IX-      Một Công Việc Liên Quan đến Tất Cả Chúng Ta

 

MỌI NGƯỜI ĐỀU CÓ TRÁCH NHIỆM GIÁO LÝ

 

62-       Qúi huynh và các con nam nữ thân mến, giờ đây Tôi xin có lời, những lời huấn dụ thật tình và tha thiết theo sứ vụ chủ chiên chăn dắt toàn thể Giáo Hội hoàn vũ của Tôi, để hâm nóng lòng trí qúi huynh và các con nam nữ, như những lời thư Thánh Phaolô gửi cho các đồng bạn sống vì Phúc Aâm của ngài là Titô và Timôthêu, hay như Thánh Augustinô viết cho phó tế Deogratias khi vị phó tế này chán nản trước việc làm giáo lý viên của mình, một luận đề nho nhỏ về niềm vui giảng dạy giáo lý (De Catechizandis Rudibus, PL 40, 310-347). Phải, Tôi muốn gieo vãi đức can đảm, niềm hy vọng và lòng nhiệt thành dồi dào nơi tâm hồn của tất cả những người đa dạng khác biệt nhau đang phụ trách việc dạy đạo và việc đào luyện sống đời  theo Phúc Aâm.

 

CÁC VỊ GIÁM MỤC

 

63-       Để bắt đầu, Tôi xin hướng về chư huynh Giám Mục của Tôi: Công Đồng Chung Vaticanô II đã minh nhiên nhắc nhở qúi huynh về công việc của qúi huynh trong lãnh vực giáo lý (xem Sắc Lệnh về Sứ Vụ Mục Vụ của Giám Mục trong Thế Giới Christus Dominus, đoạn 14: AAS 58 năm 1966, trang 679), và các vị nghị phụ của Thượng Hội Giám Mục Thế Giới lần bốn này cũng nhấn mạnh đến nó nữa.

 

Chư huynh thân mến, chư huynh có một sứ vụ đặc biệt nơi các Giáo Hội của mình: Ngoài tất cả mọi việc khác, chư huynh phải chịu trách nhiệm chính yếu đối với vấn đề giáo lý, nhất là đối với các giáo lý viên. Cùng với Giáo hoàng, trong tinh thần liên kết giáo phẩm, chư huynh cũng có trách nhiệm giáo lý ở khắp Giáo Hội nữa. Bởi thế, xin chư huynh hãy vui lòng chấp nhận những gì Tôi nói cùng chư huynh tận đáy lòng Tôi đây.

 

Tôi biết rằng sứ vụ làm Giám Mục của chư huynh càng ngày càng phức tạp và đầy ắp. Cả ngàn việc cần đến chư huynh: từ việc huấn luyện các tân linh mục cho đến việc tích cực hiện diện nơi các đoàn thể giáo dân, từ việc cử hành các bí tích một cách sống động và xứng đáng, cùng cử hành các tác động tôn vinh phụng thờ, đến việc quan tâm tới tiến bộ của con người cũng như đến việc bảo vệ quyền lợi của con người. Thế nhưng, mối quan tâm trong việc chăm dưỡng cho vấn đề giáo lý được tích cực và hiệu qủa dầu sao cũng không được nhường bước cho các mối quan tâm khác. Mối quan tâm này sẽ dẫn chư huynh tới việc chư huynh, theo cá nhân mình, truyền đạt cho tín hữu của chư huynh giáo thuyết sống đạo. Tuy nhiên, mối quan tâm ấy cũng đưa chư huynh tới việc tìm cách thành lập, theo các dự án của hội đồng giám mục mà chư huynh thuộc về, trong giáo phận mình việc điều hành chính cho vấn đề giáo lý, đồng thời qui tụ quanh chư huynh những vị phụ tá có khả năng và đáng tin cậy. Vai trò chính của chư huynh là ở chỗ mang lại và bảo tồn trong Giáo Hội của mình một khát vọng thực sự đối với vấn đề giáo lý, một khát vọng được hiện thân nơi việc tổ chức liên hệ trực tiếp đến vấn đề giáo lý cho có thành qủa, được điều hành bởi các nhân viên, các phương tiện và máy móc cần thiết, cùng với các nguồn tài trợ nữa. Chư huynh cứ an tâm, nếu vấn đề giáo lý được thực hiện tốt đẹp nơi Giáo Hội địa phương của mình, thì mọi sự khác cũng sẽ được trôi chảy hơn. Không cần nói cũng thấy rằng, dù lòng nhiệt thành của chư huynh có bắt chư huynh phải bất đắc dĩ bác bỏ những lệch lạc và sửa chữa những sai lầm đi nữa, nó cũng sẽ mang lại cho chư huynh nhiều niềm vui và an ủi khi chư huynh thấy Giáo Hội của mình thăng tiến do bởi việc giảng dạy giáo lý theo như ý Chúa muốn.

 

CÁC LINH MỤC

 

64-       Còn linh mục, theo phận vụ của mình, là các phụ tá trực tiếp của Giám Mục trong lãnh vực giáo lý này. Công Đồng Chung Vaticanô II đã gọi linh mục là “giảng dạy viên trong đức tin” (Sắc Lệnh về Sứ Vụ và Đời Sống của Linh Mục Presbyterorum Ordinis, đoạn 6: AAS 58 năm 1966, trang 999); để làm một giảng dạy viên như thế, linh mục không còn cách nào tốt hơn là dốc toàn lực lo cho việc phát triển cộng đồng của mình trong đức tin. Có coi sóc giáo xứ hay không, hay làm tuyên úy cho các trường tiểu, trung, đại học, hoặc giữ trọng trách lo việc mục vụ ở lãnh vực nào đó, hay lãnh đạo các cộng đồng lớn nhỏ, nhất là lãnh đạo các nhóm giới trẻ, Giáo Hội mong rằng linh mục đừng bỏ lỡ điều gì  trong việc lo cho vấn đề giáo lý đâu vào đấy và được hướng dẫn đàng hoàng. Nếu linh mục may mắn có được các phó tế và các thừa tác viên khác thì thành phần này đều là phụ tá cho linh mục trong lãnh vực giáo lý. Tất cả mọi tín hữu có quyền được học hỏi giáo lý; tất cả mọi vị chủ chăn có nhiệm vụ phải cung cấp vấn đề giáo lý cho họ. Tôi luôn luôn yêu cầu các vị lãnh đạo dân sự tôn trọng việc tự do giảng dạy giáo lý; thế nhưng, Tôi hết sức nài xin linh mục là các thừa tác viên của Chúa Giêsu Kitô: Đừng vì thiếu nhiệt tình hay vì một tiền kiến không hay nào đó mà không lo đến vấn đề giáo lý cho tín hữu. Đừng để xẩy ra câu nói này “con cái xin ăn mà không ai cho chúng ăn” (Ai Ca 4:4).

 

CÁC NAM NỮ TU SĨ

 

65-       Nhiều tổ chức tu trì nam nữ được thành lập với mục đích để thực hiện việc giảng dạy Kitô giáo cho trẻ em và giới trẻ, nhất là cho thành phần bị bỏ rơi đáng thương nhất. Qua giòng lịch sử, tu sĩ nam nữ đã hết sức dấn thân cho hoạt động giáo lý của Giáo Hội, bằng việc làm hết sức thích ứng và công hiệu. Có lúc cần phải chú trọng hơn đến mối liên hệ giữa tu sĩ và các vị mục tử, từ đó, chú trọng đến cả sự hiện diện của các cộng đoàn tu trì cùng với các phần tử của họ trong những dự án mục vụ của Giáo Hội tại địa phương, Tôi hết lòng khuyên nhủ giới tu trì sống đời tận hiến phải làm cho mình càng sẵn sàng hơn với việc phục vụ của Giáo Hội, hết sức sửa soạn cho công việc giảng dạy giáo lý theo ơn gọi khác nhau của hội dòng mình, cũng như theo sứ vụ được ủy thác cho mình, và thực hiện mối quan tâm này ở mọi nơi mọi chốn. Các cộng đoàn tu trì hãy dấn thân bao nhiêu có thể, theo khả năng và phương tiện có được, cho công việc giảng dạy giáo lý.

 

CÁC GIÁO LÝ VIÊN GIÁO DÂN

 

66-       Nhân danh Giáo Hội, Cha thổn thức gửi lời cám ơn đến tất cả các con, các giáo lý viên giáo dân giảng dạy nơi các giáo xứ, các nam giáo lý viên và còn nhiều hơn nữa các nữ giáo lý viên trên khắp thế giới, những người đang hiến thân cho việc dạy đạo cho nhiều thế hệ. Công việc của các con thường thấp hèn và ẩn kín, nhưng lại được thực hiện bằng một nhiệt tình sốt sắng và quảng đại, công việc đó là một hình thức cao cả của việc tông đồ giáo dân, một hình thức quan trọng nhất là ở những nơi, vì các lý do khác nhau, trẻ em và giới trẻ không được dạy đạo đầy đủ tại gia đình. Bao nhiêu người trong chúng ta đã lãnh nhận từ thành phần như các con những ý niệm đầu tiên về giáo lý và dọn mình lãnh nhận bí tích Giải Tội, Rước lễ lần đầu và Thêm Sức! Thượng Hội Giám Mục Thế Giới lần bốn này đã không quên các con. Cùng với Thượng Hội Cha khuyến khích các con cứ tiếp tục việc cộng tác của các con cho sự sống của Giáo Hội.

 

Thế nhưng, chữ “giáo lý viên” trước hết được dành cho các giáo lý viên ở những miền đất truyền giáo. Được sinh ra bởi một gia đình gốc Kitô giáo, hay trở lại Kitô giáo vào một lúc nào đó, rồi được các nhà truyền giáo hay các giáo lý viên khác dạy đạo cho, nên họ hiến đời mình, từ năm này qua năm khác, cho việc dạy giáo lý cho trẻ em và người lớn nơi xứ sở của họ. Nếu thiếu họ, các Giáo Hội đang thăng tiến hôm nay đây đã không được dựng xây lên. Cha hân hoan thấy nỗ lực của Thánh Bộ về Việc Truyền Bá Đức Tin cho Các Dân Nước càng ngày càng cải tiến việc đào luyện các giáo lý viên ấy. Cha tri ân nhớ đến tất cả những ai đã được Chúa gọi về với Ngài. Cha xin lời chuyển cầu của tất cả những đấng được các vị tiền nhiệm của Cha tôn vinh trên bàn thờ. Cha hết lòng khuyến khích những ai dấn thân cho công việc giáo lý này. Cha bày tỏ ước muốn rằng sẽ có nhiều người khác tiếp tục họ và những người ấy sẽ tăng số để lo một công việc rất cần thiết cho công cuộc truyền giáo này.

 

NƠI GIÁO XỨ

 

67-       Giờ đây, Tôi muốn nói về môi trường thực tế mà tất cả những giáo lý viên này thường sinh hoạt. Lần này Tôi trở lại với cái nhìn bao quát hơn về những “nơi” giảng dạy giáo lý mà một số đã được đề cập tới ở chương VI là giáo xứ, gia đình, học đường và các cơ quan.

 

Thật ra có thể giảng dạy giáo lý ở khắp nơi, thế nhưng, theo ý của rất nhiều vị Giám Mục, Tôi muốn nhấn mạnh rằng, cộng đoàn giáo xứ phải tiếp tục đóng vai trò lo việc giảng dạy giáo lý và là một nơi rất tốt cho việc giảng dạy giáo lý. Phải công nhận rằng, ở nhiều xứ sở, giáo xứ thật sự đã bị xáo trộn bởi hiện tượng thành thị hóa. Có lẽ một số người, vì thích những cộng đoàn tương đối nhỏ bé hữu hiệu hơn, đã mau mắn cho rằng giáo xứ nếu không bị lu mờ mai một đi thì kể như là một giáo xứ cổ hủ. Bất kể người ta nghĩ  thế nào đi nữa, giáo xứ vẫn là một điểm qui tụ chính đối với dân Kitô giáo, cho dù họ là thành phần không sống đạo. Bởi thế, thực tế và khôn ngoan đòi chúng ta cứ tiếp tục theo con đường nhắm đến việc, nếu cần,  phục hồi cho giáo xứ những tổ chức đầy đủ thích hợp hơn, và nhất là, một sức đẩy mới, nhờ mang lại nhiều hơn cho giáo xứ những phần tử có khả năng, biết đảm trách và quảng đại dấn thân. Khi nói đến điều này, cũng như khi xét đến những địa điểm cần thiết khác nhau cho việc giảng dạy giáo lý (như giáo xứ, các gia đình nhận trẻ em và thanh thiếu niên, các khu vực tuyên úy cho trường học của Chính Phủ, các cơ sở giáo dục Công Giáo, các phong trào tông đồ dạy các cấp giáo lý, các tổ chức cho chung giới trẻ, các cuối tuần tĩnh huấn thiêng liêng v.v.), thì điều hết sức quan trọng là phải làm sao cho tất cả mọi thông mạch giáo lý ấy thực sự qui về cùng một lòng tuyên xưng đức tin, cùng một phần thể của Giáo Hội, và về việc dấn thân cho xã hội bằng cuộc sống theo tinh thần Phúc Aâm: “Chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Cha” (Eâphêsô 4:5-6). Đó là lý do tại sao mọi giáo xứ lớn hay mọi nhóm giáo xứ ít người có nhiệm vụ cần thiết trong việc huấn luyện thành phần hoàn toàn dấn thân cho việc phụ trách cung cấp giáo lý (linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân), trong việc cung cấp máy móc cần cho giáo lý ở mọi phương diện, trong việc tăng triển và thích ứng các địa điểm để có thể giảng dạy giáo lý tiện lợi, cũng như trong việc để ý tới tính chất huấn luyện về đạo của các nhóm khác nhau và việc họ tham gia vào cộng đoàn giáo hội.

 

Tóm lại, như Tôi đã nói, mặc dù không giữ độc quyền dạy giáo lý hay là một nơi duy nhất dạy giáo lý, giáo xứ vẫn là một nơi thượng hạng cho việc giảng dạy giáo lý. Phải tái khám phá ra ơn gọi của giáo xứ, đó là một gia cư huynh đệ và cởi mở, nơi những ai đã lãnh nhận bí tích rửa tội và thêm sức nhận thức được việc hình thành Dân Chúa. Nơi gia cư này, bánh giáo huấn thiện hảo và Bánh Thánh Thể được dồi dào bẻ ra cho họ, trong cảnh trí của một việc tôn thờ duy nhất (xem Công Đồng Chung Vaticanô II Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, đoạn 35 và 52: AAS 56 năm 1964, trang 109, 114; cũng xem Institutio Generalis Misalis Romani, được công bố bằng một Sắc Lệnh Thánh Bộ về Lễ Nghi ngày 6/4/1969, đoạn 33); từ ngôi gia cư này, ngày ngày họ được sai đi đến với sứ vụ tông đồ của mình ở tất cả mọi trung tâm hoạt động của đời sống thế giới.

 

TRONG GIA ĐÌNH

 

68-       Sinh hoạt giáo lý của gia đình có một tính chất đặc biệt, một tính chất mang ý nghĩa không thể thay thế được. Tính chất đặc biệt này đã được Giáo Hội, nhất là Công Đồng Chung Vaticanô II, xác đáng nhấn mạnh (Hiến Chế Lumen Gentium, đoạn 11 và 35: AAS 57 năm 1965, trang 15 và 40; Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân Apostolicam Actuositatem, đoạn 11 và 30: AAS 58 năm 1966, trang 847; Hiến Chế Gaudium et Spes, đoạn 52: AAS 58 năm 1966, trang 1073; nhất là Tuyên Ngôn về Giáo Dục Kitô Giáo Gravissimum Educationis, đoạn 3: AAS 58 năm 1966, trang 731). Việc cha mẹ giáo dục con cái trong đức tin, một việc phải được bắt đầu từ tuổi thơ ngây nhất của con trẻ (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Tuyên Ngôn về Giáo Dục Kitô Giáo Gravissimum Educationis, đoạn 3: AAS 58 năm 1966, trang 731), là việc được thực hiện khi các phần tử của gia đình giúp nhau lớn lên trong đức tin, qua chứng tá đời sống của họ, một chứng tá thường không phải bằng lời nói cho bằng những gì họ kiên trì sống một đời sống thường nhật theo tinh thần Phúc Aâm. Việc giảng dạy giáo lý như thế còn sâu sắc hơn nữa, khi nhịp sống gia đình có các biến cố (như việc lãnh nhận các bí tích, việc cử hành các ngày lễ lớn, việc chào đời của một đứa con, việc tang chế) là dịp để cặn kẽ dẫn giải ý nghĩa của các biến cố ấy theo Kitô giáo hay theo đạo giáo. Chưa hết, các Kitô hữu làm cha làm mẹ còn phải tuân theo và áp dụng việc giảng dạy có phương pháp hơn đã lãnh hội được vào môi trường cuộc sống gia đình. Sự việc những chân lý về các vấn đề đức tin và đời sống Kitô giáo này được đem nhắc lại nơi cảnh sống gia đình biết yêu thương và tôn trọng lẫn nhau như vậy, thường chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng đến đời sống của con cái. Chính bậc phụ huynh cũng có lợi bởi nỗ lực đòi buộc họ này, vì trong cuộc đối thoại giáo lý như thế, mỗi người đều vừa là kẻ nhận lãnh vừa là kẻ ban phát.

 

Bởi thế, giáo lý tại gia đi trước, đi kèm và làm thăng tiến tất cả mọi hình thức giáo lý khác. Hơn nữa, ở những nơi có luật bài đạo cố ngăn cản cả việc giáo dục trong đức tin, cũng như ở những chỗ đầy những sự vô tín ngưỡng hay trào lưu tục hóa xâm chiếm khiến cho việc phát triển đạo giáo thực là bất khả đạt, thì “giáo hội tại gia” (Hiến Chế Lumen Gentium, đoạn 11: AAS 57 năm 1965, trang 16; Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân Apostolicam Actuositatem, đoạn 11 và 30: AAS 58 năm 1966, trang 848) vẫn là nơi duy nhất để trẻ em và giới trẻ có thể học hỏi giáo lý thực sự. Bởi thế, đối với Kitô hữu phụ huynh, thì việc sửa soạn cho sứ vụ làm giáo lý viên dạy con cái mình, và việc thực thi sứ vụ này bằng một nhiệt tình thiết tha, không thể nào lại là một cố gắng quá sức cả. Phải làm sao khích lệ các cá nhân hay làm sao lợi dụng các dịp tốt, để, nhờ việc tiếp xúc cá nhân, nhờ các buổi hội họp, và nhờ tất cả mọi thứ phương tiện sư phạm, giúp cho phụ huynh thực hiện được việc làm của họ: việc họ đang làm cho vấn đề giáo lý là một việc làm không gì sánh bằng.

 

TẠI HỌC ĐƯỜNG

 

69-       Cùng với gia đình và hợp với gia đình, học đường cung cấp vấn đề giáo lý theo những gì có thể trong tầm tay của mình. Trong số các xứ sở sa sút đáng thương không thể thực hiện được việc dạy đức tin trong khả năng học đường, thì Giáo Hội phải đảm nhiệm điều này bao nhiêu có thể. Dĩ nhiên điều này trước hết và trên hết liên quan đến trường học Công Giáo: nó sẽ không còn xứng với tên này nữa, dù nó có nổi nang ở lãnh vực giảng dạy các vấn đề ngoài tôn giáo, nếu có lý do chính đáng cần phải được tái xét lại vì nó đã coi thường hay lệch lạc trong việc dạy đạo đích thực. Đừng nói rằng việc giáo dục này bao giờ cũng  được giảng dạy một cách âm thầm và gián tiếp. Đặc tính đặc biệt của học đường Công Giáo, lý do sâu xa có đặc tính này, lý do tại sao các người Công Giáo làm cha làm mẹ yêu thích nó, đó chính là vì phẩm chất dạy đạo được hòa hợp với việc học hành của học sinh. Vẫn biết các tổ chức Công Giáo phải tôn trọng tự do lương tâm, tức là phải tránh áp đặt lương tâm từ bên ngoài bởi việc áp đảo về thể lý hay luân lý, nhất là trong trường hợp sinh hoạt tôn giáo của giới thanh thiếu niên, các tổ chức này vẫn có nhiệm vụ nặng nề trong việc cống hiến dạy đạo một cách xứng hợp cho các trường hợp tôn giáo khác nhau bao quát của học sinh. Các tổ chức Công Giáo này cũng có nhiệm vụ làm cho các học sinh ấy hiểu rằng, mặc dù Thiên Chúa kêu gọi họ phụng sự Ngài trong tinh thần và chân lý, như các Giới Răn Chúa và luật điều Giáo Hội dạy, họ cũng không bị cưỡng ép phải nghe theo, vẫn biết việc Thiên Chúa kêu gọi họ là một việc bó buộc theo lương tâm.

 

Tôi cũng nghĩ đến các trường công không tôn giáo. Tôi  tha thiết muốn nói lên điều này là, để đáp lại quyền lợi rất rõ ràng của con người cũng như của gia đình, và để tôn trọng tự do tôn giáo của mọi người, thì tất cả mọi học sinh Công Giáo phải được phép tiến triển trong việc hình thành tâm linh của mình bằng sự trợ giúp của việc dạy đạo tùy ý Giáo Hội, thế nhưng, nếu vấn đề giáo lý chỉ thực hiện ở giáo xứ hay ở một trung tâm mục vụ, thì sự trợ giúp của việc dạy đạo, theo hoàn cảnh khác nhau nơi các xứ sở, cũng cần được cung cấp bởi trường học hay trong môi trường học đường, hoặc theo chương trình hợp đồng với chính quyền liên quan đến thời biểu học hành nữa. Thật vậy, ngay cả ở những nơi gặp các trở ngại tự nhiên thì thời biểu học hành cũng cần được sắp xếp làm sao cho phép học sinh Công Giáo có dịp đào sâu thêm vào đức tin cũng như kinh nghiệm sống đạo của mình, nhờ sự hướng dẫn của các thày cô có kinh nghiệm, hoặc linh mục hay giáo dân. 

 

Phải công nhận rằng, ngoài học đường ra, còn có nhiều yếu tố khác trong cuộc sống cũng đóng góp vào việc tác động tâm thức giới trẻ, chẳng hạn như vấn đề tiêu khiển, bối cảnh xã hội và hoàn cảnh làm việc. Tuy nhiên, những ai đi học đều bị ảnh hưởng bởi những gì mình học, đều được chỉ dạy cho biết các giá trị văn hóa hay luân lý trong một môi trường học hành thiết định, và phải đối diện với nhiều tư tưởng ở trường. Vấn đề giáo lý cần phải hết sức lưu ý đến tác dụng của học đường nơi học sinh, bằng việc móc nối với các yếu tố khác nơi kiến thức và giáo dục của họ; nhờ đó, Phúc Aâm sẽ được gieo vào tâm thức học sinh trong lãnh vực học hành của họ, và sẽ hòa hợp với văn hóa của họ trong ánh sáng đức tin. Bởi thế, Tôi có lời khuyến khích các linh mục, tu sĩ và giáo dân đều là những người đang dấn thân cho việc bảo trì đức tin của các người học sinh ấy. Hơn nữa, đây còn là một dịp để Tôi tái minh định niềm xác tín mạnh mẽ của Tôi, niềm xác tín là việc tỏ ra tôn trọng đức tin Công Giáo nơi giới trẻ, ở chỗ gây thuận lợi cho việc giáo dục đức tin, áp dụng đức tin, gắn bó đức tin, tự do tuyên xưng và thực hành đức tin, chắn chắn sẽ đem lại một niềm vinh dự cho bất cứ một chính quyền nào, dù chính quyền đó đặt nền móng trên một chế độ hay được phát xuất từ một ý hệ.

 

TRONG CÁC TỔ CHỨC

 

70-       Sau hết, phải khích lệ các đoàn thể giáo dân, các phong trào và nhóm hội, dù có mục đích làm việc tôn sùng đạo đức, trực tiếp làm việc tông đồ, bác ái và ủi an, hay có mục đích trở nên một sự hiện diện Kitô giáo nơi các việc trần thế. Tất cả các đoàn thể, phong trào và nhóm hội đó sẽ càng hoàn thành mục tiêu của mình và phục vụ Giáo Hội hơn, nếu chúng, trong việc tổ chức nội bộ cũng như trong phương thức hoạt động của mình, đặt nặng việc huấn luyện đạo đức thực sự cho các phần tử của mình. Như thế, theo ý nghĩa, mọi đoàn thể tín hữu trong Giáo Hội đều có nhiệm vụ phải giáo dục trong đức tin.

 

Điều này càng làm sáng tỏ hơn vai trò được trao phó cho giáo dân trong việc giảng dạy giáo lý ngày nay, một vai trò bao giờ cũng phải được thực hiện dưới sự hướng dẫn mục vụ của vị Giám Mục, theo như các đề nghị được nêu lên một số lần nhấn mạnh đến vấn đề này trong Thượng Hội Giám Mục Thế Giới lần bốn.

 

CÁC HỌC VIỆN HUẤN LUYỆN

 

71-       Chúng ta phải cám ơn Chúa về việc đóng góp này của giáo dân, thế nhưng, nó cũng là một thách đố cho trách nhiệm mục tử của chúng ta, vì những giáo dân dạy giáo lý này phải được trang bị cẩn thận để làm một việc, tuy không phải là một sứ vụ được thiết lập chính thức, tối thiểu nó cũng là một phận vụ có tầm vóc quan trọng trong Giáo Hội. Việc trang bị cho họ đòi chúng ta phải tổ chức những trung tâm và học viện đặc biệt, những nơi phải được các vị Giám Mục tỉ mỉ chú trọng. Đây là một mảnh đất nhờ đó việc hợp tác giáo phận, liên giáo phận hay toàn quốc được phong phú và sinh hoa kết trái. Cũng ở nơi đây các Giáo Hội có đầy đủ phương tiện hơn thực hiện việc viện trợ vật chất cho Giáo Hội chị em của mình càng cho thấy được một công hiệu cả thể nhất, vì còn trợ giúp nào tốt hơn việc Giáo Hội này giúp cho Giáo Hội kia phát triển thành Giáo Hội bằng sức riêng của mình? 

 

Tôi xin nhắc lại, với tất cả những ai đang dấn thân phục vụ Phúc Aâm, và những ai Tôi đã lấy làm hết sức phấn khởi ở nơi đây, lời huấn dụ của vị tiền nhiệm Phaolô VI đáng kính của Tôi: “Là các nhà truyền bá đức tin, chúng ta phải chứng tỏ… hình ảnh của một người trưởng thành trong đức tin và có khả năng tìm ra một điểm chung cục cho các căng thăng thực sự, nhờ niềm cảm thông, chân thành và vô tư trong việc tìm kiếm chân lý. Phải, mục đích của việc truyền bá phúc âm chắc chắn gắn liền với chứng từ hiệp nhất tỏ ra nơi Giáo Hội. Đó là một nguồn trách nhiệm, đồng thời cũng là một mạch ủi an” (Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 77: AAS 68 năm 1976, trang 69).