Bài
17 (Thứ Tư
1- “Ôi
chớ gì Ngài rẽ trời mà ngự xuống!”. Tiếng kêu
vang vọng của tiên tri Isaia (63:19), một tiếng kêu gồm
tóm niềm trông mong Thiên Chúa tỏ nhan Ngài ra cho riêng lịch
sử thánh kinh của dân Yến Duyên cũng như cho cõi lòng
của mọi người, không phải là không có tác dụng.
Thiên Chúa là Cha đã vượt qua ngưỡng cửa siêu
việt tính của mình, ở chỗ, nhờ Con mình là Đức
Giêsu Kitô, Ngài đã bắt đầu ra đi hành trình với
con người, cũng như qua Thần Linh sự sống
và yêu thương của mình, Ngài đã đi sâu vào lòng trí tạo
vật của Ngài. Ngài không để chúng ta lang thang xa khỏi
đường lối của Ngài, cũng không để lòng
trí chúng ta vĩnh viễn cứng cỏi (x Is 63:17). Nơi Đức
Kitô, Thiên Chúa đã đến gần với chúng ta, nhất
là đến với “bộ mặt buồn bã” của chúng
ta, để rồi, như đã xẩy ra cho các môn đệ
ở Emmau, lòng trí chúng ta bắt đầu bừng nóng trong
mình chúng ta nhờ lời lẽ nồng ấm của Ngài
(x Lk 24:17, 32). Tuy nhiên, việc Thiên Chúa vượt qua ngưỡng
cửa siêu việt tính này là một mầu nhiệm, cần
phải có đôi mắt tinh tuyền và đôi tai lắng
nghe mới nhận thấy được.
2- Theo
chiều hướng này, hôm nay chúng ta muốn nhấn mạnh
đến hai thái độ căn bản cần phải có
đối với vị Thiên Chúa Emmanuel, Đấng đã
muốn gặp gỡ con người cả ở trong không
gian và thời gian lẫn ở trong tận đáy lòng của
họ nữa. Thái độ thứ nhất là thái độ
đợi chờ, được rõ ràng cho thấy nơi đoạn
Phúc Âm Thánh Marcô chúng ta đã nghe trước đây (x Mk
13:33-37. biệt chú của người dịch:
đoạn phúc âm về
thái độ của người tôi tớ phải đợi
chủ trở về).
Trong nguyên ngữ Hy Lạp, chúng ta thấy có ba lời truyền
khiến nói lên việc chờ đợi này. Lời truyền
khiến thứ nhất là: “Hãy coi chừng”, tức là, “Hãy để
ý, hãy cẩn thận!”. “Chú ý”, theo chữ nghĩa, tức là
tất cả tâm hồn của mình hướng đến,
phải hướng đến một điều gì đó.
Nó ngược lại với phân tâm, một thứ phân tâm,
bất hạnh thay, lại là một tình trạng hầu như
cố hữu của chúng ta, nhất là trong một xã hội
cuồng loạn nông nổi như của chúng ta hôm nay đây.
Chúng ta cảm thấy khó lòng chuyên chú đến một mục
tiêu nào đó, một giá trị nào đó, cũng như cảm
thấy khó khăn trong việc trung thành và liên lỉ theo đuổi
mục tiêu ấy, giá trị ấy. Chúng ta dám liều mình tỏ
ra thái độ như vậy nữa đối với cả
Thiên Chúa là Đấng đã đến với chúng ta qua việc
Nhập Thể của mình để trở nên hải tinh
soi hướng cho đời sống của chúng ta.
3- Lời
truyền khiến hãy coi chừng được tiếp
theo bằng lời truyền khiến “hãy tỉnh táo”, một
lời truyền khiến theo nguyên ngữ Hy Lạp của
Phúc Âm cũng là lời truyền khiến “hãy tỉnh thức”.
Chúng ta có xu hướng mạnh mẽ thiên về tình trạng
ngủ mê, tình trạng bị vùi dập trong cái quyến hút
của đêm đen, một tình trạng, theo Thánh Kinh, là biểu
hiệu cho lầm lỗi, cho sự lì lợm và cho việc
phủ nhận ánh sáng. Do đó mà chúng ta có thể hiểu được
lời huấn dụ của Thánh Phaolô sau đây: “Hỡi
anh em, anh em không ở trong tăm tối..., vì tất cả
anh em đều là con cái của ánh sáng và là con cái của ban
ngày; chúng ta không thuộc về đêm đen hay bóng tối.
Bởi vậy chúng ta đừng ngủ như những người
khác, song chúng ta hãy tỉnh thức và chú ý” (1Thes 5:4-6). Chỉ
khi nào chúng ta thoát khỏi cái hấp dẫn mờ ảo của
tối tăm và của sự dữ chúng ta mới gặp được
Người Cha của ánh sáng, Đấng “không lệch lạc
hay mập mờ theo chuyển biến” (Jas
4- Còn
lời truyền khiến thứ ba được diễn
tả hai lần bằng cùng một động từ Hy Lạp
là “Hãy coi chừng!”. Đây là một động từ dành
cho người lính gác, thành phần phải tỉnh táo canh
chừng trong khi nhẫn nại đợi chờ thời
gian đêm tối qua đi để nhìn thấy ánh sáng rạng
đông bừng lên ở chân trời. Tiên tri Isaia đã diễn
tả một cách sống động và hùng hồn việc
mong đợi lâu dài này qua cuộc đối thoại giữa
hai người lính gác, một cuộc đối thoại
tiêu biểu nói lên cho thấy việc sử dụng thời
gian đúng đắn: “’Này người gác viên ơi, đêm
còn lâu không?’ Gác viên trả lời ‘Sáng đến rồi và đêm
lại xuống. Nếu muốn hỏi mãi thì hãy cứ trở
lại đây’” (Is
Chúng ta phải tự vấn,
cải hồi và đến gặp gỡ Chúa. Ba lời kêu
gọi của Chúa Kitô: “Hãy để ý, hãy tỉnh thức,
hãy coi chừng!”, tóm gọn một cách rõ ràng thái độ
mà người Kitô hữu phải chú tâm đến việc
gặp gỡ Chúa. Như Thánh Giacôbê thúc giục chúng ta trong
Bức Thư của ngài, việc chờ đợi cần
phải nhẫn nại: “Hãy nhẫn nại cho tới khi Chúa
đến. Hãy xem cách người làm ruộng đợi chờ
đất đai trổ sinh hoa mầu tươi tốt. Ông
ta nhẫn nại hướng về ngày đó trong lúc đất
đai nếm những cơn mưa mùa đông và mùa xuân. Cả
anh em nữa cũng phải nhẫn nại. Lòng trí anh em hãy
vững vàng, vì ngày Chúa gần đến” (Jas 5:7-8). Nếu
một bông lúa cần phải trổ cánh hay một bông hoa cần
phải nở mầu thì có những lúc không thể ép buộc
được; vì con người được sinh ra cần
phải có chín tháng; muốn viết một cuốn sách hoặc
sáng tác một bản nhạc hay thường phải trải
qua nhiều năm nhẫn nại tìm tòi nghiên cứu. Đó
cũng là qui luật về tâm linh. Có một nhà thơ đã
viết: “Hễ sự gì gấp rút thì sẽ chóng tàn rụi”
(R. M. Rilke, Sonnets to Orpheus). Việc gặp gỡ cuộc
mầu nhiệm cần phải nhẫn nại, thanh tẩy
nội tâm, thinh lặng và đợi chờ.
5- Chúng
ta vừa nói đến hai thái độ tinh thần để
khám phá ra vị Thiên Chúa là Đấng đến với chúng
ta. Thái độ thứ hai – sau khi chú ý và tỉnh táo chờ
đợi – là thái độ lạ lùng, bỡ ngỡ. Chúng
ta phải mở mắt của mình ra để ca ngợi
Thiên Chúa, Đấng chẳng những ẩn mình và hiện
mình nơi các sự vật mà còn là Đấng dẫn chúng
ta vào những lãnh giới của mầu nhiệm nữa.
Thứ văn hóa kỹ thuật, nhất là tình trạng chìm
sâu vào các thực tại vật chất, thường ngăn
cản không cho chúng ta thấy được cái dung nhan ẩn
náu nơi các sự vật. Thực vậy, hết mọi
sự, hết mọi biến cố, đối với những
ai biết cách đọc được chiều sâu của
chúng, đều chất chứa một sứ điệp
có mục đích dẫn đến Thiên Chúa. Như thế
có nhiều dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện.
Thế nhưng, để chúng không thoát khỏi tầm mắt
của mình, chúng ta phải tinh tuyền và đơn thành như
con trẻ (x Mt 18:3-4), thành phần có thể ca ngợi, bỡ
ngỡ, lạ lùng và vui thú trước những tác động
yêu thương và gần gũi của Thiên Chúa đối
với chúng ta. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể
áp dụng vào sinh hoạt của cuộc sống thường
nhật những gì Công Đồng Chung Vaticanô II đã nói về
việc làm trọn dự án cao cả của Thiên Chúa qua Lời
mạc khải của Ngài: “Bởi tình yêu viên mãn của mình,
Thiên Chúa vô hình ngỏ lời với con người như
là những người bạn hữu và tác động nơi
họ để mời gọi họ cùng tiếp nhận
họ vào mối hiệp thông với Ngài” (Hiến Chế Mạc
Khải, 2).
(tuần
san L’Osservatore Romano ấn bản Anh ngữ,