Bài
32 (Thứ Tư
THIÊN CHÚA CHA BAN ƠN
CỨU ĐỘ
CHO
TẤT CẢ MỌI DÂN TỘC
1. Sách
Khải Huyền vừa cho chúng ta thấy một bức họa
vĩ đại, trong đó, chẳng những chúng ta thấy
có đầy dẫy dân Yến Duyên được tiêu biểu
qua 12 chi tộc của họ, mà còn có cả một số đông
các dân tộc từ mọi miền đất và văn hóa
khác nữa, tất cả đều mặc chiếc áo khoác
trắng của một cõi trường sinh vinh quang diễm
phúc. Với hình ảnh gợi ý này, Tôi muốn
chúng ta hãy bắt đầu lưu tâm đến vấn đề
đối thoại liên tôn, một chủ đề rất
thích hợp với thời đại của chúng ta đây.
Tất cả mọi người
công chính của cõi đời này đều dâng lời chúc
tụng Thiên Chúa, một khi họ đạt tới đích
vinh quang sau cuộc hành trình dốc dác và nhọc nhằn khó
đi trên con đường của cuộc sống trần
gian. Họ đã trải "qua một cuộc
thảm khốc kinh hoàng" và đã được thanh tẩy
bởi máu của Con Chiên "đã đổ ra cho nhiều
người được ơn tha tội" (Mt 26:28).
Như thế, tất cả mọi người
trong họ đều được thông dự vào cùng một
nguồn ơn cứu độ, một nguồn cứu độ
Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên loài người. Vì "Thiên Chúa không sai Con Ngài đến trần
gian để luận phạt thế gian, song để thế
gian nhờ Người mà được cứu độ"
(Jn
2. Ơn
cứu độ được ban cho tất cả mọi
dân tộc, như giao ước Thiên Chúa đã ký kết với
Noe cho thấy (x Gen 9:8-17), chứng thực tính cách phổ
quát của việc Thiên Chúa tỏ mình ra cũng như của
việc con người tin tưởng đáp ứng (x Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, 58).
Thế nên, nơi Abraham mới có việc "tất cả
mọi cộng đồng trên mặt đất được
chúc phúc" (Gen 12:3). Họ đang bước đi trên con
đường tiến đến thành thánh để hưởng
một thứ bình an làm thay đổi bộ mặt trái đất,
lúc mà gươm kiếm được đúc thành cầy
bừa và giáo mác thành liềm hái (x Is 2:2-5).
Thật là cảm động
khi đọc thấy những lời này trong Sách Tiên Tri
Isaia: "Các người Ai Cập sẽ cùng với những
người Assyria tôn thờ (Chúa)... thành phần được
Chúa các đạo binh chúc phúc rằng 'Phúc cho Ai Cập là dân
của Ta, và phúc cho Assyria là công cuộc Ta làm, cùng phúc cho Yến
Duyên là gia sản của Ta" (Is 19:23, 25). "Tác giả
Thánh Vịnh xướng lên rằng: "Vua chúa của các
dân tộc tụ họp lại với dân của Thiên Chúa
Abraham. Vì những người coi sóc trái đất
này đều bởi Chúa; Ngài là Đấng tối cao"
(Ps 47:10). Thật vậy, tiên tri Malachi đã thực sự
nghe thấy cả khối nhân loại
vang tiếng tôn vinh và chúc tụng dâng lên Thiên Chúa thế này:
"Từ khi mặt trời mọc lên cho tới lúc nó lặn
xuống, danh của Ta cao cả nơi các dân nước,
Chúa các đạo binh phán" (Mal
3. Như
thế là đã có một niềm tin tưởng nào đó
khi con người kêu cầu Thiên Chúa, cho dù dung nhan của
Ngài còn "vô danh" (x Acts 17:23). Tất cả loài người
tìm cách tỏ ra thực sự tôn thờ Thiên Chúa và hiệp
thông giữa anh chị em với nhau theo
tác động của "Thần chân lý thực hiện ở
ngoài giới hạn hữu hình của Nhiệm Thể"
Chúa Kitô (Thông Điệp Đấng
Cứu Chuộc Nhân Trần, 6).
Về vấn đề này,
Thánh Irênêô nhắc lại rằng Thiên Chúa đã thiết lập
với loài người bốn giao ước: nơi Adong,
Noe, Moisen và Chúa Kitô (x Adversus
Haereses, 3, 11, 8). Ba giao ước đầu, theo tinh thần,
nhắm đến tầm vóc viên trọn của Chúa Kitô và đánh
dấu những giai đoạn Thiên Chúa đối thoại
với tạo vật của Ngài, một cuộc gặp gỡ
của tỏ bầy và yêu thương, của sáng soi và ân
sủng, những tạo vật được Người
Con qui tụ lại nên một với nhau, niêm ấn trong chân
lý và đưa đến tình trạng toàn thiện.
4. Theo
chiều hướng này thì niềm tin nơi tất cả
mọi dân tộc được bừng nở ra trong hy vọng.
Niềm tin ấy chưa được hoàn toàn soi sáng bởi
tất cả mạc khải, một mạc khải liên kết
nó với những lời hứa thần linh và làm cho nó thành
một nhân đức "đối thần". Tuy nhiên,
các sách thánh của những tôn giáo khác cũng hướng về
một niềm hy vọng đến độ, các cuốn
sách ấy cho thấy một chân trời hiệp thông thần
linh, hướng lịch sử đến một đích điểm
thanh tẩy và cứu độ, phấn khích việc tìm kiếm
chân lý cũng như việc bảo vệ những giá trị
của đời sống, của sự thánh thiện, của
đức công bình chính trực, của hòa bình và tự do. Với
nỗ lực gắng gỏi cốt yếu này, một nỗ
lực đối đầu ngay cả với những
xung khắc của nhân loại, cảm nghiệm về đạo
giáo cũng hướng con người về tặng ân đức
ái thần linh cũng như về những đòi hỏi của
đức ái này. Việc đối thoại liên tôn được
Công Đồng Chung Vaticanô II khuyến khích phải được
quan niệm theo nhãn giới ấy (x Tuyên
Ngôn Nostra Aetate, 2). Việc đối thoại này được thể
hiện bằng việc tất cả mọi tín đồ
cùng nhau nỗ lực hoạt động cho công bình chính trực,
cho tình đoàn kết và cho hòa bình an lạc. Việc đối
thoại này cũng được thể hiện nơi những
mối liên hệ về văn hóa, những mối liên hệ
gieo mầm mống lý tưởng và siêu việt tính vào mảnh
đất thường khô cằn của chính trị, kinh
tế và an sinh xã hội. Việc đối
thoại này giữ một vai trò quan trọng đối với
Kitô hữu trong việc làm chứng trọn vẹn cho đức
tin của mình nơi Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế duy
nhất. Cũng với đức tin này, Kitô hữu ý
thức được rằng con đường dẫn đến
tất cả sự thật (x Jn 16:13) đòi hỏi phải
biết khiêm tốn lắng nghe để có thể khám phá
ra cũng như để có thể cảm nhận được
mọi tia sáng bất cứ từ đâu tới, những
tia sáng bao giờ cũng là hoa trái của Thần Linh Chúa Kitô.
5. "Sứ
vụ của Giáo Hội là lo phát triển 'vương quốc
của Chúa chúng ta cũng là vương quốc Đức
Kitô của Ngài' (
(Tuần
san L'Oseervatore Romano, ấn bản Anh ngữ,