Hôm nay, 2/4/2014, ngày kỷ niệm đúng
9 năm qua đời của ĐTC GPII. Vào giờ này là 12 giờ bên
Rôma, ngài đã qua đời 3 tiếng đồng hồ, vào lúc 9 giờ 37
phút, sau Lễ Vọng kính Lòng Thương Xót Chúa hôm sau, một
thánh lễ do chính ngài thiết lập để đáp ứng ước muốn của
Chúa Giêsu qua Nữ Tu Faustina, sứ giả của Lòng Thương
Xót Chúa (xem Nhật Ký số 49 và 299), khi ngài phong
thánh cho chị vào ngày 30/4/2000. Nhân dịp này, chúng ta
hãy cùng nhau lần về quá khứ với vị giáo hoàng "totus
tuus", thừa sai cho Lòng Thương Xót Chúa để có cùng một
cảm nghiệm như Đức Thánh Cha Phanxicô rằng: "Đây là thời
điểm của tình thương"!
Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II - Tia sáng từ Balan
Hướng về vị giáo
hoàng
đến từ một quốc gia cộng sản 16/10/1978 và
được phong thánh ngày 27/4/2014
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
"Cha sẽ làm
phát ra một tia sáng từ Balan để sửa soạn thế giới cho
lần đến cuối cùng của Cha"
(Thánh Faustina: Nhật Ký - 1732). "Tia sáng từ Balan",
được Chúa Giêsu tiên báo rằng Người "sẽ làm phát ra từ
Balan" đây phải chăng là chính Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II?
Bởi vì, sau 455 năm (1523-1978), thế giới loài người đã
hết sức bàng hoàng bỡ ngỡ chứng kiến thấy trên Ngai Tòa
Thánh Phêrô đột nhiên bất ngờ xuất hiện một vị giáo
hoàng không phải là người Ý, và vị giáo hoàng lạ lùng
ngoài nước Ý này lại không xuất phát từ một thế giới tự
do, mà là từ một thế giới cộng sản, một vị giáo hoàng đã
thực sự làm biến đổi lịch sử thế giới qua biến cố cộng
sản Đông Âu và Liên Sô tự động giải thể vào cuối thập
niên 1980 và đầu thập niên 1990. Phải chăng đó là dấu
chỉ thời đại cho thấy vị giáo hoàng này đã được sai đến
quả thực là "để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng
của Cha"?!
Thế nhưng, nếu Lòng Thương Xót Chúa là dấu hiệu cho ngày
cùng tháng tận, như Chúa Giêsu đã khẳng định với Chị
Thánh Faustina: "Hãy nói cho thế giới biết
về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhận biết
tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày
cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý”
(Nhật Ký - 848), thì tia sáng từ Balan được Chúa
Giêsu "làm phát ra để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối
cùng của Cha" là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được
Người sai đến là để "nói cho thế giới biết về tình
thương của Cha".
Chính Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, trong
bài giảng lễ giỗ 3 năm 2/4/2008 của vị tiền nhiệm Gioan
Phaolô II (2/4/2008), đã chân nhận là cốt lõi giáo triều
của vị tiền nhiệm mà ngài kế vị đó là Lòng Thương Xót
Chúa: "Tình thương của Thiên Chúa, như chính ngài
nói, là then chốt đặc biệt cho việc hiểu được giáo triều
của ngài".
Đúng thế, chính vì Lòng Thương Xót Chúa "là then chốt
đặc biệt để hiểu được giáo triều của ngài" mà ngài đã có
những giáo huấn, những khởi xướng, những việc làm, những
hành động và những kêu gọi tiêu biểu đầy Lòng Thương Xót
Chúa.
1- Giáo Huấn về Lòng
Thương Xót Chúa:
Ngài đã ban hành Thông Điệp "Giầu Lòng Xót Thương"
ngày 30/11/1980, và cũng đã ban hành Tông Thư Đau
Khổ Cứu Độ ngày 11/2/1984.
Ban hành Thông
Điệp "Giầu Lòng Xót Thương" ngày 30/11/1980:
v
“Thập giá ở đồi
Canvê, thập giá mà trên ấy Đức Kitô đã thực hiện một
cuộc đối thoại cuối cùng với Cha, phát xuất từ chính tâm
điểm của tình yêu
mà con người, được dựng nên theo hình ảnh và tương tự
như Thiên Chúa, đã được ban cho như một tặng ân, theo dự
án đời đời của Thiên Chúa. Thiên Chúa, như
Đức Kitô đã mạc khải về Ngài, không chỉ gắn liền
với thế giới như một Hóa Công và như một nguồn mạch tối
hậu của việc hiện hữu. Ngài cũng là Cha: Ngài
gắn liền với con người, thành phần mà Ngài đã kêu gọi
vào thế giới hữu hình này, bằng một liên hệ còn thân
tình hơn cả mối liên hệ tạo thành nữa. Đó
là tình yêu, một tình yêu chẳng những tạo nên sự thiện
mà còn ban cho nó được tham dự vào chính sự sống của
Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần. Vì Ngài là Đấng
yêu thương muốn ban chính bản thân mình”
(Thông
Điệp "Giầu Lòng Xót Thương" – 7).
Ban hành Tông Thư
Đau Khổ Cứu Độ ngày 11/2/1984:
v
“Thế nhưng, để
nhận thấy được câu giải đáp thực sự cho vấn đề ‘tại sao’
của đau khổ, chúng ta cần phải nhìn tới mạc khải của
tình yêu thần linh, nguồn mạch tối hậu cho ý nghĩa của
hết mọi sự hiện hữu. Tình yêu cũng là nguồn mạch
phong phú nhất cho ý nghĩa của khổ đau, thứ khổ đau bao
giờ cũng vẫn là một mầu nhiệm: chúng ta biết
được cái thiếu hụt và bất toàn nơi những lời dẫn giải
của chúng ta. Chúa Kitô khiến chúng ta tiến vào
mầu nhiệm này và khám phá ra ‘cái lý do tại sao’ của đau
khổ, bao lâu chúng ta có thể thấu hiểu được tính cách
siêu vời của tình yêu thần linh.
“Để khám phá được ý nghĩa sâu xa của đau khổ, căn cứ vào
lời mạc khải của Thiên Chúa, chúng ta cần phải mở rộng
bản thân mình trước vấn đề nhân loại nơi khả năng đa
dạng của họ. Trước hết chúng ta cần phải chấp nhận ánh
sáng Mạc Khải chẳng những vì ánh sáng này cho thấy lãnh
giới siêu việt của công lý mà còn chiếu tỏ lãnh giới này
bằng Tình Yêu, như là một nguồn mạch tối hậu của hết mọi
sự hiện hữu. Tình Yêu cũng còn là nguồn mạch trọn
vẹn nhất của giải đáp cho vấn đề ý nghĩa của khổ đau.
Câu giải đáp này được Thiên Chúa cống hiến cho con người
nơi Thánh Giá của Chúa Giêsu Kitô”. (Tông Thư
Đau Khổ Cứu Độ - 13)
“Đó
là ý nghĩa của đau khổ, một ý nghĩa thực sự có tính cách
siêu nhiên và đồng thời cũng có tính cách nhân loại nữa.
Nó có tính cách siêu nhiên vì nó được bắt nguồn sâu xa
nơi mầu nhiệm thần linh của việc Cứu Chuộc thế giới,
đồng thời nó cũng có tính cách nhân bản, vì nơi nó con
người khám phá ra bản thân mình, nhân tính của mình,
phẩm vị của mình, sứ vụ của mình. Mầu nhiệm Cứu
Chuộc thế giới có một liên hệ chặt chẽ một cách lạ lùng
với khổ đau, và khổ đau này ngược lại tìm thấy nơi mầu
nhiệm Cứu Chuộc điểm tựa tối hậu và vững chắc nhất của
nó”. (Tông Thư Đau Khổ Cứu Độ - 31)
2- Khởi xướng về
Lòng Thương Xót Chúa:
Ngài đã thiết lập Ngày Bệnh Nhân Thế Giới 11/2
hằng năm vào ngày 13/5/1992, và ngài đã phát
động việc giảm nợ nần quốc tế trong Tông Thư “Ngàn
Năm Thứ Ba Đang Đến” ban hành ngày 10/11/1994.
Thiết lập Ngày
Bệnh Nhân Thế Giới ngày 13/5/1992:
”Ngày Thế Giới Bệnh
Nhân, một biến cố được tổ chức hằng năm ở một Lục Địa
khác nhau, có một ý nghĩa đặc biệt trong lần này. Thật
vậy, nó sẽ diễn ra ở Lộ Đức, Pháp Quốc, địa điểm hiện ra
của Đức Trinh Nữ vào ngày 11/2/1858, một địa điểm từ đó
đã trở thành mục tiêu của nhiều người hành hương.
Nơi miền đồi núi này, Đức Mẹ đã muốn bày tỏ tình yêu từ
mẫu của mình, nhất là đối với thành phần khổ đau và bệnh
nạn. Kể từ khi ấy, Mẹ tiếp tục hiện diện bằng
lòng quan tâm của mình…. Đền Thánh Mẫu này được chọn là
vì năm 2004 là năm kỷ niệm mừng 150 năm việc công bố Tín
Điều Hoài Thai Vô Nhiễm….
“Bởi thế, việc Hoài
Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội là rạng đông hứa hẹn cho một
ngày quang sáng Chúa Kitô, Đấng đã phục hồi trọn vẹn mối
hòa hợp giữa Thiên Chúa và nhân loại bằng cuộc tử nạn và
Phục Sinh của Người. Nếu Chúa Giêsu là nguồn sống
chiến thắng tử thần thì Mẹ Maria là người mẹ quan tâm
đến để đáp ứng các nhu cầu của con cái mình, bằng việc
giúp họ chiếm được sức khỏe phần hồn cũng như phần xác.
Đó là sứ điệp được Đền Thánh Mẫu Lộ Đức liên lỉ
lập lại cho thành phần sùng mộ cũng như cho các người
hành hương. Đó cũng là ý nghĩa ẩn nấp bên trong các cuộc
chữa lành về thân thể và tinh thần xẩy ra tại hang động
Massabielle.
”Tại địa điểm này,
từ ngày hiện ra với Bernadette Soubirous, Mẹ Maria
đã ‘chữa lành’ đau thương và bệnh nạn, bằng cách phục
hồi sức khỏe phần xác cho nhiều người con nam nữ của
mình. Tuy nhiên, Mẹ đã thực hiện những
phép lạ lạ lùng hơn nữa nơi linh hồn các tín hữu,
sửa soạn cho họ gặp gỡ Chúa Giêsu Con Mẹ là giải đáp
thực sự cho những mong đợi sâu xa nhất của tâm can con
người. Chúa Thánh Thần, Đấng đã bao phủ Mẹ vào lúc Lời
Nhập Thể, biến đổi linh hồn của vô số bệnh nhân chạy đến
với Mẹ. Ngay cả khi họ không nhận được ơn về sức khỏe
phần xác, họ cũng có thể lãnh nhận được một ơn khác còn
quan trọng hơn thế nữa, đó là ơn hoán cải tâm hồn, nguồn
mạch của sự an bình và niềm vui nội tâm. Tặng ân này
biến đổi đời sống của họ và làm cho họ trở thành những
tông đồ của Thập Giá Chúa Kitô, biểu hiệu của hy vọng,
cho dù ngay giữa những con thử thách dữ dội nhất và khó
khăn nhất” (ĐTC GPII - Sứ
Điệp Ngày Bệnh Nhân Thế Giới 2004, đoạn 1).
Phát động việc
giảm nợ nần quốc tế ngày 10/11/1994:
v
“Theo quan điểm này, nếu chúng ta nhớ
lại rằng Chúa Giêsu đến ‘để rao giảng tin mừng cho người
nghèo khó’ (Mt.11:5; Lk.7:22), thì làm sao chúng ta lại
có thể bỏ qua không nhấn mạnh hơn về việc Giáo Hội quan
tâm đặc biệt đếán kẻ nghèo nàn và kẻ vô loài? Thật vậy,
cần phải nói rằng, cuộc dấn thân cho công lý và hòa bình
trong một thế giới như của chúng ta đây, một thế giới bị
ghi dấu bởi quá nhiều giằng co, với những tình trạng
thiếu quân bình về xã hội cũng như về kinh tế không thể
nào chấp nhận được, là một điều kiện cần thiết cho việc
sửa soạn và cử hành cuộc mừng kỷ niệm này. Bởi
thế, theo tinh thần của Sách Lêvi (25:8-12), Kitô hữu
cần phải lên tiếng thay cho tất cả mọi người nghèo trên
thế giới, lấy cuộc mừng kỷ niệm này như một thời
điểm thích thuận, để đưa ra ý tưởng, cùng với các điều
khác, về việc giảm bớt thật nhiều, nếu không hoàn
toàn hủy bỏ, số nợ quốc tế (international debt) là cái
hằng đe dọa tương lai của nhiều quốc gia một cách trầm
trọng”. (Tông Thư “Ngàn
Năm Thứ Ba Đang Đến” – 51)
3-
Việc làm
về Lòng
Thương Xót Chúa:
Ngài
đã cử hành Ngày Hòa Giải 13/2/2000, vừa để xin
lỗi về các vi phạm của con cái Giáo Hội trong giòng lịch
sử, vừa để tha lỗi cho những ai phạm đến Giáo Hội cách
nào, và ngài đã hiến dâng thế giới cho Lòng Thương
Xót Chúa ngày 17/8/2002.
Cử
hành Ngày Hòa Giải 13/2/2000
v
“Trong tinh thần
đức tin của Đại Năm Thánh, hôm nay, chúng ta đang cử
hành Ngày Tha Thứ. Sáng hôm nay, tại Đền
Thờ Thánh Phêrô, tôi đã chủ sự một hành động thống hối
cảm kích và long trọng. Vào Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa
Chay này, các Vị Giám Mục và các Cộng Đồng Giáo Hội ở
các phần đất khác nhau trên thế giới đã quì xuống trước
nhan Thiên Chúa, nhân danh toàn thể dân Kitô giáo, nài
xin Ngài thứ tha.
“Năm Thánh
này là thời gian thanh tẩy: Giáo Hội là thánh, vì Chúa
Kitô là Đấu và là Phu Quân của Giáo Hội; Thần Linh là
hồn sống của Giáo Hội; Trinh Nữ Maria và các thánh là
hiện thân đích thực nhất của Giáo Hội. Tuy nhiên, con
cái của Giáo Hội cảm nhận được tội lỗi, thành phần làm
cho Giáo Hội trở nên mờ tối, mất đi vẻ đẹp của Giáo Hội.
Vì lý do ấy Giáo Hội không thôi nài xin Chúa thứ tha cho
những tội lỗi của con cái mình.
“Đây không phải là
một phán đoán về trách nhiệm chủ quan của những
người anh chị em chúng ta đã ra đi trước chúng ta: phán
đoán này chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa mà thôi, Đấng,
không giống như nhân loại chúng ta, ‘thấy được tâm trí’
(x Jer 20:12). Tác động của ngày hôm nay là việc
thành tâm nhìn nhận tội lỗi gây ra bởi con cái của Giáo
Hội trong quá khứ xa gần, và là một việc khiêm tốn xin
Chúa thứ tha. Tác động này làm cho lương tâm
bừng tỉnh lại, giúp cho Kitô hữu có thể tiến vào ngàn
năm thứ ba một cách cởi mở hơn trước Thiên Chúa và dự án
yêu thương của Ngài.
“Trong khi
chúng ta xin lỗi chúng ta cũng hãy thứ lỗi. Đó
là những gì chúng ta hằng ngày nói khi chúng ta đọc kinh
Chúa Giêsu dạy: ‘Lạy Cha… xin tha nợ cho chúng con, như
chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con’ (Mt 6:12).
Đối với tất cả mọi tín hữu, chớ gì hoa trái của Ngày
Thánh này là sự tha thứ lẫn cho nhau!
“Việc hòa giải xuất
phát từ sự tha thứ. Đó là niềm hy vọng của chúng ta đối
với hết mọi Cộng Đồng Giáo Hội, với tất cả mọi tín hữu
trong Chúa Kitô cũng như đối với toàn thể thế giới.”
(Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật 12/3/2000)
Hiến
dâng thế giới cho Lòng Thương Xót Chúa ngày 17/8/2002
v
“‘Lạy Cha hằng hữu,
vì tội lỗi của chúng con và của toàn thế giới, con xin
dâng lên Cha Mình Máu, Linh Hồn và Thiên Tính của Con
Cha yêu dấu là Chúa Giêsu Kitô; vì những sự khốn khó của
Cuộc Người Khổ Nạn, xin Cha thương đến chúng con và toàn
thế giới’ (Faustina - Nhật Ký, 476). Thương đến
chúng con và toàn thế giới… Thế giới ngày nay cần
đến tình thương của Thiên Chúa biết bao! Nơi hết
mọi lục địa, từ vực sâu khốn khổ của loài người, tiếng
kêu cầu xót thương dường như đang vang dậy. Nơi nào thù
hằn và đòi rửa hận thống trị, nơi nào chiến tranh mang
lại đau thương và chết chóc cho thành phần vô tội, thì ở
đó cần đến ân sủng tình thương để ổn định lòng trí con
người và tạo lập hòa bình. Nơi nào thiếu hụt lòng trọng
kính sự sống và phẩm vị con người thì ở đó cần đến tình
yêu nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng mà trong ánh sáng của
Ngài, chúng ta thấy được giá trị khôn tả của hữu thể con
người. Cần phải có tình thương để bảo đảm rằng hết
mọi bất công trên thế giới này sẽ được kết thúc trong
chân lý rạng ngời. Thế nên, hôm nay đây,
tại Đền Thánh này, Tôi xin long trọng ký thác thế giới
cho Lòng Thương Xót Chúa. Tôi làm như vậy với
một lòng thiết tha mong ước thấy sứ điệp của tình yêu
nhân hậu Thiên Chúa, được loan báo nơi đây qua Thánh
Faustina, cũng được tất cả mọi dân tộc trên thế giới
biết đến và làm cho lòng họ tràn đầy niềm hy vọng”. (ĐTC
GPII Balan - Bài Giảng 17/8/2002)
4- Hành
động
về Lòng Thương Xót
Chúa:
Ngài
đã đến viếng thăm Ali Agca bấy giờ đang ở
trong tù là tay ám sát ngài ngày 13/5/1981 tại Quảng
trường Thánh Phêrô, và đã xin chính quyền Ý quốc tha
án tù cho anh ta, cũng như ngài đã phải chịu hậu quả gây
ra bởi lần bị ám sát chết hụt này, với một sức khỏe từ
đó càng ngày càng trở nên thảm thương, nhất là vào thời
gian cuối đời của ngài, đến độ đã trở nên hoàn toàn bất
lực.
v
“Vào khoảng Giáng Sinh
năm 1983, tôi đã thăm kẻ tấn công tôi đang bị nhốt trong
tù. Chúng tôi nói chuyện lâu giờ. Alì Agca, ai
cũng đều biết, là một tay sát thủ chuyên nghiệp. Tức là
cuộc tấn công này không phải bởi sáng kiến riêng tư của
anh ta, mà là từ ý nghĩ của một người khác; một người
nào đó đã sai khiến anh ta thực hiện điều này. Trong
cuộc nói chuyện của chúng tôi, Alì Agca vẫn còn tỏ ra
lấy làm ngạc nhiên không hiểu tại sao một cuộc cố tình
ám sát như vậy mà lại có thể bất thành cho được. Anh ta
đã rất ư là thận trọng xếp đặt mọi sự, chú ý tới từng
chi tiết nhỏ một. Thế mà nạn nhân được nhắm tới của anh
ta lại thoát chết. Làm sao có thể xẩy
ra như thế được cơ chứ? Cái hay là ở chỗ tình trạng bối
rối của anh ta đã dẫn anh ta tới vấn đề về đạo giáo. Anh
ta muốn biết về bí mật Fatima, và bí mật này thực sự là
gì. Đó là mối quan tâm chính của anh ta; anh ta muốn
biết điều này hơn bất cứ một cái gì khác. Có lẽ những
vấn nạn dai dẳng đã cho thấy rằng anh ta đã nắm được một
điều gì đó thực sự là hệ trọng. Alì Agca có lẽ đã cảm
thấy được rằng có một quyền lực cao cả, vượt trên cả
quyền lực của anh ta, trên cả khả năng bắn giết nữa. Bởi
vậy anh ta đã bắt đầu tìm kiếm quyền lực cao cả này.
Tôi hy vọng và cầu xin cho anh ta tìm thấy quyền lực
cao cả ấy”. (Đức
Gioan Phaolô II: Hồi Niệm và Căn Tính - phụ trương, ấn
bản Anh ngữ trang 161)
5- Kêu
gọi về Lòng Thương Xót Chúa:
Ngài
đã kêu gọi trong bài giảng
cung hiến tân Đền Thờ Lòng Thương Xót Chúa ở Balan Thứ
Bảy 17/8/2002, nhất là
những lời di chúc trong Huấn Từ Truyền Tin
trưa Chúa Nhật 3/4/2005 cuối cùng cho chung Giáo Hội
về Lòng Thương Xót Chúa.
Trong
bài giảng cung hiến tân Đền Thờ Lòng Thương Xót Chúa ở
Balan Thứ Bảy 17/8/2002
v
“Thế giới ngày nay cần đến tình thương
của Thiên Chúa biết bao. Trong tình thương của Thiên
Chúa thế giới mới tìm thấy hòa bình và nhân loại mới tìm
thấy hạnh phúc!... Tôi ký thác công việc này cho
tất cả mọi người sùng mộ Lòng Thương Xót Chúa.
Chớ gì anh chị em là những chứng nhân cho tình
thương!” (ĐTCGPII – Balan 17/8/2002)
“Hôm nay đây dường như chúng ta được kêu gọi đặc biệt để
loan báo sứ điệp này trước thế giới. Chúng ta
không thể lơ là với sứ vụ này qua chứng từ của
Thánh Nữ Faustina. Thiên Chúa đã chọn thời đại của chúng
ta cho mục đích ấy… Đã đến thời điểm
cần phải mang sứ điệp của Chúa Kitô đến cho mọi
người… Đã đến giờ khắc sứ điệp Lòng
Thương Xót Chúa có thể làm cho các tâm hồn
tràn đầy hy vọng và trở nên tia sáng cho một nền văn
minh mới, một nền văn minh yêu thương”.
(ĐTCGPII – Balan 18/8/2002).
Trong Huấn Từ Lạy Nữ
Vương Thiên Đàng trưa Chúa Nhật 3/4/2005:
v
“Chúa Kitô phục sinh đã hiến ban cho
nhân loại, một nhân loại có những lúc dường như bị lạc
mất và bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, cái tôi và sợ
hãi, tặng ân tình ngài yêu thương, một tình yêu tha thứ,
hòa giải và phục hồi tinh thần hy vọng. Đó là một tình
yêu hoán cải tâm can và ban phát an bình. Thế giới
này cần phải hiểu biết và chấp nhận Lòng Thương Xót Chúa
biết bao!
“Lạy Chúa, Đấng đã tỏ tình yêu thương của Chúa Cha qua
Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa ra, chúng con tin
tưởng vào Chúa và tin tưởng lập lại cùng Chúa hôm nay
rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Chúa, xin
thương xót chúng con và toàn thế giới.
“Phụng vụ trọng thể của Lễ
Truyền Tin là lễ sẽ được cử hành ngày mai, đưa chúng ta
đến việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm vĩ đại của tình
yêu nhân hậu xuất phát từ Thánh Tâm Chúa Giêsu này bằng
ánh mắt của Mẹ Maria.”
(Huấn
từ Lạy Nữ Vương Thiên Đàng này
đã được chính vị giáo hoàng của LTXC vừa qua đời vào đêm
hôm trước dọn sẵn như
lời trăn trối cuối cùng sau giáo triều 26 năm
rưỡi của ngài).
Trong Huấn Từ Truyền Tin
Chúa Nhật Lễ Lá 30/3/2008 về Đức Gioan Phaolô II và di
chúc Lòng Thương Xót Chúa của ngài,
Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI đã nhận định như sau:
-
"Như
Thánh Faustina, Đức Gioan Phaolô
II cũng đã trở thành một vị tông đồ của lòng
thương xót thần linh. Vào đêm Thứ Bảy
2/4/2005 không thể quên được ấy, khi ngài vĩnh
viễn lìa đời thì chính là thời điểm lễ vọng Chúa
Nhật Thứ Hai Phục Sinh đã được cử hành, và nhiều
người nhận định thấy sự trùng hợp đặc thù này,
một sự trùng hợp giữa chiều kích Thánh Mẫu là
ngày Thứ Bảy Đầu Tháng và chiều kích lòng thương
xót thần linh. Thật vậy, giáo triều lâu dài và
muôn mặt của ngài là ở cái cốt lõi chính yếu
này; tất cả sứ vụ của ngài trong việc phục
vụ chân lý về Thiên Chúa, về con người và về hòa
bình trên thế giới đều được tóm gọn trong lời
tuyên bố này, như chính ngài đã nói ở
Krakow-Lagiewniki năm 2002, khi khánh thành Đền
Thờ Lòng Thương Xót Chúa: 'Ngoài
tình thương của Thiên Chúa sẽ không có một nguồn
hy vọng nào khác cho nhân loại hết'. Sứ
điệp của ngài, như sứ điệp của Thánh Faustina,
cho thấy dung nhan của Chúa Kitô, mạc khải tối
hậu của tình thương Thiên Chúa. Hãy liên
lỉ chiêm ngưỡng dung nhan này: Đó
là gia sản ngài đã để lại cho chúng ta
mà chúng ta hân hoan đón nhận làm của mình".
Như để tích cực hưởng ứng và chủ động đáp ứng những lời
di chúc cho chung Giáo Hội hết sức quan trọng này của vị
giáo hoàng tiền nhiệm, nhờ đó có thể tiếp nối sứ vụ về
Lòng Thương Xót Chúa được khởi xướng và đẩy mạnh từ Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II, Đức Thánh Cha Phanxicô
cũng đã cảm nghiệm thấy đây là thời điểm của Lòng Thương
Xót Chúa, một thời điểm đã được phát động
bởi vị giáo hoàng này cùng với Chị Thánh Faustina,
như chính ngài đã và đang sống để làm chứng trong vai
trò giáo hoàng của mình:
v
"Tôi tin rằng đây là mùa của tình
thương. Kỷ nguyên mới chúng ta đã tiến vào đây,
và nhiều vấn đề ở trong Giáo Hội - như chứng từ èo
ọt nơi một số linh mục, những vấn đề bại hoại trong Giáo
Hội, vấn đề duy giáo quyền chẳng hạn - đã khiến cho rất
nhiều người cảm thấy nhức nhối, gây ra rất nhiều đớn
đau. Giáo Hội là một người
mẹ: Giáo Hội cần phải ra đi lấy tình thương để chữa lành
cho những ai đang bị đau nhức. Nếu Chúa klhông bao
giờ thôi tha thứ, thì chúng ta không còn chọn lựa nào
khác ngoài việc này, đó là trước hết chăm sóc cho những
ai đang bị đớn đau. Giáo Hội là một người mẹ, và Giáo
Hội cần phải hành trình theo con đường tình thương này.
Và tìm kiếm một hình thức xót thương nào đó đối
với tất cả mọi người. Khi người con hoang đàng
trở về nhà, tôi không nghĩ rằng người cha bảo nó rằng:
‘Mày, ngồi xuống đây tao bảo: Mày đã làm gì với số tiền
ấy?’ Không! Ông đã tỏ ra vui mừng hớn hở! Thế rồi có lẽ
khi người con sửa soạn muốn nói thì ông đã lên
tiếng trước rồi. Giáo Hội cũng cần phải làm như thế, khi
có ai đó ... chẳng những chờ đợi họ, mà còn lên đường
tìm kiếm họ nữa! Như thế mới là tình thương chứ. Và
tôi tin rằng đây là
cơ hội thuận lợi:
thời điểm này là
một cơ hội thuận lợi
của tình thương. Thế nhưng Đức Gioan
Phaolô II đã có được trực giác về thời điểm này, khi
ngài bắt đầu với Chị Thánh Faustina Kowalska, với Lòng
Thương Xót Chúa... Ngài đã thấy được một cái gì đó, ngài
đã trực giác thấy rằng đó là một nhu cầu cho thời đại
của chúng ta". (câu trả lời
21/31 trong cuộc phỏng vần trên máy bay từ Ba Tây trở về
Rôma hôm 28/7/2013).
Bài này đã được Nguyệt San Hiệp Nhất của Cộng Đồng Công
Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange phổ biến trong số báo
Tháng 4/2014