10. DI DÂN VÀ DU HÀNH:
Thứ Sáu 2/6, tại
Quảng Trường Thánh Phêrô, ĐTC dâng lễ và giảng
cho 50000 tham dự viên tụ về từ khắp nơi trên
thế giới.
T |
rong số các con đây gồm
có những người di dân từ các xứ sở và
các lục địa; những người tị nạn
để tránh khỏi các tình trạng bạo lực và đang
xin bản quyền được chấp nhận; những
sinh viên du học hải ngoại muốn hoàn tất việc
học hỏi của mình về khoa học và kỹ thuật;
thành phần hải hồ và không phận làm nghề
phục vụ du khách bằng tầu thủy hay bằng máy
bay; những người du lịch thích hiểu biết
thêm về các cảnh trí, môi sinh, tục lệ và truyền
thống; những người du mục hành trình trên các
nẻo đường thế giới qua các thế kỷ;
thành phần làm xiệc mang đến cho những công
viên các thứ hấp dẫn và thú vui lành mạnh. Cha hết sức thân ái đón chào mỗi người
và tất cả mọi người các con” (đoạn
1.4).
“Việc các con
hiện diện đây nhắc nhớ rằng chính Con Thiên
Chúa, khi đến ngự giữa chúng ta, đã trở nên
một kẻ di dân (x. 1Jn
“’Hãy đến, hỡi những
kẻ Cha Ta chúc phúc, ... vì... Ta là khách lạ các con đã đón tiếp Ta’ (Mt. 25: 23-25)”
(đoạn 2.1).
“Chúa Giêsu đã nói là chúng ta chỉ
có thể vào vương quốc của Thiên Chúa bằng việc
thực hiện giới răn yêu thương. Bởi thế,
chúng ta sẽ không vào đó được bằng những
ân huệ về nòi giống, văn hóa
hay tôn giáo, mà thật sự là do việc chúng ta làm theo ý muốn
của Cha trên trời (x. Mt
“Các con di dân và du hành thân mến,
Cuộc Mừng Kỷ Niệm của các con nói lên cho thấy
một cách hùng hồn vị trí trọng yếu của đức
bác ái yêu thương chấp nhận nhau cần phải nắm
giữ trong Giáo Hội. Trong việc nhận lấy
tình trạng nhân loại và lịch sử của chúng ta, Chúa
Kitô đã liên kết một cách nào đó với mọi người.
Người đã chấp nhận mỗi một
người chúng ta, và bằng giới răn yêu thương,
Người đã xin chúng ta bắt chước gương
của Người, tức là, hãy chấp nhận nhau như
Chúa Kitô đã chấp nhận chúng ta (x. Rm 15:7)” (đoạn 2.3).
“Cha muốn lập lại những
lời của vị tiền nhiệm đáng kính của
Cha là Đức Phaolô VI, Người Tôi Tớ của Thiên
Chúa, trong bài giảng bế mạc Công Đồng Chung
Vaticanô II đã nói: ‘Đối với Giáo Hội Công Giáo
không có ai xa lạ, không có ai bị loại, không có ai cách biệt’
(AAA, 58 năm 1966, trang 51-59)...” (đoạn
3.1).
“Tiếc thay, trên
thế giới này chúng ta vẫn còn gặp thấy một
thái độ khép kín, thậm chí gặp thấy cả một
thái độ hất hủi nữa, chỉ vì những nỗi
lo sợ và quan tâm không chính đáng cho những tư lợi
riêng mà thôi. Những hình thức kỳ thị này không hợp
với những gì thuộc về Chúa Kitô và Giáo Hội.
Thật vậy, cộng đồng Kitô Giáo được
kêu gọi để loan truyền trên thế giới thứ
men huynh đệ, mối hiệp thông của những cái
khác biệt mà chúng ta cũng có thể nghiệm thấy ở
buổi gặp gỡ của chúng ta hôm nay đây” (đoạn
3.2).
“Hơn thế nữa, ở
kỷ nguyên toàn cầu hóa này, Giáo Hội muốn nói lên sứ
điệp thực sự này, đó là, hãy hoạt động
làm sao để thế giới của chúng ta đây, một
thế giới thường được diễn tả
như là một ‘ngôi làng hoàn vũ’, có thể được
thực sự hiệp nhất với nhau hơn, yêu thương
huynh đệ hơn, đón nhận nhau hơn. Đây là sứ
điệp mà việc cử hành Cuộc Mừng Kỷ Niệm
này muốn loan truyền khắp nơi, đó là hãy luôn luôn
lấy con người và việc tôn trọng quyền lợi
của họ làm chính yếu cho hiện tượng du hành”
(đoạn 3.4).
“Được trao phó cho sứ
điệp cứu độ phổ quát, Giáo Hội biết
rằng công việc chính yếu của mình là loan báo Phúc Âm
cho mọi người và cho tất cả mọi dân tộc.
Từ giây phút Chúa Kitô phục sinh sai các Tông Đồ
đi rao giảng Phúc Âm cho đến tận cùng trái đất
thì chân trời của Giáo Hội là chân trời toàn thế
giới. Chính trong môi trường đa chủng tộc,
đa văn hóa và đa tôn giáo ở Miền Địa
Trung Hải mà những Kitô Hữu đầu tiên đã bắt
đầu nhìn nhận nhau và sống với nhau như anh chị
em, vì họ đều là con cái của Thiên Chúa” (đoạn
4.1).
(L’Osservatore
Romano ấn bản Anh ngữ,