III. PHÂN PHỐI LINH MỤC VÀ ƠN KÊU GỌI LINH MỤC |
LTS :
Kính thưa Quí
vị,
Bốn mươi năm sau
Thánh Công Đồng Vatican II, Dân Chúa tại Việt Nam vẫn chỉ
biết rất ít về những nội dung canh tân mà Giáo hội toàn cầu
đã công bố rộng rãi. Trước sự thúc bách ấy và trong khả năng
hạn hẹp của minh, GSVN sẽ cố gắng giới thiệu những bản văn
quan trọng. Trước hết là sắc lệnh
PRESBYTERORUM
ORDINIS,
về chức vụ và đời sống các linh muc. (Bản dịch của GHHV Pio
X, 1975).
Sắc Lệnh về Chức vụ & Đời
sống các Linh mục
CHƯƠNG II
THỪA TÁC VỤ CỦA LINH MỤC
III PHÂN PHỐI LINH MỤC VÀ ƠN
KÊU GỌI LINH MỤC
Ân huệ
thiêng liêng mà các Linh Mục đã nhận lãnh trong khi chịu
chức, chuẩn bị cho các ngài không phải cho một sứ mệnh giới
hạn và thu hẹp nào đó, nhưng cho một sứ mệnh cứu rỗi rất
rộng lớn và bao quát “đền tận cùng trái đất” (CvTđ 1, 8 );
vì bầt cứ thừa tác vụ linh mục nào cũng tham gia vào sứ mệnh
rộng lớn và bao quát mà Chúa Kitô đã trao phó cho các Tông
Đồ. Thực vậy, chức Tư Tề của Chúa Kitô mà các Linh Mục được
tham dự, cần phải hướng về mọi dân nước và mọi thời đại,
không giới hạn chủng tộc, quốc gia hay một thời đại nào, như
đã được tiêu biểu cách huyền nhiệm trong hình ảnh
Melchiseđê. Do đó các Linh Mục phải để tâm lo lắng cho tất
cả các giáo hội. Bởi thế các Linh Mục thuộc các giáo phận có
nhiều ơn gọi hơn, khi được Đấng Bản Quyền cho phép hoặc
khích lệ, hãy hăm hở tỏ ra sẵn sàng thi hành thừa tác vụ
mình trong các địa hạt, trong các xứ truyền giáo, hay trong
những hoạt động bị sa sút vì thiếu Linh Mục.
Ngoài ra,
những tiêu chuẩn về việc xuãt nhập giáo phận phải được duyệt
lại thế nào để, dầu phải duy trì quy chế đã có từ lâu đời,
nhưng vẫn đáp ứng được với những nhu cầu mục vụ ngày nay một
cách tôt đẹp hơn. Vậy nơi nào hoàn cảnh tông đồ đòi hỏi, thì
cần phải dễ dãi hơn trong việc phân phôi các Linh Mục một
cách thích hợp, cũng như trong những công cuộc mục vụ chuyên
biệt dành cho những môi trường xã hội khác nhau để những
công việc đó được hoàn thành trong một miền, một quôc gia,
hoặc trong bất cứ phần đất nào trên thê giới. Vậy để đạt mục
đích đó, điều hữu ích là có thể thiết lập những chủng viện
quốc tế, những giáo phận đặc biệt, những giáo phủ cá nhân,
hoặc những định chế tương tự khác, trong đó các Linh Mục có
thể được bổ dụng hoặc gia nhập để mưu cầu công ích cho toàn
thể Giáo Hội, tùy theo những cách thức được ấn định cho từng
tổ chức và bao giờ cũng tôn trọng quyền lợi các Đấng Bản
Quyên địa phương.
Nhưng khi
gửi các Linh Mục đến một địa hạt mới, nhất là khi các ngài
chưa biết rõ ngôn ngữ và phong tục của địa hạt đó, thì hãy
hết sức lo liệu làm sao để đừng sai họ đi từng người một,
nhưng theo gương các môn đệ của Chúa Kitô, hãy cho đi ít là
từng hai hay ba người, để nhờ đó họ có thế giúp đỡ lẫn nhau.
Cũng phải để tâm chăm sóc đời sống thiêng liêng, sức khỏe
tinh thần và thể xác của các ngài; và nếu có thể, chuản bị
cho các ngài nơi ở và những điều kiện để làm việc tùy hoàn
cảnh cá biệt của mỗi người. Cũng phải tiên liệu hêt sức cho
những vị đi đến một dân tộc mới, chẳng những học biêt đầy đủ
ngôn ngữ của miền này và hơn nữa những đặc tính tâm lý và xã
hội của dân tộc mà các ngài muốn khiêm tốn phục vụ. Nhờ đó
dễ dàng cảm thông được với họ, theo gương Thánh Phaolô Tông
Đồ, Đấng đã có thể nói về mình: “Thật vậy, mặc dầu tôi tự do
đối với mọi người nhưng tôi phục vụ hết thảy hầu làm ích cho
nhiều người. Và với người Do Thái, tôi trở nên như Do Thái,
cốt sinh lợi cho Do Thái...” (1 Cor 9, 19-20).
Chúa Giêsu,
vị Chủ Chăn và Giám Mục của linh hồn chúng ta, khi thiết lập
Giáo Hội Người, đã muốn Dân mà Người đã chọn lựa và chuộc
lại bằng máu mình, phải luôn luôn có các Linh Mục cho đến
tận thế, để các Kitô hữu không bao giờ giống như những con
chiên không có người chăn. Hiểu biết ý muốn của Chúa Kitô
như thế và được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, các Tông Đồ đã
nhận thấy mình có nhiệm vụ chọn những thừa tác viên “có đủ
khả năng mà dạy lại cho người khác” (2 Tm 2, 2 ) . Chắc chắn
nhiệm vụ đó phát xuất từ sứ mệnh tư tế, cho nên Linh Mục
phải chia xẻ nỗi lo lắng cuả toàn thể Giáo Hội, để Dân Chúa
ở trần gian không bao giờ thiếu ngườỉ làm việc. Nhưng vì
“thuyền trưởng và những khách đi tàu ... cùng chung một số
phận”, nên toàn dân Kito giáo phải được dạy dỗ đề biết mình
có nhiệm vụ phảỉ cộng tác bằng nhiều cách khách nhau: bằng
lời cầu nguyện tha thiết cũng như bằng những phương thế khác
mà họ sẵn có ngõ hầu Giáo Hội lúc nào cũng có những Linh Mục
cần thiết để chu toàn sứ mệnh Chúa trao phó. Vậy trước hết
các Linh Mục phải hêt sức để tâm giải thích cho các tín hữu
hiểu biết sự cao quý và cấn thiềt của chức Tư Tế qua lờỉ
giảng dạy và qua chính đời sống mình, một đời sống bộc lộ rõ
ràng tinh thần phục vụ và niềm vui phục sinh đích thực, và
sau khi thận trọng phán đoán những ai hoặc còn trẻ hoặc đã
trưởng thành, có đủ tư cách thi hành chức vụ cao cả này, các
ngài đừng ngại nỗ lực và sợ khó khăn để gíup họ dọn mình
xứng đáng, cho đến một ngày kia, các Giám Muc có thể gọi họ
mà họ vẫn hoàn toàn tự do cả bên trong lẫn bên ngoài. Để đạt
tới mục đích đó, phải chuyên cần và khôn ngoan hướng dẫn về
mặt thiêng liêng, vì đó là một điều ích lợi hơn cả. Các phụ
huynh, giáo chức và tất cả những ai co trách nhiệm một phần
nào đối với việc giáo dục thiếu nhi và thanh thiếu niên,
phảí dạy chúng làm sao để một khi đã nhận biết mối bận tâm
của Chúa đối với đoàn chiên Ngưởi, cũng như khi nhìn đến
những nhu cầu của Giáo Hội, họ sẵn sàng quảng đạỉ đáp lại
lời Chúa gọi, như tiên tri xưa: “Này con đây, xin hãy sai
con.” (Is 6,8 ). Nhưng tiếng Chúa gọi đây không tới tai các
Linh Mục tương lai một cách lạ thường như người ta tưởng.
Thật vậy, đúng hơn tiếng gọi đó phải được hiểu và nhận định
qua những dấu hiệu mà hằng ngày Chúa muồn dùng để tỏ ý Người
cho các Kitô hữu khôn ngoan; các Linh Mục phải cẩn thận cứu
xét những dấu hiệu đó.
Do đó, hết
sức khuyến khích các ngài tham gia những hội cỏ võ ơn kêu
gọi trong giáo phận hay trong toàn quốc. Những bài giảng,
những giờ giáo lý, những sách báo phải nêu cho người ta biết
rõ các nhu cầu của Giáo Hội địa phương cũng như của Gíáo Hội
hoàn cầu; phải trình bày tường tận ý nghĩa và sự cao quý của
tác vụ Tư Tế, vì đây là một tác vụ mang những trọng trách
nặng nề nhưng đồng thời cũng tràn đấy hoan lạc, và nhất là:
vì có thề chứng tỏ một bằng chứng cao cả nhất về tình yêu
đối với Chúa Kitô như các Giáo Phụ dạy. |
VỀ MỤC LỤC |
|
THÁNH THỂ: ĐIỂM XUẤT PHÁT CỦA CHỨC VỤ LINH MỤC |
DẪN VÀO
Như chúng ta đã biết : Năm
2004 được Giáo hội chọn làm Năm Thánh Thể. Năm Thánh Thể
được khai mạc bằng Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 48 tại
Guadalajara, Mexicô từ ngày 10 đến 17 tháng 10 năm 2004, và
sẽ kết thúc với Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới lần thứ 11
về Mầu nhiệm Thánh Thể tại Rôma từ ngày 2 đến 29 tháng 10
năm 2005.
Đây là dịp để mọi tín hữu
tìm hiểu và học hỏi về Thánh Thể, đặc biệt qua hai văn kiện
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.
Văn kiện thứ nhất, đó là tông thư “Mane nobiscum Domine”
(Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con). Đây là tông thư thứ 44
được Đức Thánh Cha ký ngày 7.10.2004 và được công bố vào
ngày hôm sau, 8.10.2004. Tông thư gồm 31 số, chia ra như sau
:
* Dẫn nhập (1-5) : nhắc
lại biến cố hai môn đệ trên đường về Emmau, là như hình ảnh
chính tác động trên toàn bộ tông thu.
* Chương một (6-10) : Đặt
năm Thánh Thể trong sự tiếp nối của Công Đồng Vaticanô II và
của Năm Thánh 2000.
* Chương hai (11-18) :
Thánh Thể là như mầu nhiệm Ánh Sáng.
* Chương ba (19-23) :
Thánh Thể là như nguồn mạch và sự thể hiện tình hiệp thông.
* Chương bốn (24-28) :
Thánh Thể là như nguyên lý và kế hoạch cho sứ mạng truyền
giáo.
* Kết luận : 29-31) : Đức
Thánh Cha kêu mời mọi thành phần Dân Chúa hãy chiêm ngắm, ca
tụng và tôn thờ Thánh Thể.
Văn kiện thứ hai, đó là thông điệp “Ecclesia de Eucharistia”
(Giáo Hội từ Thánh Thể). Đây là thông điệp thứ 14 được Đức
Thánh Cha Gioan ký và ban hành vào ngày thứ Năm tuần thánh,
17.04.2003, cũng là năm kỷ niệm 25 năm triều đại Giáo hoàng
của ngài. Thông điệp có 62 số, gồm phần dẫn nhập, 6 chương
và phần kết luận:
* Dẫn nhập (1-10) : Thánh
Thể nằm ở trung tâm đời sống Giáo hội cùng với những ánh
sáng và bóng tối trong việc tôn sùng Thánh thể.
* Chương một (11-20) :
Thánh thể là mầu nhiệm đức tin.
* Chương hai (21-25) :
Thánh Thể xây dựng Giáo hội.
* Chương ba (26-33) : Đặc
tính tông truyền của bí tích Thánh Thể và của Giáo hội.
* Chương bồn (34-46) :
Thánh Thể và sự hiệp thông Giáo hội.
* Chương năm (35-58) :
Phẩm giá của việc cử hành Thánh Thể.
* Chương sáu (53-58) : Nơi
trường học của Đức Maria, người nữ “Thánh Thể”.
* Kết luận (59-62) : Đời
sống người Kitô hữu bắt nguồn từ Thánh Thể và qui hướng về
Thánh Thể.
Qua thông điệp này, Đức
Thánh Cha muốn chỉ rõ chỗ đứng trung tâm của bí tích Thánh
Thể trong đời sống Giáo hội (GHTTT 7), đồng thời khơi lại
lòng sùng kính Thánh Thể nơi mọi người (GHTTT 6).
Hưởng ứng sáng kiến của
Đức Thánh Cha, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư chung
năm 2004 với tựa đề “Giáo hội sống mầu nhiệm Thánh Thể”,
cũng đã xác tín Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin, vì khi
chúng ta cử hành Thánh thể là chúng ta cử hành mầu nhiệm Hy
tế, mầu nhiệm Vượt qua và mầu nhiệm Hiệp thông (1-5). Đồng
thời các Giám Mục cũng cho thấy Giáo hội đã sống mầu nhiệm
Thánh Thể bằng cách sống tình hiệp thông, tự hiến và chia sẻ
(6-9). Sau cùng các các Giám mục đã kêu mời mọi người hãy
siêng năng tôn thờ thánh Thể và đưa ra một số việc cụ thể
cần phải làm ngay trong năm Thánh Thể này (10-13).
Nếu người giáo dân trong
thời điểm này cần phải học và sống Thánh Thể, thì linh mục
chúng ta lại càng phải học và sống Thánh Thể nhiều hơn nữa,
bởi vì Thánh thể và Linh mục luôn đi đôi với nhau như lời
Đức Thánh Cha đã xác quyết : “Từ khi tôi bắt đầu nhiệm vụ
của người kế vị Thánh Phêrô, tôi luôn muốn đem lại cho ngày
Thứ Năm Tuần Thánh, ngày của Thánh Thể và của chức linh mục,
một dấu hiệu để lưu tâm đặc biệt bằng cách gởi một bức thư
cho tất cả các linh mục trên thế giới. Năm nay, năm thứ hai
mươi lăm triều đại giáo hoàng của tôi, tôi muốn lôi kéo một
cách rộng rãi hơn, toàn thể Giáo Hội vào việc suy tư Thánh
Thể nầy, và cũng đồng thời tạ ơn Chúa vì hồng ân của Thánh
Thể và của chức tư tế” (GHTTT 7).
Chính vì thế, chủ đề tôi
xin chọn để được chia sẻ với anh em, đó là “Linh mục sống
Thánh Thể”, hay nói cách khác, Thánh Thể chính là linh đạo
cho Linh mục. Chủ đề này được chia thành 8 đề tài nhỏ :
1- Thánh Thể, điểm xuất
phát của chức vụ Linh mục.
2- Thánh Thể, chóp đỉnh
của đời sống Linh mục.
3- Linh mục sống mầu nhiệm
Hy tế.
4- Linh mục sống tinh thần
hiệp thông.
5- Linh mục sống tinh thần
chia sẻ.
6- Linh mục sống tinh thần
truyền giáo.
7- Mẹ Maria, người nữ
“Thánh Thể”, mẫu gương của Linh mục.
Bây giờ, chúng ta đi vào
đề tài thứ nhất : Thánh Thể chính là điểm xuất phát của chức
vụ Linh mục.
I - CHỨC VỤ
LINH MỤC
1- CHỨC TƯ TẾ TRONG CỰU ƯỚC
Thiên Chúa đã tuyển chọn
một dân tộc làm “vương quốc tư tế và dân thánh”. Trong dân
Israel, Ngài lại chọn một trong mười hai chi tộc để chuyên
lo việc tế tự là chi tộc Lêvi. Chính Ngài là phần sản nghiệp
của họ.
Các tư tế đầu tiên của
Giao Ước cũ được thánh hiến bằng một nghi thức đặc biệt. Họ
được đặt lên làm đại diện loài người trong các mối tương
quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền
tội. (GLHTCG 1539)
Thực vậy, đọc lại Cựu ước,
nhất là sách Xuất Hành, chúng ta thấy tư tế là những người
được Thiên Chúa tuyển chọn và thánh hiến để phụng sự Ngài.
Như vậy, để trở thành tư tế, thì cần phải có ba điều kiện.
Điều kiện thứ nhất, đó là
phải được Thiên Chúa đã tuyển chọn. Thực vậy, Ngài đã tuyển
chọn Aaron và các con trai ông, tức dòng dõi Lêvi sau này,
làm tư tế :
"Phần ngươi, hãy tách
A-ha-ron, anh ngươi, và các con ông ra khỏi hàng ngũ con cái
Ít-ra-en, để ông ở bên cạnh ngươi mà thi hành chức tư tế
phục vụ Ta: A-ha-ron và các con của A-ha-ron là Na-đáp,
A-vi-hu, E-la-da và I-tha-ma. Ngươi sẽ may cho A-ha-ron, anh
ngươi, những lễ phục để ông được vẻ uy nghi rực rỡ”. (Xh
28,1-2).
Điều kiện thứ hai, đó là
phải được Thiên Chúa thánh hiến. Sách Xuất Hành đã kể lại
việc Ngài thánh hiến Aaron và các con trai ông như sau :
"Ngươi sẽ lấy mỡ con cừu,
lấy đuôi, lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, khối mỡ của gan, hai
trái cật với lớp mỡ dính ngoài, cũng như đùi bên phải; vì đó
là con cừu dùng cho lễ tấn phong; ngươi cũng sẽ lấy một ổ
bánh mì, một tấm bánh ngọt chiên với dầu và một tấm bánh
tráng trong giỏ bánh không men ở trước nhan ĐỨC CHÚA; tất cả
những thứ đó, ngươi sẽ đặt trên bàn tay A-ha-ron và trên bàn
tay các con ông, rồi ngươi sẽ cử hành nghi thức tiến dâng
trước nhan ĐỨC CHÚA. Sau đó, ngươi sẽ lấy lại các vật ấy từ
tay họ và đem đốt cho cháy nghi ngút ở bàn thờ, bên trên của
lễ toàn thiêu, khiến các vật ấy trở thành hương thơm trước
nhan ĐỨC CHÚA, làm đẹp lòng Người: đó là lễ hoả tế dâng ĐỨC
CHÚA.” (Xh 29,22-25).
Kết thúc một nghi thức
khác, Môisen cũng đã nói :
"Hôm nay, anh em được
phong chức để phục vụ ĐỨC CHÚA, vì kẻ thì đã hy sinh con
mình, kẻ thì đã hy sinh anh em mình, khiến Người chúc phúc
cho anh em hôm nay.” (Xh 32:29-30).
Sau cùng, điều kiện thứ ba
là phải phụng sự Thiên Chúa. Trong các tôn giáo thời xa xưa,
các tư tế vừa là những thừa tác viên phụng tự để dâng tiến
lễ vật, vừa là những phát ngôn viên của thần linh với tư
cách là những nhà tiên tri. Nơi dân Do Thái cũng vậy, hàng
tư tế luôn phải thi hành hai nhiệm vụ căn bản, đó là phục vụ
phụng tự và phục vụ Lời Chúa.
1- Phục vụ phụng tự : hoạt động chính yếu là dâng
lễ hy tế, nhờ đó biểu lộ trọn vẹn vai trò trung gian của
mình : vừa tiến dâng lên Thiên Chúa lễ vật của dân Ngài, vừa
chuyển đạt cho họ sự chúc phúc của Thiên Chúa.
2- Phục vụ Lời Chúa : Mặc dù Lời Chúa được truyền
rao bởi các tiên tri, nhưng các tư tế vẫn là những thừa tác
viên của Lời Chúa : trong những ngày lễ, họ kể lại cho dân
chúng những câu chuyện làm nền tảng cho đức tin, tuyên đọc
sách Luật và giải đáp những thắc mắc bằng những bài huấn dụ
thực tiễn…
Tóm lại, tư tế của Cựu Ước
được đặt lên để loan báo Lời Thiên Chúa và để tái lập sự
hiệp thông với Ngài bằng các hy lễ và lời cầu nguyện.
Tuy nhiên, chức tư tế này
không đủ khả năng thực hiện ơn cứu độ. Các hy tế cứ phải
dâng mãi mà vẫn không đạt tới sự thánh hóa dứt khoát. Chỉ hy
tế của Đức Kitô mới thực hiện được điều này mà thôi. (GLHTCG
1540).
2- ĐỨC KITÔ,
VỊ THƯỢNG TẾ DUY NHẤT
Qua Tin mừng, Chúa Giêsu
không bao giờ tự gán cho mình tước hiệu tư tế. Thế nhưng,
Ngài lại dùng nhiều từ ngữ tư tế để ám chỉ sứ mệnh tư tế của
mình, nhất là qua cái chết của Ngài.
Thực vậy, đối với các địch
thù, cái chết của Ngài là một hình phạt đích đáng dành cho
kẻ lộng ngôn phạm thượng. Đối với các môn đệ, cái chết của
Ngài là một thất bại chướng tai gai mắt, không thể chấp nhận
được. Còn đối với Ngài, cái chết ấy lại là một hy lễ Đền
tội, một hy tế Giao ước, một hy tế Vượt qua mà Cựu Ước đã
diễn tả. Chính Ngài đã đích thân dâng hiến cái chết của Ngài
như vị tư tế dâng tiến lễ vật. Như vậy, Ngài là vị tư tế của
chính hy tế mình.
Các tư tế trong Cựu Ước
không phải chỉ dâng tiến lễ vật, mà còn phải phục vụ Lời
Chúa, đặc biệt là sách luật. Đức Kitô cũng vậy.
Ngài đến để chu toàn lề
luật :
"Anh em đừng tưởng Thầy
đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến
không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo
thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một
phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự
được hoàn thành”. (Mt 5,17-18)
Ngài vượt trên lề luật :
“Anh em đã nghe Luật dạy
người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị
đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh
em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ
ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi
anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu
đốt… Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy,
Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn,
thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi…” (Mt
5,20-48).
Ngài đã đơn giản hóa tất
cả lề luật vào hai điểm chính yếu, đó là mến Chúa và yêu
người :
“Một người thông luật
trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: "Thưa Thầy,
trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?"
Đức Giê-su đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là
điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn
thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người
thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn
sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy."(Mt 22,34-40).
Như thế, Đức Kitô không
phải chỉ tiếp nối tác vụ của các tư tế trong Cựu Ước, mà hơn
thế nữa, Ngài còn hoàn toàn trổi vượt vì Lời Ngài là một mạc
khải thâm sâu và Tin Mừng của Ngài là một hoàn chỉnh tất cả
lề luật. Đồng thời, hy tế thập giá của Ngài có sức đền bù và
tẩy xóa tội lỗi, thay cho tất cả những lễ vật trong Cựu ước.
Thực vậy, theo thánh
Phaolô trong thư gửi tín hữu Do Thái, Đức Kitô là vị thượng
tế thánh thiện và duy nhất. Chính Ngài đã chấm dứt chức vụ
tư tế xưa kia :
“ Phải, đó chính là vị
Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện,
vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng
cao vượt các tầng trời. Đức Giê-su không như các vị thượng
tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để
đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người,
Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật
Mô-sê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn
yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã
nên thập toàn cho đến muôn đời.” (Dt 7,26-28).
3-
CHỨC VỤ LINH MỤC
Như trên chúng ta đã thấy
: Chúa Giêsu không hề tự gán cho mình chức tư tế, thế nhưng
Ngài lại không ngớt hành động như một vị tư tế và dường như
theo Ngài, dân tộc của Giao ước mới là một dân tư tế.
Thực vậy, Ngài đã tự mạc
khải là tư tế qua việc dâng tiến hy tế thập giá và phụng sự
Lời Chúa. Đồng thời Ngài cũng kêu gọi những người thuộc về
Ngài thông phần vào hai nhiệm vụ đó : Tất cả những ai muốn
trở nên môn đệ Ngài đều phải vác thập giá (Mt 16,24), đều
phải uống chén đắng (Mt 20,26), đều phải loan truyền sứ điệp
của Ngài (Lc 9,60), đều phải làm chứng cho Ngài (Mt
10,17-42).
Đúng thế, Ngài mời gọi mọi
thành phần trong Giáo hội chia sẻ chức vụ tư tế với Ngài, để
Giáo hội được trở nên một dân tư tế của Thiên Chúa :
“Còn anh em, anh em là
giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân
thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ
công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào
nơi đầy ánh sáng diệu huyền.” (1Pr 2,9).
Đức Kitô là thượng tế và
trung gian duy nhất đã biến Hội Thánh thành “Vương quốc của
các tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Ngài.” (Kh 1,6).
Chính nhờ bí tích Rửa tội
và Thêm sức, người tín hữu được tham dự vào chức linh mục
cộng đồng.
Sách Giáo lý Hội Thánh
Công giáo đã viết như sau :
“Thực vậy, tất cả cộng
đoàn tín hữu là tư tế. Các tín hữu thực thi chức tư tế cộng
đồng bằng cách mỗi người tùy ơn gọi riêng, tham dự vào sứ
mạng của Đức Kitô là Tư Tế, Tiên Tri và Vương Đế. Chính qua
bí tích Thánh Tẩy và Thêm sức, các tín hữu được thánh hiến
để trở nên hàng tư tế thánh”. (GLHTCG 1546).
Người tín hữu chu toàn
chức vụ tư tế cộng đồng bằng cách biến đời sống mình trở
thành một hy tế cho Thập giá và một chứng tá cho Tin Mừng,
như Công Đồng Vaticanô II đã viết :
“Vì thế, tất cả các môn
đệ của Đức Kitô, trong khi kiên tâm cầu nguyện và cùng nhau
ca tụng Thiên Chúa (x Cv 2,42-47), họ phải dâng mình làm của
lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa (x Rm 12,1),
phải làm chứng về Đức Kitô trên khắp mặt đất và trình bày
niềm hy vọng về cuộc sống vĩnh cửu mà họ ôm ấp cho những ai
đang khao khát. (GH 10).
Tuy nhiên, Đức Kitô còn
muốn chia sẻ chức vụ tư tế của mình cho Hội Thánh một cách
đặc biệt qua Bí tích Truyền chức. Chức tư tế này được gọi là
chức linh mục thừa tác.
Công đồng cũng đã xác định
:
“Chức linh mục cộng đồng
của các tín hữu và chức linh mục thừa tác, tuy khác nhau
không chỉ về cấp bậc, mà còn về bản chất, song cả hai đều
bổ túc cho nhau. Thực vậy, cả hai đều tham dự vào chức linh
mục duy nhất của Đức Kitô theo cách thức riêng của mình.
Linh mục thừa tác, nhờ có quyền do chức thánh, đào tạo và
cai quản dân tộc tư tế, đóng vai trò Đức Kitô cử hành hy tế
tạ ơn và dâng của lễ ấy lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể
dân chúng. Phần tín hữu, nhờ chức linh mục vương gỉa, cộng
tác dâng thánh lễ, và thi hành chức vụ đó trong việc lãnh
nhận các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn, bằng đời sống
chứng tá thánh thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực.” (GH
10).
Trong ngôn ngữ bình
thường, khi nói tới Linh mục, chúng ta phải hiểu đó là chức
Linh mục thừa tác.
GSVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
LỜI
GIAO ƯỚC:
(Suy tư nhân năm
sống Lời Chúa) |
Thánh Kinh là cuốn sách kể lại
lời giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với con người. Mặc dù
rất xa chúng ta về thời gian và không gian, đối với các tín
hữu Kitô, giao ước này vẫn luôn mang tính hiện tại. Thiên
Chúa là Đấng đã tỏ mình ra cho con người và có sáng kiến kết
thân với họ. Ngài đã tỏ mình qua các Tổ Phụ, qua Môi-sen và
các Ngôn sứ, rồi sau cùng qua chính Con Một của Ngài là Đức
Giêsu Kitô. Sự tỏ mình trải qua các thời đại này được thực
hiện bởi CÁC GIAO ƯỚC. Có một tiến triển từng bước trong
việc ký kết Giao ước để đạt tới mức hoàn thiện là GIAO ƯỚC
MỚI ký kết trong Máu Đức Kitô Giêsu, Ngôi Lời nhập thể. Như
thế, Thiên Chúa đã nhập cuộc, đã tự hạ mình trở nên đối tác
của con người khi ký kết giao ước với họ. Giao ước này cho
thấy mối liên hệ thân tình giữa Thiên Chúa với con người,
một mối liên hệ đã trải qua những biến cố vui buồn, thất
bại, nỗ lực. Đó là một chặng đường dài để vươn tới tình yêu
và tự do.
1- Thiên
Chúa: đối tác của con người
Giao ước theo nghĩa chung là mối
quan hệ hỗ tương giữa hai đối tác trong lãnh vực chính trị,
ngoại giao, kinh tế và xã hội. Nguyên tự Do thái, Giao ước
được dịch bởi chữ berit có nghĩa là “giữa đôi bên – xẻ làm
đôi”. Chữ này cũng diễn tả nghi thức thường được cử hành
trong các cuộc ký giao ước: xẻ đôi một hy tế (thường là súc
vật) qua đó muốn ám chỉ :nếu một bên vi phạm điều cam kết
thì cũng sẽ bị xẻ đôi, tức là phải chết như vậy. Cũng có
trường hợp giao ước được thực hiện với một vật được cắt đôi,
mỗi bên giữ một nửa để làm tin hoặc như một thứ bùa cam kết
tuân giữ những gì được giao kèo giữa hai bên. Một văn bản
giao ước cổ nhất ngoài Thánh Kinh đã được tìm thấy trong tài
liệu cổ của vùng Mari (một thành phố cổ nằm ở tả ngạn sông
Euphrate, được khai quật từ năm 1933) nhắc tới việc xẻ đôi
một con lừa con để ký kết giao ước giữa bộ lạc Hanéen và
người Idamaraz.
Giao ước (berit) có thể được ký
kết giữa hai cá nhân (x. St 21,22-32: giao ước giữa Apraham
và vua Avimelech); có thể được ký kết giữa hai bộ lạc hay
hai dân tộc (2 S. 3,13; 1V 5,26: giao ước giữa vua Salômon
và vua Khiram); có khi được ký kết giữa một vua nước lớn với
một nước chư hầu. Trong trường hợp này, không có sự cân bằng
bình đẳng giữa hai bên ký giao ước. Bên mạnh hơn hứa bảo đảm
sẽ đỡ đầu hoặc bảo vệ cho bên yếu thế hơn với một số điều
kiện. Giao ước giữa Đức Gia-vê và Israel có thể so sánh với
giao ước kiểu này, tức là giao ước giữa một vương quốc với
một nước chư hầu.
Với việc Thiên Chúa ký kết giao
ước với Dân Ngài, Ngài đã chấp nhận trở nên một “đối tác”
với con người. Ngài đòi buộc con người phải thực thi những
bổn phận của Giao ước, tức là những gì đã cam kết và Ngài
chấp nhận thực thi những gì được cam kết để tỏ bày sự trung
tín của Ngài đối với mọi loại thụ tạo. Giao ước đầu tiên
trong Thánh Kinh là Giao ước với Ong Nô-ê, sau khi nước Hồng
thuỷ đã cạn. Trong Giao ước này, Thiên Chúa đã hứa sẽ không
bao giờ tái diễn thảm họa của Đại Hồng thuỷ. Tác giả Thánh
Kinh đã dùng thể văn nhân cách hoá để diễn tả Thiên Chúa:
Ngài ngửi mùi thơm ngon bay lên từ của lễ toàn thiêu do Ong
Nô-ê dâng hiến và tự nhủ: “Ta sẽ không bao giờ nguyền rủa
đất đai vì con người nữa. Lòng con người toan tính điều xấu
từ khi còn trẻ, nhưng ta sẽ không bao giờ sát hại mọi sinh
vật như Ta đã làm” (St 8,21). Với việc thiết lập Giao ước
với Nô-ê, Thiên Chúa đã đặt ông làm cha của cả một dân tộc
mới, dân tộc được tái sinh sau Hồng Thuỷ.
2- Nét đặc
trưng của Giao ước trong Thánh Kinh
- Dấu hiệu của Giao ước: mỗi khi
thiết lập giao ước với con người, Thiên Chúa tạo nên một dấu
để nhắc nhớ điều đã cam kết. Cầu vồng xuất hiện trên vòm
trời trong Giao ước với Nô-ê vừa để Thiên Chúa nhớ lại Giao
ước đã ký kết với mọi sinh vật, mọi xác phàm trên mặt đất,
đồng thời cũng là lời nhắc nhở con người hãy chú trọng thực
thi những gì do Giao ước đòi buộc. Trong Giao ước ký kết với
Abraham, dấu hiệu này chính là nghi thức cắt bì nơi mọi đàn
ông con trai thuộc dòng dõi của ông, kể cả những người nô
lệ. Phép cắt bì được kể như chính điều tuân giữ giao ước:
“đây là giao ước của Ta mà các ngươi phải giữ, giao ước giữa
Ta với các ngươi, với dòng dõi ngươi sau này: mọi đàn ông
con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì” (x St 17,9-14 );
Để ghi nhớ lời chúc phúc của Thiên Chúa đối với Gia-cóp,
ông đã lấy một hòn đá dựng lên làm trụ và xức dầu lên trên.
Chính nơi đây, Thiên Chúa đã đổi tên Gia-cóp thành Israel
(St 28,18; 36,9-15).
- Lễ vật để ký kết giao ước:
những lễ vật này thường là các loài gia súc và các loài chim
được coi là thanh sạch (trường hợp Giao ước với Nô-ê, St
8,20). Những lễ vật phải được chọn lựa kỹ càng và đôi khi số
lượng mang tính tượng trưng. Với Abraham, Thiên Chúa đã ra
những chỉ dẫn cụ thể: “ Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba
tuổi, một con bê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một
chim gáy và một bồ câu non” (St 15,9). Trong trường hợp ký
kết giao ước tại núi Sinai, lễ vật còn kèm theo lệnh truyền
toàn dân phải giữ mình khỏi nhiễm uế ba ngày trước khi ký
kết giao ước(Xh 19-10). Máu bò được rảy trên tế đàn và trên
dân như lời cam kết từ hai phía, giống như “uống máu ăn
thề” (Xh 24,6).
- Thần hiện (Epiphanie): Mỗi lần
ký kết giao ước, Thánh Kinh lại cho chúng ta thấy sự hiển
hiện của Thiên Chúa ở một góc độ khác nhau. Có lúc mạnh mẽ
và có lúc nhẹ nhàng, có khi trong tiếng sấm ầm ầm vang dậy
và cũng có khi trong làn gió hiu hiu. Ngài tỏ hiện để tuyên
bố những điều cam kết, những lời hứa hẹn và động viên: “Hỡi
Ap-ram,đừng sợ, Ta là khiên che thuẫn đỡ cho ngươi; phần
thưởng của ngươi sẽ rất lớn !” (St 15,1). Trong những lần ký
kết giao ước này, Thiên Chúa còn tỏ hiện qua mây, lửa, khói;
cùng với tiếng tù và vang dậy. Lửa từ trời xuống thiêu huỷ
của lễ như dấu hiệu cho thấy của lễ đó đẹp lòng Chúa và được
Ngài chấp nhận.
3- Bộ Luật
Giao ước
Bộ luật Giao ước, đó là khái
niệm của Thánh Kinh để chỉ Giao ước Thiên Chúa đã ký kết với
Israel qua trung gian Ong Môi-sen trên núi Sinai. Sau khi
chứng kiến Thiên Chúa đã giải phóng dân Ngài bằng cánh tay
hùng mạnh, Dân Do Thái khiếp sợ, tâm phục khẩu phục đối với
Môi-sen và không dám xầm xì trách móc nữa. Tháng thứ ba sau
khi ra khỏi Ai-cập, Thiên Chúa đã ký kết Giao ước này. Những
chương 20-34 trong sách Xuất hành ghi lại những điều luật
của Giao ước này. Nội dung của Giao ước gồm những điều liên
quan đến Luật tế tự, tôn giáo và luân lý xã hội. Những điều
khoản liên quan đến công bằng trong Luật Giao ước có nhiều
điểm tương đồng với những bộ luật Đông phương thời cổ xưa
như bộ lạc Hammurabi, người Asryria và Hê-tê.
Bộ luật Giao ước được “dạo đầu”
bằng Mười Điều răn, như những điều chính Thiên Chúa đã long
trọng tuyên bố. Có hai trình thuật về Mười Điều răn: Xh
20,2-17 và Đnl 5,5-21. Mặc dù có một số dị biệt giữa hai
trình thuật, nội dung của Mười Điều răn có thể chia ra ba
phần: cấm thờ phượng các thần và ngẫu tượng ngoài Thiên
Chúa; lệnh truyền tuân giữ ngày Sa-bat; một chuỗi những lời
dạy về trách nhiệm tôn trọng tha nhân.
Những lệnh truyền và tuyên bố
này đặt trên nền tảng Thiên Chúa là Đấng đã đưa dân Do thái
ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Đối với mọi người Israel,
biến cố ra khỏi Ai-cập và vượt qua biển đỏ là bước ngoặt
lịch sử quan trọng làm cho Dân “kính sợ Đức Chúa, tin vào
Đức Chúa và tin vào Ong Môi-sen, tôi trung của Người” (Xh
14,31). Quả vậy, nếu Thiên Chúa có ra những lệnh truyền,
những đòi buộc là vì Ngài là Đấng đã giải phóng dân, đã cứu
dân ra khỏi nô lệ. Công thức : “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa
ngươi ra khỏi Ai-cập” còn được sử dụng nhiều lần trong Cựu
ước. Đó chính là lý do qua đó Thiên Chúa truyền lệnh và dân
có bổn phận phải nghe Lời Ngài. Với Luật Giao ước, Thiên
Chúa không chỉ là Thiên Chúa sáng tạo, mà còn là Đấng giải
phóng. Chân lý này được triển khai sâu sắc hơn sau này trong
giáo huấn của các Ngôn sứ. Nếu Thiên Chúa đòi buộc Israel
phải trung thành, phải đi theo lệnh truyền của Ngài, là vì
Ngài là Đấng đã tạo thành và cứu thoát họ.
4- Giao ước
mới trong Đức Kitô
Ý niệm cứu thoát được thể hiện
rõ nét hơn nữa qua Đức Giêsu, Ngôi Lời Nhập thể. Trong mộng
báo với Giuse, sứ thần đã cắt nghĩa tên của Hài nhi sắp
được thụ thai trong lòng Đức Maria: “Bà sẽ sinh con trai và
ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu
dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Đức Giêsu đến để
thiết lập giao ước mới. Bản thân Người chính là giao ước
giữa Thiên Chúa với loài người. Bởi lẽ những gì cần nói với
con Người, Thiên Chúa nói qua Đức Kitô. Sự “đồng-hiện-hữu”
của thiên tính và nhân tính nơi Đức Giêsu Kitô cho thấy nơi
Người một “berit” hoàn hảo. Trong Người, Thiên Chúa đã ký
kết một giao ước. Giao ước này không chỉ được ký kết qua
nghi thức lễ tế một con vật hay máu bò như thời Cựu ước,
nhưng là chính máu của Con Thiên Chúa. Qua hy tế của Đức
Giêsu trên thập giá, Thiên Chúa đã huỷ bỏ bản án nguyên tội
để thiết lập một giao ước hòa bình với con người. Trong Máu
Đức Giêsu, con người tìm lại được ơn tha thứ và giao hòa.
Cây Thập giá đã liên kết trời với đất (chiều dọc) và đất với
đất (chiều ngang) để thiết lập mối thân tình giữa Thiên Chúa
với con người và xây dựng một thế giới huynh đệ, bốn bể là
anh em. Bàn thờ của Giao ước mới chính là Thập giá Đức Kitô
(x. Sách Giáo lý Giáo Hội Công giáo, số 1182). Các tác giả
Phúc âm đều trình bày bữa tiệc ly như bữa tiệc ký kết giao
ước mới trong máu Đức Kitô. Chính Người đã tuyên bố điều ấy:
“Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thày, máu
Giao ước đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,27-28).
Tác giả Luca còn ghi rõ ràng: “chén này là giao ước mới, lập
bằng máu Thày, đổ ra vì anh em” (Lc 22,20). Như vậy, Giao
ước cũ đã hết thời để nhường chỗ cho giao ước mới: Phụng vụ
xưa phải được thay, này đây nghi lễ mới (kinh Tantum Chầu
Thánh Thể). Tác giả thư Do Thái sau này đã suy tư về vấn đề
này: “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê,
con bò, nhưng với chính máu của mình. Người vào chỉ một lần
thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta.
Vậy nếu máu các con dê, con bò….còn thánh hóa được họ, thì
máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy… Máu của Người
thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự
chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống”
(x.Dt 9, 12-14).
5- Dân của
Giao ước mới
Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta
được tháp nhập vào dân Israel mới, dân của Giao ước. Bởi lẽ
máu Đức Kitô đổ ra trên thập giá không những hòa giải Thiên
Chúa với con người mà còn hòa giải người Do thái với dân
ngoại. Là dân ngoại, chúng ta được trở nên đồng thừa tự với
Đức Kitô, được trở thành con cái Abraham trong đức tin.
Phaolô đã quả quyết điều này như sau: “vậy trước kia anh em
là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ
máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở thành những người ở gần”
(Ep 2,13).
Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo
đã diễn giải rõ ràng khái niệm Dân Thiên Chúa (số 782): Dân
này có thủ lãnh là chính Đức Kitô. Luật của Dân mới là giới
răn yêu thương. Luật này là Luật mới của Chúa Thánh Thần. Là
thành phần của Dân Thiên Chúa, chúng ta có sứ mạng trở nên
muối đất và ánh sáng thế gian (x. Mt 5,13-16) để đem ơn cứu
độ cho toàn thể nhân loại.
Phụng vụ Kitô giáo được gọi là
“Phụng vụ của Giao ước mới”, vì Phụng vụ này nhằm đưa con
người đến gặp gỡ Đức Kitô và Giáo hội của Người, đồng thời
nhắc nhở chúng ta hãy xây dựng mối hiệp thông nhờ được nuôi
dưỡng bởi cùng một Bánh và cùng một Chén là Mình và Máu Đức
Kitô, Máu của Giao ước mới.
Thông thường, khi nói đến lời
Giao ước trong Giáo hội, chúng ta nghĩ ngay đến những cam
kết trong đời sống tu trì của các Linh mục, Tu sĩ. Thực ra,
mỗi người chúng ta đã cam kết với Chúa khi lãnh nhận Bí Tích
Thánh Tẩy. Chúng ta tuyên thệ từ bỏ ma quỷ, từ bỏ tội lỗi và
những hành động xấu xa. Chúng ta tuyên xưng đức tin vào Chúa
Ba Ngôi và Giáo hội của Ngài. Khi tuyên xưng như vậy, mỗi
người chúng ta đã ký kết MỘT GIAO ƯỚC với Thiên Chúa. Những
cam kết của đời sống Linh mục và Tu sĩ là cam kết dấn thân
để thực hiện sứ mênh của Bí Tích Thanh Tẩy cách triệt để
hơn, nhằm “theo đuổi Đức Mến trọn hảo qua các lời khuyên
Phúc Âm, nhằm tình nguyện đi theo Đức Kitô với một tinh thần
tự do thanh thản hơn để sống tận hiến cho Thiên Chúa”
(x.Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Perfectae Caritatis, số
1). Đi theo Đức Kitô là hòa mình vào truyền thống của các
Giao ước đã được thực hiện trong lịch sử Cứu độ để tìm ra lẽ
sống cho mình.
Như vậy, mỗi người chúng ta đều
tìm thấy gương mặt và vị trí của mình trong suốt chiều dài
của những Giao ước Thiên Chúa đã ký kết. Lời Chúa là Lời của
Giao ước. Mỗi khi đọc Lời Chúa là chúng ta làm sống lại
những Lời Hứa, những Lời Cam Kết từ phía Thiên Chúa, đồng
thời nhắc nhở chúng ta hãy làm gì để trung thành với những
điều chúng ta đã giao ước với Ngài.
+ Gm.
Giuse Vũ Văn Thiên – Mùa Chay Thánh 2006
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THIÊN CHÚA = TÌNH
THƯƠNG,
ĐẠO
THIÊN CHÚA = ĐẠO TÌNH THƯƠNG |
ĐỨC GIÁO CHỦ BÊNÊDITÔ XVI
vừa công bố bức Thông Điệp rất quan trọng, chẳng những cho
toàn thể Giáo Hội Thiên Chúa Giáo, mà còn cho mọi cá nhân và
các cộng đồng trên thế giới nữa! Thật vậy, đây là những suy
tư tôn giáo, thần học, đào sâu vào cốt tuỷ, yếu tính của
Thiên Chúa Giáo, và dùng các triết thuyết cao siêu của trí
khôn nhân loại, để thăm dò những ước vọng thầm kín nhất của
tâm can con người luôn khát vọng YÊU THƯƠNG. Trong
lãnh vực này, thiết tưởng Vị Đương kim Giáo Chủ tài đức,
giầu kinh nghiệm, có thể giúp chúng ta hiểu biết những uẩn
khúc, éo le nhất của TRÁI TIM con người :
“ Sông
sâu, còn có người dò,
Lòng người nham hiểm, ai đo cho cùng”
(ca dao Việt nam)
Thông Điệp “Thiên Chúa là Yêu Thương”
đã gây chấn động trong dư luận giới Truyền Thông trên thế
giới. Gần đây, Các cuộc thăm dò dư luận của các tờ báo lớn
tại Ý, Pháp, Đức, Thụy sĩ..(kề cả những báo có khuynh hướng
chống Công giáo), đều công nhận ảnh hưởng lớn lao của Thông
Điệp đối với xã hội Âu –Mỹ đang đà tục hóa.
Thông Điệp đã được các
doanh nhân công giáo Đức, nhà thần học cấp tiến, Hans Kung,
(vẫn chỉ trích các vị Lãnh Đạo như Đức Giáo Chủ Gioan Phao
Lô II), các đảng phái chính trị Đức…, tán thưởng. Đặc biệt
cơ quan “Caritas quốc tế”
(CI), dùng làm đề tài suy tư về căn tính, về linh
đạo của Caritas Quốc tế và đào tạo cho các nhân viên tinh
thần Hy sinh, bỏ mình (Kenosis),
Phục vụ ( Diaconia), Hiệp thông ( Koinonia).
Vì tầm quan trọng của Thông
Điệp, nên chính Đức Thánh Cha Bênêditô XVI đã chuẩn bị dư
luận, đã loan báo trước, vào ngày Lễ Chúa Ba Ngôi, 22 tháng
5, năm 2005, về Thông Điệp “Thiên Chúa là Tình Thương”
(1Gioan, 4,8-16). Ngày Chúa Nhật 22 tháng Giêng năm 2006,
ĐTC đã nói vắn tắt về Thông Điệp này sẽ được công bố
ngày 25 tháng Giêng, năm 2006, ngày kết thúc tuần
cầu nguyện cho sự Hiệp nhất trong Hội Thánh. Vì thế, dư
luận đã được chuẩn bị và mong đợi để đón nhận một Thông Điệp
rất cần thiết, giúp ích cho thời đại bất an, và xáo trộn của
thế giới ngày nay. Hơn nữa, sau khi công bố, Ngài còn gửi
một bức Thư cho các độc giả Tuần Báo “Gia đình Kitô”để giải
thích nội dung chính yếu của Thông Điệp. Ngoài ra, từ khi
Thông Điệp được công bố, đã có nhiều bài bình luận, giải
thích về những tư tưởng thâm thúy của Vị Giáo Chủ uyên bác,
và thánh thiện này.
Trong bài viết này,
cũng xin góp một vài ý kiến để quảng diễn những lời vàng
ngọc của Ngài, đặc biệt trình bày những tư tưởng của
Ngài cho đồng hương Việt nam còn xa lạ với Thiên Chúa Giáo.
Do đó, cần dùng Văn hóa Việt nam, để so sánh,
giải nghĩa và bổ túc, thì độc giả ngoài Đạo Công Giáo mới dễ
lĩnh hội. Chính Đức Thánh Cha cũng đã dùng Triết Lý La-Hy,
Văn hóa Âu-Mỹ để giảng nghĩa Chân Lý Mặc khải:”Thiên Chúa là
Tình Thương”.
Xin chia làm hai đoạn:
Đoạn I.Toát lược
những Tư tưỏng chính yếu trong toàn bộ Thông Điệp và Phương
pháp lý giải, trình bày của Đức Thánh Cha về Chân lý Mặc
khải:”Thiên Chúa là Tình Thương”. ĐoạnII.
Đọc và suy nghĩ về một số đề tài của Thông Điệp,
trong nhãn quan của Văn hóa Việt Nam.
Trong Đoạn I, chỉ cố gắng tìm hiểu và diễn ý
cho thật rõ ràng những tư tuởng trong Thông Điệp, nhưng
không so sánh với Văn Hóa, Triết lý Á Đông. Trong Đoạn
II, vẫn theo dàn bài của Thông Điệp(theo các con số
thứ tự)như: ngôn từ(2); Eros và Agape(3-8) ….Nhưng trong mỗi
đoạn, sẽ vừa tìm hiểu ý tưởng của ĐTC, vừa dùng Triết lý và
Văn hóa Á Đông để diễn giảng, góp ý với Ngài, hy vọng đồng
hương Việt Nam sẽ dễ hiểu, và dễ thưởng thức hơn.
Đoạn I. TOÁT
LƯỢC TOÀN BỘ CHỦ ĐỀ của THÔNG ĐIỆP
Trước khi lên làm
Giáo Chủ, Đại Diện Chúa Cứu
Thế nơi trần gian, Ngài đã giữ chức Tổng Trưởng Thánh Bộ về
Đức Tin trong hơn hai thập niên. Ngài đã nghiên cứu và hấp
thụ được những tư tưởng về Thần học Thiên Chúa Giáo lỗi lạc
vào thế kỉ 20, thời kì Công Đồng Vatican II khai mạc cho một
kỉ nguyên mới của Giáo hội. Ngài là chuyên gia thần học của
Công Đồng, dã soạn thảo nhiều văn kiện để làm tài liệu cho
các Nghị phụ thảo luận. Ngài đã làm giáo sư giảng dạy môn
Thần học trong các Đại Học danh tiếng của Đức Quốc như
Tubingen, Bonn.. Ngài thông hiểu những khám phá mới của các
thần học gia Công giáo như: Karl Rahner, Henri de Lubac,
Yves de Congar, Von Balthasar, Hans Kung.., “Thần học giải
phóng” phát xuất từ Nam Mỹ, và Ngài thường đối thoại với các
thần học gia Tin Lành như: Karl Barth, Paul Tillich,
Dietrich Bonhoeffer, Rudolf Bultmann..
Trên phương diện
Triết Lý,
Ngài đã được đào luyện trong Triết học cổ điển La-Hy, và
Triết Học Kinh Viện(Scholastics), đặc biệt của Thánh Tôma.
Ngoài ra, Ngài đã phải đối diện với những trào lưu triết lý
của thế giới Âu-Mỹ, từ thời kì “Triết lý Ánh Sáng”(
Enlightement) tiếp đến các trào lưu triết lý vật chất vô
thần của Karl Max, nhân bản vô thần của Friedrich Nietzsche,
(chủ trương thuyết “siêu nhân”(superman), đã đẻ ra Nazism và
thần học “death –of-God”. Trong thời thanh niên, sinh viên
tại Đức, Ngài đã hiểu biết và nghiên cứu những Triết học
đương thời như “Hiện Tượng luận” của Husserl, “Hiện Sinh”của
Jean Paul Sartre…, và những Triết Lý nhân bản hữu thần của
các Triết gia Thiên Chúa Giáo như: Heidegger, Kierkegard,
Jacques Maritain..
Trong thời gian giữ
chức Tổng Trưởng Thánh Bộ về Đức Tin tại Roma,
Ngài đã phải giải quyết hàng ngày những vấn nạn về Tìn Lý,
Luân Lý, giải thích làm sao cho phù hợp với Kinh Thánh và
Truyền Thống của Giáo Hội. Do đó, Ngài luôn theo dõi những
biến chuyển về xã hội, chính trị, kinh tế của thế giới, đặc
biệt của các nước đang phát triển, để đối phó với những bất
công xã hội, sự chệnh lệch lớn lao về lợi tức giữa các nước
giầu và nước nghèo cần được giúp đỡ, hay giảm nợ. Nạn khủng
bố đang lan tràn do con người dùng tôn giáo vào các mục tiêu
chính trị. Đời sống gia đình tan rã với 50% li dị, với nạn
phá thai, “hôn nhân đồng tính”, “lạm dụng tính dục của các
giáo sĩ”, nếp sống độc thân, trinh khiết của tu sĩ”..và
những tranh luận về việc nghiên cứu cách sử dụng các “tế
bào gốc’ (Stem cell), cấm(“human cloning”), không được
biến chế các tế bào gốc từ thai nhi, nhưng được dùng “máu
của dây chằng thai nhi” (an infant’s umbilical cord)…
A. TƯ
TƯƠNG CHỦ YẾU của Toàn Bộ THÔNG ĐIỆP
Qua những kinh nghiệm quí
giá , với một bộ óc quán triệt mọi khía cạnh khúc mắc, để
tìm ra nguyên cớ, Vị Giáo Chủ tài ba đã dùng lý trí sâu sắc,
để suy tư về”YÊU THƯƠNG” một Chân Lý phổ biến,
“xưa như trái đất” , trẻ con, người lớn, trẻ già, ai
cũng kinh nghiệm, ai cũng nhận thấy tràn lan trước mắt:
trên sách báo, tranh ảnh, Truyền hình..nhưng rất ít người
thấu hiểu cho tường tận bản tính của”Yêu Thương”, nên mới
gây ra bao nhiêu cảnh bất an, đau khổ cho cá nhân, và xã
hội. Thật vậy, Trái Tim Con Người
luôn khát vọng “YÊU THƯƠNG”, nhưng vì không tìm
về Cội Nguồn của Yêu Thương là chính Thiên Chúa, nên con
người mới lạc lõng bơ vơ, lo âu và lao mình xuống vực thẳm
của tội ác như: phá thai, chiến tranh, lạm dụng tính dục trẻ
con
a/ Đạo Thiên Chúa =
Đạo Tình Thương vì bắt nguồn
từ THIÊN CHÚA=TÌNH THƯƠNG. Trong Đạo Thiên Chúa, Tín Điều
cao trọng nhất là: Mầu Nhiệm “MỘT ĐỨC CHÚA TRỜI BA
NGÔI”. Mầu Nhiệm đó có nghĩa gì? Tại sao chỉ có Một Đức
Chúa Trời, nhưng có Ba Ngôi: Ngôi Cha, Ngôi Con, Ngôi Thánh
Thần ? Theo Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo(số 254 và 255,
đọc thêm sách”Đạo Thiên Chúa và Dân Nước
Việt”trang 73-75) thì “Ba Ngôi Thiên Chúa thật sự
Phân Biệt(distinct from one another).., nhưng “Ba Ngôi Thiên
Chúa Tương Quan, Liên Hệ với nhau(relative to one another).
Chính TÌNH THƯƠNG VÔ BIÊN nơi Bản Thể Thiên Chúa đã tạo nên
mối Tương Quan, Liên Kết mật thiết giữa Ba Ngôi, đến nỗi
không thể “Tách biệt”(separare), chia ly, nhưng luôn
luôn THƯƠNG MẾN nhau vô cùng, làm nên MỘT THIÊN CHÚA
Bởi vậy, nơi Thiên Chúa không có
sự cô đơn, cô độc, nhưng trong Bản Thể luôn có TÌNH THƯƠNG
MẾN liên hệ, giao kết giữa Ba Ngôi. Cũng vì Ba Ngôi Yêu Mến
nhau vô cùng, nên Tình Thương vô biên đó đã tràn lan ra, tạo
thành vũ trụ càn khôn, và đặc biệt, dựng nên Loài Người
giống “Hình Ảnh Chúa”, nghĩa là con người cũng có
một Trái Tim biết Yêu Thương. Do đó, con người cũng
phải noi theo gương mẫu nơi Thiên Chúa, để biết chia sẻ Tình
Thương của mình cho anh chị em đồng loại.
b/
Trong Đạo Thiên Chúa, ngoài Tin Điều”Một Chúa
Ba Ngôi”, còn một Tín Điều quan trọng nữa, cũng chứng tỏ
“Thiên Chúa=Tình Thương”, tức là “Mầu Nhiệm NGÔI LỜI
NHẬP THỂ”. Theo Giáo Lý , để chứng tỏ Thiên Chúa
Yêu Thương vô cùng, nên Ngôi Lời Thiên Chúa, chính là Chúa
Cứu Thế đã mặc lấy xác phàm, tự nguyện chịu nạn chịu chết
để chuộc tội cho nhân loại . Ngài đã lập nên HỘI THÁNH
để tiếp nối công cuộc Cứu chuộc cho đến tận thế. Bởi vậy,
Hội Thánh cũng phải noi gương Chúa Cứu Thế, từ trong bản
thể, cơ cấu, phải thực hiện những công việc cứu nhân độ thế,
từ thiện bác ái như Chúa Cứu Thế đã làm.
Nói tóm lại,
Yêu Thương là một tình cảm thông thường trong đời sống
con người, nên ta coi thường, không chú ý phân tích, lý
giải một cách mạch lạc, và diễn giảng một cách thông suốt
mọi khía cạnh. Lại càng hiếm người nhìn thấy vẻ huy hoàng
sáng lạn của Một Tình Yêu Chân Thật, Cao Cả là chính Thiên
Chúa, vì THIÊN CHÚA = TÌNH THƯƠNG. Đây là một Chân Lý
cao siêu thượng đẳng, cũng là một
Luận Đề được Đức Thánh Cha Bênêditô XVI đã phân giải rõ
ràng để mọi người có thể hiểu biết tường tận, giúp cho đời
sống cá nhân, gia đình, quốc gia và thế giới được An Vui,
Hạnh Phước.
B.
PHƯƠNG PHÁP lập luận của Thông Điệp
a/
Khởi đầu từ một nhận xét quen thuộc về “Tình Yêu”
của mọi vật mọi loài, rồi chứng minh cho thấy, tình yêu tự
nhiên đó không đầy đủ, không thỏa mãn, nó mới ở giai đoạn
bản năng, vì loài người, loài cầm thú, (kể cả loài thảo mộc
như “cây mắc cỡ”) cũng biết yêu, biết tự vệ lấy bản thân
mình: đó là tình yêu “vị kỷ”(eros).
Con người cần phải ra khỏi bản năng vị kỉ, “yêu mình”, để
vươn lên Tình yêu “vị tha”(agape), “yêu tha
nhân”, yêu gia đình, quốc gia, thế giới, thì đời sống mới
được sung mãn, triển nở, và hoàn hảo.
b/
Chúa Cứu Thế đã toát lược 10 Giới Răn thành
một Giới Răn duy nhất là: “Mến Chúa, Yêu Người”.
Nghĩa là : Tình cảm và Hành vi “Mến Chúa” đồng
thời cũng phát sinh ra “tình cảm và hành vi “Yêu
Người” nữa. Vì Chúa đã yêu Người, nên ai thực tâm
yêu Chúa cũng phải bắt chước Chúa để Yêu Người nữa, thì mới
hợp lý. Ngược lại, nếu ai đã Yêu Người một cách chân thành,
thì cũng tất nhiên cũng vươn lên Tình Yêu Chúa nữa, vì
chính Chúa mới thật là Nguồn gốc của Yêu Thương Vô Biên, và
Chúa mới là lý do khiến ta phải yêu thương tha nhân. Bởi
vậy, giới răn”Mến Chúa, Yêu Người” là Một, vì
đều bắt nguồn từ Một Tình Thương vô biên của Chúa mà ra, vì
Bản Tính của THIÊN CHÚA= TÌNH THƯƠNG. Nhờ
Tình Thương Vô Biên, Tràn Lan của Chúa, mà vũ trụ càn khôn,
và nhân loại được tạo dựng, mọi người đều là “con của
Chúa”. Do đó, không thể Yêu Chúa mà lại ghét con cái của
Chúa, hay Yêu con cái Chúa mà lại ghét Chúa.
c/
Trong phần thứ hai của Thông điệp, Đức
Giáo Chủ đã lý giải việc thực hiện những công cuộc Từ
Thiện, Bác Ái, Cứu Trợ là xuất phát từ Bản Thể của
Giáo Hội, nghĩa là từ Chúa Cứu Thế, là Thủ Lãnh của các Tín
Hữu, vì Chúa đã Yêu Thương Nhân Loại, đến nỗi
Hy Sinh Mạng Sống để chuộc tội cho mọi người được
cừu rỗi. Do đó, Toàn thể Giáo Hội như một Thân Thể Mầu
Nhiệm(Mystical Body) của Chúa KyTô, cũng phải Yêu Thương
Nhân Loại, bằng những công việc Phước Thiện, HY SINH
như Chúa đã làm, vì GIÁO HỘI= CHÚA CỨU THẾ.
d/ Nói tóm lại, Đức
Thánh Cha đã minh chứng Một Chân Lý “cổ xưa”, ngàn đời,
bằng một Phương pháp lý giải, mới mẻ, dễ hiểu. Ngài
đã dùng lý luận như “Luật Nhân-Quả”, “Nguyên Lý Đồng
Nhất”, và Tam đoạn Luận” của Triết lý La-Hy, để phân
tích và diễn dịch những uẩn khúc, éo le của trái tim nhân
loại. Theo “luật Nhân – Quả”như những câu kết luận:
Bản thể của Chúa là Tình Thương , và là Nguyên Nhân phát
sinh ra vạn sự vạn vật, nên nhân loại và vũ trụ hiện hữu này
đều là kết quả của Một Tình Thương Vô Biên đó, là
chính Thiên Chúa. Cũng một khuôn mẫu như Chúa, nếu ai có
Tình Yêu chân thật, vị tha, thì Tình Yêu đó tự nó cũng phải
là nguyên nhân phát sinh lòng quảng đại tự ý muốn chia sẻ
thời giờ, sức khoẻ, của cải để giúp đỡ những người thiếu
thốn, đau khổ. Theo Phương pháp lý luận “Nguyên Lý Đồng
Nhất” như câu: Tin Chúa và Mến Chúa= MỘT.
Không thể Tin Chúa mà lại không Yêu Chúa. Cũng không thể Yêu
Chúa mà lại không Tin Chúa. Do đó, ai xưng mình: Tin Đạo,
Tin Chúa mà không có lòng Mến Chúa, thi hành Đức Bác ái, thì
là điều nghịch lý, vì Tin Chúa cũng là Yêu Chúa, hoặc ngược
lại, Yêu Chúa thì cũng Tin Chúa nữa. Câu khác như:”Mến
Chúa và Yêu Người = MỘT”. Mọi Người đều bởi Tình
Thương Chúa mà sinh ra. Do đó, Yêu mến Chúa Thật, thì cũng
phải Yêu mến những người con do Chúa dựng nên. Không thể yêu
mến Chúa mà lại ghét bỏ những gì thuộc về Chúa, vì đó là
điều mâu thuẫn. Có thể đặt những lý lẽ trên thành hình thức”Tam-đoạn
–luận”(Syllogism) như sau:
Ông, Bà (A)
= Mến Chúa (B)
mà CHÚA (B)
= Thương người (C)
nên, Ông , Bà (A) =
cũng Thương người (C)
A = B
B = CA = C
Câu: Chúa Cứu Thế
và Hội Thánh= MỘT , vì Hội Thánh được sinh ra từ “cạnh
sườn “Chúa Cứu Thế”, vì Chúa Yêu Thương nhân loại nên đã
Hy Sinh, chịu chết, để cứu chuộc nhân loại. Bởi vậy, cũng
giống như Chúa đã làm, từ trong bản thể, từ “Cơ
Cấu”,Hội Thánh cũng phải thực hiện những công cuộc Bác ái,
từ thiện, để cứu nhân độ thế. Nếu không, Hội Thánh
sẽ tự mâu thuẫn với chính mình, và với Chúa Cứu Thế. Do đó,
làm việc lành phước đức, thi hành bác ái, không phải là điều
tình nguyện, thêm vào để thêm công phúc, nhưng là tự bản
thể, là căn tính của người tín hữu . Có thể
đặt thành công thức”Tam-đoạn-luận”
như sau:
Chúa Kytô
(A) = Hy Sinh cho Nhân Loại (B)
mà Hội Thánh (C)
= Chúa Kytô (A)
nên, Hội Thánh (C)
= Hy Sinh cho Nhân Loại (B)
A = B
C = A
C = B
Tạm Kết cho Đoạn I,
Đức Thánh Cha đã đề cao và làm nổi bật tính chất Duy
Nhất (Unity , Qui về Một Mối) của Thiên Chúa Giáo:
Vạn sự vạn vật trên trời dưới đất đều bởi Một Tình Thương Vô
Biên của Đức Chúa Trời mà có. Do đó, trái tim con người, tự
bản thể, tự căn tính cũng phải tự qui hướng về Chúa và về
với tha nhân, bằng tình Bác Ái, Vị Tha. Hội Thánh do Cái
Chết Hy Sinh của Chúa Cứu Thế mà sinh ra: do đó, từ trong
căn nguyên, cơ cấu, Hội Thánh và các tín hữu không thể không
Hy Sinh, không thực hiện Bác Ái để cộng tác vào công cuộc
Cứu Chuộc của Chúa Cứu Thế. Bởi vậy, Hội Thánh, mọi sự, mọi
loài, bởi Chúa mà ra, chung cuộc, đều qui hướng về Chúa là
Cội Nguồn Duy Nhất.
( Xin độc giả theo dõi ĐOẠN II
trong số Báo kỳ tới)
Đoạn II.
QUẢNG DIỄN MỘT SỐ ĐỀ TÀI với NHÃN QUAN VĂN HÓA VIỆT .
Lm. Jos. Cao
Phương Kỷ |
VỀ MỤC LỤC |
|
Chú Lừa và
cuộc sống |
Ngày còn niên
thiếu, tôi hay nghe noí: Sao mà chậm chạp như lư, như lừa
thế!
Từ ngày sang bên
Âu Châu, tôi lại cũng hay nghe và đọc trong sách báo câu
nói: "Du Esel! – xin tạm dịch: Như chú lừa! “ Ý muốn nói
không những chậm chạp mà còn kém trí khôn nữa!
Như thế nói "như
lừa“ là có ý muốn chửi rồi! Ôi
thật buồn thảm thay!
1. Trong đời sống hằng ngày
Có thật sự
con lừa chậm chạp và tối dạ dốt nát như thường hiểu không?
Chú lừa có thể giúp ích gì cho ta
trong cuộc sống không?
So sánh bảo chậm
chạp dốt như lừa cũng là điều không đúng, không cao thượng
tình người. Vì Chú lừa là loài vật đựợc Thiên Chúa dựng nên
trong công trình sáng tạo của Người.
Lừa cũng có gía
trị kinh tế cho cuộc sống lắm chứ. Lừa là loài vật nhỏ,
nhưng hiền lành và sức chịu đựng dẻo dai bền bỉ. Lừa được
dùng để chuyên chở hàng hóa ở những vùng núi non thung lũng
hiểm trở, nơi xe cộ, hay ngựa trâu bò không đi vượt qua được
như ở bên vùng Trung Ðông, miền núi cao.
Như thế bảo lừa
dốt nát thì qủa không công bằng, không đẹp chút nào!
2. Trong Kinh thánh
Trong kinh Thánh
lừa được những người của Thiên Chúa xử dụng. Vì thế lừa được
nổi tiếng hơn nữa.
Tiên Tri Bileam
cưỡi lừa, nhân danh Thiên Chúa mang chúc lành cho dân.
Vua Ða-Vít và
nhiều vị sứ gỉa được Thiên Chúa tuyển chọn cũng cưỡi lừa đi
đến với dân chúng.
Gia đình thánh
gia Chúa Giêsu, đức mẹ Maria và thánh cả Giuse cũng cưỡi lừa
băng đường đèo núi đến Bethlehem, rồi sang Ai Cập và trở về
Na-da-rét.
Lừa đã trở thành
con vật nhân chứng khi Chúa sinh ra. Chú có mặt trong hang
đá ngày Chúa Giêsu sinh ra và trong cuộc sống của Ngài.
Khi Chúa Giêsu
vào thành thánh Giê-ru-sa-lem như một vị vua, Ngài cũng cỡi
lừa. Hình ảnh này trái ngược với vua chúa xưa nay thường hay
cưỡi ngựa để chứng tỏ vẻ uy quyền sức mạnh của mình.
3. Trong đời sống đức tin
Tại sao Vua
Giêsu lại cỡi lừa mà không cỡi ngựa? Phải chăng chú lừa là
hình ảnh của Chúa cứu thế?
Giữa Chúa Giêsu
và những đức tính của chú lừa có nhiều sự trùng hợp giống
nhau:
- Chúa Giêsu đến
trần gian với sứ mạng phục vụ con người. Hiền lành khiêm
nhường là đức tính của Ngài. Ngài không đến với quyền hành
sức mạnh súng đạn hay lời nói luật lệ dọa nạt đe loi.
Chú Lừa hiền
lành và được dùng vào việc chở đồ phục vụ con người.
- Bài thương khó
trong Kinh Thánh thuật lại cuộc khổ hình, chịu đánh đòn hành
hạ tàn nhẫn, vác thánh gía của Chúa gánh tội trần gian, nói
lên sức chịu đựng sự nhục nhã dẻo dai không thể tưởng tượng
của Chúa Giêsu.
Chú Lừa có sức
chịu đựng dẻo dai bền bỉ, dù đi xa nơi vùng hiểm trở, đồ
chất nặng trên lưng.
Người tín hữu
tin Chúa Kitô, có thể cũng bị liệt vào hạng „như lừa“, như
cổ lỗ lỗi thời, không theo kịp đã tiến bộ văn minh thời đại,
nhất là khi noi gương Chúa Giêsu, sống bác ái tha thứ, sống
chịu đựng phục vụ giúp đỡ!
Chúa Giêsu sống
đời sống phục vụ, hiền lành kiên nhẫn chịu đựng, vì tình yêu
Thiên Chúa và con người, như chú Lừa có tính tốt kiên nhẫn
chịu đựng phục vụ con người.
Ðức giáo hoàng
Gioan 23 đã dí dỏm nói:
Nơi nào ngựa không tới được, cần đến chú
lừa!
Lm. Nguyễn ngọc Long |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÚA ƠI ! SAO LẠI
CÓ ĐAU KHỔ ? |
Nhiều lần tôi cũng như các bạn đã âm thầm than trách :
tai sao, tại sao tôi phải khổ như thế nầy, và thật là vô
lý, vô lý sao lại có những khổ đau như vậy? Không,
không! Không có gì là phi lý, chỉ tại mình chưa tìm ra
đươc lý do mà thôi…
Thiên Chúa hiện hữu không còn là
một bí nhiệm nữa, bỡi lẽ nó quá rõ ràng để nhìn thấy khi
chúng ta nhìn kỳ công của vũ trụ. Thiên Chúa là Đấng tốt
lành và thánh thiện cũng không còn là một bí nhiệm nữa vì
điều đó có thể hiểu được nếu chúng ta nhìn những hoa cỏ đồng
nội với muôn mầu muôn sắc rực rỡ. Linh hồn con người trường
cửu cũng không còn là một bí nhiệm nữa, bỡi lẽ chúng ta có
thể thấu hiểu được nếu đem so sánh giữa người với vật. Vậy
đâu là bí nhiệm?
Đó là Thiên Chúa chúng ta là một
Thiên Chúa đã bị đóng đinh chết khô trên cây thập tự. Thiên
Chúa chúng ta là một Thiên Chúa đã cho phép con người ngược
đãi, khinh chê, nhạo báng, tra tấn, hành hung một cách tất
tưởi cho đến chết và chết một cách nhục hình trên thập giá.
Và chúng ta đã không quen với một Thiên Chúa như vậy.
Trong thời còn ấu trĩ của đức
tin, thời ấu trĩ của dân Chúa, con người thường đi tìm một
Thiên Chúa quyền năng, một Thiên Chúa oai phong lẫm liệt ngự
đến giữa tiếng sấm sét rền vang như Ngài đã từng hiện ra với
Maisen trên núi Sinai. Và chúng ta đã ước vọng một Thiên
Chúa như vậy.
Có lẽ phần đông chúng ta chưa
quen với một Thiên Chúa là Thiên Chúa đã bị con người lên
án, bị đội mão gai, bị đánh đòn, bị vác thập giá lên đỉnh
đồi Golgotha và bị đóng đinh chết treo trần truồng trên cây
thập tự. Chúng ta cũng chưa quen với một Thiên Chúa là Thiên
Chúa đã khiến Con Một Ngài toát mồ hôi máu trong vườn
Giếtsêmani, một Thiên Chúa đã để Con Một Mình phải đau khổ
và đau khổ đến cùng tột đến nỗi Ngài đã phải kêu lên:”Lạy
Cha, nhơn sao Cha bỏ Con?” Vì thế, khi chúng ta gặp những
thử thách lớn lao, chúng ta hay phàn nàn kêu trách:”Tại sao,
lạy Chúa! sao lại có những nỗi khổ đau nầy? Nhiều người còn
chua chát hơn nữa, đã hằn học kêu trách Thiên Chúa: ”Làm thế
nào để tôi có thể tin được sự thiện hảo và lòng nhân từ của
Thiên Chúa nếu Ngài đã để cho tôi phải khóc lóc đớn đau như
vậy?”
Thật vậy, trong đau khổ con
người thường mất đi sự sáng suốt của lý trí và ngay cả mất
đi lòng tin của mình vào mọt Thiên Chúa từ nhân. Đó là lý do
tại sao có những tiếng kêu vang vọng từ đáy lòng tê tái của
con người như trong thánh vịnh 137. Đó không phải là tiếng
kêu vọng để xin Thiên Chúa một sự trả thù đối với những địch
thủ, mà là những tiếng kêu van của những con người đang đi
tìm một giải đáp.
Hãy ngước nhìn lên Thập Giá,
nhìn thật lâu và thật kỹ, bấy giờ chúng ta sẽ nghe tự đáy
lòng mình vọng lên những lời đáp trả. Và đây là một trong
những ý nghĩa sâu xa của Mầu Nhiệm Đau Khổ: Để cảm thông
được với những khổ đau mà chúng ta đã gây ra cho người khác,
chúng ta cũng cần phải trải qua, phải nếm thử những khổ đau
đó. Đó là cách thế mà Thiên Chúa đã muốn chúng ta phải mang
lấy những đau khổ.
Tôi cảm thấy thật đau lòng khi
phải nhắc lại những trang sử đau buồn của quê hương Việt nam
chúng ta. Nhưng đó là một sự thật, dẫu cho sự thật đó có
đáng buồn. Và đó cũng là lý do tại sao đã có nhiều khổ đau
và khóc lóc trên trần gian nầy. Có những đau khổ không do
Thiên Chúa gởi đến nhưng do con người chúng ta đã chọn nó và
muốn tạo ra nó. Đó là những nước giàu vì tham lam, ích kỷ
muốn đi xâm chiếm những nước nghèo nên đã tìm cách gây mầm
mống chia rẽ, bạo lực, hận thù, chiến tranh. Điều nầy chúng
ta đã có quá nhiều kinh nghiệm, bỡi lẽ chúng ta là một trong
những nước nạn nhân của chiến tranh đã bị gây ra bỡi những
nước giàu muốn đi xâm lăng. Không có gia đình nào trong
chúng ta không có người tử trận hay bị thương vong. Biết bao
người anh em của chúng ta đã bị chôn vùi dưới làn súng đạn
trong thời chiến tranh. Biết bao nước mắt của bà mẹ già, của
người vợ trẻ, của những đứa con thơ đã đổ ra khi nhìn thấy
những người thân yêu của mình vĩnh viễn ra đi lúc tuổi còn
xuân thì. Và còn biết bao là đau khổ khác mà chúng ta không
thể nói hết ở đây, đã được gây ra bỡi sự ác độc của chiến
tranh và con người gây nên.
Ngoài những thảm họa gây ra bỡi
chiến tranh, trong đời sống hằng ngày của chúng ta cũng còn
có rất nhiều người đã thờ ơ, đã khước từ, đã bội phản nhau,
khiến những người khác phải đau khổ và là nguyên nhân của
những cái chết đáng thương cũng như của biết bao cuộc đời sa
đọa của tuổi trẻ.
Vào mùa hè năm 1991, ở vùng đất
ấm California đã xảy ra một vụ tự tử thật đáng thương tâm.
Nạn nhân là một gia đình Việt nam. Một đôi vợ chồng trẻ có 3
đứa con nhỏ. Họ có nhà riêng nằm trên đỉnh đồi trông rất
khang trang và đẹp đẽ. Sống trong một xã hội mới với tất cả
những phức tạp của nó và nhất là sự chạy đua với đời sống
vật chất, đã khiến họ sớm gặp khủng hoảng trong đời sống hôn
nhân trên vùng đất mới. Chỉ trong một thời gian không lâu
sau đó, người vợ đã nộp đơn xin ly dị. Người chồng buồn quá
mất ăn, mất ngủ, chán chường và tuyệt vọng. Dĩ nhiên ở cuối
con đường tuyệt vọng là đi tìm cái chết để giải quyết cuộc
đời oan trái. Nhưng anh ta không thể nhắm mắt yên thân nếu
để lại 3 đứa con còn thơ sống mồ côi không cha. Vì thế, anh
ta đã nghĩ một phương kế để giải quyết vấn đề. Một ngày cuối
tuần kia, anh ta đến thăm các con của anh. Chúng đang sống
chung với má và bà ngoại. Con cái lâu ngày thiếu vắng tình
cha nên gặp được bố thì vui mừng. Chiều hôm đó, anh ta xin
phép vợ và bà ngoại cho phép anh ta đem các cháu về nhà để
cha con hu hí với nhau một đêm cuối tuần cho đỡ buồn. Mọi
người đều ưng thuận và đêm hôm ấy bốn cha con về chung sống
với nhau. Đến nửa đêm, lúc các cháu đang say giấc ngủ, người
cha đã đi khóa hết tất cả các cữa, rồi dùng canh xăng đã
chuẩn bị sẵn, rưới khắp cả căn nhà và tự tay châm lửa đốt
cháy căn nhà của anh. Ngọn lửa bốc cháy nhanh chóng và thiêu
rụi tất cả căn nhà trong chốc lác. Khi sở cứu hỏa đến thì
chỉ còn một đám tro tàn với những xác chết cháy đen. Mọi
người ngậm ngùi xúc động cho những đứa trẻ đã bị chết oan
bỡi những cuộc tình duyên không được may mắn.
Thật vậy, nếu đã một lần bị bội
phản bỡi người yêu, chúng ta sẽ bắt đầu quí trọng sự trung
thành khắng khít với nhau. Đó cũng là lý do tại sao chúng ta
cảm thấy yêu thương và kính phục những đôi bạn tình chung
thủy của những lớp người đi trước như ông bà, cha mẹ, anh
chị của chúng ta. Chắc chắn, họ cũng không thể nào tránh
khỏi những xung đột, những khó khăn trong cuộc sống hôn
nhân, nhưng chính ý chí chịu đựng, sự quyết tâm hy sinh cho
nhau và nhất là cho con cái đã giúp họ thắng vượt mọi giông
ba bão tố để mang lại sự hạnh phúc cho chính họ cũng như cho
con cái của họ.
Nếu đã một lần chúng ta từng nếm
mùi đau khổ, bị người người hất hủi, bị chèn ép, bị vu oan
cáo vạ, bị ngược đãi khinh khi, chúng ta có được cảm nghiệm
về những khổ đau đó, chúng ta sẽ cảm thấy mình dễ nhạy cảm
hơn trước những nỗi bất hạnh của những người bạn chúng ta.
Nếu đã một lần vượt biển trôi
bồng bềnh trên sóng nước, gặp giông ba bão tố, gặp những tên
cướp biển, không còn thức ăn, không còn nước uống, con người
đối diện với cái chết, bấy giờ người ta mới hiểu được thân
phận mỏng manh của kiếp người và cần đến tình yêu của Thượng
Đế. Và nếu đã một lần người ta đã từng trải qua những đoạn
đường chông gai đó, người ta mới hiểu được nỗi đau lòng của
những con người tỵ nạn bị cưỡng ép hồi hương. Không một
thuyền nhân nào không đau lòng và có thể cầm được những
giòng nước mắt khi nhìn thấy những người bạn mình đã một lần
phải liều mất mạng sống để ra đi tìm một khung trời mới, thì
giờ đây lại bị những người nhân danh bảo vệ nhân quyền cưỡng
bách phải hồi hương. Phải chăng họ dám làm những điều quái
ác đó bỡi lẽ họ chưa từng được nếm thử những mùi chua cay
của kiếp người tỵ nạn.
Khi tôi còn học về Cố Vấn Hôn
Nhân và Gia Đình ở Minnesota, một ngày kia tôi được mời đến
dự một bữa tiệc gia đình. Gia đình thân chủ hôm đó tổ chức
một bữa tiệc sinh nhật cho người bố. Những người được mời
đến hầu hết là những người quen trong giáo xứ. Trong bữa
tiệc, có nhiều người bàn đến một tin tức nóng bỏng lúc bấy
giờ là việc cưỡng bách người tỵ nạn hồi hương. Hầu hết mọi
người đều phản đối việc làm đó vì họ đã từng có những kinh
nghiệm kinh hoàng về những ngày trôi nổi bồng bềnh trên biển
cả. Trong đó, có một vài người lại đứng ra bênh vực chương
trình cưỡng bách hồi hương. Dĩ nhiên, họ có lý của họ. Chúng
ta không phủ nhận điều đó. Nhưng lý của họ là lý của những
người đứng ngoài cuộc, chưa từng được nếm mùi những thương
đau đó. Bấy giờ tôi quay lại hỏi một trong những người ấy:
- Có phải chị ra đi năm 1975 hay
trước đó không ?
- Đúng thế ! Chị ta đáp. Con đi
du học trước năm 1975.
- Có phải cả gia đình chị đang ở
Seattle đã được đi theo chương trình đoàn tụ không ?
- Đúng vậy ! Và chị hỏi lại: Tại
sao tôi biết ?
Tôi đã trả lời:
- Tôi chỉ nghe cách chị nói cũng
như cách chị lý luận, tôi có thể đoán được rằng chị cũng như
gia đình chị chưa từng được nếm mùi những kinh nghiệm đau
thương của những con người vượt biển, chưa từng trải qua
những hãi hùng, khủng khiếp của những tháng ngày bồng bềnh
trên biển cả, và cuối cùng là chưa từng được sống những năm
tháng dài đằng đẵng trong mòn mỏi đợi chờ với đầy những tủi
nhục và cay đắng trong các trại tỵ nạn.
Khi nghe đến đó, chị đã lặng im
và trên nét mặt đã để lộ một phần nào cảm thông được với
những nỗi khổ đau của những người tỵ nạn bất hạnh.
Vâng, đau khổ nơi chính thân xác
riêng mình là cách thế học yêu người khác một cách thích hợp
nhất. Chính những giọt lệ đổ ra từ khóe mắt chúng ta, sẽ dạy
chúng ta biết trưởng thành hơn trong mọi ngôn ngữ cũng như
trong mọi hành động chúng ta làm cho người khác.
Thật vậy, con người chúng ta sẽ
ra thế nào nếu không có đau khổ ? Hãy nhìn xem đứa con hoang
đàng trong phúc âm. Chính sự sung sướng đã khiến nó bỏ nhà
ra đi, và lý do đã khiến nó hồi tâm trở về không gì khác hơn
là đói khổ. Đó là một sự thật. Đau khổ là cách thế mà Thiên
Chúa đã dùng để đưa người con hoang trở về. Đối với Ngài,
điều quan trọng là làm sao cứu đứa con mình ra khỏi tình
trạng bi đát mà nó đang lâm vào, nên Ngài có thể dùng mọi
phương tiện mọi cách thế. Đôi khi, Ngài cũng đã dùng những
phương cách cứng rắn khiến chúng ta phải đau khổ nhiều.
Tình yêu Thiên Chúa thật đáng sợ
khi Ngài yêu chúng ta và muốn cứu chúng ta. Tình yêu đó có
thể chà nát chúng ta thành từng mảnh, có thể làm tan xương
nát thịt chúng ta hơn là để mất chúng ta. Chính trong lúc bị
nghiền nát đó, chúng ta mới hiểu được những khổ đau của
những người anh em chúng ta. Nhờ đó, chúng ta mới hiểu được
rằng chính sự tự cao, tự đại của chúng ta đã làm những người
anh em khác phải đau khổ nhiều. Chính lòng tham lam của
chúng ta đã khiến kẻ khác phải chết đói. Chính sự chiều theo
dục vọng của chúng ta đã làm hại biết bao nhiêu cuộc đời và
hạnh phúc của tha nhân.
Thế giới nầy sẽ hạnh phúc biết
bao nếu người giàu và kẻ nghèo biết kính trọng và giúp đỡ
nhau. Con người sẽ không còn nhiều bất hạnh nữa nếu họ biết
học lấy những bài học quí giá từ những kinh nghiệm đau khổ
mà họ đã từng trải qua trong cuộc sống.
Lm Lê Văn
Quảng |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHƯ MỘT CÁNH HỒNG |
Thân em
như một cánh hồng,
Nổi trôi
giữa cảnh mênh mông đất trời.
Bỗng đâu
từ giữa biển khơi,
Một con
sóng nhỏ thương mời em đi.
Cánh hồng
trong cõi sân si,
Nương
theo ngọn sóng ngại gì nước non.
Dù cho
sông cạn đá mòn,
Biển khơi
chấp cánh mảnh hồn phù du.
Phiêu
diêu trong cõi mịt mù,
Em tìm về
chốn thiên thu hữu tình.
Bầu trời
hồng phúc lung linh,
Hồn say
hương gió gợi hình thiên thai.
Tình yêu
như trải bóng dài,
Quê cha
một dải sao hoài vấn vương.
Từ ngày
sống kiếp tha hương,
Em như
thân khách dặm trường bơ vơ,
Từ khi em
biết mộng mơ,
Vẫn mong
về bến đợi chờ thân thương.
Trăm năm
thoát kiếp tủi hờn,
Nghìn năm
mở hội dập dồn tiếng ca.
Dù em chỉ
một cánh hoa,
Vẫn mang
những nét mượt mà tình yêu.
Tâm tư
nặng nợ bao nhiêu,
Làm sao
hết cảnh sớm chiều bể dâu ?
Từ nghìn
xưa đến ngàn sau,
Vẫn còn
trĩu nặng biển sâu ân tình.
Dù đi hết
kiếp phù sinh,
Cánh hồng
in mãi bóng hình ngày xưa.
Hai tay
ôm mấy cho vừa,
Khổ hình
thập giá cho thừa niềm đau.
Nguồn ơn
giải nghĩa nhiệm mầu,
Chết cho
nhân loại khởi đầu phục sinh.
Vườn hồng
rực ánh bình minh,
Cánh hồng
e ấp nép mình trong mơ.
Nguồn
ơn
như thác vỡ
bờ,
Tình hồng
giao ước bây giờ
hiện thân.
Tin mừng giục giã bước chân,
Tình yêu
vượt ngọn sóng thần lên ngôi.
Càng xa
muôn dặm mù khơi,
Càng gần
điểm nối đất trời vô biên.
Vân Lực |
VỀ MỤC LỤC |
|
NGÓN TAY THIÊN CHÚA |
(Lc 11:14-23)
Còn nhớ mùa vọng 2005 vừa qua,
mới dâng thánh lễ ở cộng đoàn Fatima, , tôi nhận được một cú
điện thoại của ông chủ tịch giáo xứ Lộ Đức, Houston gọi tôi
về giải tội gấp, vì số linh mục quá ít so với hàng trăm giáo
dân. Tôi phóng xe về ngay. Mới vô tới cửa, tôi thấy hàng
trăm người đang xếp hàng trước các tòa giải tội. Làm sao
giải tội cho hàng biển người trong một thời ngắn bây giờ
?Nhiều người yêu cầu giải tội tập thể. Nhưng luật không cho
phép.
Thế mà, tôi đã giải tội cho gần
một trăm người trong vòng hơn nửa tiếng. Hôm sau, có người
chất vấn : “Cha làm cách nào giải tội nhanh vậy ?” Tôi trả
lời: “Có gì đâu, mỗi người vào xưng tội chỉ mất hai giây.
Họ xưng : ‘thưa cha, như cũ.’ Tôi đáp ngay : ‘vâng, như
cũ.’” Tiếng ‘như cũ’ của họ có nghĩa tất cả mọi tội họ quen
phạm từ xưa tới nay. Còn tiếng ‘như cũ’ của tôi gồm các lời
khuyên và việc đền tội. Giáo dân của tôi “thông minh” nhất
thế giới.
Thực ra, sau khi xưng mọi tội
trong tòa, mỗi người ra ngoài đợi giải tội chung. Cứ nghe
tội chừng vài chục người, tôi lại nói chung lời khuyên, việc
đền tội và phép giải tội. Làm chừng ba bốn đợt, tôi đã có
thể giải quyết được gần trăm vụ rồi.
Nghĩ lại thấy đời linh mục nhiều
lúc cũng vui. Có lúc tôi còn nói đùa : tương lai sẽ nhờ mấy
chuyên viên điện toán viết một chương trình cho tòa giải
tội. Giáo dân chỉ cần ấn nút, mọi những chi tiết về tội sẽ
xuất hiện. Linh mục cũng ấn nút, giáo dân có thể nhận lời
khuyên và việc đền tội đặc biệt dành cho mình. Thời kỳ vi
tính giúp con người tiết kiệm biết bao thời giờ !
Đó chỉ là những lời nói giỡn.
Khi xét mình, chúng ta thấy mình giống như “ngựa quen đường
cũ.” Nhiều lần có lẽ chúng ta nghe tiếng Chúa tố cáo : “Đây
là dân tộc không biết nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của
mình, không chấp nhận lời sửa dạy : sự chân thật đã tiêu tan
và biến khỏi miệng nó.” (Gr 7:28) Chắc chắn đó là sự thật
con người thuộc mọi thời đại và mọi nơi.
Đức Giêsu cũng đã đụng đầu với
những con người như thế. Sau khi nghe biết bao lời giảng và
chứng kiến bao phép lạ của Người, họ vẫn cố chấp. Nhất là
phép lạ hôm nay, giữa lúc đám đông kinh ngạc, có người vẫn
nói : “Ông ấy dựa thế quỷ vương Bêendebun mà trừ quỷ.” (Lc
11:15) Kinh khủng thật ! Nói thế có khác gì vu cáo Người
nhân danh ma quỷ đến quấy phá nhân loại. Dưới mắt họ, Đức
Giêsu chỉ là một tay phù thủy gieo rắc sự dữ trên trần gian
và cố ý lừa đảo quần chúng để trục lợi. Đã đến lúc phải
vạch mặt chỉ tên mưu đồ đen tối mà giải thoát nhân loại khỏi
những ràng buộc phi lý của một thứ tôn giáo mê tín.
Chúa ơi, nếu gặp trường hợp
tương tự, không biết con có đủ sáng suốt mà lập luận với bọn
người cố chấp đó không ? Chúa kiên nhẫn thật ! Chúa làm
phép lạ cứu người mà vẫn bị xuyên tạc ! Xin cho con nhận ra
ngón tay Thiên Chúa đang biến Giáo hội thành Triều Đại Thiên
Chúa nơi trần gian. Giữa một trần gian đang bị phân tán
nhiều mặt, xin Chúa hãy dùng bàn tay con thu góp muôn dân về
với Chúa.
Phúc Âm Nhật
Ký của
Lm. Đỗ Vân Lực, OP. |
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC CỦA TÌNH LIÊN
ĐỚI |
Một ngày tháng 11 năm 1991, bông
tuyết trắng đầu mùa thu xứ Hung-gia-lợi rơi lả-chả như nhảy
múa trước ngọn đèn pha. Cha Imre Kozma phóng xe như bay về
phía biên giới Croát. Âu lo duy nhất của Cha là làm sao đến
thành phố Vukovar đang bị vây hãm trước khi thành phố rơi
hoàn toàn vào tay quân Serbi. Cha quyết tâm cứu thoát 7 đan
sĩ và hàng ngàn thường dân vô tội.
Đến biên giới, Cha Imre Kozma bị
lính canh phòng Croat chặn lại. Sau khi tìm mọi cách, Cha
gặp được tướng Raseta, vị chỉ huy quân đội Serbi. Trong vòng
một tiếng đồng hồ, Cha Kozma trình bày đủ các lý do hầu
thuyết phục tướng Raseta để cho Cha di tản các thường dân
đang bị kẹt trong thành phố.
Nhưng tướng Raseta một mực cứng
như đá, lạnh như đồng. Cha Kozma đánh ván bài chót. Cha nói:
- Xin vui lòng để tôi di tản
nhóm dân này. Rồi tôi sẽ cho toàn thế giới biết rằng: tướng
Raseta là vị chỉ huy nhân lành, biết hòa hợp nghĩa vụ với
lòng cảm thương!
Câu nói đánh động tướng Raseta.
Ông chấp thuận đề nghị của vị Linh Mục Công Giáo
Hung-gia-lợi. Cha Imre Kozma vui mừng không kể xiết. Cha tổ
chức ngay cuộc di tản tất cả đàn bà con trẻ và người già ra
khỏi Vukovar. Vài ngày sau khi cuộc di tản chấm dứt, quân
Serbi xung quân và nổ súng tiến chiếm Vukovar.
Đó chỉ là một trong muôn vàn
nghĩa cử vừa anh hùng vừa bác ái của Cha Imre Kozma, vị Linh
Mục Công Giáo Hung-gia-lợi. Năm 1996, Cha được Ban Quản Trị
19 ấn bản Âu châu của nguyệt san quốc tế Reader's Digest
chọn làm Người của Âu Châu.
Cha Imre Kozma sinh năm 1940
trong một gia đình Công Giáo đạo đức. Imre mồ côi cha lúc
một tuổi rưỡi và được mẹ cùng ông bà ngoại chăm sóc dạy dỗ.
Từ đó Imre lớn lên nơi làng quê cách thủ đô Budapest 130 cây
số về hướng Tây. Mẫu gương sống bác ái của ông bà ngoại đã
in đậm vào tâm hồn thơ bé của Imre. Imre thường theo bà
ngoại đem thực phẩm tiếp tế cho người Do Thái đang ẩn trốn
khỏi cuộc diệt chủng của đức-quốc-xã. Mỗi tối trước khi ngủ,
bé Imre chăm chú nghe ông ngoại đọc báo và sách Kinh Thánh.
Ông ngoại nói với bé Imre:
- Cháu không nên đi lễ vì vâng
lời hay vì bị bó buộc nhưng đi lễ để tìm kiếm thánh ý THIÊN
CHÚA.
Nơi bàn ăn nhà ông bà ngoại, bé
Imre luôn thấy có chiếc ghế trống dành cho người nghèo. Một
ngày năm bé 7 tuổi, bà ngoại đưa cho bé một khúc bánh mì và
mấy trái táo để bé trao cho người hành khất đến nhà xin ăn.
Bà ngoại nói với Imre:
- Khi con trẻ trao của bố thí,
người ăn xin không cảm thấy tủi hổ.
Imre Kozma không bao giờ quên
bài học và mẫu gương bác ái của ông bà ngoại. Imre lớn lên
và trở thành thanh niên tráng kiện, hứa hẹn nhiều thắng lợi
cho đội banh của tỉnh. Nhưng chàng quy hướng lòng xuân trẻ
về một giấc mộng cao xa hơn: Imre Kozma muốn trở thành Linh
Mục phục vụ người nghèo!
Imre Kozma gia nhập đại chủng
viện Esztergom và thụ phong Linh Mục vào tháng 6 năm 1963.
Đức Giám Mục muốn gửi tân Linh Mục Kozma du học Roma, nhưng
chính quyền cộng sản Hung-gia-lợi không cấp chiếu khán xuất
cảnh. Đức Giám Mục chỉ định Cha Kozma làm Cha sở Dorog, nơi
người dân chuyên nghề hầm mỏ. Ngày đến nhậm nhiệm sở thật vô
cùng đau đớn đối với tân Linh Mục. Thánh Lễ Chúa Nhật đầu
tiên tại họ đạo chỉ có 57 giáo hữu đến tham dự. Leo-queo vài
con trẻ đến học giáo lý.
Nhưng Cha Imre Kozma không nản
lòng. Cha hăng hái đi vào trận thánh chiến! Cha học thuộc
tên tất cả con chiên trong xứ đạo. . Ba tháng sau, lớp giáo
lý của Cha có đến 100 trẻ em và nhà thờ chật ních giáo dân
đến tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật!
Năm 1968 Cha Imre Kozma được chỉ
định Linh Mục Tuyên Úy nhà thờ thánh Phanxicô ở thủ đô
Budapest. Cha tổ chức một loạt các bài giảng thuyết lôi cuốn
dư luận quần chúng. Các sinh viên đổ xô đi nghe. Họ được thu
hút bởi lối trình bày nguyên tắc luân lý đạo đức dựa trên
giá trị Kitô và chân lý phổ quát.
Ngày 13-8-1989 Cha Imre Kozma
nhận được lời kêu gọi thống thiết của tòa đại sứ Tây Đức tại
Budapest. Từng đoàn người tị nạn từ Đông Đức chạy qua Tây
Đức qua ngõ Budapest. Họ bơ vơ không nơi trú ẩn. Cha tức tốc
dựng ngay các lều trại tiếp cứu khoảng 50 ngàn người. Cha
tìm cách đưa đoàn người lánh nạn sang nước Áo. May mắn thay,
bức tường Berlin sụp đổ vào tháng 12 năm 1989!
Ngoại trưởng Tây Đức, ông Hans
Genscher, đích thân đến Budapest trao tặng Cha Imre Kozma
huân-chương tưởng-thưởng, ghi ơn vị Linh Mục Công Giáo
Hung-gia-lợi tận tình giúp đỡ người tỵ nạn Đông Đức trong
một thời điểm khó khăn và tràn đầy nguy hiểm!
Về phía Tòa Thánh, ngày
12-8-1992, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 trao tặng Cha Imre
Kozma tước hiệu Công-Chứng Tông-Tòa (chức Đức Ông ở cấp thứ
ba). Nhưng Cha Imre Kozma luôn giữ tâm tình khiêm tốn và
không ngừng hoạt động bác ái. Cha thổ lộ: ”Còn có không biết
bao người đang cần chúng ta giúp đỡ!”
(”Reader's Digest SÉLECTION”,
Mars/1996, trang 66-71). (Radio Vatican)
Sr. Jean
Berchmans Minh Nguyệt |
VỀ MỤC LỤC |
|
HẠNH
PHÚC TRẦN GIAN VÀ TINH THẦN CHÂN PHÚC |
Khát vọng sâu xa và thầm kín
nhất của con ngươì là hạnh phúc. Người ta sinh ra để được
hạnh phúc, và cuộc đời của mỗi người trên trần gian này cũng
là một cuộc tìm kiếm hạnh phúc không ngừng,
Quan niệm về hạnh phúc của mỗi
người một khác, nhưng hạnh phúc vẫn là một mối bận tâm lớn
của con người.
Vi thế, có thể nói người ta sinh
ra, lớn lên và ngay cả chết nữa cũng là để được hạnh phúc.
Nhưng thử hỏi : mấy ai đã được hoàn toàn hạnh phúc trên cõi
đời này ? Vậy hạnh phúc phải chăng là một điều viển vông hay
một giấc mơ không bao giờ đạt tới ? Như thế bàn về hạnh phúc
có phải là một điều không tưởng và một cách thế ru ngủ lòng
mình hay không ?
Sau đây tôi xin lược giải về mấy
loại hạnh phúc thông thường và phê phán về những thứ đó, rồi
đối chiếu với tinh thần chân phúc để kết luận rằng hạnh phúc
ở đời này là điều tương đối.
I. Phân loại
hạnh phúc
Phải nhận rằng có hạnh phúc ở
đơi này. Chẳng vậy, tại sao ngưòi ta vẫn cầu cho nhau Trăm
năm hạnh phúc và thường bàn tán với nhau về hạnh phúc của
người này người kia v.v… Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật thực tiễn vẫn luôn xưng tụng và cổ võ cho những hình
thức hạnh phúc ngay trên cõi đời. Những người theo hai
thuyết này muốn thiết lập những thiên đường ngay nơi hạ
giới, chứ không phải đợi chờ một thiên đường nào khác ở bên
kia thế giới. Hạnh phúc mà họ theo đưổi cũng như đang tìm
cách thực hiện, diễn ra dưới mắt mọi người như là một cái gì
vừa tầm tay, uyển chuyển và linh động, tùy theo hoàn cảnh và
điều kiện sinh sống của mỗi người. Đó là quan niệm thông
thường của mỗi người và có thể tạm gọi là hạnh phúc khả
giác.
1. Hạnh phúc
khả giác
Gọi là khả giác tất cả những gì
người ta có thể nếm cảm, nhìn xem, rung động hay vui thích.
Bởi vậy, ăn thấy ngon là sướng, ngủ đẫy giấc là khoái, nhìn
cho thỏa mắt là thú, được như điều ước nguyện là vui, kiếm
được điều đang tìm là thích. Vui sướng, thỏa thích, khoái
lạc,, mãn nguyện, thú vị, phỉ chí, sung sướng, đều là những
từ ngữ tương đối đồng nghĩa để diễn tả hạnh phúc khả giác
của con người. Phần đông khi nói đến hạnh phúc đều hình dung
và diễn tả ra như thế.
Tuy hạnh phúc được bao gồm trong
những chữ đó, nhưng mỗi chữ lại diễn tả một nét hạnh phúc
khác nhau. Thí dụ bảo rằng người ấy sướng thật. Chữ sướng ở
đây theo nghĩa thông thường là không phải khổ. Người ta vẫn
cho là sướng những ai “ăn trắng mặc trơn” không phải chân
lấm tay bùn, được thảnh thơi nhàn hạ, gặp may mắn về đường
tình duyên hay của cải vật chất v.v… Hay bảo rằng di tu
sướng thật. Người ta cho đi tu là sướng ở chỗ không phải lo
ân lo mặc, tinh thần được thảnh thơi không phải bận tâm
những chuyện như người trần gian và đuợc xã hội vị nể ưu đãi
v.v… Xem thế, sướng ở đây được coi như một trạng thái an
hưởng, một tình thế kéo dài lâu hay chóng, tùy theo những
điều kiện vật chất nó đem lại cho người thụ hưởng. Vì thế,
khi không còn được hưởng những điều kiện tạo ra cái sướng
thì lúc đó con người lại hết sướng rồi. Thành ra nếu hiểu
hạnh phúc theo nghĩa sướng thì hạnh phúc đó chỉ là một tình
trạng khả giác mau qua. Khi nó qua rồi, người ta lại cho cảm
thấy mình khổ.
Ngoài ra, nghe người ta cũng
thường bảo : thích nhỉ, sướng nhỉ, mê ly chưa, mùi quá,
sướng ghê ! Tất cả những chữ này đều bộc lộ những giờ phút
sung sướng người ta đã trải qua. Tuy có sướng thật nhưng là
cái sướng trong giây lát. Mà thường người ta lại ưa đi tìm
những thứ này lắm, nhất là khi gặp khó khăn hay phải buồn
rầu. Nếu có ai nói tới hạnh phúc ở ngoài phạm vi khả giác,
thường người ta hay tỏ vẻ hoài nghi và coi đó là chuyện mơ
hồ. Thông thường ai cũng cho rằng hạnh phúc phải là cái gì
mình có thể hưởng thụ ngay được bằng giác quan. Vì thế, có
thể định nghĩa hạnh phúc khả giác là một tình trạng mà trong
đó mọi khát vọng và khuynh hướng của con người được thỏa mãn
một cách đầy đủ và tức thời.
1.1. Hạnh
phúc và hoàn cảnh bên ngoài
Cũng cần nói ngay là hạnh phúc
khả giác tùy thuộc khá nhiều ở hoàn cảnh bên ngoài. Do sự
tùy thuộc này mà hạnh phúc cũng trở nên hạn chế. Giữa hạnh
phúc và hoàn cảnh bên ngoài luôn luôn xuất hiện một tình thế
căng thẳng khiến con người như bị giằng co xâu xé. Đang được
bình yên mạnh khoẻ, đôi khi tự nhiên lại băn khoăn lo lắng
không biết tình trạng này kéo dài bao lâu. Thường chính
những lúc được đầy đủ sung sướng nhất, người ta lại hoài
nghi lo lắng không biết có được mãi như thế này chăng. Bởi
vậy, trong hạnh phúc dường như bao giờ cũng có một bóng mây
chập chờn, trừ ra khi người ta nghĩ rằng gió mát mặt lúc này
hay lúc ấy, sự gì phải đến sẽ đến, hơi sức đâu mà bận tâm.
Vì thế có người nói rằng : “Hưởng hạnh phúc thì luôn luôn
làm cho hạnh phúc bớt đi”. hay bi quan hơn một chút; “Hạnh
phúc là một câu nói láo. Vì theo đuổi nó mà sinh ra không
biết bao nhiêu tai họa cho cuộc đời”. Bởi vậy, nhiều khi
trong chính lúc thịnh sự may mắn nhất, có người lại trưởng
như mình dang sống trong mơ. Tình trạng căng thẳng này càng
thấy rõ, khi con người phải đối mặt với gian nan thử thách,
thí dụ khi đau mới biết sức khoẻ là quí, khi bị bom đạn mới
thấy hòa bình là một đặc ân.
Thành ra nói được rằng hoàn cảnh
bên ngoài chi phối con người trong vấn đề quan niệm và hưởng
thụ hạnh phúc. Hạnh phúc không hoàn toàn tùy thuộc con
người, tuy con người có thể tạo điều kiện để tìm ra nó.
Nhưng những điều kiện đó nhiều khi lại như ẩn hiện và thoát
khỏi bàn tay con người. Là người, ai chả muốn tạo ra những
điều kiện để được hạnh phúc, nhưng vẫn có người cố tạo ra mà
không được. Đó là khi người ta muốn tình thế, sự đời diễn ra
theo ý mình nhưng lại không như thế. Nếu xoay hướng được
hoàn cảnh bên ngoài thì nhiều người đã không phải khổ. Chính
vì thế mà hạnh phúc tùy thuộc một phần ở hoàn cảnh bên
ngoài. Khi hoàn cảnh thuận lợi thì người ta bảo là may. May
rủi là khi hoàn cảnh bên ngoài xảy ra thuận hợp hay không
thuận hợp với điều người ta mong ước. Phúc hoạ của con người
cũng một phần tùy thuộc ở may rủi đó. Bởi vậy, con người khó
chủ động trong hạnh phúc khả giác, tuy vẫn có thể thụ hưởng
nhưng là một thứ thụ hưởng nhất thời.
1.2. Hạnh
phúc và khuynh hướng vị kỷ
Ngoài những hoàn cảnh bên ngoài
có thể ảnh hưởng đến con người trong vấn đề hạnh phúc, người
ta lại còn thấy hạnh phúc khả giác phải đối phó với một
khuynh hướng khá quan trọng, đó là khuynh hướng vị kỷ. Điều
này rất dễ hiểu vì tự nhiên ai cũng muốn được sung sướng
hạnh phúc. Chính khuynh hướng này thu hút mọi khả năng và cố
gắng của con người trong việc kiếm tìm hạnh phúc. Người ta
mong được hạnh phúc để thoả mãn lòng mình. Mà lòng người lại
thích những gì dễ cảm. Thành ra trong phạm vi khả giác,
khuynh hướng vị kỷ tỏ ra rất mạnh mẽ như khi đói ai cũng
muốn ăn, và khi ăn rồi thì cảm thấy dễ chịu vì không còn bị
cơn đói dày vò, và có khi còn thú vị nữa vì đã được ăn ngon.
Không ai cấm người ta cảm thấy cái thú vị đó. Có điều nếu ăn
chỉ để tìm cái thú vị đó chứ không phải vì cần thiết thì vấn
đề lại khác. Tìm vui để tạo ra khoan khoái dễ chịu cho mình,
từ xưa đến nay vẫn được xem như một hình thức hạnh phúc
thông thường. Hạnh phúc mà không chứa đựng vui thích bên
trong đối với phần đông vẫn chưa phải là hạnh phúc. Bởi vậy,
khuynh hướng vị kỷ dưới như hình thức gắn liền với việc theo
đuổi hạnh phúc khả giác.
Ngoài ra như trên đã nói, hạnh
phúc tùy thuộc một phần ở điều kiện bên ngoài. Mà những điều
kiện ấy nhiều khi lại không diễn ra như ý người ta muốn. Khi
người ta càng muốn kéo sự vật bên ngoài phục vụ mình thì
chúng lại như tìm cách lẩn trốn.
2. Hạnh phúc
tinh thần hay chân lý
Ngoài hạnh phúc khả giác ra lại
còn một loại khác không tùy thuộc ở điều kiện vật chất bên
ngoài bao nhiêu, đó là hạnh phúc tinh thần hay luân lý phát
xuất từ hoạt động nhân đức. Thuộc loại này là những ai làm
việc thiện hay có khả năng thắng vượt khó khăn và chịu đựng
hoàn cảnh. Thật vậy, mỗi khi làm xong một việc thiện, tự
nhiên ai cũng thấy vui vui. Đây là một niềm vui thanh thoát,
vượt lên trên những điều kiện vật chất, Vì là một niềm vui
tinh thần nên nhiều khi không hiện ra náo nhiệt bên ngoài và
cũng ít tùy thuộc ở điều kiện vật chất hơn. Đó là niềm vui
và hạnh phúc của các bậc hiền nhân có thể chấp nhận cái
nghèo vật chất hay không cần nhiều thứ vật chất bên ngoài mà
vẫn nếm cảm được hạnh phúc bên trong. Vì thế, có những người
bên ngoài xem ra chẳng bằng ai, nhưng bên trong lại có một
tâm hồn rất phong phú và một sức chịu đựng phi thường. Do
đấy, hạnh phúc tinh thần là phần thưởng chính đáng cho những
tấm lòng ngay thẳng, nghèo tiền nhưng giầu lòng nhân ái. Xem
thế thì hạnh phúc ở đây khác với hạnh phúc do may rủi, vì
may rủi không thuộc quyền định đoạt của con người, còn hạnh
phúc tinh thần là do con người tạo ra bằng lòng nhân nghĩa
và đạo đức của mình. Nó không tùy thuộc ở hoàn cảnh bên
ngoài cho bằng xu hướng bên trong, đành rằng phải có hoàn
cảnh phù hợp như khung cảnh, bầu khí, lòng người, thời cuộc
v.v… con người mới dễ dàng hoạt động cho đạo đức hơn. Đây là
một thứ hạnh phúc phát sinh từ lòng người, là kết quả do sự
lựa chọn với nhiều hy sinh phấn đấu. Phải chăng vì vậy mới
có những người tìm được niềm vui trong đau thương và bằng
lòng chấp nhận cực khổ ngoài thân xác để đổi lấy niềm vui
trong tinh thần. Đó là trường hợp của những vị anh hùng hay
những bậc thánh nhân.
Nhưng phải công nhận rằng hạnh
phúc thuộc loại này không phải là thứ nhiều người ưa chuộng,
vì nó không hợp với khuynh hướng thích nhẹ nhàng êm ái của
bản tính con người tự nhiên.
3. Mối xung
khắc giữa khuynh hướng vị kỷ và giá trị tinh thần
Tinh thần thường đối chọi với
vật chất. Giữa hai phạm vi đó, xung khắc là điều tất nhiên,
vì một bên chủ trương lướt thắng, một bên tìm cách thỏa mãn.
Vì vậy hạnh phúc tinh thần là kết quả của sự phấn đấu đối
với mình và đối với hoàn cảnh và do đấy đi ngược lại với
khuynh hướng vị kỷ. Nhưng vị kỷ là một khuynh hướng rất mạnh
nơi mỗi người nên thắng được nó quả là gay go.
4. Hạnh phúc
nào cũng pha lộn đôi chút vị kỷ
Hạnh phúc tinh thần tuy cao đẹp
nhưng vẫn không thoát khỏi pha lộn đôi chút vị kỷ, vì bản
chất của hạnh phúc là thỏa mãn lòng mình, dù bất dưới hình
thức nào, như Delacroix đã xác định : “Bạn hỏi tôi đâu là
hạnh phúc ở trần gian này ? Sau nhiều kinh nghiệm, tôi dám
chắc nó hệ tại ở chỗ làm vừa ý mình”.
Thật thế, trong mọi việc lớn
nhỏ, ai cũng mong tìm được sự mãn nguyện. Vì vậy, ngay trong
sinh hoạt đạo đức, khi làm được một việc thiện, tự nhiên
người ta thấyvui như nói ở trên. Niềm vui đó là một ước muốn
sống vị tha của mình. Cho nên, dù không tìm kiếm, đôi khi
ước muốn đó vẫn lẻn vào. Đó là những cám dỗ thường xuất hiện
để làm giảm giá những hành vi đạo đức. Tuy vậy không phải
bao giờ những cơn cám dỗ ấy cũng dập tắt được động lực siêu
nhiên xui khiến làm việc nhân nghĩa. Trong phần sâu thẳm của
lòng người, vẫn còn một nơi dành riêng cho sự cao cả. Đó là
những hành động người ta làm do một sức mạnh bên trong thúc
đẩy khiến con người bằng lòng chấp nhận khó khăn nguy hiểm.
Nhưng bởi đâu lại có động lực mạnh mẽ cao đẹp đó ? Chắc là
phải do một lý tưởng nhân ái hay một ý thức hệ nào tốt đẹp
lôi cuốn. Đối với người tin Chúa thì đó là do tiếng gọi thúc
bách của lòng yêu mến Chúa Ki-tô như thánh Phao-lô nói :
“Tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách tôi.”
II. Hạnh phúc
theo tinh thần Tám Mối Phúc Thật
Đây là một thứ hạnh phúc lạ đời
không thể nào hiểu nổi ngoài tinh thần đức tin. Thật thế,
bài giảng trên núi (Mt 5,3-12; Lc 6,20b-26) là một bản văn
khó chấp nhận vì tính chất dường như ngược đời của nó. Trái
hẳn với thói thường của người trần gian bao giờ cũng đặt căn
cứ hạnh phúc trên sự giầu sang phú quí, danh giá thế lực hay
vui thú, Chúa Cứu Thế lại đặt hạnh phúc thật trên tinh thần
nghèo khó, khiêm nhường, thanh tịnh, trên sự cố gắng giải
thoát lòng mình cho khỏi những sự ràng buộc quá nặng nề của
vật chất.
Người rao giảng tinh thần nghèo
khó, khuyên người ta tìm sự công chính, an ủi kẻ buồn phiền,
đau khổ vì bị bách hại. Hạnh phúc mà Người hứa cho trần gian
thuộc nội giới nhiều hơn. Đó là sự an vui của tâm hồn thắng
vượt được những đam mê bất chính, thản nhiên trước sự vật
lộn quay cuồng của nhân thế để chiếm hữu và hưởng thụ, khi
những hoạt động như thế làm cho lòng mình trở nên u mê mờ
tối và khát vọng không cùng. Mà không phải hạnh phúc đó ngày
sau mới đến, nó đến ngay từ đời này, khi người ta rập khuôn
đời mình theo lời dạy của Chúa Cứu Thế. Đối với những ai
không tin nhận Người thì chẳng thể nói gì hơn với họ được
nữa. Vì thế, nếu muốn bàn luận về hạnh phúc theo tinh thần
Tám Mối Phúc Thật thì điều kiện cần thiết là phải có đức
tin. Vậy theo người công giáo thì hạnh phúc là sống tinh
thần Tám Mối Phúc Thật ngay ở đời này, bằng cách noi theo
đời sống gương mẫu của Chúa Cứu Thế. Tùy theo sự rập khuôn
với cuộc đời đó mà con người đạt tới sự trường sinh vĩnh
cửu.
LM An-rê Đỗ
xuân Quế, OP |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHÀ TỶ PHÚ ROCKEFELLER |
Nhà tỷ phú
Rockefeller đã hai lần tặng cho điện Versailles(Pháp) số
tiền hai triệu đô la vào ngân quỹ trùng tu.
Năm 1927, ông
sang Pháp định viếng điện Versailles. Ông đến trễ hơn 4 giờ
chiều một chút, và không ngờ rằng Điện đã đóng cửa. Ông nhã
nhặn trình bày với người gác cổng, nhưng ông không thể vào
được, vì đã quá giờ. Rokefeller không phàn nàn gì cả, cảm ơn
và trở vể Paris với dự định sáng mai ông sẽ trở lại thăm
điện.
Ngay lúc ấy,
tình cờ có một người nhận ra ông và cho viên quản thủ Cổ
viện biết. Vị này liền đến tận khách sạn nơi ông đang trọ để
xin lỗi. Việc này sau được báo chí Pháp đăng tin: “Nhà tỷ
phú Mỹ, người đã tặng hai triệu đô la để trùng tu Điện
Versailles, bị từ chối không được vào thăm cung điện, mà
không hể tỏ một lời phản kháng.”
* Một phút Suy Tư:
Người
ta thường tự hào về những thành tích của mình, và nếu có cơ
hội họ sẽ phô trương ngay lập tức. Đặc biệt là những thành
tích ấy có thể bảo đảm cho một đặc quyền nào đó. Rockefeller
có thể nhận được đặc quyền vào thăm viện Versailles bất cứ
lúc nào ông muốn, bởi vì hai triệu Mỹ kim là một số tiền rất
lớn. Thế nhưng cách hành xử của ông thật khiêm tốn. Nếu là
Rockefeller bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ nổi giận, đứng trước cổng
vung gậy lên rồi la lớn: “Gọi Quản thủ ra đây!”, hoặc chỉ
thẳng vào người gác cổng nói:”Mày không biết ta là ai sao?
May mà tôi
chưa phải là tỷ phú, cũng chưa có một đóng góp nào lên đến
to lớn, ấy thế mà đôi lúc cách cư xử của tôi thật thiếu
khiêm tốn và bình tĩnh. Thái độ của một người khi đối diện
tình huống bất ngờ, sẽ bộc lộ nguyên hình bản chất tầm
thường của họ.
Không thể
trong khoảnh khắc mà một người có thể có một đức hạnh như
ông Rockefeller. Phải chăng là kết quả của những năm tháng
rèn tập lâu dài, trong sự hạ mình và khiêm tốn.
Vì thế, thánh
Phaolô đã ca tụng như sau: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên
Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng
với Thiên Chúa; nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc
lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân…” (Phil 2,
6-7)
Sưu tầm Định |
VỀ MỤC LỤC |
Cây bút chì |
Người chế
tạo bút chì, âu yếm cầm cây bút chì riêng ra.
Trước khi
xếp vào hộp, người ấy tâm sự với cây bút chì.
“Bút chì ơi,
có năm điều ta muốn nhắn nhủ trước khi ta gửi bút chì đi
khắp nơi. Bút chì luôn nhớ lấy, đừng bao giờ quên nhé. Và
bút chì sẽ trở thành cây bút chì hữu dụng nhất”.
1. Bút
chì sẽ có thể làm được nhiều việc trọng đại, nếu và chỉ nếu
bút chì chấp nhận nằm ở trong tay một người.
2. Thỉnh
thoảng, bút chì sẽ chịu gọt dũa đau đớn, nhưng bút chì cần
sự gọt dũa để trở thành cây bút chì hữu dụng nhất.
3. Bút
chì luôn có thể sửa lại tất cả những sai lầm đã làm.
4. Cái
quan trọng nhất của bút chì là cái lõi bên trong.
5. Bất
cứ nơi đâu được dùng đến, bút chì phải để lại những dấu vết.
Nên trong bất cứ điều kiện nào, bút chì phải tiếp tục viết.
Bạn thân
mến,
Thay thế cây
bút chì bằng chính bạn. Xin luôn nhớ năm điều, đừng bao giờ
quên nhé. Và bạn sẽ trở thành người hữu dụng nhất.
1. Bạn
sẽ có thể làm được nhiều việc trọng đại, nếu và chỉ nếu bạn
chấp nhận nằm ở trong tay Chúa. Và cho phép người khác chia
sẻ những gì bạn đã lãnh nhận (thời giờ, của cải, tài năng
...).
2. Thỉnh
thoảng, bạn sẽ chịu gọt dũa đau đớn vì những khó khăn trong
cuộc sống, nhưng bạn cần sự gọt dũa để trở thành người mạnh
mẽ hơn.
3. Bạn
luôn có thể sửa lại tất cả những sai lầm đã làm.
4. Cái
quan trọng nhất của bạn là cái tâm bên trong.
5. Bất
cứ nơi đâu bạn đến, bạn phải để lại những dấu vết. Nên trong
bất cứ hoàn cảnh nào, bạn phải tiếp tục chu toàn trách nhiệm
của bạn.
Bạn thân
mến,
Can đảm lên.
Bạn là người duy nhất, đặc biệt và chỉ có bạn mới có thể chu
toàn mục đích vì đó mà bạn được sinh ra. Đừng nản chí. Đừng
thất vọng. Đừng bao giờ nghĩ đời bạn không có ý nghĩa và
không thể thay đổi.
03-04-2006
Lm. Giuse Ngô
Văn Thích, OP. |
VỀ MỤC LỤC |
CÂU CHUYỆN THẦY LANG
Phở Gà,
Nước Béo. |
-“ Còn tôi, thì cho một tô gà
da đùi, hai cái trứng non và vài thìa nước béo! À, nhớ cho
mấy ngọn hành trần nữa nhé”
-“ Thôi đi ông ơi! Vừa mới
thông tim, máu đầy những mỡ mà còn bầy đặt nước béo với
trứng gà”.
Ông chông yêu đời cười cầu
tài:
-“ Thì đã có mẹ nó lo. Nữ
điều dưỡng viên chuyên ngành chứ bộ giỡn à”.
Đây chẳng phải là mẩu chuyện
ít nghe thấy ở cõi đời ngày nay. Mời nhau đi ăn, ai cũng dè
dặt ngại ngùng, nhất là tiệc tùng cưới hỏi. Quanh đi quẩn
lại cũng vẫn mấy món béo ngậy những bơ, những mỡ, những
thịt. Thì ra con người bây giờ lo tìm cách làm sao ăn ít đi,
chứ không như một vài động vật lo kiếm không đủ thực phẩm để
lót bao tử.
Mỡ béo là thực phẩm nhiều
người e ngại nhất.
Nghĩ cũng tội nghiệp cho
những tảng mỡ hồng hào, đẹp mắt này. Không có nó thì làm sao
có làn da mịn màng, mát rượi của những ngón thon tay cho
người tình ve vuốt, nâng niu; lấy gì để cấu tạo màng tế bào;
lấy chi làm phương tiện chuyên trở các sinh tố hòa tan trong
dầu cũng như cung ứng năng lượng cho nhu cầu của cơ thể.
Chất béo cho số năng lượng nhiều gấp đôi chất đạm, chất tinh
bột đấy ạ. Và còn nhiều ích lợi khác...
Nhưng nhiều béo thì lại mập
ù. Đàn bà mập đùi mập mông, đàn ông mập bụng, như trái lê,
trái táo. Mập thì nom cũng khác đi chút đỉnh, mất eo, mất
õng ẹo, mất belly-dancing. Nhưng ngại hơn là chất béo đóng
vào thành động mạch, làm tắc nghẽn, xơ cứng.
Đi thăm ông bà lang tây mà
được báo rằng máu có nhiều cholesterol là nhiều người chẳng
thấy vui gì. Lại có than phiền, kể lể. “ Chị ơi, em chẳng
dám ăn bún bò giò heo nữa đâu, bác sĩ bảo em phải kiêng vì
cái LD của em nó cao mà HD lại thấp. Em chỉ ăn với chị bữa
nay thôi nhé. Rồi kiêng cho tới đầu tuần sau mình hãy đi
ăn”.Bữa nay là ngày thứ Sáu…
Hai cái LL, HH này là cái gì
nhỉ?
Anh hai HDL là cholesterol
Hiền lành. Nó ít gây đóng mỡ mà lai còn mang cholesterol vào
gan rồi đưa ra ngoài. Cho nên ai thấy nó trên con số 45 là
mừng húm như trúng sổ số tombola.
Còn đứa em song sanh LDL thì
Láo lếu, Lì lợm. Nó mà cao trên 160 là tim mạch đi đong dễ
như chơi.
Bà má ruột của chúng, chị
Cholesterol, chỉ số càng thấp càng tươi mát. Dưới 200 là lý
tưởng tuồng Tầu.
Mấy bà nội trợ hồi này hồ hởi
rủ nhau mua dầu thực vật về sào rau, chiên cá. Các bà tránh
mỡ heo, mỡ bò như tránh tà ma, ôn dịch. Như vậy cũng tốt đi.
Vừa rẻ tiền vừa an toàn xa lộ vì thực vật không có
cholesterol.
Mà đúng ra, ta cũng chẳng cần
phải ăn nhiều thực phẩm có bà má lắm chuyện này. Cơ thể ta
với lá gan nặng một kí rưỡi có khả năng tạo ra được hầu hết
số lượng cholesterol cần thiết. Đủ để là thành phần của kích
thích tố nữ cho quý bà quý cô có vòng số một nhô to như sân
trực thăng trên hàng không mẫu hạm; cho quý ông có nhiều
testosterone mà “ đêm bẩy ngày ba, vào ra không kể”...
Nói đến chiên cá lại nhớ đến
việc các ông các bà thầy dùi y học mũi lõ mắt xanh cũng như
da vàng tóc đen. Hồi này các trự đăng đàn báo nghe, báo đọc
hơi nhiều: để cổ võ bá tánh “giảm Nhục, tăng Ngư”. Coi bộ
các bạn ta trúng mối, lượm nhiều hoa hồng xuất cảnh cá ba xa
Cần Thơ, Bà Rịa hoặc cá mèo Vĩnh Ninh, Nam Định.
Nhưng thực tâm mà nói, ăn cá
cũng có nhiều cái lợi. Cá nằm trong nước, ăn rêu ăn rong
hoặc “ cá lớn nuốt cá bé”, nên cũng ngon thịt hơn mà lại dễ
tiêu. Rồi lại có nhiều chất béo hiền hòa, những Omega-
trois, Omega- six- neuf...( Omega- 3; 6- 9..).
Các ông bà nghiên cứu thì cứ
quả quyết là omega hạ má cholesterol cũng như dẹp bớt nàng
LDL Lếu Láo trong máu. Một tuần mà làm hai lần hoặc cháo cá
quả gia truyền Văn Quang hoặc gỏi cá lá xung là số dách. Mẹ
con nhà Cholesterol, LD là cứ tha hồ theo nhau mà xuống dốc.
Mấy ông kiểm soát thực phẩm
khắp nơi cũng như các tay đầu tư đông bạc hồi này chiếu
tướng các nhà sản xuất thực phẩm kiểu “Mì ăn liền” hơi
nhiều. Món ăn làm sẵn mua xong vừa ăn vừa thổi. TV dinner
đông lạnh về thẩy vào lò vi ba dăm phút là sẵn sàng cho
việc “ cơm nước xong, trời vừa tới”. Bát chén giấy, ăn xong
vứt bỏ. Chẳng phải lách cách nấu nướng bếp núc. Chẳng phải
rửa chén rửa bát.
Xong bữa, vợ chồng phưỡn bụng
ngồi coi phim bộ tới khuya chẳng cũng thư giãn hay sao! Mời
nhau thêm lon nước ngọt nhiều đường, thùng pop corn đầy bơ.
Để lâu lâu “ Tay ải tay ai” thì lại càng thơ mộng, động
tình. Việc gì phải Viagra hoặc Hawai, Singapore, Hong Kong
cho tốn tiền mà lại còn sợ bị không tặc hiểm nguy. Chỉ tội
một điều là liên tục như vậy thì lên cân cũng lẹ nhất là
ngày đêm “ngọa triều”, tĩnh tại triền miên.
Nhưng...
Các nhà ngôn ngữ học thật
“nát chuyện”. Tại sao lại đặt ra những NHƯNG, những NẾU
trong ngôn ngữ Việt Nam cho cuộc đời thêm phức tạp.
Vâng, nhưng những món ăn làm
sẵn, ăn liền này chúng cũng bố lếu bố láo lắm cơ. Chất mỡ đã
béo ngậy mà muối biển cũng mặn như ...muối. Mà con người ăn
vào lại khoái khẩu mới chết chứ. Cho nên mới muốn- ăn -thêm.
Nào khoai chiên, gà rán... Toàn chiên bằng chất béo có hại
trans fatty acid không à! Cái anh mỡ béo ác ôn này là vua
phá hoại, chuyên gia đặt cốt mìn dọc theo xa lộ tuần hoàn
đấy. Quý ông công an khu vực cần canh chừng chúng cẩn mật.
Và các quan kiểm soát thực
phẩm đã cảnh giác nhà sản xuất đổi cách nấu chiên, các tay
đầu tư dọa rút vốn. Bộ con dân hiền lành của người ta mà cứ
nhè đầu độc mãi thì đâu có được. Coi chừng kẻo mập phì cả
nước bây giờ!!! Lại còn nghẹt tim, tai biến não, nhồi máu cơ
tim...
Các ông Y tế chỉ thị là chỉ
nên ăn 30% tổng số chất béo một ngày. Sữa thì bớt béo, gà bỏ
da, trứng bốn trái một tuần. À, cái vụ trứng gà này thì các
ông bạn Tiên Chỉ, chiếu trên độc quyền nhâm nhi thủ lợn, gan
bò cần nhớ nhé. Kẻo quý hiền thê lại phải nhắc nhở, canh
chừng.
Ôi! cái ông đốc tờ này cũng
nhiêu khê, lắm chuyện.
Vợ mình như cái “thùng tố nô”
thì khen đẹp rối ra rối rít. Mà cứ bầy đặt nói chuyện kiêng
khem, ăn uống béo gầy.
Kệ chúng tôi. Ngon miệng là
tôi... cứ sơi. I don’t care! Que sera, sera!!
Cứ ăn cho sướng miệng các cụ
ạ. Phở tái mà không có tí nước vàng béo ngậy thì thà ăn cháo
trắng với muối vừng. Thịt bíp tếch toàn nạc thì khác gì nhai
miếng bông gòn trong miệng, nuốt mãi không trôi. Phải không
a ...thưa các cụ !! (xin cho tràng pháo tay)
Vâng thì tùy cụ.
Chỉ ngại là ông nhà hòm Tobia
với tấm vé tầu hỏa đang đứng đợi trước cửa, chờ giờ vào đón
ra đồng vui với giun với dế. Hoặc chú đốc Nguyên sẵn sàng
thông mạch máu, rồi nhẹ nhàng đếm bạc, gửi ngân hàng.
Ai buồn, ai vui?!
Bác Sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
Texas-Hoa Kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|