ĐTC GIOAN PHAOLÔ II VẪN SỐNG TRONG LÒNG NGƯỜI 2006

 

 

Một Cuộc Lành Bệnh do Đức Gioan Phaolô chuyển cầu

Đức Gioan Phaolô II đã để lại cả chồng văn bản riêng tư

Tưởng Nhớ và Hướng Về Ngày Đầy Năm Băng Hà của Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Giáo Hoàng Biển Đức XVI Viếng Thăm Mục Vụ Giáo Xứ Rôma Thiên Chúa Là Cha Xót Thương và nói vềø sứ điệp cuối cùng của Đức Gioan Phaolô II liên quan tới Lòng Thương Xót Chúa

Một Tổ Chức Do Thái Kỷ Niệm Đầy Năm Đức Gioan Phaolô II Băng Hà và Phổ Biến Văn Học Tôn Vinh Ngài

Tầm vóc quan trọng của nguyên tố Thánh Mẫu trong Giáo Hội

Tưởng Niệm Đầy Năm Băng Hà của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

Hội Nghị về vị GH Triết Gia Nhân Bản Gioan Phaolô II - chủ đề “Triết Lý Ngôi Vị của Karol Wojtyla

Đức Gioan Phaolô II: Hội Nghị Học Hỏi về Tư Tưởng Triết Lý của Ngài

“Đức Gioan Phaolô II: Người Bạn Của Toàn Thể Nhân Loại”: Một Phim Hoạt Họa về Ngài

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Trong Diễn Từ Tất Niên với Giáo Triều Rôma ngày Thứ Năm 22/12/2005 -  Phần nhất (trong 5 phần) về Đức Gioan Phaolô II

 

 

Một Cuộc Lành Bệnh do Đức Gioan Phaolô chuyển cầu

 

Đức Tổng Giám Mục Gerardo Pierro giáo phận Salerno đã loan báo về một cuộc lành bệnh không thể giải thích nổi do lời chuyển cầu của Đức Gioan Phaolô II.

 

Thật vậy, tờ nhật báo Ý quốc là Avvenire xuất bản hôm Thứ Sáu 3/11 đã tường thuật là vào ngày Lễ Chư Thánh 1/11/2006, trong vương cung thánh đường ở miền nam nước Ý, vị TGM ấy đã nói rằng:

 

“Tôi cần lời nguyện cầu của anh chị em về một biến cố đã xẩy ra trong Giáo Hội của chúng ta và là một biến cố ảnh hưởng tới tiến trình phong thánh cho Đức Gioan Phaolô II”.

 

“Trong một bệnh viện thuộc thành phố của chúng ta đây dường như đã xẩy ra một việc can thiệp lạ lùng nhờ lời chuyển cầu của Đức Gioan Phaolô II. Ngài đã thân thương nhìn xuống thành phố này, vì một trong những người con trai của thành phố ấy đã được chữa lành sau khi người vợ của anh ta trông thấy vị Giáo Hoàng này trong những lần bà chiêm bao, vị chị đã nguyện cầu”.

 

Việc chữa lành này đã xẩy ra một năm trước đây cho một người nam trẻ bị bệnh ung thư. Các bác sĩ đã đàng bó tay không chữa trị được nữa, vì cái bướu ung thư bấy giờ nhanh chóng lan ra.

 

Vị tổng giám mục địa phương cho biết rằng các thứ nghiên cứu cần thiết về khoa học đã được thực hiện đều chứng tỏ là y học không thể nào giải thích nổi biến cố lạ lùng ấy. Cuối cùng, “sau một năm rưỡi, vấn đề đã được xác nhận là không thể nào giải thích nổi”.

 

Nhận định của thoidiemmaria: Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II qua đời ngày 2/4/2005, cách đây cũng mới được hơn 1 năm rưỡi chút xíu. Như thế là ngài đã hiển linh ngay sau khi vừa nằm xuống vậy. Biến cố chữa lành này có thể đã xẩy ra vào thời điểm sau khi tiến trình phong thánh của ngài được vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI châm chước là 13/5/2005, và được chính thức bắt đầu thực hiện ở Giáo Phận Rôma vào ngày áp lễ Thánh Phêrô Phaolô 28/6/2005 ở Đền Thờ Gioan Latêranô là vương cung thánh đường chính của Giáo Phận Rôma.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 5/11/2006 

 

TOP

Đức Gioan Phaolô II đã để lại cả chồng văn bản riêng tư

Người thư ký lâu đời của Đức Gioan Phaolô II là tân hồng y Stanislaw Dziwisz cho biết rằng Đức Gioan Phaolô II là “một con người hoạt động đồng thời cũng là một con người viết lách nữa. Ngài viết nhiều”.

Người thư ký này, sau khi Đức Gioan Phaolô II qua đời, Vị đã viết trong di chúc rằng tất cả những gì ngài viết cần phải được đốt đi, đã mang theo mình rất nhiều những văn bản tư của Đức Gioan Phaolô II, khi được Đức Tân Giáo Hoàng bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục ở Krakow Balan.

 

Hôm 30/5/2006, mạng điện toán toàn cầu www.korazym.org cho biết vị hồng y 67 tuổi này đã bày tỏ trong một cuộc họp ở tư dinh tổng giám mục ngay sau cuộc tông du của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI ở Balan chấm dứt, như thế này: “Không có gì cần phải đốt đi hết”, cũng là lời ngài đã nói sau khi Đức Gioan Phaolô II qua đời được mấy hôm.

 

Bởi vì, theo vị thư ký của đức cố giáo hoàng này thì Đức Gioan Phaolô II “là một con người vui vẻ, luôn tỏ ra thân tình, nhưng cũng nghiêm chỉnh. Ngài không viết những gì có ý định để đốt đi cả: làm như thế thì thật sự là không thể nào hiểu nổi”.

 

Có những tập văn kiện đã được xem xét liên quan tới án phong chân phước của Đức Gioan Phaolô II. Trong tương lai chúng sẽ được trao cho một nhóm chuyên viên, và được thu thập vào một Trung Tâm Gioan Phaolô II mới ở Krakow.

 

Theo vị hồng y này thì trung tâm ấy “sẽ không phải chỉ là một bảo tàng viện. Dĩ nhiên là nó có cả những sự việc đáng nhớ của Vị Giáo Hoàng này nữa, thế nhưng trên hết chúng ta muốn phổ biến những gì ngài đã làm, từ việc bênh vực các quyền lợi của con người đến việc bảo vệ sự sống, từ việc dấn thân cho hòa bình đến việc đối thoại liên tôn. Vấn đề quan trọng ở đây là đừng quên di sản của ngài và tránh đừng gò bó nó vào những bảo tàng viện và các thư viện”.

 

Có một số văn kiện tư riêng của ngài quả là đáng chú ý, chẳng hạn như bức thư ngài viết cho Mehmet Ali Agca sau khi ngài bị anh ta ám sát chết hụt. Vị hồng y nói rằng bức thư ấy chưa được gửi đi. Nó là “một bản văn tuyệt vời, và trong tương lai nó có thể giúp vào hiểu hiểu hơn về cách thức vị Giáo Hoàng này nhận định về những gì đã xẩy ra. Có một câu đặc biệt làm tôi nhớ mãi đó là câu Đức Gioan Phaolô viết: ‘Người an hem của tôi ơi, làm sao chúng ta có thể ra trước tòa Chúa nếu chúng ta không thứ tha lỗi lầm cho nhau chứ?’”

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 30/5/2006

 

TOP

 

Tưởng Nhớ và Hướng Về Ngày Đầy Năm Băng Hà của Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Năm ngoái, khi vị Giáo Hoàng có giáo triều dài thứ 3 trong lịch sử Giáo Hội và là vị Giáo Hoàng không phải người Ý sau 455 năm, qua đời hôm Thứ Bảy 2/4/2005, trong vòng một tuần lễ (kể cả Lễ An Táng vào Thứ Sáu 8/4) có cả trên 3 triệu người kéo tới Vatican để tôn kính ngưỡng mộ vị Giáo Hoàng đến từ một xứ sở xa xôi là Balan và là vị Giáo Hoàng mang vui miừng và hy vọng cho khắp thế giới qua 104 chuyến tông du mục vụ của mình.

Muốn tổ chức một biến cố quốc tế với số lượng người đông đảo quá sức tượng tượng như thế cần phải sửa soạn cả năm trời. Chẳng hạn như Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX ở Cologne Đức Quốc đã phải sửa soạn cả 8 năm trời, từ năm 1997. Thế mà Lễ An Táng Đức Gioan Phaolô II đã diễn ra trong vòng 1 tuần lễ một cách hết sức tốt đẹp, không hề xẩy ra một sơ xuất hay tai nạn nào cả (trong khi nạn khủng bố đang gia tăng dữ dội khắp nơi trên thế giới). Nguyên sự kiện này cũng là một ‘phép lạ’, vì xẩy ra ngoài sức tưởng tượng và khả năng phàm trần.

Thế rồi, từ đó, từ khi vị Giáo Hoàng triết gia nhân bản của nền ‘văn hóa sự sống’ chống văn hóa sự chết này lên đến tuyệt đỉnh vinh quang ở Thánh Lễ An Táng của mình, người ta càng ngày càng kéo về Thủ Đô của Giáo Hội Công Giáo đông hơn bao giờ hết. Nguyên 8 tháng đầu của giáo triều tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI, đã có gần 2.8 triệu người tham dự các biến cố chung ở thủ đô Công Giáo này, như các buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần, các buổi Nguyện Kinh Truyền Tin Chúa Nhật hằng tuần, các cuộc cử hành Phụng Vụ và những cuộc triều kiến đặc biệt. Đó là chưa kể tới sự kiện là dân chúng ghé thăm bảo tàng viện ở Vatican vào năm 2005 đông đến phá kỷ lục, với 3.8 triệu người, hơn cả trong Đại Năm Thánh 2000, và hơn cả năm 2004 chỉ có 3.4 triệu.

Hôm Thứ Tư 29/3/2006, sau khi tham dự buổi triều kiến chung hằng tuần với 40 ngàn người ở Quảng Trường Thánh Phêrô, các lực sĩ Balan, bao gồm cả quân nhân và thành phần tật nguyền, đã đốt một ngọn đuốc từ ngọn lửa của cây nến gần ham mộ của Đức Gioan Phaolô II, để mang về quê hương Balan của vị giáo hoàng này, nhân dịp đầy năm băng hà của ngài.

Ngọn đuốc được gọi là ‘ngọn đuốc của Lokek’ (biệt hiệu của vị Giáo Hoàng này ở Balan hay được bạn bè và họ hàng xưng hô) sẽ được mang đến các thành phố gần gũi thân thương với vị giáo hoàng này, chăúg hạn thành Assisi, hai đền thánh mẫu Loreto và Czestochowa, và nơi sinh quán của ngài là Wadowice, cuối cùng sẽ tới Krakow vào đúng ngày 2/4, nơi nó sẽ được trao cho ĐTGM TGP này là tân hồng y Stanislaw Dziwisz, nguyên thư ký riêng 40 năm của vị giáo hoàng đồng hương của ngài. Tại Vương Cung Thánh Đường của TGP này, từ khi cây đuốc được trao cho ĐTGM bản quyền ấy, buổi cầu nguyện canh thức được bắt đầu cho tới 9 giờ 37 phút tối là giờ chết của vị Giáo Hoàng.

Thành phần đại diện cầm đuốc đến các địa điểm trước khi về tới mục tiêu của nó sẽ phải qua một đoạn đường dài 505 cây số (hay 313 dặm): 225 cây số ở Ý và 280 cây số ở Balan. Phần còn lại sẽ được đi bằng máy bay hay xe hơi. Tại mỗi nơi, các chứng từ và chia sẻ về Đức Gioan Phaolô II sẽ được ghi nhận trong một cuốn Sách Vàng.

Năm ngoái, chính vào giây phút vị giáo hoàng Balan này qua đời, có khoảng 60 ngàn người đang tụ tập ở Quảng Trường Thánh Phêrô để cầu nguyện cho vị giáo hoàng hấp hối. Sau khi chính thức nghe ĐTGM Leonardo Sandri, xử lý thường vụ Văn Phòng Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, tuyên bố “Đức Thánh Cha của chúng ta đã về Nhà Cha”, đám đông xúc động cất tiếng hàt bài Kinh Lạy Nữ Vương Salve Regina và sau đó là một tràng vỗ tay dài.

Vào tối ngày Chúa Nhật 2/4/2006, bắt đầu từ 8 giờ 30, sẽ có một tối canh thức cầu Kinh Mân Côi, được phụ họa bằng những bài haut về Mẹ và những đoạn văn của vị cố giáo hoàng, nhất là các đoạn trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria. Vào lúc 9 giờ, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ xuất hiện ở cửa sổ tông phòng ngài và cuộc cầu kinh Mân Côi bắt đầu. Vào lúc 9 giờ 37 phút là giờ chết của ngài, ĐTC Biển Đức XVI sẽ ngỏ lời cùng thành phần tham dự và kết thúc bằng phép lành tòa thánh.

Thứ Hai, 3/4/2006, chính vị Giáo Hoàng đương kim sẽ cử hành Thánh Lễ giỗ đầy năm vào lúc 5 giờ 30 chiều cho vị Tiền Nhiệm rất thân thương khả kính của mình ở Quảng Trường Thánh Phêrô, thay cho hôm trước là Ngày Chúa Nhật không được át lễ.

Hôm Thứ Hai 27/3/2006, đức tân hồng y Stanislaw Sziwisz 66 tuổi, vị thư ký lâu đời của đức cố giáo hoàng, đã cử hành một trong những thánh lễ đầu tiên sau khi làm hồng y của mình tại ham mộ của vị giáo hoàng đồng hương của mình. Trong Thánh Lễ đồng tế với một số hồng y, tổng giám mục và linh mục, qua bài giảng ngắn, vị tân hồng y thân thương với vị cố giáo hoàng đã nói rằng đức cố giáo hoàng “vẫn tiếp tục phục vụ Giáo Hội”:

“Việc ‘tôn phong’ cho Chúa Giêsu Nazarét, cho Con Thiên Chúa, đang diễn tiến. Một trong những vị đại chứng nhân của việc ‘tôn phong’ Chúa Giêsu Nazarét này là Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II. Một năm trước đây chúng ta chúng ta đã an táng thi thể của ngài trong lòng đất, cách đây chỉ có mấy bước thôi. Thế nhưng, chúng ta đã biết rõ là ngài vẫn đang tiếp tục hướng dẫn chúng ta bằng lời nói của ngài, ngài vẫn tiếp tục phục vụ Giáo Hội và không ngừng củng cố đức tin của chúng ta”.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



TOP

 

Giáo Hoàng Biển Đức XVI Viếng Thăm Mục Vụ Giáo Xứ Rôma Thiên Chúa Là Cha Xót Thương và nói vềø sứ điệp cuối cùng của Đức Gioan Phaolô II liên quan tới Lòng Thương Xót Chúa

Chúa Nhật 26/3/2006, trong cuộc viếng thăm mục vụ Chúa Nhật hằng tuần ở một giáo xứ Rôma, lần này là giáo xứ Thiên Chúa Là Cha Nhân Hậu, toạ lạc ở phía đông Rôma, và được kiến trúc bởi một kiến trúc sư Hoa Kỳ là Richard Meier để cử hành Năm Thánh 2000.

Ngôi nhà thờ kiểu tân thời này được khai trương năm 2003 được nhiều sinh viên học về ngành kiến trúc tới thăm. Ngôi thánh đường này được Đức Gioan Phaolô II hình dung ra để cô đọng “một cách hiệu nghiệm ý nghĩa của biến cố thiêng liêng ngoại biệt này”, là Đại Năm Thánh 2000.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nói rằng khi suy niệm về tình thương của Chúa, “Đấng đã tỏ mình ra hoàn toàn và tận tuyệt nơi mầu nhiệm Thập Giá, lời lẽ gợi nhớ rằng Đức Gioan Phaolô II đã sửa soạn cho cuộc gặp gỡ năm vừa rồi với tín hữu vào Chúa Nhật, ngày ¾”.

Bản văn của Đức Gioan Phaolô II đã được đọc lên cho 130 ngàn người tham dự Thánh Lễ cầu hồn cho ngài ở Quảng Trường Thánh Phêrô, do Đức Tổng Giám Mục Leonardo Sandri, phụ tá Văn Phòng Quốc Vụ Khanh Vatican, chủ tế.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nhắc lại là những lời ấy đã được viết trong sứ điệp “như lời di chúc” là: “Chúa Kitô phục sinh đã cống hiến cho nhân loại, một nhân loại có những lúc dường như bị lạc mất và bị thống trị bởi quyền lực của sự dữ, của thần tôi và của sợ hãi, tặng ân tình yêu thương của Người, một tình yêu thương tha thứ, hòa giải và tái cởi mở tinh thần hy vọng. Nó là tình yêu hoán cải tâm can và ban phát an bình. Thế giới này cần phải hiểu biết và chấp nhận Tình Thương Thần Linh biết bao!”

Vị Giáo Hoàng đương kim khuyên nhủ thành phần chen chúc nhau tham dự Thánh Lễ trong ngôi thánh đường tân thời của giáo xứ họ như sau:

“Hiểu biết và chấp nhận tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa: Chớ gì điều ấy là quyết tâm trên hết của anh chị em trong gia đình và sau đó tới toàn thể phạm vi cận nhân”.

Chúa Nhật 2/4/2006, đúng 1 năm sau ngày chết của mình, ĐTC GPII sẽ được ĐHY Camillo Ruini, tổng đại diện Giáo Hoàng ở giáo phận Rôma, nơi mở án phong chân phước cho ngài, chủ sự buổi lần hạt Mân Côi ở Quảng Trường Thánh Phêrô vào lúc 9 giờ tốị Sau đó, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ chào khách hành hương tham dự tại cửa sổ tông phòng của ngài.

Thứ Hai 3/4/2006, vào lúc 5 giờ 30 chiều, cũng tại Quảng Trường Thánh Phêrô, chính ĐTC Biển Đức XVI sẽ dâng Thánh Lễ nhân ngày giỗ đầy năm của ngài.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 27/3/2006 và VIS ngày 28/3/2006

 

TOP

 

Một Tổ Chức Do Thái Kỷ Niệm Đầy Năm Đức Gioan Phaolô II Băng Hà và Phổ Biến Văn Học Tôn Vinh Ngài

Hiệp Hội Chống Phỉ Báng của Do Thái đã phổ biến một tập sách mới tập trung vào cuộc viếng thăm lịch sử của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ở Do Thái và Trung Đông năm 2000.

Tập sách này được phổ biến để kỷ niệm đầy năm biến cố băng hà của vị Giáo Hoàng người Balan này cũng như để tôn vinh mối liên hệ đặc thù của ngài với nhân dân Do Thái và Do Thái Giáo. Hiệp hội này viết trong một bản văn rằng:

“Giáo Hoàng Gioan Phaolô II – Cuộc Viếng Thăm Jordan, Do Thái và Thẩm Quyền Palestine: Một Cuộc Hành Hương Nguyện Cầu, Hy Vọng và Hòa Giải” là tập sách bao gồm những đoạn văn được chọn lọc từ các bài diễn văn và trình bày của ngài trong cuộc viếng thăm Trung Đông ấy, do Tôn Sư Leon Klenicki, vị giám đốc hưu trí đặc trách các liên tín vụ của Hiệp Hội này, tuyển hợp và dẫn giải.

Vị giám đốc toàn quốc của Hiệp Hội này là Abraham Foxman, người viết lời giới thiệu cho tập sách ấy, đã nói rằng:

“Việc giao tiếp của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II với cộng đồng Do Thái sẽ mãi mãi là một phần quan trọng nơi cái di sản phi thường của ngài.

“Là một giới trẻ ở Balan, ngài đã liên hệ với những người Do Thái là bạn bè và hàng xóm láng giềng của ngài. Là Giáo Hoàng, qua lời nói và việc làm, ngài đã lên án nạn bài Do Thái như là một thứ tội lỗi, đã viếng thăm hội đường ở Rôma, một cuộc viếng thăm đầu tiên chưa từng có đối với một vị giáo hoàng, cầu nguyện tại trại Auschwitz cho những người Do Thái đã chết ở đó trong tay đảng Nazi, và đã thiết lập liên hệ với Quốc Gia Do Thái”.

Tôn Sư Klenicki, một chuyên gia về và là tham dự viên trong mối liên hệ Công Giáo Và Do Thái qua nhiều thập niên, đã nói rằng:

“Không giống như bất cứ một vị Giáo Hoàng nào trong lịch sử, Đức Gioan Phaolô II sẽ mãi mãi được nhìn nhận là Vị Lữ Hành Hòa Bình và là Vị Tông Đồ Hòa Giải.

“Việc ngài nguyện cầu ở địa điểm linh thánh nhất của Do Thái Giáo là Bức Tường Phía Tây, việc ngài viếng thăm Yad Vashem để tôn kính những người Do Thái đã chết trong cuộc Tế Thần, những cuộc ngài gặp gỡ những vị Tôn Sư Trưởng của Do Thái, các viên chức Do Thái và nhân dân Do Thái, là những giây phút lịch sử trong cuộc hành trình của ngài vậy”.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 27/3/2006  

 

TOP

 

 

Tầm vóc quan trọng của nguyên tố Thánh Mẫu trong Giáo Hội

 

(ĐTC Biển Đức XVI: Bài Giảng Thánh Lễ Đồng Tế Với Tân 15 Hồng Y Thứ Bảy ngày 25/3/2006)

 

Chư huynh thân mến, thật là một ân huệ cao cả biết bao khi thực hiện việc cử hành ý nghĩa này vào Lễ Trọng Truyền Tin đây! Chúng ta có thể nhận được dồi dào ánh sáng biết bao từ mầu nhiệm này cho đời sống chúng ta làm thừa tác viên của Giáo Hội đây! Nhất là các vị tân hồng y thân mến, chư huynh có thể lãnh nhận nhiều bổ dưỡng là chừng nào cho sứ vụ làm ‘Nghị Viên’ cao cả của Vị Thừa Kế Thánh Phêrô! Cơ hội thích đáng này giúp chúng ta coi biến cố hôm nay đây, một biến cố nhấn mạnh đến nguyên tố Phêrô của Giáo Hội, theo chiều hướng của một nguyên tố khác, đó là nguyên tố Thánh Mẫu, một nguyên tố thậm chí còn quan trọng hơn nữa. Tầm vóc quan trọng của nguyên tố Thánh Mẫu trong Giáo Hội, sau công đồng chung Vaticanô II, được đề cao một cách đặc biệt bởi Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tiền nhiệm yêu dấu của tôi, hợp với khẩu hiệu của ngài ‘Totus tuus’.

 

Trong linh đạo của ngài, cũng như trong thừa tác vụ liên lỉ của ngài, sự hiện diện của Mẹ Maria như là Người Mẹ và là Nữ Vương của Giáo Hội đã trở thành hiển nhiên trước mắt mọi người. Nhất là ngài đã quảng bá sự hiện diện từ mẫu của Mẹ nơi vụ ám sát ngày 13/5/1981 ở Quảng Trường Thánh Phêrô. Để tưởng nhớ biến cố bi thương này, ngài đã đặt một bức ảnh Đức Trinh Nữ bằng vi thạch ghép trên cao Tông Dinh Giáo Hoàng, nhìn xuống Quảng Trường Thánh Phêrô, để hỗ trợ những giây phút chính yếu và diễn tiến hằng ngày cho giáo triều dài lâu của ngài. Đúng một năm từ khi giáo triều của ngài đi vào giai đoạn cuối cùng, giai đoạn vượt qua đầy khổ đau nhưng thực sự là vinh thắng. Tấm hình Truyền Tin, hơn bất cứ tấm hình nào khác, giúp chúng ta thấy rõ lý do tại sao hết mọi sự trong Giáo Hội trở về với mầu nhiệm Mẹ Maria chấp nhận Lời thần linh, nhờ đó, qua tác động của Thánh Linh, giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại mới được hoàn toàn niêm ấn.

 

 

 

TOP

 

Tưởng Niệm Đầy Năm Băng Hà của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

Đức Gioan Phaolô II qua đời năm ngoái vào đêm Thứ Bảy ngày 2/4/2005, áp Chúa Nhật Lễ Chúa Tình Thương. Nhân dịp đầy năm băng hà của vị Đại Giáo Hoàng này, theo v ăn th ư c ủa Đức Hồng Y Camilo Ruini, đại diện Đức Giáo Hoàng ở Giáo Phận Rôma gửi cho các vị linh mục, cho tu sĩ nam nữ và giáo dân trong giáo phận của mình, tại Vatican sẽ có các diễn biến tưởng niệm sau đây.

Chiều Tối Thứ B ảy ¼ có Giờ Kinh Phụng Vụ; Sáng Chúa Nhật 2/4 có Thánh Lễ tại Quảng Trường Thánh Phêrô vào khoảng hơn 9 giờ 30; cả hai đều có sự hiện diện của chính Đức Thánh Cha. Trước Thánh Lễ có cuộc lần hạt Mân Côi vào lúc 9 giờ tối. Buổi cầu Kinh Mân Côi từ 9 giờ tối kéo dài khoảng tới giờ ngài qua đời thì tới Thánh Lễ. Sở dĩ tổ chức vào buổi tối Chúa Nhật đúng ngày kỷ niệm đầy năm băng hà của vị Giáo Hoàng này là vì ngài chết vào lúc 9 giờ 37 phút năm trước, “để sống lại bầu khí thiết tha nguyện cầu khi đưa Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến cuộc gặp gỡ cuối cùng với Chúa”. Sau Thánh Lễ ĐTC sẽ chào những ai hiện diện tham dự ở cửa sổ tông phòng của ngài.

Vào ngày Thứ Hai ¾, tại Đền Thờ Thánh Phêrô, chính Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ dâng lễ cầu hồn cho vị tiền nhiệm của mình.

Trong Thư gửi cho giáo phận Rôma, vị hồng y đại diện cho biết việc tổ chức này là để tạ ơn Chúa về “tặng ân ngài biểu hiệu cho Giáo Hội và nhân loại” và là những gì bày tỏ “những niềm tri ân cảm tạ thiết tha và sâu xa đối với vị Giáo Hoàng thân yêu của chúng ta”

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo Zenit ngày 26/2/2006   

TOP

 

Hội Nghị về vị Giáo Hoàng Triết Gia Nhân Bản Gioan Phaolô II - chủ đề “Triết Lý Ngôi Vị của Karol Wojtyla

 

Một hội nghị 3 ngày được tổ chức ở thủ đô Maní nước Tây Ban Nha để suy nghĩ về những căn gốc của tư tưởng triết gia Karol Wojtyla với mục đích nhận định các nguồn triết lý ngôi vị của ngài.

 

Hội nghị với chủ đề “Triết Lý Ngôi Vị của Karol Wojtyla” là sáng kiến của Hiệp Hội Tây Ban Nha về Thuyết Ngôi Vị để học hỏi tư tưởng của một con người đã trở thành Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hội nghị này được điều hành bởi Phân Khoa Triết Học Đại Học Complutense Maní

 

Khai mở cho hội nghị này hôm Thứ Năm 16/2/2006 vừa rồi, một trong những phần tử chính giữ vai trò Chủ Tịch Wojtyla của Đại Học Lateran ở Rôma là Joroslaw Merecki đã nhận định là “cảm nghiệm, nguồn đầu tiên của triết lý về con người, và việc gặp gỡ hiện tượng học, cả hai là các nguồn triết lý của Karol Wojtyla”.

 

Vị này, một con người có liên hệ chặt chẽ với những môn sinh và bạn hữu của Wojtyla, đã nhấn mạnh rằng nguồn mạch chính yếu của tư tưởng gia Balan này “không phải là tư tưởng của triết gia này hay triết gia kia mà là kinh nghiệm riêng của con người”. Bởi thế mà, “khoa nhân loại học của Karol Wojtyla là một khoa nhân loại học hoàn toàn theo cảm nghiệm”.

 

Theo chiều hướng của triết gia Wojtyla, vị khai mở này đã cắt nghĩa làm thế nào “cảm nghiệm về bất cứ vật gì ở ngoài con người bao giờ cũng liên hệ tới cảm nghiệm về chính bản thân con người”, vì “con người không cảm nghiệm bất cứ điều gì ngoại tại mà không cảm nghiệm chính mình một cách nào đó”.

 

“Theo triết lý tân thời thì sự kiện này thường dẫn đến chỗ chối bỏ tính cách biệt lập của thực tại bên ngoài, tức là chối bỏ chủ nghĩa duy tâm triết học. Nếu Wojtyla không bị rơi vào cái bẫy của chủ nghĩa duy tâm chính là vì ngài bám sát lấy cảm nghiệm là những gì cho thấy phạm vi hữu thể bao giờ cũng ưu tiên hơn phạm vi lương tri”.

 

Thế rồi bài mở đầu nói đến nguồn gốc thứ hai nơi tư tưởng của triết gia Wojtyla là hiện tượng học là khoa chủ trương “tất cả những gì được tỏ hiện theo thể lý đều là đối tượng của cảm nghiệm. Bởi thế mà chẳng những có cảm nghiệm về giác quan mà còn cả cảm nghiệm về thẩm mỹ, về luân lý và về đạo giáo nữa”.

 

Vị mở đầu hội nghị nhận định là trong lãnh vực ấy thì triết gia Wojtyla đã diễn giải một dự phóng tích cực về đạo lý, mở đầu bằng việc tranh biện với triết gia hiện tượng học Max Scheler, một người có nhận định “không toàn toàn tiêu cực”.

 

“Wojtyla hoàn toàn đồng ý với luận đề căn bản của Scheler là những gì đạo đức học cần phải xuất phát từ cảm nghiệm. Cái yếu kém chính yếu của Scheler là ở chỗ sử dụng tất cả mọi cách thức về phương pháp của hiện tượng học khi phân tích cảm nghiệm về luân lý”.

 

Theo chiều hướng siêu hình học về con  người thì, “đối với Wojtyla, vấn đề về con người là những gì trở thành khởi điểm trong việc tái phục hồi khoa siêu hình học cổ điển là khoa được thực sự thấy từ con người, tức là tiếp tục lại chủ trương của khoa triết lý tân thời và tái hội nhập nó vào khuôn khổ của khoa siêu hình cổ điển. Đối với Wojtyla, chỉ có một cách thích hợp duy nhất để giải quyết vấn đề về con người đó là chú trọng tới vấn đề căn bản về hữu thể là vấn đề được dẫn giải tối hậu nơi tính chất hoàn toàn về Hữu Thể”. 

 

Còn vị chủ tịch kiêm sáng lập viên Hiệp Hội Tây Ban Nha về Thuyết Ngôi Vị là Juan Manuel Burgos đã trình bày nhận định của mình trước hội nghị này về Wojtyla là “một tư tưởng gia về thuyết ngôi vị theo bản thể học về mối quan hệ giữa trường phái Toma và hiện tượng học”.

 

Hệ thống triết gia Wojtyla sử dụng đó là “một thuyết ngôi vị xuất phát từ và được hội nhập thành một thứ hiện tượng học duy thực. Tất cả tư tưởng của ngài – và đặc biệt là những gì ngài cống hiến trong tác phẩm ‘Con Người và Hành Động’, tác phẩm chính của ngài, đều xoay quanh về con người. Đối với một thứ triết lý muốn được coi là ngôi vị thuyết thì nó cần phải cấu trúc một cách đại đồng quanh ý niệm về con người, hay, nói cách khác, con người cần phải là ý niệm thiết yếu nơi toàn thể cấu trúc về nhân loại học của nó”.

 

Vị chủ tịch sáng lập viên này khai triển tiếp vấn đề: “Đặc tính mới mẻ này của ngài được thấy nơi những luận điểm sau đây: sự phân biệt bất khả thắng vượt giữa con người và sự vật, và nhu cầu cần phải phân tích con người theo những quan niệm đặc biệt riêng của họ; tầm quan trọng cốt yếu của cảm xúc và của mối liên hệ liên cá thể; tính cách chủ yếu hoàn toàn của các thứ giá trị về luân lý và tôn giáo; tầm quan trọng của bản chất về thể lý và của việc đối xử đối với con người là nam hay nữ; thuyết ngôi vị hiệp thông; quan niệm về triết lý như phương tiện giao tiếp với thực tại chứ không phải là một quan niệm hoàn toàn tiêu cực về tính cách tân tiến của triết lý”.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 19/2/2006

 

 TOP

 

 

Đức Gioan Phaolô II: Hội Nghị Học Hỏi về Tư Tưởng Triết Lý của Ngài

 

Một hội nghị quốc tế được tổ chức để mong lấp đầy khoảng trống về tâm thức nơi việc nghiên cứu về tư tưởng triết lý của triết gia nhân bản người Balan Wojtyla. Sáng kiến này bắt nguồn từ Hiệp Hội Tây Ban Nha Về Chủ Nghĩa Ngôi Vị, và sẽ được tổ chức tại Phân Khoa Triết Học Đại Học Complytense ở Thủ Đô Ma-Ní Nước Tây Ban Nha vào thời khoảng 16-18/2/2006.

 

Vị chủ tịch kiêm sáng lập viên của hiệp hội trên đây là Juan Manuel Burgos cho biết lý do tổ chức hội nghị quốc tế này như sau:

 

“Đức Gioan Phaolô II là một nhân vật quan trọng của thế kỷ 20 và chúng ta khó khăn lắm mới bắt đầu nhận định nổi tầm quan trọng của ngài nơi nhiều lãnh vực. Bất chấp sự kiện là công cuộc của ngài bị đứt đoạn bởi việc ngài được chọn bầu làm Giáo Hoàng, ngài vẫn có giờ để đặt nền móng cho một dự án thiết tha và kiên trì trong việc hòa trộn triết lý về hữu thể – của Aristote và Thánh Tôma – theo quan niệm về con người với triết lý về lương tâm – một triết lý tân tiến”.

 

Hội nghị này sẽ tập trung vào 4 lãnh vực theo chiều hướng tư tưởng mới mẻ nhất của triết gia kiêm giáo sư triết lý Wojtyla, đó là nhân loại học, đạo đức học, liên hệ nam nữ và gia đình.

 

Trong số những diễn giả có Cha Krzysztof Guzowski, giáo sư về ngôi vị thuyết Kitô Giáo ở Đại Học Lublin, và Cha Jaroslaw Merecki, giáo sư ở Học Viện Gioan Phaolô II thuộc Đại Học Lateran.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
17/1/2006

 

 

 TOP

 

 

“Đức Gioan Phaolô II: Người Bạn Của Toàn Thể Nhân Loại”: Một Phim Hoạt Họa về Ngài

 

Đúng là một vị Giáo Hoàng đã đi vào lòng người. Thật thế, sau khi qua đời, ngài vẫn còn được trình chiếu trong hai cuốn phim, cuốn thứ nhất là “Karol, Một Con Người đã Trở Thành Giáo Hoàng”, được trình chiếu tại Vatican với sự hiện diện của tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI ngày 19/5/2005, dịp kỷ niệm sinh nhật 85 tuổi của ngài, và cuốn thứ hai là “Giáo Hoàng Gioan Phaolô II”, cũng được trình chiếu ở Vatican, cũng có Giáo Hoàng Biển Đức XVI coi, vào ngày 17/11/2005.

 

Nay, vào dịp kỷ niệm đầy năm qua đời của ngài, cuốn phim thứ ba, một cuốn phim hoạt họa dài 30 phút mang tựa đề “Đức Gioan Phaolô II: Người Bạn Của Toàn Thể Nhân Loại”. Cuốn phim này được thực hiện bởi Cavin Cooper Productions ở Barcelona Tây Ban Nha và sẽ trình chiếu vào đúng ngày kỷ niệm một năm ngài băng hà 2/4/2006.

 

Cuốn phim này diễn tả khía cạnh nhân bản của Đức Karol Wojtyla, từ khi ngài còn nhỏ cho tới khi trở thành Giáo Hoàng. Cuốn phim được tung ra bằng 7 thứ tiếng vốn được cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô sử dụng là Anh, Ý, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ba Lan.

 

Cuốn phim này được thực hiện nhờ Trung Tâm Truyền Hình Vatican là nơi đồng ý cung cấp nguồn tài liệu về vị cố giáo hoàng này cho nhà sản xuất.

 

José Luis López Guardia, biệt hiệu là Cavin Cooper, nhà sản xuất, người đã hợp tác với Disney từ năm 1977, đã nói với mạng điện toán toàn cầu Zenit rằng cuốn phim này “tiêu biểu cho đặc sủng về nhân bản của nhân cách Đức Gioan Phaolô II”, một nhân cách lôi cuốn chú ý “của con người thuộc hết mọi niềm tin khác nhau.

 

“Việc hỗ trợ của hai kỹ thuật được sử dụng là hoạt họa với văn kiện là những gì làm cho việc sản phẩm này chuyên biệt đặc thù. Không phải là chúng tôi nói về Đức Gioan Phaolô II. Chúng tôi để cho các việc làm của ngài, những lời nói và tư tưởng của ngài nói về ngài”.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dựa theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 17/1/2006



TOP

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Trong Diễn Từ Tất Niên với Giáo Triều Rôma ngày Thứ Năm 22/12/2005 -  Phần nhất (trong 5 phần) về Đức Gioan Phaolô II

 

Quí Đức Hồng Y

Chư Huynh Khả Kính trong Hàng Giáo Phẩm và Giáo Sĩ

Anh Chị Em thân mến,

 

.....

 

Tâm hồn chúng ta ngập tràn niềm vui xuất phát từ việc nhận thức này, chúng ta hãy nghĩ lại những biến cố trong năm đang tới lúc kết thúc đây. Chúng ta thấy quá khứ của chúng ta những biến cố lớn lao là những gì đã lưu lại dấu vết sâu đậm nơi đời sống của Giáo Hội. Trước hết và trên hết, tôi đang nghĩ tới việc ra đi của Đức Thánh Cha yêu dấu của chúng ta là Gioan Phaolô II, một cuộc ra đi được mở màn bằng một giai đoạn dài đớn đau rồi dần dần mất tiếng nói. Không có một vị Giáo Hoàng nào như ngài đã để lại cho chúng ta một số lượng văn bản như ngài đã lưu lại cho chúng ta; không có một vị Giáo Hoàng nào như ngài đã có thể viếng thăm toàn thế giới và trực tiếp nói với dân chúng ở tất cả mọi châu lục.

 

Thế mà, cuối cùng, số phận của ngài là một cuộc hành trình đau thương và câm nín. Chúng ta không thể nào quên được những hình ảnh Chúa Nhật Lễ Lá, lúc mà, cầm trong tay cành cây dầu và cảm thấy đớn đau, ngài đã tiến đến cửa sổ để Ban Phép Lành của Chúa như chính bản thân ngài sắp sửa bước tới cây Thập Tự Giá.

 

Sau đó là cảnh ở trong Nguyện Đường Riêng của ngài, lúc mà, cầm Thánh Giá trong tay, ngài tham dự Đường Thánh Giá bấy giờ đang diễn tiến ở Hí Trường Colosseum, nơi ngài rất hay thường vác Thập Giá dẫn đầu đoàn người diễn hành theo sau.

 

Sau hết là Phép Lành âm thầm của ngài hôm Chúa Nhật Phục Sinh, nơi phép lành âm thầm này chúng ta đã thấy niềm hứa hẹn của cuộc Phục Sinh, của sự sống đời đời, rạng ngời tỏa sáng qua tất cả mọi nỗi đớn đau của ngài. Bằng cả lời nói và hành động, Đức Thánh Cha đã cống hiến cho chúng ta rất nhiều điều cao cả; bài học này cũng không kém phần quan trọng được ngài ban cho chúng ta từ ngai tòa khổ đau và câm nín.

 

Trong cuốn sách cuối cùng của ngài là “Hồi Niệm và Căn Tính” (Weidenfeld and Nicolson, 2005), ngài đã để lại cho chúng ta một dẫn giải về khổ đau không phải là một thuyết về thần học hay triết lý mà là một hoa trái chín mùi qua cuộc hành trình khổ đau của bản thân ngài, một cuộc hành trình khổ đau ngài đã quyết chịu bằng niềm tin tưởng vào Vị Chúa tử giá. Lời dẫn giải này, một việc dẫn giải được ngài khai triển bởi đức tin và là việc dẫn giải mang lại ý nghĩa cho khổ đau của ngài, một khổ đau được ngài chấp nhận trong mối hiệp thông với nỗi khổ đau của Chúa, là việc dẫn giải đã được vang lên qua thái độ âm thầm chịu đựng của ngài, khi ngài biến việc chịu đựng này thành một sứ điệp quan trọng”.

 

Cả ở phần  mở đầu và lập lại một lần nữa ở cuối cuốn sách được đề cập tới trên đây, vị Giáo Hoàng này đã cho thấy rằng ngài cảm thấy rất thấm thía trước cảnh tượng diễn ra của quyền lực sự dữ, một quyền lực sự dữ chúng ta đã trải qua một cách thê thảm trong thế kỷ vừa chấm dứt. Ngài nói trong cuốn sách này rằng: “Sự dữ… không phải là một thứ sự dữ có tầm mức nhỏ hẹp… Nó là một sự dữ có những tầm vóc khổng lồ, một sự dữ được tổ chức đáng hoàng để thực hiện hoạt động gian ác của nó, một sự dữ trở thành một cơ cấu” (trang 189).

 

“Phải chăng sự dữ là những gì bất khả thắng? Phải chăng nó là một quyền năng tối hậu của lịch sử?” Vì kinh nghiệm về sự dữ, mà đối với Giáo Hoàng Wojtyla, vấn đề cứu chuộc đã trở thành thiết yếu và là vấn đề trọng yếu trong đời sống của ngài và được suy tưởng như là một Kitô hữu. Có một giới hạn nào đó chống lại những gì bị quyền lực sự dữ này hủy hoại hay chăng? “Có đấy”, vị Giáo Hoàng này đã trả lời trong cuốn sách này của ngài cũng như trong Thông Điệp về việc cứu chuộc của ngài.

 

Quyền năng hạn chế sự dữ này là Lòng Thương Xót Chúa. Bạo lực, hình thức thể hiện của sự dữ, bị Lòng Thương Xót Chúa chống lại trong giòng lịch sử. Chúng ta có thể nói theo Sách Khải Huyền là Con Chiên mạnh hơn con rồng.

 

Ở cuối cuốn sách, bằng việc ôn lại quá khứ về cuộc tấn công vào ngày 13/5/1981, và dựa vào căn bản của kinh nghiệm nơi cuộc hành trình của ngài với Thiên Chúa cũng như với thế giới, Đức Gioan Phaolô II còn giải đáp vấn đề này một cách sâu xa hơn nữa.

 

Cái hạn chế quyền lực sự dữ, cái quyền lực chế ngự no, theo cách ngài nói, đó là nỗi khổ đau của Thiên Chúa, nỗi khổ đau của Người Con Thiên Chúa trên Thập Tự Giá: “Nỗi khổ đau của Vị Thiên Chúa Tử Giá không phải chỉ là một hình thức khổ đau duy nhất trong số những hình thức khổ đau khác…. Bằng việc hy sinh bản thân mình vì tất cả chúng ta, Chúa Kitô đã cống hiến cho đau khổ một ý nghĩa mới, mở ra một chiều kích mới, một tầm vóc mới, đó là tầm vóc yêu thương…. Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô trên Thập Giá là những gì cống hiến cho đau khổ một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ, biến đổi nó tự bản chất… Chính cái đau khổ này thiêu đốt và làm tiêu hao đi sự dữ, bằng ngọn lửa yêu thương…. Tất cả khổ đau của loài người, tất cả mọi đớn đau, tất cả mọi yếu đuối bạc nhược đều chất chứa nơi mình một hứa hẹn cứu độ; …. Sự dữ hiện diện trên thế giới một phần là để khơi động lên lòng yêu thương trong chúng ta, một tình yêu trao hiến bản thân mình trong việc phục vụ cách quảng đại và vô tư những ai bị khổ đau dằn vặt… Chúa Kitô đã cứu thế giới: “Chúng ta đã được chữa lành nhờ những vết thương của Người’ (Is 53:5)” (trang 189 và sau đó).

 

Tất cả những điều này không phải chỉ là một thứ thuần kiến thức về thần học, mà là một bày tỏ của một đức tin sống động và trưởng thành qua đau khổ. Chắc chắn là chúng ta cần phải làm mọi sự có thể để giảm bớt khổ đau và ngăn ngừa tình trạng bất công là những gì gây cho thành phần vô tội khổ đau. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải làm mọi sự trong tầm tay để con người có thể khám phá ra ý nghĩa của khổ đau, nhờ đó, họ biết chấp nhận khổ đau của họ và liên kết nó với khổ đau của Chúa Kitô.

 

Có thế, nó mới hòa nhập với tình yêu thương cứu chuộc và nhờ vậy trở thành một quyền năng chống lại sự dữ trên thế giới này.

 

Việc đáp ứng xẩy ra khắp thế giới trước cái chết của vị Giáo Hoàng này là việc hết lòng bày tỏ loòg tri ân về sự kiện là ngài đã hoàn toàn hiến thân cho Thiên Chúa vì thế giới khi thi hành thừa tác vụ của ngài; một lời tạ ơn cho sự kiện là trong một thế giới đầy hận thù và bạo lực này, ngài đã dạy một cách mới mẻ tình yêu thương và khổ đau trong việc phục vụ tha nhân; có thể nói ngài đã tỏ cho chúng ta thấy trong xác thịt Đấng Cứu Chuộc, việc cứu chuộc, và đã cống hiến cho chúng ta niềm tin tưởng rằng, thật ra sự dữ không phải là phán quyết tối hậu trên thế gian này”.

 

...........

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI - Nguyên văn Diễn Từ Tất Niên với Giáo Triều Rôma ngày Thứ Năm 22/12/2005

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2005/december/documents/hf_ben_xvi_spe_20051222_roman-curia_en.html 

 

 

TOP