VỊ GIÁO HOÀNG
CỦA
“ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN TRẦN - REDEMPTOR HOMINIS”
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Viết để Tưởng Kính đầy năm khổ nạn cuối đời của
Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II
Nội Dung
1) Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần chi phối Hoạt Động cả giáo triều của Đức Gioan Phaolô II
2) Những tâm tưởng và thâm tín của vị giáo hoàng này về Chúa Giêsu Kitô trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần
3) Những tâm tưởng và thâm tín của vị giáo hoàng này về Chúa Giêsu Kitô trong Tông Thư Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba
4) Mầu Nhiệm Cứu Độ nơi Đức Gioan Phaolô II: Sống là Chúa Kitô – Chết là Vinh Thắng (x Phil 1:21)
5) Mầu Nhiệm Cứu Độ, đối với Thánh Gioan Phaolô II, là Thánh Giá của Ḷng Thương Xót Vinh Thắng trên tất cả mọi sự dữ
Nh
“Sự thật về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc và Đấng Cứu Chuộc” nơi Đức Gioan Phaolô II
Có thể nói mà không sợ sai lầm rằng, căn cứ vào những chủ hướng minh nhiên và hoạt động hiển nhiên trong một thời gian dài 26 năm rưỡi của ḿnh, một thời gian kéo dài đứng vào hàng thứ 3 của lịch sử Giáo Hội Công Giáo, th́ cốt lơi của giáo triều Đức Gioan Phaolô II chính là Mầu Nhiệm Cứu Chuộc.
Phải chăng chính Đức Gioan Phaolô II đă chính thức xác nhận điều này khi ngài tự thú trong tác phẩm “Tặng Ân và Mầu Nhiệm – Gift and Mystery” (ấn bản Anh Ngữ 1996), một tác phẩm được xuất bản để mừng kỷ niệm 50 năm thụ phong linh mục của ngài, (ở trang 82) như sau:
“Chúa Kitô là một vị linh mục v́ Người là Đấng Cứu Chuộc của thế giới. Chức linh mục của tất cả thành phần giáo sĩ thuộc về mầu nhiệm Cứu Chuộc. Sự thật này về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc và Đấng Cứu Chuộc đă từng là những ǵ trọng yếu đối với tôi; sự thật ấy đă luôn tồn tại trong tôi qua tất cả những năm tháng ấy, nó đă thấm nhập vào tất cả mọi kinh nghiệm mục vụ của tôi, và nó đă tiếp tục cho tôi thấy những điều phong phú mới mẻ.
“Trong 50 năm làm linh mục này, tôi đă nhận thức được rằng, Việc Cứu Chuộc, cái giá phải trả cho tội lỗi, bao gồm cả một thứ phục hồi mới, một loại ‘tân tạo’ nơi toàn thể lănh vực tạo sinh, ở chỗ, nó là những ǵ tái phục hồi con người là một ngôi vị, phục hồi con người được Thiên Chúa dựng nên có nam có nữ, một phục hồi của chân lư sâu xa nhất về tất cả mọi hoạt động của con người, về văn hóa và văn minh của con người, về tất cả những ǵ họ chiếm đạt cùng với các khả năng sáng tạo của họ.
“Sau khi tôi được bầu làm Giáo Hoàng, cái động lực thiêng liêng đầu tiên tôi cảm thấy đó là hướng về Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc. Đó là nguồn gốc của bức Thông Điệp ‘Redemptor Hominis – Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần’”. Như tôi đă chia sẻ về tất cả những biến cố này, tôi thấy rơ hơn bao giờ hết cái liên hệ chặt chẽ giữa sứ điệp của bức Thông Điệp này với hết mọi sự ở trong tâm can của con người qua việc họ được thông dự vào chức linh mục của Chúa Kitô”.
Thật vậy, nếu Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là những ǵ trực tiếp liên quan đến Tác Nhân Cứu Chuộc là chính Đấng Cứu Chuộc, đến đối tượng được cứu chuộc cho khỏi tội lỗi và sự dữ nhất là trong thời điểm văn hóa sự chết ngày nay là con người hiện đại, và đến đường lối cứu chuộc hiện đại là Người Mẹ của Đấng Cứu Chuộc, th́ quả nhiên “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lơi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II”.
Đúng thế, Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần chính là Đấng đă chi phối cả giáo triều của Đức Gioan Phaolô II, từ đầu cho đến cuối, cả về lănh vực hoạt động lẫn tâm tưởng của ngài.
1) Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần chi phối Hoạt Động cả giáo triều của Đức Gioan Phaolô II
Trước hết, để mở màn, cho giáo triều của ḿnh, Đức Gioan Phaolô II đă chính thức ban hành bức thông điệp gói ghém tất cả chủ hướng của giáo triều ḿnh vào ngày Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay 4/3/1979, với tựa đề “Redemptor Hominis - Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”.
Sau hết, để kết thúc cho giáo triều của ḿnh, ngài đă mở Năm Thánh Thể, năm hướng về, nhận biết và cử hành Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, Đấng vẫn c̣n hiện diện trên trần gian qua Bí Tích Thánh Thể và vẫn tiếp tục công cuộc cứu chuộc nhân trần qua Phụng Vụ Thánh Thể.
Trong giáo triều của ḿnh, Đức Gioan Phaolô II c̣n mở Năm Cứu Chuộc 1983-1984, mừng 1950 năm Ơn Cứu Chuộc, một năm được kết thúc vào ngày Lễ Mẹ Thai Lời 25/3/1984, với việc Ngài hiến dâng chung thế giới và riêng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Đấng Cứu Chuộc.
Nhưng biến cố quan trọng nhất đó là ngài đă mở Đại Năm Thánh 2000 để toàn thể Giáo Hội hoàn vũ long trọng mừng Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Lời Nhập Thể là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, một Đại Năm Thánh đă được ngài hướng về ngay từ đầu giáo triều của ngài, như chính ngài đă đề cập tới ở đoạn đầu bức Thông Điệp “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” của ngài, một thời điểm kéo dài cả 21 năm nữa trời (1979-2000), không biết ngài có c̣n sống tới đó hay chăng.
Để sửa soạn cho Đại Năm Thánh 2000 được tổ chức một cách trọng thể vô tiền (có thể nói cả khoáng hậu) này, ngài đă chẳng những ban hành vào ngày 10/11/1994 bức Tông Thư “Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba – Tertio Millennio Adveniente” để phác họa chương tŕnh sửa soạn xa (1994-1996) và gần (1997-1999), mà c̣n triệu tập các cuộc Thượng Nghị Châu Lục về những chủ đề liên quan đến Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần:
Thượng Nghị Giám Mục Phi Châu, với 242 vị nghị phu, nhóm họp tại Rôma trong thời khoảngï 10/4-8/5/1994, về chủ đề "Giáo Hội ở Phi Châu với sứ mệnh truyền bá Phúc Âm hướng về năm 2000: 'Các con sẽ là nhân chứng của Thày'", một chủ đề đă được ngài đúc kết trong tông huấn “Ecclesia in Africa – Giáo Hội ở Phi Châu” ban hành ngày 14-9-1995, tại Yaoundé nước Cameroon;
Thượng Nghị Giám Mục Mỹ Châu, với 233 vị nghị phụ, nhóm họp tại Rôma trong thời khoảng 16/11-12/12/1997, với chủ đề "Gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô hằng sống: Con đường dẫn đến Hối Cải, Hiệp Thông và Đoàn Kết", một chủ đề đă được ngài đúc kết trong tông huấn “Giáo Hội ở Mỹ Châu - Ecclesia in America” ban hành dịp ngài thăm Mỹ Châu, tại Mexicô City ngày 22-1-1999;
Thượng Nghị Giám Mục Á Châu, với 191 vị nghị phụ, nhóm họp tại Rôma trong thời khoảng 19/4-14/5/1998, với chủ đề "Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế với Sứ Mệnh Yêu Thương và Phục Vụ của Người ở Á Châu", một chủ đề được ngài đúc kết trong tông huấn “Giáo Hội ở Á Châu - Ecclesia in Asia” ban hành ngày 6/11/1999, dịp ngài thăm Á Châu ở Tân Đề Li Ấn Độ;
Thượng Nghị Giám Mục Đại Dương Châu, với 117 vị nghị phụ, nhóm họp tại Rôma trong thời khoảng 23/11-12/12/1998, với chủ đề "Chúa Giêsu Kitô và nhân dân Đại Dương Châu - 'Đi Con Đường của Người, nói Sự Thật của Người và sống Sự Sống của Người'", một chủ đề được ngài đúc kết trong tông huấn “Giáo Hội tại Đại Dương Châu - Ecclesia in Oceania” ban hành ngày 22/11/2001, và được ngài, lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, ban hành và gửi đi bằng hệ thống điện toán toàn cầu cho tất cả mọi giáo phận địa phương thuộc châu lục này.
Thượng Nghị Giám Mục Âu Châu, với 117 vị nghị phụ, nhóm họp lần thứ hai, (lần nhất với 137 vị, vào thời điểm sau Biến Cố Đông Âu 1989, trong thời khoảng 28/11-14/12/1991, ngay trước Biến Cố Nước Nga từ bỏ chủ nghĩa và chế độ Cộng Sản 25/12/1991), vào thời khoảng 1-23/10/1999 tại Rôma, với chủ đề "Chúa Giêsu Kitô vẫn sống nơi Giáo Hội, Nguồn Mạch Hy Vọng cho Châu Âu", một chủ đề được ngài đúc kết trong tông huấn “Giáo Hội tại Âu Châu - Ecclesia in Europe” ban hành ngày 28/6/2003.
Để kết thúc Đại Năm Thánh 2000 cũng là để mở màn cho một tân thiên kỷ thứ ba Kitô Giáo, Đức Gioan Phaolô II đă ban hành bức Tông Thư “Mở Màn Cho Một Tân Thiên Kỷ – Novo Millennio Ineunte” vào chính ngày Lễ Hiển Linh 6/1/2001, trong đó, ngài nhấn mạnh đến chủ đề “Duc in altum – Hăy ra chỗ nước sâu thả lưới đánh cá”, ở chỗ, (phần 1) gặp gỡ Chúa Kitô (trong năm Thánh 2000); (phần 2) chiêm ngưỡng Dung Nhan Chúa Kitô; (phần 3) bắt đầu lại từ Chúa Kitô; (phần 4) Chứng nhân t́nh yêu.
Sau hết, để kết thúc giáo triều của ḿnh, (một kết thúc chính ngài cũng không biết sẽ xẩy ra thế nào và bao giờ), ngài đă mở Năm Thánh Thể và ban hành bức Thông Điệp thứ 14, bức thông điệp cuối cùng về Chúa Kitô. Cái trùng hợp ở đây là, trong 14 bức Thông Điệp là các văn kiện có tầm vóc quan trọng vào bậc nhất của thẩm quyền Giáo Hoàng, hai văn kiện đầu và cuối của ngài đều về Chúa Kitô: Nếu bức Thông Điệp thứ nhất về Chúa Kitô, “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần – Redemptor Hominis”, có liên quan tới toàn thể nhân loại, th́ bức Thông Điệp thứ 14 về Chúa Kitô có liên quan tới Giáo Hội, tới việc nội bộ Giáo Hội cần phải “duc in altum” để có thể truyền bá phúc âm hóa thế giới tân tiến. Đó là lư do bức Thông Điệp cuối cùng về Chúa Kitô này mới mang tựa đề “Giáo Hội Sống Bởi Thánh Thể – Ecclesia de Eucharistia”.
Trên đây là những chứng cớ hiển nhiên cho thấy Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lơi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II, một mầu nhiệm, trước hết, liên quan trực tiếp tới tác nhân cứu chuộc là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, Đấng đă chi phối toàn thể hoạt động của giáo triều của vị giáo hoàng thứ 264 này. Sau đây là những tâm tưởng và thâm tín của vị giáo hoàng này về Chúa Giêsu Kitô, những ǵ được ngài bày tỏ trong 2 văn kiện tiêu biểu Người nói rơ ràng đến chủ đề Mầu Nhiệm Cứu Chuộc của ngài, đó là Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần và Tông Thư Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba.
(Những chỗ in nghiêng và đậm trong phần trích dịch và trích dẫn ở toàn bài viết này là do người dịch muốn nhấn mạnh đến chủ trương cứu chuộc và ư nghĩa cứu chuộc của vị Giáo Hoàng luôn qui hướng về Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần).
2) Những tâm tưởng và thâm tín của vị giáo hoàng này về Chúa Giêsu Kitô trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần
"Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại là Chúa Giêsu Kitô, trung tâm điểm của vũ trụ và của lịch sử" (đây là câu mở đầu cho cả bức thông điệp).
Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Trung Tâm Điểm Của Vũ Trụ:
"Đấng Cứu Chuộc của thế gian! Nơi Người tỏ hiện, bằng một đường lối mới mẻ và tuyệt vời hơn, chân lư nền tảng liên quan đến việc tạo dựng mà Sách Khởi Nguyên chứng tỏ qua những lần lập đi lập lại: 'Thiên Chúa thấy nó tốt lành' (đoạn 1). Sự tốt lành bắt nguồn nơi Đức Khôn Ngoan và T́nh Yêu Thương. Nơi Chúa Giêsu Kitô, thế giới hữu h́nh mà Thiên Chúa dựng nên cho con người (x.Gen 1:26-30), một thế giới khi tội lỗi đột nhập 'đă lụy thuộc vào sự hư hoại' (Rm 8:20, x.Rm 8:19-22), phục hồi được mối liên hệ với nguồn mạch thần linh nguyên thủy của Đức Khôn Ngoan và của T́nh Yêu Thương...
"Khi phân tách một cách sâu xa 'cái thế giới tân tiến này', Công Đồng Chung Vaticanô II đă tiến đến một điểm quan trọng nhất của thế giới hữu h́nh, đó là con người, bằng cách, như Chúa Kitô, tiến sâu vào ư thức con người, và bằng cách chạm đến mầu nhiệm nội tại của con người, cái mà ngôn ngữ thánh kinh cũng như không phải thánh kinh đă diễn tả bằng chữ 'trái tim'. Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc thế gian, là Đấng đă thấu nhập vào mầu nhiệm của con người một cách đặc thù và dứt khoát, cũng như Người đă đi vào 'tâm can' của họ. Bởi thế, Công Đồng Vaticanô II đă có lư khi dạy rằng: 'Sự thật đó là chỉ có ở nơi mầu nhiệm của Lời Nhập Thể mà mầu nhiệm của con người mới được sáng tỏ. V́ Adong, con người đầu tiên, kiểu mẫu của Đấng phải đến (Rm 5:14) là Chúa Kitô. Chúa Kitô, một tân Adong, trong việc mạc khải mầu nhiệm về Cha và về t́nh yêu của Cha, đă hoàn toàn tỏ cho con người biết về chính con người họ và làm sáng tỏ ơn gọi cao cả nhất của con người'. Công Đồng tiếp: 'Đấng là h́nh ảnh của Thiên Chúa vô h́nh (Col 1:15), tự Ḿnh là một con người hoàn hảo, Đấng đă phục hồi nơi gịng dơi Adong cái tương tự giống như Thiên Chúa đă từng bị nguyên tội làm biến dạng đi. Bản tính loài người, nhờ được mặc lấy chứ không bị mất đi trong Người, đă được nâng lên nơi chúng ta tới một phẩm vị khôn sánh. V́, nhờ Việc Nhập Thể của Người, Người, là Con Thiên Chúa, một cách nào đó, đă hiệp nhất ḿnh với mỗi một người. Người đă làm việc với đôi tay nhân loại, Người đă suy nghĩ với trí khôn nhân loại. Người đă tác động với ư muốn nhân loại, và Người đă yêu thương với trái tim nhân loại. Được sinh hạ bởi Trinh Nữ Maria, Người thực sự là một ngựi trong chúng ta, giống như chúng ta trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi' (Gaudium et Spes, đoạn 22). Người là Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại". (đoạn 8).
Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Trung Tâm Điểm Của Lịch Sử
"Thiên Chúa đă đi vào lịch sử nhân loại, và như là một con người, Ngài đă trở nên một người đi làm lịch sử này, một người trong muôn ngàn triệu triệu con người, song đồng thời cũng Chuyên Biệt! Qua việc Nhập Thể, Thiên Chúa đă ban cho sự sống con người một chiều kích mà Ngài đă định ban cho con người ngay từ ban đầu: Ngài đă ban cho họ chiều kích này một cách dứt khoát - bằng một đường lối dành riêng cho một ḿnh Ngài mà thôi, hợp với t́nh yêu và ḷng thương vĩnh hằng của Ngài, hợp với niềm tự do của Thiên Chúa - và Ngài cũng đă ban nó bằng một ḷng bao dung để chúng ta, khi xét đến nguyên tội và suốt gịng lịch sử tội lỗi của nhân loại, cũng như xét đến những lầm lẫn của trí khôn con người, ư muốn và con tim của ḿnh, có thể bồi hồi lập lại những lời của phụng vụ thánh: 'Ôi lỗi lầm diễm phúc... đă làm cho chúng ta được một Đấng Cứu Chuộc cao cả như vậy' (Tụng Ca Lễ Vọng Phục Sinh)..." (đoạn 1).
"Thập giá trên đồi Canvê mà Chúa Giêsu Kitô - một Con Người, Con của Trinh Nữ Maria, được nghĩ là con của Giuse Nazarét - 'để lại' cho thế giới này, cũng là một biểu hiện mới mẻ về t́nh phụ tử đời đời của Thiên Chúa, Đấng mà trong Người, một lần nữa, đến gần nhân loại, gần với mỗi một con người, khi ban cho Người 'Thần chân lư' (Jn16:13) ba lần thánh.
"Việc mạc khải này của Cha và việc tuôn đổ Thánh Linh để đóng một niêm ấn không phai nḥa trên mầu nhiệm cứu chuộc đă nói lên ư nghĩa của cây thập giá và cái chết của Đức Kitô. Vị Thiên Chúa của việc tạo dựng được mạc khải như là một Vị Thiên Chúa của việc cứu chuộc, như Vị Thiên Chúa 'trung tín với chính ḿnh' (1Thes 5:24), cũng như trung tín với t́nh yêu thương của Ngài đối với nhân loại và thế gian, một t́nh yêu Ngài đă mạc khải vào ngày tạo dựng. T́nh yêu của Ngài là một t́nh yêu không rút lui trước bất cứ một cái ǵ đ̣i Ngài phải dùng đến phép công thẳng. Bởi thế, 'v́ chúng ta, (Thiên Chúa) đă làm cho Người (Con) là Đấng không biết đến tội lỗi thành tội lỗi' (2Cor 5:21; x.Gal 3:13). Nếu Người 'thành tội lỗi', Người là Đấng không bao giờ có một tội lỗi nào, th́ tỏ ra rằng t́nh yêu luôn luôn cao trọng hơn tất cả mọi tạo vật, một t́nh yêu là chính Ḿnh Người, v́ 'Thiên Chúa là t́nh yêu' (Jn 4:8,16). Trên tất cả mọi sự, t́nh yêu vĩ đại hơn cả tội lỗi, hơn cả yếu đuối, hơn cả 't́nh trạng hư hoại của tạo vật' (Rm 8:20); nó mạnh hơn cả sự chết; nó là một t́nh yêu luôn luôn sẵn sàng để nâng cao và tha thứ, luôn luôn sẵn sàng để đi gặp người con hoang đàng (x.Lk 15:11-32), luôn luôn mong đợi 'cuộc thể hiện của con cái Thiên Chúa' (Rm 8:18) là thành phần được kêu gọi 'đến vinh quang sẽ được tỏ hiện' (Thánh Tomas tiến sĩ). Việc mạc khải của t́nh yêu này cũng được diễn tả như mạc khải của ḷng thương xót; và trong lịch sử của con người, mạc khải của t́nh yêu và ḷng thương xót này đă mặc một h́nh thức và mang một danh hiệu: đó là Giêsu Kitô" (đoạn 9).
"Con người không thể nào sống mà không yêu thương. Họ măi là một hữu thể không hiểu được ḿnh, đời sống của họ vô nghĩa, nếu t́nh yêu không tỏ hiện cho họ thấy, nếu họ không gặp gỡ t́nh yêu, nếu họ không cảm nghiệm được nó và làm cho nó thành của ḿnh, nếu họ không mật thiết liên kết với nó. Đó là, như đă nói đến, lư do tại sao Đức Kitô Đấng Cứu Chuộc 'hoàn toàn tỏ cho con người biết về chính con người họ'. Nếu chúng ta cần diễn tả, th́ đây là chiều kích nhân loại của mầu nhiệm của việc cứu chuộc. Trong chiều kích này, con người, một lần nữa, t́m được sự cao cả, phẩm vị và giá trị thuộc về nhân tính của họ. Nơi mầu nhiệm của việc cứu chuộc, con người được 'thể hiện' một cách mới mẻ, và, một cách nào đó, được tạo dựng một cách mới mẻ. Con người được tạo dựng một cách mới mẻ! 'Không c̣n Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ; v́ anh em tất cả là một trong Đức Giêsu Kitô' (Gal 3:28). Con người muốn hiểu ḿnh hoàn toàn - không chỉ hợp với những tiêu chuẩn và mức độ trực tiếp, bán phần, thường nông cạn, hay ảo tưởng về hữu thể ḿnh - họ phải đến gần Chúa Kitô, với nỗi khắc khoải và lo âu của họ, cả với nỗi yếu đuối và tội lỗi của họ, với sự sống và cái chết của họ. Như thế, họ phải vào trong Người với tất cả cái tôi riêng của họ, họ phải 'thích hợp' và đồng hóa với toàn thể thực tại của mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc để t́m thấy chính ḿnh. Nếu tiến tŕnh sâu xa này xẩy ra nơi họ, th́ họ mới sinh hoa trái, chẳng những nơi việc tôn thờ Thiên Chúa, mà c̣n nơi cả sự bỡ ngỡ lạ lùng về ḿnh nữa. Con người quí hóa là chừng nào trước mắt của Hóa Công, khi họ 'được một Đấng Cứu Chuộc cao cả như vậy' (tụng ca Lễ Vọng Phục Sinh), và một khi Thiên Chúa 'đă ban Con duy nhất của ḿnh' là để con người 'không phải chết nhưng được sự sống đời đời' (Jn 3:16)”. (đoạn 10).
3) Những tâm tưởng và thâm tín của vị giáo hoàng này về Chúa Giêsu Kitô trong Tông Thư Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba
“Chúa Giêsu Kitô là một khởi sự mới cho tất cả mọi sự … là măn nguyện của ước vọng cho mọi tôn giáo trên thế giới” (đoạn 6).
“Chúa Kitô, đấng cứu chuộc thế giới, là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và
loài người, nên không có một danh hiệu nào khác ở dưới gầm trời này có thể cứu
được chúng ta (x.Acts 4:12). Như chúng ta đọc thấy trong Thư gửi cho các tín hữu
Êphêsô: ‘Nơi Đức Kitô, chúng ta nhờ máu của Người mà được ơn cứu chuộc, được ơn
tha thứ những lỗi phạm của ḿnh, theo ân sủng dồi dào Thiên Chúa tuôn đổ xuống
trên chúng ta. V́ Thiên Chúa đă tỏ cho chúng ta, bằng tất cả khôn ngoan và sáng
suốt... mục đích của Ngài đă phác họa nơi Chúa Kitô một dự án cho thời điểm viên
trọn, mục đích đó là hiệp nhất tất cả trong Người, những sự trên trời cùng những
sự dưới đất’ (1:7-10). V́ thế, Chúa Kitô, Ngôi Con là một với Chúa Cha, là Đấng
mạc khải dự án của Thiên Chúa cho tất cả mọi tạo vật, đặc biệt là cho con người.
Theo một câu đáng nhớ của Công Đồng Chung Vaticanô II th́ Chúa Kitô ‘hoàn toàn
tỏ cho con người biết về chính con người và làm sáng tỏ ơn gọi cao trọng của họ’
(hiến chế Gaudium et Spes, đoạn 22). Người tỏ cho chúng ta ơn gọi này bằng việc
mạc khải mầu nhiệm về Cha và về t́nh yêu của Cha” (đoạn 4).
“Đức Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, Chúa của vũ trụ, cũng là Chúa của
lịch sử, một lịch sử mà Người là ‘Alpha và Omega’ (Rev.1:8;21:6), là ‘nguyên
thủy và là cùng đích’ (Rev.21:6). Nơi Người, Chúa Cha đă nói lên một lời thực sự
về con người và về lịch sử của họ. Lời này được diễn tả một cách tóm gọn và hùng
hồn qua Bức Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái: ‘Bằng nhiều thể nhiều cách, xưa kia
Thiên Chúa đă nói với cha ông chúng ta nhờ các tiên tri; thế nhưng, trong những
ngày sau hết này, Ngài đă nói với chúng ta qua Người Con’ (Heb.1:1-2)” (đoạn 5).
“Chúa Giêsu được sinh ra từ dân tuyển chọn để hoàn tất lời hứa mà Abraham đă
lănh nhận và các tiên tri liên tục nhắc nhớ. Các tiên tri nhân danh Thiên Chúa
và thay cho Ngài mà nói. Thật vậy, công cuộc của Cựu Ước được sắp xếp chính là
để sửa soạn và loan truyền cho việc Đức Kitô đến, Đấng cứu chuộc hoàn vũ, cũng
như cho vương quốc mà Người thiết lập. Bởi thế, những cuốn sách của Cựu Ưùớc măi
măi là một chứng cớ cho một giáo thuyết thần linh xác thực (x. hiến chế Mạc Khải
đoạn 15). Giáo thuyết này đă đạt mục tiêu của nó nơi Đức Kitô: đúng thế Chúa
Giêsu không chỉ ‘nhân danh Chúa’ mà nói như các vị tiên tri, mà Người chính là
Thiên Chúa nói bằng Lời hằng sống nhập thể của ḿnh. Ở đây chúng ta chạm đến một
điểm chính yếu làm cho Kitô giáo khác với tất cả mọi tôn giáo khác, những tôn
giáo diễn tả việc con người t́m kiếm Thiên Chúa từ những thời cổ xưa nhất. Khởi
điểm của Kitô giáo bắt nguồn từ việc Lời nhập thể. Như thế, không phải là con
người t́m kiếm Thiên Chúa, mà là Thiên Chúa đích thân đến nói với chính con
người, và chỉ cho con người đường nẻo để con người có thể đến với Ngài. Đó là
điều đă được công bố trong Phần Nhập Đề của Phúc Âm thánh Gioan: ‘Chưa có ai đă
từng thấy được Thiên Chúa; Người Con duy nhất, Đấng ở trong ḷng Cha, Người đă
tỏ Cha ra’ (Jn.1:18). Như thế, Lời nhập thể làm thỏa nguyện ước vọng nơi tất cả
các đạo giáo của nhân loại. Chính Thiên Chúa đă làm cho con người được thỏa
nguyện, ngoài mọi ước mong của con người. Đó là một mầu nhiệm của ân sủng.
“Nơi Chúa Kitô, tôn giáo không c̣n là một ‘cuộc kiếm t́m Thiên Chúa một cách mù
quáng’ (Acts 17:27) nữa, mà là một đáp ứng của đức tin vào Thiên Chúa là Đấng tỏ
ḿnh ra. Nó là một đáp ứng mà con người nói với Thiên Chúa như với Hóa Công, với
một Người Cha, một đáp ứng đă thành hiện thực nhờ một con người cũng chính là
Ngôi Lời, mà nơi Người, Thiên Chúa đă nói với từng người, và nhờ Người mỗi người
có thể đáp lại Thiên Chúa. C̣n nữa, cũng ở nơi con người này mà mọi tạo vật đáp
lại Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô là một khởi sự mới cho tất cả mọi sự. Nơi Người,
tất cả mọi sự có; chúng được thăng hóa rồi được trả về cho Hóa Công là Đấng dựng
nên chúng. Như thế, Đức Kitô là măn nguyện của ước vọng cho mọi tôn giáo trên
thế giới, nên Người làụ tầm mức viên trọn đích thực duy nhất của họ. Thiên Chúa
nói thẳng với con người nơi Đức Kitô thế nào, tất cả loài người và toàn thể tạo
vật cũng tự ḿnh nói với Thiên Chúa trong Đức Kitô như vậy, thực sự đó là việc
tự hiến ḿnh cho Thiên Chúa. Mọi vật trở về với cội nguồn của ḿnh là vậy. Chúa
Giêsu Kitô làm cho mọi sự tái tạo (x.Eph.1:10), đồng thời làm hoàn tất mọi sự
trong Thiên Chúa: một hoàn tất làm vinh danh Thiên Chúa. Tôn giáo có nền tảng
nơi Đức Kitô là một tôn giáo vinh quang; nó là một tầm vóc mới mẻ của sự sống để
chúc tụng vinh quang Thiên Chúa (x.Eph.1:12). Tất cả mọi tạo vật thực sự là một
biểu hiện của vinh quang Người. Đặc biệt con người (vivens homo) là sự hiển linh
của vinh quang Thiên Chúa, một loài được kêu gọi để sống bằng sự sống viên trọn
trong Thiên Chúa” (đoạn 6)
“Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa chẳng những nói với loài người mà c̣n t́m kiếm
họ nữa. Việc Con Thiên Chúa nhập thể chứng tỏ là Thiên Chúa đi t́m kiếm con
người. Chúa Giêsu nói về việc t́m kiếm này như t́m kiếm một con chiên lạc đàn
(x.Lk.15:1-7). Đó là một cuộc t́m kiếm mà khởi điểm bắt đầu từ cơi ḷng của
Thiên Chúa và đích điểm ở nơi việc nhập thể của Ngôi Lời. Nếu Thiên Chúa đi t́m
con người, loài được dựng nên theo h́nh ảnh Ngài và giống như Ngài, là v́ đời
đời Ngài yêu thương họ nơi Ngôi Lời, và trong Đức Kitô Ngài muốn nâng họ lên
danh phận làm một người con được thừa nhận. Thế nên, Thiên Chúa đi t́m kiếm con
người là sở hữu đặc biệt của Ngài bằng một đường lối không giống như các tạo vật
khác. Con người là sở hữu của Thiên Chúa bởi việc yêu thương chọn lựa: Thiên
Chúa t́m kiếm con người theo tấm ḷng hiền phụ rung cảm của ḿnh.
“Tại sao Thiên Chúa lại t́m kiếm con người? Là v́ con người đă bỏ Ngài mà đi, ẩn
ḿnh đi như Adong đă làm trong Vườn Địa Đàng (x.Gn.3:8-10). Con người đă để cho
ḿnh bị kẻ thù của Thiên Chúa (x.Gn.3:13) làm lạc hướng. Satan đă đánh lừa con
người, làm cho con người tin rằng họ cũng là một thần linh, như Thiên Chúa, họ
có khả năng biết lành biết dữ, cai trị thế giới theo ư ḿnh mà không cần phải
căn cứ vào ư muốn thần linh (x.Gn.3:5). Đi t́m kiếm con người qua Con của ḿnh
như thế là Thiên Chúa muốn chinh phục con người, để họ rời bỏ những đường nẻo
gian ác đă dẫn họ càng ngày càng đi sai lạc. ‘Làm cho họ rời bỏ’ những đường nẻo
này nghĩa là làm cho họ hiểu được rằng họ đang đi sai đường lạc hướng; nghĩa là
chế ngự sự dữ ở bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử loài người. Chế ngự sự dữ: đó
là ư nghĩa của việc cứu chuộc. Điều này đă được thực hiện nơi việc hy sinh của
Đức Kitô, nhờ đó loài người được cứu cho khỏi nợ nần tội lỗi và được ḥa giải
cùng Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đă làm người, nhận lấy một thân xác và một linh
hồn trong cung ḷng một Trinh Nữ, chính v́: để trở nên một hy tế cứu độ hoàn hảo.
Tôn giáo của mầu nhiệm Nhập Thể là một tôn giáo của ơn cứu thế, nhờ hiến tế của
Đức Kitô, một hiến tế chiến thắng sự dữ, tội lỗi và chính sự chết. Chấp nhận cái
chết trên thập giá là Đức Kitô cùng một lúc vừa tỏ bày sự sống vừa thông ban sự
sống, v́ Người đă sống lại và sự chết không c̣n làm ǵ được Người nữa” (đoạn 7).
Tóm lại, v́ Mầu Nhiệm Cứu Độ là Cốt Lơi của Giáo Triều Gioan Phaolô II theo chiều kích “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” là Lời Nhập Thể này, mà vị Giáo Hoàng đă từng là Nghị Phụ góp phần soạn thảo Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội “Vui Mừng Và Hy Vọng”, như ngài thú nhận trong cuốn Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng (ấn bản Anh Ngữ, trang 159), và quyết tâm áp dụng đường hướng cùng giáo huấn của Công Đồng có tính cách mục vụ hướng ngoại như một Giáo Hội Trong Thế Giới Tân Tiến này, đă liên tục giảng dạy và mạnh mẽ hoạt động cho văn hóa sự sống, tức cho những ǵ hợp với phẩm vị cao quí của con người được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa nơi Mầu Nhiệm Tạo Dựng, mà c̣n được cứu chuộc bởi Thiên Chúa nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua nữa, và chống văn hóa sự chết là những ǵ không hợp với thiên chức cùng ơn gọi làm người đă được hoàn toàn sáng tỏ nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa.
Thật thế, về việc giảng dạy văn hóa sự sống chống văn hóa sự chết, trong 16 bức
Thông Điệp của ḿnh, ngoài những Thông Điệp về tín lư thần học, như bộ ba Thông
Điệp về Ba Ngôi Thiên Chúa: Redemptor Hominis (4/3/1979), Dives in Misericordia
(30/11/1980), và Dominum et Vivificantem (18/5/1986), hay bộ 3 Thông Điệp về
hoạt động của Giáo Hội: Redemptoris Missio về truyền giáo (7/12/1990), Ut Unum
Sint về hiệp nhất (25/5/1995) và Ecclesia de Eucharistia về nội tâm (17/4/2003),
c̣n có 3 Thông Điệp về xă hội: Laborem Exercens (14/9/1981), Sollicitudo Rei
Socialis (30/12/1987), và Centesimus Annus (1/5/1991), và 3 Thông Điệp về luân
lư: Veritatis Splendor (6/8/1993), Evangelium Vitae (25/3/1995) và Fides et
Ratio (14/9/1998). Trong hai bộ ba Thông Điệp về xă hội và luân lư này, ngài đă
chính thức loan truyền “Phúc Âm Sự Sống”, nhất là, như các tín điều Thánh Mẫu
được hai vị Giáo Hoàng tiền nhiệm của ngài dùng quyền tối cao tuyên tín, (Đức
Piô IX với Tín Điều Vô Nhiễm ngày 8/12/1854, và Đức Piô XII với Tín Điều Thánh
Mẫu Mông Triệu ngày 1/11/1950), ngài cũng đă mạnh mẽ chính thức sử dụng quyền
bính tối cao của ḿnh để tuyên tín luân điều của Giáo Hội về sự sống buộc phải
tuân giữ, (một sự kiện tuyên tín về luân lư như thế chưa từng xẩy ra trong lịch
sử Giáo Hội), trực tiếp liên quan tới vấn đề cấm phá thai (Thông Điệp Evangelium
Vitae, khoản 62), cũng như tới hành động không được triệt sinh an tử (khoản 65).
Về những hoạt động cho văn hóa sự sống chống văn hóa sự chết, lịch sử thế giới
không thể chối căi được vai tṛ ngài đă đóng như “Nguyên Tố gây Sụp Đổ Đông Âu”,
“Sứ Giả Ḥa B́nh Thế Giới ở Thánh Địa và Iraq”, “Khởi Xướng Chiến Dịch Băi Nợ
Quốc Tế”, “Đẩy Mạnh Phong Trào Hủy Bỏ Án Tử H́nh”, và “Vô Địch Thủ của Hội Nghị
Dân Số Cairô”, (những vấn đề đă được người viết bài này tŕnh bày khá đầy đủ
trong cuốn “Đức Gioan Phaolô II: Sống Là Chúa Kitô – Chết Là Vinh Thắng” (Cao-Bùi,
5/2005). Ngài chẳng những hoạt động từ chính Ngai Ṭa Phêrô của ḿnh ở Giáo Đô
Vatican, mà c̣n đi khắp thế giới, theo chiều hướng Giáo Hội Trong Thế Giới Tân
Tiến, mang “Vui Mừng và Hy Vọng” đến cho loài người, qua 104 chuyến tông du mục
vụ, để cổ vơ công lư và ḥa b́nh, kêu gọi hết mọi thành phần “Hăy mở rộng cửa
cho Chúa Kitô”. Bởi v́, theo ngài, con người được Thiên Chúa dựng nên không thể
nào được cứu độ và được thăng hóa nếu không có “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”, như
được ngài vừa đặt vấn đề vừa giải đáp trong tác phẩm “Vược Qua Ngưỡng Cửa Hy
Vọng”, (bản Anh Ngữ, trang 197), như sau:
“Con người là ai, một khi Người Con đi mặc lấy bản tính của con người? Con người
này phải là ai, nếu Con Thiên Chúa lại phải trả giá cao nhất cho phẩm vị của họ
đây?... Đấng Cứu Chuộc củng cố quyền lợi của con người chỉ nguyên bằng việc phục
hồi tính cách trọn vẹn của phẩm vị mà con người đă lănh nhận khi Thiên Chúa tạo
dựng nên họ theo h́nh ảnh Ngài và tương tự như Ngài”.
4) Mầu Nhiệm Cứu Độ nơi Đức Gioan Phaolô II: Sống là Chúa
Kitô – Chết là Vinh Thắng (x Phil 1:21)
Nếu Mầu Nhiệm Cứu Chuộc, theo cảm nhận và chia sẻ của Đức Gioan Phaolô II được trích dẫn và chứng thực trong bài viết này, là mầu nhiệm liên quan đến Mầu Nhiệm Vượt Qua, tức chẳng những liên quan đến tội lỗi và sự chết, mà c̣n liên quan đến cả sự sống và vinh quang nữa, th́ chính bản thân và cuộc đời Giáo Hoàng của Đức Gioan Phaolô II đă chứng thực như thế, và do đó, lại càng là một chứng cớ hùng hồn cho khẳng định: Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lơi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II.
Trước hết, về khía cạnh đau khổ và sự chết liên quan tới Mầu Nhiệm Cứu Chuộc,
mầu nhiệm mà chính Con Thiên Chúa đă phải trải qua cuộc Khổ Nạn và Tử Giá vô
cùng tang thương, nơi cuộc đời làm Giáo Hoàng của ngài, không phải hay sao,
chính bản thân của ngài đă bị ám sát, gây ra bởi một tội ác, có thể nói, mở màn
cho nạn khủng bố sau này, và cho dù có thoát chết, từ đó, bị ảnh hưởng bởi cuộc
ám sát này, sức khỏe của một con người yêu thích thể thao như ngài đă bị sa sút,
đến nỗi, nhiều lần dư luận đă cho rằng ngài sắp chết, v́ ngài đă được mang vào
bệnh viện đến 10 lần, thứ tự như sau: ngày 13/5/1981 ở bệnh viện Gemelli sau khi
bị ám sát chết hụt ở Quảng Trường Thánh Phêrô; ngày 20/6/1981, tái nhập bệnh
viện này và chịu một cuộc giải phẫu thứ hai vào ngày 5/8, Lễ Đức Mẹ Xuống Tuyết;
ngày 15/7/1992, nhập cùng bệnh viện để được mổ v́ cục bưới lành ở ruột; ngày
2/7/1993, được chụp CAT scan xem t́nh h́nh ra sao sau cuộc giải phẫu năm 1992;
ngày 11/11/1993, cũng tại cùng bệnh viện sau khi bị găy xương vai bên phải; ngày
29/4/1994, lại nhập bệnh viện này v́ bị ngă gay xương đùi tối hôm trước; ngày
14/8/1996, nhập bệnh viện Regina Apostolorum Clinic ở Albano để được chụp CAT
scan; ngày 8/10/1996, nhập bệnh viện Gemelli để cắt ruột dư; ngày 1/2/2005, nhập
bệnh viện Gemelli v́ bộ phận hô hấp bị nhiễm trùng cấp tính, cho đến ngày 10/2;
và lần cuối cùng cấp tốc trở lại bệnh viện này vào ngày 24/2, v́ cúm tái phát
gây khó thở, và ở đó cho tới ngày 13/3. Để rồi, vào ngày 31/3, bị nhiễm trùng
đường tiểu, và cuối cùng đă qua đời sau đó mấy ngày tại tông pḥng của ngài ở
Vatican.
Vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI, trước khi được trúng tuyển làm giáo hoàng 13
ngày, tức vào hôm 8/4/2005, ở phần cuối bài giảng của ḿnh, đă nhận định về
chung con người và về riêng cuộc khổ nạn cuối đời của Đức Gioan Phaolô II như
sau:
“Bằng việc chăn dắt đàn chiên của Chúa Kitô, Thánh Phêrô đă đi vào mầu nhiệm
vượt qua, thánh nhân đă tiến về phía thập tự giá và về cuộc phục sinh. Chúa Kitô
đă nói về điều này bằng những lời: ‘… khi con c̣n trẻ, con thường tự ḿnh thắt
lưng lấy và đi đâu tùy ư con muốn’ (Jn 21:18). Trong những năm đầu của giáo
triều ḿnh, những năm c̣n trẻ trung và đầy nhiệt huyết, Đức Thánh Cha đă đi đến
tận cùng trái đất theo sự dẫn dắt của Chúa Kitô. Thế nhưng sau đó, ngài càng
ngày càng đi sâu vào cuộc hiệp thông khổ đau với Chúa Kitô; càng hiểu được sự
thật của những lời này: ‘Người ta sẽ thắt lưng cho con’. Và trong chính cuộc
hiệp thông đau khổ này với Chúa Kitô một cách liên tục và càng gia tăng hơn,
ngài đă loan báo Phúc Âm, loan báo mầu nhiệm về một t́nh yêu thương cho đến cùng
tận (x Jn 13:1).
“Ngài đă giải thích cho chúng ta mầu nhiệm vượt qua như là một mầu nhiệm của
ḷng thương xót Chúa. Trong tác phẩm cuối cùng của ḿnh, ngài đă viết: Cái giới
hạn áp đặt trên sự dữ ‘tối hậu là Ḷng Thương Xót Chúa’ (Hồi Niệm và Căn Tính,
trang 60-61). Và khi suy nghĩ về biến cố mạng sống ngài bị cố sát, ngài đă nói:
‘Trong việc hy hiến ḿnh cho tất cả chúng ta, Chúa Kitô đă cống hiến cho đau khổ
một ư nghĩa mới, mở ra một chiều kích mới, một trật tự mới, đó là trật tự của
yêu thương… Chính cái đau khổ này đốt cháy và thiêu rụi đi sự dữ bằng ngọn lửa
yêu thương và rút ran gay từ tội lỗi cả một cuộc bừng nở đầy những thiện hảo’ (cùng
nguồn, trang 189-190). Được thôi thúc bởi nhăn quan ấy, vị Giáo Hoàng này đă
chịu đựng khổ đau và đă yêu qúi việc hiệp thông với Chúa Kitô, nên đó là lư do
tại sao sứ điệp về khổ đau của ngài cùng việc thinh lặng của ngài là những ǵ
thất là sống động và hiệu năng.
"Không ai trong chúng ta có thể quên được cảnh tượng diễn ra hôm Chúa Nhật Phục
Sinh vừa rồi trong cuộc đời của ngài, Đức Thánh Cha, đầy những đớn đau, lại tiến
đến cửa sổ Tông Dinh của ḿnh để ban phép lành ‘urbi et orbi – cho thành Rôma và
cho thế giới’ một lần cuối cùng”.
Tưởng cũng nên nhắc đến ở đây một chi tiết liên quan đến khổ đau và sự dữ trong
Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lơi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II, đó là, ngoài
khổ đau và sự dữ mà chính bản thân ngài phải chịu trong cuộc đời làm Giáo Hoàng
của ḿnh, như giá trả thiết yếu trong việc đồng công với Đấng Cứu Chuộc Nhân
Trần để giải thoát con người hiện đại nói chung và Khối Đông Âu nói riêng khỏi
sự dữ Cộng Sản vô thần duy vật, ngài c̣n thiết lập Ngày Bệnh Nhân Thế Giới nữa,
từ ngày 13/5/1992, và Ngày Bệnh Nhân Thế Giới đầu tiên được tổ chức tại chính
Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức vào chính Lễ Mẹ Lộ Đức 11/2/1993, và sau đó, hằng năm,
cũng vào chính ngày Lễ Mẹ Lộ Đức 11/2 này, Giáo Hội cử hành Ngày Thế Giới Bệnh
Nhân tại các Đền Thánh Mẫu khắp các châu lục, chẳng hạn như năm 2005 được tổ
chức tại Đền Thánh Mẫu ở Yaounde Cameroon, Phi Châu.
Ngoài ra, ngài c̣n ban hành bức Tông Thư “Khổ Đau Cứu Độ - Salvifici Doloris”
ngày Lễ Mẹ Lộ Đức 11/2/1984 trong chính Năm Thánh Cứu Chuộc., v́ đau khổ của
loài người có liên hệ mật thiết với Mầu Nhiệm Cứu Chuộc của “Đấng Cứu Chuộc Nhân
Trần”. Sau đây là những lời mở đầu cho bức Tông Thư chất chứa phần nào nội dung
của nó:
“Khi loan báo về quyền năng của khổ đau cứu độ, Vị Tông Đồ Phaolô viết: ‘Tôi
hoàn tất nơi xác thịt của tôi những ǵ c̣n thiếu nơi những cuộc khổ nạn của Chúa
Kitô phải chịu v́ thân thể của Người là Giáo Hội’ (Col 1:24)
“…Vị Tông Đồ này chia sẻ việc khám phá của ḿnh và hân hoan với việc khám phá đó
v́ tất cả những ai việc khám phá này có thể giúp hiểu được – như nó đă giúp cho
ngài – ư nghĩa cứu độ của khổ đau”. (đoạn 1)
“Đề tài đau khổ là những ǵ cần phải đặc biệt đối diện trong bối cảnh của Năm
Thánh Cứu Chuộc, và sở dĩ như thế, trước hết là v́ Việc Cứu Chuộc được hoàn tất
nhờ Thập Giá của Chúa Kitô, tức là, nhờ khổ đau của Người. Đồng thời, trong Năm
Cứu Chuộc, chúng ta cũng nhắc lại sự thật được diễn tả trong bức Thông Điệp Đấng
Cứu Chuộc Nhân Trần, đó là, nơi Chúa Kitô, ‘hết mọi người trở thành đường lối
cho Giáo Hội’ (khoản 14,18,21,22). Có thể nói rằng, con người đặc biệt trở thành
đường lối cho Giáo Hội khi khổ đau xẩy ra cho cuộc sống của họ”. (đoạn 3)
Chưa hết, vị Giáo Hoàng mà chính bản thân ngài cũng là một bệnh nhân trường kỳ
đă giành riêng một Ngày Mừng Đại Năm Thánh 2000 cho thành phần bệnh nhân là ngày
Lễ Mẹ Lộ Đức 11/2/2000, và đă xức dầu cho riêng 200 bệnh nhân tiêu biểu rồi gặp
gỡ chung họ với những lời huấn dụ theo chiều hướng của bức Tông Thư “Khổ Đau Cứu
Độ”, như sau:
“Đau đớn và bệnh nạn là số phận nơi mầu nhiệm của con người trên trái đất này.
Dĩ nhiên con người vẫn có quyền chiến đấu với bệnh nạn, v́ sức khỏe là một tặng
ân của Thiên Chúa. Thế nhưng, người ta cũng cần phải làm sao có thể nhận ra dự
án của Thiên Chúa mỗi khi đau khổ đến gơ cửa nhà của chúng ta nữa. ‘Ch́a khóa’
để có thể nhận thức được điều này ở nơi Thập Giá của Chúa Kitô. Lời nhập thể đă
ôm lấy nỗi yếu đuối của chúng ta, mang lấy nó trong mầu nhiệm Thập Giá. Từ bấy
giờ, tất cả mọi khổ đau có một ư nghĩa khả dĩ làm cho nó có một giá trị đáng kể.
Từ ngày của Cuộc Khổ Nạn, qua 2000 năm rồi, Thập Giá vẫn chiếu sáng như là một
cuộc bộc lộ tối hậu mối t́nh của Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Những ai có thể
chấp nhận nó trong đời sống của ḿnh đều cảm thấy rằng, theo ánh sáng đức tin,
đau đớn đă trở thành nguồn hy vọng và cứu độ” (đoạn 3.1).
“Quí bệnh nhân thân mến, đây là giây phút tuyệt đỉnh của Cuộc Mừng Kỷ Niệm của
anh chị em! Bằng việc bước qua ngưỡng Cửa Thánh, anh chị em hợp với tất cả những
ai trên khắp thế giới đă bước qua đó và những ai sẽ bước qua đó trong Năm Mừng
Kỷ Niệm này. Chớ ǵ việc bước qua Cửa Thánh là dấu hiệu của việc anh chị em
thiêng liêng tiến vào mầu nhiệm của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc tử giá và phục
sinh, Đấng v́ yêu đă mang lấy ‘những sầu thương và gánh chịu những buồn phiền
của chúng ta’ (Is 53:4)” (đoạn 4.2).
Sau nữa, về khía cạnh sự sống và vinh quang liên quan tới Mầu Nhiệm Cứu Chuộc
nơi cuộc đời làm Giáo Hoàng của ngài, không phải hay sao, trước hết, nhờ cuộc ám
sát này, hay nhờ ngài đă đáp lại lời yêu cầu của Trời Cao, trong việc cùng với
hàng giáo phẩm trên thế giới hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội
Mẹ ngày 25/3/1984, mà sau khi nhà lănh đạo cuối cùng của Khối Cộng Sản Liên Bang
Sô Viết xuất hiện đúng 1 năm sau đó, năm 1985, cũng vào Tháng 3, Nước Nga đă từ
bỏ chế độ và chủ nghĩa Cộng Sản vào chính ngày Lễ Giáng Sinh 25/12/1991.
Thế rồi, nếu ngài đă bị bệnh vào ngay trước Mùa Chay, nhất là trong suốt Mùa
Chay 2005, đến nỗi, vào Chúa Nhật Phục Sinh, ngài bắt đầu bị câm nín, không thể
nói được nữa, (ngay khi ngài muốn lên tiếng trước máy vi âm để ban huấn từ Chúa
Nhật Phục Sinh), một thời điểm Mùa Chay mà cách đó đúng 26 năm, ngài đă ban hành
bức Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, th́ ngài đă được về với Đấng tuyên
phán: “Thày là sự sống lại và là sự sống” (Jn 11:25) ngay trong Tuần Bát Nhật
Phục Sinh, áp Chúa Nhật Lễ T́nh Thương.
"Santo Subito - Xin Phong Thánh ngay"
Chưa bao giờ có chuyện vỗ tay vang lừng
trong Thánh Lễ an táng, ngoại trừ với Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
5) Mầu Nhiệm Cứu Độ, đối với Thánh Gioan Phaolô II, là Thánh Giá của Ḷng Thương Xót Vinh Thắng trên tất cả mọi sự dữ
Và Thánh Lễ An Táng của ngài, được diễn ra vào Thứ Sáu 8/4/2005, có thể nói, vinh quang của Giáo Hội Công Giáo đă lên đến tột đỉnh trong lịch sử của riêng Giáo Hội và của chung thế giới. Thi thể của vị Giáo Hoàng, như hạt múa miến bị mục nát đi mới sinh nhiều hoa trái này (x Jn 12:24), chẳng những đă được dân chúng chờ chực cả nửa ngày trời hay hơn để được kính viếng trong ṿng nửa phút trong Đền Thờ Thánh Phêrô, mà cho tới nay, cả 9 tháng sau, Quảng Trường Thánh Phêrô, vẫn c̣n những hàng người nhẫn nại hằng ngày chờ chực lâu giờ, không phải để viếng Đền Thờ Thánh Phêrô như đă xẩy ra trong Đại Năm Thánh 2000, mà là để được kính viếng thi thể của vị Giáo Hoàng đă được châm chước thời hạn 5 năm trong tiến tŕnh phong chân phước cho ngài, vị Giáo Hoàng “totus tuus” sống động và hiện thực Mầu Nhiệm Cứu Chuộc như Cốt Lơi của một Giáo Triều ở vào cuối thiên niên thứ hai và đầu thiên niên thứ ba Kitô Giáo.
Vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI, trong bài chia sẻ ngày 19/4 tại Nguyện Đường
Sistine với Hồng Y Đoàn ngay sau ngày được bầu làm Giáo Hoàng, cũng như trong
Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật XXIX Thường Niên ngày 16/10/2005, kỷ niệm 27 năm
Đức Gioan Phaolô II được bầu làm Giáo Hoàng, đă nhận định về sự kiện “chết là
vinh thắng” của vị tiền nhiệm yêu dấu khả kính của ḿnh, như sau:
“Vào lúc này đây, kư ức của tôi nhớ lại cảm nghiệm không thể nào quên được mà
tất cả chúng ta đă trải qua với cái chết và lễ an táng cho Đức Gioan Phaolô II
tiếc thương. Quanh thi thể của ngài, nằm trên mặt đất trống, các vị lănh đạo chư
quốc đă qui tụ lại, cùng với dân chúng thuộc tất cả mọi giai cấp xă hội, nhất là
giới trẻ, để tỏ ḷng măi măi gắn bó quí mến và ca ngợi ngài. Toàn thể thế giới
đă tin tưởng nh́n vào ngài. Đối với nhiều người th́ việc tham dự đông đảo này,
một cuộc tham dự được các phương tiện truyền thông phóng đại đến cả những nơi xa
xôi của hành tinh này, như thể là việc nhân loại văn minh tân tiến, một nhân
loại bị hoang mang sợ hăi và bất ổn, đang tự hỏi ḿnh về tương lai, muốn đồng
thanh yêu cầu vị Giáo Hoàng này giúp đỡ” (với Hồng Y Đoàn).
“Trước ngôi mộ của ngài trong hầm mộ Vatican, nhiều tín hữu vẫn không ngừng tiếp
tục tuốn đến kính viếng, và điều này cho thấy một dấu hiệu hùng hồn là Đức Gioan
Phaolô II yêu dấu của chúng ta đă đi vào ḷng người như thế nào, trước hết, là
v́ chứng từ yêu thương của ngài và việc ngài sẵn sàng chấp nhận khổ đau. Nơi
ngài, chúng ta có thể ca tụng sức mạnh của đức tin và lời nguyện cầu của ngài,
và cách ngài hoàn toàn phó thác bản thân ngài cho Đức Maria Rất Thánh, vị luôn
đồng hành với ngài và bảo vệ chở che ngài, nhất là trong những lúc khốn khó nhất
và bi thảm nhất cuộc đời của ngài” (Huấn Từ Truyền Tin).
Trong bài diễn từ tất niên ngỏ cùng Giáo Triều Rôma ngày Thứ Năm 22/12/2005, vị
tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI đă nhận định về vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II của
ḿnh theo chiều kích Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là mầu nhiệm đă được thể hiện qua chính
cuộc đời và cảm nhận của vị tiền nhiệm của ḿnh như sau:
“Không có một vị Giáo Hoàng nào như ngài đă để lại cho chúng ta một số lượng văn
bản như ngài đă lưu lại cho chúng ta; không có một vị Giáo Hoàng nào như ngài đă
có thể viếng thăm toàn thế giới và trực tiếp nói với dân chúng ở tất cả mọi châu
lục.
“Thế mà, cuối cùng, số phận của ngài là một cuộc hành tŕnh đau thương và câm
nín. Chúng ta không thể nào quên được những h́nh ảnh Chúa Nhật Lễ Lá, lúc mà,
cầm trong tay cành lá cây dầu và cảm thấy đớn đau, ngài đă tiến đến cửa sổ để
Ban Phép Lành của Chúa như chính bản thân ngài sắp sửa bước tới cây Thập Tự Giá.
“Sau đó là cảnh ở trong Nguyện Đường Riêng của ngài, lúc mà, cầm Thánh Giá trong
tay, ngài tham dự Đường Thánh Giá bấy giờ đang diễn tiến ở Hí Trường Colosseum,
nơi ngài rất hay thường vác Thập Giá dẫn đầu đoàn người diễn hành theo sau.
“Sau hết là Phép Lành âm thầm của ngài hôm Chúa Nhật Phục Sinh, nơi phép lành âm
thầm này chúng ta đă thấy niềm hứa hẹn của cuộc Phục Sinh, của sự sống đời đời,
rạng ngời tỏa sáng qua tất cả mọi nỗi đớn đau của ngài. Bằng cả lời nói và hành
động, Đức Thánh Cha đă cống hiến cho chúng ta rất nhiều điều cao cả; bài học này
cũng không kém phần quan trọng được ngài ban cho chúng ta từ ngai ṭa khổ đau và
câm nín.
“Trong cuốn sách cuối cùng của ngài là “Hồi Niệm và Căn Tính” (Weidenfeld and
Nicolson, 2005), ngài đă để lại cho chúng ta một dẫn giải về khổ đau, không phải
như một thứ lư thuyết về thần học hay triết lư mà là một hoa trái chín mùi qua
cuộc hành tŕnh khổ đau của bản thân ngài, một cuộc hành tŕnh khổ đau ngài đă
quyết chịu bằng niềm tin tưởng vào Vị Chúa tử giá. Lời dẫn giải này, một việc
dẫn giải được ngài khai triển bởi đức tin và là việc dẫn giải mang lại ư nghĩa
cho khổ đau của ngài, một khổ đau được ngài chấp nhận trong mối hiệp thông với
nỗi khổ đau của Chúa, là việc dẫn giải đă được vang lên qua thái độ âm thầm chịu
đựng của ngài, khi ngài biến việc chịu đựng này thành một sứ điệp quan trọng.
“Cả ở phần mở đầu và lập lại một lần nữa ở cuối cuốn sách được đề cập tới trên
đây, vị Giáo Hoàng này đă cho thấy rằng ngài cảm thấy rất thấm thía trước cảnh
tượng của quyền lực sự dữ, một quyền lực sự dữ chúng ta đă trải qua một cách thê
thảm trong thế kỷ vừa chấm dứt. Ngài nói trong cuốn sách này rằng: ‘Sự dữ này…
không phải là một thứ sự dữ có tầm mức nhỏ hẹp… Nó là một sự dữ có những tầm vóc
khổng lồ, một sự dữ được tổ chức đàng hoàng để thực hiện hoạt động gian ác của
nó, một sự dữ trở thành một cơ cấu’ (trang 189).
“’Phải chăng sự dữ là những ǵ bất khả thắng? Phải chăng nó là một quyền năng
tối hậu của lịch sử?’ V́ kinh nghiệm về sự dữ, mà đối với Giáo Hoàng Wojtyla,
vấn đề cứu chuộc đă trở thành thiết yếu và là vấn đề trọng yếu trong đời sống
của ngài và được suy tưởng như là một Kitô hữu. Có một giới hạn nào đó chống lại
những ǵ bị quyền lực sự dữ này hủy hoại hay chăng? ‘Có chứ’, vị Giáo Hoàng này
đă trả lời trong cuốn sách ấy của ngài cũng như trong Thông Điệp về việc cứu
chuộc của ngài.
“Quyền năng hạn chế sự dữ này là Ḷng Thương Xót Chúa. Bạo lực, h́nh thức thể
hiện của sự dữ, bị Ḷng Thương Xót Chúa chống lại qua gịng lịch sử. Chúng ta có
thể nói theo Sách Khải Huyền là Con Chiên mạnh hơn con rồng.
“Ở cuối cuốn sách, bằng việc ôn lại quá khứ về cuộc tấn công vào ngày 13/5/1981,
và dựa vào căn bản của kinh nghiệm nơi cuộc hành tŕnh của ngài với Thiên Chúa
cũng như với thế giới, Đức Gioan Phaolô II c̣n giải đáp vấn đề này một cách sâu
xa hơn nữa.
“Cái hạn chế quyền lực sự dữ, cái quyền lực chế ngự nó, theo cách ngài nói, đó
là nỗi khổ đau của Thiên Chúa, nỗi khổ đau của Người Con Thiên Chúa trên Thập Tự
Giá: ‘Nỗi khổ đau của Vị Thiên Chúa Tử Giá không phải chỉ là một h́nh thức khổ
đau duy nhất trong số những h́nh thức khổ đau khác…. Bằng việc hy sinh bản thân
ḿnh v́ tất cả chúng ta, Chúa Kitô đă cống hiến cho đau khổ một ư nghĩa mới, mở
ra một chiều kích mới, một tầm vóc mới, đó là tầm vóc yêu thương…. Cuộc khổ nạn
của Chúa Kitô trên Thập Giá là những ǵ cống hiến cho đau khổ một ư nghĩa hoàn
toàn mới mẻ, biến đổi nó tự bản chất… Chính cái đau khổ này thiêu đốt và làm
tiêu hao đi sự dữ, bằng ngọn lửa yêu thương…. Tất cả khổ đau của loài người, tất
cả mọi đớn đau, tất cả mọi yếu đuối bạc nhược đều chất chứa nơi ḿnh một hứa hẹn
cứu độ; …. Sự dữ hiện diện trên thế giới một phần là để khơi động lên ḷng yêu
thương trong chúng ta, một t́nh yêu trao hiến bản thân ḿnh trong việc phục vụ
cách quảng đại và vô tư những ai bị khổ đau dằn vặt… Chúa Kitô đă cứu thế giới:
‘Chúng ta đă được chữa lành nhờ những vết thương của Người’ (Is 53:5) (trang 189
và sau đó).
“Tất cả những điều này không phải chỉ là một thứ thuần kiến thức về thần học, mà
là một bày tỏ của một đức tin sống động và trưởng thành qua đau khổ. Chắc chắn
là chúng ta cần phải làm mọi sự có thể để giảm bớt khổ đau và ngăn ngừa t́nh
trạng bất công là những ǵ gây cho thành phần vô tội khổ đau. Tuy nhiên, chúng
ta cũng phải làm mọi sự trong tầm tay của ḿnh để giúp con người có thể khám phá
ra được cái ư nghĩa của khổ đau, nhờ đó, họ biết chấp nhận khổ đau của họ và
liên kết nó với khổ đau của Chúa Kitô.
“Có thế, nó mới ḥa nhập với t́nh yêu thương cứu chuộc và nhờ vậy mới trở thành
một quyền năng chống lại sự dữ trên thế giới này.
“Việc đáp ứng khắp thế giới trước cái chết của vị Giáo Hoàng này là việc nhiệt
liệt bày tỏ ḷng tri ân về sự kiện là ngài đă hoàn toàn hiến thân cho Thiên Chúa
v́ thế giới, khi thi hành thừa tác vụ của ngài; một lời tạ ơn cho sự kiện là
trong một thế giới đầy hận thù và bạo lực này, ngài đă dạy một cách mới mẻ t́nh
yêu thương và khổ đau trong việc phục vụ tha nhân; có thể nói ngài đă tỏ cho
chúng ta thấy trong xác thịt Đấng Cứu Chuộc, việc cứu chuộc, và đă cống hiến cho
chúng ta niềm tin tưởng rằng, thật ra sự dữ không phải là phán quyết tối hậu
trên thế gian này”.
Tóm lại, đối với Đức Gioan Phaolô II, tác giả cuốn sách triết học nhân bản “Vượt
Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” năm 1994, và là Vị Giáo Hoàng của “Đấng Cứu Chuộc Nhân
Trần”, nhờ “Người Mẹ của Đấng Cứu Chuộc”, đă nỗ lực mang “Vui Mừng và Hy Vọng”
đến cho thành phần Thụ Nhân Cứu Chuộc là nhân loại tân tiến cuối thiên kỷ thứ 2
và đầu thiên kỷ thứ 3 Kitô Giáo, th́ ngay cuối đường hầm sự dữ le lói ánh sáng
sự sống, ngay trong tận cùng khổ đau nung nấu mầm hy vọng, hay nói ngược lại,
khổ đau là kích tố hy vọng, sự dữ là cuộc vượt qua để vào sự sống, và sự dữ cùng
khổ đau hướng về việc cứu độ và niềm vui, như chính ngài đă xác tín, khẳng định
và loan truyền như thế trong tác phẩm “Hồi Niệm và Căn Tính” cuối đời của ḿnh,
những lời sau hết (ở trang 168 ấn bản Anh Ngữ) được ngài viết ra chẳng những để
hoàn toàn kết thúc một tác phẩm triết học luân lư (đă bắt đầu được thai nghén từ
năm 1993) của ḿnh, mà tự chúng c̣n chứng thực cảm nhận “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là
Cốt Lơi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II”:
“Tất cả mọi khổ đau của loài người, tất cả mọi nhược bại yếu hèn, đều chất chứa
nơi chúng niềm hứa hẹn cứu độ, niềm hứa hẹn hoan lạc: ‘Tôi giờ đây hân hoan nơi
những khổ đau của ḿnh v́ anh chị em’, Thánh Phaolô đă viết như thế (Col 1:24).
Điều này áp dụng cho tất cả mọi h́nh thức khổ đau là những ǵ xuất phát từ sự
dữ. Nó áp dụng cho cái sự dữ cả thể về xă hội lẫn chính trị đang xâu xé và hành
hạ thế giới ngày nay: sự dữ chiến tranh, sự dữ đàn áp hành khổ cá nhân con người
cùng các dân tộc, sự dữ của t́nh trạng bất công xă hội, của t́nh trạng phẩm giá
của con người bị chà đạp, của t́nh trạng kỳ thị về chủng tộc và tôn giáo, sự dữ
bạo động, khủng bố, thi đua vơ trang – tất cả mọi sự dữ này, đang hiện diện trên
thế giới đây, một phần, là để khơi động t́nh yêu của chúng ta, khơi động việc
chúng ta hiến ḿnh một cách quảng đại và vô vị lợi trong việc phục vụ những ai
đang bị khổ đau day dứt. Nơi t́nh yêu xuất phát từ trái tim của Chúa Kitô, chúng
ta thấy được niềm hy vọng của thế giới. Chúa Kitô đă cứu chuộc thế giới: ‘Chúng
ta đă được chữa lành bởi các thương tích của Người’ (Is 53:5)”.