THỜI ĐIỂM ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Bài viết được tác động bởi cái chết của vị giáo hoàng Balan, sau khi ngài qua đời 4/2005
Tân Giáo Hoàng Balan Gioan Phaolô II tŕnh diện trước Giáo Hội hoàn vũ và thế giới ngày 16/10/1978
Trước một vĩ nhân của riêng Giáo Hội Công Giáo lẫn Kitô Giáo và của chung thế giới như Đức Gioan Phaolô II, người viết cảm thấy thật là bé mọn để có thể nhận định về ngài một cách chính xác. Và qua một giáo triều dài 26 năm rưỡi (16/10/1978-2/4/2005), với đầy những hoạt động mang tính cách sáng tạo về mọi phương diện của ngài, đối nội cũng như đối ngoại, người viết lại càng cảm thấy bối rối không biết đâu là cốt lơi của giáo triều này, tức là không biết được thực sự đâu là vai tṛ và sứ mệnh của ngài theo Quan Pḥng Thần Linh cho Thời Điểm Gioan Phaolô II. Tuy nhiên, ngay khi ngài vừa vĩnh viễn nằm xuống, người viết tự nhiên cảm thấy có một cái ǵ đó hết sức mănh liệt, không thể nào không bập bẹ để bày tỏ cảm nhận về ngài, qua tác phẩm “Đức Gioan Phaolô II: Sống là Chúa Kitô – Chết là Vinh Thắng” (Cao-Bùi xuất bản 5/2005), một cảm nhận có thể được tóm gọn như sau (sách trang 265-266):
· “Nếu đối nội, Đức Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng được Chúa chọn để dẫn Giáo Hội tiến vào ngàn năm thứ ba Kitô giáo bằng cách bước qua ngưỡng cửa Đại Năm Thánh 2000, th́ đối ngoại, Đức Gioan Phaolô II, vị giáo hoàng của ‘Giáo Hội trong thế giới tân tiến’, mang ‘vui mừng và hy vọng’ là ‘Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần’ đến cho một thế giới tân tiến nhưng lại đầy lo âu và nguy biến tự diệt trong nền văn hóa sự chết, bằng cách, qua các giáo huấn đầy ‘Phúc Âm Sự Sống’ cùng với những cuộc tông du khắp nơi trong tinh thần đại kết toàn cầu, đă luôn kêu gọi con người đừng sợ mà hăy mở cửa cho Chúa Kitô, nghĩa là hăy tin vào Ḷng Thương Xót Chúa, đúng như những ǵ ngài đă kêu gọi con người ngay khi mở màn cho giáo triều của ngài, những lời ngài đă lập lại nhân dịp mừng ngân khánh giáo hoàng 25 năm của ngài: ‘Đừng sợ tiếp đón Chúa Kitô và chấp nhận quyền bính của Người! Hôm nay đây, Tôi mạnh mẽ lập lại là: Hăy mở cửa, hăy mở rộng của cho Chúa Kitô! Hăy để cho Người hướng dẫn anh chị em! Hăy tin tưởng vào t́nh yêu của Người’”.
Ở đây, người viết chỉ xin đề cập đến khía cạnh đối ngoại của vị Giáo Hoàng này, một khía cạnh trực tiếp liên quan đến riêng Âu Châu và gián tiếp đến chung thế giới, kể từ khi Quảng Trường Thánh Phêrô đột nhiên vang tiếng súng lệnh, báo động cả một khối Đông Âu sụp đổ, sửa soạn cho một khối Âu Châu hiệp nhất.
Tiếng Súng Lệnh Bùng Nổ
ĐTC GP II bị ám sát chết hụt ngày 13/5/1981 ở Quảng Trường Thánh Phêrô
Đúng thế, Quảng Trường Thánh Phêrô, vào lúc 5 giờ chiều ngày 13/5/1981, ngay trước buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần, đă đột nhiên vang tiếng súng……, thật ra là mấy tiếng súng chứ không phải một, những tiếng súng vang lên chỉ cách chiếc giáo hoàng xa của Đức Gioan Phaolô II có 20 bộ (hay 6 thước), khi ngài ở trên chiếc xe này đang chạy chung quanh quảng trường ấy theo thường lệ để chào tín hữu đang qui tụ chờ ngài bấy giờ. Hậu quả là viên đạn phát ra từ ṇng súng lục tự động 9 ly đă xuyên vào thân thể của vị Giáo Hoàng này, trúng bao tử của ngài, cùi trỏ bên cánh tay phải của ngài và ngón tay trỏ bên trái của ngài. Ngài đă được cấp tốc đưa vào bệnh viện, và chỉ khi tới bệnh viện ngài mới hoàn toàn bất tỉnh nhân sự. Cuộc giải phẫu cứu mạng ngài đă kéo dài 5 tiếng 20 phút, và thân thể ở vào tuổi gần 61 của ngài bấy giờ đă bị mất đi tới 60% lượng máu loang chảy trong ḿnh. Tuy nhiên, kể từ biến cố bị ám sát hụt ấøy, sức khỏe của con người vốn yêu chuộng thể thao này đă trở nên suy kém, cho tới ngày ngài qua đời 24 năm sau bởi một cơn kịch bệnh cuối cùng, kết thúc cuộc đời gần 85 tuổi đời của ngài (18/5/1920-2/4/2005).
Thế rồi, ở phần phụ trương cuốn “Hồi Niệm và Căn Tính” của ḿnh (ấn bản Anh ngữ, Rioăoli, New York, 2005), chính Đức Gioan Phaolô II đă cho biết những ǵ xẩy ra sau đó, sau tiếng súng nổ và sau khi ngài được đưa vào bệnh viện thế này: “Tôi đă không tỉnh dạy cho đến ngày hôm sau, vào khoảng buổi trưa” (trang 161). Cũng trong phần phụ trương này, (ở trang 163-164), ngài c̣n cho biết thêm về con người ra tay ám sát ngài như sau:
· “Vào khoảng Giáng Sinh năm 1983, tôi đă thăm kẻ tấn công tôi đang bị nhốt trong tù. Chúng tôi nói chuyện lâu giờ. Aĺ Agca, ai cũng đều biết, là một tay sát thủ chuyên nghiệp. Tức là cuộc tấn công này không phải bởi sáng kiến riêng tư của anh ta, mà là từ ư nghĩ của một người khác; một người nào đó đă sai khiến anh ta thực hiện điều này. Trong cuộc nói chuyện của chúng tôi, Aĺ Agca vẫn c̣n tỏ ra lấy làm ngạc nhiên không hiểu tại sao một cuộc cố t́nh ám sát như vậy mà lại có thể bất thành cho được. Anh ta đă rất ư là thận trọng xếp đặt mọi sự, chú ư tới từng chi tiết nhỏ một. Thế mà nạn nhân được nhắm tới của anh ta lại thoát chết. Làm sao có thể xấây ra như thế được cơ chứ? Cái hay là ở chỗ t́nh trạng bối rối của anh ta đă dẫn anh ta tới vấn đề về đạo giáo. Anh ta muốn biết về bí mật Fatima, và bí mật này thực sự là ǵ. Đó là mối quan tâm chính của anh ta; anh ta muốn biết điều này hơn bất cứ một cái ǵ khác. Có lẽ những vấn nạn dai dẳng đă cho thấy rằng anh ta đă nắm được một điều ǵ đó thực sự là hệ trọng. Aĺ Agca có lẽ đă cảm thấy được rằng có một quyền lực cao cả, vượt trên cả quyền lực của anh ta, trên cả khả năng bắn giết nữa. Bởi vậy anh ta đă bắt đầu t́m kiếm quyền lực cao cả này. Tôi hy vọng và cầu xin cho anh ta t́m thấy quyền lực cao cả ấy”.
Giáng Sinh 1983, ĐTC GP II thăm Ali Agca là kẻ ám sát ngài đang ở trong tù
Biến cố ngày 13/5/1981 là một biến cố hết sức quan trọng, như người viết cảm nhận, có thể được gọi là “Tiếng Súng Lệnh” được trời cao báo động cho biết những ǵ sắp sửa xẩy ra ở Âu Châu nói riêng cũng như trên thế giới nói chung, trong lịch sử hiện đại của loài người, ở vào cuối thiên kỷ thứ hai Kitô giáo và cuối thế kỷ 20 văn minh tân tiến. Thế mà, nhiều cuốn sách nổi tiếng viết về vị Giáo Hoàng đến từ “một xứ sở xa xôi” kỳ lạ như một “dấu chỉ thời đại” này đă hoàn toàn bỏ qua, như cuốn “Witness to Hope” của tác giả George Weigel (Cliff Street Books / Harper Collins, 1999, dầy 992 trang, khổ 6 x 9 in), hay cuốn “Man of the Century” của Jonathan Kwitny (Henry Holt and Company, 1997, dầy 754 trang, khổ 6 x 9 in). Chỉ có cuốn “His Holiness” của Carl Bernstein và Marco Politi (Doubleday, 1996, dầy 582, cỡ 6 x 9 in) là đề cập đến biến cố này khá kỹ, ở những trang 293-300, và 478-483, trong đó, hai vị tác giả của cuốn sách, (trong 8 chương có 2 chương về Cộng sản: chương 5 - “Làm Rung Động Đế Quốc” và chương 7 - “Cuộc Sụp Đổ của Cộng Sản”), đă đề cập tới chẳng những chính biến cố và cuộc điều tra nội vụ, mà c̣n đến cả tác dụng của biến cố này nơi bản thân vị Giáo Hoàng qua việc ngài hiến dâng Nước Nga theo Bí Mật Fatima, để rồi từ đó và nhờ đó đi tới hiện tượng Đông Âu năm 1989. Tác phẩm này (ở trang 480) đă móc nối cái trùng hợp giữa việc hiến dâng Nước Nga theo Bí Mật Fatima của vị Giáo Hoàng này vào tháng 3/1984, với việc xuất hiện của vị thủ lănh cuối cùng Cộng Sản Liên Bang Sô Viết là Mikhail Gorbachev ngay năm sau đó, ngày 11/3/1985
Gorbachev, vị Tổng Thư Kư cộng sản Liên Sô cuối cùng xuất hiện ngày 11/3/1985
Chính người viết này, trong cuốn “Trái Tim Mẹ Toàn Thắng” (Cao-Bùi xuất bản 12/1992, kỷ niệm 1 năm Nước Nga trở lại, ở trang 43), cũng đă có cùng nhận định như nhị vị tác giả trên đây:
· “Trong thư đề ngày 21-11-1989 gửi cho nguyệt san 30 Days, chị (Lucia) viết: ‘Thế là Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đă thực hiện việc hiến dâng ngày 25-3-1984. Tôi tin rằng không có trục trặc ǵ ở đây cả, và điều quan trọng nhất chúng ta cần nhớ về việc hiến dâng là sự hiệp thông của toàn dân Chúa, như Chúa Kitô muốn và đă xin với Cha của Người...’ (30 Days:13). ‘Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đă thực hiện việc hiến dâng ngày 25-3-1984’ và ‘Thiên Chúa sẽ giữ lời của Ngài’. Nghĩa là, như Đức Mẹ nói với chị Lucia, ‘một khi yêu cầu của Mẹ được thực hiện, th́ nước Nga sẽ trở lại và sẽ có ḥa b́nh’. Quả thật, đúng một năm sau khi Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô thực hiện việc hiến dâng được Thiên Chúa chấp nhận này, th́ Mikhail Gorbachev được bầu lên lănh đạo đảng cộng sản Liên Bang Sô Viết tháng 3-1985. Để rồi từ đó, thế giới nói chung và khối cộng sản nói riêng, như đă đề cập đến ở chương một, ‘Hiện Tượng Nước Nga’, bắt đầu thay đổi cho đến năm định mệnh 1989, năm mà chị Lucia tuyên bố ‘Thiên Chúa sẽ giữ lời của Ngài’. Quả thật, ngay sau khi chị Lucia tuyên bố điều này vào ngày 1-8-1989 th́ chính phủ cộng sản Ba-Lan đă bổ nhiệm một nhân vật thuộc Công Đoàn Liên Đới làm thủ tướng vào ngày 19/8/1989, đúng ngày Đức Mẹ hiện ra với ba Thiếu Nhi Fatima 72 năm về trước, 19-8-1917, tại Valinhos ...”
Cuộc gặp gỡ giữa 2 lănh tụ khối cộng sản và Giáo Hội Công giáo ở Vatican 80 phút ngày 1/12/1989
Chúng ta đừng tưởng việc hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria là việc dễ làm, một việc được Mẹ Maria tỏ cho 3 Thiếu Nhi Fatima (Lucia 10 tuổi, Phanxicô 9 tuổi và Giaxinta 7 tuổi) biết trong phần Bí Mật Fatima thứ 2 ngày 13/7/1917: "Mẹ sẽ đến để xin dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ". Giữ đúng lời hứa, vào khuya ngày 13/6/1929 ở Thành Tuy nước Tây Ban Nha, nơi chị Lucia đang tu, Đức Mẹ đă cho chị xem thấy một thị kiến “Ân Sủng và T́nh Thương” rồi nói: "Đă đến lúc Thiên Chúa xin Đức Thánh Cha hiệp với tất cả các giám mục trên thế giới để hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, Ngài hứa sẽ cứu Nước Nga bằng cách này”.
Việc hiến dâng hết sức hệ trọng được nhắc đến 2 lần này đă được chị Lucia đệ tŕnh lên Đức Thánh Cha Piô XII, trong bức thư đề ngày 2/12/1940 (xem Father Antonio Maria Martins, SJ, Documents on Fatima and the Memoirs of Sister Lucia, Fatima Family Apostolate, 1992, trang 347-348).
Tuy nhiên, từ đó, 1940, cho đến ngày 25/3/1984, tức qua gần nửa thế kỷ, việc hiến dâng có vẻ hết sức dễ dàng này vẫn chưa được thực hiện! Tại sao?
Theo nữ tu Lucia, vào năm 1940, trong các Thư chị gửi cho Cha Linh Hướng của ḿnh như vào những ngày 21/1, 24/4, 15/7 và 18/8, tức vào thời điểm trước ngày chị viết Thư đệ tŕnh Đức Thánh Cha Piô XII về điều kiện tiên quyết để Nước Nga trở lại, chị đă nói về lư do và hậu quả của việc Đức Thánh Cha không hiến dâng Nước Nga trong Thư đề ngày 18/8 như sau:
· “Con nghĩ rằng Chúa lấy làm hài ḷng khi biết rằng có người cố gắng làm cho Vị Đại Diện Người trên thế gian này hiện thực các ư nguyện của Người. Thế nhưng Đức Thánh Cha vẫn chưa làm điều ấy. Ngài nghi ngờ về thực tại của nó và ngài có lư của ngài. Chúa nhân lành của chúng ta có thể tỏ rơ ư định của Người ra bằng những sự lạ lùng, song Người muốn sử dụng cơ hội này để trừng phạt thế giới theo đức công minh của Người về rất nhiều tội ác của họ, cũng như để sửa soạn cho họ một cuộc hoàn toàn trở về với Người. Chứng cớ Người ban cho chúng ta là việc Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria đặc biệt bảo vệ nước Bồ Đào Nha v́ nước này đă được hiến dâng cho Mẹ… Tuy nhiên, xin cha đừng quên là bao giờ có thể xin cha hăy lợi dụng hết mọi cơ hội để lập lại điều chúng ta xin Đức Thánh Cha may ra chúng ta có thể rút ngắn thời gian này lại. Con thấy thông cảm với Đức Thánh Cha và cầu xin cho ngài bằng những lời nguyện cùng với những hy sinh khiêm hèn của con”. (Sách vừa dẫn, trang 336)
ĐTC Gioan Phaolô II gặp gỡ Nữ Tu Lucia ở Fatima ngày 13/5/2000, dịp phong chân phước cho Phanxicô và Giaxinta
Đúng thế, sở dĩ các vị Giáo Hoàng không làm điều này, thậm chí kể cả vị Giáo Hoàng “totus tuus” đặc biệt Thánh Mẫu Gioan Phaolô II đi nữa, bởi v́ nó động tới cả Ṭa Nhà Giáo Hội, đến đức tin của Giáo Hội. Ở chỗ, không thể nào một vị Giáo Hoàng mà lại đi làm theo một lời mạc khải tư (không buộc tin) như thế, một việc nếu làm mà không thực sự ứng nghiệm th́ có phải là Giáo Hoàng mê tín dị đoan hay chăng, và Giáo Hội Công Giáo nói riêng và Kitô Giáo nói chung là một tổ chức hoang đường hay sao!
Đó là lư do, để vị lănh đạo Giáo Hội Công Giáo có thể thực hiện những ǵ ḿnh muốn, một khi tới thời điểm của ḿnh, “tới khi thời gian nên trọn” (Gal 4:4), Đấng Tối Cao đă phải nhúng tay một cách tỏ tường vào lịch sử nói chung, đúng như lời chị Lucia viết: “Chúa nhân lành của chúng ta có thể tỏ rơ ư định của Người ra bằng những sự lạ lùng”, qua bản thân của một cá nhân, đó là Đức Gioan Phaolô II, bằng một viên đạn được bắn ra từ ṇng súng của một tay sát thủ chuyên nghiệp đứng rất gần ngài bấy giờ. Quả nhiên, cũng chỉ có cách đánh động hết sức hiệu nghiệm này, vị Giáo Hoàng của “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” đă quyết định đáp ứng ư định của Trời Cao.
ĐTC GP II hiến dâng Nước Nga cho TTVNNT Mẹ Maria ở Vatican ngày 25/3/1984
Thật thế, trong lời Giới Thiệu Bí Mật Fatima phần thứ ba được chính thức tiết lộ vào ngày 26/6/2000, Đức Tổng Giám Mục Bertone cho biết, sau khi bị ám sát trọng thương tại Quảng Trường Thánh Phêrô ngày 13/5/1981 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mới đọc phần Bí Mật Fatima thứ ba, (chứ không phải là Ngài đă đọc trước đó). Thế rồi, Ngài đă cố gắng “đáp ứng trọn vẹn những ǵ ‘Đức Mẹ’ yêu cầu” vào những ngày 7/6/1981 tại Đền Thờ Đức Bà Cả ở Rôma, và đă lập lại ngày 13/5/1982 ở Fatima, nhất là ngày 25/3/1984 tại Quảng Trường Thánh Phêrô, bằng việc “hiệp thông trong tinh thần với các giám mục trên thế giới được Ngài ‘kêu gọi’ trước đó để dâng hiến hết mọi con người nam nữ và tất cả mọi dân tộc cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria”.
Vào Thứ Tư 24/3/2004, áp ngày Lễ Mẹ Thai Lời 25/3 hằng năm, ĐTC đă dùng buổi triều kiến chung hằng tuần này để nhắc lại mục đích của việc Ngài tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ 20 năm trước đây, vào dịp kết thúc Năm Thánh Cứu Chuộc, 25/3/1984, Đức Thánh Cha đă nhắc lại những ǵ ngài đă làm như sau:
· “Tôi đặc biệt nhớ đến ngày 25/3 năm 1984, Năm Thánh Cứu Chuộc. Hai mươi năm đă qua đi từ ngày ở Quảng Trường Thánh Phêrô, hiệp nhất về tinh thần với tất cả các giám mục trên thế giới được ‘triệu tập’ trước đó, Tôi đă hiến dâng tất cả loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria để đáp ứng lời yêu cầu của Đức Mẹ ở Fatima”.
Ở đây ngài có ư nói tới vấn đề ngài đáp ứng lời yêu cầu hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Đó là lư do trong lời hiến dâng của ḿnh bấy giờ vào ngày 25/3/1984, Đức Thánh Cha đă nói một cách khôn khéo như sau:
· “Chúng con hôm nay đặt ḿnh trước nhan Mẹ trong năm mừng kỷ niệm ơn cứu rỗi. Chúng con xin hợp với tất cả mọi chủ chăn trong Giáo Hội làm thành một thân thể và một tập đoàn, đúng như ư của Chúa Kitô muốn các tông đồ hiệp nhất với thánh Phêrô. Trong mối liên kết hiệp nhất này, chúng con đọc những lời hiến dâng mà chúng con muốn bao gồm một lần nữa hy vọng của Giáo Hội cũng như lo âu đối với thế giới ngày nay. Bốn mươi năm về trước, rồi 10 năm sau đó, tôi tớ của Mẹ là Đức Giáo Hoàng Piô XII, chứng kiến cảnh khổ đau của gia đ́nh nhân loại, đă phó thác và hiến dâng cả thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, đặc biệt là nhân dân mà Mẹ yêu thương và quan tâm cách riêng. Cũng thế giới của mọi người và mọi dân tộc này trước mắt của con hôm nay đây, con xin lập lại việc phó thác và hiến dâng mà vị tiền nhiệm của con đă thực hiện ở Ṭa Thánh Phêrô: thế giới của kỷ nguyên thứ hai đang kết thúc, thế giới tân tiến, thế giới của chúng con hôm nay! Một cách đặc biệt, chúng con xin phú thác và hiến dâng cho Mẹ tất cả những người và những dân nước cần được phú thác và dâng hiến. Chúng con chạy đến với sự bảo hộ của Mẹ, Thiên Chúa Thánh Mẫu: xin đừng chê chối lời cầu xin chúng con dâng lên Mẹ trong cơn khẩn trương của chúng con”.
(http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/audiences/2004/documents/hf_jp-ii_aud_20040324_en.html)
Từ Đông Âu Sụp Đổ ...
Thật ra, về phương diện tiến tŕnh lịch sử, đặc biệt liên quan tới chính trị, đă có ba điều lạ lùng xẩy ra, đúng hơn, ba yếu tố định đoạt trong biến cố qua đời của chế độ cộng sản ở Âu Châu này. Thứ nhất, năm 1978, vị Giáo Hoàng Rôma (Gioan-Phaolô II) được bầu lên xuất thân từ một nước cộng sản. Thứ hai, năm 1980, tổ chức Công Đoàn Balan (Solidarity) được Lech Walesa h́nh thành ở Ba Lan. Thứ ba, năm 1985, chính sách Cởi Mở (Glasnost) và Cải Tổ (Perestroika) được tân lănh tụ Mikhail Gorbachev phát động ở Nga Sô.
Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô là yếu tố thứ nhất trong ba yếu tố định đoạt cho hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.
Biến cố này bắt đầu từ khi Ngài về thăm quê hương của Ngài vào ngày 2-10/6/1979. Việc Ngài được phép chính quyền cộng sản Ba- Lan cho về thăm quê hương cũng không phải là chuyện thường. Đầu tiên chính quyền Ba Lan từ chối lời xin phép của Ngài. Sau đó, chính quyền đă tự nhượng bộ vào ngày 7/5/1979, ngày kết thúc bảy ngày và bảy đêm liên tục lần chuỗi trước Ḿnh Thánh Chúa được tổ chức ở Đền Đức Mẹ Czestochowa để cầu nguyện cho việc được phép về thăm quê hương của Đức Giáo Hoàng. Để rồi, với ảnh hưởng của Ngài, Công Đoàn Liên Đới đă được h́nh thành.
ĐTC GP II chào dân chúng ở Wadowice vào ngày thứ 6 trong 9 ngày về Balan lần đầu tiên 2-10/6/1979
Ngài về quê hương để phát động tinh thần tranh đấu cho nhân quyền - gây chấn động thế giới cộng sản Âu Châu từ đó!
Công Đoàn Liên Đới là yếu tố thứ hai định đoạt cho hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.
Sự lạ thứ nhất là việc chính quyền cộng sản Ba-Lan vào năm 1980 đă công nhận Công Đoàn Liên Đới, một tổ chức bao gồm chừng 50 nghiệp đoàn của người Ba-Lan, do Lech Walesa lănh đạo.
Sự lạ thứ hai là, dù bị chính quyền đàn áp vào năm 1981 và dù bị chính quyền chính thức giải tán vào tháng 10 năm 1982, Công Đoàn Liên Đới vẫn tồn tại cho đến ngày được tái công nhận là ngày 17- 4-1989. Vẫn biết, theo dư luận báo chí, Công Đoàn Liên Đới nhận được viện trợ ngầm của Mỹ, có thể nhờ đó mà tồn tại, tuy nhiên, cũng theo dư luận báo chí, sở dĩ cuộc viện trợ của Mỹ đến được tay Công Đoàn Liên Đới là v́ chính phủ làm ngơ mà thôi: “dù chúng tôi không hài ḷng tí nào về điều này ... Trong một vài trường hợp chúng tôi đă mhắm mắt làm ngơ, v́ sợ lộ tẩy chân tướng của các tay trong do chúng tôi gài vào Công Đoàn Liên Đới này” (Nguyệt San 30 Days 3/92, trang 17).
Với các tay trong của chính quyền cộng sản như thế mà Công Đoàn Liên Đới vẫn tồn tại. Đó mới là sự lạ, và sự lạ là ở chỗ đó.
Sự lạ thứ ba là Tadeusz Mazowiecki, cố vấn của Công Đoàn Liên Đới, được bổ nhiệm làm thủ tướng vào ngày 19-8-1989, là một biến cố chưa từng có trong thế giới cộng sản, làm náo động tận nền móng tất cả chủ nghĩa cộng sản hiện đại, mở màn cho biến động Đông Âu.
Sự lạ thứ bốn, cũng là sự lạ chính yếu, đó là sự thành công một cách quá ư tốt đẹp của Công Đoàn Balan, một thành quả gặt hái được, như Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II viết trong thông điệp Bách Niên (Centesimus Annus) của Ngài, nhờ “chỉ sử dụng khí giới chân thật và công chính... bởi cuộc tranh đấu bất bạo động của những con người mà, trong khi nhất định không chịu nhượng bộ trước những thế lực, liên lỉ t́m kiếm những đường lối hữu hiệu để minh chứng cho sự thật” (đoạn 23).
Chính Lech Walesa, đương kim tổng thống Ba-Lan, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ước, ngày 14/10/1991, dịp chia sẻ về chủ đề và những nguyên tắc trong thông điệp Bách Niên (Centesimus Annus) của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đă phát biểu và diễn thuật về “cuộc tranh đấu bất bạo động”, “cuộc chống đối thuận ḥa”, “cuộc chống đối làm sụp đổ chủ nghĩa Mát-Xít” như sau:
· “Hăy nhớ rằng tất cả là mười triệu người tích cực tham dự. Sự bất măn đă bộc phát ở một mức độ ngoài dự liệu. Sau mười tám tháng chống đối chính quyền cộng sản mà không cần sô xát như tấn công ngục Bastilles, không cần dựng nên các đoạn đầu đài, không một mảnh kính bị đập bể, chúng tôi đă chiến thắng” (Nguyệt San Catholic International, Vol III, no. 1 & 2, 1/1992, trang 57).
Nhân vật then chốt Lech Walesa, chủ tịch Công Đoàn Balan trước và Tổng Thống Balan sau Biến Cố Đông Âu 1989
Chính sách Cởi Mở và Cải Tổ của Mikhail Gorbachev là yếu tố thứ ba định đoạt cho hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.
Đối nội, Gorbachev chủ trương hai chính sách: Cởi Mở về tư tưởng và phát biểu và Cải Tổ về chính trị và kinh tế. Với tinh thần và đường lối này, đối ngoại, Gorbachev cũng chủ trương Cải Tổ lại tất cả, như rút quân khỏi Afghanistan, cắt giảm vũ trang nguyên tử và lực lượng quân sự, khuyến khích khối cộng sản Đông Âu cải tổ chính trị cũng như kinh tế và hứa không
can thiệp vào nội bộ cải tổ của mỗi địa phương. Kết quả là những cuộc bùng nổ thực sự đă xẩy ra ở các nước cộng sản Đông Âu.
Khởi đầu là Ba-Lan, ngày 4 và 18 tháng 6 năm 1989, đă tổ chức bầu cử tự do, lần đầu tiên kể từ năm 1947.
Thứ đến là Hung Gia Lợi, ngày 10-9-1989, chính quyền cộng sản đă mở cửa biên giới cho dân Đông Đức từ ngả nước Áo trốn sang Tây Đức, và ngày 18-10-1989, đă chấp nhận h́nh thức bầu cử đa đảng.
Rồi Tây Đức, ngày 18-10-1989, đă truất phế lănh tụ cộng sản Erich Honecker, và ngày 9-11-1989 đă mở cửa biên giới, phá đổ bức tường Bá-Linh, để cho dân tha hồ tuốn sang Tây Đức; nhất là, vào ngày 7-12-1989, đảng cộng sản Tây Đức đă tự giải thể và kêu gọi tổ chức bầu cử đa đảng vào tháng 5/1990, để rồi, kết thúc với một nước Đức thống nhất vào ngày 3/10/1990.
Rồi Bulgaria,ngày 10-11-1989, quyền bính trong tay nhà độc tài Todor Zhivkov sau 35 năm đă bị mất vào tay một nhà cải cách.
Rồi Czechoslovakia, ngày 10-12-1989, một chính quyền vừa cộng sản lẫn không cộng sản (đa số) được thành h́nh, dọn đường cho việc bầu cử tự do.
Rồi Romania, ngày 22-12-1989, lănh tụ Nicolae Ceausescu đă hoàn toàn bất lực trong việc truyền khiến quân đội và bị tử h́nh ngày 25-12-1989 v́ bị kết tội là kẻ thù của dân tộc.
Sau hết, ngay tại Liên Bang Sô Viết, tháng 3/1990, một cuộc bầu cử tự do đă được thực hiện và Gorbachev đă đắc cử tổng thống Liên Bang Sô Viết; ngày 20 và 21/8/1991, nhân cuộc nổi dậy của đảng cộng sản hôm 19-21/8/1991, ba nước cộng ḥa Baltic là Estonia, Latvia và Lithunia đă tái tuyên bố độc lập (sau lần đ̣i độc lập thứ nhất vào tháng 3/1990), kéo theo sự thành lập của Khối Thịnh Vượng Chung vào ngày 21/12/1991 cho 11 trong 12 (trừ Georgia) nước thuộc Cộng Ḥa Sô Viết.
Chủ nghĩa và Chế độ vô thần cộng sản hoàn toàn bị phá sản ở Liên Sô: Lá cờ cộng sản bị hạ xuống và thay thế lá cờ Nga sô từ ngày đại lễ giáng sinh 25/12/1991
Một đệ nhất đại lễ Giáng Sinh 25/12/1991 trong lịch sử một "Nước Nga trở lại"!
Trong cuốn "Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng" của ḿnh, (ấn bản Anh ngữ, Alfred A. Knopf, 1994), chính vị Giáo Hoàng không phải người Ư (sau 455 năm) trở thành vị thừa kế Thánh Phêrô này đă công nhận là biến cố Đông Âu sụp đổ là do Quan Pḥng Thần Linh, được thể hiện nơi Biến Cố Thánh Mẫu Fatima (trang 127-134). Ngài trả lời vấn nạn “phải chăng Thiên Chúa đă nhúng tay vào việc sụp đổ của Cộng sản?” liên quan đến Fatima như sau:
· "Chúng ta phải nói sao về 3 trẻ ở Fatima, những em nhỏ, ngay trước cuộc bùng nổ của Cách Mạng Tháng Mười, đột nhiên nghe thấy rằng: 'Nước Nga sẽ trở lại' và 'Cuối cùng, Trái Tim Mẹ sẽ thắng'...? Chúng không thể nào tạo ra những tiên đoán này. Chúng không biết đầy đủ về lịch sử hay địa dư, cũng không biết về những biến chuyển trong xă hội cũng như những phát triển về ư thức hệ. Thế mà, việc đă xẩy ra đúng như chúng đă nói. Có thể đây cũng là lư do tại sao mà một vị Giáo Hoàng từ 'một xứ sở xa xôi' đă được kêu gọi đến, đó có thể là lư do tại sao cần phải có một cuộc cố sát xẩy ra tại Công Trường Thánh Phêrô ngay vào ngày 13-5-1981, ngày kỷ niệm biến cố hiện ra lần thứ nhất ở Fatima - để tất cả mọi sự được trở nên thông suốt và thấu đáo, để tiếng của Thiên Chúa nói trong lịch sử loài người qua những 'dấu chỉ thời đại' có thể dễ nghe và dễ hiểu hơn" (trang 130, 131-132).
Trước mắt thế giới, hầu như đă trở thành một sự thật lịch sử, một sự kiện đă được những nhân vật nổi tiếng đồng thanh công nhận là chính vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă góp phần vào việc làm sụp đổ Cộng Sản Đông Âu, kể từ chuyến viếng thăm quê hương lần thứ nhất của ngài vào tháng 6/1979, một cuộc viếng thăm mà chính ngài cũng không thể ngờ được là 10 năm sau đă làm biến đổi chẳng những lịch sử Âu Châu mà cả lịch sử thế giới nữa.
Timothy Garton Ash, một kư giả người Anh, năm 1990 đă viết:
· “Chính tháng Sáu năm 1979 là khởi điểm cho cuộc kết liễu của riêng lịch sử Đông Âu... Tôi tin rằng chuyến công du đầu tiên về Ba-Lan của Đức Thánh Cha là chốt điểm của nó. Chỉ hơn một năm sau cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha là Công Đoàn Liên Đới ra đời, nếu không có cuộc viếng thăm này của Đức Thánh Cha, chưa chắc đă có Công Đoàn Liên Đới. Gương của Công Đoàn Liên Đới là một khai triển tân kỳ”. (Catholic International, Vol III, no. 1 & 2, 1/1992, trang 57).
Mikhail Gorbachev, nguyên lănh tụ Cộng Sản Liên Sô, cho rằng Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đă giữ một vai tṛ rất quan trọng trong việc Cộng Sản Đông Âu sụp đổ. Trong một bài báo được nhiều tờ báo nổi tiếng trên thế giới đăng tải vào tháng 3/1992, Gorbachev đă viết:
· “Những biến cố ở Đông Âu không thể nào xẩy ra nếu không có vai tṛ quan trọng mà Ngài (ĐTC Gioan-Phaolô II) tự biết phải đóng vai tṛ như thế nào trong hiện t́nh thế giới... Tôi vẫn tin ở tầm mức quan trọng nơi những hành động của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trong những năm ấy” (Tam Cá Nguyệt San Fatima Family Messenger, 4-6/92, trang 21).
Tổng Thống George Bush, trong bài diễn văn cho buổi Khánh Thành Trung Tâm Văn Hóa John Paul II ở Washington DC, ngày 22/3/2001, đă có cùng một cảm nhận như sau:
· “Chúng ta hăy nhớ lại cuộc thăm viếng của vị Giáo Hoàng này lần đầu tiên ở Balan năm 1979, thời điểm đức tin đă trở thành một lực lượng kháng cự và bắt đầu gây biến động đưa đến t́nh trạng sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản đế quốc. Vị linh mục trẻ trung, hiền lành, một thời đă bị Đảng Nazi bắt đi lao động, đă trở thành kẻ thù của chính thể chuyên chế bạo tàn và là một chứng nhân cho niềm hy vọng. Vị lănh đạo cuối cùng của Liên Bang Sô Viết đă gọi Ngài là ‘thẩm quyền luân lư đệ nhất trên hoàn cầu’”. (L’Osservatore Romano, tuần san ấn bản Anh ngữ, 28/3/2001)
Lech Walesa, vị lănh đạo Công Đoàn Balan và là cựu Tổng Thống Balan (đầu tiên sau chế độ Cộng sản ở nước này), đă nói về vị Giáo Hoàng đồng hương của ḿnh sau khi ngài tạ thế như sau:
· “Không có ngài sẽ không có vấn đề chấm dứt chủ nghĩa cộng sản, hay ít là măi sau này và việc chấm dứt sẽ xẩy ra đẫm máu”. (Mạng điện toán toàn cầu CNN, ngày 3/4/2005)
Bức tường Balinh ngăn chia đông tây Đức quốc bị sụp đổ ngày 9/11/1989 là biểu tượng cho việc chấm dứt thời kỳ Âu Châu bị chia đôi thành hai khối: cộng sản bên đông và tư bản bên tây
h́nh ảnh một "big city" ở hai bên, một bên bị tàn rụi ám chỉ cộng sản, và một bên cũng đang lảo đảo sắp ngă xuống, ở thị kiến trong phần thứ 3 của Bí Mật Fatima
... đến Âu Châu Hiệp Nhất
Thật ra, từ sau Biến Cố Đông Âu 1989 đến nay, Âu Châu vẫn chưa hiệp nhất, cho dù ở Âu Châu đă có Khối Hiệp Nhất Âu Châu từ năm 1951. Khối Hiệp Nhất Âu Châu có lẽ đă được bắt nguồn từ tư tưởng của Victor Hugo năm 1846, tư tưởng “h́nh thành mối huynh đệ Âu Châu”. Tuy nhiên, măi đến sau Thế Chiến Thứ Hai, tức vào năm 1945, Âu Châu mới thực sự áp dụng tư tưởng này, để ít là có thể tránh khỏi những cuộc xung đột xẩy ra như hai trận thế chiến trước đó thuộc tiến bán thế kỷ 20.
Theo tiến tŕnh phát triển, Khối Hiệp Nhất Âu Châu đă đạt tới 25 quốc gia phần tử có một tổng số dân là 455 triệu, hiện nay là 27 nước, dân số đông hơn, lực lượng mạnh hơn, nhiều hơn Hoa Kỳ khoảng gấp đôi, và là khối kinh tế lớn nhất thế giới, với một tổng sản lượng lớn hơn cả của Mỹ Quốc.
Tuy Khối Hiệp Nhất Âu Châu được phát triển để trở thành một khối kinh tế lớn nhất thế giới. Nhưng, Giáo Hội Công Giáo, qua vị đương kim Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đă cảnh giác việc Khối này đă gạt bỏ căn tính và ngồn gốc Kitô Giáo làm nên văn hóa và lịch sử Âu Châu trong Bản Hiến Pháp của họ. Lư do là v́ Khối này, dẫn đầu là Pháp quốc, muốn dân sự (chính trị và kinh tế) hoàn toàn tách biệt khỏi tôn giáo.
Đồng ư là như thế. Tôn giáo và dân sự phải hoàn toàn tách biệt nhau về phương diện trách nhiệm và sứ vụ chuyên biệt của mỗi lănh vực, để tránh khỏi những ǵ đáng tiếc đă xẩy ra trong quá khư. Như các hoàng đế Rôma xưa đă triệu tập các Công Đồng Chung đầu tiên của Giáo Hội, hay các vị giáo hoàng sau này đă phong vương, phong đế cho các nước thuộc thẩm quyền của ḿnh.
Tuy nhiên, không phải v́ thế mà hai lănh vực này có thể hoàn toàn tách biệt nhau về khía cạnh cùng đích. Nếu con người không nguyên sống bởi bánh mà c̣n bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra, tức c̣n phải sống theo luân thường đạo lư và luân lư nữa, mới thực sự là người và nên người thế nào, bằng không con người chỉ sống để mà ăn như con vật, th́ dân sự không thể thiếu tôn giáo như hồn sống của ḿnh. Một Âu Châu càng hiệp nhất về phương diện kinh tế và chính trị càng phủ nhận căn tính Kitô Giáo của ḿnh là một Âu Châu đang đi đến chỗ diệt vong.
Hiện tượng này đă xuất đầu lộ diện ngay khi Khối này có thêm 25 phần tử nữa vào tháng 5/2004. Điển h́nh là vấn đề bất đồng việc xài đồng Âu (eu) và việc đóng vai tṛ thay nhau làm chủ tịch khối. Về vấn đề sử dụng tiền euro, chỉ mới có 12 quốc gia trong 25 thuộc về “eurozone” mà thôi. Về vấn đề giữ vai tṛ chủ tịch, hôm Thứ Hai 21/6/2004, Đức đă cùng với Pháp đă bác bỏ việc bất cứ ứng viên nào thuộc Hiệp Vương Quốc, Ái Nhĩ Lan, Đan Mạch, Thụy Điển hay 10 tân phần tử được làm chủ tịch Ủy Ban Âu Châu tới đây.
Ngoài ra, vào đầu tháng 6/2004, cuộc bỏ phiếu đầu tiên khi khối này tăng thêm 10 phần tử nữa, đă cho thấy t́nh h́nh không khả quan cho lắm. V́ chỉ có 45.5%, một kỷ lục thấp nhất từ trước đến nay. Trong số 15 phần tử cữ có 49%, c̣n thấp hơn năm 1999 ở 49.8%. C̣n ở các nước Đông Âu mới gia nhập chỉ có 26.4%. Chưa hết, bản Hiến Pháp Âu Châu đă bị chính hai quốc gia sáng lập bác bỏ qua các cuộc trưng cầu dân ư của họ, Pháp vào ngày 29/5, và Ḥa Lan vào ngày 1/6/2005.
Bởi thế, nếu Khối Hiệp Nhất Âu Châu không mau trở về với căn gốc Kitô Giáo là những ǵ làm nên lịch sử và văn hóa của họ theo lời kêu gọi của Giáo Hội Công Giáo, họ sẽ không thể tiến triển về phương diện kinh tế, trái lại, ḷng đạo càng sa sút, họ càng trở thành một Khối Bất Nhất Âu Châu thay v́ Khối Hiệp Nhất Âu Châu. Đó là chưa kể đến t́nh h́nh Hồi Giáo đang phát triển mạnh ở đây, vào một lúc nào đó, khối Hồi Giáo, qua sự quan pḥng của Thiên Chúa, v́ muốn thanh tẩy Âu Châu đang càng ngày càng bị tục hóa chẳng hạn, để cho Âu Châu bị Hồi Giáo xâm chiếm một cách nào đó. Cuộc nổi loạn ở Pháp, kéo dài liên tục trên 2 tuần lễ từ ngày 27/10/2005 của giới trẻ thuộc thành phần Hồi Giáo, phải chăng là một dấu chỉ thời đại cho thấy Âu Châu cần phải cấp thời hoán cải?
Thật vậy, một Âu Châu đă được h́nh thành bởi văn hóa Kitô giáo, một thứ văn hóa đă làm nền văn minh Âu Châu nói riêng và thế giới nói chung qua việc truyền bá Phúc Âm hóa từ và bởi châu lục này, cần phải trở về với căn gốc của ḿnh, mới có thể lấy lại được uy thế cả về đạo lư lẫn chính trị và kinh tế; bằng không, không t́m Nước Chúa và sự công chính của Ngài trước, nghĩa là chỉ biết sống thuần túy bởi bánh duy vật, như thực tế đă từng và đang xẩy ra, th́ Âu Châu (và cả Mỹ Châu là một tân Âu Châu nới rộng), hai châu lục được gọi là thế giới Kitô giáo, sẽ cứ quay cuồng với nền văn hóa sự chết, choáng váng với đủ mọi thứ luật rừng và quái rợ, như ly dị phá thai, triệt sinh an tử, hôn nhân đồng tính, tạo sinh sao bản v.v., chẳng khác ǵ một anh chàng đóng khố luân thường đạo lư và đi giầy tây văn minh vật chất vậy.
Đó là lư do, trong mùa hè năm 2003, tại nhà nghỉ mát của ḿnh, ĐTC Gioan Phaolô II đă ban các bài huấn từ truyền tin Chúa Nhật liên quan đến căn gốc Kitô giáo ở Âu Châu, một vấn đề Ngài muốn dẫn giải thêm về Tông Huấn “Giáo Hội Tại Âu Châu” là văn kiện mới được Ngài ban bố trước đó ít lâu, 28/6/2003, áp lễ hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô.
Chúa Nhật 13/7, Ngài đă nói về một hiện trạng Âu Châu cần phải được bắt đầu lại từ Chúa Kitô:
· “Trong giây phút lịch sử này, trong giây phút tiến tŕnh quan trọng của vấn đề tái hiệp nhất Âu Châu đang diễn tiến qua việc nới rộng Khối Hiệp Nhất Âu Châu đến các quốc gia khác, Giáo Hội ưu ái nh́n đến lục địa này. Cùng với nhiều thứ sáng sủa cũng có một số những bóng tối. T́nh trạng mất đi kư ức Kitô giáo được đi liền với nỗi lo sợ phải đối diện với tương lai. T́nh trạng lan tràn khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa cùng với việc càng ngày càng suy yếu t́nh đoàn kết liên cá thể, và t́nh trạng mất đi niềm hy vọng gây ra bởi nỗ lực muốn làm cho khoa nhân loại học phi Thiên Chúa và Chúa Kitô. Ngược đời thay, cái nôi nhân quyền đang có nguy cơ mất đi nền tảng của ḿnh, một thứ nền tảng đang bị hao ṃn bởi trào lưu tương đối và chủ nghĩa thực dụng”.
Chúa Nhật 20/7, Ngài đă nói về việc xây dưng một thứ tân Âu Châu Kitô giáo:
· “Kitô giáo tạo nên, trong gịng lịch sử phức tạp của Châu Lục này, một yếu tố chính yếu và h́nh thành là những ǵ đă dần dần làm cho Âu Châu liên kết lại trên nền tảng của cái gia sản cổ kính ấy, cũng như trên những đóng góp khác nhau bởi những gịng văn hóa chủng tộc qua các thế kỷ. Có thể nói rằng đức tin Kitô giáo đă h́nh thành văn hóa Âu Châu, làm cho lịch sử Âu Châu trở thành một toàn khối, và bất chấp t́nh trạng chia rẽ Đông Tây, Kitô giáo vẫn trở thành ‘tôn giáo của nhân dân Âu Châu’. Ảnh hưởng của Kitô giáo vẫn c̣n nổi nang trong kỷ nguyên tân tiến và đương thời này, cho dù có xẩy ra hiện tượng tục hóa tràn lan và mạnh mẽ. Giáo Hội biết rằng mối quan tâm của ḿnh về Âu Châu được phát xuất từ chính sứ vụ của ḿnh. Là một kho tàng Phúc Âm, Giáo Hội đă phát động cổ vơ những giá trị làm cho văn hóa Âu Châu được thế giới cảm phục. Gia sản này không thể nào bị phá tán. Ngược lại, một thứ tân Âu Châu cần phải được giúp đỡ ‘để xây dựng bản thân bằng việc tái sinh động những căn gốc Kitô giáo nguyên thủy của ḿnh’”.
Chúa Nhật 27/7, Ngài đă nói về việc tân truyền bá phúc âm hóa Âu Châu:
· “Giáo Hội được Chúa Kitô truyền loan báo Phúc Âm cho đến tận cùng trái đất… Các cộng đồng Giáo Hội Âu Châu đặc biệt được kêu gọi để thi hành công việc này. Đúng thế, ở lục địa đây, tất cả mọi tín hữu cần phải biết lấy lại ḷng nhiệt thành loan báo và làm chứng cho Phúc Âm… Mặc dù có một số miền và lănh vực đang đợi chờ để lănh nhận việc loán báo Phúc Âm lần đầu tiên, việc loan báo này cũng cần phải được làm mới lại ở khắp nơi nữa. Kiến thức Kitô giáo thường được nhận lănh một cách nhưng không, song thực tế cho thấy việc đọc hay học hỏi Thánh Kinh lại rất ít, việc học giáo lư không phải bao giờ cũng kỹ lưỡng, và việc lănh nhận các Phép Bí Tích không thường xuyên. Bởi thế mà đức tin chân chính được thay thế bằng một cảm thức tôn giáo mơ hồ và sơ sài có thể trở thành một thứ bất khả tri hay vô thần thực tiễn. Âu Châu ngày nay cần có mặt của những người Công giáo chín chắn đức tin cũng như cần đến những cộng đồng Kitô hũu truyền giáo có thể làm chứng cho t́nh yêu của Thiên Chúa đối với toàn thể nhân loại. Việc loan báo được làm mới lại về Chúa Kitô này cần phải được kèm theo bằng một mối hiệp nhất và hiệp thông sâu xa với Giáo Hội, cũng như bằng một cuộc dấn thân và đối thoại đại kết với tin đồ của các tôn giáo khác”.
Chúa Nhật 3/8, Ngài đă nói về việc giữ Ngày Chúa Nhật ở Âu Châu:
· “Âu Châu là một lục địa, trong hai ngàn năm qua, đă được ghi dấu Kitô giáo hơn bất cứ ở lục địa nào khác. Lời chúc tụng, từ hết mọi miền đất của lục địa này, nơi các đan viện, các vương cung thánh đường và các thánh đường của nó, vẫn không ngớt được dâng lên Chúa Kitô, Vị Chúa của thời gian và lịch sử. Bí Tích Rửa Tội và các Bí Tích khác đă thánh hóa các mùa sống của vô vàn tín hữu. Bí Tích Thánh Thể, nhất là vào Ngày Chúa Nhật, đă nuôi dưỡng đức tin và đức mến của họ; Phụng Vụ Giờ Kinh cùng với nhiều h́nh thức cầu nguyện phổ thông khác đă đánh dấu nhịp sống thường nhật của họ ... Ngày này là biểu hiệu trên hết cho tất cả những ǵ Kitô giáo đă và vẫn c̣n đại diện cho, ở Âu Châu cũng như ở khắp nơi trên thế giới, đó là việc trường kỳ loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Chúa Giêsu, việc cử hành Người chiến thắng tội lỗi và sự chết, việc dấn thân để hoàn toàn giải phóng loài người. Việc duy tŕ ư nghĩa Ngày Chúa Nhật của Kitô giáo là một đóng góp đáng kể cho Âu Châu trong việc bảo tồn một phần thiết yếu của gia sản thiêng liêng và văn hóa riêng biệt của lục địa này”.
Chúa Nhật 10/8, Ngài nói về dịch vụ yêu thương cần thiết ở Âu Châu:
· “Phục vụ Phúc Âm hy vọng cũng là sứ vụ của Giáo Hội ở Âu Châu. Giáo Hội thi hành sứ vụ này, song song với việc loan báo hy vọng bằng những hoạt động bác ái cụ thể. Đó là những ǵ đă xẩy ra qua các thế kỷ, ở chỗ nhiệm vụ truyền bá phúc âm hóa được hỗ trợ bằng việc phát triển nhân bản một cách hiệu năng. Khi dấn thân phục vụ bác ái, Giáo Hội đă và đang nuôi dưỡng thứ văn hóa đoàn kết, bằng việc hợp tác tái ban sinh lực cho các giá trị phổ quát của việc nhân loại cùng nhau chung sống (cf. apostolic exhortation "Ecclesia in Europa," No. 84). Kể cả ngày hôm nay đây cũng cần phải ‘cống hiến lại cho thành phần nghèo khổ niềm hy vọng’, để nhờ việc đón nhận và phục vụ họ là đón nhận và phục vụ chính Chúa Kitô (x Mt 25:40). Về vấn đề này các tín hữu Âu Châu đang phải đương đầu với nhiều thách đố. Ngày nay có nhiều loại người nghèo, trong số đó là thành phần thất nghiệp, bệnh tật, những người già yếu bị cô lập hay bỏ rơi, thành phần vô gia cư, thành phần giới trẻ sáng bên lề xă hội, thành phần di dân và tị nạn. Dịch vụ yêu thương c̣n có nghĩa là trung thực đặt lại vấn đề sự thật về hôn nhân và gia đ́nh, là giáo dục thành phần giới trẻ, những cặp đính hôn và chính các gia đ́nh trong việc sống và loan truyền ‘Phúc Âm sự sống’, chiến đấu chống lại ‘văn hóa sự chết’. Chỉ khi nào hết mọi người biết cộng tác với nhau mới có thể xây dựng một ‘thành đô xứng đáng cho con người’ ở Âu Châu cũng như trên thế giới, và một trật tự thế giới chân chính và bền vững hơn”.
Chúa Nhật 17/8, Ngài nói đến tính cách mới mẻ nơi một Âu Châu bị khủng hoảng về các giá trị:
· “Hôm kia là lễ trọng kính Trinh Nữ Maria Mông Triệu, phụng vụ đă kêu gọi chúng ta hăy ngước mắt và trời để chiêm ngưỡng Mẹ Maria ở tân Giêrusalem, Thành Thánh từ Thiên Chúa mà đến (x Rev 21:2). ‘Này Ta canh tân lại hết mọi sự’ (Rev 21:5), Chúa phán. Trong Sách Khải Huyền, Phục Âm hy vọng đă mănh liệt vang vọng, một thù phúc âm thôi thúc con người lănh nhận “cái mới mẻ của Thiên Chúa”, một tặng ân cánh chung vượt trên hết mọi khả năng của con người, và là một phúc âm con người có thể thực hiện. “Cái mới mẻ” này sẽ được nên trọn vào ngày cùng tháng tận, thế nhưng nó cũng đang hiện diện ngay trong lịch sử. Thật vậy, cả cho đến lúc này, nhờ Giáo Hội, Thiên Chúa đang canh tân và biến đổi thế giới, và những ư tưởng về hành động của Ngài cũng có thể được nhận thấy ‘nơi hết mọi h́nh thức của việc loài người sống chung theo tinh thần Phúc Âm’ (apostolic exhortation "Ecclesia in Europa," No. 107). Lục địa Âu Châu, một lục địa qua hai ngàn năm “đă nghe Phúc Âm Nước Trời được Chúa Giêsu loan báo” (ibid.107), không thể nào không hiểu ‘cái mới mẻ’ này. Đức tin Kitô giáo đă ban cho cái mới mẻ ấy h́nh thể, và một số những giá trị cốt yếu của cái mới mẻ ấy về sau đă làm nên ‘lư tưởng về dân chủ và các thứ nhân quyền’ của một thứ Âu Châu tân tiến. Ngoài việc là ‘một nơi về địa dư’, Âu Châu c̣n là ‘một quan niệm chủ chốt về văn hóa và lịch sử’, có đặc tính là một Lục Địa làm nên bởi lực lượng hiệp nhất Kitô giáo, một lực lượng đă từng là yếu tố căn bản của mối hiệp nhất giữa các dân tộc và văn hóa, cũng như của việc phát triển toàn vẹn con người cùng với các thứ quyền lợi của họ (x ibid. 108). Không thể chối căi được rằng, trong những thời điểm của chúng ta đây, Âu Châu đang bị khủng hoảng về các thứ giá trị, và nó cần phải phục hồi căn tính của ḿnh. Tiến tŕnh mở rộng của Khối Hiệp Nhất Âu Châu bao gồm các xứ sở khác không thể chỉ liên quan tới các khía cạnh về địa dư và kinh tế, mà c̣n phải được chuyển dịch thành một hợp đồng mới mẻ của các thứ giá trị thể hiện nơi luật pháp và đời sống (see ibid., No. 110)”.
Chúa Nhật 24/8, Ngài nói đến vai tṛ quyết liệt của các cơ cấu ở Âu Châu:
· “Một lần nữa tôi lại nghĩ đến tiến tŕnh hiện tại của việc hội nhập Âu Châu, nhất là đến vai tṛ quyết liệt của các cơ cấu Âu Châu. Trước hết tôi nghĩ đến Khối Hiệp Nhất Âu Châu là khối dấn thân để t́m kiếm những h́nh thức mới mẻ của sự cởi mở, giao ngộ và hợp tác nơi các quốc gia phần tử của khối này. Ngoài ra, tôi nghĩ đến Hội Đồng Âu Châu có trung tâm ở Strasbourg cũng như đến Pháp Viện Âu Châu Về Các Thứ Quyền Lợi Con Người là cơ quan thi hành công việc cao quí kiến tạo nên một Âu Châu tự do, công lư và đoàn kết. Sau hết, tôi cũng phải nhắc đến Tổ Chức về An Ninh và Hợp Tác ở Âu Châu là tổ chức dấn thân cổ vơ lư tưởng tự do cho con người cũng như cho các quốc gia thuộc lục địa này. Cùng với lời cầu nguyện, tôi theo dơi mức tiến triển trăn trở của bản hiệp ước về hiến pháp của Khối Hiệp Nhất Âu Châu này, một bản hiệp ước hiện nay đang được chính quyền thuộc các quốc gia khác nhau t́m hiểu... Về phần ḿnh, Giáo Hội Công Giáo tin tưởng rằng Phúc Âm của Chúa Kitô, một Phúc Âm đă từng là một yếu tố hiệp nhất các dân tộc Âu Châu trong nhiều thế kỷ, tiếp tục là, kể cả ngày hôm nay đây, một nguồn mạch bất tận về linh đạo cũng như huynh đệ. Việc tỏ ra chú trọng đến nguồn mạch này là việc làm ích cho tất cả mọi người, và việc nh́n nhận một cách minh nhiên nơi bản hiệp ước các căn tính Kitô giáo của Âu Châu, đối với châu lục này, sẽ trở thành một thứ bảo đảm chính yếu cho tương lai”.
Chúa Nhật 31/8, Ngài hiến dâng Âu Châu cho Mẹ Maria:
· "Trong các Chúa Nhật vừa qua, việc suy tư của Tôi nhắm đến Âu Châu và các căn gốc Kitô giáo của châu lục này, khi xem lại bản văn kiện tông huấn hậu Thượng Hội Giám Mục Âu Châu ‘Giáo Hội Tại Âu Châu’. Bản văn kiện này đă kết thúc ở việc ‘Hiến Dâng cho Mẹ Maria’ tất cả mọi con người nam nữ của châu lục đây, một việc hiến dâng Tôi muốn lập lại ngày hôm nay đây, để Vị Thánh Trinh Nữ làm cho Âu Châu trở thành một bản hợp tấu các quốc gia dấn thân cùng nhau xây dựng một nền văn minh yêu thương và ḥa b́nh. Có vô vàn các đền thờ Thánh Mẫu ở hết mọi xứ sở Âu Châu. Hôm nay Tôi đặc biệt nghĩ đến Đền Đức Mẹ Khóc ở Syracuse, nơi đang cử hành 50 năm Mẹ Maria khóc… Những giọt nước mắt này mầu nhiệm biết bao! Chúng nói lên cho thấy nỗi khổ đau và dịu dàng, đến niềm an ủi và t́nh thương thần linh. Chúng là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện từ mẫu, và là một lời kêu gọi hoán cải trở về cùng Thiên Chúa, từ bỏ con đường gian ác để trung thành theo Chúa Giêsu Kitô. Hỡi Đức Mẹ Giọt Châu ngọt ngào, chúng con dâng cho Mẹ Giáo Hội và toàn thế giới. Xin Mẹ hăy nh́n đến những ai cần đến ơn tha thứ và sự ḥa giải nhất; Mẹ hăy mang hợp ḥa đến cho các gia đ́nh và mang b́nh an đến cho các dân tộc. Xin hăy lau khô nước mắt gây ra bởi hận thù và bạo lực ở nhiều miền đất trên Thế Giới này, nhất là ở Trung Đông và lục địa Phi Châu. Ôi Lạy Mẹ, chớ ǵ những giọt nước mắt của Mẹ là một bảo chứng cho việc hoán cải và ḥa b́nh cho tất cả mọi con cái của Mẹ! "
(http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/angelus/2003/index.htm, các chỗ đậm là do người dịch muốn nhấn mạnh)
Đúng thế, Âu Châu thực sự là mối quan tâm đặc biệt của Đức Gioan Phaolô II. V́ Âu Châu, một châu lục Kitô giáo, trực tiếp liên quan đến lịch sử, văn minh và vận mệnh thế giới, chẳng những trong quá khứ, mà c̣n cả trong tương lai nữa. Vào dịp nhận Giải Thưởng Charlemagne của Thành Phố Aachen ở Vatican hôm 24/3/2004, ngài đă công khai bày tỏ “ước mơ” của ngài về một tân Âu Châu như sau:
· “Âu Châu trong tâm trí của tôi là một hiệp nhất về chính trị, thực sự là về tinh thần, trong đó, các chính trị gia Kitô hữu thuộc tất cả mọi quốc gia tác hành với ư thức về những kho tàng nhân bản do đức tin mang lại: họ là những con người nam nữ dấn thân để làm cho những giá trị này sinh hoa kết trái, khi hiến ḿnh phục vụ tất cả mọi người cho một Âu Châu được đặt nền tảng trên con người là tạo vật chiếu tỏa dung nhan Thiên Chúa. Đó là ước mơ tôi ấp ủ trong ḷng ḿnh và nhân dịp này tôi xin kư thác cho quí vị cũng như cho các thế hệ hậu lai”
(L'Osservatore Romano ấn bản Anh ngữ, N. 15 [1839], 14/4/2004, trang 9).
Đây là tác phẩm cuối cùng (22/2/2005) của vị giáo hoàng Balan (qua đời 2/4/2005), trong đó, qua nhan đề,
ngài muốn trăn trối cho Âu Châu rằng hăy nhớ đến căn tính (memory and identity) Kitô giáo của ḿnh
Thế nhưng, làm sao để Âu Châu thân yêu của vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II này có thể trở về với căn tính của ḿnh, như ngài mong ước, một ước mong như được tỏ hiện qua những tâm tưởng suốt mùa hè 2003 trên đây, để nó không trở thành dang dở, nếu Thiên Chúa, một lần nữa, không nhúng tay vào, như Ngài đă làm cho Nước Nga trở lại ngày 25/12/1991, theo chiều hướng của biến cố Đông Âu Sụp Đổ. Thế nhưng, lần này Đấng Quan Pḥng Thần Linh sẽ làm thế nào đây, nếu không phải Ngài cũng dùng chính Vị Giáo Hoàng của “Vui Mừng và Hy Vọng” Gioan Phaolô II này, vị Giáo Hoàng đă được Ngài sử dụng để làm cho Đông Âu sụp đổ để dọn đường cho một Âu Châu hiệp nhất.
Đúng thế, chính biến cố Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX tại Cologne Đức quốc 16-21/8/2005 là dấu chỉ thời đại cho thấy điều này. Bởi v́, biến cố Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX đă là cơ hội để vị Giáo Hoàng Đức Quốc, kế nhiệm vị Giáo Hoàng khởi xướng Ngày Giới Trẻ Thế Giới từ năm 1985, về thăm quê hương lần đầu tiên. Nếu chuyến về thăm quê hương Balan lần đầu tiên của Đức Gioan Phaolô II 6/1978 là chuyến đi làm lịch sử thế nào, một chuyến đi đă mang lại thành quả 10 năm sau thế nào, chuyến tông du Đức quốc của vị Tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI cũng có thể có một tác dụng như thế. Nếu Công Đoàn Balan là một lực lượng được “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” của Đức Gioan Phaolô II sử dụng làm sụp đổ Cộng sản Đông Âu thế nào, th́ Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới ở Đức quốc, một khối hiệp thông các giáo hội với 140 giáo hội viên ở 78 quốc gia, cũng có thể trở thành một lực lượng để làm cho khối Cải Cách hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo th́ sao? Chính Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới này đă kư vào bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lư Công Chính Hóa vào ngày 30/10/1999 ở Augsburg, Đức quốc. Hiện nay, Hội Đồng Methodist Thế Giới cũng đang sửa soạn chính thức khẳng định việc họ ủng hộ bản tuyên ngôn này bằng một hoạt động chính thức được dự trù xẩy ra vào mùa hè năm 2006 ở Seoul, Nam Hàn. Và chỉ cho tới khi nào Kitô giáo hiệp nhất ở Âu Châu, tức trở về với căn gốc Kitô giáo của ḿnh, th́ Âu Châu mới có thể đi đến chỗ hiệp nhất mà thôi.
Chính vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI, trong sứ điệp đề ngày 27/10/2005 gửi Đức Hồng Y Jean-Louis Tauran, Trưởng Văn Khố và Thủ Thư Viện của Hội Thánh Công Giáo Rôma, vị đến Nhă Điển cho biến cố “Menologion of Basil II”, cũng đă nói lên ư định ngài chủ trương thực hiện việc đại kết Kitô giáo để hiệp nhất Âu Châu cho tương lai thế giới như sau:
· “Chúng ta có thể mạnh mẽ hơn nữa để giúp cho các quốc gia Âu Châu tái xác nhận được căn gốc Kitô giáo của họ để một lần nữa họ t́m được nhựa sống dưỡng nuôi và làm phong phú chính tương lai họ cho thiện ích của con người và toàn thể xă hội”. (theo bản dịch Anh ngữ của mạng điện toàn Zenit ngày 17/11/2005)
Một Âu Châu đang bị trầm trọng tử vong và nhiễm dịch văn hóa chết chóc
cần phải được cẩn thận tẩy trùng bằng công cuộc tân truyền bá phúc âm hóa như Giáo Triều ĐTC Biển Đức XVI đă phát động
Nếu quả thực, vào năm 2017, năm kỷ niệm 500 năm biến cố Cải Cách của ông tổ Thệ Phản Luthêrô, cũng là năm kỷ niệm 100 năm Biến Cố Thánh Mẫu Fatima (liên quan tới biến cố Đông Âu sụp đổ và Nước Nga trở lại), trở thành thời điểm đánh dấu cuộc hiệp nhất Kitô giáo, th́ quả thực biến cố Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX tại Cologne Đức quốc và chuyến tông du hồi hương lịch sử của vị Tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI là mốc điểm lịch sử này vậy! Thế mà, ai có thể ngờ được rằng, 8 năm trước đây, biến cố Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX tại Đức quốc 2005 đă được chính Đức Gioan Phaolô II vô h́nh chung sắp xếp trước cho vị thừa kế không ngờ lại là chính người Đức của ngài hay chăng? Trong cuộc họp báo tại tổng hành dinh Đài Phát Thanh Vatican ngày Thứ Ba 5/7/2005, ĐHY Joachim Meisner TGM Cologne, nơi tổ chức biến cố này xác nhận rằng “Cologne đă làm việc cả 8 năm trời cho biến cố này”, thậm chí ngài c̣n tiết lộ một chi tiết hết sức quan trọng về lịch sử là ngài đă gặp Đức Gioan Phaolô II vào Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Paris năm 1997 và đă được vị Giáo Hoàng này tâm sự như sau:
· “Đức Giáo Hoàng đă nói với tôi rằng ngài cảm thấy một trong những Ngày Giới Trẻ Thế Giới đầu tiên trong ngàn năm mới cần phải được tổ chức ở Cologne, v́ thế kỷ vừa qua Đức quốc đă chứng kiến thấy một số những thảm họa kinh hoàng cho nhân loại, và giờ đây nước này cần phải chứng kiến thấy một dấu hiệu hy vọng cả thể” (http://212.77.1.245/news_services/press/vis/englinde.php#start 19/7/2005).
Nếu Âu Châu Cổ ngày xưa đă là cái nôi Kitô giáo, và đă là tác nhân hăng say loan truyền văn minh Kitô giáo khắp thế giới, nhờ đó đă góp phần với Thánh Linh trong việc “canh tân bộ mặt trái đất” này cả trên ngàn năm qua thế nào, th́ Âu Châu, tân tiến thời trang đang giẫy chết trong nền văn hóa sự chết ngày nay, một khi phục hồi được căn tính Kitô giáo của ḿnh, qua cuộc hiệp nhất các Giáo Hội Kitô Giáo, đặc biệt từ Âu Châu và ở Âu Châu, cũng sẽ tiếp tục trở thành Trung Tâm Văn Minh Yêu Thương như vậy, một nền văn minh được chiếu tỏa từ một thành bất khuất xây trên núi (x Mt 5:14) là Giáo Hội Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền, “ánh sáng muôn dân” (Lumen Gentium), nơi mà tại Giáo Đô Vatican đă vang lên tiếng súng lệnh vào ngày 13/5/1981, và cũng từ nơi đây đă vang lên lời kêu gọi “Hăy mở rộng cửa cho Chúa Kitô” vào ngày 22/10/1978, để mở màn cho một Thời Điểm Đức Gioan Phaolô II…