SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 

M
ùa Vọng Năm A Tuần II 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 11, 1-10

"Chúa lấy sự công minh mà xét xử người nghèo khó".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ngày ấy, từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa.

Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở. Ngài sẽ dùng lời như gậy đánh người áp chế, và sẽ dùng tiếng nói giết chết kẻ hung ác. Ngài lấy đức công bình làm dây thắt lưng, và lấy sự trung tín làm đai lưng.

Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò (cái) và gấu (cái) sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô. Trẻ con còn măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta. Bởi vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa, như nước tràn đầy đại dương.

Ngày ấy gốc Giêsê đứng lên như cờ hiệu cho muôn dân. Các dân sẽ khẩn cầu Ngài, và mộ Ngài sẽ được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 71, 2. 7-8. 12-13. 17

Ðáp: Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người (c. 7).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.

2) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người cho tới khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.

3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống người cùng khổ. - Ðáp.

4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca khen người. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 15, 4-9

"Chúa Kitô cứu rỗi hết mọi người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, những gì đã viết ra là có ý để giáo huấn chúng ta, hầu nhờ Thánh Kinh thêm sức và an ủi, chúng ta được cậy trông. Xin Thiên Chúa, nguồn kiên tâm và an ủi, ban cho anh em biết thông cảm với nhau theo gương Chúa Giêsu Kitô, để anh em đồng thanh tôn vinh Chúa là Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Vì thế, anh em hãy tiếp rước nhau như chính Chúa Giêsu đã tiếp nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa. Vì chúng tôi quả quyết với anh em: để chứng tỏ sự chân thật của Thiên Chúa, Ðức Giêsu Kitô đã phục vụ những người chịu phép cắt bì, hầu xác nhận lời hứa cùng các tổ phụ. Còn dân ngoại, họ tôn thờ Thiên Chúa vì lòng nhân từ Người, như lời chép rằng: "Vì vậy, lạy Chúa, con sẽ cao rao Chúa và sẽ ca tụng danh Chúa giữa các dân ngoại".

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Lc 3, 4. 6

Alleluia, alleluia! - Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 3, 1-12

"Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Ngày ấy, Gioan Tẩy Giả đến giảng trong hoang địa xứ Giuđêa rằng: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Chính ông là người mà Tiên tri Isaia đã tiên báo: "Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng".

Bởi vì chính Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Bấy giờ dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan.

Thấy có một số đông người biệt phái và văn nhân cũng đến xin chịu phép rửa, thì Gioan bảo rằng: "Hỡi nòi rắn độc, ai bảo các ngươi trốn lánh cơn thịnh nộ hòng đổ xuống trên đầu các ngươi. Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối. Chớ tự phụ nghĩ rằng: tổ tiên chúng ta là Abraham. Vì ta bảo cho các ngươi hay: Thiên Chúa quyền năng có thể khiến những hòn đá trở nên con cái Abraham. Ðây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, để các ngươi được lòng sám hối; còn Ðấng sẽ đến sau tôi có quyền năng hơn tôi và tôi không đáng xách giày Người. Chính Ðấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Ngài cầm nia trong tay mà sảy lúa của Ngài, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt".

Ðó là lời Chúa. 

 

 

 


Suy niệm

 

Nhập thể dọn đường  


Mùa Vọng là Mùa đợi trông Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng mang đến cho chung loài người và riêng dân Do Thái Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Bởi vì, từ sau nguyên tội, loài người đã sống trong đau thương, về cả tâm hồn lẫn thể xác, đến độ, đúng như cảm nghiệm của Phật giáo: "đời là bể khổ". 


Thế nhưng, vì Thiên Chúa dựng nên con người là để được sống đời đời, để được hưởng phúc trường sinh bất diệt, mà họ không thể nào chấp nhận được thân phận khổ đau bất hạnh của mình. Theo giòng lịch sử, họ đã tìm đủ cách để làm sao có thể "vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Gioan 5:24).


Đó là là lý do mới có các "đạo" giáo khác nhau, tức là có những "con đường", những "đạo lộ" khác nhau để con người vừa có thể thoát khổ vừa có thể được đạt được hạnh phúc. Một trong những "con đường" hay "đạo l" rõ ràng có chủ trương "cứu độ" con người như "đạo" Do Thái và "đạo" Thiên Chúa (Kitô giáo) đó là "đạo" Phật (Phật giáo)


Tuy nhiên, trong khi "đạo" Phật chủ trương "tự độ", nghĩa là tự cứu mình, bằng cách diệt dục là tham sân si khi còn sống trên đời này cũng như bằng đường lối đầu thai luân hồi sau khi chết nếu chưa hoàn toàn diệt dục, cho tới khi giác ngộ mới được siêu thoát vào cõi niết bàn, thì Do Thái giáo và Kitô giáo lại trông chờ "Ơn Cứu Độ" từ Trời Cao.


Sở dĩ dân Do Thái, cũng chính là tín hữu Do Thái giáo, hằng trông chờ một Đấng Thiên Sai như Thiên Chúa hứa ban, là vì Đấng Thiên Sai là vị đã được Thiên Chúa hứa trong giòng lịch sử cứu độ của họ, như Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay đã tiên báo Người xuất thân từ giòng dõi Vua Đavít: "Ngày ấy, từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa....".

 

 

Chính vì là Đấng Thiên sai của Thiên Chúa đối với dân Do Thái mà Người đồng thời cũng là Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại, đúng như Tiên Tri Isaia đã minh định trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay: "Ngày ấy gốc Giêsê đứng lên như cờ hiệu cho muôn dân. Các dân sẽ khẩn cầu Ngài, và mộ Ngài sẽ được vinh quang".

 

 

Đấng Thiên Sai của dân Do Thái cũng là Đấng Cứu Thế của nhân loại này sẽ chẳng những mang lại công lý và hòa bình khi Người đến trên thế gian này, mà còn cả sự sống trọn hảo là kiến thức thần linh nữa, như Tiên Tri Isaia đã diễn tả về Người trong Bài Đọc 1 hôm nay: 

 

"Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở. Ngài sẽ dùng lời như gậy đánh người áp chế, và sẽ dùng tiếng nói giết chết kẻ hung ác. Ngài lấy đức công bình làm dây thắt lưng, và lấy sự trung tín làm đai lưng. Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò (cái) và gấu (cái) sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô. Trẻ con còn măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta. Bởi vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa, như nước tràn đầy đại dương".

 

 

Thật vậy, tự bản tính thụ tạo của mình, một tạo vật hữu hình và hữu hạn, so với Thiên Chúa Hóa Công là Đấng tự hữu, toàn thiện và toàn năng, con người chẳng là gì ngoài bản chất bất toàn và bất lực của mình, chỉ có thể trở thành viên mãn nhờ Ngài và trong Ngài, như họ đã được thông phần vào sự hiện hữu của Ngài nhờ được Ngài dựng nên. 


Thậm chí khi mới được tạo dựng, còn sống trong tình trạng công chính nguyên thủy, chưa biết đến tội lỗi là gì: "trần truồng không biết xấu h" (Khởi Nguyên 2:25), loài người còn sa ngã phạm tội, huống chi bởi nguyên tội họ lại càng mù quáng, sai lạc và yếu nhược hơn nữa, làm sao có thể "tự độ", tự cứu được bản thân mình như lòng mong ước.


Đó là lý do, ngay từ ban đầu, nghĩa là ngay sau nguyên tội, Thiên Chúa chẳng những đã tự động hứa ban Ơn Cứu Độ cho con người qua Đấng Thiên Sai Cứu Tinh của Ngài (xem Khởi Nguyên 3:15), mà còn khôn ngoan không để con người có thể "tự độ", bằng cách đuổi họ ra khỏi địa đường, kẻo họ hái cây sự sống mà ăn (xem Khởi Nguyên 3:22).


Thế là lịch sử của loài người nói chung và lịch sử của dân Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn nói riêng đã trở thành Lịch Sử Cứu Độ, lịch sử đợi trông Ơn Cứu Độ, một Mùa Vọng đợi trông cho được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết là những gì liên lỉ chẳng những hành hạ con người mà còn giúp cho con người càng có lý do sâu xa chính đáng mãnh liệt trông chờ Đấng Thiên Sai Cứu Thế mau đến.

 

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay chất chứa 2 điểm chính yếu được Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đề cập tới, đó là thành phần đang chờ đón Đấng Thiên Sai và là chính Đấng Thiên Sai.

 

 

Trước hết, về thánh phần chờ đón Đấng Thiên Sai ở trong bài Phúc Âm này là thánh phần biệt phái và văn nhân, nghĩa là thành phần trí thức Do Thái, trí thức ở chỗ thông luật và dạy luật, nên cũng là thành phần tự cho mình là công chính, không cần phải ăn năn thống hối, thuộc loại 99 con chiên không lầm lạc như một con chiên nào đó, một con chiên được Vị Tiên Hô Gioan Tẩy Giả ám chỉ là hòn đá có thể trở thành con cái của Abraham, một con chiên nhờ đó còn làm đẹp lòng Chúa hơn 99 con chiên không cần ăn năn hoán cải như thành phần thông luật và dạy luật nhưng sống giả hình, như một thứ trấu vỏ bọc hời hợt, được vị tiền hô này cảnh báo là, sẽ bị Đấng Thiên Sai dùng nia sẩy sạch mà quăng vào lửa đối đi.

 

 

Sau nữa, về chính Đấng Thiên Sai, Đấng được vị tiền hô Gioan Tẩy Giả báo cho biết trước rằng: 1- về thân phận thì cao trọng hơn bản thân ngài là nhân vật được nhiều người, bao gồm cả thành phần trí thức của dân Do Thái tưởng lầm là Đấng Thiên Sai, 2- về sứ vụ là Đấng không rửa bằng nước liên quan đến lòng thống hối như vị tiền hô, mà rửa trong Thánh Thần và bằng lửa, là ban sự sống thần linh cho con người, nhờ đó họ được hiệp thông với Thiên Chúa và làm chứng cho Người, như các tông đồ được rửa trong Thánh Thần và bằng lửa để trở thành chứng nhân tiên khởi từ biến cố Hiện Xuống trong Ngày Lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem vậy.

 


Thế nhưng, để chứng tỏ mình nhận biết Đấng Thiên Sai cũng là Đấng Cứu Thế đã nhập thể giáng sinh và sống giữa loài người chúng ta như một Emmanuel, Kitô hữu chúng ta là thành phần đã lãnh nhận Phép Rửa nhân danh Người, đã "được Người ban cho quyền làm con cái Thiên Chúa" (Gioan 1:12), cũng phải chấp nhận lẫn nhau, không còn phân biệt Do Thái với dân ngoại, vì cả hai đều được cứu chuộc bởi Người, như Thánh Phaolô huấn dụ giáo đoàn Roma trong Bài Đọc II hôm nay:


"Vì thế, anh em hãy tiếp rước nhau như chính Chúa Giêsu đã tiếp nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa. Vì chúng tôi quả quyết với anh em: để chứng tỏ sự chân thật của Thiên Chúa, Ðức Giêsu Kitô đã phục vụ những người chịu phép cắt bì, hầu xác nhận lời hứa cùng các tổ phụ. Còn dân ngoại, họ tôn thờ Thiên Chúa vì lòng nhân từ Người, như lời chép rằng: 'Vì vậy, lạy Chúa, con sẽ cao rao Chúa và sẽ ca tụng danh Chúa giữa các dân ngoại'".


Và đó là lý do, cả dân Do Thái lẫn dân ngoại Kitô hữu chúng ta hãy cùng với Bài Đáp Ca hôm nay vang lên nhận thức và tâm tình của Thánh Vịnh 71 đầy phấn khởi với tràn đầy vui mừng và hy vọng như sau:

1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực.

2) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người cho tới khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất.

3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống người cùng khổ.

4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca khen người.



Ngày 04/12

 

 Thánh Gioan Ðamascenô, linh mục Tiến Sĩ Hội Thánh

 


 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ  6/5/2009

 Bài Giáo Lý 82 trong Loạt 138 bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền

 

 

Anh chị em thân mến:

 

Hôm nay tôi muốn nói về Thánh Gioan Đamascênô, một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử của khoa thần học Byzantine, một vị đại tiến sĩ trong lịch sử của Giáo Hội hoàn vũ. Trước hết ngài là chứng nhân cho một cuộc vượt qua từ nền văn hóa Hy Lạp và Syria, một nền văn hóa chung ở miền đông của Đế quốc Byzantine, sang nền văn hóa Hồi giáo, một nền văn hóa đã xâm chiếm qua những thắng lợi về quân sự một vùng lãnh thổ thường được coi là Trung Đông hay Cận Đông.

 

Thánh Gioan Đamascênô được sinh ra từ một gia đình Kitô giáo giầu có, khi còn đang trẻ đã đóng vai trò – có lẽ cũng như cha của ngài – làm đầu về kinh tế ở vương quốc ấy. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, không thỏa mãn với đời sống ở triều đình, ngài hoàn toàn đi đến chỗ sống đời đan tu, gia nhập đan viện San Sabas, gần Gialiêm. Năm đó khoảng năm 700. Không bao giờ xa lìa đan viện này, ngài đã hiến thân hết mình cho việc sống khổ hạnh và hoạt động văn chương, mà vẫn không chối bỏ một hoạt động mục vụ nào đó, như được chứng tỏ trong nhiều bài giảng của ngài. Lễ nhớ ngài được cử hành vào ngày 4/12. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã công bố ngài là một vị tiến sĩ của Giáo Hội hoàn vũ năm 1890.

 

Ở Đông phương, trước hết ngài được nhớ đến vì 3 bài ngài nói chống lại những ai nói xấu các thứ ảnh tượng thánh, những bài nói bị lên án sau khi ngài qua đời bởi Công Đồng Hieria (754) của nhóm bài ảnh tượng. Tuy nhiên, những bài nói này là nguyên tố chính cho việc tái phục hồi và phong thánh cho ngài bởi các vị nghị phụ chính thống qui tụ lại ở Công Đồng Chung Nicaea II (787), Công Đồng Chung Thứ Bảy. Trong các bản văn này người ta có thể tìm thấy những nỗ lực thần học quan trọng nhất để hợp thức hóa việc tôn kính các thứ ảnh tượng thánh, khi liên kết chúng với mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa trong cung dạ của Trinh Nữ Maria.

 

Thánh Gioan Đamascênô cũng là một trong những người đầu tiên phân biệt giữa việc thờ phượng chung và riêng của Kitô hữu, cũng như giữa việc tôn thờ (latreia) và tôn kính (proskynesis): việc tôn thờ chỉ có thể giành cho Thiên Chúa là Đấng rất thần linh; còn việc tôn kính có thể sử dụng một hình ảnh để hướng bản thân về Đấng được tiêu biểu nơi ảnh tượng. 

 

Hiển nhiên là một vị thánh không thể nào lại đồng hóa với chất thể làm nên ảnh tượng. Việc phân tích này mau chóng trở nên quan trọng trong việc đáp ứng theo đường lối Kitô giáo đối với những ai cho rằng cần phải tuân giữ chung và mãi mãi việc cấm chỉ trong Cựu Ước về vấn đề sử dụng các hình ảnh để tôn thờ. Đó cũng là một vấn đề bàn cãi quan trọng trong cả thế giới Hồi giáo nữa, một thế giới Hồi giáo chấp nhận truyền thống này của người Do Thái trong việc hoàn toàn loại bỏ những hình ảnh cho việc tôn thờ. Trái lại, Kitô hữu, trong bối cảnh ấy, đã cứu xét vấn đề này và đã thấy là chính đáng cho việc tôn kính ảnh tượng.

 

Thánh Đamascênô đã viết: “Vào những thời buổi khác, Thiên Chúa đã không bao giờ được tiêu biểu nơi một hình ảnh nào, vô hình và không có dung nhan. Thế nhưng vì giờ đây Thiên Chúa đã được nhìn thấy nơi xác thịt và đã sống giữa con người, tôi là tiêu biểu cho những gì hữu hình nơi Thiên Chúa. Tôi không tôn kính chất thể, nhưng là Vị Tạo Hóa của chất thể, Đấng đã biến mình thành chất thể vì tôi và đã muốn ở nơi chất thể và thi hành việc cứu độ tôi nhờ chất thể. Bởi thế tôi sẽ không bao giờ thôi tôn kính chất thể mà nhờ đó ơn cứu độ mới được ban cho tôi.

 

“Thế nhưng tôi tôn kính nó một cách tuyệt đối như tôi ton kính Thiên Chía! Làm thế nào Thiên Chúa lại có thể là những gì đã lãnh nhận việc hiện hữu từ vô hữu thể chứ?... Trái lại, tôi cũng tôn kính và trân trọng tất cả những gì là chất thể mang lại ơn cứu độ, vì nó hoàn toàn là những năng lực thánh hảo và ân sủng. Không phải là cây gỗ của thập giá đã được chúc phúc 3 lần hay sao?... Và mực cùng sách thánh Phúc Âm không phải là chất thể hay sao? Bàn thờ cứu độ là nơi phân phát cho chúng ta bánh sự sống không phải là chất thể hay sao?... Và trước hết mọi sự thịt và máu của Chúa của tôi không phải là chất thể hay sao? Phải chăng tính chất linh thánh của tất cả những sự ấy cần phải bị triệt tiêu? Hay cần phải theo chiều hướng của truyền thống Giáo Hội tôn kính các ảnh tượng về Chúa và ảnh tượng về các người bạn của Thiên Chúa là những ảnh tượng được thánh hóa bởi tên chúng có, và vì thế nhờ ơn Thánh Linh chúng trở thành biểu hiện. Bởi thế, đừng vì chất thể mà xúc phạm: nó không đáng khinh vì chẳng có gì Thiên Chúa làm mà lại đáng khinh hết” (Contra imaginum calumniators, I, 16, ed. Kotter, pp. 89-90).

 

Chúng ta thấy rằng, vì biến cố Nhập Thể, chất thể đã trở nên như được thần linh hóa, nó được thấy như là nơi cư ngụ của Thiên Chúa. Đây là một nhãn quan mới về thế giới và về các thực tại thể chất. Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể và nhục thể đã thực sự trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa, với vinh quang được chiếu tỏa nơi dung nhan con người của Chúa Kitô. Bởi thế, những lời mời gọi của vị tiến sĩ Đông phương này, thậm chí cho đến nay, vẫn còn hết sức hiện đại, trong việc coi trọng giá trị chất thể nhận được nơi mầu nhiệm Nhập Thể, để có thể nhờ đức tin trở thành một dấu hiệu và bí tích có tác dụng cho cuộc gặp gỡ của con người với Thiên Chúa.

 

Thế nên, Thánh Gioan Đamascênô là một chứng nhân đặc biệt của việc tôn kính ảnh tượng, một việc tôn kính trở thành một trong những khía cạnh đặc biệt của khoa thần học và tu đức học Đông phương cho tới ngày nay. Tuy nhiên, nó là một hình thức thờ phượng chỉ thuộc về đức tin Kitô giáo, thuộc về niềm tin tưởng vào vị Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể và trở thành hữu hình. Giáo huấn này của Thánh Gioan Đamascênô bởi thế đã được đưa vào truyền thống của Giáo Hội hoàn vũ, một truyền thống chất chứa tín lý về các bí tích coi các yếu tố thể chất từ thiên nhiên có thể nhờ ân sủng biến đổi bởi việc kêu cầu (epiclesis) của Thánh Linh, kèm theo việc tuyên xưng đức tin chân thực.

 

Liên kết với những ý tưởng nồng cốt này, Thánh Gioan Đamascênô cũng đặt việc tôn kính hài tích các thánh trên căn bản của niềm xác tín là các Kitô hữu thánh hảo, vì được tham phần vào cuộc phục sinh của Chúa Kitô, không thể được thuần túy coi là “kẻ chết”. Chẳng hạn, khi liệt kê những hài tích và hình ảnh của những ai đáng tôn kính, Thánh Gioan đã đề cập trong bài nói thứ ba của ngài để bênh vực các hình ảnh là: “Trước tất cả những vị chúng ta tôn kính được Chúa nghỉ ngơi giữa họ, Đấng thánh duy nhất ngự giữa các thánh nhân (cf. Is 57:15), chẳng hạn như Thiên Chúa Thánh Mẫu bà tất cả các thánh nhân. Đó là những vị đã hết sức nên giống Thiên Chúa theo ý muốn của mình và nhờ được Chúa ngự trị và trợ giúp thực sự được gọi là các vị thần linh (cf. Ps 82:6), không phải theo bản tính, mà là nhờ trợ thuộc, như thanh sắt nung đỏ được gọi là lửa không phải tự bản chất mà là nhờ phụ trợ và và được tham dự vào lửa. Đúng như lời phán: ‘Các ngươi cần phải nên thánh vì Ta là thánh’ (Lev 19:2)” (III, 33, col. 1352A).

 

Sau một chuỗi những đối chiếu về kiểu mẫu ấy, Thánh Đamascênô có thể nhờ đó thản nhiên suy diễn rằng: “Thiên Chúa, Đấng thiện hảo và vượt lên trên tất cả mọi thiện hảo, không cảm thấy hài lòng với việc chiêm ngưỡng bản thân mình, nhưng muốn có những hữu thể nhờ ơn Ngài có thể tham phần vào sự thiện hảo của Ngài: Vì thế, Ngài đã tạo dựng nên mọi sự từ hư không, hữu hình và vô hình, bao gồm cả con người, một thực tại vừa hữu hình vừa vô hình. Và Ngài đã dựng nên họ với chủ ý làm cho họ trở thành một hữu thể có thể nghĩ tưởng (ennoema ergon) được phong phú hóa bởi lời (logo[i] sympleroumenon) và hướng về thần trí (pneumatic teleioumenon)” (II, 2, PG 94, col. 865A).

 

Và sau đó để làm sáng tỏ ý tưởng này, ngài đã nói thêm rằng: “Cần để cho mình cảm thấy bàng hoàng (thaumazein) trước tất cả những công việc của sự quan phòng (tes pronoias erga), ca ngợi tất cả những việc ấy và chấp nhận tất cả các việc ấy, khắc phục khuynh hướng muốn vạch ra nơi chúng những khía cạnh mà đối với nhiều người dường như là bất công hay trái đạo lý (adika), ngược lại, công nhận rằng dự án (pronoia) của Thiên Chúa là những gì vượt lên trên khả năng nhận biết và hiểu biết (agnoston kai akatalepton) của con người, trong khi đó, chỉ có một mình Ngài mới là Đấng biết được các ý nghĩ của chúng ta, các hành động của chúng ta và thậm chí tương lai của chúng ta” (II, 29, PG 94, col. 964C).

 

Triết gia Plato cũng đã nói là tất cả mọi triết lý đều bắt đầu bằng sự ngỡ ngàng: Đức tin của chúng ta cũng được bắt đầu bằng sự ngỡ ngàng trước thiên nhiên tạo vật, trước vẻ đẹp của Thiên Chúa, Đấng trở nên hữu hình.

 

Tính chất lạc quan về việc chiêm ngưỡng về thiên nhiên này (physikè theoria), của cái nhìn nơi thiên nhiên tạo vật hữu hình sự thiện, sự mỹ và sự chân, cái lạc quan của Kitô giáo này không phải là một thứ lạc quan non dại: Nó để ý tới vết thương nhức nhối nơi bản tính con người bởi quyền tự do chọn lựa được Thiên Chúa muốn và bị sử dụng bất xứng bởi con người, với tất cả mọi hậu quả của tình trạng bất hòa tràn lan xuất phát từ nó. Từ đó mới hiện lên một nhu cầu, rõ ràng được nhận định bởi khoa thần học của Thánh Đamascênô, là thiên  nhiên tạo vật là những gì phản ảnh sự thiện hảo và vẻ đẹp của Thiên Chúa đã bị tổn thương bởi tội lỗi của chúng ta “sẽ được củng cố và canh tân” bởi việc hạ giáng của Con Thiên Chúa nơi nhục thể, sau nhiều cách và nhiều lần chính Thiên Chúa đã cố gắng chứng tỏ cho thấy rằng Ngài đã tạo dựng nên con người để họ chẳng những ‘hiện hữu’ mà còn ‘hiện hữu tốt đẹp’ nữa” (cf. La fede ortodossa, II, 1, PG 94, col. 981).

 

Bằng một lời than tha thiết, Thánh Gioan đã giải thích là “Thiên nhiên tạo vật cần phải được kiên cường và canh tân, và đường lối sống đức hạnh sẽ được thể hiện và được cụ thể chỉ dạy (didachthenai aretes hodòn), một đường lốio loại trừ đi tình trạng băng hoại và dẫn đến sự sống trường sinh… Như thế đã xuất hiện ở chân trời lịch sử một đại dương yêu thương của Thiên Chúa đối với con người (philanthropies pelagos)…”

 

Đó là một diễn tả tuyệt vời. Một đàng, chúng ta thấy vẻ đẹp của thiên nhiên tạo vật, đàng khác, tình trạng hủy hoại gây ra bởi lầm lỗi con người. Thế nhưng, chúng ta thấy nơi Con Thiên Chúa, Đấng hạ giáng để canh tân thiên nhiên, cả một biển cả yêu thương của Thiên Chúa giành cho con người. Thánh Gioan Đamascênô tiếp tục: “Chính Người, Đấng Hóa Công và là Chúa, đã chiến đấu cho tạo vật của mình, bằng việc truyền đạt giáo huấn của mình cho họ qua gương của Người… Nhờ đó, Con Thiên Chúa, trong khi vẫn mang thân phận Thiên Chúa, đã từ trời hạ giáng và hạ mình… xuống với thành phần tôi tớ của mình… để thực hiện điều mới mẻ nhất này, điều duy nhất thực sự mới dưới ánh mặt trời, một điều mà qua đó Người đã thực sự tỏ ra quyền năng vô cùng của Thiên Chúa ra” (III, 1, PG 94, col. 981C-984B)

 

Chúng ta có thể mường tượng được niềm an ủi và vui mừng tràn đầy tâm can của thành phần tín hữu nơi những lời đầy hình ảnh lôi cuốn này. Cả chúng ta hôm nay nghe thấy những lời ấy, chia sẻ cùng những cảm thức của Kitô hữu thời bấy giờ: Thiên Chúa muốn nghỉ ngơi nơi chúng ta, Ngài muốn canh tân lại thiên nhiên tạo vật cũng nhờ ở việc hoán cải của chúng ta, Ngài muốn làm cho chúng ta được thông phần vào thần tính của Ngài. Xin Chúa giúp chúng ta cảm thấy những lời ấy là những gì quan trọng thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta.  

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/5/2009 


Thánh Gioan Damasceno, Linh mục, Tiến Sĩ Hội Thánh

 

 

Gioan chào đời vào lúc thành phố Damas sinh quán của Ngài, đang dưới quyền của người Ả Rập. Cha Ngài là Sergiô được vị Calife (người kế vị của Mahomet) mến chuộng. Đến nỗi dầu là người Kito hữu, ông cũng được đặt làm kẻ thừa hành. Ông quan tâm bảo vệ các tín hữu bị áp bức, hy sinh tiền bạc để chuộc họ. Ngày kia, giữa đám người bất hạnh bị điệu ra nơi công cộng, ông thấy các tử tội qùi xuống dưới chân một người trong nhóm họ xin cầu nguyện... Ông biết được rằng người được khẩn nài đó tên là Cosma, một tu sĩ Italia rất thông thái. Sergiô liền chạy tới vị Calife, xin được lưu giữ Cosma làm thầy dạy cho con mình là Gioan.

 

Cosma trở thành bạn của Sergiô, đồng thời là thày dạy của Gioan và của một đứa trẻ Giêrusalem khác mà Sergiô nhận nuôi. Khi kết thúc chu kỳ dậy dỗ, Cosma xin rút lui vào một tu viện. Gioan đã nên lừng danh nhờ trí khôn ngoan và sự hiểu biết của mình và được gởi về triều đình của vị vua Calife. Khi cha Ngài qua đời, hoàng tử người Ả Rập đặt Ngài đứng đầu hội đồng cố vấn và làm thừa tướng vùng Damas. Thế là định mệnh đổi thay của một tu sĩ được cứu mạng, đã khiến cho những hiểu biết của Hy lạp và Roma được đưa vào triều đình của các vị Califes.

 

Đế quốc Đông phương lúc ấy do Lêo, người Isauria cai quản. Ông là một con người bách hại các Kitô hữu. Gioan có thế giá nơi vị Calife không sợ hãi gì mà lại còn viết thư thúc đẩy các Kitô hữu can đảm trong đức tin. Hoàng đế biết điều đó, liền giận dữ. Không làm gì được, ông đã dùng đến một mưu mô khả ố. Ông cho người giả mạo chữ của Gioan để viết một bức thư bội phản, trong đó, người được vị Calife bảo vệ, tính trao nộp Damas cho vua Byzance. Rồi Leo, người Isauria, báo cho vị Calife biết có một kẻ thừa hành bội phản. Và câu chuyện thật kỳ diệu đến nỗi các văn phẩm thời đó còn kể lại. Vị Calife đòi Gioan đến. Dầu biện minh cho sự vô tội của mình, Gioan vẫn bị chặt tay phải.

 

Gioan mang cánh tay bị chặt về nhà và khấn nài Đức Trinh Nữ hoàn lại cánh tay mà từ nay Ngài sẽ chỉ dùng để viết các thánh thi ca tụng Con Mẹ. Gioan đi ngủ và mơ thấy Đức Trinh Nữ chữa lành cho mình. Thức dậy, cánh tay đã được nối liền và chỉ còn để lại một đường máu đỏ. Trước phép lạ này, vị Calife không còn nghi ngờ gì về sự vô tội của Gioan nữa và đã tái lập Ngài làm nhà cầm quyền. Nhưng đối với Gioan Damasceno, thời danh giá đã qua rồi. Ngài muốn hiến thân cho Thiên Chúa.

 

Ngài bỏ mọi sự, phân phát của cải cho người nghèo lên đường tìm một cuộc đời trầm lặng trong tu viện thánh Sabas tại sa mạc Giuđa, nơi thày mình đang sống và người em nuôi cũng đã tới đó trước. và ngài đã sống ở đó cho đến mãn đời.

 

Nhưng không ai dám huấn luyện quan thừa tướng bãi nhiệm theo đường thánh thiện cả. Cuối cùng bề trên trao Ngài cho một tu sĩ già khó tính, thù ghét với tất cả những gì là êm ái đối với Gioan như thơ phú và âm nhạc. 

 

Nếu không tự ý vâng phục như một bằng chứng của tình yêu, thì cuộc sống Ngài sẽ cay đắng đến thế nào. Ngài đã bị tước bỏ mọi niềm vui cao đẹp, cả đến việc giữ lời hứa là viết các thánh thi. Ông thày còn sai người đã cai trị Damas đi bán giỏ sọt với giá cắt cổ, khiến các lời chế nhạo đổ xuống như mưa. Gioan vẫn âm thầm vâng phục và chịu đựng, sau khi đã thử thách quá lâu người tập sinh như thế, vị tu sĩ già để cho Người được tự do học hỏi và tìm hứng.

 

Sau khi thấy thánh nhân thực lòng yêu mến Chúa và tuân phục hoàn toàn, Bề trên cho ngài học thần học Thánh Kinh, và phong chức Linh mục cho ngài. Lúc ấy, tự đáy lòng Gioan đã khơi dậy những khúc thánh thi đáng khâm phục, cùng với sự cộng tác của người em nuôi, cho tới khi ông ta được đặt làm giám mục Palestina. Từ đó, ngài dùng hết thời giờ, và sự hiểu biết để viết sách và sáng tác thánh thi, ca ngợi Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a, như lời ngài đã hứa. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ngài là cuốn “Nguồn gốc sự hiểu biết”.

Ngài đã chuyên tâm nghiên cứu thần học và giảng thuyết. Những suy tư của ngài đã tạo được một ảnh hưởng lớn tại Tây Phương cũng như Ðông Phương. Nhưng tác phẩm danh tiếng nhất của ngài là ba tập Minh Giáo (726-730) bênh vực việc tôn kính ảnh tượng, chống lại những ngăn cấm của hoàng đế Léon Isaurien và Constantin V. Đúng thế, một việc thánh nhân làm đặc biệt lúc đó là bênh vực việc sùng kính ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ và các thánh. Ngài tranh luận hùng hồn với những kẻ chủ trương đập phá các ảnh tượng. Và mặc dầu bị nhiều người đe dọa, trong số đó có cả hoàng đế Hy-lạp, ngài cũng không sợ và vẫn giữ vững lập trường.

 

Ngoài ra, chúng ta còn lưu giữ được những bài giảng của ngài về Ðức Mẹ và ngài xứng đáng với danh hiệu "Tiến sĩ thần học về Ðức Maria". Ngài chủ trương: Là Mẹ Thiên Chúa hằng sống, Ðức Maria cũng phải được đưa về trời... Hơn nữa, ngài còn là một thi sĩ, và những sáng tác của ngài thường được dùng trong phụng vụ Ðông Phương. Tư tưởng của ngài là những chất liệu giúp chúng ta suy nghĩ về mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa yêu thương loài người.

 

Gioan Damasceno chỉ rời tu viện để đi giảng tại các thánh đường. Lúc về già, Ngài sửa chữa các bản văn, đôi khi tự trách là bút pháp quá khởi sắc, Ngài nghiên cứu học hỏi không ngừng và đã trình bày thần học một cách liên tục đáng kể.

 

Một bí nhiệm bao quanh những năm cuối đời thánh nhân. Có người tin rằng: Ngài đã qua đời trong thinh lặng tại tu viện, người khác lại nghĩ rằng, Ngài đã rảo qua các tỉnh Đông phương để nâng đỡ các tín hữu đang bị nhóm phá ảnh tượng bách hại, rồi chết vì đạo.

 

Thánh nhân qua đời năm 880, hưởng thọ 104 tuổi. Là triết gia, thần học gia, nhà hùng biện, thi sĩ. Và năm 1890, Đức Giáo Hoàng Lê-ô thứ 13 đã tôn phong ngài lên hàng Tiến sĩ Hội thánh..

 

Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp

 

 

 

 

Thứ Hai


Lời Chúa


Bài Đọc I: Is 35, 1-10

"Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu thoát các ngươi".

Bài trích sách Tiên tri Isaia.

Sa mạc và hoang địa hãy vui mừng, đồng cỏ hoang hãy hoan hỉ và nở hoa; hãy nở hoa như cây thuỷ tiên, hãy tràn đầy hân hoan và niềm vui! Hoang địa sẽ được vinh quang của núi Liban, và vẻ tráng lệ của Carmel và Saron. Chính họ sẽ được thấy vinh quang của Chúa, và vẻ tráng lệ của Thiên Chúa chúng ta.

Hãy nâng đỡ những bàn tay mỏi mệt, và hãy làm vững mạnh những đầu gối rã rời. Hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi.

Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối sẽ chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước. Hang dã thú nơi chó rừng ẩn náu sẽ trở thành vườn lau vườn sậy.

Nơi ấy sẽ có những con đường người ta sẽ gọi là thánh lộ, không tội nhân nào được qua đường đó; đường này sẽ thuộc về các ngươi, và những kẻ ngây thơ sẽ không lạc lối. Đường ấy sẽ không có vết chân sư tử, và không ác thú nào đi trên đường này, chỉ những kẻ được giải phóng đi trên đó thôi. Những kẻ được Chúa cứu thoát sẽ trở về, và vào thành Sion với lời ca vang, cùng với triều thiên hân hoan trên đầu họ. Họ sẽ được niềm vui và hoan hỉ; họ không còn đau khổ và than van.

Đó là lời Chúa.

 

Đáp Ca: Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14

Đáp: Này đây Chúa chúng ta sẽ đến và cứu độ chúng ta (Is 35, 4d).

Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi. - Đáp.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Đáp.

3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Đức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người. - Đáp.

 

Alleluia: Lc 3, 4. 6

Alleluia, alleluia! - Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 5, 17-26

"Hôm nay chúng tôi đã thấy những việc lạ lùng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ngày ấy, Chúa Giêsu đang ngồi giảng, có cả những người biệt phái và tiến sĩ luật từ các làng mạc xứ Galilêa, xứ Giuđêa và Giêrusalem đến nghe Người, và Người dùng quyền lực của Thiên Chúa chữa nhiều người. Người ta khiêng một người bất toại đến, họ tìm cách vào nhà để đặt người bất toại trước mặt Người. Nhưng không tìm được lối vào, vì dân chúng quá đông, họ liền trèo lên sân thượng và thả người bất toại xuống giữa cử toạ trước mặt Chúa Giêsu. Thấy lòng tin của họ, Người nói: "Hỡi người kia, tội ngươi đã được tha!"

Các luật sĩ và biệt phái bắt đầu lý luận rằng: "Người này là ai mà dám nói phạm thượng? Trừ một mình Chúa, ai có quyền tha tội?" Chúa Giêsu biết rõ điều họ suy tính, liền nói với họ: "Sao các ngươi lại nghĩ trong lòng như vậy? Nói rằng: "Các tội của ngươi đã được tha", hay nói: "Ngươi hãy đứng dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Song (như thế là) để các ngươi biết Con Người có quyền tha tội ở dưới đất". Người nói với người bất toại rằng: "Ta bảo ngươi, hãy chỗi dậy vác giường về nhà".

Tức thì anh ta chỗi dậy vác giường đi về nhà và ca tụng Thiên Chúa. Ai nấy đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa; họ kinh sợ và nói: "Hôm nay chúng ta đã thấy những việc lạ lùng".

Đó là lời Chúa.

 


Suy niệm

 

nhập thể chính lộ  



H
ôm nay, ng
ày Thứ Hai trong Tuần Thứ Hai của Mùa Vọng, bài Phúc Âm của Thánh ký Luca thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người bất toại để chứng tỏ là Người có quyền tha tội cho con người.


"Người ta khiêng một người bất toại đến, họ tìm cách vào nhà để đặt người bất toại trước mặt Người. Nhưng không tìm được lối vào, vì dân chúng quá đông, họ liền trèo lên sân thượng và thả người bất toại xuống giữa cử toạ trước mặt Chúa Giêsu. Thấy lòng tin của họ, Người nói: 'Hỡi người kia, tội ngươi đã được tha!'"


Cho dù tự mình Chúa Kitô có quyền tha tội, thế nhưng, trước mắt thế gian, Người chỉ là một con người thuần túy, cho dù có quyền năng làm phép lạ, Người vẫn không phải là Thiên Chúa nên không thể nào có quyền tha tội được, như lập luận tự nhiên của các luật sĩ và biệt phái trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Người này là ai mà dám nói phạm thượng? Trừ một mình Chúa, ai có quyền tha tội?".


Vậy, để chứng tỏ mình thật sự có quyền tha tội lỗi cho con người, vì tội lỗi là nguồn gốc gây ra mọi hậu quả tai hại cho con người phải chịu, như bệnh nạn tật nguyền và chết chóc, Chúa Giêsu đã chữa lành hậu quả của tội lỗi, tức là phá hủy quyền lực của sự dữ, quyền lực của tội lỗi, một sự dữ về luân lý là những gì con người cần phải được giải thoát trước hết và trên hết. Đó là lý do để chứng tỏ mình có quyền tha tội Chúa Giêsu đã chữa lành hậu quả của tội, như trong cùng bài Phúc Âm hôm nay thuật lại:


"Sao các ngươi lại nghĩ trong lòng như vậy? Nói rằng: 'Các tội của ngươi đã được tha', hay nói: 'Ngươi hãy đứng dậy mà đi', đàng nào dễ hơn? Song để các ngươi biết Con Người có quyền tha tội ở dưới đất. Người nói với người bất toại rằng: 'Ta bảo ngươi, hãy chỗi dậy vác giường về nhà'. Tức thì anh ta chỗi dậy vác giường đi về nhà và ca tụng Thiên Chúa. Ai nấy đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa; họ kinh sợ và nói: 'Hôm nay chúng ta đã thấy những việc lạ lùng'".


Ý nghĩa của Bài Phúc Âm hôm nay về việc Chúa Giêsu tỏ mình ra là Đấng có quyền tha thứ tội lỗi cho con người qua việc Người làm phép lạ chữa lành một người bại liệt đối với Mùa Vọng là Mùa đợi trông Ơn Cứu Độ, cũng là trông đợi chính Đấng Thiên Sai Cứu Thế, là ở chỗ: nguyên tội, cũng là tội lỗi, đã làm cho con người trở thành bại liệt, trở nên bất lực không còn làm được việc lành nữa, không còn tự do của những người con cái Thiên Chúa nữa. Bởi thế, họ không thể "tự độ" nếu chính Thiên Chúa không ra tay "cứu độ" họ.


Con người sau nguyên tội và bởi nguyên tội đã thực sự trở thành bất toại, như cảm nghiệm được chính Thánh Tông Đồ Phaolô diễn tả liên quan đến cuộc chiến nội tâm bất khả vượt thoát và chế ngự của ngài trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma (7:14-24) như sau: 


"Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Bởi đó tôi khám phá ra luật này : khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa; nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi. Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!"


Thiên Chúa quả thực đã ra tay cứu độ loài người tội lỗi bất toại khi Ngài tỏ mình ra nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đến không phải chỉ để cứu độ con người khỏi khổ đau và chết chóc về phần xác mà chính là để cứu độ phần hồn của con người cho khỏi tội lỗi và cái chết đời đời, nhờ đó cả thân xác của họ cũng nhờ linh hồn bất tử và công chính hóa mà được cứu độ và phục sinh trong vinh quang.


Thiên Chúa đã báo trước công cuộc cứu độ của Ngài qua Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi". Nhờ đó, Ngài canh tân đổi mới tất cả những gì là hoang tàn đổ nát và yếu hèn bất lực của con người tội lỗi, như chính Ngài phán qua những hình ảnh ẩn dụ trong Bài Đọc 1 hôm nay: 


"Sa mạc và hoang địa hãy vui mừng, đồng cỏ hoang hãy hoan hỉ và nở hoa; hãy nở hoa như cây thuỷ tiên, hãy tràn đầy hân hoan và niềm vui! Hoang địa sẽ được vinh quang của núi Liban, và vẻ tráng lệ của Carmel và Saron. Chính họ sẽ được thấy vinh quang của Chúa, và vẻ tráng lệ của Thiên Chúa chúng ta".


Thật vậy, qua những hình ảnh tiêu biểu và ẩn dụ ấy, Thiên Chúa muốn nói rằng Ngài sẽ cứu độ thân phận bi quan thê thảm của con người cho khỏi mọi bất hạnh, đúng hơn Ngài sẽ biến mọi bất toàn nơi con người và sự dữ của con người thành trọn lành và sự lành, như lời Ngài phán trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay:


"Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối sẽ chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước. Hang dã thú nơi chó rừng ẩn náu sẽ trở thành vườn lau vườn sậy".


Nhờ Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa, con người tội lỗi được Ngài đưa vào "chính lộ", nghĩa là đưa đến với Chúa Kitô "là đường" (Gioan 14:6), một con đường hẹp nhưng lại là con đường của sự thật đưa tới sự sống, con đường mà "không một tội nhân nào" vốn xu hướng và ham thích những gì là thênh thang thoải mái dễ chịu có thể theo đuổi ngoại trừ "những kẻ ngây thơ" là thành phần tin tưởng theo Chúa Kitô, như những gì cũng được lời Chúa phán trong Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy: 


"Nơi ấy sẽ có những con đường người ta sẽ gọi là thánh lộ, không tội nhân nào được qua đường đó; đường này sẽ thuộc về các ngươi, và những kẻ ngây thơ sẽ không lạc lối. Đường ấy sẽ không có vết chân sư tử, và không ác thú nào đi trên đường này, chỉ những kẻ được giải phóng đi trên đó thôi. Những kẻ được Chúa cứu thoát sẽ trở về, và vào thành Sion với lời ca vang, cùng với triều thiên hân hoan trên đầu họ. Họ sẽ được niềm vui và hoan hỉ; họ không còn đau khổ và than van".


Bài Đáp Ca hôm nay bày tỏ tâm tình của "những ai tôn sợ Chúa" đang trông đợi "Ơn Cứu Độ của Chúa gần đến", nhờ đó cuộc hội ngộ thần linh mới có thể trở thành hiện thực giữa Thiên Chúa ("lòng nhân hậu") và loài người ("sự trung thành"), giữa đất ("đức trung thành") và trời ("đức công minh"):

 

1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi. 


2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. 


3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Đức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người. 

 

 

 

 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 40, 1-11

"Thiên Chúa an ủi dân Người".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Chúa ngươi phán: Hỡi dân Ta, hãy an tâm, hãy an tâm! Hãy nói với Giêrusalem, và kêu gọi rằng: Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá, Chúa đã ban ơn nhiều gấp hai lần tội lỗi.

Và có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và vinh quang Chúa sẽ xuất hiện, mọi người sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa, vì Ngài đã phán. Có tiếng bảo: "Hãy hô lên!", và tôi nói: "Tôi sẽ hô lên điều gì?" Mọi xác phàm như cỏ dại; mọi vinh quang của nó đều như hoa ngoài đồng. Cỏ dại đã khô, hoa đã tàn, vì hơi Chúa đã thổi trên chúng. Vì chưng, dân là cỏ dại: Cỏ dại đã khô, hoa đã tàn, mà lời Chúa chúng ta tồn tại đến muôn đời.

Hỡi ngươi là kẻ đem tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho Giêrusalem, hãy mạnh dạn cất tiếng. Hãy cất tiếng cao, đừng sợ! Hãy nói cho các dân thành thuộc chi họ Giuđa rằng: Ðây Thiên Chúa các ngươi, đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực, và cánh tay Người sẽ thống trị. Người mang theo những phần thưởng chiến thắng, và đưa đi trước những chiến lợi phẩm. Người chăn dắt đoàn chiên Người như một mục tử. Người ẵm những chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 95, 1-2. 3 và 10ac. 11-12. 13

Ðáp: Thiên Chúa chúng ta sẽ đến trong uy quyền (Is 40, 9-10).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.

2) Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. Hãy công bố giữa chư dân rằng: Thiên Chúa ngự trị, Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. - Ðáp.

3) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên; đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. - Ðáp.

4) Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở, trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành. - Ðáp.

 

Alleluia: Lc 3, 4. 6

Alleluia, alleluia! - Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 18, 12-14

"Chúa không muốn những kẻ bé nhỏ phải hư đi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, thì quả thật, Thầy bảo các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con ở trên trời không muốn để một trong những kẻ bé nhỏ này phải hư đi".

Ðó là lời Chúa.


 


Suy niệm


  nhập thể tìm kiếm 



B
ài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần Thứ Hai Mùa Vọng hôm nay là Bài Phúc Âm được Thánh ký Luca thuật lại về dụ ngôn con chiên lạc Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người:


"Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, thì quả thật, Thầy bảo các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con ở trên trời không muốn để một trong những kẻ bé nhỏ này phải hư đi".


Bài Phúc Âm con chiên lạc này cũng có ý nghĩa tương tự như Bài Phúc Âm hôm qua và cũng rất hợp với Mùa Vọng. Tại sao? Tại vì, "con chiên lạc" đây là hình ảnh của một loài người đã vấp phạm ngay từ ban đầu. "Lạc" ở chỗ không vâng nghe lời Chúa mà theo ý riêng của mình. "Lạc" ở chỗ cứ tưởng tự mình có thể nên giống như Thiên Chúa bằng việc làm trái với ý muốn của Ngài, và nhờ theo ý mình mới là Chúa tể ngang hàng với Ngài. "Lạc" ở chỗ tin theo ma quỉ gian dối lừa đảo hơn là tin vào Thiên Chúa chân thật. "Lạc" ở chỗ đi tìm sự sống và hạnh phúc trong sự chết và bất hạnh. "Lạc" ở chỗ sau khi sa ngã chẳng những không nhận lỗi mình và xin lỗi Chúa lại còn đổ lỗi cho nhau v.v.


Chính vì thương cảm con người tạo vật của mình thật sự là "lạc", ở chỗ "lầm không biết việc mình làm" (Luca 23:34), mà Thiên Chúa chẳng những không chấp thái độ vô cùng phạm thượng của họ, khi họ tỏ ra không tin tưởng vào Ngài cho bằng tin tưởng vào ma quỉ lừa dối họ, không chấp hành động bất tuân Thánh Ý vô cùng thiện hảo của Ngài, và không chấp hành vi cử chỉ mù quáng không biết nhận lỗi và xin lỗi của họ, mà trái lại còn chộp ngay lấy cơ hội ngàn năm một thuở hiếm có là tội lỗi của họ để tự động hứa cứu độ họ, bằng cách tìm kiếm họ nơi "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), và mang họ về nhà Cha nơi Chúa Kitô vượt qua. 


Thật vậy, trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, đoạn 7, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói đến việc Thiên Chúa tìm kiếm con chiên lạc nơi Lời Nhập Thể và vượt Qua như sau:


"Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa chẳng những nói với loài người mà còn tìm kiếm họ nữa. Việc Con Thiên Chúa nhập thể chứng tỏ là Thiên Chúa đi tìm kiếm con người. Chúa Giêsu nói về việc tìm kiếm này như tìm kiếm một con chiên lạc đàn (x.Lk.15:1-7). Đó là một cuộc tìm kiếm mà khởi điểm bắt đầu từ cõi lòng của Thiên Chúa và đích điểm ở nơi việc nhập thể của Ngôi Lời. Nếu Thiên Chúa đi tìm con người, loài được dựng nên theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài, là vì đời đời Ngài yêu thương họ nơi Ngôi Lời, và trong Đức Kitô Ngài muốn nâng họ lên danh phận làm một người con được thừa nhận. Thế nên, Thiên Chúa đi tìm kiếm con người là sở hữu đặc biệt của Ngài bằng một đường lối không giống như các tạo vật khác. Con người là sở hữu của Thiên Chúa bởi việc yêu thương chọn lựa: Thiên Chúa tìm kiếm con người theo tấm lòng hiền phụ rung cảm của mình.

            

"Tại sao Thiên Chúa lại tìm kiếm con người? Là vì con người đã bỏ Ngài mà đi, ẩn mình đi như Adong đã làm trong Vườn Địa Đàng (x.Gn.3:8-10). Con người đã để cho mình bị kẻ thù của Thiên Chúa (x.Gn.3:13) làm lạc hướng. Satan đã đánh lừa con người, làm cho con người tin rằng họ cũng là một thần linh, như Thiên Chúa, họ có khả năng biết lành biết dữ, cai trị thế giới theo ý mình mà không cần phải căn cứ vào ý muốn thần linh (x.Gn.3:5). Đi tìm kiếm con người qua Con của mình như thế là Thiên Chúa muốn chinh phục con người, để họ rời bỏ những đường nẻo gian ác đã dẫn họ càng ngày càng đi sai lạc. 'Làm cho họ rời bỏ' những đường nẻo này nghĩa là làm cho họ hiểu được rằng họ đang đi sai đường lạc hướng; nghĩa là chế ngự sự dữ ở bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử loài người. Chế ngự sự dữ: đó là ý nghĩa của việc cứu chuộc".


Hình ảnh Thiên Chúa đi tìm kiếm con chiên lạc loài người trong Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy Ngài thực sự là một vị mục tử vô cùng nhân lành, luôn ở với chiên của mình và biết từng con chiên của Ngài; Ngài hết lòng yêu thương và tận tình chăm sóc cho từng con chiên một, như Ngôn Sứ Isaia cảm nhận trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Người chăn dắt đoàn chiên Người như một mục tử. Người ẵm những chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ".


Bởi thế, Thiên Chúa, Đấng "sẽ đến trong quyền lực, và cánh tay Người sẽ thống trị. Người mang theo những phần thưởng chiến thắng, và đưa đi trước những chiến lợi phẩm", như Tiên Tri Isaia tiên báo trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã trấn an dân của Ngài, một dân tộc được Ngài yêu thương nhưng lạc loài, ở chỗ hằng liên lỉ bất trung với Ngài như một người vợ ngoại tình với đủ mọi tà thần và ngẫu tượng, rằng: "Hỡi dân Ta, hãy an tâm, hãy an tâm! Hãy nói với Giêrusalem, và kêu gọi rằng: Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá, Chúa đã ban ơn nhiều gấp hai lần tội lỗi".


Chính vì thế, vì Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa, vì được Thiên Chúa vô cùng nhân hậu cứu độ, mà dân của Ngài, trong Bài Đọc 1 hôm nay, được kêu gọi "hãy trèo lên núi cao... hãy mạnh dạn cất tiếng. Hãy cất tiếng cao, đừng sợ!", theo tâm tình hân hoan chúc tụng tôn vinh Thiên Chúa của Bài Đáp Ca hôm nay: 

1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người. 

2) Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. Hãy công bố giữa chư dân rằng: Thiên Chúa ngự trị, Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. 

3) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên; đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. 

4) Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở, trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành. 


6/12

 

Thánh Nicola Giám mục

 

Ngày 06/12: Thánh Nicôla, giám mục

 

I. THÁNH NICÔLA LÀ AI?

Thánh Saint Nicôla là một tu sĩ đạo Thiên Chúa. Ngài sống vào thế kỷ thứ 3 sau công nguyên tại thành Myra, Thổ Nhĩ Kỳ.

Thánh Nicôla sinh ra trong một gia đình giàu có và sùng đạo Thiên Chúa. Cha mẹ của ông đã dạy ngài về lòng mến Chúa, sự quảng đại, bác ái… Chẳng may, cha mẹ của ngài bị chết vì bệnh dịch trong lúc ngài còn nhỏ. Theo lời dạy của Chúa Giê-su, Nicola đã dùng số tiền cha mẹ để lại giúp đỡ người nghèo và bệnh tật.

Ngoài ra, vì là một người sùng đạo nên Thánh Nicôla đã hiến thân phục vụ Giáo hội. Ông nhanh chóng được yêu mến vì lòng hảo tâm và được bầu làm Giám mục khi còn rất trẻ.

Suốt cuộc đời của mình, thánh Nicola đã cứu chữa nhiều người nghèo bệnh tật. Đặc biệt, mỗi dịp Giáng sinh, ông dành nhiều món quà, đồ ăn, đồ chơi… cho các trẻ em.

Dưới sự cai trị của hoàng đế Diocletianô, những người theo đạo Thiên Chúa người bị bắt bớ và đối xử tàn nhẫn. Thánh Nicôla cũng bị bắt, bị tra tấn và bỏ tù. Một thời gian sau, hoàng đế Constantinô lên ngôi. Ông cho khôi phục đạo Thiên Chúa và tha bổng tất cả những người từng bị bắt. Lúc ấy, thánh Nicôla được ra tù và trở lại làm giám mục.

Một số nguồn tin cho rằng thánh thánh Nicôla mất vào ngày 6 tháng 12 năm 343 tại Myra. Thi thể Ngài được chôn trong nhà thờ. Ngày mất của Ngài đã trở thành một ngày lễ kỷ niệm quan trọng trong đạo Thiên Chúa.

II. BÀI HỌC:

Bài học thánh Nicôla để lại cho mọi người chúng ta là bài học về sống cuộc sống đạo đức thánh thiện và tràn đầy lòng yêu thương.

Từ ngày nhận lãnh trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên Chúa, đức giám mục Nicôla đã sống một cuộc sống khắc khổ hơn nữa. Mỗi ngày Ngài chỉ ăn một bữa và kiêng thịt hoàn toàn, bữa nào Ngài cũng chăm chú nghe đọc một vài trang sách Kinh Thánh rồi mới dùng bữa. Ban đêm Ngài thức rất khuya để cầu nguyện, sau đó ngả lưng trên một mảnh gỗ cứng nháp. Ngài dậy rất sớm và đánh thức các thầy trợ sĩ để hát thánh vịnh chúc tụng Chúa. Khi mặt trời mọc thì ngài đến nhà thờ dâng lễ, quãng thời gian còn lại Ngài dành để lo việc điều khiển địa phận và phục vụ giáo dân .

Ngài sống rất nghèo khó, nhưng lại đặc biệt lại để tâm săn sóc những người cùng cực khó nghèo. Người ta lại kể rằng: dụng cụ Ngài dùng đều là đồ đi mượn, bởi vì có gì quý báu Ngài đều bán đi để giúp người nghèo. Ngài tìm mọi cách giúp họ, Nhiều người xúc động trước lòng nhân lành, và tình yêu vô cùng của Chúa mà ăn năn trở lại cùng Người.

Vì công nghiệp đầy tràn của Ngài, Chúa đã cho Ngài làm nhiều phép lạ để cứu giúp những người hoạn nạn.

Có lần Ly-xia mất mùa, dân chúng đói khổ, lòng thương xót đã khiến giám mục Nicôla lo tìm mọi phương thế cứu trợ nạn đói. Ngày kia nghe tin có một đoàn tàu chở đầy thóc gạo từ Alexandria đang đi qua cửa biển gần đấy, Ngài vội vã đến xin mỗi tàu nhường cho dân thành Ly-xia 100 tạ gạo và bảo đảm với họ rằng: Thiên Chúa sẽ bù cho chỗ hụt đấy và khi về tới nhà mỗi tàu sẽ đầy lại như cũ. Gương mặt thánh thiện và lời nói đầy mãnh lực của Ngài đã làm cho họ phải mến phục và bằng lòng nhường cho số gạo Ngài xin. Khi về tới nhà họ đem cân lại thì quả nhiên số gạo của mỗi tàu vẫn y nguyên như cũ không hao hụt chút nào.

Không phải chỉ giới hạn trong địa phận của Ngài, trái lại lòng bác ái ấy còn phổ quát và bao gồm hết mọi người, bất kỳ ai lâm hoạn nạn kêu cầu đến Ngài đều được Chúa thương giúp vì lời Ngài cầu khẩn. Thế nên, khi còn sống nhiều người đã coi Ngài như một vị thánh bảo trợ, đặc biệt là những người làm nghề hàng hải. Lần kia một số các thủy thủ đang lênh đênh trên một chiếc tàu giữa biển khơi bỗng một cơn giông nổi lên, chiếc tàu lảo đảo sắp chìm. Các thủy thủ sợ hãi, nhưng may thay trong cơn túng cực họ đã nhớ đến đức giám mục Nicôla và cùng nhau quỳ xuống sốt sắng xin Chúa vì công nghiệp đức giám mục Nicôla cứu họ thoát khỏi cơn nguy hiểm. Lập tức Ngài xuất hiện trên tàu và nói với họ: “Ta đây, ta là đầy tớ Chúa sai đến để cứu các con, hãy trông cậy vào Chúa”.

Ngài đến sau tàu cầm lái và con tàu lại bắt đầu tiến bước vững chãi. Vài phút sau biển cũng phẳng lặng.

Không những là đấng phù trợ các người vượt biển, thánh Nicôla còn là đấng quan thầy của các vị thẩm phán, luật sư và của cả những kẻ bị cáo gian. Sách “Niên lịch tử đạo Rôma” đã kể lại một phép lạ Ngài cứu ba người vô tội sắp phải tử hình dưới đời hoàng đế Constantinô. Câu chuyện đó như sau: Đêm cuối cùng trước khi đem đi xử cả ba buồn sầu vì sắp phải đón nhận một cái chết oan uổng. Trong lúc tuyệt vọng không còn trông cậy gì ở phương thế trần gian, cả ba lặng lẽ quỳ xuống cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa là Chúa của đức giám mục thánh thiện Nicôla, xưa Chúa đã cứu ba trẻ nhỏ Do thái khỏi chết oan trong lò lửa, Chúa thấu biết chúng con đây cũng hoàn toàn vô tội như ba trẻ xưa giờ đây chúng con không còn biết trông cậy vào ai ngoài Chúa. Vậy xin Chúa hãy bênh đỡ chúng con.

Trong khi đó hoàng đế Constantino đang ngủ say. Bỗng một ông già dáng điệu oai phong hiện ra với vua trong giấc mộng và nói:

- Hãy dậy và lập tức ra lệnh tha bổng ngay cho ba người Ngài vừa kết án và sắp bị đem đi xử tử cách bất công.

- Ngài là ai mà lại nói những lời lẽ ấy ?

- Ta là Nicôla giám mục thành My-ra.

Constantino liền gọi viên quan tòa Abiavios. Trong khi tên hầu cận còn đang đi đến với Abiavios thì chính ông này cũng thấy ông già ấy hiện ra truyền lệnh như vậy.

Constantino cho gọi ba người tù lên:

- Các người đang phù phép gì làm mất cả giấc ngủ của ta ? Nghe nói, cả ba cùng bỡ ngỡ không hiểu gì hết, nhưng khi vừa tả lại giấc mộng thì Nepotien một trong ba người quỳ sụp xướng dâng lời tạ ơn Chúa với giọng run run cảm động:

“Lạy Chúa toàn năng, Chúa đã đoái thương nghe tiếng chúng con cầu khẩn, sai đức giám mục Nicôla đến làm chứng cho sự oan uổng của chúng con”- Và Nêpôxianô tả lại cho vua nghe cảnh ba người vừa thiết tha cầu nguyện trong gian nhà tù. Hoàng đế Constantinô cảm động và cho phép ba người tù trình bày nỗi oan uổng. Cử chỉ và lời nói chân thành của cả ba khiến nhà vua xúc động, đồng thời nhận rõ được sự thật về họ: cả ba đều được nhà vua tha bổng.

2. Vì đã sống trọn vẹn lý tưởng yêu thương nên thánh Nicôla đã được mọi người yêu mến.

Các giáo hữu xưa có lòng sùng kính ông thánh Nicôla cách lạ lùng: ở Roma có tới 85 thánh đường, nguyện đường, dòng tu, bệnh viện mang tên Ngài. Ở Đan mạch hơn 100 nơi thánh dâng kính Ngài. Đặc biệt hơn cả là miền Hy lạp, tính tới năm 1910 có tất cả 359 thánh đường đặt dưới quyền bảo trợ của thánh nhân.

Tuy nhiên lòng tôn kính đó ở mỗi nước mỗi khác và đượm những sắc thái riêng của dân tộc: ở Hy lạp và ở Đức, Ngài là bổn mạng của các nhà hàng hải, những người đi biển thường cầu chúc nhau “xin thánh Nicolao chèo lái, đưa các bạn tới bến yên hàn”. Ở Pháp đời các vua dòng Capetiens, Ngài là quan thầy vua, cùng các vị thẩm phán. Các nghị viện trước mỗi khóa họp đầu niên đều tới dự thánh lễ cử hành tại bàn thờ dâng kính thánh nhân. Ở Bỉ, Hòa Lan, Thụy Sĩ, Anh, Hoa Kỳ... Ngài được coi là đấng bảo trợ cho khách du lịch và cho các em.

Những cách sùng kính đượm dân tộc tính ấy dựa vào biến cố đã xảy ra thực, hay những câu chuyện thêu dệt chung quanh cuộc đời thánh nhân, tất cả kết lại thành một trang tiểu sử đầy màu sắc đẹp đẽ.

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-06-12-thanh-nicolagiam-muc-58981


Thứ Tư


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 40, 25-31

"Thiên Chúa toàn năng ban sức mạnh cho người mệt mỏi".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðấng Chí Thánh phán rằng: Các ngươi sánh Ta với ai? Và kể Ta bằng ai? Hãy ngước mắt lên cao mà xem, ai đã dựng nên muôn loài này? Ðấng vận chuyển các cơ binh của chúng và biết gọi đích danh tất cả, không thiếu vật nào, vì sức mạnh của người rất lớn và quyền năng của Người rất cao.

Hỡi Giacob, tại sao ngươi nói, hỡi Israel, tại sao ngươi nói: Chúa không biết đến số phận tôi, Người không biết đến quyền lợi của tôi? Ngươi không biết? Ngươi không nghe sao?

Chúa là Thiên Chúa hằng hữu, là Ðấng đã dựng nên toàn thể trái đất, Người không mỏi không mệt và sự khôn ngoan của Người không thể suy thấu.

Người ban sức mạnh cho kẻ rã rời và thêm sức cho người mệt mỏi.

Những trai trẻ cũng mòn mỏi mệt nhọc, những tráng sĩ cũng lao đao vấp ngã.

Những ai trông cậy Chúa, sẽ được thêm sức mới, cất cánh bay cao như phượng hoàng, họ chạy mà không mệt, họ đi mà không mỏi.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 103: 1-2, 3-4, 8,10

Ðáp: Hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa.

Xướng 1) Hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể thân tôi, hãy chúc tụng danh Người. Hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và đừng bao giờ quên các ân huệ của Người. - Ðáp.

2) Người đã thứ tha mọi tội lỗi ngươi, và đã chữa ngươi khỏi tật nguyền. Người đã cứu ngươi khỏi chết và ban cho ngươi hồng ân, nhân ái. - Ðáp.

3) Chúa là Ðấng thương xót nhân ái, chậm oán hờn và yêu thương khôn lường. Người không xử với ta như ta đáng tội, và không trả cho ta theo lỗi của ta. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia - Chúa chúng ta sẽ đến trong quyền lực, và sẽ làm cho mắt các tôi tớ Người được sáng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 11:28-30

"Hãy đến với Ta, hỡi những ai vất vả cực nhọc".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi.

Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an.

Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.

Ðó là Lời Chúa.

 


Suy niệm

 

  nhập thể bồi dưỡng   


Trong suốt tuần thứ nhất Mùa Vọng, nội dung của các bài Phúc Âm đều liên quan đến mạc khải thần linh của Thiên Chúa cho việc cứu độ con người thế nào (Ơn cứu độ cho cả dân ngoại - Thứ Hai; là mạc khải thần linh - Thứ Ba; là Bánh sự sống - Thứ Tư; là ánh sáng chiếu soi - Thứ Năm; là đá tảng  -  Thứ Sáu; là tình thương - Thứ Bảy) thì trong tuần thứ hai Mùa Vọng, các bài Phúc Âm đang xoay quanh thân phận khốn khổ đáng thương của con người cần được Thiên Chúa cứu độ và trông mong Ơn Cứu Độ.


Thật thế, thân phận khốn khổ của con người tội lỗi cần được Thiên Chúa cứu độ được biểu hiệu ở bài Phúc Âm hôm thứ hai nơi người bất toại được Chúa Giêsu chữa lành, và ở bài Phúc Âm hôm qua thứ ba nơi con chiên lạc được tìm thấy, và ở bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần Thứ Hai Mùa Vọng, nơi con người khốn cực cần được bồi dưỡng:


"Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".


Ở đây, qua lời Chúa trong bài Phúc Âm này, chúng ta thấy trước hết là tình trạng khốn khổ của con người: "khó nhọc và gánh nặng" - Quả thật không ai có thể chối cãi được thực trạng con người mệt mỏi "khó nhọc" cả về phần xác lẫn ê chề "gánh nặng" về tinh thần. 


Đúng thế, theo tâm lý tự nhiên và theo kinh nghiệm sống đạo, thực tế cho thấy con người thường sốt sắng vào lúc ban đầu, như khi mới lấy nhau hay mới chịu chức linh mục, hoặc mới đảm nhận một chức vụ nào đó v.v. Bấy giờ tất cả đều nhẹ nhàng dễ chịu, thậm chí còn hứng khởi hăng say nữa. Thế nhưng, qua thời gian, nếu không có đời sống nội tâm, nhất là bị đụng chạm, họ sẽ cảm thấy "khó nhọc" nơi những gì họ yêu thích và theo đuổi một cách mê man ngay từ đầu ấy, đến độ chúng trở thành "gánh nặngđến muốn trút bỏ, bằng cách ly dị, phá giới hay từ chức. 


Phải, vào chính lúc ấy, chính lúc con người như hết bình điện nhiệt thành cần phải được "recharge" để lấy lại lòng nhiệt thành ban đầu, con người mới cần phải được Chúa "nâng đỡ bổ sức cho", bằng ân sủng của Người, bằng lời của Người, qua một cuộc tĩnh tâm hoặc linh hướng nào đó hay nhờ đọc Thánh Kinh, bằng các bí tích thánh của Người


Thế nhưng, vấn đề ở đây không phải là sau đó và chỉ nhờ đó chúng ta có thể cảm thấy ngay được "ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng" đâu. Trái lại, ở chỗ hoàn toàn ngược lại với những gì chúng ta suy nghĩ, đó là chúng ta cần phải trước hết và trên hết chấp nhận gian nan thử thách đã: "Hãy mang lấy ách của Ta", rồi sau đó chúng ta mới "hãy học cùng Ta", chứ không phải ngược lại, nghĩa là chứ không phải chúng ta cứ "học cùng Ta" bằng cách nhìn lên gương "dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng" của Người là chúng ta tự nhiên có thể vác thánh giá theo Người được ngay đâu. Thực tế cho thấy, chúng ta vẫn thường nói với nhau rằng Chúa là Chúa nên Chúa chịu được còn tôi là người nên tôi không chịu được. 


Kinh nghiệm sống đạo cho thấy, sau những cơn thử thách khổ đau khiến chúng ta cảm thấy "khó nhọc và gánh nặng" mà chúng ta nhờ ơn Chúa vẫn vui nhận và trải qua được, chúng ta sẽ cảm thấy càng ngày càng được biến đổi nên giống Chúa Kitô "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng", thậm chí mới thực sự cảm thấy được "ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng", đến độ, có những vị thánh còn say sưa với đau khổ, hứng thú với khổ đau, sống không thể không có đau khổ, (như thể ăn không thể thiếu ớt cay và càng cay càng thú vị vậy), để nhờ đó, nhờ càng khổ đau họ càng được nên giống Chúa Kitô hơn, và các linh hồn càng được cứu độ nhiều hơn. 


Thật vậy, bởi nguyên tội và sau nguyên tội, bản tính của con người đã bị băng hoại, và phải chịu hậu quả của nguyên tội ngay ở đời này. Ở chỗ, nam nhân thì "khó nhọc" (đổ mồ hôi xôi nước mắt mới có của ăn - xem Khởi Nguyên 3:17-19) và nữ nhân thì "gánh nặng" (mang nặng đẻ đau và phải phục tùng chồng mình - xem Khởi Nguyên 3:16). 


Thế nhưng, thân phận vướng mắc nguyên tội đầy "khó nhọc và gánh nặng" này của con người đã được Chính Thiên Chúa hóa thân làm người nơi "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) gánh vác, bù đắp và biến đổi nơi cuộc Vượt Qua của Người, bằng tinh thần "hiền lành và khiêm nhưọng trong lòng" của Người.  chỗ, "tuy thân phận là Thiên Chúa nhưng Người vẫn không tự cho mình cứ phải ngang hành với Thiên Chúa mới được, mà đã tự hủy ra như không... và vâng lời cho đến chết và chết trên thập tự giá' (Philiphê 2:6,8), hoàn toàn trái ngược lại với thái độ kiêu căng ngạo mạn và hành động phản loạn bất tuân của con người tạo vật nơi hai nguyên tổ của họ ngay từ ban đầu, một thái độ và hành động vì thế đã làm cho con người bắt đầu cảm thấy "khó nhọc và gánh nặng" và do đó họ cần phải trông chờ Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai Cứu Thế.


Đúng thế, một khi con người cảm thấy mình "khó nhọc và gánh nặng" họ mới một là buông xuôi hai là chạy đến với Chúa để được bồi dưỡng vươn lên. Họ có thể buông xuôi ở chỗ, như chính Thiên Chúa nhận định về dân của Ngài qua lời Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Hỡi Giacob, tại sao ngươi nói, hỡi Israel, tại sao ngươi nói: Chúa không biết đến số phận tôi, Người không biết đến quyền lợi của tôi? Ngươi không biết? Ngươi không nghe sao?


Thiên Chúa đã trấn an họ để họ có thể tin tưởng mà chạy đến với Người như sau: "Chúa là Thiên Chúa hằng hữu, là Ðấng đã dựng nên toàn thể trái đất, Người không mỏi không mệt và sự khôn ngoan của Người không thể suy thấu. Người ban sức mạnh cho kẻ rã rời và thêm sức cho người mệt mỏi. Những trai trẻ cũng mòn mỏi mệt nhọc, những tráng sĩ cũng lao đao vấp ngã. Những ai trông cậy Chúa, sẽ được thêm sức mới, cất cánh bay cao như phượng hoàng, họ chạy mà không mệt, họ đi mà không mỏi".


Đó là lý do con người cần phải hết lòng trông đợi Chúa, Đấng luôn ở với họ, biết họ hơn họ biết mình và yêu họ hơn họ yêu bản thân h, luôn tìm cách cứu độ họ bằng cách tỏ mình ra cho họ, một tiến trình mạc khải thần linh đạt đến tột đỉnh của mình nơi Lời Nhập Thể Vượt Qua, Đấng được Thiên Chúa hứa ban cho họ như Đấng Thiên Sai Cứu Thế của họ. Thế nên, con người cần phải có tâm tình chúc tụng ngợi khen và tin tượng cậy trông của Bài Đáp Ca hôm nay với Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu của họ:


1) Hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể thân tôi, hãy chúc tụng danh Người. Hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và đừng bao giờ quên các ân huệ của Người. 


2) Người đã thứ tha mọi tội lỗi ngươi, và đã chữa ngươi khỏi tật nguyền. Người đã cứu ngươi khỏi chết và ban cho ngươi hồng ân, nhân ái. 


3) Chúa là Ðấng thương xót nhân ái, chậm oán hờn và yêu thương khôn lường. Người không xử với ta như ta đáng tội, và không trả cho ta theo lỗi của ta. 

 

 

 

Ngày 07 tháng 12

Thánh Am-rô-xi-ô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

 

THÁNH AMBRÔSIÔ – Suy Niệm Hàng Ngày


Thánh Am-rô-xi-ô chào đời ở Trê-vê-rô quãng năm 340 trong một gia đình người Rô-ma. Thánh nhân theo học ở Rô-ma và bắt đầu sự nghiệp hiển hách ở Xiếc-mi-ô. Năm 374, lúc đang ở Mi-la-nô, thánh nhân bất ngờ được bầu làm giám mục và được tấn phong ngày 7 tháng 12. Người trung thành thi hành bổn phận, nổi bật về lòng bác ái đối với mọi người. Đối với các tín hữu, người vừa là mục tử, vừa là tôn sư. Người đã can đảm bênh vực các quyền của Hội Thánh, người vừa viết lách, vừa hoạt động để bênh vực giáo lý đức tin chân thật, chống lại những người theo phái A-ri-ô. Người qua đời thứ Bảy Tuần Thánh, ngày 4 tháng 4 năm 397.

 

Lời lẽ duyên dáng của bạn sẽ làm cho dân chúng say mê

Trích thư của thánh Am-rô-xi-ô, giám mục.

Bạn đã nhận thừa tác vụ giám mục, và nay từ buồng lái, bạn điều khiển con thuyền Giáo Hội giữa phong ba bão táp. Bạn hãy giữ chặt bánh lái đức tin để dông tố phong ba đời này không làm bạn quay cuồng nao núng. Biển rộng lớn, biển mênh mông, nhưng bạn chẳng có chi phải sợ, vì nền trái đất, Chúa dựng trên biển cả, đặt vững vàng trên làn nước mênh mông.

Bởi thế không lạ gì, giữa bao dông bão trần gian, Hội Thánh của Chúa vẫn vững vàng không lay chuyển vì đã được xây trên đá tảng Tông Đồ, và vẫn tồn tại trên nền tảng vững chắc trước những đợt sóng dữ dội. Sóng nước ngập tràn nhưng không làm con thuyền lay chuyển, và cho dầu biết bao phen gặp phải sức công phá mãnh liệt của các nguyên tố trần gian, Hội Thánh vẫn là bến cứu độ thật an toàn đón tiếp những người gặp hiểm nguy khốn khó. Và cho dầu có khi phải lao đao trên biển cả, chẳng mấy chốc mà con thuyền Hội Thánh lại lướt nhanh trên sóng nước : bạn hãy hiểu rằng điều này đã được nói tới trong câu : Sóng nước đã gầm lên tiếng thét gào. Vì chưng có những dòng nước chảy ra từ lòng kẻ đón nhận thức uống do Chúa Ki-tô ban và từ Thánh Thần của Thiên Chúa. Vì vậy những dòng nước này, khi đầy tràn ơn thiêng thì đã gầm lên tiếng thét gào.

Rồi cũng có dòng nước đã tràn trên các thánh của Chúa như thác lũ, khiến tâm hồn các ngài được đầy tràn hoan lạc và bình an. Ai được sung mãn từ dòng nước này, như thánh Gio-an, tác giả sách Tin Mừng, như thánh Phê-rô và thánh Phao-lô, thì cất lên tiếng nói. Và cũng như các Tông Đồ đã lớn tiếng rao giảng Tin Mừng đến tận chân trời góc biển thế nào, thì người ấy cũng bắt đầu loan báo Tin Mừng Chúa Giê-su như vậy.

Vậy bạn hãy đón nhận lời Đức Ki-tô để tiếng bạn cũng vang lên. Bạn hãy hứng lấy nước của Đức Ki-tô, thứ nước ca tụng Thiên Chúa. Bạn hãy thu tích nước đổ xuống từ nhiều nơi, từ những đám mây, tượng trưng các ngôn sứ.

Ai hứng nước từ núi non, ai dẫn nước về cho mình hoặc múc nước từ các nguồn mạch, thì chính người ấy cũng đổ mưa xuống tựa đám mây. Vậy bạn hãy để tâm hồn bạn được đầy tràn nước của Thánh Thần, để mảnh đất đời bạn được thấm nhuần và được tưới mát.

Vì thế ai đọc nhiều, hiểu nhiều thì sẽ được đầy nước. Khi đã được đầy, thì họ sẽ đổ tràn sang những người khác. Chính vì thế Kinh Thánh nói : Mây ứ nước thì mưa rơi xuống đất.

Vậy ước gì lời bạn giảng có nội dung phong phú, tinh tuyền, trong sáng, để khi giảng dạy luân lý, bạn nói năng ngọt ngào như rót vào tai dân chúng, và lời lẽ duyên dáng của bạn sẽ làm cho dân chúng say mê, từ đó người ta sẽ theo bạn đến nơi bạn muốn.

Ước gì những lời bạn nói đầy khôn ngoan. Quả vậy, vua Sa-lô-môn đã nói : Môi người khôn ngoan là khí giới của trí tuệ, và ở nơi khác : Ước chi môi bạn gắn liền với hiểu biết, tức là ý nghĩa lời bạn nói phải rõ ràng và sáng sủa. Ước gì lời bạn nói và cách bạn trình bày không cần phải giải thích gì thêm nữa, nhưng lời bạn nói ra phải là vũ khí bảo vệ chính lời nói của bạn. Đừng nói ra một lời nào vô ích chỉ vì thiếu ý nghĩa.

Lạy Chúa, Chúa đã làm cho thánh Am-rô-xi-ô giám mục trở nên một bậc thầy giảng dạy đức tin Công Giáo, và một tông đồ trung kiên mẫu mực. Xin cho Hội Thánh ngày nay được thêm nhiều mục tử vừa ý Chúa, biết khôn ngoan và dũng cảm chăm sóc đoàn chiên. Chúng con cầu xin

 

 

Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB

Một trong các người viết tiểu sử về thánh Ambrôsiô nói rằng: Vào ngày Phán xét chung sẽ vẫn còn sự tách biệt giữa những người thích thánh nhân và những người cực kỳ ghét bỏ ngài. Thánh Ambrôsiô nổi tiếng là một người có những quyết định táo bạo ảnh hưởng sâu xa đến đời sống của những người cùng thời. Ngay cả các bậc vua chúa cũng nằm trong số những người chịu những hình phạt thần linh nặng nề vì đã cản đường của Ambrôsiô. 

Vào năm 33 tuổi, thánh Ambrôsiô đã có tất cả mọi sự – một sự nghiệp đầy hứa hẹn là luật sư, một vị thế quan trọng trong chính trường là tổng trấn Milan, ngoài ra ngài còn là người bạn và đồng chí với hoàng đế, cùng với một gia tài kếch sù. 

Và rồi vị Giám mục của Milan từ trần. Vào lúc ấy, khoảng năm 374, có tới 3 lạc giáo muốn tiêu diệt Giáo hội. Vị cố Giám mục Milan từng hậu thuẫn cho lạc giáo Ariô chống lại giáo huấn về thiên tính của Ðức Kitô. Vậy ai sẽ là người kế vị – người Công giáo hay người của phe Ariô? Cả hai phe đụng độ nhau ở vương cung thánh đường và một cuộc bạo động xảy ra. 

Duy trì trật tự công cộng là trách nhiệm của quan tổng trấn Ambrôsiô, nên ngài vội vã chạy đến nhà thờ và hùng hồn lên tiếng, không ủng hộ phe phái nào cả, nhưng ủng hộ sự hoà bình. Ngài xin dân chúng hãy bình tĩnh, kềm chế sự nóng nảy và chọn lựa Giám mục mà không cần phải xô xát. 

Trong khi ngài đang nói, bỗng dưng có người hô to, “Bầu Ambrôsiô làm Giám mục!” Thế là tất cả mọi người đều đồng thanh, “Ambrôsiô là Giám mục!” 

Các vị Giám mục khác của tỉnh Milan thì quá vui mừng khi được phủi tay trước vấn đề khó khăn này. Nhưng Ambrôsiô không dễ hy sinh một sự nghiệp đầy hứa hẹn để chấp nhận công việc của một Giám mục đầy nguy hiểm – một công việc ảnh hưởng đến tính mạng trong thời lạc giáo. Bởi thế Ambrôsiô bỏ trốn. Khi ngài  cầu viện đến hoàng đế để thay đổi quyết định nói trên với lý do là ngài chưa rửa tội, vị hoàng đế lại tuyên bố rằng ông rất vui mừng khi chọn được những vị quan tổng trấn thích hợp với chức Giám mục. Ambrôsiô trốn tránh trong nhà của một nghị sĩ, nhưng ông này đã đem nộp Ambrôsiô khi ông biết quyết định của hoàng đế. 

Không còn biết trốn vào đâu nữa, Ambrôsiô ra đầu hàng. Vì ngài bị ép buộc phải chấp nhận chức Giám mục, nên sẽ không ai ngạc nhiên nếu ngài vẫn tiếp tục lối sống cũ, y như trước khi được tấn phong. Tuy nhiên, ngay lập tức Ambrôsiô đã phân phát tài sản cho người nghèo và tự đặt mình dưới sự chỉ dẫn của thánh Simplician để học Thần học và Kinh Thánh. 

Phe Ariô tưởng rằng Ambrôsiô sẽ là Giám mục “của họ” vì ngài từng là một viên chức của triều đình, và nhiều người trong chính quyền đều thuộc phe Ariô. Nhưng Ambrôsiô đã dùng sở trường của một luật sư và tài hùng biện để chống lại phe Ariô bất cứ nơi nào, dù ở nhà thờ, triều đình, thượng viện, hay ngay cả trong hoàng tộc. Tính ngoan cố của ngài khi không chấp nhận chức Giám mục lúc đầu, nay lại trở thành vũ khí trong cuộc chiến chống lại lạc giáo và giúp ngài quyết tâm theo đuổi sự thánh thiện. 

Tài sản của Ambrôsiô

Khi người Goth xâm chiếm đế quốc và bắt nhiều người làm con tin, đức Giám mục Ambrôsiô đã phải dùng chính tài sản của mình để chuộc. Ngài nói sự bác ái có giá trị nhất là chuộc kẻ tù đầy. Ngay cả các bình vàng của Giáo hội, ngài cũng đem bán để lấy tiền chuộc. Ngài nói, “Cứu vớt các linh hồn cho Chúa thì tốt hơn là duy trì tài sản. Ðức Kitô đã sai các Tông đồ đi rao giảng mà không có vàng bạc, và cũng không cần vàng bạc để thành lập Giáo hội của Người. Giáo hội làm chủ vàng bạc, không phải để tích trữ, nhưng để phân phối và giúp đỡ những người kém may mắn.” 

“Chắc chắn Chúa sẽ hỏi chúng ta: ‘Tại sao con lại để quá nhiều người nghèo đói? Vì con có vàng bạc, con phải cấp dưỡng cho họ’ Có thể nào chúng ta trả lời rằng: ‘Vì con không muốn để đền thờ của Chúa không được trang hoàng.’ Nhưng những gì không mua được bởi vàng bạc thì cũng không có giá trị bởi vàng bạc. Phương cách tốt nhất để sử dụng vàng bạc của Ðấng Cứu Thế và hãy cứu vớt những người lâm cảnh hoạn nạn.” 

Ðức Giám mục Ambrôsiô luôn luôn lưu tâm đến người nghèo hơn là quyền lực. Ngài thường khiển trách người giàu khi lãng quên người nghèo: “Thiên Chúa tạo nên vũ trụ trong một phương cách để tất cả những gì là của chung sẽ đem lại no ấm cho con người, và trái đất là sở hữu chung của tất cả mọi người. Tại sao bạn lại từ chối một người cũng có quyền đối với thiên nhiên như bạn? Của cải bạn cho người ăn xin không phải của chính bạn, nhưng đó là phần của người ấy mà bạn phải hoàn trả cho họ. Trái đất thuộc về tất cả mọi người. Bởi thế, bạn đang trả nợ mà lại nghĩ đang ban bố một ơn huệ mà bạn có quyền không ban.” 

Án tử hình

Khi hoàng đế từ trần, hoàng hậu Justina, một người phe Ariô, trở thành nhiếp chính cho đứa con trai bốn tuổi là vua Valentianô II. Maximus, một cựu sĩ quan Rôma, biết rằng cái chết của hoàng đế sẽ làm suy yếu đế quốc nên dự định tấn công. Justina xin Ambrôsiô thương lượng với tên này. Mặc dù Justina là một kẻ thù của ngài về mặt tôn giáo, bởi bà theo phe Ariô, Ambrôsiô đã lên đường thi hành một nhiệm vụ thương lượng và ngài đã thuyết phục được Maxima ngừng xâm lăng. 

Thay vì biết ơn Ambrôsiô, hoàng hậu Justina lại yêu sách người Công giáo phải trao vương cung thánh đường cho phe Ariô, thánh nhân đã thách thức đám thái giám của triều đình hãy thử hành quyết ngài đi. Dân chúng tập họp lại sau lưng đức Giám mục Ambrôsiô để đối đầu với các binh lính của hoàng đế. Trong cảnh náo loạn, ngài vừa khích động vừa trấn an dân chúng của ngài bằng những bài Thánh thi mới đầy sức làm say mê lòng người.

Dân chúng đứng về phía ngài, dù ngài thừa khả năng để thực hiện cuộc đảo chánh lật đổ Justina. Nhưng ngài thận trọng tránh kích động dân chúng, để duy trì sự hòa bình cho đế quốc.

Khi một số người Công giáo bắt giữ một linh mục phe Ariô và kết án tử hình, đức Giám mục Ambrôsiô đã can thiệp nhân danh hòa bình và xin Thiên Chúa đừng để xảy ra cảnh  máu chảy thịt rơi. Rồi ngài gửi các linh mục và phó tế của ngài đến giải thoát cho vị linh mục Ariô này. Ngài nói: “Khi cha được nghe là nhà thờ bị lính bao vây, cha đã nói là cha không thể nhượng nhà thờ cho phe Ariô được, nhưng điều đó không có nghĩa là cha phải xung chiến”. Các người lính đến với vương cung thánh đường, nhưng họ đến là để cầu nguyện.

Sau đó hoàng hậu Justina thuyết phục hoàng đế con của mình ban bố luật lệ để hợp pháp hóa lạc giáo Ariô và cấm người Công giáo không được chống đối người Ariô. Không ai có thể đệ trình một thỉnh cầu chống lại chuyện một nhà thờ bị bắt phải nhường lại cho phe Ariô. 

Vào Chúa nhật lễ Lá, trong bài giảng, đức Giám mục Ambrôsiô tuyên bố không nhường lại các nhà thờ. Cả giáo đoàn, vì lo sợ cho tính mạng, đã phòng thủ trong nhà thờ với vị chủ chăn là đức Giám mục Ambrôsiô. Quân triều đình bao vây chung quanh ngăn chặn mọi đường tiếp tế, để dân chúng vì đói mà phải ra đầu hàng. Cho đến ngày Chúa nhật Phục sinh, tất cả mọi người vẫn kiên trì phòng thủ.

Khi chạm trán với lực lượng bao vây, đức Giám mục Ambrôsiô nói, “Vũ khí của tôi chỉ là nước mắt. Tôi không muốn từ bỏ nơi đây, nhưng tôi không chống cự bằng võ lực.” 

Ðể trấn an dân chúng đang khiếp sợ, đức Giám mục Ambrôsiô dạy họ hát Thánh vịnh do chính ngài sáng tác. Ngài chia cộng đoàn làm hai bên để đối đáp. Ðây là lần đầu tiên việc hát đáp ca được ghi nhận trong lịch sử Giáo hội. 

Tiếng nhạc và lời kinh vượt ra ngoài bốn bức tường của thánh đường và làm rúng động tâm hồn các binh lính. Không bao lâu, chính họ cũng cất tiếng phụ họa. Sự vây hãm chấm dứt. 

Vì biết quân triều đình đang tập trung vào việc chống đối người Công giáo, Maximus một lần nữa lại quyết định tấn công Rôma. Justina và hoàng tộc thật kinh hãi. Không biết trông vào ai, sau cùng họ lại quay về với người mà họ từng tấn công và đe dọa. Họ xin đức Giám mục Ambrôsiô đến gặp Maximus và ngăn chặn sự tấn công.

Trong một hành động tha thứ có thể nói lạ lùng, đức Giám mục Ambrôsiô lại thi hành nhiệm vụ thực hiện một cuộc thương lượng mới giúp cho cho kẻ thù của ngài là hoàng hậu Justina. Khi Maximus từ chối thỏa hiệp ngưng chiến tranh, Đức cha Ambrôsiô  vội vã trở về để chuẩn bị. Justina và hoàng tộc trốn sang Hy Lạp, trong khi đức Giám mục Ambrôsiô ở lại chống đỡ. May mắn thay, vị hoàng đế Đông phương là Theodosius đã can thiệp và đánh bại Maximus. Tuy nhiên, sau đó Theodosius đã chiếm quyền kiểm soát toàn thể đế quốc Rôma. Theodosius là người Công giáo và sau này trở thành người bạn chí thiết của đức Giám mục Ambrôsiô.

Cũng trong thời gian này hoàng hậu Justina qua đời, và vua Valentinô II, con của bà đã tuyên thệ từ bỏ lạc giáo Ariô, và đặt mình dưới sự dẫn dắt của thánh Ambrôsiô, coi ngài như một người cha.

Trong thời gian hoàng đế phương Đông Theođôsiô lưu lại phương Tây, có những diễn tiến hy hữu xảy ra trong lịch sử Hội Thánh: một vị Giám mục ra hình phạt cho hoàng đế, và vị hoàng đế đó đã qui phục và chấp nhận hình phạt. Số là khi hoàng đế Theođôsiô hay tin các sĩ quan của ông đã bị những người ở Tessalonica âm mưu giết, thì thánh Ambrosiô cùng các Giám mục đã kêu xin sự khoan hồng của hoàng đế đối với những người Tessalônica. Và lời kêu gọi xem ra có hiệu lực. Nhưng thình lình họ hay tin là do nghe những lời xúi bậy của đám cận thần, hoàng đế  cho giết cả thảy 7 ngàn người dân Tessalonica vô tội. Để tránh gặp hoàng đế có bàn tay vấy máu đó, nhất là trong khi ngài cử hành Thánh lễ,  thánh Ambrôsiô đã viện cớ ốm không tới chào thăm hoàng đế được, nhưng đã viết cho ông một lá thư “do chính tay tôi viết, và xin chỉ mình hoàng đế đọc mà thôi. Trong thư ngài khích lệ vị hoàng đế đền bù tội lỗi của mình bằng một cuộc đền tội gương mẫu. Vị hoàng đế đã không tỏ vẻ e thẹn chấp nhận thi hành việc đền tội này, và suốt cả đời ông luôn luôn ăn năn hối hận.

Những ngày cuối đời của thánh Ambrôsiô:

Khi thánh Ambrosiô định qua nước Pháp làm phép Rửa tội vua Valentinianô II, thì hay tin vị vua trẻ này bị ám sát bởi kẻ soán quyền là Eugenius. Ngài đã khóc ông vua bé nhỏ này và trong đám tang ngài đã nói đến cái chết của một vị tử đạo được rửa tội trong máu của mình. Eugenius, tên tiếm quyền, là một kẻ ngoại đạo trong trái tim hắn, và hắn thề sẽ tái hồi phục lại nền ngoại giáo. Nhưng chẳng bao lâu hoàng đế Theodosius đã đem quân sang tiêu diệt hắn vào mùa xuân năm 391. Sau đó ông đã xin vị thánh Giám mục cử hành Thánh lễ tạ ơn cho cuộc chiến thắng, nhưng chỉ sau đó vài tháng ông qua đời tại Milan, có thánh Ambrosiô ở bên giường, và ông chết khi thốt lên tên của Ambrôsiô. Chính thánh nhân đã phải thú  nhận: “Ngay cả khi cái chết làm tan rữa thân xác của hoàng đế, ông vẫn mãi mãi là người lo cho Hội Thánh nhiều hơn lo cho chính sự an nguy bản thân của ông. Tôi yêu mến ông, và tôi xin Chúa sớm đưa ông về thiên đàng!”. Thế rồi chỉ hai năm sau, đức Giám mục Ambrôsiô cũng ra đi để hai tâm hồn vĩ đại của một hoàng đế và một Giám mục mãi mãi ở bên nhau!

Đức Giám mục Ambrôsiô từ trần năm 397, khoảng 57 tuổi. Lễ kính được đặt vào ngày 7 tháng 12, là ngày ngài “bị” tấn phong Giám mục. 

http://loichua.donboscoviet.org/07-thang-12-thanh-ambrosio/


Thánh giáo phụ Ambrose thành Milan

 

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 24/10/2007

 Bài Giáo Lý 55 trong loạt 138 bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền

 

 

Anh chị em thân mến:

 

Thánh Giám Mục Ambrose, vị tôi sẽ nói tới hôm nay đây, đã qua đời vào đêm ngày 3-4/4/397 ở Milan. Bấy giờ là rạng đông của Thứ Bảy Tuần Thánh. Ngày trước đó, khoảng 5 giờ chiều, ngài đã bắt đầu cầu nguyện khi ngài nằm trên giường với hai cánh tay giang ra như hình thánh giá. Đó là cách ngài đã tham dự vào tam nhật Phục Sinh trọng thể, vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa chúng ta. Paulinus, một phó tế trung thành đã được Thánh Âu Quốc Tinh mờùi viết về tiểu sử của Thánh Ambrose mang tựa đề “Vita”, đã làm chứng rằng: “Chúng tôi đã thấy ngài mấp máy đôi môi, thế nhưng không thể nghe thấy được tiếng của ngài”.

 

Đột nhiên, tình trạng ấy dường như đi đến chỗ kết thúc. Honoratus, vị giám mục ở Vercelli, người đã giúp Thánh Ambrose và đã ngủ ở trên lầu, đã được đánh thức dậy bởi tiếng nói lập đi lập lại rằng: “Dậy mau! Ambrose sắp chết rồi”. Lập tức đức giám mục Honoratus xuống lầu, Paulinus kể lại, “và ban Mình Thánh Chúa. Sauk hi nhận lãnh, Thánh Ambrose trút hơi thở, mang theo của ăn đường. Bởi vậy, linh hồn của ngài, được kiên cường bởi lương thực ấy, bấy giờ hoan hưởng tập đoàn các thiên  thần” (“Vita”, 47).

 

Vào Thứ Sáu Tuần Thánh năm 397, đôi cánh tay giang ra của một Amborse hấp hối cho thấy việc ngài mầu nhiệm tham dự vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa chúng ta. Đó là bài giáo lý cuối cùng của ngài: Không nói một lời nào, ngài đã nói bằng chứng từ đời sống.

 

Thánh Ambrose không già khi ngài qua đời. Ngài chưa đầy 60 tuổi, vì ngài được sinh ra khoảng năm 340 ở Trier, nơi cha của ngài làm quan thái thú của những người Gauls. Gia đình này theo Kitô Giáo. Khi cha của ngài chết thì ngài vẫn còn là một chú bé trai, mẹ ngài mang ngài đến Rôma để giúp ngài theo đuổi nghề nghiệp dân  sự, cống hiến cho ngài một nền giáo dục vững chắc về tu từ học và pháp lý học. Khoảng năm 370, ngài được phái tới để quản trị những địa hạt Emilia và Liguria, có tổng hành dinh ở Milan. Chính ở đó là nơi đang sôi sục cuộc đấu chọi giữa Kitô hữu chính thống và bè rối Arian, nhất là sau cái chết của Auxentius, vị giám mục của bè rối Arian. Thánh Ambrose đã can thiệp để bình định những người trong cuộc thuộc cả hai bên, và thẩm quyền của ngài là ở chỗ, mặc dù ngài chỉ là một người dự tòng bình thường, ngài cũng đã được dân chúng tuyên bố làm giám mục Milan.

 

Cho tới lúc ấy, Thánh Ambrose đã là một vị quan nhất phẩm của Đế Quốc Rôma ở Bắc Ý. Rất hiểu biết về văn hóa song lại hụt hẫng về kiến thức Thánh Kinh, vị tân giám mục bắt đầu hăng say học hiểu các Sách Thánh. Ngài đã biết nghiên cứu và dẫn giải Thánh Kinh căn   cứ vào các tác phẩm của giáo phụ Origen, một bậc thày thật sự thuộc trường phái Alexandria. Nhờ đó, Thánh Ambrose đã mang đến cho môi trường La Tinh việc thực hành suy niệm Phúc Âm được giáo phụ Origen phát động, bắt đầu bằng việc “lecto dinina – đọc lời Chúa” ở Tây phương.

 

Phương pháp “lectio” chẳng bao lâu đã hướng dẫn việc giảng dạy và viết lách của Thánh Ambrose, những việc đã thực sự xuất phát từ việc lắng nghe nguyện cầu trước lời của Thiên Chúa. Một lời mở đầu nổi tiếng trong một bài giáo lý đặc biệt của Thánh Ambrose cho thấy vị giám mục thánh này đã áp dụng Cựu Ước vào đời sống Kitô Giáo như sau: “Khi chúng ta đọc lịch sử về các vị tổ phụ và những câu châm ngôn của Sách Cách Ngôn, chúng ta tiến đến chỗ đối diện với luân lý”, vị giám mục thành Milan nói với thành phần dự tòng và tân tòng, “để, một khi được giáo dục bởi những sự ấy, anh chị em có thể làm cho mình quen với việc tiến tới đời sống của cha ông cũng như theo đuổi con đường tuân phục những chỉ thị thần linh” ("I misteri," 1,1).

 

Nói cách khác, thành phần tân tòng và dự tòng, theo ý nghĩ của vị giám mục này, thì sau khi đã học biết được nghệ thuật sống theo luân lý, bấy giờ họ mới có thể coi họ sẵn sàng chuẩn bị cho các mầu nhiệm cao cả của Chúa Kitô. Như thế, việc giảng dạy của Thánh Ambrose, việc giảng dạy là tâm điểm cho công việc văn chương to lớn của ngài, xuất phát từ việc đọc các sách thánh (“Chư Tổ Phụ”, các sách về lịch sử, và “Cách Ngôn”, các sách về khôn ngoan), để sống tuân hợp với mạc khải thần linh.

 

Rõ ràng là chứng từ bản thân của giảng viên và mẫu gương của cộng đồng Kitô Giáo là những điều kiện mang lại hiệu quả cho bất cứ việc giảng dạy nào. Theo quan điểm ấy thì thật là ý nghĩa đối với một đoạn trong cuốn Tự Thú của Thánh Âu Quốc Tinh. Thánh Âu Quốc Tinh đã đến Milan như là một giáo sư về tu từ học; ngài là một con người ngờ vực chứ không phải là một Kitô hữu. Ngài đã tìm kiếm song không thể nào thực sự gặp gỡ chân lý Kitô Giáo. Đối với nhà tu từ học trẻ người Phi Châu này, một con người vừa hoài nghi vừa thất vọng, thì không phải là những bài giảng tuyệt vời của Thánh Ambrose đã làm anh ta trở lại – cho dù ngài hết sức cảm nhận chúng. Trái lại, chính chứng từ của vị giám mục và Giáo Hội ở Milan, một Giáo Hội đã nguyện cầu và hát ca, hiệp nhất như một thân  thể duy nhất. Đó là một Giáo Hội có khả năng chống lại sự bức hiếp của vị hoàng đế cũng như của bà mẹ của hoàng đế, người đã yêu cầu một lần nữa thực hiện việc chiếm đoạt một ngôi Thánh Đường cho những cử hành lễ nghi của bè rối Arian vào đầu năm 386.

 

Trong một dinh thự đã bị chiếm đoạt, Thánh Âu Quốc Tinh viết: “thành phần dân chúng đạo hạnh ở Milan đã chống đỡ, sẵn sàng chết với vị giám mục của họ”. Chứng từ này trong cuốn “Tự Thú” thật là vô giá, vì nó cho thấy rằng đã có một điều gì đó tác đâu mạnh mẽ nơi Thánh Âu Quốc Tinh. Ngài viết tiếp: “bất chấp sự kiện là chúng tôi vẫn còn hâm hâm dở dở về tinh thần, chúng tôi cũng đã tham dự nữa về phía toàn thể dân chúng” (Tự Thú 9, 7).

 

Từ đời sống và gương lành của Giám Mục Ambrose, Thánh Âu Quốc Tinh đã học biết tin tưởng và giảng dạy. Chúng ta có thể kể đến một bài giảng nổi tiếng của con người Phi Châu này, một bài giảng đáng được trích lại nhiều thế kỷ sau ở khoản 25 hiến chế tín lý “Dei Verbum”: “Tất cả hàng giáo sĩ cần phải tha thiết với Thánh Kinh bằng việc ân cần đọc sách thánh và cẩn thận học hỏi, nhất là các vị linh mục của Chúa Kitô và những vị khác, như phó tế và giáo lý viên là thành phần hợp pháp chủ động thực hiện thừa tác vụ lời Chúa. Việc này cần phải thực hiện để không một ai trong họ trở nên”, và đến đây trích lời Thánh Âu Quốc Tinh, “’một giảng viên rỗng tuyếch giảng giải lời Chúa hời hợt bề ngoài, không phải là một người sâu xa lắng nghe lời Chúa’”. Ngài đã thực sự học được từ Thánh Ambrose việc “sâu xa lắng nghe” này, việc chuyên cần đọc thánh Kinh bằng thái độ nguyện cầu này, để thực sự lãnh nhận lời Chúa trong lòng mình, và thấm nhuần lời Chúa.

 

Anh chị em thân mến: tôi muốn trình bày cho anh chị em một mẫu “hình ảnh giáo phụ” mà, nếu được nhìn theo chiều hướng của những gì chúng ta vừa nói, thì thật sự tiêu biểu cho tâm điểm của giáo huấn Thánh Ambrose. Trong cùng cuốn Tự Thú, Thánh Âu Quốc Tinh đã thuật lại việc ngài gặp gỡ Thánh Ambrose, một cuộc gặp gỡ thực sự có một tầm vóc hết sức quan trọng đối với lịch sử của Giáo Hội. Ngài đã viết trong tác phẩm này rằng khi ngài đến gặp vị giám mục thành Milan thì vị giám mục ấy lúc nào cũng bị đám đông dân chúng bu quanh mang theo những rắc rối trục trặc được vị giám  mục cố gắng giúp đỡ. Ở đó bao giờ cũng có một hàng dài dân chúng đợi chờ để nói chuyện với Thánh Ambrose, tìm niềm ủi an và hy vọng. Khi Thánh Ambrose không còn ở với đám dân chúng ấy nữa – và điều này chỉ xẩy ra trong một thời gian ngắn – thì vị giám mục một là ăn chút đỉnh cho thân xác sống hay là đọc sách bồi bổ tinh thần. Về khía cạnh này, Thánh Âu Quốc Tinh đã ca ngợi Thánh Ambrose, vì Thánh Ambrose đọc Thánh Kinh bằng cửa miệng đóng mà chỉ bằng đôi mắt của ngài mà thôi” (x Tự Thú, 6.3).

 

Trong những thế kỷ đầu của Kitô Giáo, việc đọc Thánh Kinh được nghĩ một cách triệt để theo nghĩa được nghe công bố, và việc đọc lớn tiếng làm cho việc hiểu biết được dễ dàng hơn, thậm chí cho người bấy giờ đang đọc Thánh Kinh. Sự kiện Thánh Ambrose có thể đọc hết trang này tới trang khác bằng mắt đối với Thánh Âu Quốc Tinh là một khả năng đọc đặc biệt và quen thuộc với Thánh Kinh. Trong việc đọc này – một việc tâm can muốn tìm cách hiểu biết lời Chúa – thì đây là “hình ảnh” chúng ta đang nói tới. Ở đây, người ta có thể thấy được phương pháp của giáo lý Thánh Ambrose, đó là chính Thánh Kinh, được sâu xa thấm nhiễm, cho thấy nội nội dung của những gì người ta cần phải loan báo để làm hoán cải các cõi lòng.

 

Bởi vậy, theo giáo huấn của Thánh Ambrose và Âu Quốc Tinh thì giáo lý là những gì bất khả phân ly với chứng từ của đời sống. Giáo lý viên cũng có thể kín múc cho mình được lợi ích từ những gì tôi đã viết trong cuốn “Nhập Môn Kitô Giáo” về các thần học gia. Các nhà giáo dục đức tin không thể rơi vào cái nguy cơ trở thành như một thứ tay hề là người chỉ múa máy mà thôi. Trái lại, nếu sử dụng hình ảnh của giáo phụ Origen, một nhà trước tác được Thánh Ambrose đặc biệt cảm nhận, thì họ phải giống như người môn đệ yêu dấu, người dựa đầu vào ngực Thày và nhờ đó học biết cách suy nghĩ, nói năng và tác hành. Sau hết, người môn đệ đích thực này là người loan truyền Phúc Âm một cách khả tín nhất và công hiệu nhất.  

 

Như Thánh Gioan Tông Đồ, Giám Mục Ambrose, vị không bao giờ thôi lập lại rằng "Omnia Christus est nobis!" – Chúa Kitô là tất cả mọi sự cho chúng ta! – vẫn là một chứng nhân trung thực cho Chúa Kitô. Bằng những lời lẽ ấy, những lời lẽ đầy lòng mến yêu Chúa Giêsu, chúng ta sẽ kết thúc bài giáo lý của chúng ta “Chúa Kitô là tất cả mọi sự cho chúng ta! Nếu anh chị em muốn chữa lành thương tích, thì ngài là một vị ý sĩ; nếu anh chị em bồn chồn lo lắng thì Người là suối mát; nấu anh chị em bị lỗi lầm đè nén thì Người là đức công minh; nếu anh chị em cần trợ giúp thì Người là sức mạnh; nếu anh chị em sợ chết thì Người là sự sống; nếu anh chị em mong muốn thiên  đàng thì Người là đường; nếu anh chị em ở trong tăm tối thì Người là ánh sáng… Hãy nếm thử và hãy nhìn coi cho biết Chúa thiện hảo dường bao. Phúc cho kẻ nào hy vọng ở nơi Người!” ("De virginitate," 16,99). Chúng ta cũng hy vọng ở nơi Chúa Kitô. Nhờ đó, chúng ta sẽ được chúc phúc và sẽ sống trong an bình.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 24/10/2007

 

 

 

Thứ Năm

Ngày 08 tháng 12

ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

lễ trọng

 
Ngay từ giây phút đầu tiên trong đời, Đức Ma-ri-a đã được gìn giữ khỏi vương bất cứ tội lỗi nào, nhờ ân sủng do cái chết của Con mình. Như vậy, tín điều Đức Ma-ri-a Vô Nhiễm Nguyên Tội được đặt căn bản trên đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa. Đức Ma-ri-a vô nhiễm nguyên tội, cũng như được cất lên trời là hình ảnh tiên báo Hội Thánh : Thiên Chúa muốn cho Hội Thánh không tỳ ố, không vết nhăn, hoặc bất cứ một khuyết điểm nào.

Immaculate Conception of the Blessed Virgin Mary – Secular Franciscan Order  – USA

Mẹ Thiên Chúa trung trinh cao cả,
Con hát mừng cho thoả hồn thơ,
Cầu xin Thánh Mẫu nhân từ,
Hồng ân đổ xuống chan hoà nhân gian.

Cả dòng giống A-đam hết thảy,
Kiếp người đều mắc phải tội nguyên,
Chỉ duy có Mẹ tinh tuyền,
Chẳng hề vương nợ tiền khiên chút nào.

Gót sen đạp nát đầu con rắn,
Từng bao năm thù hận loài người,
Vinh quang có một không hai,
Tội nguyên không nhiễm bụi đời chẳng vương.

Niềm hãnh diện của hàng con cháu,
Rửa nhục cho tổ mẫu E-và.
Chúng con thân phận ngã thua,
Mẹ thương đỡ dậy để mà vươn lên.

Mưu rắn độc ngày đêm đe doạ,
Mẹ quyền năng đả phá diệt tan,
Dẫn đưa về cõi thiên đàng,
Đoàn con vui hưởng vinh quang đời đời.

Xin chúc tụng Chúa Trời muôn thuở
Là Chúa Cha, Thánh Tử, Thánh Thần
Đã ban cho Mẹ hồng ân
Vô song thánh đức vẹn toàn khiết trinh.

 

 

Lạy Đức Trinh Nữ, nhờ phúc lành của Mẹ mà muôn loài được chúc phúc

Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 8/12 - Bài đọc 2

Trích bài giảng của thánh An-xen-mô, giám mục.

Trời cao và tinh tú, đất thấp với sông ngòi, ngày lẫn đêm cùng bất cứ những gì thuộc quyền cai trị và sử dụng của con người đều hân hoan vì, lạy Mẹ Ma-ri-a là bà chúa, chính nhờ Mẹ mà tất cả đã được sống lại với vẻ đẹp nguyên thuỷ và được ban tặng một hồng ân mới, hồng ân khôn tả. Vì chưng mọi sự ra như đã chết khi đánh mất phẩm giá bẩm sinh của chúng, là được dựng nên cho những người ca tụng Thiên Chúa, để những người đó thống trị và hưởng dùng, nhưng chúng đã bị chà đạp và ra xấu xa vì bị những kẻ tôn thờ ngẫu tượng sử dụng sai trái. Chúng đã được dựng nên không phải cho những hạng người như thế. Nhưng nay chúng vui mừng như được sống lại vì chúng được những người tuyên xưng Thiên Chúa điều khiển và sử dụng vào mục đích tốt đẹp.

Vậy có thể nói chúng nhảy mừng vì hồng ân mới mẻ và vô giá, không những khi chúng cảm nhận rằng chính Thiên Chúa, chính Đấng sáng tạo ra chúng và điều khiển chúng, đang ngự trên chúng cách vô hình, nhưng còn cả khi chúng thấy rằng Người thánh hoá chúng bằng việc sử dụng chúng cách hữu hình, theo những quy luật riêng của chúng. Những hồng ân lớn lao ấy được ban tặng cho muôn loài nhờ quả phúc từ lòng Mẹ Ma-ri-a đầy ơn phúc.

Quả vậy, nhờ Mẹ đầy ân phúc mà mọi vật trong âm phủ vui mừng vì được giải thoát, mọi vật trên dương gian vui sướng vì được phục hồi. Nhờ chính người Con vinh hiển do lòng trinh khiết rạng ngời của Mẹ, mọi người công chính đã qua đời trước khi người Con ấy chịu chết để đem lại sức sống, đều hớn hở mừng vui vì được thoát khỏi chốn giam cầm ; các thiên thần cũng hân hoan vì thấy thành trì của mình xưa kia nghiêng ngả, nay lại được tái thiết. Ôi ! Lạy Mẹ chứa chan ơn phúc, nhờ ơn phúc sung mãn của Mẹ mà toàn thể thụ tạo được phục hồi sức sống như thế này. Mẹ là Trinh Nữ được chúc phúc hơn hết mọi người, nhờ phúc lành của Mẹ mà mọi loài mọi vật được chúc lành, không những thụ tạo được Đấng Hoá Công chúc lành nhưng ngược lại, thụ tạo cùng chúc tụng Đấng Hoá Công.

Thiên Chúa đã trao cho Đức Ma-ri-a chính Con của mình, người Con độc nhất sinh ra từ lòng Thiên Chúa, đồng hàng với Người, người Con mà Người yêu mến như chính mình. Người Con do Đức Ma-ri-a sinh ra, cũng là Con Thiên Chúa, không phải là ai khác mà là chính người Con của Thiên Chúa, để chính người Con độc nhất ấy thật sự vừa là Con của Thiên Chúa vừa là Con của Đức Ma-ri-a. Mọi loài mọi vật đều được Thiên Chúa tạo thành, thế mà Thiên Chúa lại được Đức Ma-ri-a sinh hạ. Thiên Chúa, Đấng đã làm nên mọi sự, lại muốn thành hình nhờ Đức Ma-ri-a, và như thế Người tái tạo mọi sự Người đã tạo thành. Đấng có thể làm nên mọi sự từ hư vô lại không muốn tái tạo muôn loài đã bị hư hỏng mà không có Đức Ma-ri-a.

Vì thế, Thiên Chúa là Cha muôn vật đã được tạo thành, còn Đức Ma-ri-a là Mẹ muôn loài đã được tái tạo. Thiên Chúa là Cha làm nên muôn loài muôn vật, còn Đức Ma-ri-a là Mẹ của muôn vật muôn loài đã được tái thiết. Vì chưng, Thiên Chúa đã sinh ra Đấng tạo dựng muôn loài, còn Đức Ma-ri-a đã hạ sinh Đấng cứu độ muôn loài. Nếu không có Đấng do Thiên Chúa sinh ra thì chẳng có gì được hiện hữu, và nếu không có Đấng do Đức Ma-ri-a sinh ra thì chẳng có gì là tốt lành.

Ôi ! Đúng vậy, Chúa ở cùng Mẹ, bởi vì Chúa đã ban cho Mẹ ơn làm cho mọi loài mọi vật phải mắc nợ Mẹ, cũng như đã mắc nợ chính Chúa.

 

Đấng cứu độ chúng ta đã chẳng nề sinh làm con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Ta hãy chúc tụng và tha thiết nguyện cầu :

Lạy Chúa, xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Mặt Trời soi đường công chính, đã muốn cho Đức Mẹ xuất hiện tựa hừng đông, - xin cho chúng con biết theo Người mà bước đi trong ánh sáng của ngày cứu độ.

Lạy Chúa, xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Ngôi Lời hằng hữu, Thánh Mẫu Chúa đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, - xin cho chúng con hằng noi gương Thánh Mẫu mà gắn bó cùng Chúa trọn đời.

Lạy Chúa, xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con, Chúa đã muốn cho Đức Mẹ đứng kề bên thánh giá, - xin nhậm lời Người chuyển cầu mà cho chúng con hưởng nhờ ơn cứu độ.

Lạy Chúa, xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

Chúa là Con Đức Trinh Nữ, và là anh của chúng con, xưa trên thánh giá, Chúa đã xin Đức Mẹ làm mẹ thánh Gio-an, - xin cho chúng con cũng nhận biết Người là mẹ, và trọn niềm hiếu thảo với Người.

Lạy Chúa, xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.

 

Lạy Chúa, Chúa đã dọn sẵn một cung điện xứng đáng cho Con Chúa giáng trần khi làm cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a khỏi mắc tội tổ tông ngay từ trong lòng mẹ. Chúa cũng gìn giữ Người khỏi mọi vết nhơ tội lỗi nhờ công nghiệp Con Chúa sẽ chịu chết sau này. Vì lời Đức Trinh Nữ nguyện giúp cầu thay, xin Chúa cũng ban cho chúng con được trở nên công chính thánh thiện mà đón rước Con Chúa là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

 

Ðức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội

Lễ Trọng

 

Bài Ðọc I: St 3, 9-15. 20

"Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa miêu duệ mi và miêu duệ người phụ nữ".

Trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa đã gọi Ađam và phán bảo ông rằng: "Ngươi đang ở đâu?" Ông đã thưa: "Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn địa đàng, nhưng con sợ hãi, vì con trần truồng và con đang ẩn núp".

Chúa phán bảo ông rằng: "Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn ư?" Ađam thưa lại: "Người phụ nữ Chúa đã cho làm bạn với con, chính nàng đã cho con trái cây và con đã ăn".

Và Thiên Chúa phán bảo người phụ nữ rằng: "Tại sao ngươi đã làm điều đó?" Người phụ nữ thưa: "Con rắn đã lừa dối con và con đã ăn".

Thiên Chúa phán bảo con rắn: "Bởi mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người".

Và Ađam đã gọi tên vợ mình là Evà: vì lẽ bà là mẹ của chúng sinh.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4

Ðáp: Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu (c. 1a).

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.

3) Khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ mừng vui, và đàn ca. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Ep 1, 3-6. 11-12

"Từ trước khi tạo thành vũ trụ, Thiên Chúa đã kén chọn chúng ta trong Ðức Kitô".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, chúc tụng Thiên Chúa và là Cha của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: Người đã chúc phúc cho chúng ta bằng mọi phúc lộc thiêng liêng ở trên trời trong Ðức Kitô. Bởi Người đã kén chọn chúng ta trong Ðức Kitô từ trước khi tạo thành vũ trụ, hầu cho chúng ta được thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Người. Trong tình thương, Người đã tiền định cho chúng ta được làm dưỡng tử đối với Người, qua Ðức Giêsu Kitô, theo như ý Người sở định, cho được ca ngợi vinh quang ân sủng của Người, ân sủng mà Người ban tặng chúng ta trong Con yêu quý của Người.

Cũng trong Ðức Kitô, chúng ta đã được chọn trước làm phần gia nghiệp, chiếu theo chương trình tiền định của Ðấng tác thành mọi sự theo như ý Mình sở định, hầu cho chúng ta ca tụng vinh quang Người, chúng ta là những người đã đặt niềm hy vọng trước trong Ðức Kitô.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Kính chào Trinh Nữ Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ, Trinh Nữ có phúc hơn các người nữ. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 1, 26-38

"Chào Trinh Nữ đầy ân sủng, Chúa ở cùng Trinh Nữ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ, trinh nữ có phúc hơn các người nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Người sẽ vô tận!" Nhưng Maria liền thưa với Thiên Thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được". Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và Thiên Thần cáo biệt trinh nữ.

Ðó là lời Chúa.

 

 

Mẹ Maria Hoài Thai Vô NhiễNguyên Tội

 

 

(Bài 20 – 15/5/1996  trong loạt 70 Bài Giáo Lý Thánh Mẫu của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

trong các Buổi Triều Kiến Chung Thứ  hằng tuần từ 6/9/1995 tới 12/11/1997)

 

 

1.         Mẹ Maria, “đầy ân phúc”, đã được Giáo Hội nhìn nhận là “hoàn toàn thánh hảo không hề có một tì vết tội lỗi nào”, “từ giây phút đầu tiên khi được hoài thai được tràn đầy ánh quang rạng ngời của một sự thánh đức hết sức độc nhất vô nhị” (Lumen Gentium, 56).

 

Việc công nhận này đòi hỏi một tiến trình dài trong việc suy tư về tín lý, một suy tư cuối cùng đã dẫn tới việc long trọng tuyên bố tín điều Hoài Thai Vô Nhiễm.

 

Tước hiệu “được đầy ân phúc”, do thiên thần ngỏ cùng Mẹ Maria vào lúc Truyền Tin, ám chỉ hồng ân thần linh đặc biệtđối với một người nữ trẻ  Nazarét liên quan tới vai trò làm mẹ được loan báo, thế nhưng nó nó còn cho thấy trực tiếp hơn tác dụng của ân sủng thần linh nơi Mẹ Maria; Mẹ Maria được tràn đầy ân sủng trong nội tâm một cách vĩnh viễn nhờđó được thánh hóa. Tước hiệu kecharitoméne  đầy ân phúc này có một ý nghĩa rất phong phú và Thánh Linh đã không bao giờ ngừng làm cho Giáo Hội hiểu biết sâu xa hơn về nó.

 

Ơn Thánh Hóa làm cho Mẹ Maria trở thành một tạo vật mới

 

2.          bài giáo lý trước, tôi đã vạch ra là nơi lời chào của thiên thần, cách diễn tả “đầy ân phúc” trở thành giống như một tên gọi: nó chính là tên của Mẹ Maria trước nhan Thiên Chúa. Theo ứng dụng của tiếng Semitic thì một tên gọi là những gì diễn đạt thực tại của con người và sự vật nó ám chỉ. Bởi thế, danh xưng “đầy ân phúc” cho thấy chiều kích sâu xa nhất nơi cá thể của người nữ trẻ Nazarét này, một con người được ân sủng hình thành và là đối tượng của hồng ân thần linh, tới độ Mẹ có thể được xác định bởi lòng yêu chuộng đặc biệt này.

 

Công Đồng nhắc lại rằng các vị Giáo Phụ của Giáo Hội đã ám chỉ đến sự thật này khi các ngài gọi Mẹ Maria là “đấng hoàn toàn thánh hảo”, đồng thời xác nhận rằng Mẹ “thực sự được Thánh Linh hình thành và trở nên như một tạo vật mới” (Lumen gentium, n. 56).

 

Ân sủng, được hiểu theo nghĩa “ơn thánh hóa” là những gì tạo nên sự thánh thiện cá thể, đã làm phát sinh ra tình trạng tạo vật mới này nơi Mẹ Maria, làm cho Mẹ hoàn toàn am hợp với dự án của Thiên Chúa.

 

3.         Việc suy tư về tín lý bởi thế có thể qui về cho Mẹ Maria một sự thánh thiện trọn hảo là những gì  để trọn vẹn cần phải bao gồm cả lúc khởi sự của đời sống Mẹ.

Đức Giám Mục Theoteknos thành Livias ở Palestine, vị sống giữa năm 550 và 650, dường như đã tiến theo chiều hướng của sự tinh tuyền từ ban đầu này. Khi trình bày Mẹ Maria như “thánh hảo và tuyệt mỹ”, “tinh tuyền và vô tì tích”, ngài đã nói đến việc hạ sinh của Mẹ bằng những lời lẽ sau đây: “Mẹ đã được sinh ra như phẩm thần cherubim, Mẹ được làm nên bởi một thứ đất sét tình tuyền vô nhiễm” (Panegyric for the feast of the Assumption, 5-6).

Câu diễn tả cuối cùng này, khi nhắc lại việc tạo dựng nên con người tiên khởi, một con người được hình thành bởi một thứ đất sét không tì ố bởi tội lỗi, đã qui cùng những đặc tính cho việc hạ sinh của Mẹ Maria: gốc tích của vị Trinh Nữ này cũng “tinh tuyền và vô nhiễm’, tức là, không có bất cứ một tội lỗi nào. Việc so sánh với phẩm thần cherubim cũng nhấn mạnh đến sự thánh thiện nổi bật là đặc tính nơi đời sống của Mẹ ngay từ khi Mẹ bắt đầu hiện hữu.

Chủ trương của Giám Mục Theoteknos là những gì đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong việc suy tư thần học về mầu nhiệm Người Mẹ của Chúa. Các Giáo Phụ Hy Lạp và Đông Phương đã công nhận sự tinh tuyền nơi Mẹ Maria do ân sủng mà có, một là trước biến cố Nhập Thể (Thánh Gregory Nazianzen, Oratio 38, 16), hay vào chính lúc Nhập Thể (Thánh Ephrem, Severian of Gabala, James of Sarug). Giám Mục Theoteknos thành Livias dường như đòi hởi nơi Mẹ Maria một thứ tinh tuyền tuyệt đối ngay từ ban đầu đời sống của Mẹ. Thật vậy, Mẹ là vị được ấn định trở thành Người Mẹ của Đấng Cứu Thế cần phải có một thứ thánh hảo trọn vẹn, một ban đầu hoàn toàn vô tì tích.

4.         Vào thế kỷ thứ 8, Andrew ở Crete là thần học gia đầu tiên thấy được nơi việc hạ sinh của Mẹ Maria một tạo vật mới. Đây là lý lẽ của vị này: “Ngày nay, nhân tính, nơi tất cả nhưng gì là rạng ngời của cái sao sang vô nhiễm của mình, nhận lãnh vẻ đẹp cổ kính của nó. Cái ô nhục của tội lỗi đã làm u tối đi ánh quang và vẻ thu hút của bản tính nhân loại; thế nhưng, Ngiười Mẹ của Đấng Mỹ Lệ đệ nhất được hạ sinh, thì bản tính này lấy lại được nơi bản thân Mẹ đặc ân xưa kia và được hình thành theo một mô mẫu trọn hảo thực sự xứng với Thiên Chúa… Việc đổi mới của bản tính của chúng ta bắt đầu hôm nay đây và cái thế giới già nua, một thế giới lệ thuộc vào việc biến đổi thần linh hoàn toàn, lãnh nhận các hoa trái đầu tiên của cuộc tạo dựng thứ hai” (Serm. I on the Birth of Mary).

Thế rồi, lấy lại hình ảnh về thứ đất sét thuở ban đầu, ngài nói: “Thân xác của Vị Trinh Nữ này là mảnh đất được Thiên Chúa canh tác, là những hoa trái đầu tiên nơi mảnh đất của Adong là nơi được Chúa Kitô thần linh hóa, là hình ảnh thực sự như vẻ đẹp trước kia, là đất sét được Vị Nghệ Sĩ thần linh nhào nặn” (Serm. I on the Dormition of Mary).

Sự thánh thiện ban đầu của Mẹ Maria là khởi điểm của ơn Cứu Chuộc

Việc hoài thai tinh tuyền và vô nhiễm của Mẹ Maria bởi thế được thấy như là khởi sự của việc tân tạo. Nó là vấn đề của một đặc ân riêng được ban cho người nữ được chọn làm Mẹ của Chúa Kitô, vị mở ra trong thời gian ân sủng sung mãn Thiên Chúa muốn giành cho tất cả nhân loại. 

Tín lý này, lại được tiếp tục lần nữa vào thế kỷ thứ tám bởi Thánh Germanus thành Constantinople và Thánh Gioan Damascenô, đã làm sáng tỏ về giá trị nơi thánh đức ban đầu của Mẹ Maria, một thánh đức được trình bày như khởi điểm cho Ơn Cứu Chuộc của thế giới.

Như thế, truyền thống của Giáo Hội đồng hóa và làm sáng tỏ ý nghĩa chân thực của tước hiệu “đầy ân phúc” do thiên thần tặng cho Đức Trinh Nữ. Mẹ Maria đầy ơn thánh hóa và được đầy như vậy từ giây phút đầu tiên của cuộc sống Mẹ. Ân sủng này, theo Thư gửi tín hữu Êphêsô (1:6), được ban xuống trong Chúa Kitô trên tất cả mọi tín hữu. Sự thánh thiện ban đầu của Mẹ Maria là những gì tiêu biểu cho một mô mẫu siêu việt về tặng ân cùng với việc phân phát ân sủng của Chúa Kitô trên thế gian này.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

Chuyển dịch từ L'Osservatore Romano Weekly Edition in English 22/5/1996, trang 11.

 

 

 

ĐTC GPII: Bài Giảng Thánh Lễ Trọng Kính Mẹ Vô Nhiễm 2004, Kỷ Niệm 150 Năm Tín Điều Thánh Mẫu Vô Nhiễm Nguyên Tội


1.     “Kính mừng đầy ơn phúc, Chúa ở cùng người!” (Lk 1:28)


Chúng ta ngỏ cùng Trinh Nữ Maria mỗi ngày một số lần những lời lẽ này của Tổng Thần Ga-Biên. Chúng ta lập lại những lời ấy hôm nay đây một cách hân hoan cảm mến vào ngày Lễ Trọng Vô Nhiễm Nguyên Tội, khi nhớ lại là vào ngày 8/12/1854, Chân Phước Piô IX đã công bố tín điều cao quí này của đức tin Công Giáo chính tại Đền Thờ Vatican đây.


Tôi thân ái chào tất cả mọi người đến đây hôm nay, nhất là những vị đại diện Các Hội Thánh Mẫu Học Toàn Quốc, thành phần tham dự Hội Nghị Thánh Mẫu Học Maria Quốc Tế do Giáo Hoàng Học Viện Thánh Mẫu tổ chức.


Tôi cũng chào tất cả mọi anh chị em hiện diện nơi đây, hỡi anh chị em thân mến, những người đã đến đây để tỏ lòng tôn kính của người con thảo tỏ ra đối với Vị Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tôi đặc biệt chào ĐHY Camillo Ruini là vị tôi lập lại những lời chúc mừng thân ái nhất của tôi dịp mừng kỷ niệm linh mục của ngài, với tất cả tấm lòng tri ân ngài về việc ngài quảng đại dấn thân phục vụ và tiếp tục phục vụ Giáo Hội với tư cách là tổng đại diện Giáo Phận Rôma cũng như với tư cách là chủ tịch hội đồng giám mục Ý quốc.


2.     Cao cả biết bao mầu nhiệm Vô Nhiễm Nguyên Tội được phụng vụ hôm nay tỏ ra cho chúng ta thấy! Một mầu nhiệm không ngừng thu hút việc chiêm ngưỡng của các tín hữu và khiến cho các thần học gia phải suy tư. Đề tài của Cuộc Hội Nghị Thánh Mẫu vừa rồi, “Đức Maria Nazarét Lãnh Nhận Con Thiên Chúa trong Lịch Sử”, đã giúp cho việc học hỏi sâu xa hơn tín lý hoài thai vô nhiễm của Mẹ Maria, một cuộc hoài thai vô nhiễm như điều kiện cần phải có để lãnh nhận trong cung lòng của Mẹ Lời Thiên Chúa nhập thể, Đấng Cứu Độ nhân trần.


“Đầy ơn phúc” là ngôn từ, theo nguyên ngữ Hy Lạp của Phúc Âm Thánh Luca, Thiên Thần ngỏ cùng Mẹ Maria. Đó là danh xưng được Thiên Chúa, qua sứ giả của mình, muốn nói về vị Trinh Nữ này. Ngài hằng nghĩ về Mẹ và thấy Mẹ như thế, “ab aeterno”.


3.     Ở bài thánh ca của Bức Thư gửi giáo đoàn Êphêsô, được công bố trước đây, Vị Tông Đồ đã chúc tụng Thiên Chúa là Cha vì Ngài “đã chúc phúc cho chúng ta trong Chúa Kitô bằng mọi phép lành thiêng liêng trên trời” (1:3). Còn những phúc lành đặc biệt nào nhất Thiên Chúa lại không đoái nhìn tới Mẹ Maria ngay vào lúc mở màn thời gian! Mẹ Maria thật sự là có phúc hơn mọi người nữ (x Lk 1:42).


Chúa Cha đã tuyển chọn Mẹ trong Chúa Kitô trước khi tạo thành thế gian, nhờ đó, Mẹ là tạo vật thánh hảo và vô nhiễm trước nhan Ngài trong yêu thương, khi Ngài tiền định Mẹ là hoa trái đầu mùa của thành phần con cái được Ngài thừa nhận nơi Chúa Giêsu Kitô (x Eph 1:4-5).


4.     Việc tiền định về Mẹ Maria, cũng như việc tiền định về mỗi một người trong chúng ta, là những gì tương đối so với việc tiền định về Người Con. Chúa Kitô là “giòng giống” sẽ “đạp đầu” con cựu xà, theo Sách Khởi Nguyên (3:15); Người là Con Chiên “vô tì vết” (x Ex 12:5; 1Pt 1:19), bị sát tế để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi.


Được hưởng trước cuộc tử nạn cứu độ của Người, Maria, Mẹ của Người, được gìn giữ khỏi nguyên tội cũng như khỏi hết mọi tội lỗi khác. Nơi cuộc chiến thắng của vị tân Adong ấy cũng có cả cuộc chiến thắng của một tân Evà là Mẹ của thành phần được cứu chuộc nữa. Bởi thế, Vô Nhiễm Nguyên Tội là một dấu hiệu của niềm hy vọng cho tất cả mọi kẻ sống, thành phần đã chiến thắng Satan nhờ máu của Con Chiên (x Rev 12:11).


5.     Hôm nay chúng ta chiêm ngưỡng người tỳ nữ thấp hèn Nazarét, người tỳ nữ thánh hảo và vô nhiễm trước nhan Thiên Chúa trong đức mến yêu (x Eph 1:4), một “đức mến yêu” ở chính nguồn mạch của mình là chính Thiên Chúa, Duy Nhất và Ba Ngôi.


Công cuộc cao cả của Chúa Ba Ngôi Chí Thánh là việc Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Đấng Cứu Chuộc! Trong tông sắc “Ineffabilis Deus”, Đức Piô IX đã nhắc lại rằng Đấng Toàn Năng đã thiết lập “cùng một cấp độ duy nhất về nguồn gốc của Mẹ Maria lẫn việc nhập thể của Đức Khôn Ngoan thần linh” ("Pius IX Pontificis Maximi Acta," Pars prima, p. 559).


Tiếng “xin vâng” của Vị Trinh Nữ này đáp lời truyền tin của Thiên Thần đóng vai trò cụ thể hóa thân phận trần gian của chúng ta, vai trò của một tặng ân thấp hèn hiến dâng cho ý muốn thần linh trong việc cứu độ nhân loại không phải từ lịch sử mà là trong lịch sử. Thật vậy, được gìn giữ vô nhiễm khỏi hết mọi tì ố của nguyên tội, vị “tân Evà” này được hưởng một cách đặc biệt công cuộc của Chúa Kitô là Vị Trung Gian và là Đấng Cứu Chuộc hoàn hảo nhất. Được cứu chuộc trước tiên bởi Con của mình, Mẹ được hoàn toàn tham dự vào sự thánh thiện của Người. Mẹ đã là những gì toàn thể Giáo Hội mong ước và hy vọng trở thành. Mẹ là hình ảnh cánh chung của Giáo Hội.


6.     Đó là lý do mà Đấng Vô Nhiễm, vị cho thấy “từ ban đầu của Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa Kitô không tì ô hay nhăn nheo, rạng ngời kiều diễm” (Kinh Tiền Tụng), bao giờ cũng đi trước Dân Chúa trong cuộc hành trình đức tin hướng về Nước Trời (x “Ánh Sáng Muôn Dân, 58; thông điệp “Mẹ Đấng Cứu Chuộc”, 2).


Nơi việc hoài thai vô nhiễm của Mẹ Maria, Giáo Hội thấy hiện lên, ngưỡng vọng nơi phần thể cao quí nhất của mình đây, ơn cứu độ Phục Sinh.


Trong biến cố Nhập Thể, Giáo Hội thấy Người Con và Người Mẹ này liên kết với nhau bất khả phân ly: “Người là Chúa và là Đầu của Giáo Hội, và Mẹ, khi thưa tiếng xin vâng đầu tiên của Tân Ước, báo hiệu cho thấy thân phận của Giáo Hội trong vai trò làm hiền thê và làm mẹ” ("Redemptoris Mater," No. 1).


7.     Hỡi Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội, vị được Thiên Chúa tiền định hơn hết mọi thụ tạo làm vị bầu cử ân sủng và là mô phạm thánh đức của Dân Ngài, hôm nay đây con xin lập lại một cách đặc biệt việc hiến dâng toàn thể Giáo Hội cho Mẹ.


Xin Mẹ hướng dẫn con cái của Mẹ trong cuộc hành trình đức tin, giúp họ hằng tuân hợp và trung thành với Lời Chúa.


Xin Mẹ đồng hành với hết mọi Kitô hữu trên con đường hoán cải và nên thánh, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi cũng như trong việc tìm cầu sự mỹ lệ thật sự, sự mỹ lệ lúc nào cũng là dấu hiệu và phản ảnh Sự Mỹ thần linh.


Xin Mẹ, một lần nữa, xin cho tất cả mọi dân nước được an bình và cứu độ. Xin Cha hằng hữu, Đấng muốn Mẹ là Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đấng Cứu Chuộc, cũng tái diễn trong thời đại của chúng con đây, qua Mẹ, những điều kỳ diệu của tình yêu nhân hậu của Ngài. Amen!

 

Hoài Thai Vô Nhiễm Tội

 

(Trích Thần Đô Huyền Nhiệm - bản dịch của Phạm Duy Lễ, CRM)

 

Trong một lúc bị choáng váng vì vẻ đẹp của linh hồn và thân xác của Adong và Evà, mà Thiên Chúa đã làm nên giống Chúa Kitô và Mẹ Maria sau này, Luxiphe đã hằn học làm cho hai ông bà mất hạnh phúc. Nó đến quyến dũ ông bà đừng tuân phục Thiên Chúa. Nó căm giận ganh ghét đến cám dỗ Evà trước, vì thấy bà không có khí phách kiên dũng như Adong. Trước khi đến cám dỗ bà bội tín như Thánh Kinh kể lại, Satan đã khuấy khuất bà qua những tư tưởng phóng túng mạnh mẽ kinh hồn.

 Thành công, nên Satan say niềm vui thú, nhưng niềm vui thú đó rất ngắn. Nó thất vọng sâu sắc khi thấy Adong Evà đã hối hận. Thiên Chúa đã thương xót tha tội cho ông bà ngay. Nhưng nhất là nó căm tức run lên khi Thiên Chúa nhắc lại cho nó lời Người đã đe phạt nó ở trên trời: "Đức Nữ ấy sẽ đạp nát đầu ngươi".

Thiên Chúa chọn một dân tộc riêng để bảo tồn lời hứa đó, và dùng dân tộc ấy để thực hiện. Đó là dân Israel.

Tội lỗi đã mở rộng quyền ảm đạm của nó hầu như không còn biên giới. Sự mù tối của những kẻ phàm hèn nô lệ nó thành mù tối rất sâu đậm, đến nỗi chúng không nghĩ tới giải thoát mình nữa. Mỗi người tự tạo ra cho mình một vị chúa để tôn thờ, trong khi họ bỏ quên Thiên Chúa chân thật. Tắt rằng, Luxiphe vênh váo ngự trị trên ngai tòa tạo bằng tất cả những sự xấu xa dưới quyền chỉ huy của tật kiêu ngạo. Còn Thiên Chúa lại bị khinh bỉ. Ngay trong bóng đêm tối tăm dầy đặc ấy, Thiên Chúa xét đã tới lúc thắp lên hai ngọn đuốc rất sáng, báo tin trước mặt trời công chính sẽ mọc. Hai ngọn đuốc đó là thánh Gioakim và thánh nữ Anna.

Thánh Gioakim sinh trưởng tại Nagiaret. Người là người lúc nào cũng khiêm nhu, trong sạch, đầy nhiệt tâm và thánh thiện. Thánh nữ Anna sinh trú tại Belem. Từ nhỏ bà đã có một đức thanh tịnh, đức khiêm nhu, một nền thánh đức và một vẻ đẹp hoàn toàn xuất chúng. Đức tin, đức cậy, đức mến của bà thật vô song. Bà không ngừng cầu xin Thiên Chúa ban Đấng Cứu chuộc rất cần thiết cho thế gian. Ngoài ra, vì phận nữ, bà cầu xin Chúa ban cho bà một người bạn trăm năm để cùng nhau phụng sự Chúa cách hoàn hảo, theo quan niệm chung của dân Israel thời ấy. Đồng thời lúc bà cầu xin như thế, thánh Gioakim cũng dâng lời cầu tương tự.

Cuộc hôn nhân được lo liệu ngay, Lúc ấy, thánh Gioakim đã 46, còn thánh Anna lên 24 tuổi.

Đôi bạn thánh ấy biến nơi cư ngụ của mình ở Nagiaret thành một đền thờ để cùng nhau ca tụng Thiên Chúa, dâng mình phụng sự Người. Anna đem hết tâm tình khiêm nhu tùng phục ý muốn Gioakim, Gioakim đón trước những ước muốn của người bạn đường mà Người hết sức chiều nể.

Tuy nhiên, 25 năm đã trôi qua mà không có con để đem lại vui tươi cho ngôi nhà vắng vẻ của ông bà. Người Do Thái cho đó là một sự xỉ nhục, họ quở trách hai ông bà cách gay gắt nhục nhã. Nhưng Thiên Chúa dùng cái nhục nhã ấy để chuẩn bị cho hai ông bà được hưởng niềm vui đang thiếu thốn. Người cho ông bà tùng phục thánh Ý quan phòng của Người, và để gieo trong nước mắt một kết quả mà ông bà nhất định sẽ hái lượm được. Theo ơn Chúa thúc giục bên trong, hai ông bà cầu xin Chúa ban cho được sinh con, và đoan hứa sẽ dâng con ấy vào Đền thờ, để con tận hiến cho Người…

Ngày thể xác Mẹ Maria được hình thành là ngày Chúa Nhật, tương ứng với ngày đầu tiên trong công cuộc sáng tạo trời đất. Thể xác Mẹ chỉ tiếp nhận ân sủng, cho nên, toàn thể đều rất trọn vẹn, rất siêu nhiên. Không bao giờ có một thể xác con người nào được hình thành với bấy nhiêu hoàn thiện, bấy nhiêu tinh tế và bấy nhiêu mĩ lệ. Mặc dầu thể xác Mẹ có thể chịu đau khổ, nhưng không hề có một mầm giống bệnh hoạn, chết chóc và hư hoại nào, tức là những hậu quả của hình phạt vì tội lỗi Adong.

Ngày Thứ Bảy tiếp đó, một ngày ứng với ngày nghỉ, ngày đại lễ chung kết cho việc sáng tạo, Thiên Chúa tạo nên linh hồn Mẹ Maria.  Để kỷ niệm biến cố này, Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho Giáo Hội dâng ngày Thứ Bảy trong tuần kính Mẹ Maria. Lúc sáng tạo linh hồn đầy phúc đức hơn hết mọi linh hồn này, Thiên Chúa Ba Ngôi đã tỏ hết tình âu yếm hơn cả trước khi sáng tạo con người đầu tiên. Ngài nói: " Ta hãy sáng tạo Maria giống hình tượng và tương tự Ta. Ta hãy làm cho Maria nên Nữ Tỳ thật của Ta, nên Hiền Thê thật của Ta, để Maria xứng đáng làm Mẹ Con duy nhất của Cha hằng hữu". Sau khi sáng tạo linh hồn Mẹ rồi, Chúa Ba Ngôi còn kêu lên một cách khoái thú hơn ở địa đường ngày trước rất nhiều: " Tất cả mọi phương diện nơi Maria đều hoàn toàn thiện mỹ".

Thật vậy, không những linh hồn Mẹ không mắc tội nguyên tổ, mà còn rực rỡ với những ơn cao cả Thiên Chúa ban riêng, tới cao độ tuyệt vời, đến nỗi tất cả các bậc thần thánh hợp một cũng không thể sánh lại được.  Không ngôn ngữ loài người nào có thể diễn tả được. Khi vừa được sáng tạo, linh hồn Mẹ đã hợp nhất ngay với xác thể đang chờ linh hồn. Đó là sự Đầu Thai Vô Nhiễm.

Chúa ban cho Mẹ những ơn lạ lùng không thể tưởng: Trí khôn Mẹ được thấu hiểu các mầu nhiệm về Thần tính, về Chúa Ba Ngôi, về ơn Nhập Thể và Cứu Chuộc, về những vẻ đẹp đẽ của cuộc sáng tạo trời đất, về thiên thần và loài người, về lịch sử dân riêng Chúa chọn, các Tổ phụ, các tiên tri, thiên đàng, luyện ngục, ngục tổ tông, và hỏa ngục. Linh hồn Mẹ được trang điểm bằng những ơn Thánh và các nhân đức với một mức độ hoàn toàn cao siêu.

Vì Mẹ vượt trên các thiên thần và loài người, nên khi vừa đầu thai,  Mẹ Maria đã làm những việc nhân đức hợp với cấp bậc trong thai của Mẹ. Mẹ đã dâng lên Thiên Chúa những việc tôn thờ, ca tụng, biết ơn, yêu mến, để phụng sự Người và cho vinh quang Người. Mẹ cũng sấp mình trước Oai Nghi Thiên Chúa để tỏ lòng tôn thờ bề ngoài. Mẹ đã dâng lên Thiên Chúa lời cầu xin cho loài người, cũng như cầu xin cho Đấng Cứu Chuộc mau đến giải thoát loài người khỏi ách nô lệ ma quỉ.

Ngay còn trong thai, Mẹ đã thực hiện những việc thờ phượng Chúa, nên Mẹ đã lập công trạng lớn lao hơn  tất cả các thánh sau này.

 Mẹ được ơn chiêm ngắm Hữu Thể Thiên Chúa cách tỏ tường, đốt tâm hồn Mẹ cháy lên niềm mến yêu Thiên Chúa.  Mẹ không hề ngưng tôn thờ Thiên Chúa và cầu xin Thiên Chúa thay cho loài người, cùng với các thiên thần Mẹ hằng tiếp xúc.  Nhờ thế, Mẹ không hề cảm thấy khó chịu khi nằm trong lòng thánh nữ Anna.

Đã đến lúc Mẹ xuất hiện trên trần gian.

Về phần thánh nữ Anna, Bà hết sức êm nhẹ đợi chờ con mình sinh ra.  Để thêm vinh hiển cho bà, Chúa Quan Phòng cũng để bà phải chịu một ít phiền não.

Từ lâu rồi, tên ngụy thần này vẫn để ý tìm tòi trong những phụ nữ thánh thiện xem ai là người sẽ đạp nát đầu nó.  Nó từng quan sát kỹ sự thánh thiện khác thường của bà nội trợ Ông Gioakim, cũng như tất cả những gì đã xẩy ra cho bà, nhưng không sao biết được kho tàng bà đang cưu mang. Nó rất ngỡ ngàng khi cảm thấy mình bị một sức mạnh vô địch đẩy lui xa. Nó thật bối rối. Mối ưu tư của nó càng tăng thêm đôi khi thấy nhiều thiên thần giúp đỡ bà. Nó hoảng hốt tự hỏi không biết việc bà thụ thai đó có lạ lùng không, và việc bà sắp sinh con có báo trước sự nó bị đạp nát đầu mà nó từng lo sợ không?

Bị mối não nề đó thúc bách, nó quyết định giết chết bà hoặc ít là ngăn cản việc sinh con bà.  Nó cám dỗ bà cách ghê sợ để giục bà phạm lỗi lầm nào đó, hoặc làm cho bà phải kinh sợ mà chết.  Nhưng bà vừa bình tĩnh vừa dũng mạnh đẩy lui những tấn công của Satan. Luxiphe đem thử những cách cám dỗ khác một phen nữa.  Nó dụng tâm phá đổ nhà thánh nữ Anna để khủng bố bà giữa những đổ nát tan tành, nhưng các thiên thần ngăn cản không cho nó làm.  Lúc đó, nó đi xúi siểm nhiều người đàn bà khác có tính nhẹ dạ đến la mắng thánh nữ.  Bọn này đến văng ra những lời xỉa xói nhục mạ.  Nhưng thánh nữ chỉ đáp trả bằng những lời ngọt ngào và những giúp đỡ cần thiết.

Ngày mồng 8 tháng 9, thánh nữ Anna hiểu rằng bà sắp sinh Người Con bà hằng ước nguyện.  Bà sấp mình cầu xin Thiên Chúa chúc phúc cho con mình.  Lúc đó, Mẹ Maria được Chúa cho xuất thần rất cao cả, không thấy được mình sinh vào trần gian như thế nào.  Lúc ra khỏi cơn xuất thần ấy, Mẹ đã thấy mình đẹp đẽ nằm trên tay thân mẫu mình.  Thánh nữ Anna được gìn giữ khỏi mọi đau đớn thông thường nơi các bà mẹ sinh con.

Các thiên thần hầu cận Mẹ, cùng với vô số thiên thần khác tháp tùng, đến tỏ niềm tôn kính Mẹ.  Họ hát lên một khúc ca thiên đàng, rồi bắt đầu phục vụ Mẹ.

...Sau đó, Thiên Chúa Ba Ngôi tỏ cho các thiên thần biết rằng từ đời đời Người đã tác tạo cho Mẹ và cho Ngôi Con danh hiệu MARIA và GIÊSU.  Trong hai danh hiệu đó, Người được thỏa lòng hoàn toàn.  Rồi Người phán: “Danh hiệu Maria phải được hiển vinh lạ thường. Những ai thành thực sốt sắng kêu cầu danh hiệu ấy sẽ được ban nhiều ân sủng. Những ai kính cẩn đọc lên sẽ được ủi an. Mọi người đều tìm được trong danh hiệu ấy phương dược trị liệu bệnh tật mình; được ánh sáng soi đường; được kho tàng cứu giúp sự túng nghèo. Danh hiệu Maria làm run sợ hỏa ngục và đạp nát đầu cựu xà Satan”. Chính Chúa đặt danh hiệu ấy cho Mẹ.

 

 


Thứ Năm

(Nếu không bị trùng và bị át đi bởi Lễ Trọng Đức Mẹ Vô Nhiễm như năm 2022 này)

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: Is 41, 13-20

"Ta là Ðấng Thánh của Israel, Ta là Ðấng Cứu Chuộc ngươi".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Ta cầm tay ngươi và nói cùng ngươi: Ðừng sợ gì, đã có Ta giúp.

Hỡi con sâu Giacóp, hỡi dân Israel, đừng sợ chi, Ta sẽ đến giúp ngươi, đó là lời Chúa phán, Ðấng Thánh của Israel, Ðấng Cứu Chuộc ngươi. Ta sẽ đặt ngươi như chiếc bừa mới tinh và có răng nhọn, ngươi sẽ băm các đồi ra như rơm rác. Ngươi sẽ sàng chúng và gió sẽ cuốn chúng đi, và cơn lốc sẽ làm chúng tan tác. Còn ngươi, ngươi sẽ vui mừng trong Thiên Chúa, sẽ hân hoan trong Ðấng Thánh của Israel.

Những kẻ thiếu thốn nghèo nàn tìm nước, nhưng luống công, lưỡi chúng đã khô đi vì khát nước. Ta là Chúa, Ta sẽ nhậm lời chúng. Thiên Chúa của Israel, Ta sẽ không bỏ chúng. Ta khiến sông chảy trên đỉnh núi trọc, và suối nước tràn giữa thung lũng. Ta sẽ biến hoang địa thành ao hồ và đất khô thành suối nước.

Nơi hoang địa, Ta sẽ cho mọc lên cây hương nam, cây keo, cây sim và cây dầu; nơi sa mạc, Ta sẽ trồng cây tùng, cây du, cây bách, để mọi người thấy, biết, lưu tâm và hiểu rằng chính tay Chúa đã làm nên sự nghiệp đó, và Ðấng Thánh của Israel đã tạo nên cơ đồ này.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 1 và 9. 10-11. 12-13ab

Ðáp: Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng (c. 8).

Xướng: 1) Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, con sẽ ca khen Chúa, và con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Chúa hảo tâm với hết mọi loài,và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.

3) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời; chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy đến viếng thăm chúng con trong bình an, để tâm hồn chúng con được hoàn toàn vui mừng trước nhan Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 11, 11-15

"Chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả, nhưng người nhỏ nhất trong nước trời lại cao trọng hơn ông. Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, nước trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được. Tất cả các tiên tri và lề luật đã tuyên sấm cho đến Gioan và nếu các ngươi muốn hiểu, thì chính Gioan là Elia, kẻ phải đến. Ai có tai, thì hãy nghe!"

Ðó là lời Chúa.

 


Suy niệm


  nhập thể tiền hô  



Nếu trong tuần thứ hai Mùa Vọng, ba ngày đầu các bài Phúc Âm đã xoay quanh thân phận khốn khổ đáng thương của con người cần được Thiên Chúa cứu độ và trông mong Ơn Cứu Độ, thì 3 bài Phúc Âm cuối tuần này liên quan đến một con người đặc biệt đó là Tiền Hô Gioan Tẩy Giả


Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã khen tặng Vị Tiền Hô được sai đến trước Người là Đấng cao trọng hơn ông để dọn đường cho Người là Đấng đến sau ông:


"Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: 'Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả, nhưng người nhỏ nhất trong nước trời lại cao trọng hơn ông. Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, nước trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được. Tất cả các tiên tri và lề luật đã tuyên sấm cho đến Gioan và nếu các ngươi muốn hiểu, thì chính Gioan là Elia, kẻ phải đến. Ai có tai, thì hãy nghe!'"


Trước hết, Chúa Giêsu đã minh định Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là con người cao cả nhất loài người, không một ai cao trọng hơn ngài, thậm chí có thể nói bao gồm cả Mẹ Maria. Phải chăng chính vì thế mà trong tất cả các thánh (ngoài trừ Mẹ Maria), chỉ có một mình Thánh Gioan Tẩy Giả mới được Giáo Hội mừng lễ sinh nhật trần gian của ngài, 24/6 (trước Lễ Giáng sinh 6 tháng), (lễ sinh nhật nước trời tưởng nhớ cái chết mất đầu của ngài 29/8) mà là mừng ở bậc Lễ Trọng (solemnity), hơn cả lễ sinh nhật Mẹ Maria ngày 8/9, chỉ ở bậc lễ kính (feast)? 


Dầu sao nhân vật Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này, về cấp độ ân sủng, ngài không thể nào "Đầy Ơn Phúc" (Luca 1:28) như Mẹ Maria, và phải chăng đó là lý do Chúa Giêsu đã ám chỉ về Mẹ Maria ngay sau khi khen tặng vị tiền hô của Người: "người nhỏ nhất trong nước trời lại cao trọng hơn ông"? 


Đúng thế, nếu càng khiêm hạ nhỏ bé thì càng lớn lao cao trọng trên nước trời thì ai bé nhỏ bằng Mẹ Maria nên nhờ đó Mẹ Maria mới càng lớn lao cao trọng nhất trên Nước Trời, nghĩa là vì Mẹ càng nhỏ, càng trở thành hư không, thành zero, Mẹ mới càng đầy Thiên Chúa là sự hữu, là tất cả, mới càng giống Chúa Kitô, đến độ phản ảnh Người là mặt trời công chính, như Mẹ được Thánh ký Gioan thị kiến thấy và mô tả trong Sách Khải Huyền của ngài như "mặc mặt trời" (12:1), hay như Diễm Tình Ca cho biết là "rực rỡ như mặt trời" (6:10). Trong khi đó Thánh Gioan Tẩy Giả chỉ là cái đèn soi mà thôi (xem Gioan 1:6-8;5:35).


Sở dĩ Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này là một con người cao cả nhất loài người, tất nhiên không phải về lãnh vực ân sủng, như trên đã cảm nhận và phân tích, cho dù ngài có được cho rằng khỏi nguyên tội khi còn là thai nhi 6 tháng trong lòng thai mẫu, vào chính lúc ngài nhẩy mừng khi nghe thấy lời Mẹ Maria chào mẹ của ngài (xem Luca 1:44), mà là về vai trò của ngài, một vai trò không ai trên trần gian này có thể hơn được ngài. Giống như trường hợp các vị linh mục, cho dù không đầy ân phúc như Mẹ Maria trong cấp trật ân sủng, nhưng vẫn hơn Mẹ trong vai trò linh mục của các vị, bởi các vị được đồng hóa với Chúa Kitô và là Chúa Kitô (Alter Christus) khi các vị thi hành thừa tác vụ thánh.


Sứ vụ cao trọng vô tiền khoáng hậu của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này là ở chỗ ngài là vị trung gian giữa Cựu Ước và Tân Ước. Thật vậy, nếu nền tảng của Nhà Thiên Chúa được xây trên "nền tảng các tông đồ và tiên tri" (Êphêsô 2:20), thì Thánh Gioan Tẩy Giả chẳng những là vị tiên tri của các vị tiên tri, "tiên tri của Đấng Tối Cao" (Luca 1:46) được tiên báo bởi chính một vị tiên tri trong Cựu Ước (xem Isaia 40:3), mà còn là "chàng phù rể" (Gioan 3:29) ở sát ngay bên với Chàng Rể Kitô hơn hết mọi ngườiđã nhận biết Chúa Kitô trước để rồi sau đó đã giới thiệu Người cho các tông đồ tiên khởi của Chúa Kitô (xem Gioan 1:35-51). 


Chưa hết, sứ vụ cao trọng của ngài còn lên đến tột đỉnh ở chỗ ngài đã làm phép rửa cho chính Đấng Thiên Sai Cứu Thế, như thể ngài đã trở thành người cha thiêng liêng của Con Thiên Chúa làm người. Không một vị tiên tri nào trong Cựu Ước đã được tận mắt nhìn thấy Chúa Kitô và gặp Chúa Kitô, ngoài trừ Thánh Gioan Tẩy Giả. Và cũng không một tông đồ nào đã nhận biết Chúa Kitô như ngài, cho dù các vị đã sống với Chúa Kitô 3 năm, trong khi ngài chưa hề gặp Người mà vẫn có thể nhận ra Người để giới thiệu Người cho các vị (xem Gioan 1:33-34). Nếu các tông đồ là thành phần chứng nhân tiên khởi của Chúa Kitô trên thế giới nói chung thì Thánh Gioan Tẩy Giả là chứng nhân tiên khởi cho Chúa Kitô trước dân Do Thái cũng như trước các tông đồ của Chúa Kitô nói riêng. 


Phải chăng Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng được lời Chúa qua miệng Tiên Tri Isaia tiên báo và ám chỉ trong Bài Đọc 1 hôm nay ở các câu sau đây: "Nơi hoang địa, Ta sẽ cho mọc lên cây hương nam, cây keo, cây sim và cây dầu; nơi sa mạc, Ta sẽ trồng cây tùng, cây du, cây bách, để mọi người thấy, biết, lưu tâm và hiểu rằng chính tay Chúa đã làm nên sự nghiệp đó, và Ðấng Thánh của Israel đã tạo nên cơ đồ này"? Phải chăng Thánh Gioan Tẩy Giả, với sứ vụ cao trọng đệ nhất thiên hạ của ngài chính là "cây hương nam trong hoang địa",  "cây tùng trong sa mạc"?


Việc "Lời đã hóa thành nhục thể", một mầu nhiệm vô cùng mầu nhiệm, rất khó có thể chấp nhận với tâm thức tự nhiên của con người, trái lại, còn có thể "trở thành cớ vấp phạm cho nhiều người trong Israel" (Luca 2:34), nên còn được Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan đã cẩn thận sửa soạn cho việc Người xuất hiện trước dân Do Thái của Ngài, ở chỗ sai "vị tiên tri của Đấng Tối Cao" là Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đến trước để dọn đường cho "Người tỏ mình ra" (Gioan 1:31), nhờ đó dân của Ngài mới có thể nhận biết Người mà được cứu độ. 


Đó là lý do, cũng trong Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa đã trấn an dân của Ngài rằng: "Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Ta cầm tay ngươi và nói cùng ngươi: Ðừng sợ gì, đã có Ta giúp. Hỡi con sâu Giacóp, hỡi dân Israel, đừng sợ chi, Ta sẽ đến giúp ngươi, đó là lời Chúa phán, Ðấng Thánh của Israel, Ðấng Cứu Chuộc ngươi... Thiên Chúa của Israel, Ta sẽ không bỏ chúng. Ta khiến sông chảy trên đỉnh núi trọc (phải chăng ám chỉ tác động làm phép rửa đổ nước trên đầu lãnh nhận nhân?), và suối nước tràn giữa thung lũng (phải chăng ám chỉ ân sủng tràn đầy tâm hồn người lãnh nhận phép rửa?). Ta sẽ biến hoang địa thành ao hồ và đất khô thành suối nước" (phải chăng "nước" ở đây ám chỉ Thần Linh được Thiên Chúa tuôn đổ xuống cho những ai tin tưởng).


Cũng như các Bài Đáp Ca đã được Giáo Hội chọn đọc trong tuần này, Bài Đáp Ca hôm nay cũng chất chứa tâm tình hân hoan trước Vị Thiên Chúa cứu độ và cất tiếng chúc tụng ngợi khen lòng nhân lành từ ái của Ngài:


1) Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, con sẽ ca khen Chúa, và con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Chúa hảo tâm với hết mọi loài,và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.


2) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. 


3) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời; chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ. 





Thứ Sáu


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 48, 17-19

"Chớ gì ngươi lưu ý đến giới răn của Ta".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Thiên Chúa là Ðấng Thánh của Israel, Ðấng Cứu Chuộc ngươi phán: Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ðấng phán dạy ngươi những điều hữu ích, Ðấng dẫn dắt ngươi trong con đường phải đi. Nếu ngươi lưu ý đến các giới răn của Ta, thì hạnh phúc của ngươi sẽ như dòng sông, và sự công chính của ngươi sẽ như sóng biển. Dòng dõi ngươi sẽ như cát và con cháu ngươi sẽ đông đúc, và danh ngươi sẽ không bị xoá, bị diệt trước nhan thánh Ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6

Ðáp: Lạy Chúa, ai theo Chúa sẽ được ánh sáng ban sự sống (x. Ga 8, 12).

Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.

3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Này đây Ðức Vua là Thiên Chúa địa cầu sẽ đến. Chính Người sẽ cất ách tù đày của chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 11, 16-19

"Họ không nghe lời Gioan và lời Con Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Ta sẽ so sánh thế hệ này với ai? Họ giống như bọn trẻ ngồi nơi phố chợ, gọi lũ trẻ khác mà rằng: "Chúng tôi thổi sáo, sao các bạn không múa nhảy; chúng tôi than vãn, sao các bạn không khóc lên!"

"Vì Gioan đến, không ăn không uống, thì họ nói: "Ông ta phải quỷ ám!" Con Người đến, ăn uống giống như thường, thì họ nói: "Ðó là người mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi". Nhưng sự khôn ngoan được biện minh bằng các công việc của mình".

Ðó là lời Chúa.


Woe to an Unresponsive Generation | Life of Jesus

 

 

 

Suy niệm


 nhập thể sự thật  



Hôm nay, Thứ Sáu tuần thứ hai Mùa Vọng, bài Phúc Âm tiếp tục về nhân vật Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, một bài Phúc Âm tiếp ngay sau bài Phúc Âm cũng của Thánh ký Mathêu hôm qua:


"Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: 'Ta sẽ so sánh thế hệ này với ai? Họ giống như bọn trẻ ngồi nơi phố chợ, gọi lũ trẻ khác mà rằng: 'Chúng tôi thổi sáo, sao các bạn không múa nhảy; chúng tôi than vãn, sao các bạn không khóc lên!' Vì Gioan đến, không ăn không uống, thì họ nói: 'Ông ta phải quỷ ám!' Con Người đến, ăn uống giống như thường, thì họ nói: 'Ðó là người mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi'. Nhưng sự khôn ngoan được biện minh bằng các công việc của mình".


Nếu mầu nhiệm nhập thể "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) là một mầu nhiệm thật là mầu nhiệm, đến độ có thể thành cớ vấp phạm cho nhiều người trong dân Do Thái, như đã thực sự xẩy ra khi thành phần lãnh đạo của họ lên án tội lộng ngôn phạm thượng của Người, vì Người chỉ là loài người mà lại dám xưng mình ngang hàng với Thiên Chúa (xem Gioan 10:33; Mathêu 26:63-66), mà Thiên Chúa đã cần phải dọn đường cho Con của Ngài xuất hiện bằng cách sai Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đến trước Người như là một vị "tiên hô của Đấng Tối Cao" (Luca 1:76).


Bởi vậy, cũng như không nhận biết Chúa Kitô thì không thể nhận biết Cha là Đấng sai Người cũng là Đấng Người tỏ ra cho biết thế nào, thì ai không chấp nhận Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là "tiếng kêu trong sa mạc", cũng không thể nào có thể nhận biết chính "Lời" nhập thể là "tất cả sự thật" (Gioan 16:13) của tiếng kêu trong sa mạc ấy. Đó là lý do, trong Bài Phúc Âm hôm nay, chính Chúa Giêsu đã khẳng định: "Gioan đến, không ăn không uống, thì họ nói: 'Ông ta phải quỷ ám!' Con Người đến, ăn uống giống như thường, thì họ nói: 'Ðó là người mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi'".


Quả vậy, thực tế sống đạo cho thấy, một khi con người không thành tâm tìm kiếm chân lý là một thực tại khách quan hoàn toàn có thật ở bên ngoài mình và ở bên trên mình, (như thực tại mặt trời hiện hữu để chiếu tỏa ánh sáng cho sinh vật trên mặt đất này sống động và phát triển), soi sáng cho con người của mình và chi phối cuộc đời của mình, thì con người sẽ chẳng bao giờ nhận ra chân lý và được chân lý giải phóng (xem Gioan 12:32), nếu một khi họ cứ muốn tạo ra chân lý theo ý nghĩ thiển cận lại đầy thiên kiến và hết sức mù quáng chủ quan của họ.


Thành phần muốn sáng tạo nên sự thật này là thành phần hết sức độc đoán, đúng như thái độ và hành động của bọn trẻ con chẳng biết gì mà cứ tưởng mình là nhất, ai cũng phải theo mình mới được, một bọn trẻ con đã được chính Chúa Giêsu sử dụng trong bài Phúc Âm hôm nay, để ám chỉ thành phần tương đối hóa tuyệt đối (là chân lý và lề luật của Thiên Chúa) và tuyệt đối hóa tương đối (là ý nghĩ, ý thích và ý riêng của con người): "Họ giống như bọn trẻ ngồi nơi phố chợ, gọi lũ trẻ khác mà rằng: 'Chúng tôi thổi sáo, sao các bạn không múa nhảy; chúng tôi than vãn, sao các bạn không khóc lên!'"


Hai nguyên tổ ngày xưa trong vườn địa đàng cũng chẳng khác gì như bọn trẻ con này. Ở chỗ, các vị đã bất chấp sự thật lời Chúa về trái cấm và việc đụng đến trái cấm ấy, và coi ý nghĩ, ý thích và ý riêng của mình, do rắn quỉ tinh ranh dối trá lừa đảo mớm cho, là sự thật, là đúng nhất. Và vì sự thật bao giờ cũng là sự thật, cho dù nó có bị phủ nhận và triệt hạ nơi lương tâm và hành động của con người, không một loài thụ tạo nào có thể tạo nên sự thật, trái lại, h cần phải nhận biết, chấp nhận và tuân theo "tất cả sự thật" nữa mới được bình an, công chính và sự sống. 


Tuy đã sa ngã bởi chối bỏ sự thật và sau đó mới nhận ra sự thật thì đã lỡ hết rồi, đã bị chết đúng như lời cảnh báo vô cùng chân thật của Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 2:15-17;3:19). Thế nhưng, vẫn chưa muộn, nếu con người còn biết chấp nhận sự thật là mình đã lầm lạc mà hối lỗi, xin lỗi và chừa lỗi. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng thấu suốt con người là tạo vật của Ngài hơn ai hết, hơn chính bản thân họ, nên lúc nào Ngài cũng sẵn sàng tha thứ cho họ và ra tay cứu độ họ một khi họ thành tâm chạy đến với Ngài, khi họ còn thiện chí lắng nghe Ngài, như Ngài đã nói qua miệng Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay: 


"Thiên Chúa là Ðấng Thánh của Israel, Ðấng Cứu Chuộc ngươi phán: Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ðấng phán dạy ngươi những điều hữu ích, Ðấng dẫn dắt ngươi trong con đường phải đi. Nếu ngươi lưu ý đến các giới răn của Ta, thì hạnh phúc của ngươi sẽ như dòng sông, và sự công chính của ngươi sẽ như sóng biển. Dòng dõi ngươi sẽ  như cát và con cháu ngươi sẽ đông đúc, và danh ngươi sẽ không bị xoá, bị diệt trước nhan thánh Ta".


Bài Đáp Ca hôm nay cũng theo chiều hướng của cả Bài Đọc 1 lẫn Bài Phúc Âm hôm nay trong việc kêu gọi con người hãy sống theo sự thật và trong sự thật hơn là gian ác dối trá, nhờ đó họ mới không bị hủy diệt mà còn được tồn tại và phát triển nữa:


1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. 


2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.


3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. 

 


 

Thứ Bảy


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Hc 48, 1-4. 9-11

"Elia sẽ đến lần thứ hai".

Trích sách Huấn Ca.

Bấy giờ Elia như lửa hồng xuất hiện. Lời ông nóng bỏng như ngọn đuốc cháy phừng. Ông đem cho họ một mùa đói khát, và số người hiềm ghét ông đã hao đi, vì chúng nó chẳng giữ được giới răn Chúa. Do lời Chúa phán, ông đóng cửa trời và ba lần khiến lửa từ trời xuống. Elia, người được vinh quang nhờ các việc lạ lùng đã làm, và ai có thể tự hào được vinh quang như người? Người đã được cất đi trong bầu lửa, trong xe bởi ngựa lửa kéo đi. Người đã nên dấu chỉ sự đe phạt qua các thời đại, để làm nguôi cơn thịnh nộ Chúa, để giao hoà cha với con, và chấn hưng lại những chi họ Giacóp. Phúc cho những ai thấy ngài và được hân hạnh thiết nghĩa với ngài.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 79, 2ac và 3b. 15-16. 18-19

Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống (c. 4).

Xướng: 1) Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai! Chúa ngự trên các Vệ Binh Thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa, và ngự tới để cứu độ chúng con. - Ðáp.

2) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình. - Ðáp.

3) Xin Chúa ra tay bang trợ người ở bên tay hữu Chúa, con người mà Chúa đã củng cố cho mình. Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa, Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Ngày của Thiên Chúa gần đến; này đây, Người sẽ đến cứu chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 17, 10-13

"Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi xuống núi, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu rằng: "Tại sao các luật sĩ lại nói Elia phải đến trước đã?"

Chúa Giêsu trả lời: "Thật Elia phải đến để chấn hưng mọi sự. Và Thầy bảo các con, Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ. Cũng vậy, Con Người sẽ phải đau khổ bởi họ".

Bấy giờ các môn đệ hiểu Chúa Giêsu nói với họ về Gioan Tẩy Giả.

Ðó là lời Chúa.

 



Suy niệm

 


  nhập thể dấu báo  


Ngày cuối cùng Thứ Bảy trong tuần thứ hai Mùa Vọng hôm naybài Phúc Âm cũng của Thánh ký Mathêu, dù không tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, vẫn tiếp tục về nhân vật Tiền Hô Gioan Tẩy Giả được sai đến trước để dọn đường cho Đấng đến sau như thế này:


"Khi xuống núi, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu rằng: 'Tại sao các luật sĩ lại nói Elia phải đến trước đã?' Chúa Giêsu trả lời: 'Thật Elia phải đến để chấn hưng mọi sự. Và Thầy bảo các con, Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ. Cũng vậy, Con Người sẽ phải đau khổ bởi họ'. Bấy giờ các môn đệ hiểu Chúa Giêsu nói với họ về Gioan Tẩy Giả".


Nếu bài Phúc Âm hôm kia, Thứ Năm Tuần II Mùa Vọng, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả liên quan đến chung nhân loại, và bài Phúc Âm hôm qua, ngài liên quan đến riêng dân Do Thái, thì trong bài Phúc Âm hôm nay, ngài liên quan đến các môn đệ và thành phần luật sĩ


Thật vậy, những gì Chúa Giêsu nói về Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đây xẩy ra sau khi Người đã biến hình trên núi trước mặt 3 môn đệ thân tín nhất của Người là Phêrô, Giacôbê và Gioan (xem Mathêu 17:1-8), và chính tam vị tông đồ này đã thấy một trong hai nhân vật chính của Cựu Ước xuất hiện với Thày của các vị bấy giờ đang biến hình, đó là Tiên Tri Êlia.


Trong các tiên tri trong Cựu Ước, đệ nhất tiên tri là Êlia, vị đại tiên tri duy nhất đã được ca tụng trong Cựu Ước qua Sách Huấn Ca ở Bài Đọc 1 hôm nay:


"Bấy giờ Elia như lửa hồng xuất hiện. Lời ông nóng bỏng như ngọn đuốc cháy phừng. Ông đem cho họ một mùa đói khát, và số người hiềm ghét ông đã hao đi, vì chúng nó chẳng giữ được giới răn Chúa. Do lời Chúa phán, ông đóng cửa trời và ba lần khiến lửa từ trời xuống. Elia, người được vinh quang nhờ các việc lạ lùng đã làm, và ai có thể tự hào được vinh quang như người? Người đã được cất đi trong bầu lửa, trong xe bởi ngựa lửa kéo đi. Người đã nên dấu chỉ sự đe phạt qua các thời đại, để làm nguôi cơn thịnh nộ Chúa, để giao hoà cha với con, và chấn hưng lại những chi họ Giacóp. Phúc cho những ai thấy ngài và được hân hạnh thiết nghĩa với ngài".


Để trả lời cho câu hỏi của các môn đệ là: "Tại sao các luật sĩ lại nói Elia phải đến trước đã?", Chúa Giêsu, trước hết đã khẳng định vấn đề được các luật sĩ cảm nhận và đặt ra là đúng. Cho dù họ có thể đã không hiểu được "tất cả sự thật" về câu họ nói. Đó là lý do một đàng thì họ cảm nhận Elia cần phải đến trước, đàng khác, họ lại không chấp nhận Elia khi Elia đến nơi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả: "Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ". Vì họ tưởng rằng Elia sẽ đến theo kiểu vinh quang hiển hách như Bài Đọc 1 hôm nay diễn tả.


Hậu quả của việc dân Chúa nói chung và thành phần thông luật cũng như lãnh đạo dân chúng nói riêng không chấp nhận Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đó là họ chẳng những không thể nhận biết Đấng cao trọng đến sau ngài, mà còn bách hại và sát hại Người nữa: "Cũng vậy, Con Người sẽ phải đau khổ bởi họ". 


Như thế, sứ vụ trung gian môi giới giữa Cựu Ước và Tân Ước của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả không phải chỉ là để hoàn thành các lời tiên tri trong Cựu Ước về Chúa Kitô và giới thiệu Người cho các tông đồ của Tân Ước như một chứng nhân, mà còn liên quan đến thân phận của ngài như là một tiên báo cho cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô đến sau ngài. 


Nếu sứ vụ của vị Đại Tiên Tri Êlia, như Chúa Giêsu cho biết trong Bài Phúc Âm hôm nay, đó là "phải đến để chấn hưng mọi sự" thế nào, đặc biệt là qua biến cố vị đại tiên tri này làm cho dân Chúa tỉnh thức trước mê hoặc của đám phù thủy của thần Baal mà trở về với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình (xem Sách Chư Vương quyển 1 cả đoạn 18), thì sứ vụ chính yếu của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng được sai đến để chấn chỉnh dân Do Thái, bằng phép rửa thống hối và bằng chứng từ của chính bản thân ngài như vậy, nhất là ở chỗ ngài là người đầu tiên làm chứng cho chân lý (cũng là cho Chúa Kitô là chân lý - Gioan 14:6) vào "thời điểm viên trọn" (Galata 4:4), bằng chính cái đầu của ngài (xem Mathêu 14:10). 


Chính vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả mang thân phận khổ nạn giống như Chúa Kitô sau này, như dấu báo về cuộc vượt qua của mình mà Chúa Kitô đã khẳng định "Elia phải đến trước đã?", nghĩa là số phận của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là dấu báo cuộc vượt qua của Người: "Cũng vậy, Con Người sẽ phải đau khổ bởi họ". Và nhờ việc gán ghép tài tình này của Chúa Kitô mà "Bấy giờ các môn đệ hiểu Chúa Giêsu nói với họ về Gioan Tẩy Giả".


Bởi vậy, cho dù có trông đợi Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa, có trông đợi Đấng Thiên Sai Cứu Thế, nếu con người không nhận ra dấu chỉ thời đại, nhận ra dấu báo của Người, như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là dấu báo Chúa Kitô đến sau, thì như dân Do Thái, vì đã không chấp nhận Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bởi vị này không hợp với thiên kiến của họ, cho tới nay họ vẫn trông chờ một Đấng Thiên Sai theo ý họ nghĩ thế nào, Kitô hữu chúng ta cũng thế, cho dù có chấp nhận Chúa Kitô khi lãnh nhận Phép Rửa, cũng vẫn có thể theo đuổi một vị kitô giả theo chủ quan ngẫu tượng của mình.


Thế nên, hợp với tâm tình và xác tín trong Bài Đáp Ca hôm nay, chúng ta hãy cùng với Thánh Vịnh gia vừa khẩn nguyện cùng Vị Thiên Chúa cứu độ vừa tuyên xưng tình thương vô cùng nhân hậu của Ngài như sau:  


1) Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai! Chúa ngự trên các Vệ Binh Thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa, và ngự tới để cứu độ chúng con.


2) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình. 


3) Xin Chúa ra tay bang trợ người ở bên tay hữu Chúa, con người mà Chúa đã củng cố cho mình. Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa, Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh Ngài. 

 

 

10/12

 

Lễ Đức Mẹ Loretto

 

Xin xem hình ảnh kèm theo lịch sử Nhà Đức Mẹ ở Loretto Ý quốc cùng với chi tiết về Lễ Mẹ Loretto ở cái Link dưới đây:

(được TĐCTT cao tấn tĩnh thuục hiện sau chuyến Hành hương Đức tin Chứng tích Phục sinh 12 ngày 8-19/11/2021)

 

Ngày 15/11: Nhà Đức Mẹ ở Loreto