CHÚA GIÊSU NAZARÉT

 

Theo điện thư VIS của Tòa Thánh Vatican ngày 22/11/2006 thì vị giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh là linh mục dòng Tên Federico Lombardi đã viết một thông tư về tác phẩm sắp sửa được phát hành của vị Giáo Hoàng đươnng kim Biển Đức XVI của chúng ta, đó là cuốn “Chúa Giêsu Nazarét: Từ Phép Rửa tới Biến Hình - Gesu di Nâareth. Dal Battesimo nel Giordano alla Trasfigurâione".

 

Nhà Xuất Bản  Vatican (Vatican Publishing House) là nơi giữ tác quyền về tất cả mọi bản văn của Đức Giáo Hoàng đã nhượng quyền chuyển dịch, phân phối và phổ biến cuốn sách này cho Nhà Xuất Bản Rioãoli (Rioãoli Publishing House).

 

Theo lời thông tư của vị linh mục giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh thì ‘sự việc Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã có thể hoàn tất phần thứ nhất đại tác phẩm của ngài, và trong ít tháng nữa thôi chúng ta sẽ có tác phẩm nay trong tay, là một tin tuyệt vờị Tôi cảm thấy đây là một việc làm phi thường, vì cho dù nhiều phận sự và lo lắng cho giáo triều của mình, ngài vẫn có thể hoàn thành một tác phẩm có một chiều sâu rất nhiều về mặt kiến thức cũng như về mặt thiêng liêng. Ngài nói rằng ngài đã giành tất cả mọi giây phút rảnh rỗi của mình để thực hiện dự án này, và chính điều ấy là một dấu hiệu rất rõ ràng cho thấy tầm quan trọng và khẩn trương của cuốn sách đối với ngàị

 

“Trong tinh thần chân tình và khiêm tốn vốn có của mình, Đức Giáo Hoàng đã cho biết cuốn sách này không phải là ‘một công trình của Huấn Quyền’ mà là hoa trái của việc ngài nghiên cứu riêng, và vì thế nó có thể được tự do bàn luận và bình luận. Đó là một nhận định rất quan trọng, vì nó làm sáng tỏ vấn đề là những gì ngài viết trong cuốn sách ấy hoàn toàn không phải là những gì cầm chân trói buộc việc nghiên cứu của các chuyên viên dẫn giải và thần học giạ Nó không phải là một bức thông điệp dài về Chúa Giêsu, mà là việc trình bày riêng tư về hình ảnh Chúa Giêsu của thần học gia Joseph Ratzinger, vị đã được bầu làm Giám Mục Rôma”.

 

Cùng bản thông tư còn cho biết là nơi lời mở đầu của tác phẩm ấy, Đức Thánh Cha “giải thích rằng trong nền văn hóa tân tiến, cũng như ở nhiều thứ trình bày về hình ảnh Chúa Giêsu, cái khoảng cách giữa ‘một Chúa Giêsu lịch sử’ và ‘một Đức Kitô của niềm tin’ đã càng rộng lớn hơn bao giờ hết…. Tác giả Joseph Ratzinger, bằng việc cân nhắc tất cả mọi chiếm đạt của cuộc nghiên cứu tân tiến, muốn trình bày Chúa Giêsu của các Phúc Âm là một ‘Chúa Giêsu lịch sử’ thực sự, là một hình ảnh có thể cảm nhận và nổi nang, Đấng chúng ta có thể và cần phải căn cứ, và Đấng chúng ta có lý do chính đáng để tin tưởng và sống đời Kitô hữụ Bởi vậy, với cuốn sách này, Đức Giáo Hoàng muốn góp phần vào việc hỗ trợ thiết yếu cho đức tin của anh chị em mình, và ngài làm điều ấy từ yếu tố chính yếu của đức tin là Chúa Giêsu Kitô”.

 

Vị linh mục giám đốc văn phòng báo chí Tòa Thánh viết tiếp rằng, trong phần giới thiệu về tác phẩm ấy, “Chúa Giêsu được trình bày cho chúng ta thấy như là một tân Moisen, một tân ngôn sứ ‘trực diện với Thiên Chúá, … một Người Con, sâu xa kết hiệp với Chạ Nếu không nhấn mạnh đến khía cạnh chính yếu này thì hình ảnh về Chúa Giêsu trở thành xung khắc và không thể nào hiểu nổị Tác giả Joseph Ratzinger đã tha thiết nói với chúng ta về cuộc hiệp nhất thân mật của Chúa Giêsu với Cha, và muốn bảo đảm rằng các môn đệ của Chúa Giêsu được dự phần vào mối hiệp thông nàỵ Bởi vậy, nó chẳng những là một đại tác phẩm về khoa dẫn giải học thánh kinh và khoa thần học mà còn là một đại tác phẩm về khoa linh đạo học nữa”.

 

Để kết luận, vị linh mục dòng tên này chia sẻ cảm nhận quá khứ của mình về các tác phẩm của hồng ý Joseph Ratzinger như sau: “Nhớ lại ấn tượng sâu xa cùng với những hoa trái thiêng liêng mà tôi, là một người trẻ, đã được hưởng từ việc đọc tác phẩm đầu tay của ngài – ‘Nhập Môn Kitô Giáĩ – tôi tin rằng cả lần này nữa chúng ta sẽ không bị thất vọng, trái lại, cả thành phần tín hữu lẫn tất cả mọi người thực sự muốn tin hiểu trọn vẹn hơn về hình ảnh của Chúa Giêsu, sẽ hết lòng biết ơn vì Giáo Hoàng này về chứng từ cao cả của ngài, với tư cách là một tư tưởng gia, một học giả và là một con người tin tưởng, về một vấn đề thiết yếu nhất của tất cả niềm tin Kitô Giáo này”.

 

Theo mạng điện toán toàn cầu Zenit ngày 21/11/2006 thì Nhà Xuất Bản Vatican cũng được gọi là Libreria Editrice Vaticana (LEV) đã nhận được bản thảo của Đức Thánh Cha mấy ngày trước đây, và trao cho cơ quan này việc phân phối nó. Nhà xuất bản của Tòa Thánh đã nhượng quyền cho Nhà Xuất Bản Riozzoli ở Ý, và Nhà Xuất Bản Riozzli này lại nhượng quyền phát hành ở Đức cho gia đình xuất bản Herder Verlag là nơi tác giả Joseph Ratzinger đã có liên hệ trong quá khứ.

 

Trong lời dẫn nhập mở đầu, tác giả Joseph Ratzinger là đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã minh định rằng tác phẩm này “không phải là một tác động của huấn quyền, mà chỉ là một cuộc trình bày việc cá nhân tôi tìm kiếm dung nhan Chúa Kitô. Bởi thế, bất cứ ai cũng quyền bác bẻ tôị

 

“Tôi chỉ xin độc giả hãy mang một tâm trạng thiện cảm cần thiết bằng không không thể nào hiểu được tác phẩm nàỵ  Tôi muốn cố gắng để trình bày Chúa Giêsu của Các Phúc Âm như là một Giêsu đích thực, một Giêsu lịch sử đúng nghĩa của từ ngữ này”.

 

Tác phẩm này là những gì cho thấy một trong những xác tín sâu xa nhất của tác giả Joseph Ratzinger, một tác phẩm ngài đã có dự tính viết ngay trước cả khi được bầu làm giáo hoàng: “Qua con người Giêsu, Thiên Chúa làm cho bản thân mình trở thành hữu hình hiện lộ, và bởi Thiên Chúa, hình ảnh này hiện lên như là một con người công chính”. 

 

 

Một Thoáng Nhìn vào Cái Bí Mật Giêsu


Lời Giới Thiệu trong Tác Phẩm “Chúa Giêsu Nazarét” xuất bản vào Mùa Xuân 2007 của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI


(…) Nơi Chúa Giêsu lời hứa ban một vị tiên tri mới đã được nên trọn. Nơi Người hiện thực những gì chỉ mới bất toàn nơi Mosen: Người sống trước nhan Thiên Chúa, không phải chỉ là bạn hữu mà là Người Con, sâu xa hiệp nhất với Cha. Chỉ khởi đi từ chỗ này chúng ta mới có thể thực sự hiểu được hình ảnh về Chúa Giêsu được chúng ta thấy trong Tân Ước. Tất cả những gì được trình thuật lại, lời nói, sự kiện, khổ đau và vinh quang của Chúa Giêsu đều được bắt nguồn từ nơi đây. Nếu cái tâm điểm đích thực này bị gạt ra ngoài thì người ta không thể nắm bắt được những gì là đặc thù chuyên biệt về hình ảnh của Chúa Giêsu, một hình ảnh trái lại trở thành những gì là mâu thuẫn, mà kết cuộc là những gì không thể nào hiểu nổi. Chỉ có từ đấy vấn nạn mới được giải đáp, những vấn nạn mà ai đọc Tân Ước cũng đều thắc mắc, đó là giáo huấn của Chúa Giêsu từ đâu mà có? Làm sao có thể giải thích được việc xuất hiện của Người? Phản ứng từ thành phần thính giả của Người là những gì đã tỏ tường: Giáo huấn của Người không xuất phát từ một học đường nào đó. Nó hoàn toàn khác với những gì có thể học hiểu ở trường học. Nó không được dẫn giải theo phương pháp thông dịch, nó là những gì khác hẳn, nó là một thứ dẫn giải ‘có thẩm quyền’. Chúng ta sẽ trở về với việc kiểm chứng này của thành phần thính giả ấy khi chúng ta suy nghĩ về những lời nói của Chúa Giêsu và chúng ta sẽ cần phải khảo sát ý nghĩa của việc kiểm chứng này một cách kỹ lưỡng hơn. Giáo huấn của Chúa Giêsu không xuất phát từ việc con người học hiểu, cho dù cái học hiểu đó có là gì đi chăng nữa. Nó xuất phát từ mối trực hệ với Cha, từ cuộc đối thoại ‘diện đối diện’, từ việc nhìn thấy những gì ‘ở trong lòng của Cha’. Nó là lời Người Con. Không có cái nền tảng nội tại này nó sẽ là một thứ liều lĩnh. Người đã được nhận định thực sự theo chiều hướng ấy, bởi thành phần trí thức trong thời của Người, vì họ thực ra không muốn chấp nhận ý nghĩa nội tại của nó, ý nghĩa về việc trực diện nhìn thấy và biết được.

 

Cái nền tảng để biết Chúa Giêsu đó là những chi tiết hay xẩy ra về sự kiện Người ẩn mình ‘trên  núi’ và thâu đêm nguyện cầu ‘một mình’ cùng Cha. Những cứ điểm ngắn ngủi này đánh tan một cái gì đó che khuất mầu nhiệm này, giúp chúng ta có một thoáng nhìn thấy cuộc sống làm con của Chúa Giêsu, thấy được mạch nguồn xuất phát ra các tác động của Người, giáo huấn của Người và nỗi khổ đau của Người. Việc ‘nguyện cầu’ này của Chúa Giêsu là việc Con nói với Cha, bao gồm cả lương tâm và ý muốn con người, linh hồn con người của Chúa Giêsu, nhờ đó lời ‘cầu nguyện’ của nhân loại mới được tham dự vào mối hiệp thông giữa Con và Cha. Lời khẳng định nổi tiếng của Harnack cho rằng việc loan báo của Chúa Giêsu là một việc loan báo xuất phát từ Cha, và việc loan báo này Con không dự phần – do đó Kitô học không phải là việc loan báo về Chúa Giêsu – là một luận đề phủ nhận chính mình. Chúa Giêsu có thể nói về Cha, như Người thực sự làm, chỉ vì Người là Con và sống mối hiệp thông con thảo với Cha. Chiều kích Kitô học này, tức mầu nhiệm về Con là Đấng mạc khải Cha, ‘Kitô học’, đều xẩy ra nơi tất cả mọi diễn từ cũng như tất cả mọi hành động của Chúa Giêsu. Đến đây hiển lên tỏ tường một điểm quan trọng khác. Chúng ta đã nói rằng trong mối hiệp thông con cái của Chúa Giêsu với Cha thì linh hồn của Người tham dự vào tác động nguyện cầu. Bất cứ ai thầy Chúa Giêsu là thấy Cha (Jn 14:9). Bởi vậy mà thành phần môn đệ theo Chúa Giêsu cũng được cùng tham dự với Người vào mối hiệp thông này với Thiên Chúa. Và đó là những gì thực sự cứu độ: ở chỗ vượt ra khỏi những hạn hữu của con người. Cái vượt khỏi này là những gì mong đợi và khả thể bẩm sinh nơi con người từ khi tạo thành được dựng nên tương tự như Thiên Chúa.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Zenit ngày 27/11/2006

 

 

“Giêsu của các cuốn Phúc Âm là một nhân vật lịch sử khả kính và đáng phục”

 

Lời Dẫn Nhập của Hồng Y Joseph Ratzinger cho Tác Phẩm “Chúa Giêsu Nazarét” sẽ được xuất bản

 

Tôi đã hình thành cuốn sách về Chúa Giêsu, phần thứ nhất mà tôi giờ đây phổ biến, sau một cuộc hành trình nội tâm kéo dài. Trong đoạn đời trẻ trung của mình – vào thập niên 1930 và 1940 – đã có cả hằng loạt những cuốn sách ly kỳ về Chúa Giêsu được tung ra. Tôi c òn nhớ được tên tuổi của một số tác giả như Karl Adam, Romano Guardini, Franz Michel Willam, Giovanni Papini, Jean Daniel-Rops. Trong tất cả những cuốn sách ấy, hình ảnh về Chúa Giêsu đều được phác họa theo các sách Phúc Âm: Người đã sống ra sao trên trần gian này, và mặc dù là con người, Người thật sự làm sao có thể dẫn con người đến cùng Thiên Chúa là Đấng Người chỉ là một với tư cách làm Con. Như thế, nhờ con người Giêsu, Thiên Chúa đã trở nên hữu hình và hình ảnh về con người công chính này có thể được thấy nơi Thiên Chúa.

 

Bắt đầu vào thập niên 1950, tình hình trở nên thay đổi. Càng ngày càng có một khoảng cách giữa một ‘Giêsu theo lịch sử’ và một ‘Đức Kitô của niềm tin’: cả hai tách rời nhau một cách mau chóng. Tuy nhiên, niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô, nơi Chúa Giêsu Con Thiên Chúa hằng sống sẽ ra sao nếu con người Giêsu khác hẳn với đường lối Người đã được các vị thánh ký trình bày và đường lối Người được Giáo Hội căn cứ vào các Phúc Âm để rao giảng? Tình trạng tiến triển nơi việc nghiên cứu kiểm chứng về lịch sử lại càng dẫn tới những biệt phân tinh xảo giữa các phạm vi khác nhau của truyền thống. Theo sau cuộc nghiên cứu này, thì hình ảnh về Chúa Giêsu được đức tin dựa vào đã trở thành bất ổn hơn bao giờ hết, một hình ảnh càng ngày càng có những đường nét lờ mờ hơn.

 

Đồng thời, những thứ tái phác tả về nhân vật Giêsu này, Đấng cần phải được tìm kiếm theo các truyền thống của những vị thánh ký và các nguồn mạch của những truyền thống ấy, đã trở nên mâu thuẫn với nhau hơn  bao giờ hết: từ một tên địch thù cách mạng đối với dân Rôma, vị chống lại quyền bính thống trị này và tất nhiên đã bị thua bại, đến một nhà luân lý nhân hậu cho phép được làm hết mọi sự và không ngờ đã đi đến chỗ tự diệt.

 

Ai đọc thấy một ít những thứ tái phác tả này đều có thể thấy ngay được rằng chúng là những phóng ảnh của những vị tác giả ấy cùng với những mộng tưởng của họ, hơn là cái nét chính yếu của một hình ảnh đã trở nên méo mó lệch lạc. Trong khi đó, mối ngờ vực càng ngày càng gia tăng đối với những hình ảnh về nhân vật Giêsu ấy, để rồi chính hình ảnh về Chúa Giêsu đã bị trừ khử đi khỏi chúng ta hơn  bao giờ hết. 

 

Tất cả những nỗ lực ấy đã lưu lại sau đó, như là một mẫu số chung, cái ấn tượng cho rằng chúng ta biết rất ít về Chúa Giêsu, và cái ấn tượng là chỉ có đức tin vào thần tính của Người sau đó mới là những gì tạo nên hình ảnh của Người mà thôi. Trong khi ấy thì hình ảnh này đã thấm nhập sâu xa vào tâm thức chung của Kitô Giáo rồi. Một tình trạng như vậy là những gì thê thảm đối với đức tin, vì nó làm cho cứ điểm đích thực của mình trở thành bấp bênh, ở chỗ, mối thân hữu mật thiết với Chúa Giêsu, Đấng chi phối tất cả mọi sự, bị đặt lại vấn đề và có cơ nguy trở thành vô bổ […]

 

Tôi cảm thấy cần phải cống hiến cho độc giả những chỉ dấu ấy về một tính chất phương pháp luận, nhờ đó, họ có thể thấy được đường lối dẫn giải của tôi đối với hình ảnh về Chúa Giêsu theo Tân Ước. Đối với vấn đề dẫn giải của tôi về Chúa Giêsu thì trước hết việc ấy có nghĩa là tôi tin tưởng vào các Phúc Âm. Dĩ nhiên là tôi cũng sử dụng đến tất cả những gì được Công Đồng và việc chú giải tân tiến nói về các loại văn chương Tân Ước này, nói về ý hướng của những điều được các loại văn chương Tân Ước ấy xác quyết, về bối cảnh chung của các cuốn Phúc Âm cùng những ngôn từ của các phúc âm trong bối cảnh sống động ấy. Bằng tất cả những điều này trong tầm mức khả dĩ đối với mình, tôi muốn trình bày Chúa Giêsu của các cuốn Phúc Âm là một Chúa Giêsu thật sự, là một ‘Chúa Giêsu lịch sử’ đúng nghĩa của lời phát biểu.

 

Tôi tin tưởng và tôi hy vọng rằng độc giả cũng sẽ nhận thấy rằng hình ảnh này là những gì hợp lý hơn, và theo quan điểm lịch sử, cũng là những gì khả thức hơn là những thứ tái phác họa chúng ta đã gặp thấy trong những thập niên vừa qua.

 

Thật vậy, tôi tin rằng Giêsu ấy –  một Giêsu của các cuốn Phúc Âm – là một nhân vật lịch sử khả kính và đáng phục. Cây Thập Giá và hiệu năng của cây thập giá này chỉ có thể hiểu được nếu xẩy ra một cái gì đó phi thường, nếu hình ảnh và ngôn từ của Giêsu hoàn toàn vượt trên tất cả mọi niềm hy vọng và trông mong của thời đại ấy.

 

Khoảng 20 năm sau cái chết của Giêsu, chúng ta thấy được trọn vẹn một khoa Kitô học về Chúa Kitô trong bản đại thánh ca ở Bức Thư gửi cho giáo đoàn Phliphê (2:6-8), một khoa Kitô học cho rằng Giêsu ngang hành với Thiên Chúa những tự tước bỏ bản thân mình, trở nên con người, hạ mình cho đến  chết trên thập tự giá và Người được tôn vinh nơi tạo vật, một việc tôn thờ theo tiên tri Isaia (45:23) đã được Thiên Chúa công bố chỉ hợp với Ngài mà thôi.

 

B ằng một nhận định đứng đắn, việc nghiên cứu nghiên chỉnh đặt vấn đề là những gì đã xẩy ra trong 20 năm sau khi Chúa Giêsu bị Đóng Đanh? Khoa Kitô học này đã được hình thành ra sao?

 

Hành động hình thành các cộng đồng ẩn danh để thực hiện nỗ lực tìm kiếm những người tiêu biểu thực ra cũng chẳng giải thích được gì. Làm sao lại có thể xẩy ra được cho những nhóm người vô danh trở nên rất ư sáng tạo, rất ư thu hút cho đến độ thúc đẩy họ phải là như thế chứ? Nếu không phải những gì hợp tình hợp lý hơn, kể theo cả quan điểm lịch sử nữa, đó là tính cách cao cả được chất chứa nơi nguồn gốc và hình ảnh về Chúa Giêsu phá vỡ tất cả những gì là thứ hạng vốn có, nên chỉ có thể hiểu được từ mầu nhiệm về Thiên Chúa mà thôi?

 

Dĩ nhiên, việc tin tưởng rằng mặc dù là con người Người cũng ‘đã là’ Thiên Chúa, và việc trình bày điều ấy khi che phủ nó nơi các dụ ngôn cũng như bằng một đường lối tỏ tường hơn, là những gì vượt ra ngoài các khả năng của phương pháp lịch sử. Trái lại, nếu từ niềm xác tín này của đức tin, các bản văn được đọc bằng phương pháp lịch sử và với tính cách cởi mở hơn, thì những văn bản này hướng tới chỗ cho thấy một đường lối và một hình ảnh xứng đáng với đức tin. Vậy một khi cuộc đối chọi ở các cấp độ khác nhau nơi những bản văn Tân Ước chung quanh hình ảnh về Chúa Giêsu được giải quyết sáng tỏ, bất kể tất cả những gì là khác biệt, thì người ta mới tiến tới chỗ thực sự đồng ý với những bản viết này.

 

Dĩ nhiên, theo nhãn quan này đối với hình ảnh về Chúa Giêsu, tôi vượt ra ngoài những gì, chẳng hạn, như đã được Schnackenburg nói làm tiêu biểu cho một phần lớn vấn đề chú giải đương thời. Ngược lại, tôi hy vọng rằng độc giả sẽ hiểu rằng cuốn sách này không phải viết lên để chống lại việc chú giải tân tiến mà là hết sức cảm nhận về tất cả những gì nó tiếp túc cống hiến cho chúng ta.

 

Nó đã làm cho chúng ta thấy được một số lượng lớn những nguồn liệu và những quan niệm mà hình ảnh về Chúa Giêsu có thể có được một cách sôi động và sâu sắc chưa từng thấy trong ít thập niên trước đây. Tôi đã nỗ lực vượt ra ngoài việc dẫn giải thuần tính cách lịch sử kiểm chứng khi áp dụng những tiêu chuẩn dẫn giải mới là những gì giúp chúng ta có được một việc giải thích thích đáng về thần học của Thánh Kinh và tất nhiên là cần phải có đức tin, làm như thế không có nghĩa là tôi dù sao cũng muốn loại trừ đi tính cách nghiêm cẩn của lịch sử. Tôi không nghĩ cần phải minh nhiên nói rằng cuốn sách này hoàn toàn không phải là một việc làm theo huấn quyền, mà là việc bày tỏ theo cá nhân  của tôi trong việc tìm kiếm ‘dung nhan Chúa’ (Ps 27:8). Bởi thế, ai cũng có quyền đối địch với tôi. Tôi chỉ xin thành phần độc giả nam nữ hãy có một ngưỡng vọng cảm thông, bằng không sẽ không thể nào thông cảm được.

 

Như tôi đã đề cập tới ngày từ đầu Lời Dẫn Nhập này, cuộc hành trình nội tâm thực hiện cuốn sách này đã kéo dài đã lâu. Tôi đã có thể bắt đầu viết trong cuộc nghỉ hè của tôi vào năm 2003. Trong Tháng 8 năm 2004, từ Chương 1 tới 4 đã được hoàn thành. Sauk hi được tuyển bầu vào Tòa Thánh Rôma, tôi đả lợi dụng tất cả mọi giây phút rỗi rãi của mình để tiếp tục viết. Vì tôi không biết mình còn sống bao lâu nữa và còn khỏe đến bao giờ nên tôi đã quyết định phát hành vào lúc này đây phần đầu của cuốn sách gồm 10 chương đầu tiên, từ Phép Rửas ở sống Dược Đăng đến biến cố tuyên xưng của Thánh Phêrô và Biến Hình.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Zenit ngày 23/11/2006

 

 

 

"Một Giêsu được quá lý tưởng hóa cho đến  độ trở thành một nhân vật của truyền thuyết huyền thoại"

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI - Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 3/1/2007

 

Trong buổi triều kiến chung hằng tuần đầu tiên cho Năm 2007 này, vì vẫn còn trong Mùa Giáng Sinh, ĐTC vẫn  tạm ngưng loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền, để tiếp tục chia sẻ về Mầu Nhiệm Giáng Sinh, một mầu nhiệm được Giáo Hội đặc biệt cử hành từ Lễ Giáng Sinh đến Lễ Hiển  Linh Chúa Nhật tuần này. Ngài đã chia sẻ về bầu khí Giáng Sinh ‘mời gọi chúng ta hãy hân hoan về việc hạ sinh của Đấng Cứu Thế với những ý tưởng chính yếu liên quan đặc biệt tới tâm thức thời đại hay văn minh Tây Phương sau đây:

 

“Những ai thinh lặng suy niệm trước Con Thiên Chúa nằm một cách bất lực trong máng cỏ không thể nào không cảm thấy ngỡ ngàng lạ lùng trước biến cố không thể nào tin được theo nhân loại ấy; họ không thể nào không chia sẻ về nỗi ngỡ ngàng và khiêm hạ phó mình của Trinh Nữ Maria, vị được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đấng Cứu Thế chính vì lòng khiêm nhượng của Mẹ.

 

“Nơi Con Trẻ Bê Lem ấy, tất cả loài người khám phá thấy mình được Thiên Chúa yêu thương một cách nhưng không. Theo ý nghĩa của Giáng Sinh, lòng thiện  hảo vô cùng này của Thiên Chúa được sáng tỏ trước mỗi người chúng ta. Nơi Chúa Giêsu, Cha trên trời đã mổ màn một mối liên hệ mới với chúng ta, ở chỗ Ngài đã làm cho chúng ta trở thành ‘những người con nơi Con Ngài’.

 

“Tuy nhiên, niềm vui Giáng Sinh không làm cho chúng ta quên mầu nhiệm sự dữ (mysterium iniquitatis), quyền lực của tối tăm đang tìm cách làm lu mờ đi ánh quang rạng ngời của ánh sáng thần linh, và bất hạnh thay chúng ta đang cảm thấy quyền lực này trong mọi ngày sống….

 

“Đó là một thảm kịch loại trừ đi Chúa Kitô, một việc loại trừ mà ngày nay cũng như trong quá khứ được tỏ ta và thể hiện  bằng nhiều cách thức khác nhau….

 

"Có lẽ những đường lối loại trừ Thiên Chúa trong thời đại tân tiến này thậm chí còn quỉ quyệt và rùng rợn hơn nữa kìa, ở chỗ, từ việc loại trừ toàn diện đến thái độ dửng dưng lạnh lùng, từ chủ nghĩa vô thần về khoa học đến việc trình bày về một Giêsu được tân tiến hóa hay hậu tân tiến hóa, một Giêsu làm người bị biến giảm bằng những cách thức khác nhau thành một con người bình thường thuộc thời đại của Người và tước đi thần tính của Người; hay có thể là một Giêsu được quá lý tưởng hóa cho đến  độ trở thành một nhân vật của truyền thuyết huyền thoại. 

 

“Chỉ có Con Trẻ nằm trong máng cỏ mới có cái bí mật thực sự cho đời sống mà thôi. Đó là lý do Người muốn được chúng ta chấp nhận, muốn được một chỗ giữa chúng ta, trong tâm can của chúng ta, trong gia đình của chúng ta, trong phố xá của chúng ta và trong xã hội của chúng ta.

 

"Chúng ta được trợ giúp để làm việc này bằng tính chất đơn sơ giản dị của các mục đồng và bằng việm tìm cầu của các Đạo Sĩ, những người nhờ ngôi sao lạ đã nhận ra các dấu chỉ của Thiên Chúa, cũng như bằng tính chất dễ dậy của Mẹ Maria và bằng đức khôn ngoan tinh khéo của Thánh Giuse.

 

“Vào lúc mở màn cho tân niên này đây, chúng ta hãy làm bừng lại quyết tâm của chúng ta trong việc mở lòng trí của chúng ta ra cho Chúa Kitô, chân tình bày tỏ cùng Người ý muốn của chúng ta trong việc sống như những người bạn thực sự của Người. Nhờ đó chúng ta mới trở thành những hợp tác viên của Người cho dự án cứu độ của Người và là những nhân  chứng của niềm vui do Người mang tới, để chúng ta làm cho nó lan tràn một cách dồi dào chung quanh chúng ta…

 

“Chúng ta hãy hộ tống Chúa Giêsu, hãy bước đi với Người, có thể tân niên này mới là một năm hạnh phúc và tốt lành”.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, dịch theo VIS ngày 3/1/2007

 

Ra Mắt tác phẩm của ĐTC Biển Đức XVI về Chúa Giêsu Nazarét

 

Vào lúc 4 giờ chiều ngày Thứ Sáu 13/4/2007, tại Sảnh Đường Synod ở Vatican sẽ diễn ra một buổi ra mắt cuốn sách “Chúa Giêsu Thành Nazarét” của Hồng Y Ratzinger – Giáo Hoàng Biển Đức XVI. Sau đó, cuốn sách này sẽ được tung ra thị trường bắt đầu từ Thứ Hai 16/4 với các ấn bản đầu tiên bằng Ý ngữ, Đức ngữ và Balan, được xuất bản bởi Rioãoli (Ý), Herder (Đức) và Wydawnictwo M. (Balan).

 

Buổi ra mắt sẽ có sự hiện diện của ĐHY Christoph Schonborn, OP, TGM Vienna, Áo quốc; Daniele Garrone, khoa trưởng thần học Waldensian ở Rôma; và Massimo Cacciari, giáo sư về mỹ từ học ở Đại Học Vita-Salute San Raffaele Milan Ý quốc. Tất nhiên buổi ra mắt này được điều hành bởi vị giám đốc của văn phòng báo chí Tòa Thánh là cha Federico Lombardi, SJ.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 4/4/2007

 

 

 

“Con Đường của Đức Giáo Hoàng tới Chúa Giêsu”

 

Nhận định của nhà xuất bản về tác phẩm “Đức Giêsu Nazarét: Từ Phép Rửa Tới Biến Hình”

 

Ngày Thứ Hai 16/4/2006, ngày mừng kỷ niệm sinh nhật bát tuần của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, cũng là ngày bắt đầu phổ biến tác phẩm của Hồng Y Joseph Ratzinger đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI, một tác phẩm được ngài viết từ khi còn là Hồng Y và hoàn tất sau khi làm Giáo Hoàng.

 

Tác phẩm dài 448 trang và đang được chuyển dịch sang 20 thứ tiếng khác nữa, ngoài tiếng Ý, Đức và Tây Ban Nha là những tiếng tác phẩm này được phổ biến vào dịp đầu tiên này. Bản Anh Ngữ sẽ được nhà xuất bản Doubleday phổ biến vào ngày 15/5 ở Bắc Jỹ và nhà xuất bản Bloomsbury phổ biến ở Hiệp Vương Quốc

 

Sau đây là nội dung bản thông báo của nhà xuất bản Rioãoli được Tòa Thánh ủy bản quyền để chính thức trên toàn thế giới, một bản thông báo được phổ biến vào hôm Thứ Sáu, 13/4/2007, thời điểm chính thức ra mắt tác phẩm tại Sảnh Đường Synod ở Vatican.

 

“Cuốn sách này là phần thứ nhất của một công việc viết lách được tác giả của nó nói rằng đã được tiến hành bằng một ‘cuộc thai nghén lâu dài’ (trang xi). Nó phản ảnh việc cá nhân Hồng Y Joseph Ratzinger tìm kiếm ‘dung nhan Chúa’, chứ không phải là một văn kiện thuộc huấn quyền (trang xxiii).

 

“Bởi vậy, hết mọi người được quyền bất đồng với tôi’, vị Giáo Hoàng nhấn mạnh như thế ở lời mở đầu (trang xxiv). Mục đích chính của cuốn sách này là ‘để giúp vào việc bồi dưỡng nơi độc giả sự gia tăng mối liên hệ sống động’ với Chúa Giêsu Kitô (trang xxiv). Trong cuốn thứ hai tiếp theo, vị Giáo Hoàng này hy vọng rằng ‘cũng có thể bao gồm cả chương về những trình thuật thời thơ ấu liên quan tới việc hạ sinh của Chúa Giêsu và nhận định về mầu nhiệm khổ nạn, tử giá và phục sinh của Người.

 

“Vì thế, tác phẩm này chủ yếu là một cuốn sách về mục vụ. Thế nhưng, nó cũng là tác phẩm của một thần học gia nghiêm cẩn, vị biện minh cho các chủ trương của mình bằng việc căn cứ vào kiến thức toàn diện của các cuốn sách thánh cũng như của văn chương nhận định. Ngài nhấn mạnh tới tính cách bất khả châm chước của phương pháp nhận định về lịch sử trong việc dẫn giải thánh kinh, thế nhưng ngài đồng thời cũng cho thấy những hạn hữu của nó: ‘Thật vậy, việc tin tưởng rằng, là người, Người thực sự là Thiên Chúa là những gì vượt quá lãnh vực của phương pháp lịch sử’ (trang xxiii).

 

“Tuy nhiên, ‘không gắn liền với Thiên Chúa, con người của Đức Giêsu vẫn là những gì mờ mịt, không thật và không thể hiểu nổi’ (Schnackenburg, "Freundschaft mit Jesus," Page 322). Để xác nhận kết luận này của một vi đại diện nổi tiếng của Công Giáo Rôma trong việc dẫn giải thánh kinh theo nhận định lịch sử, vị Giáo Hoàng đã nói rằng cuốn sách này của ngài ‘thấy Chúa Giêsu theo chiều hướng của việc Người hiệp thông với Chúa Cha’ (trang xiv).

 

“Còn nữa, căn cứ vào ‘việc đọc từng bản văn Thánh Kinh theo chiều hướng của toàn bộ’ – một việc đọc ‘không tương phản với việc dẫn giải theo nhận thức lịch sử, nhưng đọc một cách có phương pháp thần học đúng nghĩa’ (trang xix) – vị tác giả trình bày ‘Chúa Giêsu của các cuốn sách Phúc Âm là một Giêsu thực sự, một Giêsu lịch sử’, bằng cách nhấn mạnh rằng ‘hình ảnh này còn hợp lý hơn nhiều, và nói theo lịch sử, còn rõ ràng hơn là những gì được tái cấu trúc chúng ta thấy được trong những thập niên qua’ (trang xxii).

 

Đối với Đức Biển  Đức XVI thì người ta tìm thấy trong Thánh Kinh những yếu tố thúc buộc để có thể tin rằng con người lịch sử là Chúa Giêsu Kitô cũng là Con Thiên Chúa, Đấng đã đến Thế Gian để cứu độ nhân loại. Từ trang này tới trang khác, ngài đã khảo sát những yếu tố ấy, từ yếu tố này tới yếu tố khác, để hướng dẫn và thách đố độc giả – thành phần tín hữu cũng như vô thần – bằng một cuộc thám hiểm tri thức say mê.

 

Đặt lập luận chính yếu của mình trên sự kiện về mối liên kết sâu xa giữa Cựu Ước và Tân Ước, và rút tỉa từ việc dẫn giải Thánh Kinh theo Kitô học thấy nơi Chúa Giêsu Kitô những gì là then chốt cho tất cả bộ Thánh Kinh, Đức Biển Đức XVI trình bày cho thấy Chúa Giêsu của các Phúc Âm là ‘tân Moisen’, Đấng hoàn trọn những niềm trông đợi của Dân Do Thái (trang 1). Moisen mới này cần phải dẫn dân Thiên Chúa đến chỗ làm cho họ được hưởng một tình trạng tự do thực sự và tối hậu. Tuy nhiên, Người làm như thế bằng những hoạt động tuần tự bao giờ cũng để cho dự án của Thiên Chúa được hoàn toàn thực hiện theo như dự định.

 

Phép Rửa Chúa Giêsu chịu ở Sông Dược Đăng là “việc chấp nhận sự chết vì tội lỗi của nhân loại, và tiếng phán ‘Này là Con Ta yêu dấu’, trên những giòng nước rửa là một chi tiết hướng về cuộc Phục Sinh’ (trang 18). Việc Chúa Giêsu trầm mình vào các giòng nước ở Sông Dược Đăng là biểu hiệu cho cái chết của Người và việc Người xuống ngục tổ tông – một thực tại dù sao cũng hiện diện suốt cuộc sống của Người”.

 

Để cứu độ nhân loại “Người cần phải tái lập toàn thể lịch sử từ ban đầu” (trang 26), Người cần phải chiến thắng những cơn cám dỗ chính yếu qua những hình thức khác nhau đang đe đọa con người thuộc tất cả mọi thời đại, biến đổi họ thành dễ dạy, mở lại con đường hướng tới Thiên Chúa (Chương 2), hướng về Đất Hứa thực sự, đó là “Vương Quốc Thiên Chúa” (trang 44). Từ ngữ này, một từ ngữ có thể được giải thích theo chiều kích Kitô học, thần bí học hay thậm chí theo giáo hội học, trên hết có nghĩa là “vai trò chủ tể thần linh, việc làm chủ của Thiên Chúa trên thế giới cũng như trên lịch sử, một vai trò siêu việt thời điểm, thực sự là siêu việt và vượt ra ngoài toàn thể lịch sử. Tuy nhiên vai trò này cũng là một cái gì đó tuyệt đối thuộc về hiện tại” (trang 57). Thật thế, nhờ việc hiện diện và hoạt động của Chúa Giêsu “Thiên Chúa chủ động hiện diện ở nơi đây và vào lúc này đây đi vào lịch sử một cách hoàn toàn mới mẻ”. Nơi Chúa Giêsu, “Thiên Chúa… đến gần với chúng ta… cai trị một cách thần linh, chứ không theo quyền năng trần thế, cai trị bằng yêu thương ‘cho tới cùng’” (trang 60-61; Jn 13:1).

 

Đề tài “Vương Quốc Thiên Chúa” (chương 3), một đề tài thấm đẫm toàn thể việc giảng dạy của Chúa Giêsu, được khai triển sâu xa hơn trong việc suy niệm về “Bài Giảng trên Núi” (chương 4). Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu rõ ràng hiện lên như là ‘Moisen mới’ là vị ban bố một bộ tân Ngũ Kinh, hay nói khác đi, là vị trở lại với bộ Ngũ Kinh của Moisen, và làm cho nó nên trọn bằng việc sống động hóa những nhịp điệu nội tại cơ cấu của nó (trang 65).   

 

Bài Giảng Trên Núi là bài giảng chất chứa những điểm chính của lề luật này là các phúc đức, đồng thời cũng cho thấy chính chân dung của Chúa Giêsu, ở chỗ, lề luật ấy không phải chỉ là kết quả của một thứ ‘trực diện’ chuyện vãn với Thiên Chúa mà còn là hiện thân cho sự viên mãn xuất phát từ mối hiệp thông sâu xa thân mật của Chúa Giêsu với Chúa Cha (trang 66). Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Lời của Thiên Chúa hiện thân. “Chúa Giêsu biết chính Người như là bộ Ngũ Kinh” (trang 110). “Đó là vấn đề cần phải đi đến chỗ quyết định […] mà hậu quả cho thấy thì đó cũng là vấn đề dẫn đến Thập Giá và Phục Sinh” (trang 63).

 

Cuộc xuất hành hướng tới “Đất Hứa”, tới tự do đích thật, cần đến ảnh hưởng của Chúa Giêsu. Thành phần tín hữu cần phải tham phần vào cùng một mối hiệp thông của Người Con với Người Cha. Chỉ có thế Con Người mới có thể “viên trọn” bản thân mình, vì bản tính sâu xa nhất của họ hướng tới mối liên hệ này với Thiên Chúa. Tức là yếu tố nồng cốt nơi cuộc sống của họ đó là nói chuyện với Thiên Chúa và lắng nghe Thiên Chúa. Vì thế mà Đức Biển Đức XVI đã giành hẳn một chương cho việc cầu nguyện, dẫn giải Kinh Lạy Cha là kinh được chính Chúa Giêsu dạy cho chúng ta (chương 5).

 

Việc con người sâu xa giao tiếp với Thiên Chúa là Cha nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần đang qui tụ họ lại với nhau thành những gì là “chúng mình (we) và chúng ta (us)” trong một gia đình mới, một gia đình, qua việc tuyển chọn 12 Môn Đệ, đã gợi lại gốc gác của dân Yến Duyên (12 Tổ Phụ), và đồng thời cũng mở ra một nhãn quan hướng tới chính tân Gia-Liêm (Rev 21:9-14) – đích điểm tối hậu của tất cả lịch sử – của một cuộc Xuất Hành mới theo sự dẫn dắt của vị “tân Moisen”.

 

Với Chúa Giêsu, 12 Môn Đệ “đã phải trải qua một cuộc hiệp thông với Chúa Giêsu từ ngoài và trong”, nhờ đó các vị có thể chứng thực tính chất duy nhất của Người với Chúa Cha và mới “trở thành những vị đặc sứ của Chúa Giêsu – ‘tức là ‘tông đồ’ - thành phần mang sứ điệp của Người đến cho thế giới” (trang 172). Cho dù việc cấu tạo của nó hết sức pha phôi, gia đình mới này của Chúa Giêsu, tức Giáo Hội của mọi thời đại, vẫn tìm thấy ở nơi Người cái cốt lõi liên kết của nó cùng với ý muốn sống tính chất phổ quát của giáo huấn Người dạy (chương 6).

 

Để làm cho sứ điệp của Người dễ hiểu và thực sự áp dụng sứ điệp ấy vào cuộc sống hằng ngày, Chúa Giêsu đã sử dụng hình thức dụ ngôn. Người biến báo nội dung của những gì Người có ý truyền đạt – thực sự là Người bao giờ cũng nói về mầu nhiệm của mình – cho thích hợp với tầm mức lãnh hội của thính giả, khi sử dụng cái cầu nối của óc tưởng tượng được gắn liền với những thực tại rất ư là quen thuộc và dễ hiểu cho thính giả. Tuy nhiên, kèm theo khía cạnh nhân loại này là việc Người sâu sắc dẫn giải theo thần học về ý nghĩa của các dụ ngôn, để làm sáng tỏ những ý nghĩa bất tận nơi sứ điệp của Người cùng với cái thực tại trường tồn của nó (chương 7).

 

Chương tiếp theo cũng tập trung vào hìn h ảnh được Chúa Giêsu sử dụng để dẫn giải về mầu nhiệm của Người: Chúng là những hình ảnh trọng đại trong Phúc Âm Thánh Gioan. Trước khi phân tích chúng, Đức Giáo Hoàng đã trình bày một tổng lược rất hay về những thành quả khác nhau của việc nghiên cứu khoa học về vị tông đồ Gioan. Qua tổng lược ấy, cũng như nơi việc ngài giải thích về những hình ảnh ấy, ngài đã mở ra những chân trời mới trước độc giả, những chân trời cho thấy sáng tỏ hơn bao giờ Chúa Giêsu là “Lời của Thiên Chúa” (trang 317), Đấng đã hóa thân làm người vì phần rỗi của chúng ta với tư cách là “Con Thiên Chúa” (trang 304), đến để tái hướng dẫn nhân loại về mối hiệp nhất với Chúa Cha – một thực tại được hiện thân hóa nơi Moisen (chương 8).

 

Hai chương cuối cùng quảng diễn thêm nhãn quan này. “Trình thuật về việc Biến Hình của Chúa Giêsu […] làm sáng tỏ việc tuyên xưng của Thánh Phêrô và làm cho việc tuyên xưng ấy có một ý nghĩa sâu xa hơn, đồng thời cũng liên kết việc tuyên xưng ấy với mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu” (trang 287-288). Cả hai biến cố này – biến hình và tuyên xưng – là những thời điểm quan trọng đối với Chúa Giêsu trần thế cũng như đối với các môn đệ. 

 

Sứ vụ thực sự cho Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa và định mệnh của những ai muốn theo Người bấy giờ đã được dứt khoát thiết định. Cả hai biến cố này chỉ có thể hoàn toàn thấu triệt nếu căn cứ vào một quan niệm liên hệ với nhau giữa Cựu Ước và Tân Ước. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, là Đấng Thiên Sai được dân Yến Duyên trông đợi, Đấng mà, qua Cây Thập Tự Giá ác hại, đã dẫn nhân loại vào “Vương Quốc của Thiên Chúa” (trang 317) cũng như đến tình trạng tự do tối hậu (chương 9).

 

Tác phẩm của Đức Giáo Hoàng được kết thúc với một phân tích sâu xa về những tước hiệu theo các Phúc Âm cho biết là Chúa Giêsu đã sử dụng cho bản thân Người (chương 10). Một lần nữa, vấn đề trở nên rõ ràng là chỉ khi nào đọc Thánh Kinh một cách toàn diện người ta mới có thể hiểu được ý nghĩa của ba chữ “Con Người” (Son of Man), “Người Con” (Son) và “Tôi Hiện Hữu” (I Am). Danh xưng cuối là một bí danh được Thiên Chúa tỏ cho Moisen biết ở bụi cây cháy. Giờ đây danh xưng này cho thấy rằng Chúa Giêsu cũng là vị Thiên Chúa ấy. Trong cả 3 tước hiệu ấy “Chúa Giêsu vừa cha giấu vừa tỏ ra mầu nhiệm về bản thân Người […] Tất cả 3 chữ này đều chứng tỏ cho thấy Người đã có một nguồn gốc sâu xa ra sao nơi Lời Chúa, Thánh Kinh của dân Yến Duyên, Cựu Ước. Tuy nhiên, tất cả 3 từ ngữ ấy đều đạt được trọn vẹn ý nghĩa của chúng chỉ ở nơi một mình Người mà thôi – như thể chúng đã từng đợi chờ Người vậy” (trang 354).

 

Cùng với con người sống đức tin, thành phần trước hết muốn tìm cách giải thích mầu nhiệm thần linh về bản thân mình, cùng với thần học gia tinh tường nhất, thành phần dễ dàng chấp nhận các thành quả của những việc phân  giải tân tiến về tín lý với những thành quả của những gì có được xưa kia, tác phẩm này cũng tỏ ra cho thấy vị mục tử này, vị đã thực sự thành công nơi nỗ lực của mình “trong việc giúp nuôi dưỡng nơi độc giả mức độ gia tăng mối liên hệ sống động” với Chúa Giêsu Kitô (chương xxiv), lôi kéo họ một cách hầu như bất khả kháng vào mối thân hữu riêng tư của họ với Chúa. 

 

Theo quan điểm ấy, vị Giáo Hoàng này đã không sợ lên tiếng bài nác một thế giới mà, vì loại trừ Thiên Chúa và chỉ dính liền với các thực tại hữu hình và khả giác, liều mình tự hủy trong cuộc tìm kiếm vị kỷ một thứ phúc hạnh thuần vật chất – trở thành điếc lác trước tiếng mời gọi con người hãy trở nên một người con của Thiên Chúa nhờ Người Con, nhờ đó đạt được tình trạng thực sự tự do nơi “Đất Hứa” của “Vương Quốc Thiên Chúa”. 

(số trang trong bản thông báo trên đây theo ấn bản US được nhà xuất bản Doubleday phổ biến)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 15/4/2007

 

 

 

Tác Phẩm “Chúa Giêsu Nazarét” của ĐTC Biển Đức XVI: “Một thành quả vượt bực và vấn đề xuất bản”

 

Tác phẩm “Chúa Giêsu Nazarét” đã bán 50 ngàn cuốn trong vòng 1 ngày, làm cho nhà xuất bản Rioãoli đã quyết định in thêm, với tổng số lên tới 420 ngàn cuốn.

 

Nhà xuất bản này đã cho biết: “Tác phẩm của ĐTC Biển Đức XVI, được phổ biến ở các tiệm sách ở Ý vào ngày 16/4/2007 sinh nhật bát tuần của Đức Thánh Cha, đã thành công vượt bực về vấn đề xuất bản”.

 

Tác phẩm “Giêsu Nazarét” sẽ được phát hành vào ngày 15/5/2007 bởi nhà xuất bản Doubleday ở Bắc Mỹ và bởi nhà xuất bản Bloomsbury ở Hiệp Vương Quốc.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 18/4/2007 

 

 

Động lực nội tại thúc đẩy ngài viết tác phẩm

 

9 giờ sáng Chúa Nhật 22/4, trong chuyến viếng thăm giáo phận Vigevano và Pavia Ý quốc 21-22/4/2007, sau Thánh Lễ và trước khi nguyện Kinh Lạy Nữ Vương, ĐTC Biển Đức XVI đã ngỏ lời đặc biệt chào giới trẻ bằng những lời huấn dụ liên quan tới động lực nội tại thúc đẩy ngài viết tác phẩm của ngài như sau:

 

“Các bạn tiến đến  chỗ nhận thấy được hơn nữa niềm vui theo Chúa Kitô và trở nên bạn hữu của Người… Đó cũng là niềm vui đã khiến tôi viết cuốn sách mới được phát hành là ‘Giêsu Nazarét’. Tác phẩm ấy có thể hơi khó với thành phần trẻ như các bạn, thế nhưng tôi chính yếu ủy thác nó cho các bạn để nó trở thành đồng bạn trong cuộc hành trình đức tin của các thế hệ mới”.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 23/4/2007 

 

 

Ý nghĩa của Thánh Kinh theo chiều kích lịch sử hiện đại

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI, trong Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 21/4/2007 – Bài Giáo Lý 37 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền liên quan tới giáo phụ Origen thành Alexandria, ngài lại nói tới ý nghĩa của Thánh Kinh theo chiều kích lịch sử hiện đại như sau:

 

"Trong tác phẩm ‘Giêsu Nazarét’ của mình, tôi đã cố gắng một cách nào đó để chứng tỏ cho thấy những chiều kích dồi dào của Lời Chúa trong thế giới hôm nay, của Thánh Kinh, là những gì trước hết cần phải được tôn trọng theo ý nghĩa lịch sử. Thế nhưng ý nghĩa này cần phải mang chúng ta đến với Chúa Kitô, trong ánh sáng soi của Thánh Linh, và tỏ cho chúng ta thấy đường đi nước bước, cho chúng ta biết làm sao để sống".

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 25/4/2007

 

 

Tác phẩm “Chúa Giêsu Nazarét” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Trên 1 triệu rưỡi cuốn đã được đón nhận và các ấn bản ngoại ngữ mới được chuyển dịch

 

Theo Cha Claudio Rossini, vị giám đốc của Libreria Editrice Vaticana, “việc phổ biến cuốn sách này, trước khi là vấn đề về văn hóa và thương mại, thì trước hết nó là một biến cố về giáo hội và đại kết”.

 

Ấn bản Hy Lạp của tác phẩm này được phát hành hôm nay. Nó chất chứa một bản văn của thượng phụ toàn cầu Constantinople là Bartholomew I.

 

Qua bản văn này, vị thượng phụ Chính Thống đã viết rằng ngài hy vọng tác phẩm của Giáo Hoàng sẽ làm gia tăng vấn đề đối thoại giữa các giáo hội trong “niềm hy vọng của việc thắng vượt dứt khoát cuộc chia rẽ qua nhiều thế kỷ” và “hai Giáo Hội và tín hữu của hai giáo hội này có thể được liên kết, chẳng những về bác ái mà còn về niềm tin và các bí tích”.

 

Có 42 vị chủ biên trên thế giới đã đồng ý muốn xuất bản tác phẩm này, và 30 bản dịch sang các ngôn ngữ khác đang được thực hiện.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 24/5/2007