ĐTC Gioan Phaolô II:

Vị Giáo Hoàng Đẩy Mạnh Chiến Dịch Hủy Bỏ Án Tử Hình
 

 

 

HY Theodore McCarrick, TGM Washington, làm đầu Tiểu Ban Chính Sách Tại Nội của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, đã gửi thư kêu gọi các nghị viên Hạ Viện và Thượng Viện đang phác họa một khoản luật hậu biến cố 911 đừng áp dụng án tử hình với thành phần khủng bố. Sau đây là mấy ý tưởng chính yếu tiêu biểu của ngài:

 

“Những hành động đề hèn trong ngày 11/9 cùng với những giá thê thảm phải trả của con người vẫn còn là những gì ám ảnh quốc gia chúng ta. Không thể nào có vấn đề làm suy giảm cái khủng khiếp ghê rợn của nạn khủng bố hay trách nhiệm của những kẻ sử dụng bạo lực một cách ngang tàng phạm đến thành phần vô tội.

 

“Tuy nhiên, theo giáo huấn của Giáo Hội chúng tôi, chúng tôi phản đối việc áp dụng án tử hình ngay cả cho thành phần khủng bố. Giáo huấn Công Giáo về án tử hình minh định: Nếu phương tiện không đổ máu đã đủ để bênh vực mạng sống con người chống lại thành phần tấn công, cũng như đủ để bảo vệ đời sống quần chúng và sự an toàn của con người, thì công quyền cần phải sử dụng các phương tiện đó thôi, vì chúng đáp ứng hơn với những điều kiện cụ thể của công ích cũng như tương hợp hơn với phẩm giá của con người.

 

“Sau nữa, chúng tôi hết sức cảm thấy rằng những kẻ khủng bố tự sát không sợ bị án tử hình. Đúng vậy, nhiều kẻ khủng bố tin rằng nếu họ chết vì hành động khủng bố họ sẽ trở thành những vị tử đạo. Vấn đề hành quyết những tay khủng bố ít ra cũng biến họ thành các bậc anh hùng trước mắt của thành phần có cùng một chủ trương khủng bố tương tự như thế.

 

“Là những mục tử, chúng tôi tin rằng việc sử dụng án tử hình ở bất cứ trường hợp nào cũng đều làm giảm giá trị chúng ta là con người. Như chúng tôi đã đề cập đến trong văn kiện ‘Đối Đầu Với Một Thứ Văn Hóa Bạo Lực’ là ‘Chúng Ta không thể giảng dạy rằng sát hại là việc làm sai trái bằng cách thực hiện việc sát hại’”.

 

Trong khi đó, ở Âu Châu, có hai phạm nhân mang án tử nhưng được trắng án vô tội đã kêu gọi loại bỏ án tử và gọi án tử hình là những gì “tàn bạo vô nhân đạo”. Thật thế, hai phạm nhân này là Nick Yarris và Ray Kron, những người đã ở trong tù tất cả là 30 năm, đang thực hiện một cuộc du hành vòng quanh Âu Châu mang ý nghĩa “Từ Vòng Tay Tử Thần Đến Tự Do: Chứng Nhân Cho Việc Vô Tội”.

 

Tại các trung tâm ở Rôma của Cộng Đồng Sant’Egidio, hai người Mỹ này đã kể lại về trường hợp của họ cũng như về niềm tin của họ nơi Thiên Chúa, và kêu gọi Âu Châu giúp vào việc chấm dứt án tử hình. Hai chứng nhân này được cộng đồng này mời, những người đã trình bày cho báo chí Ngày Thế Giới Các Thành Phố Chống Án Tử Hình tới đây, 30/11/2004 ở 200 thành phố trên khắp thế giới.

 

Một viên chức của cộng đồng này là Mario Marioãiti cho biết việc chống lại án tử hình này do tổ chức của ông phát động “đã kiếm được 5 triệu ủng hộ viên, kể cả nhiều vị lãnh đạo tôn giáo. Việc hủy bỏ án tử hình có thể là một quà tặng cho gia đình của các nạn nhân nữa, vì họ có thể thôi hận thù và muốn trả đũa. Một thế giới không có án tử vẫn có thể hiện hữu”.

 

Lời kêu gọi của cộng đồng Sant’Egidio xẩy ra vào ngày hành quyết người tội phạm mang tên Dominique Green ở Texas.

 

Đúng như dự định, vào Ngày Thứ Ba 30/11/2004, 300 thành phố trên thế giới cùng với thành phố Rôma hợp tiếng phản đối chống lại án tử hình, bằng các loạt biến cố công khai khắp thế giới. Thật vậy, Cộng Đồng Sant’Egidio giáo dân đã phát động chiến dịch liên kết toàn cầu “Các Thành Phố Tranh Đấu Cho Sự Sống – Các Thành Phố Chống Án Tử Hình”.

 

Cộng đồng này đã xin được khoảng 5 triệu hội viên ở 150 quốc gia, làm bừng lên một cuộc đi tiên phong về liên tôn trong việc chống lại án tử hình. Vào năm 2002, cộng đồng này đã mở màn lần đầu tiên Ngày Quốc Tế Các Thành Phố Chống Án Tử Hình, đó là ngày 30/11/2002. Ngày này sở dĩ được chọn là để nhắc nhở việc hủy bỏ lần đầu tiên án tử hình tại Grand Duchy ở Tuscany ngày 30/11/1786.

 

Trong số những thành phố ủng hộ cuộc vận động chống án tử hình là Amsterdam, New York, Buenos Aires, Berlin, Hiroshima và Paris. Hí Trường ở Rôma sẽ là khởi điểm của một số trình diễn được cộng đồng này phát động.

 

Ngay trong Tuần Cửu Nhật Tòa Thánh giành riêng để cầu cho linh hồn vị cố giáo hoàng Gioan Phaolô II vừa qua đời thì chính quyền nước Guatemala, một quốc gia có 14.2 triệu và đã xử tử 36 người, ở Nam Mỹ Châu Latinh cứu xét đến vấn đề hủy bỏ án tử hình “để tôn kính” ngài. Tại sao vậy? Nếu không phải tại vì ngài là vì giáo hoàng của nền “văn hóa sự sống” (một thành ngữ do ngài sử dụng lần đầu tiên trong Thông Điệp “Phúc Âm Sự Sống ban hành ngày 25/3/1995, và đã trở thành thông dụng), mà còn vì ngài là vị đã phát động chiến dịch chống án tử trên thế giới nữa.

 

Về việc bảo vệ sự sống con người nói chung, chưa bao giờ người ta thấy Giáo Hội Công Giáo tỏ ra cương quyết và mạnh mẽ như vào thời gian tranh cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2004, liên quan đến một ứng cử viên người Công giáo là thượng nghị sĩ Kerry thuộc đảng Dân chủ mà lại công khai phò văn hóa sự chết như ủng hộ vấn đề phá thai. Ngoài ra, cũng tại Hoa Kỳ, cho dù chỉ là sự sống của một cá nhân, đó là bà Terri Schiavo, 41 tuổi, theo yêu cầu của người chồng giám hộ pháp lý của bà, đã bị tòa án (sau đó cả một hệ thống luật pháp Hoa Kỳ đã tỏ ra đồng loạt chấp nhận) án lệnh triệt sinh an tử bà, một người chỉ ở vào trạng thái nhận thức tối thiểu nhất hơn là trạng thái thực vật miên viễn, bằng cách rút ống dinh dưỡng ra, vào ngày 18/3/2005 (và bà đã quả thực qua đời ngày 1 tháng 4, tức trước 1 ngày vị giáo hoàng của văn hóa sự sống qua đời), nhưng sự sống nơi cá nhân con người nạn nhân vô tội này đã được cả giáo quyền địa phương Florida lẫn Hoa Kỳ và Tòa Thánh đã công khai lên tiếng bênh vực. 

 

Tại Liên Hiệp Quốc, vị quan sát viên thường trực của Tòa Thánh còn tỏ ra chống đối việc tạo sinh sao bản phôi bào con người dưới bất cứ hình thức nào và với mục đích nào, một cuộc tranh đấu cuối cùng đã được đáp ứng một phần nào qua quyết định của Tổng Hội Đồng LHQ hôm Thứ Ba 8/3/2005, Ngày Nữ Giới Quốc Tế, khi cơ cấu thẩm quyền này đã phê chuẩn quyết nghị (với hiệu lực không bắt buộc thi hành) kêu gọi các chính quyền hãy chuẩn nhận các khoản luật “cấm tất cả mọi hình thức tạo sinh sao bản con người vì chúng không xứng hợp với phẩm giá con người cũng như việc bảo vệ sự sống con người”, kể cả việc tạo sinh sao bản phôi bào con người để thực hiện việc nghiên cứu thân bào.

 

Thật vậy, tất cả những biến động và vận động phò sự sống và chống án tử ấy đã được bùng lên từ vị giáo hoàng Gioan Phaolô II. Vì, sau khi ban hành Cuốn Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo vào ngày 11/10/1992 bằng Tông Hiến Kho Tàng Đức Tin Fidei Depositum, ngài đã bắt đầu phát động và đẩy mạnh chiến dịch chống án tử hình này bằng Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống được ban hành ngày 25/3/1995, Lễ Mẹ Thai Lời liên quan đến sự sống. Ở chỗ, trong khi Cuốn Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, ở khoản số 2266, vẫn chấp nhận cho phép thi hành án tử trong những trường hợp vi phạm tội ác cực kỳ trầm trọng, vị giáo hoàng “vui mừng và hy vọng” Gioan Phaolô II này đã còn đi đến độ hoàn toàn chống lại việc thi hành án tử hình nữa. Đúng thế, trong Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống, một thông điệp mà, lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, một vị giáo hoàng đã chính thức long trọng lấy quyền mình công khai tuyên bố những vấn đề về luân lý (chứ không phải tín lý như các tín điều Thánh Mẫu), như việc sát nhân nói chung (khoản số 57), cách riêng việc phá thai (khoản số 62), và triệt sinh an tử (khoản số 65), là những hành động hoàn toàn vô luân rất nặng, vị giáo hoàng là người đầu tiên sử dụng thành ngữ “văn hóa sự chết” này đã đặt vấn đề hủy bỏ án tử ở khoản số 27, 55 và 56 như sau.

 

“Có những dấu hiệu cho thấy việc công chúng càng ngày càng tỏ ra chống lại án tử hình, cho dù án tử hình ấy được coi như là một thứ ‘tự vệ hợp lý’ về phía xã hội. Xã hội tân tiến thực sự có cách để chế ngự tội ác một cách hiệu nghiệm, bằng việc trừng phạt thành phần phạm tội ác một cách vô hại khi không vĩnh viễn từ khước họ cơ hội để hoán cải” (khoản số 27).

 

“Không được lấy làm lạ lùng ở đây là việc sát hại một con người phản ảnh Thiên Chúa là một tội hết sức trầm trọng. Chỉ có một mình Thiên Chúa mới làm chủ sự sống mà thôi! Tuy nhiên, từ ban đầu, đương đầu với nhiều trường hợp thường thê thảm xẩy ra trong đời sống cá nhân và xã hội, Kitô giáo đã suy nghĩ  để hiểu biết trọn vẹn hơn và sâu xa hơn về những gì bị cấm đoán hay qui định bởi lệnh truyền của Thiên Chúa (x Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo hay GLGHCG, các khoản 327-332). Thực sự là có những trường hợp các giá trị được luật Chúa nêu lên dường như có gì hoàn toàn mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn như trong trường hợp được phép tự vệ, một trường hợp mà quyền của kẻ bảo vệ mạng sống của mình và nhiệm vụ không được hại đến sự sống của người khác trên thực tế là những gì khó có thể dung hòa với nhau được. Chắc chắn một điều là giá trị nội tại của sự sống và nhiệm vụ yêu thương bản thân mình không kém người khác là những gì căn bản cho một thứ quyền tự vệ chân chính. Lệnh truyền buộc phải yêu thương tha nhân, một lệnh truyền được đề ra trong Cựu Ước và được xác nhận bởi Chúa Giêsu, tự nó là những gì bao hàm cả tình yêu thương bản thân mình như là nền tảng của việc so sánh: ‘Các người hãy yêu thương tha nhân như bản thân mình’ (Mk 12:31). Như thế, không ai có thể chối bỏ được quyền được tự vệ vì thiếu lòng quí chuộng sự sống hay bản thân. Điều này chỉ có thể thực hiện vì tình yêu thương anh hùng, một tình yêu sâu xa và biến đổi tình yêu bản thân thành một thứ tự hiến thực sự theo tinh thần các mối Phúc Đức của Phúc Âm (x Mt 5:38-40). Gương mẫu cao cả cho việc tự hiến mình là chính Chúa Giêsu.

 

“Ngoài ra, ‘việc tự vệ hợp lý có thể chẳng những là một quyền lợi mà còn là một nhiệm vụ nặng nề đối với những ai có trách nhiệm đối với mạng sống của kẻ khác nữa, đối với công ích của gia đình hay của Quốc gia” (Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, khoản số 2265). Tiếc thay, vấn đề xẩy ra là nhu cầu cần phải làm cho kẻ tấn công không còn khả năng tác hại nữa đôi khi lại đi đến chỗ làm cho họ mất cả mạng sống. Trong trường hợp ấy, hậu quả không thể tránh được qui cho kẻ tấn công có hành động gây ra hậu quả ấy, cho dù về luân lý họ có thể không phải chịu trách nhiệm vì việc thiếu sử dụng lý trí ( Cf. Saint Thomas Aquinas, Summa Theologiae, II-II, q. 64, a. 7; Saint Alphonsus De' Liguori, Theologia Moralis, l. III, tr. 4, c. 1, dub.3.)” (khoản số 55).

 

“Đó là bối cảnh cần phải đặt ra vấn đề án tử hình. Về vấn đề này đang có một khuynh hướng gia tăng, trong cả Giáo Hội lẫn ngoài xã hội dân sự, yêu cầu là cần phải áp dụng một cách rất hạn chế, thậm chí tới chỗ hoàn toàn hủy bỏ nó đi. Vấn đề này cần phải được quan niệm trong mối tương quan của một hệ thống công lý trừng phạt càng ngày càng phải hợp với phẩm giá con người hơn, tức là với dự án của Thiên Chúa đối với con người và xã hội. Mục đích chính yếu của việc trừng phạt được xã hội thực hiện là ‘để sửa lại những gì lệch lạc gây ra bởi việc vi phạm’ (GLGHCG, 2266). Công quyền cần phải sửa lại việc vi phạm đến các quyền lợi của cá nhân và xã hội, bằng việc áp đặt trên thành phần vi phạm một hình phạt xứng đáng về tội ác gây ra, như điều kiện cho kẻ vi phạm sửa sai việc hành sử tự do của mình. Nhờ đó, thành phần thẩm quyền cũng làm trọn được mục đích bênh vực trật tự chung và bảo đảm được tình trạng an toàn của dân chúng, đồng thời cũng hiến cho kẻ vi phạm một thứ phấn khích và hỗ trợ giúp họ đổi thay hành vị cử chỉ của họ mà được phục hồi (cùng nguồn vừa dẫn).

 

“Vẫn biết là để đạt được những mục đích ấy, thì bản chất và mức độ của hình phạt cần phải được cẩn thận thẩm lượng và quyết định, và không được đi đến chỗ cực đoan trong việc hành quyết phạm nhân, trừ trường hợp tuyệt đối cần thiết: nói cách khác, đó là khi không còn thể dùng cách nào khác để bênh vực xã hội được nữa. Tuy nhiên, ngày nay, với thành quả của những tiến triển liên tục nơi tổ chức về đường lối trừng phạt, những trường hợp như thế rất ư là hiếm có, nếu không muốn nói là không có.

 

“Dầu sao thì nguyên tắc được nêu lên trong Cuốn Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo mới vẫn đúng: ‘Nếu phương tiện không đổ máu là những gì đủ để bênh vực sự sống con người chống lại thành phần tấn công và bảo vệ được trật tự xã hội cùng tình trạng an toàn của dân chúng, thì công quyền phải hạn chế mình vào những phương tiện ấy, vì họ đáp ứng tốt đẹp với với những điều kiện cụ thể của công ích và hợp với phẩm vị của con người hơn” (số 2267).

 

Ngoài việc chống lại án tử hay bênh vực sự sống của cả thành phần tội nhân đáng xử tử trước pháp luật loài người như được đề cập đến trong Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống của mình trên đây, Đức Gioan Phaolô II còn lợi dụng những khi có thể để lập lại chủ trương của ngài nữa được ngài nêu lên trong Thông Điệp này. Chẳng hạn với các vị Giám Mục Hoa Kỳ thuộc các giáo tỉnh Boston và Hartford ngày 24/10/1998, ở đoạn 4 trong bài huấn từ của ngài gửi các vị dịp các vị viếng thăm ngũ niên Tòa Thánh. Hay với vị lãnh sự Cộng Hòa Phi Luật Tân là bà Lionida L. Vera ngày Thứ Hai 19/4/2004. Chưa hết, vào cuối buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần ngày 13/9/2000, ngài đã đích thân lên tiếng xin ân xá án tử cho phạm nhân Derek Rocco Barnabei ở Virginia Hoa Kỳ, với những lời lẽ như sau:

 

“Trong tinh thần xót thương là đặc tính của Năm Thánh này, một lần nữa tôi xin góp tiếng nói của mình vào tiếng nói của tất cả những ai đang xin tha mạng cho người trẻ Derek Rocco Barnabei. Tôi cũng hy vọng rằng, hơn thế nữa, chúng ta sẽ tiến tới chỗ bỏ đi đường lối tử hình, vì ngày nay Quốc Gia đã có những phương thức khác để chế ngự tội ác một cách hiệu nhiệm mà không cần phải vĩnh viễn tước mất cơ hội tự cứu lấy bản thân mình của kẻ vi phạm”.

 

Theo chiều hướng cổ võ văn hóa sự sống và chống án tử này của vị lãnh đạo tối cao Công giáo ấy, Tòa Thánh Rôma đã dứt khoát bày tỏ chủ trương tranh đấu chống án tử trên thế giới thứ tự thời gian như sau.

 

Vào ngày 2/11/1999, ĐTGM Renato R. Martino (đã được phong hồng y từ ngày 21/10/2003 với vai trò Chủ Tịch Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình), Quan Sát Viên Thường Trực của Tòa Thánh ở Liên Hiệp  Quốc, trong Khóa Họp thứ 54 của Tổng Hội Đồng LHQ về Vấn Đề 11A là “Việc Hủy Bỏ Án Tử Hình”, căn cứ vào GLGHCG khoản 2267 và Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống của ĐTC GPII khoản 56 trên đây, như sau:

 

“Hơn hai thập niên, cộng đồng quốc tế đã theo đuổi vấn đề hạn chế hay hủy bỏ án tử hình… Người ta quá rõ là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đích thân can thiệp vào nhiều trường hợp để xin thương tha chết cho nhiều phần tử. Ngài đã yêu cầu bãi bỏ đường lối tử hình, ít là vào Năm Thánh tới đây. Hôm 27/1 năm nay, tại Saint Luois, ngài đã nói:

 

“‘Một dấu hiệu hy vọng đó là việc càng ngày càng nhìn nhận rằng phẩm vị của sự sống con người không bao giờ được lấy đi, cho dù áp dụng cho trường hợp của con người đã gây ra một sự dữ cả thể. Xã hội tân tiến có cách bảo vệ mình mà không cần phải vĩnh viễn khước từ thành phần gây ra tội ác cơ hội hoán cải. Tôi xin lập lại lời kêu gọi tôi mới thực hiện vào dịp Lễ Giáng Sinh về vấn đề cùng nhau chấm dứt án tử hình là những gì tác ác và không cần thiết’...

 

“Bất cứ ai có mạng sống bị triệt tiêu trong phòng hơi ngạt, bằng việc treo cổ hay bằng việc chích thuốc cho chết hoặc bằng một đội binh bắn vào họ, đều là một người trong chúng ta, một con người, một người anh chị em, cho dù các hành động của họ có tán ác và phi nhân đến mấy đi nữa.

 

“Hoạt động tội ác đòi phải được trừng phạt một cách hiệu nghiệm. Thế nhưng, không có chứng cớ nào cho thấy một cách dứt khoát quyết liệt cho niềm tin tưởng rằng án tử hình là những gì làm giảm bớt cơ hội phạm các tội ác nặng nề cả. Việc khai thác cảm giác sợ hãi hay bất an của dân chúng không phải là những gì có thể thay thế cho chứng cớ ấy được. Tội ác sẽ được chế ngự một cách đầy ý nghĩa bằng những chính sách tổng quan về vấn đề giáo dục luân lý, về hoạt động hiệu năng của cảnh sát, cũng như bằng cách giải quyết những căn nguyên sâu xa gây ra tội ác. Hình phạt cần phải bảo đảm và cân xứng với tội ác, thế nhưng nó cũng cần phải qui hướng về việc phục hồi tội nhân trở thành một phần tử xây dựng xã hội bao nhiêu có thể.

 

“Vào lúc rạng đông của một tân thiên kỷ này thật là phúc đức nếu nhân loại càng trở nên nhân bản hơn và ít tàn ác hơn. Ở vào cuối một thế kỷ đã từng chứng kiến thấy những cuộc thảm sát không thể tượng tượng nổi phạm đến phẩm vị của con người và các quyền lợi bất khả vi phạm của họ, thì việc nghiêm chỉnh cứu xét đến vấn đề hủy bỏ án tử hình sẽ là một việc đáng kể cho nhân loại vậy”.

 

Ngày 11/2/2000, Đức ông Jean Luois Tauran của Tòa Thánh đã trình bày về “Việc bênh vực sự sống liên quan tới các chính sách và qui tắc quốc tế”, trong đó, ngài đã đề cập tới Hội Nghị Dân Số ở Cairô 1994 và Hội Nghị Nữ Giới ở Bắc Kinh 1995 đối với vấn đề sự sống, một vấn đề bao gồm nhiều khía cạnh như phá thai, tạo sinh sao bản (cloning), triệt sinh an tử (euthanasia hay mercy killing) và án tử hình (death penalty hay capital punishment). Sau đây là phần mở đầu và tiếp theo là phần riêng về vấn đề án tử hình liên quan đến diễn tiến trên thế giới về vấn đề này:

 

“Việc kiểm điểm lại vấn đề tiến bộ trong cuộc tranh luận ở lãnh vực quốc tế trên 5 năm qua là những gì cho thấy rõ ràng Bức Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống Evangelium Vitae hợp thời biết bao. Bức thông điệp này là thẩm quyền về chủ trương của Giáo Hội đối với một loạt những đe dọa hiểm nghèo cho sự sống con người, nhất là vào lúc khởi đầu và vào lúc kết thúc nó, những thứ đe dọa giờ đây mặc lấy một hình thức mới khi chúng tìm cách để được nhìn nhận là những thứ quyền lợi. Thật thế, trong những năm sau khi ban hành Bức Thông Điệp này, những lúc cốt yếu nhất của sự sống con người, cũng như việc truyền đạt sự sống, đã từng được trình bày một cách chưa từng thấy, chẳng những ở việc nghiên cứu khoa học, mà còn ở cả việc hình thành các qui chế và việc thiết lập các phương tiện pháp lý quốc tế.

 

“Như đã rõ, những chủ trương liên quan tới án tử hình theo truyền thống đã không đồng nhất, ở chỗ, trong khi có một số Quốc gia có lý coi việc hủy bỏ án tử là những gì cần thiết để thiết lập nguyên tắc cho ý hướng pháp lý tân tiến, còn những quốc gia khác lại coi nó như là một biện pháp chế ngự hữu hiệu… Ở Hội Đồng Âu Châu, văn kiện Protocol No. 6 to the European Convention on Human Rights, Concerning the Death Penalty, ngày 28/4/1984, đã tuyên bố ở khoản đầu tiên là “án tử hình bị hủy bỏ. Không ai có thể bị kết án tử hình này hay bị xứ quyết tử hình”… Ở Âu Châu, khuynh hướng này đã phát triển mạnh: đó là vào Tháng 10/1994, Hội Đồng Quốc Hội của Hội Đồng Âu Châu đã chấp thuận Khuyến Dụ kêu gọi việc hoàn toàn hủy bỏ án tử hình ở tất cả mọi quốc gia phần tử, khi đa số bác bỏ một điều tu chính giành quyền cho các Quốc gia hành sử những trường hợp bội phản và tình báo. Một khuynh hướng tương tự cũng xuất phát trong Khối Hiệp Nhất Âu Châu: đó là vào Tháng 3/1992, Quốc Hội Âu Châu đã chấp thuận quyết nghị kêu gọi hủy bỏ án tử hình ở hết mọi quốc gia trên thế giới.

 

“Vào tháng 6/1995, tức sau khi Bức Thông Điệp này được ban hành, thì Quốc Hội Âu Châu đã xin Hiệp Chủng Quốc hãy hủy bỏ việc áp dụng án tử hình. Vào tháng 5/1999, Quốc Hội ở Strasbourg lại yêu cầu vấn đề này cần phải được bao gồm trong nghị sự của Tổng Hội Đồng LHQ tới.

 

“Phản ứng ở cấp LHQ đã tỏ ra đáng chú ý. Vào tháng 5/1996, chưa đầy 1 năm sau khi bức Thông Điệp này ban hành, Khóa Họp Thứ Năm của Ủy Ban LHQ về Vấn Đề Ngăn Ngừa Tội Ác và Công Lý Tội Phạm đã bàn đến vấn đề ấy, và Bản Tường Trình của Vị Tổng Thư Ký LHQ đã giành hẳn một phần để bàn đến chủ trương của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống. Trong Nhóm Làm Việc về vấn đề (thứ ba) này, nước Áo, cùng với Đức và Ý, đã trình bày một quyết nghị bị các quốc gia Hồi giáo chống lại, những quốc gia coi nó là vấn đề của thần luật, cũng như từ các quốc gia khác như Tunisia và Nhật Bản. Vấn đề cuối cùng được dung hòa và được chấp thuận như một quyết nghị ‘ghi nhận tiến trình liên tục hướng tới việc loại bỏ trên toàn thế giới án tử hình’. Tuy nhiên, bản dự thảo của việc đình chỉ án tử hình, được trình bày cho Tổng Hội Đồng vào tháng 11/1999, đã bị hoãn lại trước sự chống đối mãnh liệt của nhiều quốc gia.

 

“Cần phải nói tới là các Tòa Án Quốc Tế xử nước Rwanda và nước Yugoslavia trước kia đã không thực hiện những điều khoản tử hình nào cả. Đặc biệt là trường hợp ở Rwanda: nơi xứ sở Phi Châu này, thành phần bị tố cáo phải chịu án tử hình nhưng không phải chịu nữa nếu họ bị Tòa Án Quốc Tế cho là có tội. Hội Nghị Ngoại Giao ở Rôma, một hội nghị đã thiết lập Tòa Án Tội Phạm Quốc Tế, đã không ra án tử trong danh sách các thứ hình phạt của mình”.

 

Ngày 21/6/2001, Tòa Thánh đã đọc Bản Tuyên Ngôn của mình cho Hội Nghị Thế Giới đầu tiên về Án Tử Hình ở Strasbourg Pháp quốc như sau:

 

“Tòa Thánh đã liên lỉ tìm cách hủy bỏ án tử hình và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đích thân kêu gọi cho bất kỳ người nào vào nhiều trường hợp để những án như thể được giảm thành một hình phạt nhẹ hơn là thứ hình phạt cống hiến cho tội nhân thời gian và cơ hội để hoán cải, cống hiến hy vọng cho thành phần vô tội và cống hiến việc an toàn cho phúc hạnh của chính xã hội dân sự cũng như của những ai không có quyền chọn lựa lại dính dáng chặt chẽ tới số phận của những kẻ bị lãnh án tử.

 

“Vị Giáo Hoàng này hết sức tha thiết hy vọng và nguyện cầu để việc đình chỉ trên toàn thế giới này có thể trở thành một trong những thiện ích về tinh thần lẫn luân lý cho Đại Năm Thánh được ngài công bố là Năm 2000, nhờ đó rạng đông của Đệ Tam Thiên Kỷ sẽ được muôn đời tưởng nhớ đến như là thời điểm then chốt trong lịch sử, khi cộng đồng chư quốc cuối cùng nhận ra rằng giờ đây họ có được một phương tiện để tự vệ mà không cần phải sử dụng những thứ hình phạt ‘tàn ác và không cần thiết’ nữa. Niềm hy vọng này vẫn mãnh liệt song chưa trọn, tuy nhiên cũng đang có dấu hiệu phấn khởi trong việc càng ngày người ta càng nhận thức hơn là ‘đã đến lúc cần phải hủy bỏ án tử hình’ rồi.

 

“Chắc chắn là càng cần hơn nữa phẩm vị bất khả tách biệt của sự sống con người là những gì phải được tôn trọng một cách phổ quát và được nhìn nhận giá trị khôn sánh của nó. Tòa Thánh đã dấn thân theo đuổi việc hủy bỏ án tử hình là một phần trọn vẹn của vấn đề bênh vực sự sống con người ở mọi giai đoạn phát triển của nó, nhờ đó để triệt hạ bất cứ chủ trương văn hóa sự chết nào.

 

“Nếu án tử là dấu hiệu của nỗi tuyệt vọng, thì xã hội dân sự được mời gọi để tỏ ra tin tưởng vào một thứ công lý cứu lấy niềm hy vọng khỏi bị hủy diệt bởi những thứ sự dữ đang săn bắt thế giới chúng ta. Việc hủy hoại toàn cầu án tử hình sẽ là một việc can đảm tái khẳng định niềm tin rằng nhân loại có thể thành công trong vấn đề đương đầu với tội ác cũng như tái khẳng định rằng chúng ta không thể nào thất vọng trước những thứ quyền lực, nhờ đó tái sinh niềm hy vọng mới nơi chính loài người của chúng ta”.

 

Vào ngày 13/4/2003, Lễ Lá, Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh của Tòa Thánh là Angelo Sodano đã đại diện Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, theo ý của ngài, để gửi đến Tổng Thống Cuba Fidel Castro một bức thư với ý tưởng chính như sau:

 

“Đức Thánh Cha rất đau lòng khi biết rằng nhiều công dân Cuba mới đây đã bị những bản án nặng nề, bao gồm cả án tử hình giành cho một số trong họ.

 

“Trước những vấn đề này, Đức Thánh Cha đã trao cho tôi việc xin Ngài hãy thực hiện một cử chỉ xót thương đầy ý nghĩa đối với thành phần bị kết án, chắc chắn việc ân xá này sẽ là những gì góp phần vào bầu khí thoải mái hơn và phúc thiện hơn cho nhân dân Cuba”

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL (trích tác phẩm "Đức Gioan Phaolô II: Sống là Chúa Kitô - Chết là Vinh Thắng")