(Huấn từ của
ĐTC Gioan Phaolô II ngày Thứ Bảy 9/10
cho buổi triều
kiến của Nghị Hội Thế Giới Giáo Sư Đại
Học tại Rôma
họp về đề
tài “Đại Học Viện cho Một Chủ Nghĩa
Nhân Bản Mới”
trong dịp Mừng
Năm Thánh 2000)
Quí
Vị Giáo Sư Đại Học thân mến,
1. Tôi lấy làm sung sướng
đượïc gặp gỡ quí vị trong năm hồng
ân này, năm Chúa Kitô mạnh mẽ kêu
gọi chúng ta sống đức tin mãnh liệt hơn và
thực lòng canh tân đời sống hơn. Tôi
đặc biệt cám ơn việc quí vị dấn thân
thực hiện những cuộc tụ họp về tâm
linh cũng như về văn hóa trong những ngày này đây.
Nhìn thấy quí vị, tâm tư của Tôi hướng đến
quí vị giáo sư nơi tất cả mọi dân nước,
cũng như đến tất cả mọi sinh viên được
trao phó cho việc quí vị hướng dẫn trên con đường
tìm cầu, một con đường vừa khó khăn
vất vả lại vừa hân hoan phấn khởi, Tôi
muốn gửi đến họ lời chào thân ái. Tôi cũng
muốn chào Thượng Nghị Sĩ Ortensio Zecchino, Phục
Tác Viên Các Đại Học Viện, người có mặt
ở đây với tư cách đại diện cho Chính
Quyền Ý Đại Lợi.
Việc quí vị giáo sư
khả kính vừa trình bày đã cho Tôi thấy được
vấn đề quí vị suy tư phong phú và rành rẽ là
chừng nào. Tôi hết lòng thành thực cám ơn quí vị
ấy. Đối với mỗi một người
trong quí vị thì cuộc qui hội Mừng Kỷ Niệm
này là lúc thích hợp để xét xem biến cố
trọng đại chúng ta đang cử hành đây,
biến cố Nhập Thể của Lời Thiên Chúa, đã
được tiếp nhận như là một nguyên lý ban
sự sống trong việc truyền đạt và biến đổi toàn thể đời
sống ra sao.
Đúng
thế, bởi vì Chúa Kitô không phải là biểu hiệu cho
một thực tại về tôn giáo mơ hồ nào đó,
mà là một cứ điểm cụ thể được
Thiên Chúa dùng trong việc lấy chính nhân tính của chúng ta hoàn
toàn làm của Ngài nơi bản thân của Người Con.
Với Chúa Kitô, “Vĩnh Cửu đã đi vào thời gian,
Toàn Thể ẩn thân nơi thành phần, Thiên Chúa qua gương
mặt nhân loại” (Thông Điệp Đức Tin và Lý
Trí, 12). Việc Thiên Chúa “tự hủy mình
ra hư không” này, cho đến độ “điên rồ” của
Thập Giá (x Phil 2:7), có thể như là dại khờ đối
với loại trí khôn tự mãn. Thật
vậy, đối với những ai mở lòng mình ra trước
tình yêu khôn lường của Ngài, thì việc tự hủy
này là “quyền năng và là khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cor
2. Đề tài chính – Đại
Học Đường cho Một Chủ Nghĩa Nhân
Bản Mới - quí vị đã chọn rất hợp với
việc tái nhận thức về vai trò trọng yếu của
Chúa Kitô trong Cuộc Mừng Kỷ Niệm này. Thật
vậy, biến cố Nhập Thể đã chạm đến
tận thâm cung nhân loại, biến cố ấy làm sáng
tỏ nguồn gốc cùng định mệnh của chúng
ta, và hướng chúng ta về một niềm hy vọng
không lừa dối. Là những con người nam nữ có
học thức, quí vị không thôi vấn nạn về giá
trị làm người. Mỗi người trong quí vị đều
có thể nói như nhà hiền triết xưa là: “Tôi đang
tìm kiếm con người”!
Trong
nhiều đáp ứng đối với việc tìm
hiểu cốt yếu này, quí vị đã chấp nhận đáp
ứng của Chúa Kitô, một đáp ứng phát xuất từ
những lời Người nói nhưng lại là một đáp
ứng trước đó đã ngời sáng trên dung nhan của
Người rồi. Ecce homo: Này là con người! (Jn
19:5). Trong việc tỏ cho đám đông hỗn loạn
thấy gương mặt bị bầm dập của Chúa
Kitô, Philatô đã không ngờ rằng, ở một khía
cạnh nào đó, ông đã nói lên một lời mạc
khải. Ông đã vô tình tỏ cho thế giới thấy Đấng
mà nơi Người tất cả mọi con người
nhờ đó có thể nhận ra gốc gác của mình, và
nơi Người tất cả cũng có thể hy
vọng tìm thấy ơn cứu độ của mình
nữa. Redemptor hominis (Đấng Cứu Chuộc nhân
trần): đó là hình ảnh của Chúa Kitô, Đấng Tôi
đã muốn “hô hào” thế giới từ bức Thông Điệp
đầu tiên của Tôi, cũng là Đấng mà năm Mừng
Kỷ Niệm này tìm cách đặt lại vấn đề
cho tâm trí con người.
3. Được gợi hứng
từ Chúa Kitô, Đấng làm cho con người biết được
bản thân họ (x Hiến Chế Gaudium et Spes, 22),
quí vị đã muốn, qua những buổi gặp gỡ
này, tái xác nhận nhu cầu cần đến một
nền văn hóa đại học, nền văn hóa “nhân
bản” chân chính, ở chỗ cốt yếu là văn hóa
phải xứng hợp với con người và
phải làm chủ được khuynh hướng của
một thứ kiến thức thiên về chủ nghĩa
thực nghiệm, hay một thứ kiến thức vô loài
cứ mãi lạc lõng trong vùng trời uyên bác. Một
thứ kiến thức như vậy không thể nào mang
lại ý nghĩa cho đời sống.
Đó
là lý do tại sao quí vị đã nhấn mạnh là không có
vấn đề mâu thuẫn, trái lại còn có một
mối liên hệ hợp lý, giữa
việc tự do nghiên cứu với việc nhận thức
chân lý. Chính chân lý là những gì tất cả
mọi cuộc nghiên cứu nhắm tới, cho dù việc
suy tưởng của con người có những giới
hạn và yếu kém đi nữa. Đó là một khía
cạnh cần phải được nhấn mạnh,
kẻo chúng ta bị cuốn theo
chiều gió của chủ nghĩa tương đối,
một chủ nghĩa đã nắm được trong tay
một phần lớn văn hóa ngày nay. Thực tại đó
là, nếu văn hóa không hướng về chân lý, một
chân lý cần phải được tìm kiếm một cách
khiêm tốn và tin tưởng, thì văn hóa sẽ phải
chịu số phận biến mất trong một thời
gian ngắn, khi nó rơi vào tình trạng bất nhất của
ý kiến, và nó có thể bị ý muốn kín đáo của
kẻ tuyệt mạnh chủ trị.
Một
nền văn hóa không theo chân lý thì
chẳng những không bảo toàn được tự do
mà còn làm cho tự do bị nguy hiểm nữa. Tôi đã nói đến
vấn đề này trong một vài trường hợp, như
“nhu cầu đòi hỏi phải có chân lý và luân lý chẳng
những không hạ giá hay hủy bỏ tự do của chúng
ta, trái lại, nhu cầu này còn giúp cho tự do của chúng
ta tồn tại và giải thoát nó khỏi chính cái nguy
hiểm bẩm sinh của nó” (Disvorso al Convegno ecclesiale di
Palermo, in Insegnamenti, XVIII, 2, 1995, trang 1198). Như thế thì những lời Chúa Kitô nói “chân lý
sẽ giải thoát quí vị” (Jn
4. Được bắt
nguồn từ quan điểm của chân lý, nhân bản
thuyết Kitô Giáo trước hết có chiều hướng
nhắm đến Siêu Việt Thể. Chính ở đó chúng
ta thấy được chân lý và tính cách cao cả của
con người, tạo vật duy nhất trong thế giới
hữu hình có khả năng tự thức và nhận ra
rằng họ được bao bọc bởi một Đấng
Uy Nghi tối cao là Vị mà cả lý trí lẫn đức
tin gọi là Thiên Chúa. Vấn đề
cần đó là một chủ nghĩa nhân bản không có
những quan điểm hầu như tương khắc
giữa khoa học và đức tin.
Tuy
nhiên, chúng ta cũng không thể nào hài lòng với việc
dung hòa mập mờ về một loại nhân bản được
ưa chuộng bởi thứ văn hóa tỏ ra ngờ
vực chính cái khả năng của trí khôn trong việc tìm
đạt đến chân lý. Đường lối này
gặp phải nguy cơ là hiểu sai đức tin khi
hạ cấp đức tin xuống bậc của một
thứ tình cảm, một thứ xúc động,
một thứ nghệ thuật: cuối cùng là lột
trần đức tin không còn gì là nền tảng thiết
yếu của nó nữa. Đó không phải là đức
tin Kitô Giáo, một đức tin, trái lại, đòi
phải có một thái độ chấp nhận hữu lý
và hữu trách đối với tất cả những gì
Thiên Chúa đã mạc khải nơi Chúa Kitô. Đức
tin không nẩy mầm từ tro bụi của lý trí! Tôi hết sức mong muốn tất cả quí
vị, những con người nam nữ của giới đại
học, đừng có bỏ qua một nỗ lực nào
trong việc xây đắp lãnh vực học thức hướng
về Chân Lý và Tuyệt Đối Thể.
5. Tuy nhiên, cần phải lưu
ý là chiều kích học thức “hướng thiên” này không
hàm chứa bất cứ một loại khép kín nào; trái
lại, bởi chính bản chất của mình, nó hướng
đến các chiều kích của tất cả mọi
tạo vật. Làm sao có thể xẩy ra khác được
chứ? Khi nhận biết Tạo Hóa,
con người cũng nhận ra giá trị của các
tạo vật. Trong việc hướng
về Lời hóa thành nhục thể, người ta cũng
chấp nhận tất cả mọi sự được
dựng nên trong Người (x Jn 1:3) và được Người
cứu chuộc. Bởi thế, chúng ta phải tái
nhận thức ý nghĩa nguyên thủy và cánh chung của
Thiên Nhiên Tạo Vật, bằng việc tỏ ra tôn
trọng tất cả mọi đòi hỏi tiềm tàng của
nó, đồng thời cũng hoan hưởng nó một
cách tự do, hữu trách, sáng tạo, hân hoan, thanh thoát và ngưỡng
mộ. Công Đồng Vaticanô II đã nhắc nhở chúng
ta qua một đoạn văn tỏ tường thế
này: “Khi hoan hưởng thiên nhiên tạo vật bằng tinh
thần nghèo khó và tự do, (con người) tiến đến
việc chiếm hữu thế giới trong chân lý, như
thể cùng một lúc họ không có gì mà lại có hết
mọi sự. ‘Tất cả là của anh em: nhưng anh em
lại thuộc về Chúa Kitô và Chúa Kitô thuộc về
Thiên Chúa’ (1Cor
Ngày nay, việc suy tư chuyên
chú nhất về kiến thức học nhận thấy
khoa học về nhân bản và khoa học về thiên nhiên
cần phải gặp gỡ trao đổi với nhau
một lần nữa, để học thức có thể
lấy lại cảm quan về một động lực
liên kết sâu xa.
Sự tiến bộ về khoa học và kỹ thuật
vào thời chúng ta đây đã trao vào bàn tay
con người những cơ hội vừa vĩ đại
lại vừa rùng rợn. Việc nhận
biết những giới hạn của khoa học liên quan đến
những đòi hỏi của luân lý, không phải là chủ
trương vùi lấp mà là một bảo đảm cho
thấy rằng việc nghiên cứu sẽ xứng đáng
với con người và sẽ phục vụ sự
sống của con người.
Quí
vị, những người bạn thân yêu của Tôi,
những người đang dấn thân trong việc nghiên cứu
về khoa học, cần phải biến các viện đại
học trở thành “những phòng thí nghiệm về văn
hóa”, ở đó, thần học, triết học, các khoa
nhân văn và các khoa thiên văn có cơ hội trao đổi
xây dựng nhau, khi coi qui luật luân lý như một đòi
hỏi nội tại của việc nghiên cứu và là
một điều kiện thế giá nhất cho việc
tìm ra chân lý.
6. Kiến thức được
đức tin soi dẫn chẳng những không bỏ bê
những lãnh vực của cuộc sống thường
nhật, mà còn vận dụng tất cả sức lực
của niềm hy vọng và việc rao giảng để đầu
tư vào những lãnh vực này nữa. Chủ nghĩa nhân
bản mà chúng ta mong muốn cho thấy viễn ảnh của
một xã hội đặt trọng tâm trên con người,
cũng như trên các quyền lợi bất khả xâm
phạm của họ, trên những giá trị công chính và hòa
bình, trên lý lẽ của đoàn kết và tương trợ.
Đó là một chủ nghĩa nhân bản có khả năng
làm hồn sống cho chính tiến bộ về kinh tế, để
tiến bộ này nhắm đến “việc phát triển
của từng người cũng như của cả con
người toàn vẹn” (x Thông Điệp Populorum Progressio,
14; và Thông Điệp Sollicitudo Rei Socialis, 30).
Chúng ta đặc biệt
cần phải hoạt động để bảo đảm
là ý nghĩa thực sự về dân chủ, một
chiếm đạt chân chính của văn hóa, hoàn toàn được
toàn vẹn.
Về vấn đề này, có những chiều hướng
đáng lo ngại đã xuất đầu lộ diện,
như trường hợp dân chủ bị giảm
thiểu xuống thành vấn đề thuần túy về
thể thức, hay như trường hợp cho rằng ý
muốn của đa số tự nó đã đủ để
quyết định tính cách phục tùng về phương
diện luân lý đối với một khoản luật
nào đó. Thực tế là, “giá trị của dân chủ
tồn tại hay qua đi cùng với những giá trị được
nó thể hiện và cổ võ... Căn bản của
những giá trị này không thể trở thành những ý
kiến thời sự và khả hoán của ‘đám đông’,
mà là việc lấy lề luật luân lý khách quan, một
lề luật được ghi khắc trong tâm can con người
như ‘lề luật tự nhiên’, làm qui điểm đối
chiếu thiết yếu cho chính lề luật dân sự”
(Thông Điệp Evangelium Vitae, 70).
7. Quí bạn thân mến, cả đại
học đường nữa, không hơn gì các cơ
cấu khác, nó cũng đang trải qua những thách đố
đương thời. Tuy nhiên, nó vẫn giữ vai trò đóng
góp cho văn hóa không thể thay thế của mình, miễn
là nó không mất đi đặc tính nguyên thủy của
nó trong việc là một cơ cấu dấn thân nghiên cứu
cũng như dấn thân cho phận sự đào luyện
– Tôi có thể nói là “giáo dục” – quan trọng đối với
thiện ích, nhất là của các thế hệ trẻ. Phận sự này phải giữ vai trò chính
yếu trong những vấn đề canh tân và thích ứng
cần thiết để cơ cấu cổ kính này
vẫn nhịp bước tiến qua các thời đại.
Với
những khía cạnh nhân bản của mình, đức tin
Kitô Giáo có thể đóng góp nguyên vẹn cho sinh hoạt đại
học cũng như cho việc giáo dục của mình, đến
nỗi, chứng từ Kitô Giáo, được tâm tưởng
linh hoạt và đời sống gắn bó, mang ra thực
hiện qua việc cẩn trọng và xây dựng trao đổi
với những ai cổ võ một quan điểm khác
biệt. Tôi hy vọng rằng quan điểm này sẽ được
khai triển hơn nữa nơi các cuộc hội họp
có tính cách quốc tế sắp được thực
hiện, trong đó bao gồm các vị viện trưởng
đại học, các vị giám đốc điều hành
đại học, các vị tuyên úy đại học, và
cả đến chính các sinh viên đại học thuộc
“diễn đàn” quốc tế nữa.
8. Quí vị giáo sư khả
kính! Chỉ có ở nơi Phúc Âm chúng ta mới tìm thấy
kiến thức về thế giới cũng như về
con người, một thứ kiến thức không ngừng
tháo cởi các giá trị về văn hóa, nhân bản và đạo
đức, hướng chúng tới một nhãn quan chính đáng
về đời sống và lịch sử. Quí vị hãy
vững vàng xác tín như thế và hãy làm cho niềm xác tín
này trở thành
mấu chốt cho việc dấn thân của
mình.
Giáo
Hội, một Giáo Hội theo giòng lịch sử đã
thực sự đóng vai trò chủ yếu trong việc khai
sinh ra các viện đại học, tiếp tục hết
mình để thiết tha chăm sóc chúng, và Giáo Hội mong
thấy được việc đóng góp trọng yếu
nơi quí vị, để cơ cấu này tiến vào một
ngàn năm mới, hoàn toàn nhận thức được
mình như là một nơi phát triển đáng kể,
giữa tính cách cởi mở của kiến thức, lòng
ham mộ chân lý cùng với mối quan tâm đến tương
lai của nhân loại. Chớ gì cuộc hội
nghị Mừng Kỷ Niệm này ghi một dấu bất
nhòa nơi mỗi một người trong quí vị, và thúc đẩy
quí vị thực hiện công việc đòi hỏi này
bằng một sinh lực mới.
Ước
vọng như thế, và với hết lòng cảm mến,
nhân danh Chúa Kitô, Chúa của lịch sử và là Đấng Cứu
Chuộc nhân trần, Tôi ban Phép Lành Tòa Thánh cho tất cả
quí vị.
(Tuần San L’Osservatore Romano,
ấn bản Anh ngữ ngày