Dẫn nhập:
TÌNH YÊU
HÔN NHÂN ĐANG BỊ ĐE DỌA.
Đức thánh cha Gioan Phaolô II,
nhân dịp viếng thăm Mexico tháng 5.1990 đã nói về gia đình
như sau: "Tình yêu trong thế giới ngày nay đang bị đe dọa
bằng nhiều cách và tình yêu gia đình đang bị lu mờ dần
dần." Để điều chỉnh lại tình trạng này, Ngài nói đến sự cao
cả và trách nhiệm của gia đình. Gia đình là một cộng đồng
đầu tiên của sự sống và tình yêu. Gia đình là một môi trường
đầu tiên nơi con người học yêu mến và cảm thấy được mến yêu.
Không những bởi người khác mà còn bởi chính Thiên Chúa nữa.
ĐTC kêu gọi như sau: "Vì thế hỡi các cha mẹ Công Giáo, bổn
phận của anh chị em là xây dựng và gìn giữ tổ ấm này, trong
đó con cái anh chị em được sinh ra và lớn lên trong phẩm giá
làm con T.C. Nhưng tình yêu của anh chị em chỉ có thể nói về
T.C cho con cái của anh chị em, nếu trước hết anh chị em
được sống trong sự thánh thiện và trong việc tận hiến hoàn
toàn cho nhau trong hôn nhân."
Do đó, mục đích của bài viết này
nhằm đưa ra một vài yếu tố cơ bản giúp chúng ta có thể thực
hiện và xây dựng một mái ấm gia đình Kitô Giáo, thể theo như
những gì mà Vị Cha chung của chúng ta, ĐTC Gioan Phaolô II,
đã mời gọi.
A) TRÁCH
NHIỆM LUÂN LÝ TRONG HÔN NHÂN
1) Thời gian
đính hôn.
Thông thường thì việc chuẩn bị
cho hôn nhân được diễn ra, sau thời gian mà hai anh chị đã
quen nhau và đã trở nên thân thiết. Sau thời gian này, nếu
được tiếp tục, họ sẽ đi đến thời kỳđính hôn. Cái động lực
chính để đưa hai tâm hồn đến với nhau, trong nhiều trường
hợp, đó chính là tình yêu mà họ đã cảm nghiệm được từ nơi
nhau. Người thanh niên kia vàcô thiếu nữ nọ tự khám phá ra
những nét độc đáo nơi đối tượng của mình, mà thiết tưởng
người ngoài cuộc có thể không nhìn thấy, và điều đó khiến
cho cả hai người cảm thấy họ thực sự thuộc về nhau. Có thể
trong một vài trường hợp khác, cái động lực chính trong việc
chọn lựa cho mình một người bạn đời, lại là những yếu tố có
tính thực tiễn và do bởi lý luận tự nhiên, tỷ dụ như cùng
một nghề nghiệp hay cùng chung một sở thích. Nhưng cũng có
trường hợp, tuy chỉ mới gặp nhau đôi ba lần mà cả hai anh
chị đã yêu nhau ngay lập tức. Đó là một sự kiện mà ta hay đề
cập đến gọi là "tiếng sét của ái tình", nhưng dầu sao đi
chăng nữa, thì chúng ta cũng không nên loại trừ vai trò của
lý trí và tiếng nói của lương tâm trong việc chon lựa người
bạn đời cho chính mình. Vì đôi khi yêu quá cũng có thể hóa
dại.
Người bạn đường tương lai phải
có trách nhiệm xem xét và tìm hiểu coi đối tượng và mình có
thể hoà hợp với nhau hay không? Và có sẵn sàng chia sẻ vơí
nhau những khó khăn để cùng nhau xây dựng hạnh phúc lứa đôi
cho bền lâu. Đây thiết nghĩ là công việc của thời gian đính
hôn.
2) Ý nghĩa
của giai đoạn đính hôn.
Thời gian đính hôn là một cơ hội
thuận tiện, cho phép cả hai tìm hiểu lẫn nhau để xem tình
yêu của mình có được đặt trên một nền tảng vững chắc hay
không? Trong giai đoạn này, họ có thể có những tranh luận
hoặc bất đồng ý kiến với nhau trong khi thảo luận hay nói
chuyện. Họ có thể dò xét những sở thích của nhau, tìm hiểu
những ưu khuyết điểm của nhau và giúp nhau vượt qua những
tính hư nết xấu nếu có. Dần dà như thế, họ có thể hiểu rõ
hơn về đối tượng của chính mình để có một cái nhìn trung
thực và chuẩn xác hơn. Và hy vọng với những chiều hướng như
thế, sau này họ sẽ khắc phục được những khó khăn khi về
chung sống với nhau với tư cách là vợ chồng.
Có thể nói cái điểm then chốt
hay cơ bản, trong thời kỳ đính hôn là thời gian để cả hai
bên xem xét lẫn nhau. Và để tránh tình trạng ngộ nhận về đối
tượng của mình, thì chúng ta cần có một thời gian tương đối
kha khá, có thể là 6 tháng trở lên. Kẻo sau này, khi lấy
nhau về, lại có người than rằng: "Phải hồi đó, con biết
"ảnh" như dzậy thì con đâu có lấy"… Tính hấp tấp, vội vàng
thường hay dẫn đến sự ngộ nhận - "dục tốc bất đạt" - người
xưa vẫn nói thế. Nhưng ngược lại, cũng không nên kéo dài
quá, tỉ dụ như đã đính hôn cả hơn hai năm mà vẫn chưa thấy
cưới, như vậy nó cũng đâm ra thất lợi. Người con gái họ cũng
chỉ có một thời mà thôi!
Người trẻ hôm nay, có rất nhiều
tự do trong việc chọn lựa cho mình một người bạn đời, so với
bậc cha mẹ thuở xưa. Nhưng điều ấy cũng kèm theo sự gia tăng
về trách nhiệm cá nhân. Nói một cách chung, thì giới trẻ hôm
nay bước vào ngưỡng cửa hôn nhân muộn hơn, so với thời ông
bà của chúng ta trước đây.1 Điều ấy, nhìn với một khía cạnh
tích cực thì nó có thể diễn tả sự trưởng thành trong cái
quyết định của chính họ. Tuy vậy, người trẻ hôm nay cũng gặp
rất nhiều khó khăn đang khi bước vào đời sống hôn nhân. Họ
bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tư tưởng hiện đại, coi nhẹ
cái giá trị của đời sống gia đình và định chế hôn nhân. Có
một số các bạn trẻ quan niệm như sau: Nếu thích thì ở với
nhau, còn không thích nữa thì ra toà ly dị, rồi đường ai nấy
đi, như vậy là êm xuôi, không phiền toái gì đến ai cả. Quan
niệm ấy đặt giá trị hôn nhân như là một "hợp đồng" giữa hai
người, mất đi cái ý nghĩa của hôn ước hay giao ước, và mất
đi cái giá trị của sự bất khả phân ly trong định chế hôn
nhân. Điều này xảy ra rất nhiều ở các nước Tây phương, vì lẽ
đó mà con số ly dị của họ lên rất cao. Một vài tỷ dụ để dẫn
chứng.
* Tại nước Ý Đại Lợi, theo con
số thống kê của Học viện Quốc gia cho biết thì có sự gia
tăng về mức độ ly dị hiện nay. Họ cho biết cứ 100 đôi hôn
phối thì tỷ lệ ly thân là 23.5%. Trong số này có 12.3% sẽ ly
dị chính thức. Theo bài viết được đăng tải trên nhật báo La
Repubblica phát hành ngày 20.10.2001, thì con số ly dị hiện
nay tại Ý gia tăng gấp 3 lần trong những năm gần đây.
* Tại Anh Quốc, theo tờ báo The
Time ra ngày 22.8.2001, thì hiện nay đang có một hiện tượng
đáng chú ý, đó là con số ly dị đang gia tăng đối với những
cặp vợ chồng mà hôn nhân được thực hiện lần thứ hai. Theo
thống kê cho biết thì có 18.000 đôi vợ chồng ly dị vào năm
1981 và đến năm 1999 thì có 28.000. Như vậy chỉ trong có 8
năm, con số đã nhảy vọt hơn lên 10.000.
* Tại nước Uc Đại Lợi, theo nhật
báo The Age xuất bản tại thành phố Melbourne, phát hành ngày
25.10.2001, thì cứ 3 đôi hôn phối, có 1 đôi sẽ ly dị và con
số này còn gia tăng.
Từ đó chúng ta có thể suy ra ảnh
hưởng của ý thức hệ rất quan trọng. Tôi rất thích cái câu
của Steven Biko, một nhà đấu tranh cho nhân quyền ở Nam Phi
trong gian đoạn kỳ thị chủng tộc, giữa người da trắng và
người da đen tại đây. Anh ta nói như thế này: "nếu bạn muốn
cải tổ xã hội, bạn trước tiên, phải thay đổi cái não trạng
của họ." Đời sống hôn nhân sẽ bị ảnh hưởng rất lớn - điều
này có thể xấu hoặc tốt - tuỳ theo cái nhìn của mỗi người
chúng ta và những giá trị mà chúng ta gán đặt cho nó.
Lẽ đó, mà tôi thiết nghĩ, anh
chị em chúng ta, những nhà lãnh đạo tinh thần, chúng ta có
một trọng trách rất lớn trong việc bảo tồn, duy trì và phát
triển những giá trị đặc biệt trong đời sống hôn nhân Công
Giáo. Chúng ta và những người tín hữu trong cộng đoàn của
chúng ta phải ra sức tìm cách, hầu đề ra những phương thế
hữu hiệu nhằm giúp đỡ và hướng dẫn người trẻ hôm nay, để họ
có cơ hội tìm hiểu và khám phá ra cho chính mình những giá
trị tốt đẹp và độc đáo trong đời sống gia đình; nhờ đó, họ
được am hiểu một cách tường tận thế nào là đời sống hôn
nhân. Điều này có thể thực hiện cách hữu hiệu qua các khoá
dự bị hôn nhân, nếu chúng ta tổ chức cho đến nơi, đến chốn.
Đặc biệt là tại những nơi mà từ xưa đến nay, chúng ta đã có
một truyền thống tốt đẹp về các lớp dự bị hôn nhân, có lẽ
lúc này chúng ta cần đẩy mạnh và thăng tiến nó để cho nó
được hoàn chỉnh hơn.
Theo nhận xét chung, có tính
cách mục vụ, thì những người trẻ sắp sửa bước vào đời sống
hôn nhân, nếu họ bằng lòng chịu khó chuẩn bị cho mình một
cách tỉ mỉ bằng việc tham dự học hỏi cho đến nơi, đến chốn,
các lớp dự bị về hôn nhân, thì họ sẽ có nhiều điều kiện và
cơ hội hơn, để xây dựng mái ấm gia đình được bền lâu, và họ
sẽ sống hạnh phúc với nhau hơn, là những anh chị em không có
tham gia các lớp dự bị hôn nhân. Nói như vậy, cũng không có
nghĩa là, hễ ai đi học lớp dự bị hôn nhân thì đều có hy
vọng là đời sống lứa đôi của mình sẽ được vững chắc. Vì có
nhiều người đến tham dự lớp dự bị hôn nhân với một tính cách
miễn cưỡng, bất đặng đừng, chứ cũng chả mấy gì là tha thiết
cho lắm, miễn sao cho nó xong, và hoàn tất những thủ tục cần
thiết để cha xứ cử hành thánh lễ hôn phối là kể như hoàn
tất.
Nói tóm lại, các khóa dự bị hôn
nhân là điều tối cần thiết cho tất cả những ai muốn bước vào
đời sống gia đình, muốn xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh
phúc. Thật khó có thể hiểu được, khi có những người chỉ muốn
lái xe hơi, nhưng không bao giờ chịu khó học lái, kết quả là
họ đã gây ra tai nạn, và thương tổn đến tính mạng, trước
tiên là chính mình, sau đó là những người khác.
B) BẢN CHẤT
CỦA HÔN NHÂN
Trong đời sống hôn nhân, người
nam và người nữ cả hai hợp nhất với nhau trong cộng đồng yêu
thương vợ chồng, tạo cho nhau một mái ấm và sự hỗ tương về
mặt an toàn; họ đáp ứng và thỏa mãn cho nhau những ước muốn
về phương diện thể xác trong yêu thương, từ đó phát sinh ra
con cái. Họ cũng lãnh nhận và đảm nhiệm vai trò giáo dục con
cái. Quyền lập gia đình là một trong những quyền căn bản của
con người, cũng như quyền bình đẳng giữa những người phối
ngẫu trong đời sống gia đình đã được liệt kê trong bản tuyên
ngôn về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Con người (nam lẫn
nữ) khi đến tuổi trưởng thành, không bị giới hạn bởi chủng
tộc, quốc gia hay tôn giáo, đều có quyền (được lập gia đình)
đi đến hôn nhân và xây dựng mái ấm gia đình (điều 16).
1) Những mục
đích của hôn nhân.
Mục đích của hôn nhân thì nó đi
liền với mục đích của tình yêu tình dục, nhưng chúng lại
không nhất thiết là đồng nhất. Đời sống hôn nhân không chỉ
có mục đích duy nhất là sinh sản con cái, như vẫn thường
được quan niệm trước đây,2 nhưng nó còn có những mục đích
khác, chẳng hạn như việc giáo dục con cái. Một trong những
mục đích khác của đời sống hôn nhân là sự tương trợ lẫn nhau
trong một cách thức rất cụ thể, được thể hiện ngang qua cuộc
sống hằng ngày, ví dụ như chăm lo săn sóc lẫn nhau, đặc biệt
khi đau yếu, đây cũng là một hình thức biểu lộ sự yêu thương
của tình nghĩa vợ chồng, song song với việc chăn gối. Nói
cách khác, đời sống và mục đích của hôn nhân không chỉ hạn
hẹp trong việc sinh sản và các hành động hợp giao.
1.1. Sinh sản
và giáo dục con cái.
Một trong những mục đích cơ bản
của đời sống vợ chồng là việc sinh sản con cái: "Hôn nhân và
tình yêu vợ chồng, tự bản tính qui hướng về sự sinh sản và
giáo dục con cái. Con cái là ân huệ cao quí nhất của hôn
nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc của cha
me… Khi nói như vậy, không có nghĩa là Công Đồng Vaticanô
II, xem thường hay coi nhẹ những giá trị khác trong đời sống
hôn nhân. Thực ra, hai mục đích này (và nhiều mục đích khác
để phát triển nhân phẩm về mọi phương diện) đều là chính
yếu, nghĩa là hôn nhân đòi hỏi quyền lợi để hai bên (vợ
chồng) nhờ nhau mà đạt tới mục đích ấy. Lập giao ước hôn
nhân, nhưng loại trừ quyền lợi để sinh sản con cái thật là
vô lý và giao ước không thành. Điều này muốn ám chỉ đến
những đôi vợ chồng lấy nhau chỉ đểm uốn hưởng thụ nhục-cảm,
chứ không màng gì đến việc sinh con cái. Lẽ đó, dưới cái
nhìn của Công Đồng thì những đôi hôn nhân như vậy không
thành sự, xét về phương diện bí tích.
Do đó, việc thể hiện đích thực
tình yêu vợ chồng cũng như toàn thể tổ chức đời sống gia
đình phát sinh từ việc sinh sản con cái, đều nhằm giúp đôi
vợ chồng can đảm sẵn sàng cộng tác với tình yêu của Đấng Tạo
Hoá và Cứu Thế, mặc dù không loại bỏ các mục đích khác của
hôn nhân (như đã giải thích ở trên). Nhờ đời sống lứa đôi,
Thiên Chúa làm cho gia đình Ngài càng ngày càng bành tướng
và phong phú hơn.
Bổn phận truyền sinh và giáo dục
con cái phải được coi là sứ mệnh riêng biệt của vợ chồng.
Trong khi thi hành bổn phận ấy, họ biết rằng mình cộng tác
với tình yêu của Thiên Chúa Tạo Hoá và như thể trở thành
những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài. Bởi vậy, họ sẽ chu toàn
bổn phận của mình với trách nhiệm là bậc cha mẹ và là người
Ki-tô hữu.
Nhằm chú giải ước muốn của Đấng
Tạo Hoá, Thánh Kinh đã chí lý khi coi việc lưu sinh hậu thế
là một mục đích thiết yếu trong đời sống hôn nhân. Lời chúc
lành của Thiên Chúa cho cặp vợ chồng đầu tiên của nhân loại
trong Sách Sáng Thế ký "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho
đầy mặt đất" (St 1, 28), đã ban cho đời sống lứa đôi khả
năng sinh sản ở tất cả mọi thời và mọi nơi. Lời chúc phúc
này của Thiên Chúa dành cho đời sống hôn nhân được thể hiện
nơi niềm tin của dân Do-thái rằng: con cái là ân huệ của
Thiên Chúa. Và trong cái kế hoạch của Thiên Chúa đối với đời
sống gia đình, là họ phải sinh sôi nảy nở nhằm bành trướng
nhân loại.
Mặc dầu, một số gia đình hôm nay
đã giới hạn số con mà họ sẽ có, so với thời gian trước đây,
vì những lý do chính đáng và dẫu cho chúng ta hiện tại đang
nhấn mạnh nhiều đến khía cạnh tình yêu tương-trợ và sự ân
cần nâng đỡ lẫn nhau trong đời sống lứa đôi hơn so với quá
khứ, thì một số đông vợ chồng vẫn tiếp tục khao khát và ước
mong có con. Điều này được thể hiện qua các cặp vợ chồng
hiếm muộn về việc sinh con. Họ đã nổ lực và đã tìm đủ phương
pháp chữa trị hầu có thể thụ thai. Và ngay cả những cách
thức trên đã không thành công, thì họ đã nhận một con nuôi.
Điều này là một chứng cớ hiển nhiên, có sức thuyết phục
chúng ta về sự thật rằng: định chế hôn nhân và tình dục tự
bản chất của nó qui hướng về việc sinh sản con cái.
Định chế hôn nhân và mái ấm gia
đình tạo nên những điều kiện hay môi trường thuận lợi cho
việc sinh sản con cái và giáo dục chúng. Quả thực, đời sống
hôn nhân và gia đình chuẩn bị một bầu khí cần thiết cho tình
yêu vợ chồng và hoa trái của tình yêu đó là những đứa con.
Vì thế các quan hệ về tình dục chỉ hợp pháp trong lãnh vực
đời sống hôn nhân.
1.2. Sự nâng
đỡ lẫn nhau và lòng thủy chung trong tình yêu.
Một mục đích quan trọng khác
được đạt đến ngang qua giao ước hôn nhân, đó chính là sự
giúp đỡ lẫn nhau và lòng thủy chung trong tình yêu của đời
sống vợ chồng. Người xưa vẫn nói: "dấu ấn của tình yêu là
lòng chung thủy." Trong hôn nhân, người nam cũng như người
nữ: "phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết
trong con người và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được
sự hiệp nhất với nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự liên kết
mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau, cũng như
lợi ích của con cái buộc vợ chồng phải trung tín và đòi hỏi
kết hợp với nhau bất khả phân ly (Gaudium et Spes, 48).
Trong giao ước hôn nhân, người nam và người nữ với những
năng khiếu và khả năng khác biệt, bổ túc lẫn nhau một cách
hết sức hoàn hảo. Nói cách khác, họ bổ sung cho những khiếm
khuyết của nhau.
Chính mục đích này mà trong đời
sống hôn nhân đã được Thánh Kinh trong Sáng Thế Ký xác định
và thuật lại, nó xảy ra trong vườn địa đàng. Lý do tại sao
Thiên Chúa phú ban một người nội trợ và cũng là bạn đường
cho người đàn ông, là để nâng đỡ lẫn nhau và để trở nên bạn
đồng hành. "Người nam ở một mình không tốt. Ta sẽ làm cho nó
một người trợ tá tương xứng với nó" (St 2,18). Vì vậy, Thiên
Chúa đã dựng nên một người nữ. Nhìn thấy người phụ nữ, Adam
đã nói: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt
tôi!" Và Thánh Kinh đã kết luận: "Bởi thế, người đàn ông lìa
cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một
thịt" (St 1, 23tt). Cách diễn tả "một xương một thịt" xác
định một cách hết sức thực tiễn và rõ rệt sự trọn vẹn và
giúp đỡ lẫn nhau, giữa người nam và người nữ trong đời sống
hôn nhân. Điều đó ngụ ý rằng hôn nhân không chỉ là một sự
ràng buộc, nhưng nó là một thực thể mới, hay là một đời sống
mới, một cuộc sống chung với nhau, đã được cấu tạo và trong
thực tế chúng ta không bao giờ có thể tháo gỡ.
Sự giúp đỡ lẫn nhau giữa vợ
chồng trong đời sống hôn nhân, không chỉ trong những khi vui
tươi phấn khởi hay là hạnh phúc ngập tràn, mà ngay cả những
khi gặp khốn khó, hoạn nạn hay ưu sầu. Nói tóm lại, đã là vợ
chồng thì chúng ta phải chung lưng đấu cật, cùng chia sẻ với
nhau tất cả mọi ưu tư lo lắng trong đời sống lứa đôi. Sự so
sánh giữa hôn nhân loài người và sự kết hiệp mật thiết giữa
Chúa Giê-su và Giáo Hội được mô tả trong thư gửi tín hữu
Ê-phê-sô (Ep 5,21-33). Đó là điều thánh Phaolô muốn chúng ta
nắm giữ khi ngài nói: Hỡi các người chồng, hãy yêu mến vợ
mình như Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội, và đã nộp mình vì
Giáo Hội, để thánh hóa Giáo Hội (Ep 5,25-26), và thánh nhân
cũng không quên nhấn mạnh rằng: "này người nam sẽ rời bỏ cha
mẹ mình để gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ làm thành một
xác thịt duy nhất. Mầu nhiệm này thật lớn lao: tôi muốn ám
chỉ về Chúa Kitô và Giáo Hội." (Ep 5,31-32). Xem Sách Giáo
Lý Công Giáo (GLCG), số 1617.
Điều mà tôi vừa trích dẫn ở
trên, nhằm mục đích nói lên một thực tại trong đời sống hôn
nhân, đó là ý nghĩa của sự khổ đau, được coi như thập giá.
Quả thực, trong bất kỳ bậc sống nào, tu trì hay lập gia
đình, chúng ta đều có thập giá mà Chúa trao gởi cho chúng
ta. Điều ấy không có nghĩa là chúng ta dơ tay đầu hàng khi
đối diện với những khổ đau, thất bại hoặc điều bất hạnh xảy
đến. Là Ki-tô hữu chúng ta được kêu mời để không ngừng nổ
lực đem hết mọi cố gắng hầu bảo vệ và duy trì hạnh phúc gia
đình, ngay cả những khi gặp trục trặc. Đôi khi, chúng ta
cũng cần nhắc nhở chính mình là những bất hạnh ấy cũng có
thể là những cơ may cho chúng ta, nhằm điều chỉnh một vài sự
sai trái của bản thân và cũng có thể trở thành trường dạy
của tình yêu, giúp ta khám phá ra những giá trị cao hơn của
đời sống vợ chồng.
2) Sự bất khả
phân ly trong đời sống vợ chồng.
Một số xã hội trong thế giới
ngày nay đã cho phép ly dị trong một vài trường hợp, khi có
sự bất tương xứng giữa những cặp vợ chồng. Trong số những
nguyên nhân và căn cớ làm nền tảng cho việc ly dị được công
nhận, đó là vấn đề ngoại tình, đặc biệt là điều ấy nếu được
gây ra do người vợ. Một nguyên nhân nữa gây nên sự ly dị, đó
là tình trạng hiếm muộn không thể sinh con do người vợ, một
giải pháp được đưa ra cho vấn nạn trên, là cho phép người
đàn ông được cưới vợ bé. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần ghi
nhận rằng: phần đông các quốc gia không coi việc ly dị là
một giải pháp lý tưởng. Vì thế, việc ly dị tuy được chấp
nhận ở một vài xã hội, nhưng điều đó không có nghĩa là tất
cả mọi nơi đều nhất trí và ủng hộ lập trường đó.
Vấn đề ly dị, trong những thập
niên gần đây đã trở thành một vấn nạn khá thương đau. Cấp độ
ly dị đã gia tăng một cách hết sức nhanh chóng3. Nhiều lý do
được đưa ra hay được vịn tới, thêm vào số những lý do đã
được nêu trên. Sự tự do phóng túng trong vấn đề tình dục đã
được chấp nhận cách rộng rãi hơn trước. Trong thế giới kỷ
nghệ hoá và với những thành phố văn minh hiện đại ngày nay,
con người không còn chung sống như một đại gia đình, trong
đó gồm có ông bà nội, ngoại, hay cô chú, dì dượng… v.v..,
trái lại, họ sống như kiểu gia đình hạt nhân hay còn gọi là
tiểu gia đình: trong đó chỉ có ba mẹ và con cái. Điều này,
một mặt, đánh mất đi sự nâng đỡ hữu hiệu của những thân nhân
ruột thịt, bà con trong họ hàng đối với vợ chồng. Đàng khác,
đối với những cặp vợ chồng mà họ phải sống xa nhau tạm thời,
vì công ăn việc làm. Trong những hoàn cảnh như vậy sẽ gia
tăng cái nhu cầu tìm cho mình một người "bạn đường" khác.
Thêm vào đó, con người ngày hôm nay dường như sống lâu hơn,
đặc biệt trong những quốc gia phát triển và văn mình so với
ba chục năm trước đây. Trong quá khứ, cái chết của hai vợ
chồng sẽ kết thúc hôn nhân, trước cái thời điểm mà họ có thể
cứu xét đến việc ly dị. Trái lại, ngày hôm nay, nếu có sự ly
thân, thì điều ấy quả là một gánh nặng đau khổ bởi vì sự
sống của con người hôm nay kéo dài hơn. Nhiều đạo luật cho
phép việc ly dị, mà chúng ta thấy trong thế giới ngày nay
tại một vài quốc gia, chẳng qua đó cũng là một phản ảnh của
thực tế về những sự kiện thay đổi trong cuộc sống con người;
nhưng cùng lúc điều ấy cũng là một lời mời hấp dẫn và dễ
dàng bị cám dỗ. Nó đưa đến cho chúng ta một giải pháp rất
thuận tiện cho những khó khăn mà chúng ta đang gặp trong đời
sống hôn nhân, nhất là khi cơm không ngon, canh không ngọt.
Một mặt khác, điều này cũng ghi
nhận rằng, theo con số thống kê cho biết, một tỷ lệ khá đáng
kể của nhiều cặp vợ chồng đã ly dị, họ đã công khai thú nhận
rằng: hôn nhân của họ có thể được cứu vãn. Dám thú nhận điều
này, quả thực là một hành động khiêm tốn và là một lời
khuyến khích thật quí báu cho những cặp vợ chồng khác khi họ
đang gặp khó khăn. 4
C) QUAN ĐIỂM
CỦA THÁNH KINH ĐỐI VỚI VIỆC LY DỊ.
1. Cựu Ước
Thái độ của Cựu Ước đối với việc
ly dị thì đồng quan điểm với những dữ kiện mà người ta tìm
thấy dựa vào khoa nhân học xã hội (Social Anthropology).
Trong thời Giáo phụ, chỉ có một trường hợp ly dị được nhắc
tới: đó là việc Tổ phụ Abraham đuổi nàng thiếp của mình theo
yêu cầu của Sarah (St 21, 9-14). Sự việc khước từ một cô vợ
nếu không có lý do chính đáng, thì tiền nộp cho phía cô dâu
sẽ không được trả lại cho chú rễ, hẵn nhiên, điều này cũng
nhằm để ngăn ngừa tình trạng từ chối hôn nhân hay ly dị một
cách tự tiện, và bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Nhưng
trong thực tế, hay trên phương diện nguyên tắc, ly dị vẫn có
thể xảy ra, và luật lệ của người Do-thái cho phép thực hiện
điều ấy và chấp nhận điều đó là hợp pháp. Nếu người đàn ông
đã lấy vợ và đã cưới hỏi rồi, mà sau đó vợ không đẹp lòng
người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng,
thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và
đuổi ra khỏi nhà (x. Đnl 24,1). Điều nổi bật và đáng chú ý
của chứng thư ly dị là người phụ nữ đó được quyền tái giá
với một người đàn ông khác mà không phạm tội ngoại tình (x.
Đnl 24, 2).
Lý chứng để làm nền tảng cho
việc ly dị được mô tả khá chi tiết trong bản văn của sách Đệ
Nhị Luật, và đã là nguyên nhân cho những cuộc tranh luận sôi
nổi trong giới các luật sĩ. Trong thời buổi Chúa Giê-su, có
hai lối giải thích khá quan trọng đối với luật cho phép được
ly dị, xuất phát từ hai trường phái.
* Trường phái thứ nhất là của
Shammai, có vẻ nhặt nhiệm hơn, chỉ có việc ngoại tình của
người vợ thì mới được coi là đủ lý chứng cho việc ly dị.
* Trường phái thứ hai là của
Hillel, được đặt trên nền tảng của chương 24, câu1, trong
sách Đệ Nhị Luật, cho rằng bất cứ lý do gì cũng được. Trong
số đó, một vài lý do được nhắc tới, tỷ dụ như việc người vợ
nấu thức ăn bị cháy, hoặc ngay cả nếu người chồng tìm thấy
một người phụ nữ khác đẹp hơn, thì ông ta cũng có quyền ly
dị vợ mình để đính hôn với người ấy. Dân chúng thời Chúa
Giê-su trong các hội đường ủng hộ lập trường của phái
Hillel. Dẫu vậy, việc ly dị cũng đã không xảy ra thường
xuyên, chỉ có những kẻ giàu có lợi dụng chuyện này.
Các ngôn sứ, một đàng tỏ ra chấp
nhận việc ly dị như một thực tại của hoàn cảnh; nhưng đàng
khác, họ nhìn nhận sự bất khả phân ly trong hôn nhân là một
lý tưởng. Tuy nhiên, điều rõ nét nhất trong toàn bộ các lời
giảng dạy của các ngài về hôn nhân và sự trung tín giữa vợ
chồng, thì việc ly dị là điều không thể xảy ra. Sự bất khả
phân ly trong đời sống hôn nhân thì cũng giống như cái lý
tưởng một vợ một chồng, được các ngôn sứ bao hàm trong lối
so sánh của họ, nhằm nói lên mối liên hệ mật thiết của Đức
Chúa Yavê và dân Do-thái, tựa như một hôn ước (marriage
covenant). Tột đỉnh của lý tưởng hôn nhân được mô tả trong
Cựu Ước, qua đoạn sách của ngôn sứ Malachi (2,14-16).
"Bởi Đức Chúa Trời là chứng nhân
giữa ngươi và người đàn bà ngươi đã cưới trong tuổi thanh
xuân. Chính ngươi đã phản bội nó, mặc dầu nó là bạn đường và
là người vợ kết ước với ngươi. Người đã chẳng làm nên một
hữu thể duy nhất có xác thịt và Thần Khí đó sao? Vậy hữu thể
duy nhất này tìm cái gì? Một dòng dõi của Thiên Chúa. Các
ngươi hãy coi chừng và chớ phản bội người đàn bà ngươi đã
cưới trong tuổi thanh xuân. Quả thật, Ta ghét việc rẫy vợ,
Đức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en phán."
Cái lý tưởng này cũng được phản
ảnh trong đoạn Sách Sáng Thế, nói về việc Thiên Chúa tạo
dựng người phụ nữ nơi vườn điạ đàng, trong cái khung cảnh mà
hôn nhân đầu tiên được mô tả như là chỉ có một vợ và một
chồng và hôn nhân có tính cách vĩnh viễn.
2. Tân Ước
Những tranh luận về việc ly dị
giữa những người Do-thái với nhau, tạo cơ hội cho Chúa
Giê-su trả lời cho vấn đề, và đưa ra cái quan điểm của Ngài
một cách công khai, và thẳng thừng lên án cách mạnh mẽ những
sự ươn hèn của các luật sĩ Do-thái và lập trường của chính
họ về vấn đề ly dị.
Lời lẽ phát biểu của Ngài được
ghi lại trong Tin Mừng của Mát-thê-ô (5,31tt); Lu-ca (16,18)
và thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô (1Cô-rin-tô 7,10tt).
Cũng như trong các cuộc thảo luận được ghi lại do Mác-cô
(10,2-12) và Mát-thê-ô (13, 3-9). Trong khi tranh luận với
các biệt phái, Chúa Giê-su đã hủy bỏ việc cho phép ly dị
theo luật của Mô-sê, điều ấy đã được ban cho dân Do Thái, vì
tấm lòng chai đá của họ. Chúa Giê-su đã trưng dẫn hai đoạn
Sách Thánh nhằm chống lại và phản đối sự việc Mô-sê đã chuẩn
cho dân Do-thái được phép viết chứng thư ly dị. Theo Sách
Sáng Thế Ký, phụ nữ được coi như ngang hàng và bình đẳng về
nhân-phẩm với nam giới. "Cả nam lẫn nữ Thiên Chúa đã dựng
nên họ." (St 1,27) " và cả hai thành một xương một thịt" (St
2,21). Sự hiệp nhất bền vững giữa người nam và người nữ được
Đức Ki-tô nói rõ khi nhắc lại ý định "từ nguyên thủy" của
Đấng Sáng Tạo. "Họ không còn là hai; nhưng chỉ là một xương
một thịt" (Mt 19,6). Lẽ đó, họ không thể phân ly.
Lời Chúa Giê-su phán cho biết
Ngài khẳng định từ chối bất cứ trường hợp ly dị nào. Nhưng
chẳng phải trong Tin Mừng đã chả cho phép rẫy vợ (ly dị)
trong trường hợp ngoại trừ đó sao? sự kiện này đã được hợp
thức hoá trong điều khoản phạm tội gian dâm với người khác.
"Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em
biết, ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ
là đẩy vợ tới chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị
rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình" (xem Tin Mừng Mát-thê-ô
5,32).
Và Mát-thê-ô 19,9 " Tôi nói cho
các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai
rẫy vợ mà cưới vợ khác thì phạm tội ngoại tình".
Phải công tâm mà nói việc chú
giải đoạn văn trên với "mệnh đề đặt điều kiện" là một việc
khá phức tạp và nhiều khó khăn. Tuy nhiên, điều ấy vẫn không
có hiệu lực làm mất đi cái giá trị căn bản mà Chúa Giê-su
đã tuyên bố về việc ly dị. Mác-cô, Lu-ca và Phao-lô
không hề hay biết về trường hợp ngoại trừ này. Không thể
hình dung được là họ đã bỏ sót một tuyên ngôn khá quan trọng
như vậy.
Vậy thì chúng ta phải giải thích
như thế nào cái điều khoản gian dâm? Nhiều hoc giả Thánh
Kinh đã cố gắng chú giải điều ấy với những lý lẽ khác nhau.
Tuy nhiên, có hai giả thuyết đã được đại đa số chấp nhận.
Giả thuyết thứ nhất cho rằng từ "Porneia" (nguyên ngữ Hy
lạp), trong mệnh đề nhắm tới việc cưới hỏi lẫn nhau giữa
những người trong họ hàng thân tộc, điều này đã được cấm
đoán trong Cựu Ước (x. Lv 18, 6 tt) và vì thế được coi như
là bất hợp pháp, bởi người Do-thái cũng như bởi Giáo Hội
thời sơ khai, trong khi điều ấy được coi như là hợp pháp đối
với dân ngoại (tỉ dụ đám cưới giữa chú và cháu hoặc giữa anh
em họ với nhau). Những cuộc hôn nhân như vậy, sau này có thể
bị khám phá ra khi họ nộp đơn xin rửa tội để trở lại đạo, và
hôn nhân của họ phải được kết thúc hoặc giải thể. Điều này,
tạo nên cái ấn tượng là cho phép ly dị đối với người lương
dân, sau này các nhà soạn thảo lại Tin Mừng theo thánh
Mát-thê-ô đã nỗ lực cố gắng để đưa ra một giải thích thỏa
đáng cho vấn đề nan giải này.
Giả thuyết thứ hai thì cho rằng
cái mệnh đề (đặt điều kiện) ấy, mô tả một trường hợp ngoại
trừ thật sự đối với việc cấm đoán ly dị. Từ "Porneia" được
chuyển ngữ là thông dâm/gian dâm (Fornication) hoặc ngoại
tình (Adultery). Lối giải thích này được các nhà chú giải
Kinh Thánh của giáo phái Tin Lành và Chính Thống Giáo chấp
nhận cách rộng rãi, và cho đến nay thì một số đông các học
giả Công Giáo cũng đã chấp nhận. Hầu hết các nhà chú giải
Kinh Thánh (trong số đó có cả Công Giáo) hiện nay, có xu
hướng chấp nhận trường hợp ngoại lệ cho vấn đề ly dị trong
trường hợp người vợ phạm tội ngoại tình.
Nhưng nếu chúng ta đối chiếu với
phần chú giải - nằm ở cuối trang - của bản dịch Tân Ước do
Ban PhụngVụ Các Giờ Kinh thực hiện, thì chúng ta thấy văn
bản được dịch là "ngoại trừ trường hợp HÔN NHÂN BẤT HỢP
PHÁP" (Mt 5,32) và cụm từ hôn nhân bất hợp pháp được giải
thích như sau: diễn dịch từ Hy lạp "porneia". Theo văn mạch
ở đây cũng như ở Mt 19,9 và so với Mc 10,11-12; Lc 16,18;
1Cr 7,10-11, thì Chúa Giê-su thắt chặt lại khoản luật lỏng
lẽo của Cựu Ước về ly dị (x. Đnl 24,1-2). Trường hợp ngoại
trừ ở đây không phải là ly dị vì ngoại tình (Hy Lạp:
moikheia). Porneia cũng không hiểu là gian dâm theo nghĩa
thông thường, mà theo luật Do-thái thời xưa. Những cuộc sống
chung giữa những người họ hàng với nhau mà Lê-vi 18 kê khai
được coi là gian dâm, nghĩa là bất hợp pháp. Có lẽ Mát-thêu
muốn đưa về Công Vụ Tông Đồ 15, 29 (cũng từ porneia): các
tín hữu gốc ngoại phải tránh kết hôn với người có họ hàng,
vì đó trái luật Do-thái, dù rằng theo luật đời, các hôn nhân
giữa họ hàng như vậy có thể hợp pháp.
Chúa Giê-su từ chối việc ly dị,
đối với giả thuyết thứ hai, nghĩa là được phép ly dị, nếu
người vợ phạm tôi ngoại tình. Sự kiện Chúa Giêsu phản đối
việc ly dị, điều đó được xem như là một biểu lộ của lý
tưởng, chứ không phải là luật hoàn toàn có tính cách tuyệt
đối. Quan điểm này được ủng hộ dựa vào những chứng cớ tìm
thấy nơi đoạn Tin Mừng của Mát-thê-ô 5, 3tt, qua Bài Giảng
Trên Núi. Tại đây, chính Chúa Giê-su, trong một diễn đạt
khoáng đại đã mời gọi con người đạt tới mức thiện hảo vô
song. Nhưng điều ấy không có nghĩa là đặt ra những luật lệ
buộc con người phải tuân giữ theo sát bản văn.
Trong Bài Giảng Trên Núi, có rất
nhiều lời tuyên bố với tính cách xác quyết. Tuy nhiên, Giáo
Hội chỉ coi đó là những lý tưởng chứ không phải là giới luật
(ví dụ như những huấn dụ về lời thề hứa, việc bất bạo động,
yêu thương kẻ thù và nên hoàn thiện như Thiên Chúa - xem Mt
5, 21-48)5. Vì thế, việc Chúa Giê-su khăng khăng phản đối
việc bất khả phân ly trong đời sống hôn nhân có thể mang một
tính chất giống như vậy, nó chỉ là một lý tưởng mà người ta
phải nỗ lực ra sức theo đuổi chứ không hẳn là một lề luật áp
chế tất cả mọi người tuân theo theo nghĩa ngữ của nó.
Nói tóm lại, quan điểm của Chúa
Giê-su thì đơn giản: lý tưởng cho các cặp vợ chồng Ki-tô
giáo là họ nên trung tín với nhau, cho nên việc ly dị xét ra
không cần thiết. Nhưng một mặt khác, Giáo Hội thời tiên
khởi, dường như cũng đã xem xét đến những điều kiện thực
tiễn của một thế giới bị giới hạn bởi những khiếm khuyết và
tội lỗi, nên không thể tránh khỏi những bất trắc xảy ra,
cho nên các ngài cũng đã tìm kiếm một giải pháp thích hợp
nhằm điều chỉnh sao cho phù hợp với hoàn cảnh thực tại. Nơi
đây, ta cũng nên nhắc lại trường hợp ngoại trừ được thánh
Phao-lô cho phép, trong trường hợp, một người ngoại giáo mà
họ muốn ly dị với người phối ngẫu của họ đã trở thành Ki-tô
hữu. Trong trường hợp này, thánh Phao-lô phán quyết như sau:
Người tín hữu không bị bó buộc phải duy trì bậc sống độc
thân. "Còn với những người khác, thì tôi nói chính tôi chứ
không phải Chúa: nếu anh em nào có vợ ngoại đạo mà người này
bằng lòng ở với người ấy, thì người ấy đừng rẫy vợ. Người vợ
nào có chồng ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người
ấy, thì người ấy đừng bỏ chồng. Thật vậy, chồng ngoại đạo
được thánh hoá nhờ vợ, và vợ ngoại đạo được thánh hoá nhờ
người chồng có đạo. Chẳng vậy, con cái anh em sẽ làm ô uế,
trong khi thật ra chúng là thánh. Nếu người ngoại đạo muốn
bỏ người kia thì cứ bỏ; trong trường hợp đó, chồng hay vợ có
đạo không bị luật hôn nhân ràng buộc: Thiên Chúa đã kêu gọi
anh em sống bình an với nhau! Chị là vợ, biết đâu chị chẳng
cứu được chồng? Hay anh là chồng, biết đâu anh chẳng cứu
được vợ?" (1Cr 7,12-16) .
D) GIÁO HUẤN
CỦA HUẤN QUYỀN
Đại đa số các giáo phụ ủng hộ
lập trường tuyệt đối bất khả phân ly của hôn nhân. Tuy thế,
cũng có một số vị đã bênh vực trường hợp ngoại trừ cho một
số trường hợp nan giải. Họ thường xuyên trưng dẫn đoạn văn
của Mat-thê-ô 5,32, để ủng hộ cho quan điểm và lập trường
của họ.
Thái độ của Huấn Quyền đã được
đặc điểm hoá bằng những xác tín không lay chuyển rằng: sự
ràng buộc hôn nhân Công Giáo ngang qua bí tích, thì không
thể tháo cởi, nó mang tính chất bất khả phân ly. Giáo huấn
của các Đức Giáo Hoàng và của Công Đồng chung thì kiên vững
và hầu như đồng tâm nhất trí: việc tái hôn hay lập gia đình
lại, sau khi đã ly dị là điều không thể được, và không thể
chấp nhận, ngoại trừ trong trường hợp đã được tiêu hôn
(Annulment), nghĩa là Giáo Hội xác nhận hôn nhân đầu tiên
của họ không thành sự. 6 Giáo Hội Công Giáo hằng lên tiếng
bảo vệ sự tuyệt đối bất khả phân ly của hôn nhân ngay cả khi
phải trả một giá rất đắt. Một ví dụ điển hình nổi bật là
thái độ khẳng định của hàng phẩm trật thuộc Giáo Hội Công
Giáo La Mã đối với vua Henry VIII của Anh quốc, người đã gây
nên cuộc ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã và thành lập
Anh Giáo, bởi vì Đức Giáo Hoàng thời bấy giờ đã khước từ
thỉnh nguyện thư của ngài nhằm để xin phép giải hôn phối đầu
tiên, và cho phép ngài được kết hôn một lần nữa.
Giáo thuyết về việc bất khả phân
ly trong hôn nhân Công Giáo được công bố một cách rõ rệt, tỏ
tường bởi Công Đồng Trentô. Nhưng có một điểm đáng chú ý là
các nghị phụ đã chủ tâm tránh né việc lên án cách thực hành
của các Giáo Hội Đông Phương liên quan đến việc ly dị. Theo
các giáo hội này thì quan điểm của họ cho rằng: hiệu lực của
bí tích hôn phối không có giá trị suốt cả cuộc đời, đối với
người phối ngẫu đầu tiên. Tuy vậy, hôn nhân thứ hai chỉ là
việc bất đặng đừng phải chấp nhận và cho phép đón nhận Bí
tích Hôn phối.
Công Đồng Va-ti-ca-nô II công bố
việc bất khả phân ly của hôn nhân, mặc dầu có một số nghị
phụ đề nghị cho phép ly dị trong một vài trường hợp nan
giải. Sau đây, tôi xin phép trích dẫn một đoạn trong Hiến
chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay (Gaudium et
Spes), số 48, liên quan đến việc bất khả phân ly trong đời
sống hôn nhân.
"Như thế, bởi một hành vi nhân
linh, trong đó, hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận
nhau nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế
vững chắc có giá trị trước mặt xã hội nữa. Vì ích lợi của
lứa đôi, của con cái và của xã hội, nên sợi dây liên kết
thánh thiện này không lệ thuộc sở thích của con người. Chính
Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích
và mục tiêu khác… Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến
của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai
vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi họ kết hợp với nhau
bất khả phân ly."
Bộ Giáo luật cũng đã diễn giải
một cách chi tiết hơn, liên quan đến Bí tích Hôn Nhân Công
Giáo, một khi đã được thành sự trọn vẹn bởi hành vi quan hệ
vợ chồng, qua việc giao hợp, thì không thể tháo cởi do quyền
lực con người, hoặc bất cứ điều gì ngoài sự chết. (x. Sách
Giáo luật, số 1141). Tuy nhiên, nếu như Bí tích Hôn nhân
chưa thành sự trọn vẹn thì điều ấy có thể cởi tháo, nếu có
lý do chính đáng (x. Sách Giáo Luật, số 1142). Thêm vào đó,
việc kết hôn hợp pháp giữa những người chưa chịu phép Rửa
Tội, tuy rằng hôn nhân ấy đã thành sự trọn vẹn, thì điều ấy
vẫn có thể cởi tháo nhằm ủng hộ đức tin theo đặc ân của
thánh Phao-lô (x. Sách Giáo Luật, số 1143). Đặc ân này được
dựa trên đoạn thánh thư gửi cho tín hữu Côrintô (1Cr 7,
12-16).
E) NHỮNG LÝ
DO CƠ BẢN NHẰM PHẢN ĐỐI VIỆC LY DỊ
Bản văn của Công Đồng
Va-ti-ca-nô II liệt kê ba lý do chính nhằm phản đối việc ly
dị gồm có: 1) Lợi ích của lứa đôi, 2) của con cái và 3) của
xã hội (x. Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày
Nay, Gaudium et Spes, số 48). Lý do thứ tư có tính cách thần
học được rút ra từ vai trò của bí tích trong hôn nhân Công
Giáo.
1) Ly dị bị
phản đối vì lợi ích của đôi vợ chồng.
Việc ly dị sẽ đánh mất đi cái ý
nghĩa và mục đích của sự tự hiến của hai người cho nhau và
lòng trung tín trong tình yêu. Người chồng và người vợ không
thể tận hiến cho nhau một cách trọn vẹn, khi mà trong đầu óc
của họ vẫn lấp ló một ý nghĩ, là mối dây liên hệ mật thiết
ràng buộc trong tình nghĩa vợ chồng vẫn có thể bị tan vỡ.
Xét về phương diện tâm lý thì tự bản chất tình yêu của con
người đã qui hướng về bạn đường trăm năm. Mục đích của việc
bảo vệ và giúp đỡ chăm sóc lẫn nhau là một điều tối cần
thiết nhất là trong khi gặp hoàn cảnh khó khăn, điều này chỉ
có thể đảm bảo trong bậc sống hôn nhân khi quan hệ vợ chồng
là một quan hệ vĩnh viễn. Quả vậy, tình yêu chân thật trong
đời sống hôn nhân không thể giới hạn trong một khoảng khắc
nào đó. Nghĩa là hôm nay thì tôi yêu em, nhưng ngày mai thì
không còn nữa.
Việc khẳng định rằng mối dây
ràng buộc trong đời sống hôn nhân là bất khả phân ly tạo nên
một thế lực rất mạnh, nhằm để bảo vệ lợi ích tình yêu vợ
chồng và lòng trung thành. Nó mang lại một động lực rất
mạnh, hầu giúp cho đôi vợ chồng chấp nhận, chịu đựng những
khuyết điểm của nhau trong kiên nhẫn và bảo tồn sự hiệp nhất
cũng như hoà thuận với nhau. "Nếu định chế hôn nhân và gia
đình không có một nền tảng vững chắc, thì xã hội sẽ trở nên
nghèo nàn, và điều đó đã làm mất đi cái nét yêu kiều của bộ
mặt con người. Con người sẽ trở nên cô lập, tính toán so đo
với nhau và những mối liên hệ giữa con người với nhau chẳng
qua là để vụ lợi. Nó còn làm cho sự đoàn kết mỗi ngày một
rạn nứt lớn hơn." Qủa thật chí lý khi nói rằng: "Dấu ấn của
tình yêu chân thật là lòng trung thành."
2. Sự phân ly
trong hôn nhân gây tác hại cho trẻ em.
Một khi mà mối dây liên hệ ràng
buộc trong đời sống hôn nhân bị lỏng lẻo, thì con cái bị
tước đoạt đi tình cảm của bố hoặc mẹ nó hay cả hai, và điều
ấy hiển nhiên ảnh hưởng đến sự tự tin của chúng, việc học
hành và gây nên sự bất ổn trong tâm hồn. Sự mất mát đối với
trẻ em thì không thể bồi hoàn lại được.
"Có thể nói không ai chịu nhiều
đau khổ hơn các em khi ba mẹ chúng ly dị. Các em là nạn nhân
chính trong các cuộc ly dị. Thật vậy, các em là của hy sinh
cho sự yếu hèn của cha mẹ. Ly dị được cảm nhận bởi các em
như là một sự khước từ của cha mẹ đối với chúng ." (xem
"Love Is For Life" - Lá thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Ái
Nhĩ Lan (1985) .
Thông thường thì các em sẽ gặp
phải nhiều vấn nạn và khó khăn khi chúng phải trải qua cuộc
ly dị của ba mẹ. Một cha ghẻ hay dì ghẻ không thể nào có thể
thay thế cho một người cha hay người mẹ của các em, mặc dầu
có rất nhiều những cha mẹ ghẻ đã làm hết sức của họ. Một em
khi phải sống với cha hay mẹ ghẻ của mình thì khả năng bị
đối xử tàn tệ có thể diễn ra thường xuyên hơn khi em ấy sống
với cha mẹ ruột của mình 7.
Lợi ích của con cái ít khi được
sử dụng để coi đó như một sự ép buộc cha mẹ không được phép
ly dị, nhưng ngược lại, nó dùng để đấu tranh cho sự bền vững
của mái ấm gia đình.
3) Lợi ích
của xã hội đòi hỏi gia đình phải bền vững.
Chỉ có phương cách ấy thì việc
giáo dục lành mạnh cho các thế hệ trẻ có thể được bảo đảm;
và sự tương thân, tương trợ đoàn kết lẫn nhau trong cùng một
cộng đoàn mới được bảo vệ và nâng đỡ. Chính quyền không
những chỉ có trách nhiệm và bổn phận giải thể những cuộc hôn
nhân bị trục trặc, nhưng họ còn phải có trách nhiệm cung cấp
những dịch vụ tư vấn về phương diện gia đình hầu giúp đỡ
việc hoà giải và tái lập những hôn nhân đã bị đổ vỡ.
4) Lý luận
sau cùng là một lý luận mang tính chất thần học.
Điều này được xây dựng trên nền
tảng của Bí tích Hôn nhân Công Giáo, bởi nó chỉ được áp dụng
cho Ki-tô hữu mà thôi. Đức Giê-su Ki-tô gợi lại cho những kẻ
đi theo Ngài, việc nhân nhượng cho phép người Do-thái rẫy vợ
theo luật của Mô-sê; và trong thư gởi cho giáo đoàn Côrintô
(1Cr 7,12-16), thánh Phaolô cũng đã nhân nhượng cho phép họ
được ly dị chỉ trong trường hợp hôn nhân không Công Giáo
(nghĩa là giữa hai người chưa chịu phép Thanh Tẩy). Ngược
lại hôn nhân Công Giáo, một khi đã thành sự và trở nên bí
tích thì không thể giải được.
Chúng ta thấy Bí tích Hôn nhân
Công Giáo cũng được nhắc đến trong thư của thánh Phao-lô gửi
cho giáo đoàn Ephêsô (Ep 5, 21-33). Bản văn này đã so sánh
giữa hôn nhân Ki-tô giáo và sự hiệp nhất của Đức Ki-tô với
Giáo Hội, như đã nhắc tới ở phần trên "Hôn nhân Ki-tô giáo
là dấu chỉ hữu hiệu, là Bí tích của Giao Ước giữa Đức Ki-tô
và Hội Thánh" (x. GLCG, số 1617).
Thánh Phao-lô còn nói thêm:
"Người làm chồng hãy yêu thương vợ như Đức Ki-tô yêu thương
Hội Thánh, và hiến mình vì Hội Thánh … Còn những người làm
vợ thì hãy tùng phục chồng mình, như Hội Thánh tùng phục
Chúa Ki-tô". Nhưng chúng ta cần ghi nhớ điều này là chúng ta
đang sử dụng phương pháp loại suy, để so sánh, do vậy điều
ấy có thể trở thành quá khắc khe khi chúng ta đi đến một kết
luận được suy ra từ một giao ước siêu việt có tính cách vĩnh
cửu, tuyệt đối giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh (Hội Thánh được
ví như nàng dâu, chỉ là một cách nói bóng bẩy, đầy tính chất
ẩn dụ; và những phần tử cá nhân của Hội Thánh thì đã luôn
luôn không trung thành với giao ước.), rồi đặt nó ngang hàng
với vĩnh viễn tuyệt đối của giao ước hôn nhân, điều này xét
cho kỹ thì nó rất khác biệt, một trật tự không chắc chắn.
Theodore Mackin, S.J. trong tác phẩm rất nổi tiếng: Divorce
and Remarriage, (Ly Dị và Tái Hôn) (1984), trang 530-537, đã
đưa ra một nhận xét như sau: Điểm then chốt trong việc so
sánh (bằng phương pháp loại suy của thánh Phao-lô trong Eph
5,21-33) giữa Chúa Ki-tô và Hội Thánh, chính là tình yêu tự
hiến và niềm tin tưởng, điều ấy cùng lúc cũng có hiệu lực
phát sinh và gây sống động cho sự liên hệ mật thiết giữa vợ
chồng với nhau, chứ không có ý ám chỉ đến việc bất khả phân
ly của hôn nhân. Để có một chứng cớ rõ rệt nhằm đi đến kết
luận về việc bất khả phân ly của hôn nhân qua Bí tích Hôn
Phối, chúng ta cần phải có thêm những lý chứng khác nữa. Nói
vắn gọn, chúng ta không thể chỉ nại đến mối liên hệ mật
thiết giữa Chúa Ki-tô và Hội Thánh để đưa ra một hệ luận cho
việc cấm không được ly dị.
Để kết luận, vì hôn nhân tượng
trưng cho một mối liên hệ hết sức mật thiết giữa người nam
và người nữ và được nối kết trong việc sinh sản và giáo dục
con cái, cho nên hôn nhân mang tính cách hợp nhất và vĩnh
viễn. Thêm vào đó, ngay từ giây phút ban đầu, vợ chồng phải
mang một trách nhiệm lớn lao và có bổn phận phải gìn giữ,
bảo vệ và làm cho đời sống hôn nhân càng ngày càng thắm
thiết, kết hợp chặt chẽ hơn. Họ có trọng trách không để cho
hôn nhân của mình bị tan vỡ và chết đi. Đây là điều cầm buộc
riêng cho những ai đã đi vào đời sống hôn nhân, vì đó là bí
tích, là dấu chỉ cho trần gian, bằng cuộc sống tốt đẹp lứa
đôi của họ, họ chiếu giải khuôn mặt và tình yêu của Đức
Ki-tô cũng như lòng tín trung của Ngài đối với Hội Thánh.
Linh Mục:
Trần Mạnh Hùng C.SsR., S.T.D
Email:
hungroma@yahoo.com
1 . Xem Phạm Hồng Lam, "Gia đình
ta, gia đình tây và vấn đề hội nhập," Trong Tập San Định
Hướng, số 28, mùa thu 2001, trang 29 - 39, đặc biệt là trang
33.
2 . Thể theo như quan niệm của
Thánh Augustinô. Tuy nhiên, đến thời Công Đồng Vaticanô II,
thì quan niệm ấy đã được thay đổi. Công Đồng Vaticanô II đã
nhấn mạnh đến tình yêu, trong khi không chỉ lưu ý đến khía
cạnh pháp lý của hôn nhân, nhưng đã đề cao phương diện nhân
vị. Nên, bây giờ ta phải nói rằng hôn nhân là để vợ chồng
yêu nhau và tự hiến cho nhau, nhờ đó mà sinh sản con cái, vì
chính tình yêu vợ chồng cũng như hôn nhân đều hướng về việc
sinh sản. Giữa tình yêu vợ chồng và việc sinh sản con cái
không có sự mâu thuẫn gì cả, trái lại nếu bỏ một trong hai,
sẽ không thể hiểu điều kia được. Xem Công Đồng Vaticanô II
về đời sống gia đình trong Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội
trong Thế Giới Ngày Này, số 48, "Gaudium et Spes., 48".
3 . Xem Zenith International
News Agent đăng ngày 3 tháng 11 năm 2001 trong bài "Europe
and Australia, Family Life Is Fraying: Divorce and Falling
Tax Breaks Are Taking Their Toll."
4 . Xem Bernard Haring, C.Ss.R.,
No way out? - Pastoral Care of the Divorced and Remarriaged.
England: St Paul Publications, 1989, tr. 67.
5 . Chúa Giêsu phán: "Các anh em
hãy nên hoàn thiện như Cha trên anh em trên trời là Đấng
hòan thiện." (Mt 5, 48). Lẽ dĩ nhiên, con người với thân xác
phàm hèn, không thể nào có thể đạt tới sự hòan thiện như
T.C. Cho nên, lời mời gọi này của Chúa Giêsu, theo các nhà
chú giải Kinh Thánh, thì họ cho rằng đây là một lời khuyên
hơn là một mệnh lệnh.
6 . Xem Geoffrey Robinson,
J.D., Marriage Divorce and Nullity: A Guide to the
Annulment Process in the Catholic Church. (Melbourne: Colin
Dove, 1989).
7 . Theo thống kê của một tờ báo
Mỹ, News Week, phát hành ngày12 tháng 3 năm 1989, trang
27. |