Chúa Giêsu muốn trả lại cho Mẹ tất cả những gì Ngài đã tiếp nhận từ Mẹ lúc Nhập Thể đã đủ. Hôm đó là ngày Chúa Nhật, mười lăm tháng tám, liền ngay sau nửa đêm. Xác Thánh Me. Maria ở trong mồ 30 giờ y như Xác Thánh Chúa Giêsu.
 

Lúc đó diễn ra từ phần mộ của Mẹ về thiên đàng một cung nghinh trang trọng không thể tả hết giữa thanh âm của một điệu nhạc say lòng. Các vị thánh và các thiên thần vào thiên đàng vị nào theo địa vị ấy. Sau cùng là Chúa Giêsu Kitô với Mẹ rất thánh Ngài ở bên hữu. Toàn thể thần thánh đều quay về phía Mẹ để nhìn ngắm và chúc tụng Mẹ trong một nguồn hoan lạc mới lạ, những khúc thánh ca mới và những lời ở trong chương ba sách Diễm Ca. Khi Mẹ tới bê. Ngai Chúa Ba Ngôi, Chúa đã tiếp đón Mẹ với một tiếp đón thỏa tình nhất. Chúa Cha phán với Mẹ: "Con rất yêu dấu của Cha, Con hãy lên cao hơn trên tất cả mọi thụ tạo". - Và Chúa Con thêm: "Me. Ạ, xin Mẹ nhận từ tay con phần thưởng Mẹ đáng được". - Đến lượt Thánh Linh nói: "Bạn dấu yêu, hãy vào hưởng nguồn vui vĩnh cửu xứng với tình trạng trinh trong của Bạn".
 

Me. Maria chìm ngập trong đại dương vô cùng của Thần Tính Thiên Chúa. Khi Mẹ đã được tôn lên Ngai Thần Linh, Chúa tuyên dương cho cả triều đình thiên đàng đang tràn ngập tán thưởng, biết những đặc ân đã thông ban cho Mẹ qua sư. Mẹ thông phần vào Uy Linh của Ngài. Chúa Cha phán: "Maria là đức nữ tỳ của chúng ta, từng làm nên những khoái lạc đầu tiên của chúng ta, và đã không bao giờ bỏ mất tước hiệu ấy. Người có toàn quyền trên cả vương quốc chúng ta. Người được nhìn nhận và tôn phong là chủ mẫu chính thức, vừa là Nữ Vương độc nhật". - Chúa Con phán: "Hết mọi thụ tạo Cha đã sáng tạo và cứu chuộc đều thuộc quyền Mẹ chân thực của Cha: Mẹ là Nữ Vương chính thức cai trị tất cả những gì Cha là vua cai trị". - Sau cùng Chúa Thánh Linh phán: "Hỡi bạn, với danh nghĩ là Hiền Thê của Ta, danh nghĩa mà bạn đã tận trung ứng đáp, bạn được lĩnh vương miện Nữ Vương cho đến muốn đời.
 

Ba Ngôi Thiên Chúa đặt trên đầu Mẹ một vương miện vinh quang cực kỳ lộng lẫy, rạng chiếu luồng sáng tuyệt kỳ, sẽ không bao giờ có nữa. Cũng lúc ấy, từ ngai Chúa phán ra lời này: "Hỡi người chí ái của chúng ta, Vương Quốc Của Chúng Ta là Vương Quốc Của Người. Người là Chu? Mẫu là Nữ Vương hết mọi thụ tạo. Từng được ân sủng nâng cao lên trên mọi loài, những người đã tự nhận mình hèn kém, hạ mình xuống dưới hết mọi loài. Giờ đây, người hãy lên chiê"m địa vị tuyệt cao xứng với người. Từ Ngai cao cả này, Người hãy thống trị toàn thể thụ tạo: hỏa ngục, trần gian và thiên đàng. Ma qủy, loài người, và thiên thần đều phải tùng phục Người. Chúng Ta trao ủy cho người quyền bính Thần Linh của Chúng Ta. Người sẽ nâng đỡ, ủi an, bảo trợ và làm Mẹ của hết mọi người công chính cũng như là Mẹ của cả giáo hội chiến đấụ để thi hành sứ mệnh đó, một lần nữa chúng ta tôn nhiệm Người làm đấng bảo quản, đấng phân phát mọi kho tàng của Chúng Ta. Những gì thuộc quyền Chúng Ta cũng thuộc quyền Người, như Người đã luôn luôn là của Chúng Ta.
 

 

Để thể hiện những đặc ân trao ban cho Đức Nữ Vương vũ trụ, Thiên Chúa ra lệnh cho toàn thể thần thánh trên trời phải tùng phục Mẹ, nhìn nhận Mẹ là chủ mẫu mình. Toàn thể thần thánh đều tôn phục Mẹ: những vị được ở thiên đàng cả hồn xác đều phủ phục trước mặt Mẹ và đều suy phục Mẹ bằng những việc tôn kính bề ngoài. Đấy chính là phần thưởng cho đức khiêm nhượng Mẹ đã tỏ ra để tôn kính các thánh khi Mẹ còn tại thế. Việc tôn phong Mẹ là Nữ Vương Thiên Đàng này đã trào đổ một nguôn vui phụ trội cho toàn thể thần thánh. Những vị được hoan hỉ thêm nhiều hơn cả là thánh ca? Giuse, thánh Gioan Kim, Thánh Nữ Anna rồi những thánh thân nhân và các thiên thần hầu cận Me.

 

 

Thứ Ba

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 2 Tx 2, 1-3a. 13-16

"Anh em hãy nắm giữ truyền thống anh em đã học biết".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Anh em thân mến, nhân vì sự Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta sẽ đến, và sự tập họp của chúng ta trong Người, chúng tôi nài xin anh em chớ vội thay lòng đổi dạ, chớ kinh hãi vì linh ứng, lời giảng hay thư từ nào, dường như của chúng tôi gởi tới loan báo ngày Chúa gần đến. Ðừng để ai lừa dối anh em cách nào.

Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng của chúng tôi mà kêu mời anh em đến lãnh nhận vinh quang của Chúa chúng ta, là Ðức Giêsu Kitô. Anh em thân mến, vì vậy anh em hãy đứng vững, hãy nắm giữ truyền thống anh em đã học biết hoặc bằng lời giảng dạy, hoặc bằng thư từ chúng tôi đã viết. Nguyện xin Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ðấng đã thương yêu chúng ta và dùng ân sủng của Người mà ban cho chúng ta sự an ủi đời đời và lòng cậy trông tốt lành, xin Người khuyên bảo và làm cho lòng anh em bền vững trong mọi việc làm và lời nói tốt lành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 95, 10. 11-12a. 12b-13

Ðáp: Chúa ngự tới cai quản địa cầu (c. 13ab).

Xướng: 1) Hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người giữ vững địa cầu cho nó khỏi lung lay, Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. - Ðáp.

2) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan, biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên, đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở. - Ðáp.

3) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành. - Ðáp.

 

Alleluia: Ep 1, 17-18

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 23, 23-26

"Phải làm những điều này, và không bỏ các điều kia".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, hồi hương và thì là, còn những điều quan trọng hơn trong lề luật, là đức công bình, lòng nhân từ và lòng tin thì các ngươi lại bỏ qua; đáng lẽ phải làm những điều này và không bỏ các điều kia.

"Hỡi những kẻ dẫn đường đui mù, các ngươi gạn lọc một con muỗi ra, nhưng lại nuốt trửng cả con lạc đà. Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, vì các ngươi rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong, các ngươi đầy gian tham và nhơ bẩn. Hỡi những người biệt phái đui mù, hãy rửa bên trong chén đĩa trước đã, để bên ngoài cũng được sạch".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

"Coi trọng cái thường và coi thường cái trọng"

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XXI Thường Niên vẫn tiếp tục những lời Chúa Giêsu khiển trách nặng nề thành phần luật sĩ và biệt phái. Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua Người khiển trách họ đặc biệt về giáo huấn sai lầm của họ thì hôm nay Người khiển trách họ về khuynh hướng của họ, hoàn toàn phản ảnh thứ giáo huấn lệch lạc họ chủ trường và truyền dạy cho người khác, đó là coi trọng cái thường và coi thường cái trọng, đó là coi trọng bên ngoài mà lại coi thường bên trong:


Hai thành phần thày dạy trong dân này đã bị Chúa khiển trách là vì họ tỏ ra coi trọng cái thường và coi thường cái trọng:

"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà. 

Cái trọng đây là gì, nếu không phải "công lý, lòng nhân và thành tín", những điều thuộc về tinh thần, làm nên nhân phẩm cùng nhân cách của con người, nhưng lại là những điều bị họ coi nhẹ, không bằng những cái thường hơn là "nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng". 

Thế nhưng, chính Chúa cũng không coi nhẹ cái thường ấy. Bởi thế, Người còn nhấn mạnh thêm với họ để tránh thái độ thái quá bất cập rằng: "Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ". Dầu sao những gì được coi là thường cũng không thể thiếu bởi nó chứng tỏ hay cho thấy sự thực hữu và chân chính của cái chính yếu, của cái quan trọng hơn. 

Hai thành phần thày dạy trong dân này còn bị Chúa khiển trách là vì họ tỏ ra coi trọng những gì là bên ngoài mà lại coi thường những thứ ở bên trong:

"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. Hỡi người Pharisiêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch".

"Bên ngoài chén đĩa" thì họ rửa làm sao cho sạch còn "bên trong" chén đĩa thì hôi thối bẩn thỉu. Nếu "bên trong đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ" thì ở đây Chúa muốn nói đến "bên trong" lòng người là nơi xuất ra những gì xấu xa tội lỗi làm cho con người ra ô uế (Marcô 7:20-23; Mathêu 15:19-20). Và như thế, "bên ngoài chén đĩa" đây có thể hiểu là dáng vẻ đàng hoàng, ăn mặc tề chỉnh, điệu bộ tử tế.... Cả ở đây, cho dù nhấn mạnh đến bề trong, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến cả bên trong lẫn bên ngoài: "hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch".

Đối với Chúa, căn cứ vào câu hay vào nguyên tắc Người vừa khẳng định thì bên ngoài lệ thuộc vào bên trong và bên trong chi phối bên ngoài: "hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch". Có nghĩa là một khi tinh thần của con người lành mạnh thì đời sống của họ cũng lành thánh, một khi tâm trí của con người chân thành thì hành động của họ cũng ngay thẳng, một khi bản chất của con người đơn sơ thì đời sống của họ dễ dạy v.v.


Đối với loài người thì không được coi thường cái trọng và coi trọng cái thường theo tinh thần của giáo huấn Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay. Nếu con người là tạo vật không thể hành ác để đạt được mục đích tốt, theo đường lối phương tiện biện minh cho cứu cánh của cộng sản, nhưng không thể áp dụng nguyên tắc này vào trường hợp của Thiên Chúa. Với tư cách là Thiên Chúa Hóa Công vô cùng khôn ngoan thượng trí và toàn năng đầy yêu thương, Ngài có thể sử dụng hay lạm dụng sự dữ để làm ra một sự lành hay mang lại sự lành cho tạo vật của Ngài vì lợi ích tối hậu của họ. Thậm chí Ngài còn có thể biến dữ thành lành.


Cũng thế, cho dù con người tạo vật không được coi thường cái trọng và coi trọng cái thường, nhưng không thể áp dụng nguyên tắc ấy vào trường hợp của Thiên Chúa, Đấng đã thực sự coi thường cái trọng và coi trọng cái thường vì lợi ích tối đa và tối hậu cho tạo vật của Ngài chỉ vì Ngài là Đấng Toàn Hảo, là Tình Yêu Thương Xót. Lịch sử cứu độ của riêng dân Do Thái cũng như của chung loài người đã chứng thực như vậy. Ở chỗ Thiên Chúa là Tình yêu Thương Xót đã coi thường cái trọng (là Con Ngài, là chính bản thân của Ngài) và coi trọng cái thường (là loài người tạo vật vô cùng khốn nạn tội lỗi chúng ta), khi "Thiên Chúa không dung tha cho Con Một mình, một đã phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Roma 8:32), và "Thiên Chúa đã biến Đấng không biết đến tội lỗi trở thành tội lỗi, để trong Người chúng ta được nên chính sự công chính của Thiên Chúa" (2Corinto 5:21).


Chúng ta có thể noi gương bắt chước Thiên Chúa trong việc coi thường cái trọng và coi trọng cái thường ở chỗ đó, ở chỗ coi thường bản thân mình là những gì chúng ta vẫn coi trọng hơn tha nhân và coi trọng tha nhân, nhất là những người anh chị em hèn kém nhất của Chúa Kitô là thành phần thường bị xã nói nói chung và chúng ta nói riêng khinh thường, bao gồm nhất là những người anh chị em phạm đến chúng ta, khiến họ trở thành đối tượng khiến chúng ta chẳng những khinh thường mà còn ghen ghét hận thù họ nữa.
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô khuyên nhủ Kitô hữu thuộc Giáo đoàn Thessalonica, trong Thư Thứ 2, rằng: "hãy đứng vững, hãy nắm giữ truyền thống anh em đã học biết hoặc bằng lời giảng dạy, hoặc bằng thư từ chúng tôi đã viết", tức là những gì xuất phát từ mạc khải thần linh, và cũng là những gì tông truyền, tức được các vị tông đồ truyền lại, như trường hợp của Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô truyền lại cho các giáo đoàn dân ngoại, trong đó có giáo đoàn Thessalonica, nhờ đó, thành phần Kitô hữu sống giả hình lầm lạc như các luật sĩ và biệt phái trong Bài Phúc Âm hôm nay, mới có thể, như Thánh Phaolô khẳng định ở cuối bài đọc: "bền vững trong mọi việc làm và lời nói tốt lành".

Và cũng nhờ đó, họ mới có thể loan báo Vị Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho họ một cách xứng đáng và chính đáng, cho muôn dân và trước toàn thể địa cầu, như được Thánh Vịnh 95 ở Bài Đáp Ca hôm nay vang lên:

1) Hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người giữ vững địa cầu cho nó khỏi lung lay, Người cai quản chư dân theo đường đoan chính.

2) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan, biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên, đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở. 

3) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành.



 

Thánh Rosa Lima 23/8

Santa Rosa de Lima: Peru's Most Iconic Female Saint | How to Peru

 

Ngày 23/08: Thánh Rosa Lima, Đồng trinh

 

Suy niệm về cuộc đời các thánh là phương thuốc có tác dụng chống lại tâm hồn yếu đuối. Các thánh dạy chúng ta rằng: trong mọi thời đại, trên mọi quốc gia, trong mọi hoàn cảnh chúng ta có thể nên thánh. Chúa Giêsu Kitô hôm nay hôm qua và mãi mãi vẫn là một. Sự hiện diện sống động của Người trong nhà tạm và trong trái tim mỗi Người, làm cho các đóa hoa của đức hạnh thiên đàng nở ra tươi thắm và trổ sinh hoa trái trong thời đại của chúng ta cũng như trong những ngày bắt bớ và trong thời đại của đức tin. Tựa như sự khai sáng của sự thật an ủi này, chúng ta hãy suy tư cuộc đời thánh Rosa, một vị thánh vĩ đại của dòng Ba Đa Minh, vị thánh Bổn Mạng của Nam Mỹ (Bổn mạng của Hội Dòng).

Tên của ngài, chúng ta được nghe kể về việc đặt tên như một phép lạ. Mẹ của ngài khi đang đứng bên cạnh nôi ngắm nhìn em bé với một tình yêu trìu mến, thì thấy một đóa hồng tuyêt đẹp trên má của em khi bé đang ngủ. Thấy rằng đây là dấu hiệu của Thiên Chúa, bà đã bất chấp mọi chống đối không gọi em bé là Isabella nữa, tên này em bé nhận được trong ngày Rửa Tội, và từ đó về sau bà gọi em là Rosa. Khi Thiên Chúa ban cho ai một cái tên thì cái tên đó có một ý nghĩa sâu sắc, nó biểu hiện tính cách và sứ vụ của người đó. Thánh Rosa là “một Hoa Hồng mầu nhiệm” là Hoa Hồng của Thánh Tâm, được trồng, lớn lên và nở hoa giữa những gai nhọn; rồi sinh xôi nảy nở đầy mảnh đất mới đang bị tha hóa bởi tội lỗi ngập tràn và bởi lòng tham, với sự ngọt ngào thiên đàng.

Đọc tiểu sử cuộc đời ngài nếu chú ý một chút thôi chúng ta có thể học cách diễn tả vẻ đẹp của đóa hoa, hoa hồng mầu nhiệm. Trong ngày lễ kính ngài, Giáo Hội dùng lời sách Khôn Ngoan và Diễm Ca để miêu tả về ngài. Thiên Chúa toàn năng phán rằng: “Ta đã yêu nàng và đã chọn nàng từ thuở Ta còn niên thiếu, và Ta ước chọn nàng làm ái nữ của Ta: và Ta trở thành người yêu kiều diễm của nàng.” Từ ngày còn thơ thánh Rosa đã cảm thấy tình yêu Thiên Chúa chiếm đoạt tâm hồn mình. Tình yêu này đã khiến ngài khấn hứa dồng trinh lúc mới chỉ có 5 tuổi. Nó khiến ngài quyến luyến đến không thể kháng cự lại việc nhận chiếc áo dòng trắng của thánh Đa Minh; nó làm cho ngài đeo chiếc nhẫn vàng có khắc dòng chữ: “Rosa của Lòng Ta, hãy cho Ta trái tim của con.” Lời ca trong thánh lễ kính ngài diễn tả rằng: “Rosa có bàn tay trong sạch và tâm hồn trắng trong, đã trèo lên núi thánh của Chúa và đứng trên nơi thánh của Người.” Giống như hoa huệ trong các bụi gai thì ngươi là người ta yêu dấu giữa các trinh nữ.”

Câu hỏi thực tế và quan trọng để chúng ta tìm hiểu là: Làm cách nào thánh Rosa lên được ngọn núi cao của hoàn thiện? Làm cách nào ngài nảy chồi đâm bông bên dòng sông? Làm cách nào để ngài trở nên hoa huệ trong sạch giữa bụi gai? Một số người nghĩ rằng đó là công trình của ơn huệ mà không cần bất cứ nỗ lực hoặc cộng tác của con người; rằng ngài là thiên thần mang hình dáng người, được đặc ân và được bảo toàn bởi Đấng Phu Quân tối cao qua những cách tuyệt vời nào đó mà ngài hoàn toàn không phải trải qua thử thách và cám dỗ; rằng lúc nào ngài cũng có thể đáp trả tình yêu Chúa, cũng có thể hát lên bài hát trong sách Diễm Ca: “Người dành tình yêu Người cho tôi. Người đổ trên tôi đầy hoa, người nâng đỡ tôi khỏi vấp ngã bởi tôi kiệt sức vì tình yêu. Cánh tay trái của Người tôi gối đầu và cánh tay phải của Người ấp ủ tôi.”

Tìm hiểu sâu hơn về cuộc đời thánh Rosa, ta nhận thấy sự thật là Hoa Hồng này mọc lên và đơm hoa giữa những gai nhọn. Bông hoa hồng đỏ tượng trưng cho tình yêu nồng thắm, sự ngọt ngào và tràn đầy sự hoàn thiện của vị thánh; những gai nhọn là biểu tượng của sự đau khổ triền miên của ngài.

Các thánh phải chịu đau khổ; đây là điểm ưu tiên thánh trên hết mọi sự. Chúa Giêsu đã bị đội mão gai và bị đóng đinh. Trái tim của Mẹ Người, trong trắng và đầy ơn phúc, đã bị đâm thâu bởi sầu khổ và buồn đau. Tất cả những ai muốn theo chân Chúa và Mẹ Maria phải chọn đội mão gai và vác thánh giá của mình. Linh hồn nào càng khao khát tình Chúa và càng yêu Chúa thì linh hồn đó càng phải hi sinh nhiều hơn. Luật của Chúa trên trần gian là sự hi sinh làm cho các thánh thật gần gũi và thân thương đối với chúng ta. Rosa của chúng ta sẽ không là thánh Rosa yêu quí nếu không có gai nhọn. Các gai nhọn giữ ngài khỏi những tì vết trần gian và thanh luyện linh hồn ngài giống như vàng thử lửa.

Phần tiểu sử liên quan đến sự đau khổ của vị thánh đơn sơ này thì quá dài. Ngài đã không bao giờ cố tình làm phiền lòng Chúa hay tha nhân, ngài đã yêu mến tất cả và được tất cả mến yêu, ngài có thể cảm thông không chỉ với loài người nhưng cả đối với những con vật câm điếc, và cả với các côn trùng hay gây khó chịu.

Một số đau khổ của ngài là do tự nguyện; ngài ăn chay hầu như suốt đời, chỉ trộn một ít thức ăn nuôi sống thân xác với một ít rau đắng. Ngài bôi trên bàn tay và bàn chân nhỏ bé của mình với vỏ cây và bột tiêu Ấn Độ để làm cho chúng trở nên xấu xí, bỏng rộp, xưng tấy. Trong  suốt 15 năm trên đầu ngài luôn đội một vòng đóng 99 chiếc đinh nhọn bên trong để nhắc nhở ngài về chiếc vòng gai của Đấng Tình Quân. Chung quanh thắt lưng ngài mang một chiếc dây sắt ba, nó cấn vào trong da thịt và gây ra những cơn đau khủng khiếp. Ngài yêu mến kỉ luật nên dùng nó thường xuyên khi được cha giải tội cho phép. Trong vườn ngài cất giữ một cây thánh giá gỗ mà ngài dùng để vác trên đôi vai tiều tụy trong suốt thời gian yên lặng của đêm tối, và đây là cách tốt để suy niệm và bắt chước vác Thánh Giá. Ngài ngủ rất ít, và gối đầu trên một tảng đá. Do vậy, cơ thể ứa máu, bàn tay và bàn chân xưng rộp, cái trán thương tích, nhưng bằng một tâm hồn trong trắng Rosa đã trèo lên tới đỉnh núi hoàn thiện.

Lớn hơn cả những thương tích trên cơ thể là sự đấu tranh trong tâm hồn. những cái gai nhọn đâm thâu không chỉ da thịt mà đến cả con tim ngài. Ngài yêu mến cha mẹ mình vô cùng; niềm vui của họ là của ngài, và đau buồn của họ là của ngài. Để giúp họ, ngài quyết định ở nhà và làm việc chăm chỉ, chăm sóc và bán hoa. Ngài thêu những chiếc thảm tuyệt đẹp và nghệ thuật. Ngài vâng phục cha mẹ một cách vui vẻ cho đến khi ngài được lệnh phải kết hôn, điều này trái với ý hướng và lời thề ước của ngài. Cha mẹ ngài không hiểu ơn gọi và món quà đặc biệt của ngài, và lầm tưởng là ngài đã không vâng phục. Họ quở trách, lăng mạ và trừng phạt ngài một cách nghiêm khắc. Ngài đã cảm thấu điều này, nó đau nhói trong tim ngài. Ngài đã khóc ròng nhiều đêm liền. Tuy nhiên, ngài vẫn vững dạ trong đau khổ của mình và sống chân thật trước mặt Chúa.

Là một thành viên của dòng Ba Đa Minh, thánh Rosa cảm nhận được sự quan trọng của thinh lặng và cô tịch, nó là nhân đức cần thiết của Kitô giáo. Ngài không được hưởng phúc lành và lợi ích của một tu viện; chính vì thế ngài nhờ em trai làm cho mình một cái lều nhỏ trong góc vườn. Nơi này trở thành căn phòng, một tu viện nhỏ xinh của ngài. Hiếm hoi lắm mới có những dịp, hoặc với những lý do đặc biệt mà một số rất ít người được vào trong, phá vỡ sự thinh lặng thánh thiêng của căn phòng. Ngài không bao giờ rời phòng trừ khi phải làm nhiệm vụ hay làm tông đồ. Trong căn phòng nhỏ đó các thiên thần trên thiên đàng chứng kiến nhiều cuộc chiến đấu và nhiều lần chiến thắng vinh quang.

Có những lúc sự an ủi tuyệt diệu đến với ngài để thêm sức và lòng can đảm cho ngài, nhưng ngài cũng rất thường xuyên cảm nghiệm sự khô khan và chán nản. Thiên Chúa cho phép ma quỷ cám dỗ và quấy nhiễu ngài. Ngài cảm thấy mình bị chia cắt với Thiên Chúa và bị khinh miệt; ngài sợ đi lạc vĩnh viễn. Vào những dịp như vậy chúng ta biết được rằng ngài đã đau nỗi đau của luyện ngục. Sự đau khổ của ngài trong căn phòng nhỏ sánh với sự đau buồn của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu. Ngài thường dùng lời Chúa mà kêu lên, “Lạy Cha, xin cất chén đắng khỏi con, nhưng đừng theo ý con mà theo ý Cha! Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, sao Người bỏ mặc con?” Ngài đã trải qua nỗi đau đớn này 2 tiếng mỗi ngày trong suốt 15 năm. Một lần nữa chúng ta thấy được bức họa về cách mà thánh nữ trèo lên núi Chúa như thế nào. Qua việc đau nỗi đau của Thánh Tâm Chúa, Rosa đã trở nên “Ái nữ của Lòng Ta”.

Sau khi kiểm chứng những chiếc lá và gai nhọn của Hoa Hồng Mầu Nhiệm, chúng ta bắt đầu xem xét đến hương thơm của bông hoa, nó thật ngọt ngào dưới mắt Thiên Chúa và con người. Cuộc đời của Đóa Hoa này đẹp từng chi tiết; đẹp và hoàn hảo trong từng cánh hoa.

Mỗi trang sách về tiểu sử của thánh Rosa có tính chất hướng dẫn và khai trí, không trang nào đầy đủ bằng trang cuối cùng. Cái chết của Đóa Hồng này không phải là sự tàn úa của các cánh hoa, chúng rơi xuống đất và trở thành đất, nhưng chúng lại mở ra một chiếc nụ mới, phơi bày dưới ánh sáng những chiếc lá mỏng manh được giấu kín, nó tỏa ra mùi hương ngọt ngào bay tới thiên cung. Cái chết giải thoát tử thần và tỏa sáng phi thường; nó mang lại một thứ hương thơm ngát tỏa “trước tôn nhan Thiên Chúa.”

Thánh Catarina nói rằng: “Người công chính sống khoan dung nhân hậu và chết trong tình yêu, nếu họ sống trọn vẹn các đức hạnh và với trọn niềm hi vọng vào giá máu cứu chuộc của Con Chiên, thì sẽ nhìn thấy điều tốt lành mà ta đã chuẩn bị cho họ. Ta sẽ ôm ấp nó bằng cánh tay tình yêu, giữ nó thật chặt bằng tình yêu của Ta, là đấng tốt lành tối cao và vĩnh cửu. Vì vậy họ nếm trải sự sống vĩnh cửu trước khi từ bỏ thân xác hay chết của mình, tức là trước khi linh hồn lìa khỏi xác.” Thánh Rosa được hưởng ân huệ to lớn này. Khi ngài được 31 tuổi, gần đạt tới tuổi của Đấng Tình Quân, ngài cảm thấy cái chết đang dần đến, ngài không sợ nhưng chào đón nó bằng niềm hân hoan tựa như đây là giây phút hạnh phúc nhất trong đời mình. Ngài coi đó giống như là trở về nhà, là cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa và Đấng Cứu Chuộc của mình, sự mở đầu của niềm hân hoan không bao giờ tàn lụi.

Ba ngày trước cơn bạo bệnh cuối cùng, ngài bắt đầu cuộc hành hương đến các nhà thờ và nhà nguyện ở Lima để tạ ơn Chúa vì những hồng ân ngài đã nhận được ở đó. Sau một thời gian chuẩn bị, khi ngài lãnh Bí tích Sức Dầu Bệnh Nhân ngài đã xuất thần, lúc tỉnh lại ngài quay qua cha giải tội và nói rằng: “Thưa cha, con có thể nói gì về những sự sung sướng và an ủi mà Thiên Chúa đổ tràn vĩnh cửu trên các thánh! Con ra đi với lòng thỏa mãn khôn tả để chiêm niệm khuôn mặt đáng tôn thờ của Đức Kitô, Người mà con đã sống trọn cuộc đời mình để chiếm hữu.”

Ngài nói trong trạng thái hoàn toàn bình tĩnh và vui tươi với các bà con và bạn bè đang đứng quanh giường mình rằng: “Giêsu ở với con,” lời của ngài như Hoa Hồng ngọt ngào và mầu nhiệm bay tới thiên đàng.

Sự thánh thiện này là hương thơm ngọt ngào trước tòa Chúa, mang đến phúc lành cho loài người như Kinh Thánh đã nói. Trong Cựu Ước chúng ta đọc thấy rằng Thiên Chúa sẵn sàng không phá hủy cả thành phố chỉ vì trong đó có 4 người công chính. Mặc dù chỉ là một nhà thần bí sống ẩn dật, thánh Rosa đã ảnh hưởng trực tiếp đến những người chung quanh. Hương thơm ngọt ngào về đức hạnh của ngài đã tràn lan trên thành phố và trên đất nước, hương thơm ấy đã đi vào con tim mọi người.

Yêu Chúa, Rosa cũng yêu tha nhân, là con cái của Chúa bằng một tình yêu nồng cháy, tình yêu thiêng liêng. Ngài giúp người nghèo và như một thiên thần nhân từ, ngài viếng thăm người đau yếu, sự hiện diện của ngài mang lại niềm an ủi và sự chịu đựng. Mỗi ngày ngài cầu nguyện, khóc than và đánh đập thân xác để cầu xin cho tội nhân trở lại. Ngài không bao giờ chỉ nhìn ngắm các ngọn núi bao quanh thành phố, nhưng ngài khao khát đi vào trong các khu vực của người nghèo da đỏ để dạy dỗ họ về Chúa Giêsu chịu đóng đinh.

Cái chết của ngài đã tiết lộ bí mật và sự ảnh hưởng thiêng liêng của những khát vọng rực cháy nơi ngài. Đời sống cầu nguyện và việc ăn chay hãm mình triền miên của ngài cho các linh hồn mà ngài chưa bao giờ gặp mặt. Tin về cái chết của ngài làm rung động thành phố và đất nước lân cận. Người giàu lẫn người nghèo, hàng giáo sĩ và giáo dân, ngay cả những người da đỏ từ các vùng đồi núi xung quanh, tất cả chạy đến để ngắm nhìn lần cuối khuôn mặt trẻ thơ của vị thánh, không bị biến dạng hoặc biến đổi bởi cái chết.

Đám tang của con người nhỏ bé đơn giản này long trọng nhất mà thành phố Lima chưa từng có. Đức tổng giám mục và các vị phụ tá, chính quyền và những người dưới quyền, tất cả các dòng tu, các cộng đoàn, các tín hữu thuộc mọi tầng lớp hiện diện để đưa tiễn thi thể ngài đến nhà thờ thánh Đa Minh. Họ yêu mến Hoa Hồng của mình và tôn kính ngài như một vị thánh, trong suốt hai ngày nhà thờ chật ních người đến nỗi thi thể ngài không thể di chuyển được.

Có bao nhiêu bài học mà cuộc đời đơn sơ này không dạy chúng ta? Tình yêu nồng cháy của Thiên Chúa, tình yêu của Thánh Tâm thay đổi mọi sự và mạnh mẽ hơn cái chết là ý niệm trước nhất và trung tâm. Tình yêu của Thiên Chúa đưa tâm hồn ra khỏi thế giới, làm thay đổi các giác quan và đóng đinh thân xác, rửa sạch và thánh hóa những ai tìm kiếm nó, nó đưa linh hồn vào nơi thanh tịnh để gặp Chúa Giêsu, để chuyện trò với Người, để đau khổ với Người, và đem ơn cứu độ cho các linh hồn. Để cứu các linh hồn không nhất thiết phải đi giảng dạy và làm phép lạ. Một cuộc sống tĩnh lặng, trong sạch và sốt sắng với Chúa là một ngọn lửa chiếu sáng, tình yêu và sự sống. Thánh Rosa loan truyền cách sống này. Còn tôi, tại sao không?

Minh Thùy (theo tài liệu)

Thánh Rosa - Rosa của LòngTa, hãy cho Ta trái tim của con

 

 

Thứ Tư

 

Ngày 24 tháng 8 -

THÁNH BA-TÔ-LÔ-MÊ-Ô, TÔNG ĐỒ

lễ kính

Saint Bartholomew, Apostle - My Catholic Life!

Tiểu sử 
Thánh nhân còn được gọi là Na-tha-na-en, quê ở Ca-na. Chính tông đồ Phi-líp-phê là người đã giới thiệu thánh nhân với Chúa Giê-su ở bờ sông Gio-đan. Người nhập nhóm các môn đệ đầu tiên được Chúa kêu gọi. Người ta không biết đích xác về hoạt động tông đồ của người sau lễ Hiện Xuống. Tương truyền rằng người đã loan báo Tin Mừng ở Ấn-độ và đã chịu tử đạo ở đó.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một lòng tin vững mạnh, để chúng con thật tình gắn bó với Đức Ki-tô, Con Một Chúa, như thánh Ba-tô-lô-mê-ô tông đồ. Xin Chúa cũng nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con sống thế nào, để muôn dân nhận biết Hội Thánh chính là bí tích cứu độ. Chúng con cầu xin

 

 

Thứ Tư

(Nếu không bị Lễ Kính Thánh Batholomeo át đi như năm 2022 này)

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 2 Tx 3, 6-10. 16-18

"Nếu ai không muốn làm việc, thì đừng có ăn".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Anh em thân mến, nhân danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, chúng tôi truyền cho anh em hãy lánh xa khỏi bất cứ người anh em nào sống lười biếng, không theo truyền thống đã nhận lãnh nơi chúng tôi. Vì chưng, chính anh em biết phải noi gương chúng tôi thể nào, bởi chúng tôi đã không lười biếng lúc ở giữa anh em, cũng không ăn bám của ai, nhưng chúng tôi làm lụng khó nhọc vất vả đêm ngày, để không trở nên gánh nặng cho người nào trong anh em. Không phải chúng tôi không có quyền, nhưng là để nêu gương cho anh em, để anh em bắt chước chúng tôi. Bởi vì khi chúng tôi còn ở với anh em, chúng tôi đã truyền dạy anh em rằng: "Nếu ai không muốn làm việc, thì đừng có ăn".

Nguyện xin Chúa bình an ban cho anh em được bình an luôn mãi trong mọi nơi. Xin Chúa ở cùng tất cả anh em. Chính tay Phaolô này viết lời chào anh em: đó là dấu riêng trong các thư tôi gửi: Tôi viết như vậy đó. Nguyện chúc ân sủng của Chúa chúng ta, là Ðức Giêsu Kitô, ở cùng tất cả anh em! Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 4-5

Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa (c. 1a).

Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người. Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.

2) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con. - Ðáp.

 

Alleluia: Pl 2, 15-16

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 23, 27-32

"Các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: vì các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ tốt đẹp, nhưng bên trong đầy xương kẻ chết và mọi thứ dơ nhớp. Các ngươi cũng thế, bên ngoài, các ngươi có vẻ là người công chính, nhưng bên trong, các ngươi đầy sự giả hình và gian ác. Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, các ngươi xây đắp phần mộ các tiên tri, trang hoàng mồ mả những người công chính, và các ngươi nói rằng: "Nếu chúng tôi sống thời cha ông chúng tôi, ắt chúng tôi không thông đồng với các ngài trong việc đổ máu các tiên tri". Vì thế, các ngươi tự chứng thực các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri. Vậy các ngươi cứ đong cho đầy đấu của cha ông các ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Cảnh giác thành phần tố đầu hở đuôi

 

 

Hôm nay, Thứ Tư Tuần XXI Thường Niên, Giáo Hội tiếp tục bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu liên quan đến thành phần sư phụ trong dân Do Thái là luật sĩ và biệt phái, như trong 2 bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia. 


Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục khiển trách hai thành phần sư phụ trong dân này về thái độ giả hình chính yếu của họ, bề ngoài có vẻ đạo mạo tốt lành còn bề trong thì xấu xa ghê tởm, và bề ngoài có vẻ ta đây tốt lành chứ không giống như cha ông của mình đã từng sống bê bối tồi tàn.


Trước hết, về thái độ giả hình chính yếu của họ, bề ngoài có vẻ đạo mạo tốt lành còn bề trong thì xấu xa ghê tởm:


"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: vì các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ tốt đẹp, nhưng bên trong đầy xương kẻ chết và mọi thứ dơ nhớp. Các ngươi cũng thế, bên ngoài, các ngươi có vẻ là người công chính, nhưng bên trong, các ngươi đầy sự giả hình và gian ác".  


Đúng thế, "các ngươi có vẻ là người công chính, nhưng bên trong, các ngươi đầy sự giả hình và gian ác", ở chỗ họ chủ trương công chính là tuân giữ trọn vẹn lề luật, nhưng một cách vị luật hơn là vị nhân, nghĩa là thà giữ luật hơn là làm lành và cứu giúp tha nhân khi cần trong ngày hưu lễ (xem Mathêu 12:10-12), như có bao nhiêu lần họ đã cự lại Chúa Giêsu vì Người đã chữa lành trong ngày hưu lễ. Bởi thế, đã có lần Người đã nhắc nhở họ rằng: "Hãy đi mà học ý nghĩa của câu 'Ta muốn tình thương chứ không phải tế vật'" (Mathêu 9:13;12:7). 


Họ đã chẳng coi lễ vật hơn tình thương là gì, đúng như giáo huấn và chủ trương lệch lạc của họ ở trong hai bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia về việc coi thường cái trọng và coi trọng cái thường, coi thường cái chính và coi trọng cái phụ. Họ quả thực đã không nắm bắt được nguyên tắc và mục đích của luật lệ họ nắm giữ đó là "ngày hưu lễ được thiết lập vì con người hơn là con người vì ngày hưu lễ" (Marco 2:27).


Sau nữa, về thái độ giả hình có vẻ ta đây tốt lành chứ không giống như cha ông của mình đã từng sống bê bối tồi tàn trong quá khứ:


"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, các ngươi xây đắp phần mộ các tiên tri, trang hoàng mồ mả những người công chính, và các ngươi nói rằng: 'Nếu chúng tôi sống thời cha ông chúng tôi, ắt chúng tôi không thông đồng với các ngài trong việc đổ máu các tiên tri'. Vì thế, các ngươi tự chứng thực các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri. Vậy các ngươi cứ đong cho đầy đấu của cha ông các ngươi".


Thật vậy, "các ngươi cứ đong cho đầy đấu của cha ông các ngươi", ở chỗ họ là hậu sinh của cha ông họ đã đích thân tố cáo tội lỗi của cha ông họ trong việc cha ông họ sát hại các tiên tri và những người công chính được Thiên Chúa sai đến với dân tộc họ trong giòng lịch sử cứu độ của họ. 


Và họ đã đích thân tố cáo tội lỗi cha ông của họ, đã "đong cho đầy đấu của cha ông" họ, bằng cách đã "xây đắp phần mộ các tiên tri, trang hoàng mồ mả những người công chính" là thành phần bị cha ông họ bách hại và sát hại. Thế nhưng, như Chúa Giêsu cho biết, chính việc làm này của họ lại tố cáo họ "là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri", chứ chẳng hơn gì cha ông của họ, một giòng dõi còn phạm tội nặng hơn cha ông mình nữa khi tìm cách sát hại chính Con Thiên Chúa làm người là bản thân Người, Đấng Thiên Sai của họ. 



Nếu thành phần luật sĩ và biệt phái trong Bài Phúc Âm hôm nay sống giả hình ở chỗ họ làm như họ ngon lành hơn cha ông của họ, trong việc họ không chịu trách nhiệm về tội giết các tiên tri của các vị, nhưng không ngờ, chính vì họ chối bỏ mà họ lại chất thêm trách nhiệm cho cha ông của họ, ở chỗ, cha ông của họ phải gánh chịu hết những gì các vị đã gây ra, không mắc mớ gì tới họ là những kẻ khôn ngoan và công chính hơn các vị nhiều, và như thế, họ không muốn chia sẻ trách nhiệm chung đó với các vị, vì họ chẳng những không hơn gì các vị, thậm chí còn sát hại chính Chúa Kitô là vị đại tiên tri của họ nữa. Và đó là lý do mới có lời khuyên của Thánh Phaolô, một Saolê biệt phái nhiệt thành ngày xưa, ngỏ cùng Kitô hữu giáo đoàn Thessanolica trong Thư Thứ 2, ở Bài Đọc 1 hôm nay rằng: "không trở nên gánh nặng cho người nào".

 

Và cũng chính vì thế mà Thánh Vịnh 127 mới khen tặng những ai tôn sợ Chúa, vì chỉ có kẻ nào tôn sợ Chúa mới tìm kiếm Chúa và sống công chính theo ý muốn cùng đường lối của Ngài, như được Bài Đáp Ca hôm nay cảm nhận và nguyện cầu như sau:

1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người. Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.

2) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con.

 

 

Thứ Năm

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 1, 1-9

"Trong mọi sự, anh em hãy nên giàu có trong Người".

Khởi đầu thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Phaolô, do thánh ý Chúa, được kêu gọi làm Tông đồ của Chúa Giêsu Kitô, và Sôtênê, anh em chúng tôi, kính chào Hội Thánh Chúa ở Côrintô, những người được thánh hoá trong Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi nên thánh, làm một với tất cả mọi người khắp nơi đang kêu cầu thánh danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: Nguyện xin ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô, ở cùng anh em.

Tôi hằng cảm tạ Chúa thay cho anh em, vì ơn đã ban cho anh em trong Chúa Giêsu Kitô. Vì chưng, trong Người, anh em được tràn đầy mọi ơn: ơn ngôn ngữ và ơn hiểu biết, đúng như Chúa Kitô đã minh chứng nơi anh em, khiến anh em không còn thiếu ơn nào nữa trong khi mong chờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta tỏ mình ra. Cũng chính Người sẽ ban cho anh em bền vững đến cùng, không có gì đáng khiển trách trong ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến. Thiên Chúa là Ðấng Trung Tín, đã kêu mời anh em hiệp nhất với Con của Người, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời (c. 1b).

Xướng: 1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời, Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được. - Ðáp.

2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.

3) Người ta nói tới quyền năng trong những việc đáng sợ, và kể ra sự vĩ đại của Ngài. Người ta lớn tiếng khen ngợi lòng nhân hậu bao la, và hân hoan vì đức công minh của Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Cl 3, 16a và 17c

Alleluia, alleluia! - Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em; anh em hãy nhờ Ðức Kitô mà tạ ơn Thiên Chúa Cha. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 24, 42-51

"Các con hãy sẵn sàng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến.

"Vậy các con nghĩ ai là đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ? Phúc cho đầy tớ ấy, khi chủ nó đến thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người ấy lên coi sóc tất cả gia sản ông. Nhưng nếu đầy tớ ấy xấu, nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", rồi nó đánh đập các bạn đầy tớ, lại còn chè chén với lũ say sưa: chủ đầy tớ ấy trở về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, ông sẽ xé xác nó ra, và cho nó chung số phận với những kẻ giả hình: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".

Ðó là lời Chúa. 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Cảnh giác thành phần đầy tớ vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm


Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Năm Tuần XXI Thường Niên hôm nay, những ngày sau hết của tuần cuối cùng theo Phúc Âm Thánh Mathêu cho ngày thường trong tuần, bao gồm những câu cuối của đoạn 24, đoạn mà phần trên nói về ngày tận thế, một sự kiện cánh chung Giáo Hội chưa muốn nhắc đến ở đây và vào thời điểm phụng vụ giữa mùa thường niên này, mà là ở vào tuần lễ cuối cùng của phụng niên là tuần thứ 34, với các bài Phúc Âm của Thánh ký Luca đoạn 21, cho 3 ngày Thứ Ba, Thứ Tư và Thứ Năm trong tuần lễ cuối cùng này. 


Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu không còn nói với cả dân chúng lẫn các môn đệ của Người nữa, như 4 bài Phúc Âm trước đây, về thành phần thày dạy trong dân là luật sĩ và biệt phái, mà nói riêng với các môn đệ của Người về chính phận sự phục vụ của các vị trong việc "coi sóc gia nhân để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ?" như là những người "đầy tớ trung tín và khôn ngoan" được chủ đã tuyển chọn. 


Thật vậy, các môn đệ của Chúa Kitô đã được Người tuyển chọn để phục vụ Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người để "phân phát lương thực" là Lời Chúa và Bí Tích Thánh, nhất là Bí Tích Thánh Thể để đáp ứng nhu cầu sống đức tin của Kitô hữu là thành phần "gia nhân" thuộc nhiệm thể Giáo Hội.


Trong câu "coi sóc gia nhân để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ?" này của Chúa Giêsu ở bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy bao gồm 3 sứ vụ hay chức năng chính yếu của hàng giáo phẩm trong Giáo Hội là thành phần thừa kế các tông đồ: 1- "coi sóc": vai trò quản trị của hàng giáo phẩm nói chung và của từng vị giám mục ở địa phương nói riêng, 2- "phân phát": vai trò giảng dạy ("phân phát" Lời Chúa) và 3- thánh hóa (ban phát Bí Tích).


Những vị nào chu toàn 3 sứ vụ chính yếu này của mình thì là những người "đầy tớ trung tín và khôn ngoan", bằng không, họ là những người đầy tớ bất trung và bất khôn. 


Nếu thành phần "đầy tớ trung tín và khôn ngoanđược chủ tưởng thưởng ở chỗ: "đặt người ấy lên coi sóc tất cả gia sản ông" thì thành phần đầy tớ bất trung (với phận sự phục vụ chính yếu của mình) và bất khôn (vì hưởng thụ hơn phục vụ theo gương chủ là Đấng đã tuyển chọn mình), họ sẽ bị trừng phạt xứng đáng, như Chúa Giêsu nói đến ở cuối bài Phúc Âm:


"Nếu đầy tớ ấy xấu, nghĩ trong lòng rằng: 'Chủ tôi về muộn', rồi nó đánh đập các bạn đầy tớ, lại còn chè chén với lũ say sưa: chủ đầy tớ ấy trở về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, ông sẽ xé xác nó ra, và cho nó chung số phận với những kẻ giả hình: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".


Trong câu cảnh giác về thành phần đầy tớ bất trung và bất khôn này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy hình như vẫn còn lảng vảng đâu đây hình ảnh của thành phần thày dạy trong dân Do Thái là luật sĩ và biệt phái, khi Người bao gồm cụm từ: "chung số phận với những kẻ giả hình", thành phần mới bị Người thậm tệ quở trách trong 3 bài Phúc Âm đầu tuần này. 


Đáng lẽ đoạn nói về hạng sư phụ luật sĩ và biệt phái này ở đoạn 23 của Phúc Âm Thánh Mathêu còn được tiếp tục 6 câu nữa, từ câu 33 đến hết câu 39, nhưng Giáo Hội đã không chọn đọc, trong đó, Chúa Giêsu đã sử dụng đến những từ ngữ kinh hoàng chưa từng thấy liên quan đến hậu quả vô cùng khủng khiếp gây ra bởi cuộc đời giả hình mù quáng của họ: "Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục ch?" (Mathêu 23:33).

 


Bởi vậy, ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã khuyên nhủ các môn đệ của Người, cũng như những ai được Thiên Chúa tuyển chọn đóng vai trò thừa kế các tông đồ là các vị giám mục (kể cả các vị linh mục được giám mục truyền chức để thi hành thừa tác vụ thay giám mục và với giám mục) như một đầy tớ phục vụ cộng đồng Giáo Hội mà không sống trọn thánh chức của mình rằng: 


"Các con hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến".


"Tỉnh thức" ở đây là ở chỗ sống đức tin hơn là sống theo tự nhiên, hứng thì làm không hứng thì bỏ, lúc sốt sắng thì làm cẩn thận, làm một cách có hồn, còn lúc khô khan thì làm như cái máy, buông bỏ được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu, chưa kể gây ra những gương mù gương xấu khác, như đã và đang giết chiên  ăn thịt (lạm dụng tình dục trẻ em), hay trường hợp cưỡi lên chiên bằng đời sống xa xỉ sang trọng, và trường hợp các vị giành đất chiếm lấy chiên của nhau, hoặc trường hợp nấp bóng chiên để chống đối hay bất tuân giáo quyền của mình v.v


Thay vì họ phải là thành phần "đi trước chiên và chiên theo họ" (Gioan 10:4), trong việc làm gương sáng và biết trước nhu cầu của chiên mà đáp ứng, sẵn sàng hy sinh cho chiên, thì lại rụt rè đi sau chiên, sẵn sàng bỏ chiên mà chạy lấy thân khi vừa thấy sói xuất hiện, khi vừa thấy những gì bất lợi cho bản thân mình, nên họ chẳng bao giờ có thể nói như Chúa Kitô rằng: "Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi" (Gioan 10:27).

 

 

Có thể nói "Người đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ" đây là vị tông đồ dân ngoại "Phaolô, do thánh ý Chúa, được kêu gọi làm Tông đồ của Chúa Giêsu Kitô", vị ngài hằng quan tâm đến lợi ích thiêng liêng của các giáo đoàn được ngài thành lập, ở chỗ, luôn cầu "xin ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô, ở cùng anh em", và "hằng cảm tạ Chúa thay cho anh em", cùng nhắc nhở họ sống ơn gọi "hiệp nhất với Con của Người, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".

 

Đúng thế, "Người đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân", phải là con người đầu tiên "hiệp nhất với Con của Người, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta", thì lúc nào họ cũng ở với chủ, và chủ ở với họ, họ liên lỉ tri ân cảm tạ Ngài, chúc tụng ngợi khen Ngài và làm cho Ngài được nhận biết, qua ngôn hành xứng hợp của họ, như những gì được chất chứa trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời, Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được.

2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều kỳ diệu của Chúa.

3) Người ta nói tới quyền năng trong những việc đáng sợ, và kể ra sự vĩ đại của Ngài. Người ta lớn tiếng khen ngợi lòng nhân hậu bao la, và hân hoan vì đức công minh của Chúa.

 

 


Ngày 25/8

 

Thánh Louis Vua Nước Pháp và Thánh Giuse Calasanzio, linh mục

Advice to a Catholic Statesman - St. Louis - Crossroads Initiative

 

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã trả lời những người hỏi chị về con đường nhỏ thiêng liêng là con đường nào. Thánh nhân không ngần ngại trả lời :”…Đó là con đường thơ ấu thiêng liêng, đó là con đường của niềm tín thác và sống hoàn toàn tín thác. Con muốn chỉ cho họ những cách thế nho nhỏ rất thành công đối với con. Con sẽ bảo họ rằng ở trần gian này chỉ có một việc phải làm : hãy tặng Chúa Giêsu những bông hoa của các việc hy sinh nho nhỏ, hãy làm Chúa vui thích bằng những sự vuốt ve. Chính đó là cách con đã làm Chúa vui thích, và nhờ đó mà con luôn được Chúa đón nhận “. Các thánh là những con người đã biết tín thác nơi Chúa, đã biết trông cậy ở nơi Ngài thật nhiều, nên các Ngài nhận được nhiều. Thánh Luy, Vua nước Pháp cũng không nằm ngoài thông lệ ấy.

 

Khi đăng quang làm vua nước Pháp, Louis thề hứa sẽ sống như một người được Thiên Chúa xức dầu, đối xử với người dân như một hiền phụ và là tướng công của Vua Hòa Bình. Dĩ nhiên, các vua khác cũng phải thi hành như vậy. Nhưng Thánh Louis khác biệt ở chỗ ngài thực sự nhìn đến bổn phận làm vua dưới con mắt đức tin. Sau những xáo trộn của hai triều đại trước, ngài đã đem lại hoà bình và công bằng trong nước.

 

Vua Louis sinh ngày 25 tháng 4 năm 1214 tại Poissy, nước Pháp, con của vua Louis VIII và hoàng hậu Blanche ở Castile. Nhờ sống trong một gia đình đạo đức, cho dù Cha Mẹ của Ngài là Vua, là Hoàng Hậu nước Pháp. Sống trong cảnh giầu sang, phú quí và có quyền hành. Nhưng chính đời sống của Mẹ Ngài đã gây ấn tượng lớn lao trong đời sống của Luy. Mẹ Ngài đã uốn nắn, dậy bảo Luy bằng đời sống thánh thiện của bà. Thánh nhân đã được Mẹ gieo vào tâm hồn những mầm mống đạo đức, thánh thiện suốt cả đời niên thiếu. Đến lúc trưởng thành, vào đời, thánh nhân luôn luôn nhắc đi nhắc lại lời Mẹ nhắn nhủ, bảo ban :” Mẹ thà thấy con chết trước mặt Mẹ, còn hơn thấy con Mẹ phạm tội trọng”.

 

Ngài được tôn vương lúc 12 tuổi, khi cha ngài từ trần. Mẹ ngài cầm quyền trong thời gian khi ngài còn nhỏ. Năm 19 tuổi, thánh nhân kết hôn với Marguerite, con gái quận công miền Provence. Ðó là một hôn nhân hạnh phúc, bất kể tính tình kiêu căng và náo động của bà hoàng hậu. Hai ông bà sinh hạ cả thảy 11 người con. Với cương vị Vua lãnh đạo, trị vì nước Pháp, Luy luôn tỏ ra công chính, liêm khiết, ngay thẳng, hết mực thương dân chúng, đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Giáo Hội lên trên những lợi ích cá nhân và danh vọng riêng tư. Thánh nhân dù là Vua nhưng đời sống lại không khác gì một thầy Dòng khổ tu : sáng tham dự thánh lễ, đọc kinh nguyện, xưng tội và đánh tội mỗi tuần. Đời sống của Vua Luy thật sự là một đời sống tín thác, trông cậy và yêu mến Chúa. Để thể hiện lòng yêu mến, thánh nhân đã hiểu rõ lời Chúa trong Tin Mừng của thánh Matthêu 25,31-46, Ngài đã tìm dịp để giúp đỡ những kẻ nghèo, thăm viếng và nâng đỡ những người đau yếu tật nguyền.

 

Khi 30 tuổi, vua Louis “vác thập giá”. Thánh nhân đã lập Đạo Binh Thánh Giá đi chiến đấu với quân phá đạo ở Giêrusalem. Ðạo quân của ngài chiếm Damietta ở sông Nile nhưng sau đó không lâu, vì bệnh kiết lị và thiếu tiếp viện, họ bị bao vây và bị bắt. Vua Louis và đạo quân được trả tự do bằng cách giao lại thành phố Damietta và nộp một số tiền chuộc. Ngài ở lại Syria trong bốn năm. Ngài đã xây một đền thờ sau khi chinh chiến trở về để tôn kính mão gai Chúa Giêsu do Vua Constantin trao lại cho Ngài.

Mọi người thán phục ngài với tư cách của một thập tự quân, nhưng có lẽ công trạng lớn lao hơn của ngài là những lưu tâm về sự công bằng trong nền hành chính. Ngài đặt ra các quy tắc cho các viên chức chính quyền, mà sau đó trở thành những chuỗi luật cải tổ. Ngài thay thế hình thức xét xử đầy bạo lực bằng việc điều tra các nhân chứng, và nhờ ngài thúc giục, việc ghi chép lại các chi tiết trong toà được bắt đầu.

Vua Louis luôn luôn tôn trọng quyền bính của đức giáo hoàng, nhưng ngài bảo vệ quyền lợi của hoàng gia chống với các giáo hoàng và từ chối không công nhận bản án của Ðức Innôxentê IV chống với hoàng đế Frederick II.

Vua Louis là người tận tụy cho dân chúng, ngài thành lập các bệnh viện, thăm viếng người đau yếu, và cũng giống như quan thầy của ngài là Thánh Phanxicô, ngài chăm sóc ngay cả những người bị bệnh cùi. Bởi sự thánh thiện và cá tính của ngài, vua Louis đã đoàn kết nước Pháp thời bấy giờ, với đủ loại người — tướng công, dân thành thị, nông dân, linh mục và các hiệp sĩ. Trong nhiều năm, quốc gia này sống trong an bình.

Vào năm 1267, lo lắng vì những cuộc tấn công mới của người Hồi Giáo vào Syria, vua Louis dẫn đầu cuộc thập tự chinh khác, khi ấy ngài đã 41 tuổi. Năm 1270, thánh nhân còn thiết lập một Đạo Binh Thánh Giá mới để chống lại quân Hồi Giáo đang hung hăng tàn sát đạo. Tuy nhiên một cơn dịch nặng nề đã khiến Đạo Binh của Ngài tan rã và thánh Luy đã lâm trọng bệnh, trở về nhà Cha vào ngày 25 tháng 8 năm 1270.Chỉ trong vòng một tháng, đạo quân bị tiêu hao nhiều vì bệnh tật, và chính vua Louis đã từ trần ngày 25 tháng 8 năm 1270 tại Tunis, Algeria khi 44 tuổi.; thánh tích của ngài để tại nhà Saint Denis, Paris, nước Pháp; bị tiêu hủy năm 1793 trong thời cách mạng Pháp. Hai mươi bảy năm sau, ngài được Đức Giáo Hoàng Bonifacius VIII phong thánh năm 1297.

Thánh Louis là người có ý chí mạnh mẽ và kiên quyết. Lời của ngài thực sự đáng tin, và sự can trường của ngài thật đáng kể. Ðiều đặc biệt nhất là ngài tôn trọng bất cứ ai mà ngài gặp, nhất là những “người bé mọn của Thiên Chúa.” Ðể chăm sóc dân chúng, ngài xây dựng nhà thờ, thư viện, nhà thương và cô nhi viện. Ngài cũng đối xử với các hoàng tử một cách thành thật và công bằng. Ngài hy vọng cũng sẽ được đối xử tương tự bởi Vua các vua, là Người mà ngài đã dâng hiến cuộc đời, gia đình và quê hương.

Chúa mời gọi mọi người nên thánh. Đường nên thánh không chỉ dành riêng cho giới tu sĩ được đặc tuyển, nhưng con đường nên thánh dành cho mọi người. Từ thứ dân đến Vua Chúa thế trần đều được Chúa mời gọi sống thánh thiện và trở nên thánh. Thánh Luy IX, Vua nước Pháp đã cậy trông nơi Chúa hết lòng, nên Ngài cũng được Chúa cho lãnh nhận thật nhiều những ơn huệ cao quí. Thánh nhân đã lãnh nhận ơn cứu độ của Chúa: Hoàng Hậu và các con của Ngài quả thực là những tặng phẩm cao quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho Ngài để Ngài làm vinh danh Chúa và cứu vớt các linh hồn.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, tổng hợp từ website dòng tên và cộng đoàn dũng lạc

 

 

Thứ Sáu

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 1, 17-25

"Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm đối với người đời, nhưng là sự khôn ngoan đối với những người Thiên Chúa kêu gọi".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, Ðức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Ðức Kitô ra hư không.

Vì chưng lời rao giảng về thập giá là sự điên rồ đối với những kẻ hư mất; nhưng đối với những người được cứu độ là chúng ta, thì điều đó là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì như đã chép rằng: "Ta sẽ phá huỷ sự khôn ngoan của những kẻ khôn ngoan, sẽ chê bỏ sự thông sáng của những người thông sáng". Người khôn ngoan ở đâu? Người trí thức ở đâu? Người lý sự đời này ở đâu? Nào Thiên Chúa chẳng làm cho sự khôn ngoan của thế gian này trở nên ngu dại sao? Vì khi thế gian tự phụ là khôn, không theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà nhận biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã muốn dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu độ những kẻ tin. Vì chưng, các người Do-thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo, nhưng đối với những người được kêu gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, thì Ngài là Chúa Kitô, quyền năng của Thiên Chúa, và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì sự điên dại của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và điều yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự mạnh mẽ của loài người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 1-2. 4-5. 10ab và 11

Ðáp: Ðịa cầu đầy ân sủng của Chúa (c. 5b).

Xướng: 1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. - Ðáp.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng của Chúa. - Ðáp.

3) Chúa phá tan ý định của các nước, làm cho vô hiệu tư tưởng của chư dân. Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Tx 2, 13

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy đón nhận lời Chúa, không phải như lời của loài người, mà là như lời của Thiên Chúa, và đích thực là thế. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 25, 1-13

"Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.

"Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: "Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả". Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: "E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn". Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng, thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Nhưng người đáp lại: "Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi". Vậy hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào, giờ nào".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Nửa Đêm Nghênh Đón

 

 

 

Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Sáu Tuần XXI Thường Niên hôm nay, cũng như cho ngày mai, ở đoạn 25 của Thánh ký Mathêu, nhưng không bao gồm phần cuối của đoạn này về sự kiện chung thẩm, mà chỉ liên quan đến 2 dụ ngôn cuối cùng liên quan đến thời cánh chung của Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu


Sở dĩ 2 dụ ngôn cuối cùng trong bài Phúc Âm hôm nay và ngày mai có thể nói và dám nói là liên quan đến mầu nhiệm cánh chung là vì, theo cấu trúc và diễn tiến của Phúc Âm Thánh ký Mathêu, thì chẳng những đoạn 24 ngay trước đó là đoạn Phúc Âm về ngày tận thế, mà phần cuối của đoạn 25 ngay sau 2 dụ ngôn này là cảnh chung thẩm. 

 


Thật thế, một trong 2 dụ ngôn cánh chung ấy là dụ ngôn về "10 trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rểở trong bài Phúc Âm cho Th Sáu Tuần XXI Thường Niên hôm nay, nhưng "trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả. Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: 'Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả'. Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: 'E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn'".


Trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, muốn hiểu được phần nào ý nghĩa của dụ ngôn này, cần phải tìm hiểu ý nghĩa của ít là 4 hình ảnh ẩn dụ sau đây: trinh nữ đón (1), chàng rể đến (2), tiếng hô to (3), và dầu đốt đèn (4)


1- Trinh nữ đón"Trinh nữ" đây ám chỉ ai, nếu không phải là Kitô hữu, vì họ là thành phần nhờ phép rửa đã được nên tinh tuyền và thánh hiến cho Chúa Kitô (xem Epheso 5:26-27). Có bản dịch là "phù dâu", cũng không sai, ở chỗ, ám chỉ thành phần tu sĩ và giáo sĩ, thành phần nhờ đời sống thánh hiến càng làm đẹp thêm cho cô dâu. Trong 10 cô này có 5 cô khôn và 5 cô dại, và khôn hay dại nơi các cô là ở chỗ có mang theo đèn và cả dầu nữa hay chăng. Chúng ta sẽ suy diễn về đèn và dầu sau, ở chi tiết thứ 4 cuối cùng.


2- Chàng r đến: Thời điểm chàng rể tới chính vào lúc "nửa đêm", chứ không phải giữa thanh thiên bạch nhật ban ngày. Nghĩa là chàng rể đến vào lúc người ta buồn ngủ nhất về tâm linh và đen tối nhất về môi sinhĐến độ, không phải chỉ có các cô khờ dại mới gục ngủ mà cả những cô trinh nữ khôn ngoan cũng thiếp ngủ nữa: "Thật vậy, nếu giai đoạn ấy không được rút ngắn lại thì không một con người nào được cứu độ" (Mathêu 24:22).

 

 

Tức là vào lúc Chúa đến lần thứ hai "không biết có còn đức tin trên thế gian này nữa hay chăng?" (Luca 18:8), một thời điểm "vì sự dữ gia tăng mà lòng người hầu hết trở nên nguội lạnh" (Mathêu 24:12), một thời điểm đầy những tối tăm gian dối nơi hiện tượng tiên tri giả và kitô giả đánh lừa được nhiều người (xem Mathêu 24:24).


3- Tiếng hô to: Thời điểm chàng rể đến chẳng những vào "nửa đêm" mà còn được kèm theo bằng một "tiếng hô to" nữa. Vậy thì "tiếng hô to" này xuất phát từ đâu, hay ai là người đã phát ra "tiếng hô toấy? Nếu Giáo Hội là cô dâu, chàng rể là Chúa Kitô, và thành phần trinh nữ là Kitô hữu, hay thành phần phù dâu là tu sĩ giáo sĩ, thì ai là người đã vang lên "tiếng hô to" ấy, nếu không phải là chính Đức Mẹ Maria.

 

 

Thật vậy, "tiếng hô to" ấy đã xuất phát từ Mẹ Maria qua những lần Mẹ hiện ra đây đó, đặc biệt nhất và "to" nhất là vào lần Mẹ hiện ra ở Linh Địa Fatima năm 1917, trong giai đoạn thế giới của thành phần "trinh nữ" Kitô giáo bị khủng hoảng đức tin hơn bao giờ hết, đến độ đã đi đến chỗ mất hết đức ái, và dữ dội sát hại nhau bằng các trận thế chiến I và II ở tiền bán thế kỷ 20, cũng như bằng nạn diệt chủng phá thai và nạn ly dị ở hậu bán thế kỷ 20, những hiện tượng quái gở chưa từng có trong lịch sử loài người nơi một thế giới Tây phương càng văn minh con người càng bạo loạn và càng trở thành trung tâm của nền văn hóa chết chóc ti tăm.


4- Dầu đốt đèn: Nếu đèn ám chỉ đức tin, và ngọn lửa cháy sáng nơi cây đèn ám chỉ đức mến, thì dầu đèn đây có thể hiểu là đức cậy. Bởi vì, giai đoạn Chúa Kitô chàng rể tới "bị trì hoãn hay chậm trễ - delayed", như trong bài Phúc Âm hôm nay cho biết, mà thành phần trinh nữ hay phù dâu đợi chờ chàng cần phải nhẫn nại và hy vọng hơn bao giờ hết, bằng không, một khi tắt mất đức mến mà lại không còn đức cậy, mà lại mất hết hy vọng thì ngọn lửa đức mến sẽ không bao giờ có thể thắp lại được bởi thiếu dầu đức cậy. Thực tế cũng chứng thực như vậy, một khi con người thất vọng đến chỗ tuyệt vọng (như ngọn đèn hết dầu) thì chẳng còn muốn sống nữa, nên đã xẩy ra những cuộc tự tử nghiệt ngã oan khiên tội nghiệp đáng thương là như vậy. Hy vọng chính là sức sống của con người, trong con người và cho con người.

 

 

Trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay có đề cập đến 5 cô khôn ngoan, ở chỗ mang dầu theo với đèn để đón chàng rể, mà đèn đây ám chỉ đức tin và dầu ám chỉ đức cậy, thì tác động hay lòng tin tưởng cậy trông chính là tất cả những gì là khôn ngoan nhất của con người để được cứu độ, bởi họ không thể cứu được mình, ngoài Đấng có thể cứu mình bới chính Thánh Giá có vẻ điên rồ của Người, thứ Thánh Giá là lý lẽ siêu vượt của Thiên Chúa mà trần gian không thể nào hiểu được và chấp nhận được nên cho là điên rồ, như cảm nhận của Thánh Tông Đồ Dân Ngoại trong Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy, về cả hai khuynh hướng trần gian, đó là khuynh hướng thích dấu lạ của người Do Thái, và khuynh hướng thích triết lý khôn ngoan của người Hy Lạp. Các cô nghênh đón chàng rể khôn ngoan ở chỗ chấp nhận mọi gian nan khốn khó, khi nhẫn nại chờ đợi chàng rể đến muộn, vì chàng muốn thử thách lòng tin tưởng cậy trông của "những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28), một thái độ thiết tha trông đợi cho dù gian nan khốn khó, như thể sẵn sàng vác thập giá mình mà theo chàng rể vậy.

Và lòng tin tưởng cậy trông không bao giờ bị thất vọng, trái lại, chính những gì được tin tưởng cậy trông, nghĩa là những gì vượt trên hiện tượng hữu hình và khả giác, hợp với cảm quan tự nhiên, hợp tình theo lý lẽ lập luận của loài người, tức những gì là thực tại thần linh mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, và trí khôn hạn hẹp

 không thể nghĩ tới cùng tưởng tượng được, sẽ trở thành bất tận mà họ được hoan hưởng, như chính chàng rể trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, một hoan hưởng mà họ có thể cùng với Thánh Vịnh 32 trong Bài Đáp Ca hôm nay xướng lên như sau:

 

1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng của Chúa.

3) Chúa phá tan ý định của các nước, làm cho vô hiệu tư tưởng của chư dân. Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia.

 


Thứ Bảy

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 1, 26-31

"Thiên Chúa đã chọn những điều hèn hạ đối với thế gian".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em hãy xem ơn kêu gọi của anh em: vì không có mấy người khôn ngoan theo xác thịt, không có mấy người quyền thế, không có mấy người sang trọng. Nhưng điều mà thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; điều mà thế gian cho là yếu hèn, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những gì là mạnh mẽ phải hổ ngươi. Thiên Chúa đã chọn những điều hèn hạ đối với thế gian, những điều bị khinh chê, những điều không không, để phá huỷ những điều hiện hữu, hầu mọi xác thịt không thể vinh danh trước mặt Người. Chính do Người mà anh em ở trong Chúa Giêsu Kitô, Ðấng do Thiên Chúa, đã trở nên sự khôn ngoan, sự công chính, sự thánh hoá và sự cứu rỗi cho chúng ta, ngõ hầu, như đã chép: "Ai khoe khoang, thì hãy khoe khoang trong Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 12-13. 18-19. 20-21

Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).

Xướng: 1) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta. - Ðáp.

2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người; nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Ðáp.

3) Linh hồn chúng tôi mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng tôi. Bởi vậy, lòng chúng tôi hân hoan trong Chúa, chúng tôi tin cậy ở thánh danh Người. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Tx 2, 14

Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng mà kêu gọi chúng ta, để chúng ta được chiếm lấy vinh quang của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 25, 14-30

"Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy theo khả năng mỗi người, đoạn ông ra đi. Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Cũng vậy, người lãnh hai nén cũng làm lợi ra hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi". Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc, đây tôi đã làm lợi được hai nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".

"Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt chỗ không gieo và thu nơi không phát, nên tôi khiếp sợ đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Ðây của ông, xin trả lại ông". Ông chủ trả lời người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra ngươi phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc, nghiến răng".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Một thứ nguyên vẹn ... hoàn toàn băng hoại

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXI Thường Niên hôm nay tiếp theo bài Phúc Âm về 10 trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể hôm qua


Thật vậy, nếu bài Phúc Âm hôm qua về 10 trinh nữ, ám chỉ chung Kitô hữu trong thời cánh chung, như đã suy diễn, thì bài Phúc Âm hôm nay về thành phần "đầy tớ" được chủ "sắp đi xa... giao phó của cải mình cho", ám chỉ những vị lãnh đạo trong Giáo Hội. 


Sở dĩ cả 2 bài Phúc Âm hôm nay và hôm qua ở đoạn 25 liên quan đến thời cánh chung là vì, như đã nhận định, theo diễn tiến và cấu trúc của Phúc Âm Thánh Mathêu, thì đoạn 24 đã được Chúa Giêsu nói về ngày tận thế và cuối đoạn 25 ngay sau 2 bài Phúc Âm này là cảnh chung thẩm.


Đúng vậy, nếu bài Phúc Âm hôm qua về các cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể liên quan đến thời cánh chung vì trong bài Phúc Âm này bao gồm sự kiện chàng rể đến, đến lần thứ hai: "Kìa chàng rể đến, ra ra nghênh đón chàng", thì cũng thế, cũng liên quan đến thời cánh chung, bài Phúc Âm hôm nay về thành phần đầy tớ được chủ trao phó của cải cho để sinh lợi trong thời gian ông đi vắng, ám chỉ Chúa Kitô thăng thiên về cùng Cha, nhưng Người sẽ lại đến lần thứ hai, như trong bài Phúc Âm cho thấy: "Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ", có nghĩa là các vị lãnh đạo cộng đồng dân Chúa sẽ phải trả lẽ trước mặt Người

 


Nếu đoạn 25 của Phúc Âm Thánh Ký Mathêu bao gồm 3 dụ ngôn: dụ ngôn thứ nhất về 10 trinh nữ cần đèn đi nghênh đón chàng rể, ám chỉ chung Kitô hữu, ở bài Phúc Âm hôm qua, và dụ ngôn thứ hai về thành phần đầy tớ được trao tài sản để sinh lợiám chỉ các vị lãnh đạo cộng đồng dân Chúa, ở bài Phúc Âm hôm nay, thì dụ ngôn thứ 3 về cuộc chung thẩm giữa chiên và dê ám chỉ toàn thể nhân loại, và dụ ngôn chung thẩm này được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật 34 Thường Niên Năm A, Lễ Chúa Kitô Vua. Như thế, đoạn Phúc Âm 25 của Thánh ký Mathêu về thời điểm cánh chung bao gồm đủ mọi thành phần: từ riêng Kitô hữu và các vị lãnh đạo Giáo Hội đến chung toàn thể nhân loại


Nếu thành phần Kitô hữu trinh nữ được cứu rỗi hay chăng là ở lòng tin tưởng cậy trông của họ, được ám chỉ nơi dầu đèn họ cần có, như đã chia sẻ hôm qua, và nếu chung toàn thể nhân loại được xét xử và cứu rỗi là nhờ "đức tin thể hiện qua đức ái" của họ (xem Galata 5:6; xem Mathêu 25:37-40,42-46), thì thành phần lãnh đạo cộng đồng dân Chúa sẽ bị xét xử và cứu độ nhờ các vị có biết trung tín sinh lợi cho chủ hay chăng. 


Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, thành phần lãnh đạo cộng đồng dân Chúa được gọi là "đầy tớ", tức là những người phục vụ, những người được gọi là "thừa tác viên - minister", thay Chúa Kitô là Đấng đã đến để phục vụ (xem Mathêu 20:28), mà đã là "đầy tớ" phục vụ thì phải làm theo ý chủ và đúng ý chủ mới thật sự chu toàn nhiệm vụ đầy tớ của mình, bằng không, sẽ lỗi trách nhiệm và sẽ bị trừng phạt. 


Đúng thế, "tùy khả năng riêng mỗi người", ông chủ đã khôn ngoan và công bằng trao cho "người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến"Trong khi "người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ". 


Thế rồi những gì đã xẩy ra cho 2 đầy tớ 5 yến và 2 yến, Phúc Âm hôm nay kể tiếp: 


"Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ. Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói : 'Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây'. Ông chủ nói với người ấy: 'Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!' Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: 'Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây'. Ông chủ nói với người ấy: 'Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!'"


Còn người đầy tớ được trao cho một yến thì sao, Phúc Âm cũng cho biết số phận bất hạnh không may của người đầy tớ cuối cùng này như sau: 

"Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: 'Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!' Ông chủ đáp: 'Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng".


Vấn đề được đặt ra ở đây về trường hợp người đầy tớ được trao cho một yến bị trừng phạt này đó là tại sao người đầy tớ này trả lại cho chủ nguyên những gì được chủ trao cho, không hề bị mất mát đi một chút nào, mà vẫn bị trừng phạt dữ dội và khủng khiếp như thế?

Xin thưa, người đầy tớ được giao cho một yến này không bị trừng phạt xứng với tội mình không phải bởi không sinh lợi cân xứng với những gì được chủ trao phó cho bằng tinh thần và thái độ của người đầy tớ này. Vấn đề then chốt là ở chỗ tại sao người đầy tớ này không chịu sinh lợi cho chủ? Nếu không phải tại vì con người này không muốn làm "đầy tớ" cho chủ: "tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi", nghĩa là cho rằng chủ lợi dụng sức lực của mình để hưởng thụ, nên không muốn phục tùng, không muốn đáp ứng, không làm theo ý chủ, nghĩa là ngấm ngầm chống đối chủ, truất phế chủ, và gián tiếp tự cho mình là chủ, ở chỗ làm theo ý mình hơn là ý chủ. 

Tất cả vấn đề là ở chỗ đó, và người đầy tớ được trao cho một yến này bị trừng phạt cũng là vì vậy, chẳng khác gì như trường hợp của Luxiphe, con khủng long, ngay từ ban đầu đã dám cả gan chống lại ý định nhập thể Thiên Chúa, không chịu phục tùng ý định tối thượng của Ngài, coi ý mình hơn ý Chúa, như thể truất phế Thiên Chúa, cho mình mới là Thiên Chúa, nên hắn cùng 1/3 ngụy thần theo hắn đã bị trừng phạt vậy (xem Khải Huyền 12:4,9).

Cốt lõi của vấn đề ở đây là có nhận biết Thiên Chúa và kính mến Thiên Chúa mới gắn bó với Ngài và làm theo ý của Ngài, như hai người đầy tớ 5 yến và 2 yến. Mà tình yêu Thiên Chúa bất khả phân ly với tình yêu tha nhân, ở chỗ có kính mến Thiên Chúa thì mới phục vụ tha nhân, hay ngược lại việc phục vụ tha nhân được thúc đẩy và chi phối bởi tình yêu Thiên Chúa. Người đầy tớ được trao cho một yến trong bài Phúc Âm hôm nay không muốn sinh lợi cho chủ cũng có nghĩa là không muốn làm tôi phục vụ anh chị em của mình, trái lại, muốn người khác phải phục vụ mình

Nếu người đầy tớ được trao cho 1 yến trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay tưởng mình khôn ngoan, còn những người được trao cho 2 yếu hay 5 yến là dại khờ, ở chỗ, họ chỉ làm tôi cho chủ và mang lại lợi ích cho chủ, chứ chính họ chẳng được gì hết, không như chính đương sự, khôn ngoan hơn người, ở chỗ chỉ muốn những gì mang lại lợi lộc cho mình mà thôi, hơn là cho chủ, tuyệt đối không muốn và không thể làm tôi phục vụ chủ, thì không ngờ những lý lẽ khôn ngoan nhất của hắn lại là cái dại hơn ai hết và dại hơn bao giờ hết, đến độ, bản thân khôn ngoan của hắn và cuộc đời chỉ muốn hưởng thụ của hắn, cuối cùng, bị hư đi đời đời, đúng như triết lý khôn ngoan bất diệt của Thiên Chúa, đó là ai giữ sự sống mình sẽ bị mất nó, còn ai mất sự sống mình vì Ngài thì lại giữ được nó muôn đời (xem Gioan 12:25). Thánh Phaolô đã thực sự cảm nhận được cái khôn ngoan của Thiên Chúa trong Bài Đọc 1 hôm nay:

"Điều mà thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; điều mà thế gian cho là yếu hèn, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những gì là mạnh mẽ phải hổ ngươi. Thiên Chúa đã chọn những điều hèn hạ đối với thế gian, những điều bị khinh chê, những điều không không, để phá huỷ những điều hiện hữu, hầu mọi xác thịt không thể vinh danh trước mặt Người".

       

Người đầy tớ trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay được chủ tưởng thưởng vì đã nỗ lực sinh gấp trăm những gì chủ trao cho mình, 2 sinh 2, 5 sinh 5, chắc chắn sẽ là những con người thấm thía cảm nghiệm thấy tâm tình của bài Thánh Vịnh 32 ở Bài Đáp Ca hôm nay như sau:

 

1) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta. 

2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người; nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.

3) Linh hồn chúng tôi mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng tôi. Bởi vậy, lòng chúng tôi hân hoan trong Chúa, chúng tôi tin cậy ở thánh danh Người.


 

Ngày 27 tháng 8

Thánh nữ Mô-ni-ca

lễ nhớ bắt buộc

St. Monica - Saints & Angels - Catholic Online

Tiểu sử 
Thánh nữ sinh năm 331 tại Ta-gát, Châu Phi, trong một gia đình theo Ki-tô giáo. Lúc còn thanh xuân, thánh nữ đã kết hôn với anh Pa-tri-xi-ô và sinh được những người con, trong đó có thánh Âu-tinh. Khi Âu-tinh mất đức tin, thánh nữ đã dâng những dòng lệ tựa những lời cầu nguyện âm thầm lên Thiên Chúa. Khi thấy Âu-tinh trở lại, thánh nữ đã tràn ngập vui mừng. Người không còn gì để chờ đợi ở trần gian này nữa, Thiên Chúa đã gọi người về ở Ốt-ti-a, năm 387, khi người đang sửa soạn trở về Châu Phi, quê hương của người. Thánh nữ là tấm gương sáng chói cho những người làm mẹ : nuôi dưỡng lòng tin bằng lời cầu nguyện và chiếu toả ra bên ngoài bằng các nhân đức.

Bài đọc 2

Ta hãy tìm cách đạt tới sự khôn ngoan vĩnh cửu

Trích sách Tự thuật của thánh Âu-tinh, giám mục.

Hôm ấy, gần tới ngày mẹ con ra khỏi đời này -ngày mà Chúa biết rõ, còn chúng con thì không-, đã xảy ra một chuyện mà bây giờ con tin là đã do Chúa sắp đặt theo đường lối nhiệm mầu của Chúa : lúc đó chỉ có hai mẹ con chúng con đứng tựa cửa sổ quay ra thửa vườn bên cạnh ngôi nhà chúng con đang ở, gần Ốt-ti-a, bên bờ sông Ti-be. Nơi đây xa chỗ đông người, chúng con muốn nghỉ ngơi cho khoẻ lại sau những ngày đường xa mệt nhọc, hầu có thể lên tàu tiếp tục chuyến đi. Chỉ có hai mẹ con chúng con trò chuyện rất thân mật. Chúng con muốn quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước. Đứng trước Chân Lý là chính Chúa, chúng con cùng nhau tìm hiểu xem cuộc sống vĩnh cửu của các thánh sẽ ra sao, cuộc sống mà mắt không hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới. Chúng con nao nức mở rộng tâm hồn hớp lấy những dòng nước từ trời cao đổ xuống, nước suối nguồn của Chúa, suối ban sự sống bắt nguồn từ nơi Chúa.

Con đã nói những điều như trên đây, cho dầu cách nói có khác, từ dùng có khác. Nhưng lạy Chúa, Chúa biết là hôm ấy, đang khi chúng con nói với nhau những chuyện như thế, và đúng lúc thế gian này cùng với tất cả những khoái lạc của nó không còn chút giá trị gì nữa đối với chúng con qua những lời chúng con trao qua đổi lại, thì mẹ con nói : “Con ơi, riêng phần mẹ, mẹ chẳng còn lấy chi làm vui thích trên trần gian này nữa, chẳng còn biết làm gì nơi đây, cũng chẳng biết còn lý do nào mà ở lại đây. Mẹ chẳng còn trông mong gì trên đời này nữa. Trước đây, lý do duy nhất khiến mẹ ước mong được nán lại thêm một chút trong cuộc sống này là để nhìn thấy con thành một Ki-tô hữu trong Hội Thánh Công Giáo trước khi mẹ nhắm mắt lìa đời. Thiên Chúa đã ban cho mẹ quá lòng mẹ mong ước : mẹ còn đang được thấy con khinh chê hạnh phúc trần gian mà làm tôi tớ phụng sự Người. Bây giờ mẹ ở đây làm gì nữa ?”

Con cũng chẳng nhớ rõ đã trả lời mẹ con thế nào, nhưng hơn kém năm ngày sau thì mẹ con ngã bệnh. Người bị sốt rét. Trong cơn bệnh ấy, một ngày kia, có lúc người bị ngất đi trong giây lát, không còn biết có ai đứng xung quanh nữa. Chúng con chạy cả lại, nhưng người hồi tỉnh ngay. Thấy hai anh em con đứng bên, người lên tiếng nói như thể đang tìm kiếm một cái gì : “Hồi nãy mẹ ở đâu thế ?”

Rồi thấy chúng con đứng chết lặng vì buồn phiền, người bảo : “Chôn cất mẹ ở đây, chúng con nhé !” Con nín thinh và cố cầm nước mắt. Em con thì nói câu gì đó tỏ ý ước mong mẹ con đừng bỏ thân nơi đất khách quê người, nhưng nên nhắm mắt tại quê hương xứ sở. Được như vậy thì hạnh phúc hơn. Nghe thấy thế, nét mặt lo âu, người nhìn em con, trách chú ấy sao lại thích những chuyện như vậy. Rồi người nhìn con mà bảo : “Con xem nó nói gì vậy ?” Lát sau, người bảo cả hai chúng con : “Xác này, cứ chôn chỗ nào cũng được. Đừng bận tâm lo lắng gì chuyện đó. Mẹ chỉ xin hai con một điều, là dù chúng con ở đâu, thì cũng nhớ đến mẹ trước bàn thờ Chúa.” Sau khi đã cố tìm lời giải thích điều đó, người im tiếng luôn và chịu đau đớn nhiều vì cơn bệnh trở nên trầm trọng.

Lạy Chúa là Đấng an ủi những ai sầu khổ, Chúa đã đoái thương nhậm lời thánh Mô-ni-ca khóc than cầu khẩn, mà cho con bà là Âu-tinh được ăn năn trở lại cùng Chúa. Xin cũng nhậm lời hai thánh chuyển cầu, mà cho chúng con biết thật tình ăn năn hối lỗi, để được Chúa khoan hồng thứ tha. Chúng con cầu xin

 

August 27 - Saint Monica — The Augustinians

 

Thánh Monica sinh vào năm 332 tại một thành phố nhỏ thuộc vùng Bắc Phi. Tại quê hương của Ngài lúc đó vẫn còn rất nhiều người ngoại giáo, và các Ki-tô hữu ở đây chỉ là một nhóm nhỏ. Thật hạnh phúc cho Monica vì cha mẹ của Ngài là những Ki-tô hữu thánh thiện.

Khi Monica đến tuổi trưởng thành, cô đã được gả cho một viên chức trong thành phố tên là Patrik. Nhưng Patrik lại là người ngoại. Việc một nữ Ki-tô hữu kết hôn với một người ngoại là điều không mấy phổ biến hồi ấy, vì các Ki-tô hữu thời ấy thường chỉ kết hôn với nhau chứ không bao giờ có những cuộc hôn nhân hỗn hợp giữa người Ki-tô hữu và người ngoại giáo. Nhưng dẫu vậy thì trường hợp của Monica cũng có thể giải thích được. Tại quê của Ngài lúc đó có rất ít các Ki-tô hữu, nên cô gái Monica hầu như không có chọn lựa nào khác ngoài việc phải kết hôn với một người ngoại. Nhưng sự chọn lựa này đã trở thành nguyên cớ để sau này Monica phải hối tiếc với rất nhiều nước mắt, vì chồng của bà rất dễ dàng nảy đóa. Và với tư cách là người ngoại đạo, ông ta không hề biết đến giới luật Ki-tô giáo, nên ông ta rất dễ dàng cáu tức với những sự việc dù đó là những điều nhỏ nhoi nhất. Ông ta thường xuyên đánh đập vợ mình. Đó là một nỗi cay nghiệt đối với Monica, nhưng Monica coi Thánh Giá này còn nhẹ hơn cả nỗi khổ đau khác mà một người mẹ Ki-tô hữu phải mang, đó là việc trong số những đứa con của bà, có một kẻ vô cùng mất dậy.

Monica có ba người con, hai cậu con trai và một cô con gái. Ngay từ lúc Thánh Monica còn sinh thời, cô con gái này đã là ánh sáng mặt trời đối với Bà. Cậu con thứ của Bà cũng rất ngoan ngoãn và tốt lành. Nhưng đứa con trai cả của bà tên là Augustinô thì lại là một kẻ lười biếng thực thụ.

Dù là kẻ biếng nhác đúng nghĩa, nhưng Augustinô lại luôn mang về nhà những kết quả tốt đẹp trong việc học tập. Tuy vậy, bà Monica vẫn phải thường xuyên nghe các thầy cô giáo than phiền về đứa con trai của bà, vì đứa con này thường xuyên trốn học, thiếu tập trung trong lớp, hay nói leo và thường xuyên kích động bạn bè. Người mẹ tội nghiệp Monica không thể cãi được bất cứ một lời nào trước những than phiền đó, vì bà biết rất rõ rằng, những lời than phiền đó quá thực. Chưa hết, Augustinô còn thường xuyên nói dối mẹ mình. Đã vậy, anh ta còn đánh cắp nhiều đồ đạc của mẹ. Không chỉ thiếu vâng lời với mẹ, Augustinô còn tỏ ra là một đứa con ngỗ nghịch và bướng bỉnh theo đúng nghĩa đen nữa.

Monica còn phải đối diện với một chuyện tồi tệ hơn, vì khi Augustinô tới tuổi trưởng thành, anh đã sa vào nhóm những đồng nghiệp xấu. Ngay lập tức toàn thành phố xì xèo về anh, và vì thế mẹ anh đã cảm thấy vô cùng xấu hổ và mất mặt, bởi con của bà là một đứa con đồi bại. Nhưng Augustinô còn tỏ ra tai quái và khốn nạn ở chỗ là, vì sự cuồng vọng, anh không ngừng khoe khoang về những hành vi đáng xấu hổ của mình, và anh muốn chứng tỏ với mọi người rằng, anh là kẻ đồi bại nhất trong nhóm những người bạn vốn đã vô cùng xấu xa của anh.

Hồi đó, bà Monica thường xuyên nhắc nhở đứa con trai ngỗ ngược của bà phải làm điều lành, phải sống nghiêm túc và tốt lành, nhưng Augustinô chỉ phản ứng lại với một cái nhún vai trước những lời trách móc đầy từ mẫu của mẹ. Và khi Augustinô coi những lời nhắc nhở của mẹ là sự quấy nhiễu càng ngày càng quá sức chịu đựng đối với mình, anh đã trốn khỏi nhà. Vào năm 370, Augustinô đã trốn nhà và đi đến Carthago, tức Tunisie ngày ngay. Sau đó anh đi tới Rô-ma và tới Milan.

Từ khi Augustinô trốn nhà ra đi, cuộc đời của Thánh Monica không còn có điều chi đặc biệt ngoài việc dành trọn thời gian để cầu nguyện cho đứa con ngỗ ngược đó. Trong lúc cầu nguyện, nước mắt đắng cay của bà không ngừng tuôn rơi, và chỉ mong sao đứa con trai cả của mình mau sám hối quay về. Càng không thấy Augustinô quay về, bà càng cầu nguyện thiết tha hơn cũng như càng than khóc nhiều hơn, đến độ một lần kia vị Giám mục Giáo phận đã phải an ủi và nói với bà rằng:

Này bà mẹ Monica! Giờ của Chúa chưa điểm đối với con bà. Bà hãy tiếp tục cầu nguyện cho nó và hãy tin tưởng hy vọng, vì một đứa con của quá nhiều nước mắt và lời cầu nguyện sẽ không thể hư đi mất.

Vị Giám Mục trên đã có lý. Tuy nhiên, Thánh Monica đã phải mất tới 18 năm trời để khóc và cầu nguyện cho con trai của bà. Thiên Chúa đã để cho bà phải chờ đợi trong cầu nguyện và nước mắt suốt 18 năm trời rồi Ngài mới chấp nhận chịu thua trước sức tấn công như vũ bão của bà. 

Cuối cùng, những lời cầu nguyện đầy tin tưởng và tín tác trong một cách thức quá ư tuyệt hảo của người mẹ này đã được lắng nghe. Vào năm 385, khi biết được Augustinô đang ở Milan, bà đã đến đó để cùng đồng hành với con. Dưới sự ảnh hưởng tích cực của Thánh Ambrosiô Giám Mục Milan hồi đó, Augustinô đã trở lại và xin lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy. Vào ngày 15 tháng 08 năm 386, Augustinô đã được lãnh nhận các Bí Tích khai tâm Ki-tô giáo từ chính tay Đức Giám Mục Ambrosiô. Augustinô đã tỏ ra hoán cải một cách thực sự cũng như đã hoán cải một cách hoàn toàn, đến độ Ngài đã trở thành một vị đại Thánh. Có thể nói được rằng, nếu không nhờ vào lời cầu nguyện liên lỷ và kiên tâm của Thánh Nữ Monica thì cuộc trở lại của Augustinô, trong chừng mực nào đó, hầu như đã không xảy ra. Sau khi đạt được ước nguyện với việc trở lại của con trai mình, vào Lễ Phục Sinh năm 387, Thánh Monica đã lên đường trở về quê hương với sự đồng hành của chính Augustinô. Tuy nhiên, vào tháng 10 năm 387 khi vừa mới chỉ đến được thành phố cảng Ostia của Ý, Thánh Nữ Monica đã bị lên cơn sốt và qua đời ở đó. Thánh Nữ đã qua đời trước niềm vui bởi ước nguyện lớn nhất của đời bà đã xảy ra trước đó không lâu: bà đã được tận mắt chứng kiến cảnh đứa con trai cả của mình hoán cải và làm hòa với Thiên Chúa. Và việc đứa con mà bà đã phải vô cùng lo lắng và chăm lo cho nó, giờ đây đã trở thành một vị Thánh, đó chính là một niềm hạnh phúc không gì sánh bằng đối với bà, vì đối với một người Mẹ, không có vinh dự nào lớn lao nơi Thiên Chúa và nơi con người cho bằng việc bà có một đứa con thánh thiện. Tất cả những gì tôi là, tôi đều phải biết ơn Mẹ tôi” – Thánh Augustinô đã thừa nhận một cách công khai như thế. Và đó cũng là lời khen tuyệt vời nhất mà một người con trai có thể dâng lên người mẹ tuyệt trần của mình!

Sau khi Thánh Nữ Monica qua đời, con trai của bà là Augustinô đã an táng Thân Mẫu mình ngay tại nơi bà qua đời, tức tại thành phố cảng Ostia của Ý.

Vào năm 1162, các Thánh Tích của Thánh Monica đã được cung nghinh tới Arras thuộc khu vực miền Bắc nước Pháp. Kể từ đó việc tôn kính Thánh Nữ Monica mới được lan rộng. Vào năm 1430, Đức Thánh Cha Martin V đã ra lệnh cung nghinh các Thánh Cốt của Thánh Monica từ Ostia về Rô-ma, và đặt các Thánh Cốt đó trong một nhà thờ được gọi tên theo tên của con trai bà, đó là nhà thờ S. Agostino tại Rô-ma.

Vào năm 1945 người ta đã phát hiện ra một phần di tích của ngôi mộ Thánh Monica tại Ostia.

Từ thế kỷ thứ XIII tới năm 1969, Thánh Monica được Giáo hội cử hành Lễ mừng vào ngày mồng 04 tháng 05. Nhưng kể từ cuộc cải tổ lịch Phụng Vụ vào năm 1969, Lễ kính Thánh Monica được dời sang ngày 27 tháng 08, ngay ngày hôm trước Lễ kính Thánh Augustinô, con trai của Bà. Giáo hội Công giáo mừng kính Thánh Nữ Monica với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III. Và Giáo đặt Thánh Monica làm Nữ Bổn Mạng của giới phụ nữ cũng như của các bà mẹ Công giáo.

Lm. Đa-minh Thiệu

https://daminhtamhiep.net/2016/08/thanh-monica/