Bài
10 (Thứ Tư
1- Đích điểm cuối cùng
trong cuộc hành trình suốt cả cuộc đời của
Chúa Kitô không phải là ngôi mộ tăm tối mà là bầu
trời sáng ngời Phục Sinh. Đức tin Kitô Giáo được
xây trên mầu nhiệm này (x 1Cor 15:1-20), như Giáo Lý Giáo Hội
Công Giáo đã nhắc lại cho chúng ta thấy: “Việc
Phục Sinh của Chúa Giêsu là chân lý tuyệt đỉnh của
niềm tin chúng ta đặt nơi Chúa Kitô, một niềm
tin được cộng đồng Kitô hữu tiên khởi
tin tưởng và sống như là một chân lý chính yếu;
được Truyền Thống chuyển đạt như
là một chân lý nền tảng; được các văn kiện
Tân Ước thiết lập; và được rao giảng
như là một phần chính yếu của mầu nhiệm
vượt qua đi liền với thập giá” (số
638).
Một
tác giả thần bí Tây Ban Nha thuộc thế kỷ 16 đã
nói: “Càng căng buồm lướt sóng người ta càng
khám phá thấy trong Thiên Chúa những vùng biển cả”
(Friar Luis de Léon). Giờ đây chúng ta muốn thực hiện
một cuộc hải trình đi vào vùng biển mênh mông của
mầu nhiệm này, hướng tới ánh sáng hiện diện
của Thiên Chúa Ba Ngôi trong những biến cố Phục
Sinh. Việc hiện diện này kéo dài cả
50 ngày sau Phục Sinh.
2- Không giống như các bản
văn ngụy kinh, các bản Phúc Âm được Giáo Hội
công nhận không trình bày biến cố Phục Sinh lẻ
loi một mình mà là với việc Chúa Kitô phục sinh hiện
diện một cách mới mẻ và khác nhau giữa các môn đệ
của Người. Chính tính cách mới mẻ
này đã làm nên đặc tính của cảnh tượng đầu
tiên là những gì chúng ta đang muốn suy tư đây.
Đó là lần xuất hiện diễn ra tại một thành
Giêrusalem vào lúc vẫn còn mờ nhạt ánh sáng rạng đông,
ở chỗ, một người phụ nữ là Maria Mai
Linh và một người đàn ông đã gặp nhau tại
một nghĩa trang. Thoạt tiên người phụ nữ
không nhận ra người đàn ông đang tiến lại
gần mình, song người đó lại là chính Giêsu Nazarét,
Đấng chị đã nghe lời Người nói và là Đấng
đã làm thay đổi cuộc đời của chị. Để nhận ra Người, chị cần
phải có một nguồn kiến thức khác với lý trí
và cảm quan của chị. Đó là đường
lối đức tin đã mở ra cho chị khi chính chị
nghe thấy gọi đích danh tên của mình (x Jn
3- Cảnh tượng thứ
hai đưa chúng ta từ Giêrusalem tới một ngọn núi
ở phía bắc xứ Galilêa. Ở đó đã
xẩy ra một cuộc Kitô hiển, tức là việc Đấng
Phục Sinh tỏ mình ra cho các Vị Tông Đồ (x Mt
28:16-20). Đây là một biến cố
long trọng của việc mạc khải, nhận biết
và sứ vụ. Bằng quyền toàn năng cứu độ
của mình, Người đã truyền cho Giáo Hội phải
loan báo Phúc Âm, rửa tội và giảng dạy các dân nước
để nhờ đó họ sống theo các giới luật
của Người. Chúa Ba Ngôi đã hiện lên nơi những
lời chính yếu này, những lời được lập
lại nơi công thức Rửa Tội Kitô Giáo qua thừa
tác của Giáo Hội: “Các con hãy rửa tội cho họ (tất
cả mọi dân nước) nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”
(Mt 28:19)
Một
cây bút Kitô Giáo xưa kia là Theodore Mopsuestia (ở vào thế kỷ
thứ bốn sang thế kỷ thứ năm) đã chú giải
như sau: “Những lời nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
tỏ cho thấy rằng ai mới chính là tác nhân ban cho chúng
ta các ơn lành của Phép Rửa: như ơn tái sinh, ơn
canh tân, ơn bất tử, ơn bất hoại, ơn bất
ải, ơn được giải cứu khỏi sự
chết, khỏi bị làm nô lệ cũng như khỏi tất
cả mọi sự dữ, ơn được hưởng
tự do và tham dự vào những phúc lợi sau này. Đó là
lý do tại sao chúng ta được rửa tội! Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần được kêu
cầu để anh em nhận ra nguồn mạch những
ơn lành của Phép Rửa” (Bài giảng II Về Phép Rửa,
17).
4- Giờ đây chúng ta bước
sang cảnh tượng thứ ba để suy tưởng.
Cảnh này đưa chúng ta về lại thời
gian Chúa Giêsu còn bước đi trên những con đường
của Đất Thánh, với những lời Người
nói và việc Người làm. Trong lễ Lều Tạm
vào mùa thu của nước Do Thái bấy
giờ, Người đã loan báo rằng: “Ai có khát thì hãy đến
với Tôi mà uống. Ai tin vào Tôi thì, như Thánh
Kinh đã viết, ‘từ lòng họ những giòng sông chảy
nước sự sống sẽ tuôn ra’” (Jn
Vinh
quang Phục Sinh đã được thông ban và cùng với
vinh quang này là tặng ân Thần Linh trong ngày Lễ Ngũ Tuần,
ngày Chúa Giêsu báo trước cho các Vị Tông Đồ của
Người biết vào ngay buổi tối ngày Người
Phục Sinh. Hiện ra trên Căn Thượng Lầu, Người
thở hơi trên các vị mà phán: “Các con hãy nhận lấy
Thánh Linh” (Jn
5- Như thế là Chúa Cha và Thần
Linh hiệp nhất với Chúa Con vào giây phút tuyệt đỉnh
của Việc Cứu Chuộc. Đó là những gì Thánh
Phaolô xác nhận ở một đoạn hết sức rõ
ràng trong Bức Thư gửi Giáo Đoàn Rôma, một đoạn
thánh nhân nhắc lại việc Chúa Ba Ngôi thực sự có
liên quan tới Cuộc Phục Sinh của Chúa Kitô cũng như
cuộc phục sinh của tất cả chúng ta: “Nếu Thần
Linh của Đấng phục sinh Chúa Giêsu từ trong kẻ
chết ở trong anh em thì Đấng đã phục sinh Đức
Kitô… từ trong kẻ chết cũng sẽ ban sự sống
cho thân xác chết chóc của anh em, nhờ cùng một Thần
Linh của Ngài là Đấng ngự trong anh em” (Rm 8:11).
Điều
kiện để thực hiện lời hứa này cũng
đã được Thánh Tông Đồ cho biết trong cùng
Bức Thư trên: “Nếu môi miệng anh em tuyên xưng rằng
Giêsu là Chúa và lòng trí anh em tin rằng Thiên Chúa đã phục
sinh Người từ trong kẻ chết thì anh em sẽ được
cứu độ” (Rm 10:9). Khía cạnh Ba Ngôi trong việc
tuyên xưng đức tin hợp với bản chất Ba
Ngôi nơi biến cố Phục Sinh. Thật
vậy, “không có Thánh Linh không ai có thể nói ‘Giêsu là Chúa’”
(1Cor 12:3), và những ai nói điều này, tuyên xưng điều
này đều là để “cho vinh quang của Thiên Chúa là
Cha” (Phil
Vậy
chúng ta hãy chấp nhận đức tin của mầu nhiệm
vượt qua và niềm vui từ đó mà ra, bằng việc
lấy chính bản thánh ca Vọng Phục Sinh của Giáo Hội
Đông Phương như là của mình để xướng
lên rằng: “Ôi Chúa, tất cả mọi sự đã được
việc Chúa Phục Sinh soi chiếu, và thiên đàng lại được
mở ra. Tất cả mọi tạo vật chúc tụng
Chúa và mỗi ngày hiến dâng lên Chúa một bản thánh ca. Tôi
tôn vinh quyền năng của Chúa Cha và của Chúa Con; tôi chúc
tụng quyền bính của Chúa Thánh Thần, Ba Ngôi Thiên Chúa
bất phân chia, tự hữu và đồng bản thể,
Đấng hiển trị muôn muôn đời” (Kinh nguyện
của Thánh Gioan Đamascênô, Thứ Bảy Tuần Thánh,
giọng thứ ba).
(Tuần
san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ,