ĐTC Gioan Phaolô II:

Hy vọng có thực sự xuất phát từ Giới trẻ?

 

 

Vấn đề được vị chủ biên Vittorio Messori, người đã phỏng vấn và xuất bản cuốn Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng năm 1994 đặt ra là: Giới trẻ chiếm được một chỗ đặc biệt trong lòng của Đức Thánh Cha, vị thường lập đi lập lại rằng cả Giáo Hội hướng về chúng với niềm hy vọng đặc biệt cho một cuộc tái bắt đầu truyền bá phúc âm hóa. Tâu Đức Thánh Cha, đó có phải là một niềm hy vọng thiết thực hay chăng? Hay thành phần người lớn chúng ta chỉ chiều theo cái ảo ảnh cho rằng mỗi một thế hệ mới đều tốt đẹp hơn thế hệ của mình cũng như tất cả mọi thế hệ trước đó?

 

Theo ngài thì giới trẻ quả thực là hy vọng của Giáo Hội và của thế giới cũng như của riêng ngài, vì hai lý do, trước hết, căn cứ vào kinh nghiệm sinh hoạt mục vụ với giới trẻ thời ngài mới làm linh mục ở Balan, và nhất là căn cứ vào chính bản chất của tuổi trẻ, thì dù ở thời nào đi nữa, họ cũng luôn có một ước vọng tìm kiếm ý nghĩa và tầm vóc viên trọn của cuộc đời, một ước vọng cần phải được hướng dẫn bởi riêng những vị hướng đạo lành nghề, thấu hiểu họ và hiệu nghiệm giúp đỡ họ, nhất là bởi chính Giáo Hội, để họ có thể gặp được Đấng duy nhất có thể thỏa đáng tất cả những gì họ tìm kiếm và khát vọng, nhờ đó, với nhiệt tình vốn là đặc tính sung sức của tuổi trẻ, họ trở thành những con người tông đồ của Chúa Kitô, xây dựng thế giới của một nền văn minh yêu thương. Đó là tóm tắt tất cả những gì được ngài chia sẻ về vấn đề được vị chủ biên trên đây đặt ra:

 

Ở đây ông đã đi vào một lãnh vực rộng lớn của cuộc bàn luận và chia sẻ.

 

Giới trẻ ngày nay giống như những gì đây, họ đang tìm kiếm những gì vậy? Có thể nói rằng họ vẫn giống như thuở nào. Nơi con người ta có một điều không bao giờ đổi thay, như Công Đồng Chung Vaticanô II nhặc lại trong Hiến Chế Vui Mừng Và Hy Vọng (ở khoản số 10). Điều này đặc biệt xác đáng nơi giới trẻ. Thế nhưng, giới trẻ ngày nay cũng khác với giới trẻ trước kia. Trong qua khứ, các thế hệ trẻ đã được khuôn đúc bởi kinh nghiệm đau thương của chiến tranh, của các trại tập trung, của mối hiểm nguy liên lỉ. Kinh nghiệm này đã khiến giới trẻ – tôi đang nghĩ tới mọi nơi trên thế giới, mặc dù tôi nghĩ tới giới trẻ Balan – có thể phát triển những tính chất anh hùng cao cả

 

Tôi nghĩ tới cuộc nổi dậy ở Warsaw năm 1944 – một cuộc cách mạng liều mình của các con người đương thời của tôi, những người đã hy sinh tất cả mọi sự. Họ đã bỏ mạng sống trẻ trung của mình đi. Họ muốn chứng tỏ rằng họ có thể sống cho đến tận tuyệt cái gia sản cao cả và khẩn thiết của họ. Tôi thuộc về thành phần của thế hệ này, và tôi phải nói rằng cái anh hùng của những con người đồng thời với tôi đã giúp tôi nhận định được ơn gọi của bản thân mình. Cha Konstanty Michalski, một trong những vị đại giáo sư của Đại Học Đường Jagellonian ở Kraków, sau khi trở về từ trại tập trung Sachsenhausen, đã viết cuốn sách nhan đề Giữa Đức Anh Hùng và Cái Tàn Bạo. Nhan đề của cuốn sách này nói lên được tất cả hoàn cảnh sống ở những lúc bấy giờ. Nói đến Thày Albert Chmielowski, tác giả Michlski đã nhắc lại những lời của Phúc Âm về nhu cầu “hiến mạng sống mình” (x Jn 15:13). Chính trong giai đoạn con người hoàn toàn bị khinh thường ấy, giai đoạn mà cái giá của sự sống chưa bao giờ lại bị coi rẻ mạt như vậy, thì cũng chính là lúc ấy mỗi một mạng sống lại trở nên quí hóa, khi chiếm được cái giá trị của việc tự nguyện hiến ban.

 

Về khía cạnh này thì giới trẻ ngày nay chắc chắn lớn lên ở một môi trường khác biệt. Họ không mang trong mình những thứ kinh nghiệm của Thế Chiến Thứ II. Ngoài ra, nhiều người trong họ chưa từng biết đến – hay không nhớ tới – cuộc đấu tranh chống Cộng, chống lại tình trạng độc tài chuyên chế. Họ sống trong tự do là những gì đã được người khác giành cho họ, và phần đông họ chiều theo văn hóa hưởng thụ. Nói chung thì đó là tình trạng của hoàn cảnh hiện nay.

 

Cũng thế, khó có thể nói rằng giới trẻ đã loại bỏ các thứ giá trị truyền thống, họ lìa bỏ Giáo Hội. Các kinh nghiệm của những bậc thày cô và mục tử đã xác nhận rằng, hôm nay cũng không thua gì hôm qua, lý tưởng chủ nghĩa vẫn hiện diện nơi giới trẻ, cho dù thời nay có lẽ chủ nghĩa này hầu như có khuynh hướng được thể hiện với dạng thức suy tính, trong khi đó, trước kia, nó dễ dàng được chuyển thành phận sự. Nói chung thì các thế hệ trẻ đang lớn lên trong một môi trường mang tính chất tân thực chứng, trong khi ở Balan, khi tôi còn là một đứa con trai, lại thiên về các truyền thống yêu đương. Thành phần giới trẻ tôi đã giao tiếp sau khi chịu chức linh mục là những người tin vào những thứ truyền thống ấy. Họ đã thấy được, nơi Giáo Hội cũng như trong Phúc Âm, một qui điểm giúp họ tập trung được sức mạnh nội tâm của họ, giúp họ sống cuộc sống bằng một đường lối có ý nghĩa. Tôi vẫn nhớ những cuộc trao đổi của tôi với những con người trẻ đã nói về mối liên hệ giữa họ với đức tin theo đúng những truyền thống ấy.

 

Một kinh nghiệm đáng nhớ nhất của tôi trong thời gian ấy, thời gian các hoạt động mục vụ của tôi ưu tiên trên hết là giới trẻ, đó là việc khám phá ra tầm quan trọng thiết yếu của tuổi trẻ. Tuổi trẻ là gì? Nó không phải chỉ là một đoạn đời tương đương với một số tháng năm, nó còn là một thời gian được Đấng Quan Phòng trao tặng cho mỗi người và trao tặng cho họ như là một trách nhiệm. Trong thời gian ấy, như con người trẻ trong Phúc Âm, họ tìm kiếm những giải đáp cho các vấn nạn căn bản của họ; họ tìm kiếm chẳng những ý nghĩa của đời sống mà còn cả một đường lối cụ thể để sống cuộc đời của họ. Đó là đặc tính trọng yếu nhất của tuổi trẻ. Mỗi giáo huấn viên, bắt đầu là cha mẹ, cách riêng là vị mục tử, cần phải nhận thức ra đặc tính này, và phải biết cách để nhận ra nó nơi mỗi một người con trai con gái. Tôi còn muốn nhấn mạnh nữa là: Họ cần phải yêu thích khía cạnh nồng cốt này của tuổi trẻ.

 

Nếu ở vào mỗi đoạn đời của mình, con người đều muốn tự làm chủ lấy mình, muốn yêu thương, thì trong thời thanh xuân của mình, họ còn muốn như thế mãnh liệt hơn nữa. Tuy nhiên, uớc muốn tự làm chủ lấy mình không được hiểu như là một thứ giấy phép được làm bất cứ cái gì, không bị hạn chế. Giới trẻ không muốn điều ấy tí nào cả – họ muốn được sửa sai, họ muốn được nói cho biết là được hay là không. Họ cần thành phần hướng đạo, và họ muốn thành phần họ cận kề ngay bên. Nếu họ hướng về các nhân vật có thẩm quyền, là bởi vì họ thấy nơi các vị cái nồng nàn dồi dào về nhân bản và có lòng sẵn sàng muốn bước đi với họ trên những con đường họ đang theo đuổi.

 

Bởi thế mà hiển nhiên là vấn đề thiết yếu của giới trẻ là vấn đề sâu xa về bản thân. Trong cuộc đời, tuổi trẻ là thời điểm chúng ta tiến đến chỗ biết được bản thân mình. Nó cũng là thời điểm của hiệp thông nữa. Giới trẻ, cho dù là nam hay nữ, cũng đều biết rằng họ cần phải sống cho và sống với kẻ khác, họ biết rằng cuộc đời của họ có ý nghĩa ở chỗ nó trở thành một tặng ân nhưng không cho kẻ khác. Đây là nguồn gốc của tất cả mọi ơn gọi – cho dù là làm linh mục hay tu sĩ, hoặc sống đời hôn nhân gia đình. Tiếng gọi sống đời hôn nhân cũng là một ơn gọi, một tặng ân Chúa ban. Tôi không bao giờ quên được một con người trẻ tuổi, một sinh viên kỹ sư ở Krakoùw, con người ai cũng biết là quyết tâm muốn nên thánh. Đó là dự án sống của anh ta. Anh ta biết rằng anh ta được “dựng nên cho những điều cao cả hơn”, như Thánh Stanislaus Kostka có lần đã diễn tả như thế. Và đồng thời anh ta cũng chắc chắn rằng ơn gọi của mình không phải là làm linh mục hay tu sĩ. Anh ta biết rằng anh ta được kêu gọi ở ngoài đời. Đam mê của anh ta là làm việc về kỹ thuật, là học ngành kỹ sư. Anh ta đã tìm kiếm một người bạn đời và đã tìm thấy nàng trên hai đầu gối, trong nguyện cầu. Tôi không bao giờ quên được cuộc đàm thoại mà, sau một ngày tĩnh tâm đặc biệt, anh ta nói với tôi rằng: “Con nghĩ rằng đây là người đàn bà chắc chắn là vợ của con, vì chính Chúa đã ban nàng cho con”. Anh ta hầu như không phải chỉ theo tiếng gọi của con tim mình mà trên hết là tiếng của chính Thiên Chúa. Anh ta biết rằng tất cả mọi điều tốt lành đều từ Ngài mà đến, và anh ta đã thực hiện một quyết định tốt đẹp. Tôi đang nói về Jerzy Ciesielski, người đã chết vì một tai nản thê thảm ở Sudan, nơi anh ta đã được mời dạy ở một Đại Học Đường. Việc điều tra phong thánh cho anh đang được tiến hành.

 

Chính ơn gọi yêu thương này khiến chúng ta tự nhiên có thể đến gần giới trẻ. Là một linh mục, tôi nhận ra điều này rất sớm. Tôi hầu như cảm thấy được sâu xa kêu gọi theo chiều hướng ấy. Cần phải sửa soạn cho giới trẻ lập gia đình, cần phải dạy cho chúng yêu thương. Tình yêu không phải là một cái gì đó cần phải học hỏi, tuy nhiên cũng không còn điều gì khác quan trọng hơn cần phải học biết! Là một vị linh mục trẻ tôi đã học yêu quí tình yêu của con người. Đó từng là một trong những đề tài chính yếu cho vai trò làm linh mục của tôi – cho thừa tác vụ của tôi trên tòa giảng, trong tòa giải tội cũng như nơi những gì tôi viết lách. Nếu người ta yêu quí tình yêu của con người thì tự nhiên nẩy lên nhu cầu cần phải dấn thân hoàn toàn cho việc phục vụ “tình yêu tuyệt mỹ”, vì tình yêu kiều diễm, tình yêu mỹ lệ.

 

Dù sao thì giới trẻ bao giờ cũng tìm kiếm vẻ đẹp nơi yêu thương. Họ muốn tình yêu của họ phải là những gì đẹp đẽ. Nếu họ có chiều theo yếu đuối, theo đuổi những mẫu mực tác hành có lý được coi là “một thứ gương mù trong thế giới đương thời” (mà bất hạnh thay lại là những mẫu tác hành được thịnh hành), thì tận đáy lòng của họ, họ vẫn ước muốn một tình yêu diễm lệ và tinh tuyền. Điều này đúng cho cả trai lẫn gái. Nói cho cùng thì họ biết rằng chỉ có duy một mình Thiên Chúa mới có thể ban cho họ thứ tình yêu này thôi. Bởi thế, họ sẵn sàng theo Chúa Kitô, bất chấp những hy sinh gây ra bởi đó.

 

Là một vị linh mục trẻ và là một mục tử, tôi đã có cái nhìn như thế về giới trẻ và về tuổi trẻ, một cái nhìn vẫn còn liên tục như thế qua những tháng năm đây. Nó là một cái nhìn cũng cho tôi có thể gặp gỡ giới trẻ ở bất cứ nơi nào tôi đến thăm. Hết mọi vị linh mục ở Rôma đều biết rằng các cuộc viếng thăm giáo xứ của tôi cần phải được kết thúc bằng cuộc gặp gỡ giữa Vị Giám Mục Rôma với giới trẻ của giáo xứ ấy. Chẳng những ở Rôma mà còn ở bất cứ nơi nào Vị Giáo Hoàng này đi tới nữa, ngài tìm kiếm giới trẻ và giới trẻ tìm kiếm ngài. Thực tế mà nói thì thật ra không phải là vị Giáo Hoàng này đang được giới trẻ tìm kiếm đâu. Vị đang được họ kiếm tìm là Chúa Kitô, Đấng biết “những gì nơi mỗi người” (x. Jn 2:25), nhất là nơi giới trẻ, và là Đấng có thể ứng đáp thực sự cho các vấn nạn của họ! Và cho dù chúng là những đáp ứng gắt gao, giới trẻ vẫn không sợ; trái lại, họ còn đợi chờ những lời ứng đáp ấy nữa.

 

Đó cũng là những gì cho thấy được lý do tổ chức các Ngày Giới Trẻ Thế Giới. Ngay từ đầu, trong Năm Mừng Ơn Cứu Chuộc (1983-1984), và rồi một lần nữa trong Năm Giới Trẻ Quốc Tế do Liên Hiệp Quốc tổ chức (1985), giới trẻ đã được mời về Rôma. Đó là thuở ban đầu. Không ai đã sáng tạo ra các Ngày Giới Trẻ Thế Giới cả. Chính giới trẻ đã thiết lập nên  những ngày này. Thế rồi những Ngày ấy, những cuộc hội ngộ ấy, trở thành một điều được giới trẻ khắp thế giới ước mong. Hầu hết những Ngày này là một điều gí đó khiến cho các vị linh mục, thậm chí cả các vị giám mục, lấy làm ngạc nhiên, ở chỗ chúng vượt trên tất cả những gì họ mong đợi nữa. 

 

Các Ngày Giới Trẻ Thế Giới đã trở thành một chứng từ cao cả và thu hút được chính giới trẻ thực hiện. Những ngày ấy đã trở thành một phương tiện mãnh liệt cho việc truyền bá phúc âm hóa. Thật vậy, nơi giới trẻ có một tiềm lực mãnh liệt về thiện hảo cũng như về khả năng sáng tạo. Bất cứ nơi đâu tôi gặp gỡ họ trong các cuộc tông du khắp thế giới của tôi, trước hết tôi đợi chờ để nghe họ nói với tôi về họ, về xã hội của họ, về Giáo Hội của họ. Tôi bao giờ cũng vạch cho họ biết rằng: “Những gì tôi sắp nói với các bạn không quan trọng bằng những gì các bạn nói với tôi. Các bạn không cần phải nói với tôi bằng ngôn từ; các bạn nói với tôi bằng sự hiện diện của các bạn, bằng việc các bạn ca hát, có lẽ bằng cả việc các bạn nhẩy múa, bằng những màn trào phúng, và sau hết bằng lòng nhiệt thành của các bạn.

 

Chúng ta cần lòng nhiệt thành của giới trẻ. Chúng ta cần niềm vui sống joie de vivre của họ. Nơi niềm vui sống này của họ phản ảnh một cái gì đó nơi niềm vui nguyên khôi Thiên Chúa có được trong việc tạo dựng nên con người. Giới trẻ cảm nghiệm được cũng niềm vui này nơi bản thân họ. Niềm vui này là niềm vui ở khắp mọi nơi, thế nhưng nó đồng thời mãi mới mẻ và nguyên khôi. Giới trẻ biết cách diễn tả niềm vui này ra bằng cách thức riêng biệt của mình.

 

Không phải là Vị Giáo Hoàng này qui tụ giới trẻ từ khắp thế giới. Mà chính họ đã mang ngài lại với họ. Cho dù ngài có già đời hơn, họ vẫn muốn ngài trẻ trung, họ không để cho ngài quên đi kinh nghiệm của ngài, quên đi việc ngài khám phá về tuổi trẻ cũng như về tầm mức rất quan trọng của tuổi trẻ đối với đời sống của mỗi người. Tôi tin rằng điều này nói lên rất nhiều.

 

Chính ngày đăng quang của thừa tác vụ giáo hoàng của tôi hôm 22/10/1978, vào lúc kết thúc phụng vụ này, tôi đã nói với giới trẻ tập trung ở Quảng Trường Thánh Phêrô rằng: “Các bạn là hy vọng của Giáo Hội và của thế giới. Các bạn là hy vọng của tôi”. Tôi đã thường lập lại những lời này.

 

Tôi muốn tóm tắt lại bằng việc nhấn mạnh là giới trẻ đang tìm kiếm Thiên Chúa, họ đang tìm kiếm ý nghĩa của đời sống, họ đang tìm kiếm những giải đáp tối hậu: “Tôi cần phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?” (Lk 10:25). Trong cuộc tìm kiếm này, họ không thể nào không gặp gỡ Giáo Hội. Và Giáo Hội không thể nào không gặp gỡ giới trẻ. Chỉ có một điều cần duy nhất đó là Giáo Hội có được một kiến thức sâu xa về ý nghĩa trẻ trung, về tầm quan trọng của tuổi trẻ đối với mỗi người. Cũng cần giới trẻ biết Giáo Hội nữa, để họ thấy được Chúa Kitô nơi Giáo Hội. Chúa Kitô là Đấng bước đi qua các thế hệ với mỗi một thế hệ, với mỗi người. Người bước đi bên mỗi người như một người bạn đường. Một ngày quan trọng trong đời của một con người trẻ đó là ngày họ thâm tín rằng Người là Vị Thân Hữu duy nhất không làm họ bị thất vọng và là Đấng họ bao giờ cũng có thể tin tưởng cậy nhờ.

 

(Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ cuốn “Vượt qua Ngưỡng Cửa Hy Vọngcủa Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Alfred A. Knopf, New York 1994, trang 118-126)