KINH CẦU CHO
LINH MỤC |
LTS.
Ngày 7.5.2006 là Chúa nhật
Chúa Chiên Lành,
ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu
Linh mục và Tu sĩ. Với mục đích ấy, GSVN hân hạnh giới
thiệu bản kinh dưới đây, hy vọng sẽ được mọi người
hưởng ứng và tiếp tay phổ biến rộng rãi.
Bản kinh này được một số linh
mục cao niên và đạo đức soạn thảo, đồng thời cũng đã
được Ban Biên Tập Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam cân nhắc
trước khi gửi đến quí Cha và quí Vị.
KINH CẦU CHO LINH MỤC
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng cứu chuộc và
là Linh mục đời đời. Xưa trên đồi Golgotha, Chúa đã chết
để thiết lập một giao ước mới, và cho toàn thể các tín
hữu được tham dự vào chức Linh mục của Chúa, để mỗi
người chúng con, bằng đời sống cầu nguyện và hy sinh,
biết thi hành chức vụ tư tế; bằng đời sống bác ái và
tông đồ, biết thi hành chức vụ tiên tri; bằng đời sống
dấn thân và phục vụ, biết thi hành chức vụ vương đế theo
tinh thần của Chúa.
Hơn nữa, tại phòng tiệc ly và dưới chân
thánh giá, Chúa đã thiết lập chức Linh mục thừa tác,
để tuyển chọn một số người tham gia cách đặc biệt vào
chức tư tế của Chúa. Chúa đã khắc ghi trên họ một dấu ấn
không thể tẩy xóa được. Nhờ đó, họ có khả năng dâng lên
Chúa Cha, hy lễ của Chúa cũng như của toàn dân: một hy
lễ hoà giải, qua đó Chúa liên tục hiến dâng chính mình
và toàn thể nhân loại cho Chúa Cha. Chúa đặt họ làm thừa
tác viên của Bí Tích Thánh Thể và ơn tha thứ, được tham
dự vào sứ mạng phúc âm hoá, và làm người tôi tớ của dân
tộc mới mà Chúa đã cứu chuộc.
Hôm nay, chúng con cảm tạ Chúa và tha
thiết cầu xin Chúa ban cho các Linh mục, ("đặc biệt cho
Cha xứ chúng con"), được trọn đời yêu mến Chúa thiết
tha, luôn phản ánh sự trong sạch, thánh thiện và yêu
thương của Chúa. Chớ gì lòng trung thành với Hội Thánh
của các ngài, nêu gương và củng cố niềm tin cho toàn thể
dân Chúa. Xin cho các ngài biết tận tuỵ chăm sóc, hy
sinh và khiêm tốn phục vụ đoàn chiên, như người mục tử
tốt lành và khôn ngoan, hầu nước tình thương của Chúa
được mở rộng nơi mọi tâm hồn.
Lạy Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Chúa Giêsu
Linh mục và là Mẹ chúng con. Xin Mẹ bầu cử cùng Chúa cho
tất cả các Linh mục, ("và đặc biệt cho Cha xứ của chúng
con"), được mãi mãi trung thành với Chúa và Hội Thánh,
sống thánh thiện và nhiệt thành lo cho mọi người nhận
biết, yêu mến và phụng sự Chúa muôn đời. Amen.
GSVN
|
VỀ MỤC LỤC |
|
II. Những đòi hỏi thiêng liêng đặc biệt trong đời Linh mục |
LTS :
Kính thưa Quí
vị,
Bốn mươi năm sau
Thánh Công Đồng Vatican II, Dân Chúa tại Việt Nam vẫn chỉ
biết rất ít về những nội dung canh tân mà Giáo hội toàn cầu
đã công bố rộng rãi. Trước sự thúc bách ấy và trong khả năng
hạn hẹp của minh, GSVN sẽ cố gắng giới thiệu những bản văn
quan trọng. Trước hết là sắc lệnh
PRESBYTERORUM
ORDINIS,
về chức vụ và đời sống các Linh muc. (Bản dịch của GHHV Pio
X, 1975).
Sắc Lệnh về Chức vụ & Đời
sống các Linh mục
Chương III:
Đời Sống Linh Mục
II. Những đòi hỏi thiêng
liêng đặc biệt trong đời Linh mục
Trong những
đức tính cần thiết hơn cả cho chức vụ Linh Mục, phảl kể đến
thái độ này, là bao giờ cũng sẵn sàng tìm ý muốn Đấng đã sai
mình chứ không phải tìm ý riêng. Thực ra công việc của Thiên
Chúa mà Chúa Thánh Thần tuyền chọn các ngài để hoàn thành,
vượt quá mọi năng lực và tầm mức khôn ngoan nhân loại; vì
“Thiên Chúa đã lựa chọn những gì yếu hèn trong thế gian để
bêu xấu những gì mạnh mẽ” (1Cor 1, 27). Vậy ý thức những sự
yếu hèn của mình, thừa tác viên đích thực của Chúa Kitô
khiêm tốn làm việc trong khi tìm xem điều gì đẹp lòng Thiên
Chúa và như bị ràng buộc bởi Thánh Thần, trong mọi sự Ngài
đều tuân theo ý của Đấng muốn cho mọi người được cứu rỗi.
Ngài có thề khám phá và tuân theo ý muốn này trong những sự
kiện hàng ngày bằng cách khiêm tốn phục vụ mọi người được
Thiên Chúa ủy thác cho mình qua các nhiệm vụ riêng cua mình
cũng như qua những biên cố của đời sống.
Nhưng vì
chức vụ Linh Mục là chức vụ của chính Giáo Hội, nên chức vụ
đó chỉ có thể được chu toàn trong sự thông công phẩm trật
của toàn thể. Vậy đức bác ái mục vụ thôi thúc các Linh Mục
đang hoạt động trong mối thông hiệp này biết hy sinh ý riêng
mình, qua việc vâng lời phục vụ Chúa và anh em, bằng cách
lấy tinh thần đức tin mà lãnh nhận và tuân theo những gì
được Đức Giáo Hoàng, Đức Giám Mục của mình, cũng như các Bề
Trên khác truyền dạy và khuyên bảo, bằng cách hoàn toàn sẵn
lòng tự hiến và tự hiến hết mức trong bất cứ chức vụ nào đã
được trao phó cho mình dù là thãp kém và nghèo hèn. Thật
vậy, nhờ cách đó, các ngài duy trì củng cố sự hiệp nhất cần
thiết với các anh em ngài trong thừa tác vụ, và nhất là với
những vị được Thiên Chúa đặt làm nhà lãnh đạo hữu hình của
Gìáo Hội; nhờ thế, các ngài cộng tác vào việc xây dựng Thân
Thể Chúa Kitô, Thân Thể được lớn lên “bằng mọi mối khớp
tương trợ”. Sự vâng phục này đưa con cái Thiên Chúa tới sự
tự do trưởng thành hơn, trong khi vì bác ái thúc đẩy và để
chu toàn chức vụ, các Linh Mục đã cẩn thận suy nghĩ những
phương thế mới để mưu ích hơn cho Giáo Hội, thì tự bản tính
sự vâng phục đòi buộc các ngài phài tin tưỏng đưa ra những
sáng kiến, phải tha thiết trình bày những nhu cầu của đoàn
chiên được trao phó và luôn luôn sẵn sàng tùng phục phán
đoán của những vị thi hành các phận vụ chính yếu trong việc
điều khiền Giáo Hội Chúa.
Nhờ tự ý
khiêm nhượng và vâng phục trong tinh thấn trách nhiệm mà các
Linh Mục nên giống Chúa Kitô và có những cảm thức như Chúa
Giêsu Kitô, Đầng “tự hủy mình khi nhận lầy thân phận tôi tớ…
đã vâng lời cho đền chết “ (Ph 2, 7 - 9 ). Nhờ sự vâng phục
này Người đã chiến thắng và chuộc lại sự bất phục tùng của
Ađam, như Thánh Tông Đồ đã minh chứng: “vì một người không
vâng phục mà muôn người hóa thành tội nhân, thì cũng thế,
vì một Đấng phục tùng mà nhiều ngưởi được trở nên công
chính” (Rm 5, 19).
Sự chế dục
hoàn toàn và vĩnh viễn vì Nước Trời đã được Chúa Kitô khuyến
khích mà qua các thời đại và ngay cả ngày nay vẫn đựơc một
số đông Kitô hữu sẵn lòng chấp nhận và tuân giữ một cách
đáng khâm phục, thì hiện thời vẫn luôn được Giáo Hội hết sức
quý trọng trong đời sồng Linh Mục. Thực vậy nếu vì vừa là
dấu chứng vừa là niềm khích lệ đức bác ái mục vụ và là nguồn
mạch đặc biệt làm phát sinh đời sống thiêng liêng phong phú
trên thế giới. Thực ra tự bản tính của chức Linh Mục không
đòi buộc điều đó như đã thấy thực hành trong Giáo Hội sơ
khai và trong truyền thồng của Giáo Hội Đông Phương. Trong
các Giáo Hội đó, ngoài những vị cùng với tất cả các Giám
Mục, nhờ ơn thánh, đã chọn bậc độc thân, cũng còn có những
Linh Mục rất xứng đáng đã lập gia đình; thực vậy, khi
khuyến khích bậc độc thân Linh Mục, Thánh Công Đông này
không hề có ý định thay đổi tập quán khác biệt đang thịnh
hành một cách chính đáng trong Giáo Hội Đông Phương, và thân
ái khuyên nhủ tầt cả những ai đã nhận lãnh chức Linh Mục và
hiện đang sống đời đôi bạn, hãy bền chí trong ơn gọi thánh
và hoàn toàn quảng đạỉ tiếp tục hy sinh đời sống mình cho
đoàn chiên được trao phó.
Nhưng bậc
độc thân có rất nhiều thuận tiện cho chức Linh Mục. Thật
vậy, sứ mệnh toàn diện của Linh Mục là tận hiến để phục vụ
một nhân loại mớì, mà Chúa Kitô Đấng chiến thắng sự chết đã
phục hồi trong thế gian nhờ Thánh Thần Người và là một nhân
loại đã được sinh ra “không bởi khí huyết, không bởi ý muốn
xác thịt, không bởỉ ý muốn của nam nhân, nhưng bởí Thiên
Chúa” ( Gio 1, 13). Nhờ đức trinh khiết hay là bậc độc thân
vì Nước Trời các Linh Mục được thánh hiến cho Chúa Kitô với
một lý do mới mẻ và tuyệt hảo được dễ đdng kết hợp hơn với
Người bằng một trái tim không chia xẻ, tận hiến cách tự do
hơn trong Người và nhờ Ngườì để phục vụ Thiên Chúa và loài
người, sẵn sàng hơn trong việc phục vụ Nước Chúa và việc tái
sinh siêu nhiên; như thế các ngài có khả năng hơn để sinh
nhiều con cái trong Đức Kitô. Chính nhờ đó, các ngài tuyên
bố trước mặt mọi người rằng mình muồn tận hiến trọn vẹn cho
công việc đã được trao phó, nghĩa là muốn đính ước các tín
hữu với một người bạn độc nhất và hiến dâng họ cho Chúa Kitô
như một trinh nữ thanh sạch; như thế các ngàl nhắc lại cuộc
hôn nhân mầu nhiệm đã được Thiên Chúa thiết lập và sẽ được
tỏ lộ đầy đủ ở đời sau. Cuộc hôn nhân trong đó Giáo Hội chỉ
có một vị Hôn Phu duy nhất là Chúa Kitô. Ngoài ra, các ngài
còn trở nên dấu chỉ sống động về thế giới mai sau, mà ngày
nay đã hiện diện qua đức tin và đức áí, trong đó các con cái
sự sồng lại không còn dựng vợ gả chồng nữa.
Vì những
động lực đặt nền tảng trên mầu nhiệm Chúa Kitô và sứ mệnh
của Người nên việc sống độc thân trước tiên được khuyến
khích cho các Linh Mục, rồi sau đã trở nên luật buộc trong
Giáo Hội Latinh cho tất cả những ai muốn chịu Chức Thánh.
Thánh Công Đồng này phê chuẩn và xác định luật này một lần
nữa đối với những ai muốn chịu chức Linh Mục. Tín thác vào
Chúa Thánh Thần, Công Đồng rằng Chúa Cha sẽ quảng đại ban ơn
độc thân là ơn rất thích hợp với chức Linh Mục Tân Uớc, miễn
là những người tham dự chức Linh Mục của Chúa Kitô qua Bí
Tích Thánh Chức cũng như toàn thể Giáo Hội phải khiêm tốn và
khẩn khoản nài xin. Thánh Công Đồng này cũng khuyên mọi Linh
Mục khi tin tưởng vào ơn Chúa đã tự do và tự ý chấp nhận bậc
độc thân thánh thiện theo gương Chúa Kitô, hãy sống gắn bó
với bậc đó bằng một tâm hồn quảng đại và với tất cả con tim
của mình. Xin họ hãy kiên nhẫn trung thành trong bậc này và
hãy nhìn nhận đó là ơn rất trọng đại mà Chúa Cha đã ban cho
mình và Chúa Con đã công khai tán thưởng, cũng như hãy nhớ
đến những mầu nhiệm cao cả được biểu lộ và thực hiện qua ơn
độc thân. Chắc hẳn nều càng có nhiều người trong thế giới
ngày nay nghĩ rằng sự chế dục hoàn toàn không thể có được,
thì các Linh Mục càng phải hiệp cùng Giáo Hội mà khiêm
nhượng và kiên nhẫn hơn nữa để cầu xin ơn trung thành, vì
Chúa không bao giờ từ chối những người kêu xin. Đồng thời
các ngài lại phải luôn dùng mọi phương thế siêu nhiên và tự
nhiên mà mọi người sẵn có, nhất là các ngài hãy tuân giữ
những luật lệ khố hạnh đã được kinh nghiệm của Gíáo Hội
chuẩn nhận và không kém cần thiết trong thế giới ngày nay.
Vì vậy Thánh Công Đồng này không những yêu cầu các Linh Mục
mà còn kêu gọi tất cả các tín hữu hãy quý trọng ơn độc thân
Linh Mục cao quý này và hãy cầu xin cùng Chúa để chính Ngài
luôn rộng tay ban phát dồi dào ơn này cho Giáo Hội Ngài.
Nhờ đời sống
thân hữu và huynh đệ glữa các Linh Mục với nhau và với những
người khác, các ngài có thể biết cách thẩm định và vun trồng
những giá trị nhân bản và quý mến các tạo vật tốt lành như
những ơn phúc của Thiên Chúa. Tuy sồng giữa thế gian nhưng
các ngài phài luôn biết rằng mình không thuộc về thế gian,
như lời Chúa là Thầy chúng ta đã phán dạy. Vậy sử dụng trần
gian như không sử dụng, các ngài được tự do, sự tự do giải
thoát các ngài khỏi mọi lo lắng hỗn loạn và làm cho các ngài
ngoan ngoãn nghe theo tiếng Chúa trong đời sống hằng ngày.
Từ sự tự do và ngoan ngoãn đó sẽ nảy sinh khả năng biện biệt
thiêng liêng để nhờ đó tìm ra thái độ đứng đắn đối với thế
gian và của cải trần thế. Thực vậy, thái độ đó rất quan
trọng đối với các Linh Mục vì sứ mệnh Giáo Hội được hoàn tất
giữa trần gian và vì những của cải được tạo dựng lại rất cần
thiết cho sự tiến bộ bản thân của con người. Vậy các ngài
phải cảm tạ Chúa Cha trên trời, vì tất cả những gì Ngài rộng
ban cho để được sống xứng đáng. Tuy vậy, các ngài phải phân
biệt dưới ánh sáng đức tin tất cả những gì các ngài gặp thấy
để một đàng biết sử dụng một cách thích đáng những của cải
theo ý muốn của Thiên Chúa, đàng khác biết gạt bỏ những gì
phương hại đến sứ mệnh của mình.
Thật vậy, vì
nhận Chúa là “phần và là gia nghiệp” của mình (Ds 18, 20);
nên các Linh Mục chỉ được sử dụng những của cải trần gian
vào những mục đích mà gíao lý Chúa Kitô và quy luật của Giáo
hội ấn định.
Về những của
cải của Giáo Hội nói riêng, các Linh Mục phải quản trị chúng
theo bản chất chúng đúng như tiêu chuẩn của gíao luật với sự
giúp đỡ của những giáo dân thông thạo khi có thề. Các ngài
phai luôn luôn nhằm sử dụng chúng vào những mục đích mà Giáo
Hội phải theo đuổi khi Giáo Hội làm chủ nhưng của cải trần
gian, nghĩa là nhằm vào việc thờ phượng Chúa, cung cấp một
mức sống xứng đáng cho hàng giáo sĩ, cũng như thi hành những
công cuộc tông đồ thánh thiện, hay những việc bác ái, nhất
là đối với những người nghèo túng. Còn những của cải có được
nhân dịp thi hành một vài nhiệm vụ nào đó của Giáo Hội, trừ
khi có luật ấn định cách khác, các Linh Mục cũng như các
Giám Mục trước hết phải dùng vào việc cấp dưỡng xứng đáng
cho mình và việc chu toàn những phận sự của đầng bậc mình,
phần còn lại, các ngài hãy dùng vào việc gây ích lợi cho
Giáo Hội hoặc cho những công cuộc bác ái. Bởi thế, cảc ngài
không được coi chức vụ của Giáo Hội như một mối lợi, cũng
không được dùng những lợi tức để làm giàu cho gia đình mình.
Bỏi vậy các Linh Mục không bao giờ được để tâm hồn dính bén
của cải nhưng phải luôn luôn tránh mọi tham lam và xa lánh
mọi hình thức thương mại.
Hơn nữa, các
ngài được mời gọi tình nguyện sống nghèo khó để nên giống
Chúa Kitô một cách rõ ràng hơn và tận tụy hơn với chức vụ
thánh. Thật vậy, dù giàu có, Chúa Kitô đã trở nên nghèo hèn
vì chúng ta để nhờ sự nghèo khó của Người mà chúng ta trở
nên giàu có. Cũng thế, chính các Tông Đồ đã làm gương chứng
minh rằng: đã lãnh nhận ơn cách nhưng không thì cũng phải
ban phát cách nhưng không, và các ngài đã biết sống khi được
sung túc cũng như khi phải túng thiếu. Việc sử dụng chung
tài sản của nhau một phần nào, theo gương đóng góp tài sản
làm của chung mà lịch sử Giáo Hội sơ khai đã ca ngợi, là một
phương thế tuyệt hảo để đạt được tình bác ái mục vụ và giúp
các Linh Mục thực hiện một cách đáng khen ngợi tinh thần
nghèo khó đã được Chúa Kitô khuyến khích.
Vì thế, các
Linh Mục cũng như Giám Mục, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn,
Ngài là Đấng đã xức dầu cho Chúa Cứu Thế và sai đi giảng
Phúc âm cho người nghèo khổ, phải tránh tất cả những gì bằng
cách này hay cách khác có thể làm mình xa cách người nghèo
khó, và hơn các môn đệ khác của Chúa Kitô các ngài phải loại
bỏ mọi thứ khoe khoang trong các đồ dùng của mình. Các ngài
phải xếp đặt chỗ ở thế nào để không ai coi đó là nơi bất khả
xâm phạm, và để không ai dù nghèo hèn đến đâu phải sợ hãi
không bao giờ dám lui tới.
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THÁNH
THỂ: CHÓP ĐỈNH CỦA ĐỜI SỐNG LINH MỤC |
Nhiều người đã
có những cảm nhận khác biệt khi bước vào một nhà thờ Tin
lành và khi bước vào một nhà thờ Công giáo. Thực vậy, khi
bước vào một nhà thờ Tin lành, họ cảm thấy lạnh lẽo và trống
trải. Còn khi bước vào một nhà thờ Công giáo, họ cảm thấy ấm
áp và linh thiêng. Tại sao lại có sự khác biệt ấy ?
Tôi xin thưa :
Vì trong nhà thờ Công giáo có Chúa Giêsu hiện diện trong bí
tích Thánh Thể.
Nếu nhà thờ Công
giáo được coi như là trung tâm mọi sinh hoạt của giáo xứ,
thì phần cốt yếu của nhà thờ Công giáo chính là nhà tạm, nơi
đó Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta qua từng biến cố, qua từng
cảnh huống của cuộc đời.
Vì thế, chúng ta
cũng có thể gọi Thánh Thể chính là con tim của Giáo hội,
cũng như của mọi người. Từ đó, chúng ta rút ra đề tài cùng
nhau chia sẻ hôm nay : Thánh Thể, chóp đỉnh của chức vụ Linh
mục.
I - THÁNH
THỂ, CHÓP ĐỈNH CỦA ĐỜI SỐNG ĐỨC KITÔ
1- TỪ THẬP
GIÁ
Như chúng ta đã
biết : Mục đích chính yếu của Đức Kitô khi đến trong trần
gian là để cứu chuộc chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi vòng
nô lệ tội lỗi. Mục đích ấy được thực hiện một cách trọn vẹn
qua cái chết của Ngài trên Thập giá. Hay nói cách khác, Thập
giá chính là đỉnh cao mà Ngài hằng nhắm đến trong suốt cả
cuộc đời.
Thực vậy, Thánh
Gioan đã viết :
“Đức Kitô xuống
thế không phải là để làm theo ý riêng của mình, nhưng là để
chu toàn thánh ý của Chúa Cha, Đấng đã sai phái Ngài.” (Ga
6,38).
Thánh Phaolô
trong bức thư gửi tín hữu do Thái cũng xác quyết :
“Khi bước vào
trần gian, Đức Kitô đã nói : Lạy Thiên Chúa, này con đây,
con đến để thực thi ý Ngài…Chính theo ý đó của Thiên Chúa,
mà chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng
thân mình làm lễ tế chỉ một lần là đủ.” (Đức tin 10,5-10).
Ngay từ giây
phút đầu tiên khi nhập thể, Đức Kitô đã sống chết với ý định
cứu độ của Thiên Chúa :
“Lương thực nuôi
sống Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn
tất tốt đẹp công trình của Ngài. (Ga 4,34).
Lễ hy sinh của
Đức Kitô “đền bù tội lỗi cả thế gian” chính là cách diễn tả
sự thông hiệp tình yêu với Chúa Cha :
“Sở dĩ Chúa Cha
yêu mến tôi, chính vì tôi hy sinh mạng sống mình” (Ga
10,17). “Thế gian phải biết rằng tôi yêu mến Chúa Cha và làm
đúng như Chúa Cha truyền cho tôi.” (Ga 14,31).
Ước muốn sống và
chết cho ý định cứu độ đầy yêu thương của Chúa Cha chính là
động lực cho cả cuộc đời của Đức Kitô. Chính vì cái chết
trên thập giá mà Ngài đã nhập thể :
“Lạy Cha, xin
cứu con khỏi giờ này ! Nhưng chính vì giờ này mà con đã
đến.” (Ga 12, 27). “Chén đắng Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ
nào Thầy chẳng uống ?” (Ga 18,11).
Và trên thập
giá, trước khi mọi sự được hoàn tất, Ngài còn nói :
“Ta khát.” (Ga
19,28).
2- ĐẾN THÁNH
THỂ
Thế nhưng, đỉnh
cao Thập giá này đã được thực hiện trước một phần nào khi
Ngài thiết lập bí tích Thánh Thể vào buổi chiều ngày thứ năm
tuần thánh.
Thực vậy, có lần
Ngài đã tỏ lộ ý muốn được ăn lễ Vượt qua với các môn đệ :
“Thầy những khát
khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu
khổ hình. Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao
giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn
vẹn trong Nước Thiên Chúa."(Lc 22,15-16).
Và khi thời gian
đến và trong đêm bị nộp, Đức Kitô đã diễn tả tột độ việc từ
hiến bản thân mình trong bữa tiệc ly với mười hai tông đồ.
Hôm trước ngày
chịu nạn, khi còn hoàn toàn tự do, Đức Kitô đã biến bữa Tiệc
Ly với các tông đồ thành lễ tưởng niệm việc Ngài tự nguyện
hiến dâng cho Chúa Cha để cứu độ nhân loại :
“Anh em cầm lấy
mà ăn, đây là mình Thầy…Anh em hãy uống chén này, vì đây là
máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.”
(Mt 26,26-28).
Bí tích Thánh
Thể là lễ tưởng niệm hy tế thập giá sẽ được thực hiện một
cách đầy đủ và trọn vẹn vào chiều hôm sau, ngày thứ sáu tuần
thánh, trên đỉnh đồi Canvê.
Đồng thời, Ngài
mời gọi các tông đồ tham dự vào lễ hiến dâng của Ngài và yêu
cầu họ lưu truyền hy lễ này mãi mãi.
Như thế, Đức
Kitô cũng đã đặt các tông đồ làm linh mục, làm tư té của
Giao Ước mới :
“Vì họ, con xin
thánh hiến chính mình con, để trong chân lý, họ cũng được
thánh hiến.” (Ga 17,19).
Nếu Đức Kitô đã
hướng tới thập giá như chóp đỉnh của đời mình, thì Ngài cũng
hướng tới Thánh Thể như vậy, bởi vì giữa thập giá và Thánh
thể có một mối liên hệ mật thết. Thánh Thể “hiện tại hóa”
thập giá và lưu truyền hy lễ của Đức Kitô cho đến tận cùng
thời gian.
II - THÁNH
THỂ, CHÓP ĐỈNH CỦA ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI
1- THÁNH THỂ
ĐỐI VỚI GIÁO HỘI
Trong Tông thư
“Mane nobiscum Domine”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã xác
quyết :
“Chúa Giêsu Kitô
đứng ở trung tâm, không chỉ của lịch sử Giáo hội, nhưng còn
của cả nhân loại. Trong Ngài, muôn loài được qui tụ lại.”
(LCXOL 6).
Nếu Đức Kitô là
trung tâm của lịch sử Giáo Hội, thì Thánh Thể Ngài cũng phải
là điểm trọng tâm và chóp đỉnh của mọi sinh hoạt trong Giáo
hội.
Thực vậy, chúng
ta có thể nói được rằng Thánh Thể chính là nguồn mạch và
đỉnh cao của mọi sinh hoạt trong Giáo hội vì Thánh Thể chứa
đựng tất cả kho tàng thiêng liêng của Hội Thánh, là chính
Đức Kitô, lễ Vượt Qua của chúng ta.
Đây cũng là điều
Công Đồng đã xác quyết :
“Phép Thánh Thể
chí thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Giáo
hội, đó là chính Đức Kitô, Ngài là mầu nhiệm Phục sinh của
chúng ta; Ngài là Bánh Hằng Sống, ban sự sống cho nhân loại
bằng chính Thịt của Ngài, Thịt đã được sống động nhờ Thánh
Thần và làm cho người ta được sống…” (LM 5).
Sở dĩ chúng ta
gọi Thánh Thể là chóp đỉnh của đời sống Giáo hội bởi những
lý do sau đây :
1- Giáo
hội được soi sáng nhờ Thánh Thể.
Thực vậy, mỗi
làn Giáo hội cử hành bí tích Thánh Thể, thì tất cả chúng ta,
những người tham dự, có thể một cách nào đó sống lại kinh
nghiệm của hai môn đệ trên đường đi Emmaus :
“Khi đồng bàn
với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra
trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng
Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Người
nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng
ta đã chẳng bừng cháy lên sao?" (Lc 24,30-32).
Chính vì thế,
Đức Thánh Cha đã xác quyết :
“Nhờ Ngài, Giáo
Hội được soi sáng. Bí Tích Thánh Thể là một mầu nhiệm đức
tin, và đồng thời là một “mầu nhiệm ánh sáng”.(GHTTT).
Nhờ việc đọc và
suy gẫm Thánh Kinh trong phần Phụng vụ Lời Chúa mà chúng ta
sẽ tìm ra đường nẻo Chúa muốn chúng ta bước đi trong cuộc
đời.
2- Giáo hội
được nuôi dưỡng và được sống nhờ Thánh Thể.
Thánh Thể là của
ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta như lời Chúa
Giêsu đã phán :
“Vì thịt tôi
thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và
uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người
ấy.” (Ga 6,55-56).
Chính vì thế,
chúng ta cũng có thể nói : Giáo hội được nuôi dưỡng và được
sống nhờ Thánh Thể. Đức Thánh Cha đã xác quyết :
“Giáo Hội sống
nhờ Chúa Kitô Thánh Thể; nhờ Ngài, Giáo Hội được nuôi
dưỡng.” (GHTTT 6).
“Giáo Hội liên
tục sống nhờ hy tế cứu độ, và đạt đến hy tế đó không phải
bằng một kỷ niệm đơn thuần đầy niềm tin mà thôi, nhưng còn
bằng một tiếp xúc hiện tại, vì hy tế nầy trở nên hiện diện,
hiện diện luôn mãi cách bí tích, trong mọi cộng đoàn hiến
dâng nó, qua tay của thừa tác viên được thánh hiến.”(GHTTT
12).
3- Thánh Thể
làm nên Giáo hội và Giáo hội làm nên Thánh Thể.
Thực vậy, dưới
một góc độ nào đó, chúng ta có thể nói Thánh Thể đã làm phát
sinh ra Giáo hội, như sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo đã
khẳng định :
“Hội Thánh phát
sinh chủ yếu từ việc Đức Kitô tự hiến thân hoàn toàn để cứu
độ chúng ta; sự hiến thân được thể hiện trước trong việc
thiết lập bí tích Thánh Thể và được thực hiện trên Thập
giá.” (GLHTCG 766).
Hơn thế nữa,
mỗi khi lên rước lễ, chúng ta được liên kết mật thiết với
Đức Kitô, cũng như được kết hiệp mật thiết với nhau để làm
thành một thân thể duy nhất là Giáo hội. Vì thế, chúng ta có
thể xác quyết :
“Bí tích Thánh
Thể làm nên Giáo hội.” (GLHTCG 1396).
Cũng trong chiều
hướng ấy, Công Đồng Vaticanô II đã viết như sau :
“Nhờ bí tích của
tấm bánh Thánh Thể, sự hiệp nhất các tín hữu làm thành một
thân thể duy nhất trong Đức Kitô được tỏ bày và trở nên hiệu
lực” (GH 3)
Thực vậy, nhờ bí
tích Rửa tội, chúng ta được mời gọi để tạo nên một thân thể
duy nhất. Trong khi đó, bí tích Thánh Thể sẽ thực hiện ơn
gọi này :
“Khi ta nâng
chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự
phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó
chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có
một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy,
nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.”
(1Cr 10,16-17).
Đồng thời, nhờ
việc thực thi lệnh truyền của Chúa : “Các con hày làm việc
này mà nhớ đến Thầy”, Giáo hội làm nên Thánh Thể, nghĩa là
Giáo hội hiện tại hóa hy tế thập giá của Đức Kitô và làm cho
bí tích Thánh Thể được tồn tại mãi cho đến tận cùng thời
gian, nhờ đó lời loan báo của tiên tri Malakia ngày xưa trở
thành sự thật :
“Quả thật, từ
đông sang tây, Danh Ta thật cao cả giữa chư dân; và ở khắp
nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh
Ta, bởi vì Danh Ta thật cao cả giữa chư dân.” (Ml 1,1).
2- GIÁO HỘI
ĐỐI VỚI THÁNH THỂ
Thánh Thể làm
nên Giáo hội, hay nói cách khác, sở dĩ Giáo hội được sống và
được xây dựng là nhờ Thánh Thể :
“Giáo Hội sống
nhờ Thánh Thể (Ecclesia de Eucharistia vivit). Chân lý này
không chỉ diễn tả một kinh nghiệm hằng ngày của đức tin,
nhưng dưới hình thức tổng hợp nó còn gồm tóm cả cốt lõi của
mầu nhiệm Giáo Hội. Trong hân hoan, Giáo Hội cảm nghiệm dưới
nhiều hình thức sự thể hiện liên tục lời hứa: “Và Thầy, Thầy
sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20).
Nhưng trong Bí Tích Thánh Thể, nhờ sự biến đổi bánh và rượu
thành Mình và Máu Chúa, Giáo Hội được vui hưởng sự hiện
diện này với một cường độ duy nhất. Từ ngày Lễ Ngũ Tuần, khi
Giáo Hội, Dân của Giao Ước Mới, khởi đầu cuộc lữ hành về quê
hương thiên quốc, Bí Tích thần linh vẫn tiếp tục in dấu trên
những ngày sống của Giáo Hội, lắp đầy chúng với niềm hy vọng
tín thác.
Ý thức vai trò
quan trọng của Thánh Thể trong đời sống của mình, Giáo hội
cần phải kín múc nơi Thánh Thể nguồn sức mạnh cần thiết và
phải qui hướng mọi hoạt động của mình về đó như chóp đỉnh.
Thực vậy, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô đã viết :
“Mọi dấn thân
vào sự thánh thiện, mọi hoạt động nhằm hoàn thành sứ mạng
của Giáo Hội, mọi nỗ lực thực hiện các chương trình mục vụ,
phải múc lấy nơi mầu nhiệm Thánh Thể, sức mạnh cần thiết và
phải hướng về đó như chóp đỉnh. Trong Bí Tích Thánh Thể,
chúng ta có Chúa Giêsu, chúng ta có hy tế cứu chuộc của
Ngài, chúng ta có sự phục sinh của Ngài, chúng ta có hồng ân
Thánh Thần, chúng ta có việc tôn thờ, sự vâng phục và tình
yêu đối với Chúa Cha trên trời. Nếu chúng ta coi thường Bí
Tích Thánh Thể, làm sao có thể chữa trị sự nghèo nàn khốn
khổ của chúng ta ?” (GHTTT 60).
Ngoài ra, Giáo
hội còn có bổn phận phải cử hành thánh thể, để không ngừng
hiện tại hóa mầu nhiệm Vượt qua, bởi vì mỗi khi cử hành
thánh thể, Giáo hội loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên
xưng việc Chúa sốnng lại cho tới khi Chúa lại đến. (GHTTT
5).
Đối với người
Kitô hữu cũng vậy, Thánh Thể vừa là nguồn mạch và chóp đỉnh
của đời sống, bởi vì Thánh Thể chứa đựng tất cả kho tàng
thiêng liêng của Giáo hội là chính Đức Kitô, Chiên Vượt Qua
và bánh ban sự sống. (GHTTT 1).
Khi tham dự
thánh lễ, người Kitô hữu dâng lên Thiên Chúa hy tế của Đức
Kitô, và cùng với lễ vật ấy, họ tự dâng chính mình họ cùng
với những lao công vất vả, những khổ đau buồn phiền, như lễ
vật xuất phát từ lòng cuộc đời. (GH 11).
Khi rước lễ,
chúng ta không phải chỉ được lãnh nhận ơn nọ ơn kia, mà còn
được lãnh nhận và kết hiệp với chính Đức Kitô, tác giả của
mọi ơn sủng. Ngài đến, sát cánh bên chúng ta và cùng với
chúng ta chiến đấu, như vậy chắc chắn chúng ta sẽ chiến
thắng.
Như phần xác cần
phải ăn mới được sống, thì phần hồn cũng vậy, chúng ta phải
siêng năng lãnh nhận Thánh Thể để kín múc được một nguồn sức
sống dồi dào, nhờ đó sẽ dễ dàng chu toàn những bổn phận
trong phạm vi trần thế, góp phần xây dựng một thế giới xứng
đáng với phẩm giá con người và phù hợp với chương trình của
Thiên Chúa :
“ Một hệ luận
khác rất có ý nghĩa của chiều hướng cánh chung trong Bí Tích
Thánh Thể là sự thúc đẩy bước chân lữ hành của chúng ta
trong lịch sử, làm nảy sinh một mầm hy vọng sống động cho
mọi người hằng ngày tận tụy với nhiệm vụ của mình. Quả thật,
nếu nhãn quan Kitô giáo mời gọi chúng ta nhìn về “trời mới”,
“đất mới”(x. Kh 21,1), điều đó không làm suy yếu, mà kích
thích tâm thức của chúng ta về trách nhiệm đối với trái đất
của chúng ta (33). Tôi muốn khẳng định lại điều này một cách
mạnh mẽ vào lúc khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba, để các Kitô
hữu hơn lúc nào hết, cảm thấy càng phải dấn thân chu toàn
những bổn phận công dân trần thế của mình. Họ có nghĩa vụ
phải đóng góp, dưới ánh sáng của Tin Mừng, vào việc xây dựng
một thế giới xứng với con người và đáp ứng đầy đủ chương
trình của Thiên Chúa.” (GHTTT 20).
Và sau cùng, khi
rước lễ chúng ta được kết hiệp mật thiết với nhau, nhờ đó
góp phần xây dựng Giáo hội, như Công Đồng đã viết :
“Được bổ dưỡng
bởi Mình Thánh Đức Kitô trong thánh lễ, họ biểu lộ cách cụ
thể sự hiệp nhất của Dân Chúa, sự hiệp nhất ấy được diễn tả
đầy đủ và được thực hiện cách kỳ diệu trong bí tích cực
trọng này.” (GIÁO HỘI 11).
III- THÁNH
THỂ, CHÓP ĐỈNH CỦA ĐỜI SỐNG LINH MỤC
1- THÁNH THỂ
ĐỐI VỚI LINH MỤC.
Trái đất xoay
quanh mặt trời thế nào, thì cuộc đời của Linh mục cũng phải
xoay quanh Đức Kitô, hay nói một cách cụ thể hơn, cuộc đời
Linh mục cũng phải xoay quanh Thánh Thể như vậy.
Cũng trong chiều
hướng ấy, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã xác quyết :
“Nếu Thánh Thể
là trung tâm và chóp đỉnh của đời sống Giáo Hội, nó cũng
là như thế đối với tác vụ linh mục. Vì vậy, khi tạ ơn Chúa
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi muốn lặp lại rằng Thánh Thể
là lẽ sống chính yếu và trung tâm của bí tích truyền chức
được khai sinh thực sự ngay từ lúc thiết lập Thánh Thể và
cùng với Thánh Thể.”(GHTTT 31).
Tất cả mọi hoạt
động của Linh mục phải được xuất phát từ Thánh Thể và phải
được hướng tới Thánh Thể :
“Những hoạt động
mục vụ của linh mục rất đa dạng. Nếu nghĩ đến những điều
kiện xã hội và văn hóa của thế giới hôm nay, thì dễ hiểu
rằng các linh mục bị rình rập bởi nguy cơ phân tán trong
nhiều công việc khác nhau. Công Đồng Vaticanô II đã nhận
thấy rằng bác ái mục vụ là mối dây liên kết đời sống và
hoạt động của các ngài. Công Đồng thêm: “ Bác ái mục vụ phát
xuất trước tiên từ nơi Hy Tế Thánh Thể, do đó Hy Tế Thánh
Thể là trung tâm và gốc rễ của toàn thể đời sống linh
mục.”(GHTTT 31).
Các Đức Giám mục
Việt Nam cũng xác quyết :
“Chức Linh mục
thừa tác xuất phát từ Thánh Thể và hướng về Thánh Thể…Việc
tôn sùng bí tích Thánh thể là nguồn mạch phong phú cho cuộc
đời và sứ vụ linh mục.” (GHSMNTT 11).
Và như vậy,
Thánh Thể sẽ đem lại nguồn sức mạnh cũng như niềm an ủi và
khích lệ cho linh mục trong những hoạt động của mình :
“Bằng cách thế
nầy, Linh mục mới đủ sức thắng vượt tất cả những căng thẳng
làm cho ngài bị phân tán trong cuộc sống; mới tìm thấy trong
Hy Tế Thánh Thể, trung tâm đích thực của đời sống và tác vụ,
sinh lực thiêng liêng cần thiết để đương đầu với những công
việc mục vụ đa dạng. Như thế, những ngày sống của ngài sẽ
thực sự trở nên Thánh Thể. “ (GHTTT 31).
2- LINH MỤC
ĐỐI VỚI THÁNH THỂ
Chúng ta có thể
tóm tắt một số việc linh mục cần phải làm đối với Thánh Thể
:
1- Dâng Thánh
Lễ hằng ngày.
Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đã lấy lại tư tưởng của Công đồng mà khuyên
các Linh mục như sau :
“Vì thế, người
ta hiểu được tầm quan trọng cho đời sống thiêng liêng của
Linh mục, cũng như cho lợi ích của Giáo Hội và thế giới,
của việc thực thi lời khuyên của Công Đồng là cử hành Bí
Tích Thánh Thể hằng ngày, “dù việc cử hành không thể có giáo
dân hiện diện , vẫn là hành động của Chúa Kitô và Giáo
Hội.” (GHTTT 31).
Như vậy, chúng
ta thấy các Linh mục được khuyến khích cử hành thánh lễ mỗi
ngày, dù có hay không có giáo dân tham dự. Và đặc biệt là
ngày Chúa nhật, các Linh mục phải tạo những điều kiện thuận
lợi để giáo dân có thể tham dự một cách dễ dàng :
“Sự cổ võ đặc
biệt hữu hiệu cho hiệp thông , đặc điểm của Bí Tích Thánh
Thể, là một trong những lý do của tầm quan trọng Thánh Lễ
Chúa Nhật. Về phương diện này và về những lý do đã khiến cho
nó trở nên cần thiết cho đời sống của Giáo Hội và của các
tín hữu, tôi đã bàn rất nhiều trong Tông Thư Ngày của Chúa
(Dies Domini) về sự thánh hoá Ngày Chúa Nhật. Tôi đã nhắc
lại rằng đối với các tín hữu, tham dự Thánh Lễ là một nghĩa
vụ buộc, trừ khi họ có một ngăn trở nghiêm trọng nào, và
cũng vậy, về phần mình các Mục Tử có bổn phận tương ứng tạo
điều kiện thiết thực cho mọi người để họ thực thi huấn giới.
Gần đây nhất, trong Tông Thư Bước vào ngàn năm mới (Novo
millennio ineunte), nhằm vạch ra đường hướng mục vụ cho
Giáo Hội vào đầu thiên niên kỷ thứ ba, tôi muốn làm nổi bật
đặc biệt Thánh Lễ Chúa Nhật, nhấn mạnh vì sao Thánh Lễ Chúa
nhật rất hữu hiệu cho sự hiệp thông : Tôi đã viết “ Bí Tích
Thánh Thể là nơi đặc biệt để sự hiệp thông luôn được loan
báo và được gìn giữ. Đúng thế, nhờ tham dự vào Bí Tích Thánh
Thể, ngày của Chúa cũng trở thành ngày của Giáo Hội, như thế
Giáo Hội có thể thực hiện một cách có hiệu quả vai trò của
bí tích hiệp nhất.”(GHTTT 41).
2- Dâng
Thánh lễ một cách sốt sắng.
Đức Thánh Cha
Giaon Phaolô II đã nhắn nhủ các Linh mục như sau :
“Hằng ngày các
con lặp lại lời thánh hiến, làm chứng nhân và người loan báo
phép lạ tình yêu vĩ đại xảy ra ngay trên bàn tay các con,
hãy luôn tự vấn, nhờ hồng ân Năm đặc biệt này, để cử hành
Thánh lễ mỗi ngày với niềm hân hoan và sốt sắng như cử hành
Thánh lễ đầu tiên…” (LCXOLVCC 30).
Đặc biệt là
Thánh lễ Chúa nhật :
“Nếu thành quả
đạt được là làm cho việc cử hành Thánh lễ Chúa nhật được sốt
sắng trong mọi cộng đoàn Kitô hữu, cũng như phát triển lòng
tôn sùng Thánh Thể ngoài Thánh lễ, thì kết quả đó cũng đã
thật mỹ mãn trong Năm hồng ân vậy.” (LCXOLVCC 29).
Muốn tạo được sự
sốt sắng khi dâng Thánh lễ, linh mục cần phải chiêm ngắm và
cầu nguyện :
“Các con hãy sẵn
lòng dành nhiều thời giờ cầu nguyện trước nhà tạm.”
(LCXOLVCC 30).
Trong Tông thư
“Mane nobiscum Domine”, Đức Thánh Cha cũng viết :
“Năm Thánh Thể
bắt nguồn từ sự chiêm ngưỡng thực tại mà Giáo hội kính tôn
như một mầu nhiệm trọng đại…” (LCXOLVCC 29).
3- Phải làm
chứng và loan báo tình yêu Thánh Thể.
Như trên chúng
ta vừa thấy Đức Thánh Cha đã khuyên nhủ :
“Hằng ngày các
con lặp lại lời thánh hiến, làm chứng nhân và người loan báo
phép lạ tình yêu vĩ đại xảy tra ngay trên bàn tay các con.”
(LCXOLVCC 30).
Các Đức Giám mục
Việt Nam cũng mời gọi :
“Là những người
quản lý các mầu nhiệm thánh, các linh mục phải nên chứng tá
đặc biệt về đức tin, lòng sùng kính và yêu mến đối với Mầu
nhiệm cực trọng này. Điều đó phải biểu lộ rõ nét khi các
ngài cử hành Thánh lễ, cầu nguyện trước Thánh Thể và đem
Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân. Việc tôn sùng Bí tích Thánh
Thể là nguồn mạch phong phú cho cuộc đời và sứ vụ linh mục.”
(GHSMNTT 11).
KẾT LUẬN
Để kết thúc bài
chia sẻ này, tôi xin mượn lời của Đức Thánh Cha Giaon Phaolô
II để ca ngợi Thánh Thể :
“Đây là kho tàng
của Giáo Hội, quả tim của thế giới, bảo chứng của ngày cuối
cùng mà mọi người đều mong mỏi, dù không ý thức. Vĩ đại thay
mầu nhiệm này. Chắc chắn nó vượt xa chúng ta và nó thử thách
cam go những khả năng của trí óc chúng ta đòi buộc phải đi
xa hơn những dáng vẻ bên ngoài.” (GHTTT 60).
Đây chính là cơ
hội thuận tiện để chúng ta kiểm điểm lại xem : chúng ta đã
có thái độ nào đối với Thánh Thể ? Và nhất là chúng ta đã cử
hành Thánh lễ ra làm sao ? Trang nghiêm và sốt sắng hay chỉ
bôi bác và máy móc ?
GSVN
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Hai Hướng Nhìn |
Chúng ta vừa bước qua ranh
giới năm cũ, và đang ở đầu ranh giới năm mới. Năm cũ là một
chặng đường dài. Năm mới cũng là một chặng đường dài. Đứng ở
giáp ranh hai chặng đường dài, thì ta có hai hướng nhìn: Một
cái nhìn lại, một cái nhìn đi, thì cái nhìn nào của ta cũng
là cái nhìn về những sự đụng chạm tới ta.
Những cái nhìn đụng chạm
vào đời ta trong năm cũ chắc là nhiều. Những cái sẽ đụng vào
đời ta trong năm mới, chắc không phải là ít. Những cái đụng
đó làm ta vui, buồn, lo, sung sướng, nhiều ít thì mỗi người
cứ nghe lòng mình sẽ thấy. Mà chỉ mình biết rõ lòng mình,
chứ chưa chắc gì người khác sẽ biết được đúng lòng ta. Cũng
như chưa chắc gì ta sẽ biết được lòng người khác.
Vì thế, ở đây tôi không
muốn nói tới màu sắc, tâm trạng của con người trong ngày
xuân mới hôm nay, mà chỉ đưa ra một vài suy tư nhỏ bé, với
hy vọng được anh em chia sẻ.
Suy tư của tôi là hai câu
hỏi sau đây:
1.
Khi nhìn lại, tôi nghe gọi sao?
2. Khi
nhìn đi, tôi nghe gọi gì?
Tiếng gọi của quá khứ,
tiếng gọi của tương lai. Hai tiếng gọi đó thế nào.
Anh chị em thân mến,
1.
Khi nhìn lại tôi nghe gọi sao?
Thưa tôi nghe gọi: Hãy biết
ơn. Hãy biết ơn những gì ta đã lãnh nhận. Nếu suy nghĩ kỹ,
ta sẽ thấy trong năm qua, sự ta cho đi chẳng được là bao.
Nhưng sự ta nhận lãnh thì thực là nhiều. Mà nhận nhiều, là
vì ta luôn là kẻ thiếu thốn, phải cần đến người khác. Cần để
sống, cần để nên người. Từ một lời chào đến một lời khuyên
răn an ủi. Tất cả, và bất cứ sự gì ta lãnh nhận, đều là
những viên gạch xây dựng đời ta.
Đừng chỉ coi những gì sung
sướng hay lớn lao mới là ơn.
Dù đời ta có như chiếc xe
đò, ồn ào đông đảo, chen nhau chiếm cứ, nhưng sau cùng xe
lại trống trơn, thì ta cũng đừng cho mình là cô đơn, chẳng
được nhờ ai. Vì thực sự, ta cũng đã nhận nhiều, và chính sự
cô đơn cũng là một ân huệ.
Dù đời ta có như cành mai,
báo hiệu ngày xuân, nhưng chính mình lại không có mùa xuân,
vì mau tàn và vội héo, thì cũng đừng cho mình là phù hoa,
chẳng chịu ơn ai. Vì thực sự, ta cũng đã nhận nhiều, và
chính sự phù hoa cũng là một ân huệ.
Dù đời ta có như Saolê,
ngã ngựa trên đường Đamas, thì cũng đừng coi mình là vô
phước. Vì thực sự ta đã nhận nhiều, và chính sự ta ngã đau
cũng là một ân huệ.
Dù đời ta có như một quảng
của giòng sông cả, nuôi dưỡng bao nhiêu đồng ruộng cây cỏ,
có sức tràn ngập đất đai bao la, thì cũng đừng kiêu hãnh,
cho mình là chỉ có mình. Bởi vì, quảng sông sau, bao giờ
cũng mắc nợ những dòng sông trước, và nhất là mắc nợ với
nguồn mạch nguyên thủy.
Dù đời ta có như ngôi nhà
lộng lẫy, thì cũng đừng tự đắc, cho mình là do mình mà có.
Bởi vì ngôi nhà, vẫn mắc nợ với từng hạt cát, với từng viên
gạch, với từng giọt mồ hôi, với biết bao công khó.
Tóm lại, đời ta là kết tinh
của bao công ơn. Chịu ơn thì phải biết ơn. Mà biết ơn là
biết nhìn nhau với đôi mắt khiêm tốn, là biết gần lại với
nhau trong thái độ hiền hòa, là biết nói với nhau bằng những
lời thân ái, là biết tặng nhau cảm tình nồng thắm.
Hãy biết ơn như thế. Đối
với ai, thì mỗi người có thể tự trả lời. Hãy biết ơn. Đó là
tiếng gọi ta nghe được khi nhìn lại quá khứ. Còn khi nhìn đi
tương lai, ta nghe gọi gì.
2.
Thưa, khi nhìn tương lai, ta nghe gọi:
Tiến bộ là không ngừng ở
một chỗ, mà hãy bước thêm. Con người hướng về tuyệt đối, thì
tuyệt đối là đích điểm xa vời. Nên chỗ nào trong đời sống
cũng là tương đối. Lúc nào ta cũng có thể bước thêm. Bước
thêm là tiến lên, là tiến bộ. Tiến về mọi phương diện: Tiến
bộ về sản xuất, tiến bộ về hiểu biết, tiến bộ về ý chí cương
quyết kiên trì. Nhưng nhất là tiến bộ về cái nhìn, về trái
tim và về đức tin.
Tiến bộ về cái nhìn, là
biết nhìn cuộc đời với con mắt thực tế hơn, khoa học hơn, tự
tín hơn, không để mình bị mê hoặc bởi những ảo vọng hão
huyền, những mê tín dị đoan, những mặc cảm sai trái. Là biết
nhìn các lập trường và đường lối khác với mình bằng thái độ
cởi mở hơn, để khiêm tốn xét lại, để sửa sai, để bổ túc cho
mình.
Tiến bộ về trái tim, là
biết tránh kỷ hơn về nghi kỵ, về những hiểu lầm làm ta xa
cách anh em đồng hành, là biết đoàn kết hơn, là biết thực
thi bác ái yêu thương tích cực và rộng rãi hơn, đối với
người đồng đạo, đối với các anh em không cùng tín ngưỡng.
Tiến bộ về đức tin, là biết
tin cậy mến Chúa nhiều hơn, biết rút ra ở cuộc đời những bài
học bổ ích cho linh hồn, biết bám víu vào Đấng có thể an ủi
mình ở đời này, và ban cho mình hạnh phúc đời sau, là biết
thu tích những sự thiêng liêng sẽ không bao giờ hư hao mất
mát.
Muốn tiến bộ, cần phải được
an tâm và tin tưởng. Cái gì sẽ giúp ta an tâm và tin tưởng.
Thưa lòng đạo. Lòng đạo không phải chỉ là một ý thức hệ,
nhưng là một sự sống tan hòa trong một sự sống, tức là sự
sống của con người tín hữu, thông dự vào sự sống của Thiên
Chúa. Lòng đạo không phải chỉ là tín điều, kinh kệ, lễ nghi,
nhưng là sự gặp gỡ của một tình yêu với một tình yêu. Nghĩa
là sự gặp gỡ của linh hồn với Thiên Chúa. Vì thế, lòng đạo
đi vào sâu thẳm con người. Ai biết tôn trọng và vun trồng
lòng đạo, sẽ bước được nhiều bước tiến bộ cả về vật chất,
lẫn về tinh thần.
Anh chị em thân mến,
Quá khứ gọi ta hãy biết ơn.
Tương
lai gọi ta hãy tiến bộ.
Ta nghe tiếng gọi đó. Ta
chấp nhận tiếng gọi đó. Ta muốn thực thi tiếng gọi đó. Vì
thế, giờ đây, chúng ta cùng bên nhau, chung quanh Chúa nhân
từ, để tìm nồng nàn thêm cho lòng biết ơn, và để tìm động
lực thêm cho bước tiến bộ. Xin hãy cầu cho riêng mình, cho
người thân, cho Quê Hương dân tộc. Xin cầu cho nhau. Để ít
ra trong giờ phút đầu tiên của năm mới, chúng ta cũng làm
được một việc có ý nghĩa. Amen.
+ Gm. GB. Bùi
Tuần |
VỀ MỤC LỤC |
|
LỜI SỰ SỐNG |
Sự sống quanh ta thật âm thầm mà
kỳ diệu: sau một cơn mưa, những chiếc nấm nằm sâu trong lòng
đất, ngái ngủ sau một cơn mơ dài, chỗi dậy và lớn nhanh phi
thường. Sự sống của muôn loài cỏ cây và của con người thật
là mạnh mẽ, can đảm vươn lên trước giông tố của cuộc đời.
Không ai nhìn thấy sự sống, nhưng cũng không ai có thể phủ
nhận sự hiện hữu của sự sống. Bởi vì chính sự sống đang hiện
diện và từng giây từng phút giúp ta lớn lên trong cuộc đời.
Sự sống của muôn vật cỏ cây nhắc
ta liên tưởng đến sự sống con người. Trong bất cứ nền văn
hóa nào, sự sống cũng được coi là thiêng liêng, là ân ban
của Đấng Cao Cả. Con người vẫn tin vào sự tồn tại của sự
sống ở thế giới bên kia, tức là sau khi chết. Dù hoàn cảnh
khó khăn, dù đau khổ chán chường, con người vẫn muốn vươn
lên để sống. Trong những lúc bức xúc cùng cực, có người đã
tự tìm đến cái chết như một phương pháp giải thoát, nhưng
thường là những lúc quẫn trí, chứ nếu có thời gian bình tâm
suy nghĩ thì họ sẽ không đủ cam đảm quyết định tự kết liễu
đời mình.
Sự sống thật thiêng liêng và kỳ
diệu. Con người có thể thích hợp mọi hoàn cảnh của cuộc sống
để tồn tại. Thánh Kinh dạy chúng ta, chính Thiên Chúa là
nguyên lý và là nguồn mạch của sự sống. Chính Ngài là sự
sống và thông ban cho chúng ta sự sống thiên linh. Qua Thánh
Kinh là LỜI SỰ SỐNG, người tín hữu Kitô tìm thấy ý nghĩa của
cuộc sống nơi Thiên Chúa và nhờ đó họ xác tín hướng đi của
mình.
1- Thiên Chúa
thông ban sự sống cho con người
Dựa trên quan niệm Đông phương
thời cổ cho rằng con người được nặn bằng đất sét, tác giả
Sáng thế dùng lối so sánh con người được Thiên Chúa nắn cho
nên hình nên dạng cũng như chiếc bình gốm được nặn ra bởi
người thợ gốm. Như người thợ gốm tự do nặn ra những sản
phẩm theo trí tưởng tượng của mình, Thiên Chúa cũng tự do
sáng tạo và nắn nên hình hài con người như vậy. Con người là
một sản phẩm của Đấng Sáng Tạo, tên gọi “A-đam”, nguyên tự
Do Thái có nghĩa là “người”, là tên người đàn ông đầu tiên,
có cách phát âm gần với “A-đa-ma” có nghĩa là “Đất” phù hợp
với quan niệm “con người bởi đất mà ra”.
Tuy vậy, con người được nắn cho
nên hình nên dạng này còn có cái gì cao siêu hơn chiếc bình
gốm, vì Thiên Chúa, sau khi nắn thành hình con người từ bụi
đất, đã “thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một
sinh vật” (St 2,7). Con người trở nên một sinh vật, một vật
sống, một hình ảnh của Thiên Chúa, mặc dầu xuất xứ từ bụi
đất thấp hèn. Sinh khí được Thiên Chúa thở vào, chính là sự
sống làm cho con người khác với chiếc bình gốm, mặc dù còn
mang bản tính mỏng giòn. Và, sinh khí ấy tồn tại nơi con
người,là động lực thúc đẩy mọi hành động thể lý và tinh thần
của con người. Sinh khí ấy là sự sống.
Theo truyền thống Thánh Kinh, sự
sống không chỉ là nguyên lý cho sự hiện hữu thể lý của con
người, nhưng còn là khả năng hành động. Khả năng hành động
này là yếu tố để phân biệt người còn sống với người đã
chết. Nhưng trên hết, sự sống luôn được khẳng định như một
ân ban của Thiên Chúa cho con người. Bởi lẽ Thiên Chúa là
Đấng Hằng Sống. Ngài thông ban sự sống của Ngài cho các tạo
vật, để chúng được hiện hữu, tức là được sống. Ngài là
nguyên lý hoạt động của mọi loài. Thiên Chúa như một mô-tơ
khổng lồ làm cho vũ trụ chuyển động và đang dần dần đạt tới
đích điểm tối hậu là sự giải thoát. “Thiên Chúa Hằng Sống”,
đó là điều kiện căn bản để con người đặt để nơi Ngài sự phó
thác và cậy trông. Vì con người mang trong mình bản tính
phải chết, chỉ có Thiên Chúa là vĩnh cửu, tồn tại muôn đời.
Trong Thánh Kinh, sự sống thường
được diễn tả qua “hơi thở” (x St 35,18; Gr 15,19). Đôi khi
sự sống chính là máu trong cơ thể (x St 9,4; Lv 17,14). Vì
lẽ đó người Do Thái không được ăn máu súc vật, vì máu chính
là sự sống. Sự sống dài hay ngắn phụ thuộc vào tình trạng
thuần khiết của sống đời sống luân lý. Tác giả Sách Sáng thế
trình bày với chúng ta sự suy giảm dần về tuổi thọ con người
vì lý do tội lỗi xuất hiện và hoành hành trên trái đất.
Ý tưởng về sự sống lại sau khi
chết hay sự sống vĩnh hằng xuất hiện khá muộn trong truyền
thống Thánh Kinh. Sách Tiên tri Đa-ni-el (được viết vào
khoảng thế kỷ thứ II trước Chúa Giêsu) được coi nhưng có
những diễn đạt đầu tiên về sự sống lại: “Trong số nhưng kẻ
an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ chỗi dậy: người thì để
hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm
muôn đời” (Dn 12,2).
Tuy vậy, trước đó người Do thái
vẫn tin vào sự tồn tại của con người sau khi đã “nhắm mắt
xuôi tay”. Vì “âm phủ-Sheol ” là nơi cư ngụ của những ai đã
kết thúc hành trình trần thế này. Tuy vậy, con người trong
nơi âm phủ không còn ca tụng Chúa, không còn làm những việc
phúc đức như khi còn sống trên trần gian “vì ở nơi cõi chết,
chẳng ai nhớ đến Ngài, ở Sheol, ai người ca tụng Chúa?” (Tv
6,6). Chỉ có người sống mới có thể ca tụng và thực thi
những hành vi tôn thờ Thiên Chúa.
2- Đức Kitô:
sự sống của Thiên Chúa
Các Ngôn sứ trong Cựu ước luôn
giáo huấn Dân Chúa hướng về sự sống mới, sự sống do chính
Đức Chúa thông ban. Sự sống ấy không phải như quan niệm
thường ngày, nhưng là sự sống vượt lên trên sự chết. Trình
thuật về những bộ xương khô trong Ngôn sứ Edêkien cho thấy
hoạt động của Thần khí Thiên Chúa thật kỳ diệu: từ những bộ
xương khô rải rác trong thung lũng, Thiên Chúa đã làm cho
chúng hồi sinh trở thành một đạo quân đông vô kể. Thiên Chúa
quyền năng sẽ mở huyệt cho Israel và làm cho họ được sống (x
Ed 37,1-4).
Sự sống mới trong ân sủng của
Thiên Chúa được Đức Kitô đem đến trần gian. Chính ngài là sự
sống của Thiên Chúa. Ngày đã long trọng tuyên bố: “ Ta là
Đường, là Sự thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Cũng như thuở
bình minh của công trình sáng tạo, Lời Thiên Chúa đã sáng
tạo mọi sự, đến thời sau hết, Lời ấy đến để làm cho thế gian
được sống và được sống dồi dào (Ga 10,10). Trọn cuộc đời của
Đức Giêsu nhằm đem sự sống đến cho trần gian, cho con người.
a- Đức Giêsu
đến để thông ban sự sống Thiên linh cho con người:
Con Thiên Chúa đã đến trần gian.
Những ai đón tiếp Người, Người sẽ cho họ nên giống như
Người, tức là được quyền trở nên con Thiên Chúa. Nhờ Đức
Giêsu, chúng ta tuy là tạo vật thấp hèn, được nâng lên hàng
danh dự vinh quang và được trở nên con Thiên Chúa. Trong
Đức Giêsu, chúng ta trở nên những dưỡng tử của Thiên Chúa,
được thông ban sự sống từ nơi Ba Ngôi. Nhờ Đức Giêsu, chúng
ta được hoà quyện vào dòng chảy tình yêu nơi cung lòng thâm
sâu của Thiên Chúa, được kết hợp và chiêm ngắm Ngài ngay khi
chúng ta còn sống ở đời này. Mối thân tình ấy chính là sự
sống siêu nhiên mà chúng ta được tham dự nhờ Đức Giêsu nhập
thể. Với việc Đức Giêsu đến trần gian, phẩm giá con người
được thăng hoa, cuộc sống con người có ý nghĩa đặc biệt. Vì
Thiên Chúa đã mang lấy hình hài của con người như chúng ta,
nên con người không phải được dựng nên rồi phó mặc cho sự hư
mất, nhưng có một đích điểm cần đạt tới, đó là để sống muôn
đời trong vinh quang của Thiên Chúa.
b- Đức Giêsu
đến để giao hòa con người với Thiên Chúa:
Nhân loại tội lỗi đi trong tối
tăm và sự chết. Những kinh nghiệm đau đớn của cuộc sống đời
thường đã chứng minh cho chúng ta thấy bản chất yếu hèn của
con người. Đức Giêsu đã đến để đem sự sống cho trần gian.
Ngài làm cho con người phục hồi tình trạng nguyên thuỷ mà họ
đã đánh mất khi phạm tội vì bất phục tùng. Do sự bất tuân
của Adam, nhân loại đã phải nhuốm màu đen tối của tội. Do sự
tuân phục của Đức Giêsu, con người được giải phóng khỏi bản
án nguyên tội. Dòng chảy của ơn tha thứ bắt nguồn từ thập
giá Đức Kitô đã lan toả đến với con người mọi nơi mọi thời
và đem lại cho họ niềm vui của sự sống. Phúc âm diễn tả cho
chúng ta thấy niềm vui của người phụ nữ goá bụa thành Na-im
khi thấy con trai duy nhất đã chết được sống lại (Lc 7,12);
niềm vui của Mađalêna, cô gái điếm đã được hồi phục do lời
tuyên bố của Con Thiên Chúa (Lc 7,36-50); niềm vui của gia
đình Bà Mattha và Maria cùng dân thành Bêthania khi được
chứng kiến Lazarô đã chết được sống lại (x Ga 11). Khi Đức
Giêsu đem lại niềm vui cho những tội nhân bị ràng buộc bởi
kỳ thị, bởi mặc cảm, bởi tội lỗi, bởi bệnh tật là Người đem
lại cho họ sự sống. Không những chỉ đem lại cho họ niềm vui
tái sinh, Người còn làm cho họ hòa nhập với cuộc sống cộng
đồng, chấm dứt tình trạng sống trong cô lập thành
kiến.
c- Đức Giêsu
Phục sinh là bảo đảm sự sống lại vĩnh cửu cho chúng ta:
Đức Giêsu sánh vì mình như người
Mục Tử tốt lành. Trong truyền thống Thánh Kinh, “người Mục
tử tốt lành” bao gồm rất nhiều đặc tính: hy sinh, quả cảm,
nhân từ, nhẫn nại, hiếu hòa, thánh thiện. Qua hình ảnh Người
Mục Tử tốt lành, Đức Giêsu đã loan báo về cuộc khổ nạn của
Người. Đó là sự hy sinh vì đoàn chiên. Người chịu chết để
cho đàn chiên được sống (x Ga10,1-10), để đem cho chúng sự
an toàn và hạnh phúc. Lễ nghi của Tuần Thánh mỗi năm nhắc
chúng ta tình thương cao cả của Người Mục Tử tốt lành này.
Thập giá là lời tuyên bố hùng hồn và là chứng từ mãnh liệt
về tình thương của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã hiến mạng sống
mình vì nhân loại. Sự sống tự hiến của Người không dẫn Ngài
đến chỗ chấm hết, nhưng mở ra một cuộc sống mới, đó là cuộc
phục sinh vinh hiển, khi Người từ cõi chết sống lại. Sự Phục
sinh của Đức Giêsu chính là bảo đảm và nguồn hy vọng cho
chúng ta. Như thế, trong cuộc sống còn ám ảnh và nặng trĩu
bóng dáng của thập giá này, chúng ta vững tin vào tình
thương Thiên Chúa, đồng thời xác tín lý tưởng cuộc đời mình
nơi Đấng đã chiến thắng tử thần và đã sống lại vinh quang.
3- Sự sống
lại: niềm hy vọng của chúng ta
Con người được dựng nên cả xác
và hồn. Khái niệm “con người” diễn tả trọn vẹn thực tại này.
Trong kinh Tin kính các tông đồ, chúng ta tuyên xưng: “tôi
tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy.
Amen”. Những điều này nhiều khi làm chúng ta lầm tưởng là sự
sống lại chỉ dành cho phần xác, hoặc do sự chết, xác và hồn
phải lìa nhau mãi mãi.
Có sự khác biệt giữa quan niệm
của người Hy lạp và quan niệm Thánh Kinh trong vấn đề này:
- Theo quan niệm Hy
lạp, xác và hồn là hai thực tại độc lập được liên kết với
nhau nơi một con người. Xác thì nặng nề, hồn thì lanh lẹ.
Xác như nhà tù giam cầm linh hồn. Khi chết là hồn được giải
phóng khỏi xác. Hai thực tại này vẫn tồn tại nhưng là tách
rời nhau. Hồn bất tử, xác bị tan rã và biến đổi thành một
hình thái hiện hữu khác nhau.
-Trong quan niệm
Thánh Kinh, khái niệm bất tử diễn tả sự sống lại. Sự bất tử
này không chỉ dành cho linh hồn, mà là cho cả con người trọn
vẹn. Bởi con người được định nghĩa là có xác và hồn. Ngay
cả khi Thánh Kinh tuyên bố: mọi xác phàm sẽ được nhìn thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa, thì chữ “xác phàm” cũng bao hàm
con người trọn vẹn có hồn-và-xác. Hạnh phúc vĩnh cửu dành
cho con người là hạnh phúc cho cả hồn lẫn xác: “Sau khi da
tôi đây bị thiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn
ngắm Thiên Chúa” (Sách Gióp 19,26). Như vậy, ơn cứu rỗi
chính là sự sống lại của con người, chứ không phải chỉ thân
xác mà thôi.
Kinh Tin kính Công đồng Nicêa
được đọc trong Phụng vụ Chúa nhật và lễ trọng có nội dung rõ
ràng hơn: “ Tôi trông đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời
sau. Amen”. Với lời tuyên tín này, quan niệm về con người
theo nhãn quan Kitô giáo được trọn vẹn hơn, vì chúng ta
không chỉ trông chờ “xác” sống lại, mà là “kẻ chết”, tức là
con người. Đức Tin vào sự phục sinh của Đức Kitô là nền
tảng cho sự phục sinh của thân xác loài người. Vì Đức Giêsu
mang lấy một thân xác nhân loại. Thân xác ấy đã phục sinh từ
giữa những kẻ chết và đang ngự trong vinh quang bên hữu Chúa
Cha.
4- Dân tộc
được tái sinh
Phụng vụ Phép Thanh Tẩy của Đêm
Vọng Phục Sinh nhằm nhắc lại cho chúng ta biến cố nền tảng
của đời sống Kitô hữu: hết thảy chúng ta được tái sinh trong
sự chết của Đức Giêsu. Cuộc vượt qua của Người trong lịch
sử, đi từ cõi chết đến cõi sống đã giúp chúng ta vượt qua
con người cũ để mặc lấy con người mới, tức là từ bỏ con
người cũ để sống trong ánh sáng của Đấng Phục Sinh. Lời
tuyên thệ của ngày được thanh tẩy nhắm đến việc từ bỏ ma
quỷ, từ bỏ tội lỗi và những ma lực lôi kéo chúng ta trong
cuộc tranh đấu đầy cam go này, giờ đây được long trọng tái
xác lập, như điều dốc quyết và khơi lại sự nhiệt tâm theo
Chúa.
Chính nhờ Bí tích Thanh Tẩy,
chúng ta được gia nhập Dân Tư Tế, Dân được tái sinh, Dân
được mời gọi để đi từ tối tăm đến với ánh sáng (x 1 Pr
2,9-10). Trong dân này, không còn giai cấp, không còn phân
biệt địa vị xã hội, ngôn ngữ và chủng tộc, nhưng hết thảy
đều là con của Cha trên trời và đang được mời gọi cố gắng
đạt tới sự thánh thiện. Dân này có sứ mạng loan truyền tình
thương của Chúa và giới thiệu Ngài cho tha nhân. Qua Bí tích
Thánh tẩy, chúng ta được mời gọi dấn thân để chết cho tội và
sống cho Thiên Chúa. Tông đồ Phaolô đã quảng diễn chi tiết
chân lý này: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người (Đức
Kitô), chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế
cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng
vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời
sống mới” (Rm 6,4 tt). Đêm Vọng Phục Sinh đưa chúng ta hướng
về một tiến trình can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử cứu
độ. Từ những giao ước ký kết với Israel, những biến cố kỳ
diệu vượt qua Biển đỏ, chúng ta thấy mình được hòa vào trong
chuỗi dài những sự kiện đó, để hôm nay chúng ta tiếp tục
bước đi, với niềm tự hào là hậu duệ của Israel mới, dân lữ
hành trong đức tin được thừa hưởng mọi lời hứa Thiên Chúa đã
cam kết với Dân Ngài.
Lễ Phục sinh mời gọi chúng ta ý
thức về sự sống, sự sống đời này và sự sống đời sau. Nếu
xác tín sự sống là ân ban của Thiên Chúa, thì chúng ta có
bổn phận làm tăng trưởng và phát huy ý nghĩa cao cả của sự
sống. Sự sống con người, sự sống của muôn loài đang bị nguy
cơ đe dọa trước phong trào hưởng thụ và tục hóa. Sự sống đã
trở thành một món hàng để khai thác, thành một sản phẩm của
phòng thí nghiệm. Phẩm giá con người bị đe dọa khi sự sống
không được tôn trọng. Đã có nhiều nỗ lực phong trào bảo vệ
sự sống trong Giáo hội và trên Đất nước Việt nam chúng ta
như chống phá thai, an táng các thai nhi bị sát hại, thông
tin tuyên truyền chống HIV và SIDA, nuôi dưỡng thăm viếng
trẻ cô nhi và người tàng tật, lên án những hình thức buôn
bán phụ nữ và trẻ em, buôn bán ma tuý. Những hoạt động này
cần được nhiều người cộng tác và hưởng ứng.
Kết luận: Sự sống đời đời là
nhận biết Thiên Chúa là Cha (x Ga 17,1-3). Con người mang
trong mình sự sống của Thiên Chúa, Đấng yêu thương họ và mời
gọi họ từ hư vô đến hiện hữu. Đức Kitô là LỜI SỰ SỐNG đã
xuất hiện trên trần gian để đem lại cho chúng ta sự sống
thật, để rồi khi đón nhận và tuân giữ Lời Người, chúng ta
thực sự trở nên hiện thân của Đức Kitô nơi cuộc đời này như
Thánh Phaolô Tông đồ: “Tôi sống, nhưng không còn phải là
tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong
xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã
yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20). Cuộc sống với
Đức Kitô và trong Đức Kitô đã được thực hiện ngay từ bây
giờ, trong hoàn cảnh cụ thể của mỗi người, nếu chúng ta
quảng đại để cho LỜI SỰ SỐNG sinh hoa kết trái nơi chúng ta.
+
GM Giuse Vũ Văn Thiên,
Hải phòng - Thứ Năm Tuần Thánh 2006 |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÚA NHẬT CHÚA
CHIÊN NHÂN LÀNH |
Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh,
thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Câu xướng
trước Phúc Âm cuả các năm A, B và C đều trích trong Phúc Âm
Thánh Gioan (10,14): “Ta là Mục tử nhân lành, Ta biết chiên
của Ta, và chiên của Ta biết Ta!” Các bài Phúc Âm năm A, B
và C đều trích trong Phúc Âm của Thánh Gioan:10, 1-10 (Năm
A); 10,11-18 (Năm B); 10, 27-30 (Năm C).
Trong các bài Tin Mừng trên
đây, Chúa Giêsu xác định Ngừoi chính là cửa của đoàn chiên,
và cũng chính là người chăn chiên nhân lành. Chỉ những chủ
chiên nào đi theo cửa của Ngừơi (theo đường lối của Người)
mới là chủ chiên thật (Gioan 10,2).
Suy nghĩ về Chúa Nhật Chúa Chiên
Lành, Cha M. D. Phillippe, O.P. viết những lời suy niệm sau
đây:
“Mọi công việc trong cuộc đời
truyền giáo của Chúa Kitô, vị Chủ Chăn Nhân Lành, đều đơn
giản là những công việc của tình thương xót đối với đoàn
chiên, đối với mọi người. Tuy nhiên, chính nơi cơn “hấp hối”
tại vườn “Cây Dầu” và trên Thánh Giá mà chúng ta cảm nghiệm
được trọn vẹn Lòng Thương Xót của Chúa.
“Mọi khổ đau của những người tội
lỗi, mọi hậu quả của tội lỗi, Chúa Kitô đều vui lòng mang
lấy vào mình. Không một khổ đau nào của nhân loại xa lạ với
Chúa Kitô. Người thấu suốt tất cả và mang lấy tất cả vào
trong thâm sâu của trái tim Người. Người đã sống những giây
phút thật căng thẳng mà không ai có thể cảm nghiệm được.
Người mang lấy tất cả vì tình yêu vô biên đối với mọi người
chúng ta. Tình thương xót của Chúa thật huyền diệu và đi đến
tuyệt đỉnh!
“Là vị Mục Tử nhân lành, Chúa
Kitô biết những điều Người phải làm. Người biết từng con
chiên với những yếu đuối và những nhu cầu của từng con
chiên. Người biết rằng để trở nên một Mục Tử nhân lành theo
đúng ý nghĩa, người chủ chăn phải yêu mạng sống của con
chiên hơn mạng sống của mình; phải muốn đặt mình vào hạng
những người tội lỗi, vào hạng những người bị ruồng bỏ để có
thể cứu vớt mọi người; phải dám ‘tự hủy ra không’ để có thể
chấp nhận mọi bất hạnh, khinh chê, và bị coi như tầm thường
hơn hết mọi người!
Khổ hình Thập Giá với ý nghĩa
đặc biệt trọn vẹn của khổ đau để cứu chuộc, đã tỏ cho chúng
ta thấy rõ tình thương xót vô biên của Chúa. Không từ chối
gì cả, Người đã chấp nhận mọi khổ đau, mọi nhục nhã, mọi
gánh nặng tới mức không còn có thể chịu đựng hơn được nữa.
Như vậy, lòng Thương Xót của Chúa không phải chỉ ở chỗ tìm
đến để giúp đỡ những người yếu đuối , mà còn ở chỗ, như một
người mẹ, cúi mình xuống tận những kẻ đã sa ngã và cúi xuống
sâu hơn họ để cứu vớt họ và nâng họ lên (chứ không phải
kéo họ lên ; Người đã vác con chiên lạc lên vai và đưa
về đoàn, đưa về lại cuộc sống).
Tự hạ mình xuống sâu thẳm, Chúa
Kitô đã muốn bị coi như kẻ đáng tội hơn cả Babara (Mat-theu
27,16...), như một kẻ tội phạm công khai, như một kẻ nói
phạm thượng, như một kẻ thù của lề luật Moise, kẻ không chịu
giữ ngày Sabat, một kẻ nguy hiểm quấy phá dân chúng. Hơn
nữa, Chúa Kitô còn muốn trở nên như một đồ vật mà người ta
che mắt không dám nhìn, đến nỗi khi đã chết rồi còn bị người
ta đâm vào cạnh sườn thấu tới trái tim.
“Như vậy, Tình thương xót của
Chúa là một thực thể bao quát tất cả con người , không một
chi thể nào trong thân thể của Người không bị thương tích,
và linh hồn Người cảm thấy buồn sầu đến chết đi trong cơn
hấp hối (Mat-thêu 26,38).
Hy lễ thập giá thật là một sự
tôn thờ tuyệt đỉnh và cũng biểu lộ tình Chúa thương xót đến
tuyệt đỉnh. Nơi trái tim của Chúa Giêsu chịu treo trên thập
giá vừa mang sự Thờ Phượng (Chúa Cha), vừa mang tình thương
xót nhân loại như anh em để giúp đỡ họ, an ủi họ, chuộc lấy
mọi tội lỗi của họ và đem lại cho họ nguồn sống mới.” (Dịch
theo bản tiếng Anh, trong Magnificat, April 2005, Fourth
Sunday of Easter; những chữ ở ngoặc đơn là chú thích của
người dịch).
Ðọc những dòng trên đây, chúng
ta càng hiểu biết sâu xa hơn tình thương xót cuả Chúa Giêsu,
Ðấng Chăn chiên nhân lành, đối với đoàn chiên như thế nào,
đến nỗi đã chấp nhận mọi khổ đau đến cùng cực và đổ đến giọt
máu cuối cùng cho đoàn chiên của Chúa! Và khi không còn sống
ở trần gian nữa, Người vẫn tiếp tục “nuôi sống đoàn con”
bằng chính Mình và Máu Thánh Người hiện diện thật sự trong
Hình Bánh và Hình Rượu (Bí tích Thánh Thể), và thánh hóa
đoàn chiên bằng các “phép Bí tích nhiệm mầu.”
Thực sự, qua hoạt động của Chúa
Thánh Thần, Chúa Giêsu vẫn ở với Giáo Hội “ mọi ngày cho đến
tận thế!”( Mattheu 28,20) Chúa Giêsu vẫn là vị Chủ Chăn
chính điều hành Giáo Hội và qua các thời đại Chúa luôn luôn
dẫn dắt đoàn chiên Chúa nhờ sự lãnh đạo của các vị chủ chăn
Chúa chọn. Chúa đã chọn Thánh Phêrô và các Thánh Tông đồ và
thành lập Giáo Hội Chúa kể từ ngày Chúa Thánh Thần hiện
xuống trên các Ngài và thánh hóa các Ngài. Từ đó, qua từng
thế kỷ, Chúa vẫn tiếp tục gọi và chọn một số người để làm
Chủ chiên chăn dắt Ðoàn chiên Chúa.
Chúa chọn ai?
“Chúa chọn những người mà Chúa
muốn (Matco 3,13 ) và trao cho những nhiệm vụ theo Thánh ý
Chúa: Người thì làm Tông đồ, người thì làm Ngôn sứ, người
thì chuyên rao giảng Tin mừng, người chuyên lo việc quản trị
và giảng dạy... (Thơ Epheso 4,11). Không ai có quyền đặt
mình vào địa vị trong Giáo Hội, nhưng tất cả đều do Chúa
chọn và cắt đặt .
“Nhưng tại sao Chúa chọn con?”
Vào những ngày sắp chịu chức
Linh Mục, theo sự hướng dẫn của Cha Linh hướng và Cha Giảng
Phòng (giảng tĩnh tâm để chuẩn bị chịu chức Linh mục) tôi
thường cầu nguyện và nói thầm với Chúa: “Tại sao Chúa chọn
con?”... Rồi vào ngày Lễ Truyền Chức cũng như dịp Lễ “Mở
Tay” (Lễ Tạ Ơn) tôi thật cảm động khi nghe ca đoàn hát:
“Không phải vì con Chúa chọn con! Nhưng vì bí nhiệm tình yêu
Chúa!...”
Vâng, “không phải vì con Chúa
chọn con” nhưng Chúa chọn “những ai mà Chúa muốn” (Matcô
3,13), sau khi Chúa đã lên núi một mình để cầu nguyện suốt
đêm ( Luca 6,12 ). Ðó thật là một sự kỳ diệu của Ơn Gọi theo
Thánh Ý Chúa. Chúa gọi Phêrô dù Ông đã “chối Chúa tới ba lần
dù Chúa đã cảnh cáo Ông trước!” và lại còn đặt Ông làm Giáo
Hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa đã chọn Phaolô ngay trên
con đường Ông đi tìm bắt và bách hại đoàn chiên non trẻ của
Chúa! Và suốt đời Ông vẫn phải mang những “yếu đuối” của
mình ‘Ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối!’... (2 Cor. 11,29 )
Mọi người được Chúa gọi và chọn đều cảm thấy mình bất xứng
và thật lo lắng trước trách nhiệm được trao phó” như Ðức
Ðương Kim Giáo Hoàng Benedicto XVI, khi được bầu chọn lên
ngôi Giáo Hoàng, trong “Lời Tâm Tình Ðầu Tiên của Ngài” cũng
chia sẻ kinh nghiệm đó: “Tôi cảm thấy bất xứng và... thật lo
lắng trước trách nhiệm được trao phó...” nhưng “Ơn Chúa đủ
cho tôi!” (2Cor. 12,9…); nên Ðức Giáo Hoàng cũng nói tiếp:
“Tôi cảm thấy như bàn tay quyền năng của Thiên Chúa nắm chặt
lấy tay tôi. Tôi như nhìn thấy ánh mắt tươi cười của Chúa và
lắng nghe Chúa nói với tôi đặc biệt vào lúc này: “Con đừng
sợ!”. Với tâm tình đó, những người được chọn đều khiêm tốn
như Mẹ Maria để thưa lời “Xin Vâng!”.
Như vậy, chúng ta mới hiểu tại
sao Chúa Giêsu đã “lên núi thức suốt đêm để cầu nguyện”
(Luca 6,12) trước khi chọn các Tông đồ. Hơn nữa trong đêm
trước khi tự trao mình để chịu cuộc khổ nạn để cứu chuộc
nhân loại, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa đã cúi mình xuống để rửa
chân cho các Tông đồ để dạy cho các Ông bài hoc phục vụ
trong khiêm tốn và Chúa đã tâm tình và căn dặn các tông đồ
nhiều điều mà Phúc Âm theo Thánh Gioan đã ghi lại suốt các
đoạn 13, 14, 15; còn toàn đoạn 17 ghi lại những lời Chúa
Giêsu cầu nguyện thiết tha với Ðức Chúa Cha cho các Tông đồ
đang hiện diện, cũng như cho các Chủ chăn qua mọi thời đại;
đặc biệt trong câu “Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế
gian; nhưng xin gìn giữ họ khỏi mọi sự dữ!” (Gioan, 17,15).
Trong thời gian giúp các giáo xứ
Hoa Kỳ, khi gặp gỡ Giáo dân, thường có những người sau khi
chào hỏi đã nói với tôi một cách thân tình “Thank you Father
for being a priest!” (Cám ơn Cha đã là một Linh Mục!”. Chúng
ta thường có lòng yêu mến và hằng cầu nguyện cho các chủ
chăn trong Giáo hội; nhưng đặc biệt trong ngày Chúa Nhật
Chúa Chiên Lành, chúng ta hãy dâng nhiều hy sinh và lời cầu
nguyện cho Ðức Giáo Hoàng cũng như cho các chủ chăn trong
toàn thể Giáo Hội, cách riêng các chủ chăn Chúa sai đến làm
việc giữa chúng ta.
Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh cũng
là Ngày Thế Giới đặc biệt cầu nguyện cho Ơn Gọi (World Day
of Prayer for Vocations): Trong Thánh lễ cũng như trong các
kinh nguyện, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho có nhiều
người được Chúa gọi và chọn để trở nên các nhà Truyền giáo
và Chủ Chăn để rao giảng và chăn dắt Ðoàn chiên Chúa.Chúng
ta cũng cầu xin với Mẹ Maria, Mẹ Hàng Gíao Sĩ, chuyển cầu
cho chúng ta; nhất là trong tháng này là Tháng Hoa dâng
kính Mẹ.
Lm.
Anphong Trần Ðức Phương |
VỀ MỤC LỤC |
|
NÓI VỚI CHÚNG TA:
CÁC MỤC TỬ TRONG
HỘI THÁNH CHÚA KITÔ |
Mỗi đầu hè, khi mà màu hoa lửa,
hoa học trò, bắt đầu những đốm cháy đỏ trên cành cây đã trút
lá, cháy giữa một bầu trời xanh, cũng là lúc Hội Thánh bước
vào mùa hoa thiêng liêng, mùa hoa của những kinh Kính Mừng ủ
ấp trong bầu tim đỏ chất chứa lòng yêu mến của mỗi người,
bật thốt trên môi miệng, kính dâng Người Mẹ hoàng mỹ của
mình: ĐỨC MARIA.
Cứ mỗi mùa hoa lại về, các mục
tử trong Hội Thánh không quên tổ chức nhiều hình thức khác
nhau: khuyến khích từng cá nhân đừng quên lần chuỗi Mân Côi,
sống các mầu nhiệm kinh Mân Côi, hoặc đọc kinh Mân Côi
chung, kinh Mân Côi “sống”, kinh Mân Côi gia đình, dâng hoa,
rước kiệu, lễ lạy… để gọi về trong lòng mỗi tín hữu, trước
là dâng lên Chúa sự tôn thờ của mình nhờ công nghiệp của Đức
Mẹ, sau là tỏ lòng yêu mến Đức Mẹ, là mời gọi họ học lấy các
gương nhân đức của Đức Mẹ để sống đạo mỗi một ngày một vững
chải hơn…
Nhưng đã có những hình thức nào
cho chính các mục tử? Thật bất hạnh cho họ, bởi họ có thể
đảm nhận trách vụ nhắc nhở người khác rất tốt, nhưng có khi
chính lòng họ lại cứ trống rỗng, cứ loa toan mọi chuyện.
Lòng họ chỉ đầy những bận bịu, tính toán, tổ chức, xây dựng
cơ sở vật chất, xây dựng xong lại khánh thành đợt một, khánh
thành đợt hai… Họ phải đối đầu với xã hội bên này, chạy chọt
với việc ký giấy tờ bên kia…Các mục tử ngập đầu, ngập cổ với
bao lo toan trần thế. Có phải lòng đạo đức đã có… giáo dân
lo? Hình như chúng ta nghĩ thế! Tuy suy nghĩ ấy không thành
văn, không tỏ hiện rõ ràng, nhưng có lẽ đang trở thành hiện
thực nơi nhiều vị mục tử trên quê hương này!
Nguy cơ của sự giảm thiểu lòng
đạo đức, sẽ đến một ngày, đẩy các mục tử đến chỗ chỉ còn là
cái trống thật to: nói hay, nhưng rỗng ruột. Mỉa mai quá:
người nắm nhiệm vụ hướng dẫn đạo đức, lại chưa đủ tư cách
đạo đức. Bởi vậy, chúng ta, những mục tử của Chúa hãy xét
mình, xét mình nữa. Hãy ăn năn tội, ăn năn tội thật lòng.
Hãy im lặng để phản tỉnh. Vì nhờ im lặng, ta phản tĩnh thật
sâu.
Yếu đuối, lỗi lầm là điều có
thật. Các mục tử, dù được gọi là các mục tử của Chúa, do
Chúa tuyển chọn, cũng không tránh khỏi. Dẫu sao, một khi
biết mình vẫn còn đó nhiều yếu đuối, lỗi lầm, họ thật hạnh
phúc vì vẫn còn cơ may cho họ tìm về bên Chúa.
Có một mẫu gương sống với Chúa
thật tuyệt vời, trở thành chuẩn mực cho chúng ta, những
người lãnh trách nhiệm mục tử trong Hội Thánh, học lấy để đi
về phía Chúa. Đó chính là MẪU GƯƠNG MARIA.
Mùa hoa lại về. Trước khi nhắc
nhở giáo dân học đòi bắt chước nhân đức của Đức Mẹ, chúng ta
đừng quên noi gương trước bằng suy niệm mẫu gương của Đức
Mẹ, cầu nguyện nhiều hơn, sám hối nhiều hơn, siêng năng lần
chuỗi Mân Côi, và ý thức từng lời kinh mà mình đọc… để thực
sự cùng với Đức Mẹ sống bên cạnh Chúa Kitô qua mỗi chặng
đường trần thế của Chúa, mà mỗi mầu nhiệm Mân Côi gợi lại
trong ta… Chúng ta hãy sống thảo hiếu với Đức Mẹ, nhờ Đức Mẹ
mà hồi tâm, chỉnh đốn chính cuộc sống của mình.
Lm. VŨ XUÂN HẠNH |
VỀ MỤC LỤC |
|
ƠN GỌI PHỤC VỤ |
Chúa nhật IV Phục Sinh, Lễ Chúa
Chiên Lành, ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu.
Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành chính là mẫu gương tuyệt hảo cho
mọi Ơn Gọi Phục Vụ.
1. Chúa Giêsu là Mục tử nhân
lành
Từ Abraham cho đến Môisen,
Đavit, biết bao Tổ phụ Do thái đã từng là những người chăn
chiên.Từ kinh nghiệm của nghề chăn chiên, họ đứng ra lãnh
đạo dân tộc. Quan niệm của họ về Thiên Chúa cũng dựa trên
kinh nghiệm đó nên họ gọi Thiên Chúa la Mục tử và coi mình
là đoàn chiên của Ngài.
Các Ngôn sứ thường dùng hình ảnh
này để nói về tương quan thân tình giữa Thiên Chúa và dân
của Người. Nhất là trong Ed 34, Sách Giôna chương cuối và TV
23.
Đặc biệt chương 10 Phúc âm Thánh
Gioan: Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, là Cửa chuồng chiên.
Mục tử và đàn chiên là một hình
ảnh rất đẹp gắn liền với dân du mục. Khác với hình ảnh những
đứa trẻ chăn trâu, chăn bò ở làng quê Việt nam, chúng đi sau
đàn vật. Người mục tử đi trước đàn chiên, dẫn chiên đến đồng
cỏ xanh tươi, tìm suối mát cho chiên, dẫn về đàn những con
chiên lạc, bảo vệ chiên khỏi thú dữ, biết từng con chiên
một.
Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành,
mọi Kitô hữu là đàn chiên của Chúa .Chúa ban cho đàn chiên
sự sống cách dồi dào, đó là sự sống đời đời. Mỗi con chiên
đều quý giá vô ngần đối với Chúa. Người hy sinh mạng sống vì
chiên. Mối tương giao này giống như tương giao Chúa Cha và
Chúa Con ,dựa trên sự hiểu biết riêng tư về nhau tức là trên
tình yêu.
Không những là mục tử Chúa Giêsu
còn là Cửa “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Ai qua tôi mà vào
thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”.
Câu trả lời đó khẳng định Chúa Giêsu chính là Cửa Cứu Độ.
Cánh cửa mở ra một chân trời mới
:Cánh cửa tương lai; Cánh cửa đại học; Thời mở cửa; Bước qua
ngưỡng cửa hy vọng; Cửa Nước Trời. Tại sao Chúa Giêsu là Cửa
Cứu Độ ? Bởi vì Ngài là trung gian duy nhất và trọn hảo giữa
Thiên Chúa và nhân loại. Ngài có vai trò thủ lãnh trong sự
thánh hoá. Ngài thông truyền giáo huấn Thiên Chúa. Ngài đền
tội và cầu khẩn cho nhân loại trước mặt Thiên Chúa. Ngài
thâu hợp toàn thể nhân loại và vũ trụ cho Thiên Chúa. Khi
nhập thể Ngài thông truyền ân sủng Thiên Chúa cho mọi chi
thể. Bằng hy lễ cứu độ thập giá trong tâm tình vâng phục yêu
mến Chúa Cha, Ngài lập nên công phúc cứu độ loài người. Đức
Giêsu phục sinh vinh quang mở đầu cho sự giao hoà giữa Thiên
Chúa và nhân loại đưa nhân loại về với Thiên Chúa để dự phần
đời sống thần linh cách dồi dào phong phú. Như thế Đức Giêsu
là Cửa Cứu Độ duy nhất, là người mở đầu, là Đấng hướng dẫn,
thông truyền ân sủng nên Người là Mục tử tốt lành vì đem lại
sự sống phong phú và dư đầy cho đàn chiên.
Kitô giáo là đạo đi từ con người
tới Thiên Chúa. Đây quả thật là “Đạo bất viễn nhân”, không
xa nhưng rất gần gũi với con người. Bởi lẽ đạo ấy đi vào
chính giữa lòng đời, đã nhập thể vào chính cuộc đời ,làm men
, làm muối, làm ánh sáng để biến đổi lòng người, biến đổi
trần thế.
Thánh Grệgôriô Cả nói rằng :
Chúng ta đi theo Chúa Giêsu là đi theo con đường cứu độ,
được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Quả thế,
đồng cỏ của những người được chọn là chính thánh nhan Thiên
Chúa luôn hiện diện. Khi con người không ngừng chiêm ngưỡng
thánh nhan, lòng trí họ được thoã thuê mãi mãi nhờ lương
thực ban sự sống. Vậy hãy tìm kiếm đồng cỏ này, hãy làm cho
lòng bừng cháy niềm khát khao những kho tàng trên trời.
2. Đức Giêsu vị Mục tử hết
mình phục vụ đoàn chiên
Cả cuộc đời Đức Giêsu từ khi
nhập thể làm người đến tử nạn phục sinh có thể tóm tắt cách
đơn giản là phục vụ đoàn chiên vì yêu thương. Đỉnh cao phục
vụ là thí mạng vì đoàn chiên. Việc gặp gỡ Người , kết hợp
với Người sẽ dần dần biến đổi chúng ta trở nên những người
phục vụ. Mỗi người Kitô hữu đều có trách nhiệm phục vụ anh
chị em mình trong tư cách tham dự vào trách nhiệm Mục tử của
Đức Giêsu.
Trong sứ điệp ngày thế giới cầu
nguyện cho ơn thiên triệu năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đã chọn chủ đề Ơn Gọi Phục Vụ. Khởi đi từ Đức
Kitô: Người không đến để phục vụ,”nhưng để phục vụ và trao
ban mạng sống để cứu chuộc nhiều người” ( Mt 20,28). Người
đã rửa chân cho các môn đệ và tuân phục chương trình của
Chúa Cha cho đến chết, chết trên thánh giá ( x.Pl 2,8).Vì
thế, Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu
mới và đặt Người làm Chúa trên trời dưới đất ( x Pl 2,9-11).
Đức Thánh Cha xác định :Một cách huyền nhiệm, ơn gọi phục vụ
luôn là một ơn gọi thông phần một cách rất riêng tư vào
trong sứ vụ cứu độ” ( số 2). ”Ơn gọi linh mục hoặc ơn gọi tu
trì, bởi chính bản chất của nó, luôn là những ơn gọi để
quãng đại phục vụ Thiên Chúa và người lân cận”(số 3).
Đức Thánh Cha đã từng nói rằng
”Trong thời đại chúng ta, một thời đại tuy đã bị tục hoá,
giải thiêng nhưng vẫn được thúc đẩy đi tìm sự thánh thiện;
một thời đại rất cần có những vị thánh làm sáng tỏ sự hiện
diện đầy yêu thương và quan phòng của Thiên Chúa. Nhân loại
đang cần có những linh mục thánh thiện và những tâm hồn được
thánh hiến, họ là những người ngày ngày sống hết mình cho
Thiên Chúa , cho tha nhân, họ là những bậc cha mẹ sống chứng
nhân ngay trong bầu khí gia đình nhờ ân sủng của bí tích hôn
nhân, họ là những người trẻ có kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô
và được Người thu hút để hướng dẫn anh chị em đồng loại tới
cội nguồn tin mừng”( Sứ điệp ngày thế giới cầu cho ơn thiên
triệu lần thứ 36).
Ngài gởi lời mời gọi thiết tha
đến các bạn trẻ “ cha hy vọng các con có thể biết cách lắng
nghe tiếng Thiên Chúa mời gọi các con phục vụ. Đó là con
đường mở ra biết bao hình thức của sứ vụ vì lợi ích của cộng
đoàn :từ các tác vụ được phong cho đến các tác vụ khác nhau
được thiết lập và được nhìn nhận là những thừa tác vụ,như
dạy giáo lý,linh hoạt phụng vụ,giáo dục giới trẻ và những
diễn tả khác nhau về đức ái” ( Số 4)
3 . Ai phục vụ Thầy,người ấy
phải theo Thầy
Một xã hội thiếu bóng dáng
những người sống đời tận hiến là một xã hội thiếu lòng quãng
đại, một xã hội bị khủng hoảng về ý nghĩa cuộc sống. Chính
sự có mặt của những người sống đời tận hiến phục vụ như là
một nhắc nhở rằng, con người có khả năng sống yêu thương,
phục vụ như Đức Kitô và sống quãng đại hy sinh dấn thân cho
người khác.
Những người trẻ lớn lên thường
lập gia đình, điều đó thật tốt đẹp. Nhưng Chúa Giêsu vẫn
muốn một số người trẻ dâng hiến đời mình cho Chúa, ở bên
Chúa cách đặc biệt để được sai đi. Vì thế Đức Thánh Cha nhắn
nhủ những người trẻ ” Lời mời gọi của Chúa Giêsu vẫn còn
vang vọng ngày hôm nay “Nếu ai phục vụ Thầy,người ấy phải
theo Thầy” (Ga 12,26). Đừng e ngại đón nhận lời mời gọi
này.Chắc chắn các con sẽ gặp phải những khó khăn hy sinh,
nhưng các con sẽ hạnh phúc khi phục vụ, các con sẽ là chứng
nhân của niềm vui mà thế gian không thể ban tặng. Các con sẽ
là những ngọn lửa sống động của một tình yêu vô biên và vĩnh
cửu. Các con sẽ nhận biết những phong phú thiêng liêng của
chức vụ linh mục, quà tặng và mầu nhiệm thần linh” (Số 5).
Người sống đời tận hiến chấp
nhận hy sinh quyền được lập một tổ ấm. Họ dâng tình yêu lứa
đôi cho một tình yêu cao hơn trong ơn gọi tu trì để có thể
yêu mãnh liệt và bao la hơn. Đức Thánh Cha khẳng định “Họ
không tìm kiếm những lợi lộc vị kỷ,nhưng hiến mình cho kẻ
khác, khi cảm nghiệm niềm vui của tính nhưng không qua việc
hiến tặng bản thân” (số 4).
Người đi tu là người muốn nên
trọn lành,muốn đạt đến đỉnh cao của sự toàn thiện. Đó cũng
tựa như người leo núi. Muốn có ánh sáng thì phải lên cao. Để
lên cao phải vất vả, nhiều khi phải leo lên những sườn dốc
cheo leo. Leo núi là một cuộc mạo hiểm. Đó không phải là một
cuộc dạo chơi nhàn hạ. Nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng
dẻo dai, tài khéo léo và nhất là sự can đảm. Đời sống tu trì
cũng vậy. Nó đòi hỏi một sức khoẻ tinh thần ,thể xác, sự
khôn ngoan, nhẫn nại, lòng can đảm, sức chịu đựng bền bỉ.
Nếu không người ta sẽ sợ hãi chóng mặt, dừng lại và rút lui.
Đổi lại, người leo núi được hưởng những niềm vui mà người
khác không biết đến. Đó là được ở trong ánh sáng không bao
giờ tắt, được chiêm ngưỡng cảnh trời đát bao la hùng vĩ,
cảnh mây bay lững lờ tận dưới xa chân mình, càng leo những
núi cao càng khám phá ra muôn vàn những đỉnh núi khác.(x.Hoa
trong kẻ đá,trang 9,Lm Thiện Cẩm)
4 . Cầu nguyện cho những
người Mẹ
Ơn gọi tu trì là ân huệ đến từ
Thiên Chúa. Gia đình là chủng viện đầu tiên, dòng tu đầu
tiên ươm mầm ơn gọi phát triển. Các bậc cha mẹ là những
người phát hiện và vun trồng cho ơn gọi lớn lên, trổ sinh
hoa trái.
Bài Tin mừng hôm nay đặc biệt
thích hợp cho các người Mẹ. Giống như người mục tử, giống
như Chúa Giêsu, một bà mẹ luôn có mối tương giao gần gũi sâu
sắc với đàn con cái.Người Mẹ yêu thương chăm sóc từng đứa
con, tuỳ tính tình mỗi đứa để có cach giáo dục thích hợp.
Không gì mà người Mẹ không làm để bảo vệ con khỏi nguy hiểm.
Bà sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ để tìm kiếm đứa con lầm
đường lạc lối trở về.
Ơn gọi tu trì thường do người Mẹ
phát hiện và dìu dắt từng bước. Hầu như linh mục nào cũng
giống Mẹ và rất kính yêu Mẹ của mình.Tấm lòng người Mẹ bao
la như biển cả.Trái tim người Mẹ nhân hậu bao dung như đất
trời. Bởi vậy ngày thế giới cầu cho ơn thiên triệu cũng cần
dành lời cầu nguyện đặc biệt cho mọi người Mẹ trên thế giới.
Xin cho mọi người Mẹ luôn sống vai trò mục tử nhân lành với
con cái và luôn biết quãng đại dâng con mình cho Chúa, cho
giáo hội trong Ơn Gọi Phục Vụ.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An |
VỀ MỤC LỤC |
|
THÁNH GIUSE:
Mẫu gương
người công chính |
I. DẪN NHẬP:
Theo thuật
ngữ Kinh Thánh, từ công chính chỉ dùng riêng để nói về Thiên
Chúa, như Chúa Giêsu đã từng tuyên xưng “Lạy Cha là Đấng
công chính” (Ga 17,25). “Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng
khôn ngoan chính trực; nơi người chẳng có chút bất công”
(Rm 16,27; Tv 92,16); nhưng con người cũng có thể được gọi
là công chính và được công chính hóa (x. ICr 1,30), nhờ làm
theo Thánh Ý của Người. Vậy, trước khi đi vào đề tài, xin
giới thiệu đôi nét về thuật ngữ này:
II. CÔNG CHÍNH:
1. Thiên Chúa công chính:
- Thiên Chúa
công chính, vì Người thánh thiện và tốt lành từ bản chất,
Người luôn trung thành với giao ước và giữ trọn lời hứa. Vì
“giả như Thiên Chúa không công chính, thì làm sao Người
phán xét thế gian được?” (Rm 3,6).
- Đức Giêsu
Kitô là Đấng công chính, vì Ngài không có tội gì hết, đến
mức cả viên đội trưởng trước tòa Philatô cũng phải cất tiếng
tôn vinh: “Quả thật, ông này là người công chính” (Lc
23,47), Ngài lại là Đấng cứu độ con người và làm cho con
người trở nên công chính hóa (x. Cv 13,38-39; Rm 3,24; ICr
1,30). Ngài trung thành với Thiên Chúa một cách tuyệt đối,
Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu
chết, chết trên cây thập tự (x. Pl 2,8).
2. Con người cũng có thể trở nên công chính:
- Người công
chính là người trung thành với Thiên Chúa và luôn sống đẹp
lòng Người (x. Lc 1,6).
- Là người
luôn thực thi Thánh Ý Chúa, người biết việc này phải làm và
việc kia không được làm (x. Mt 3,15). Vì “người ta được
Thiên Chúa coi là công chính, không phải vì nghe biết Lề
Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật” (Rm 2,13).
- Cũng như
trong tám mối phúc (x. Mt 5, 3-19): người công chính là
người chính trực, hiền lành, hoàn hảo… có quan hệ tốt với
Thiên Chúa vì tuân theo Thánh Ý Người (x. Mt 5,20), không
như nhóm kinh sư (x. 5,21-48), hay như nhóm pharisiêu (x. Mt
6,1-18), mà là đức công chính của người môn đệ Chúa (x. Mt
6,19-7,20), sống như Lời Chúa dạy để trở nên người môn đệ
đích thực (x. Mt 7,21-27).
- “Đức
Giêsu chính là Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã
được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công
chính” (Rm 4,25).
3. Thánh Giuse, Đấng công chính (Mt 1,19):
Nhiều người
cho rằng: “Ông Giuse đã đính hôn với Bà Maria rồi (x. Mt
1,18), nhưng khi thấy vợ mình mang thai thì lại định tâm bỏ
trốn, vì biết rằng chủ nhân của bào thai đó không phải của
mình (x. Mt 1,19); hành động ấy không quân tử chút nào sao
lại khen ông là người công chính?”.
Theo lời giải thích của Cha Giáo Tanila Hoàng
Đắc Ánh, OP:
“Thánh
Giuse cư xử như vậy mới thật là công chính”:
- Vì ông
muốn giữ trọn luật Môsê. Luật cho phép ly dị trong trường
hợp người vợ mang thai khi chưa chung sống với chồng. Mà
trước khi về ở với Ngài, Đức Maria đã có thai, nên Ngài muốn
ly dị.
- Vì Ngài
muốn cư xử công bình hợp lý với Đức Maria. Công bình hợp lý
ở chỗ có tội mới bị phạt. Nhưng Ngài biết Đức Maria là người
vô tội nên không đưa ra pháp luật, mà luật pháp bấy giờ rất
khắt khe đối với trường hợp phụ nữ mang thai không có người
thừa nhận. Theo luật Môsê, thì người phụ nữ không chồng mà
có thai thì kể là người phụ nữ ngoại tình, tội của họ là
phải bị ném đá cho đến chết (x. Ga 8,5), hoặc lôi ra mà
thiêu sống (x. St 38,24), hay phải bị một hình thức xử tử
nào đó (x. Lv 20,10; Đnl 22,20tt).
- Ngài cư xử
khiêm nhường, không dám nhận mình là người cha của một Hài
Nhi mà Ngài biết là do Thiên Chúa.
Cha Giáo
nhấn mạnh: “Lý do thứ ba mới thật là đáng nói”.
Với những
giải thích nêu trên, cũng khá đủ để chứng minh rằng: Thánh
Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Chưa
kể đến những việc làm trong suốt cuộc đời của Ngài, hằng
luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23;
Lc 2,1-7.22).
Vâng, Thánh Giuse là một người công chính.
Ngài chỉ luôn ao ước sống công chính trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế mà Ngài đã quyết định không muốn tố giác Đức Maria và
cũng không định tâm bỏ Bà cách kín đáo nữa, để tránh tối đa
điều sẽ làm cho Đức Maria phải đau khổ.
III. GƯƠNG CÔNG CHÍNH CỦA THÁNH GIUSE ĐƯỢC
THỂ HIỆN RÕ NÉT NƠI CÁC NHÂN ĐỨC CỦA NGƯỜI:
Kinh Thánh
nói rất ít về cuộc đời và sự nghiệp của Thánh Giuse, nhưng
chỉ cần thế thôi, cũng đủ để chúng ta nhận ra các nhân đức
trong con người và đời sống của Ngài. Xin nêu lên một vài
nhân đức tiêu biểu như:
1. Đức khiêm nhường:
Thánh Giuse
là một người rất khiêm nhường: Ngài thừa nhận vị trí của
Ngài với sự kính trọng đối với Đức Maria và Chúa Giêsu. Ngài
biết Ngài thua kém các Đấng trong bậc thang ân sủng. Dù vậy
Ngài vẫn chấp nhận vai trò vị hôn thê của Đức Maria và người
canh phòng Con Thiên Chúa. Đó là nhân đức giúp ta nhận thức
và hành xử trong tương quan liên hệ của chúng ta, đối với
Thiên Chúa và với tha nhân.
Nhân đức này
còn là bài học giúp chúng ta không cho mình là tốt hơn hoặc
vượt hơn những gì là thực tại của mình, vì đó là tính kiêu
ngạo; đồng thời, cũng giúp chúng ta không đánh giá thấp
chính mình, hoặc từ chối những gì mình có mà cho rằng mình
kém hơn, vì đó là sự khiêm nhường giả hình.
Sách nhân
đức dạy rằng: “Một người khiêm nhường không cho mình hơn
những gì mình có, nhưng cũng không tự nghĩ mình kém hơn
những điều mình có”.
Khiêm nhường
đúng đắn sẽ là một nhân đức, nó thừa nhận sự lệ thuộc hoàn
toàn vào Thiên Chúa. Và theo luật luân lý, nó nhìn nhận sự
bình đẳng mình cũng chỉ là một loài thụ tạo đối với các loài
thụ tạo khác; có chăng mình cao cấp hơn một số loài thụ tạo
khác, thì đó là một đặc ân Chúa ban và phải biết tạ ơn
Người. Khiêm nhường không chỉ đối lập với kiêu căng, nó còn
đối lập với sự hạ thấp chính mình thái quá, tức là không
nhìn nhận những ân huệ Chúa ban và sử dụng chúng theo như ý
muốn của Chúa.
2. Đức vâng lời:
Đức vâng lời của Thánh Giuse bao phủ lên mọi
khía cạnh trong cuộc đời của Ngài. Ngài vâng lời khi nhận
kết hôn với Đức Trinh Nữ Maria. Ngài vâng lời đón nhận Đức
Maria về nhà mình, mặc dù đã biết Bà mang thai. Ngài vâng
lời để Đức Maria cuốn gói đến nhà Bà Isave hàng ba tháng
trời. Ngài vâng lời đi Bêlem để kê khai nguyên quán cùng với
Đức Maria và đã chấp nhận cảnh đời nghèo hèn khi phải chọn
hang bò lừa làm nơi sinh Chúa Hài Nhi. Ngài đã vâng lời khi
đem Chúa Giêsu và Mẹ Người trốn sang Aicập giữa đêm đông
lạnh giá. Ngài đã vâng lời khi đem Chúa Hài Nhi lên
Giêrusalem dâng hiến theo như Luật dạy, và chấp nhận Thánh Ý
nhiệm mầu của Thiên Chúa khi lạc mất con, phải tìm kiếm khổ
sở suốt ba đêm ngày.
Chúng ta học
được gì nơi nhân đức vâng lời của Ngài? Thưa, vâng lời chính
là một minh chứng tình yêu của Thánh nhân đối với Thiên
Chúa. Và Thánh Ý của Thiên Chúa cũng là cách thức và là cơ
hội Chúa dùng để thử thách mỗi người chúng ta. Chúng ta có
bổn phận chứng tỏ tình yêu của mình đối với Chúa, bằng sự
vâng lời, tín thác và hy sinh. “Tình yêu mà không có hy
sinh là tình yêu giả dối”; cũng vậy, “nơi nào không
có vâng lời thì ở nơi đó không có tình yêu. Nơi nào càng yêu
nhiều, thì càng vâng lời nhiều”.
3. Đức yêu thương:
Thánh Giuse
có nhiều nhân đức đáng ca ngợi và noi giương, Ngài đáng được
noi gương bắt chước, đặc biệt về tình yêu mến của Ngài đối
với Đức Giêsu và Mẹ Maria đã đành. Nhưng Ngài còn đáng được
ca ngợi và noi gương ở đời sống lao động và làm việc cần
mẫn, cho tình yêu và vì tình yêu. Bí mật của tình yêu đích
thực cũng chính là ở chỗ đó.
Trong nhân đức này, Thánh Giuse cho chúng ta
nhận ra sự quan phòng của Thiên Chúa trong tất cả mọi công
việc bổn phận hàng ngày, tùy theo bậc sống của mỗi người
chúng ta.
Vâng, Thiên
Chúa không muốn hành động một cách đơn độc. Để biến đổi cuộc
đời mỗi người chúng ta, Người muốn sử dụng lòng nhiệt tâm,
nhiệt tình của con người nhân loại như một công cụ làm máng
chuyển ơn thánh của Người. Qua đức yêu thương, khiêm tốn và
chính trực của Thánh Giuse, chúng ta có thể nhận ra rằng mỗi
người đều có một vai trò riêng trong kế hoạch của Thiên
Chúa, và cách thế duy nhất để chu toàn trọng trách ấy là
không ngừng điều chỉnh cách nghĩ, lời nói cũng như hành động
của mình cho phù hợp với đường lối của Thiên Chúa.
4. Đức khiết tịnh:
Chúng ta vẫn
tin rằng, Thánh Giuse là người suốt cuộc đời thanh tịnh hiến
dâng. Truyền thống của Giáo Hội xưa nay vẫn tin và dạy rằng:
Sở dĩ Thánh Giuse giữ mình như vậy, là vì Ngài luôn thi hành
Thánh Ý Thiên Chúa, bảo vệ danh giá của Mẹ Maria và gìn giữ
phẩm giá của Con Mẹ, người Con mà Ngài biết rõ là được sinh
ra bởi quyền phép của Thiên Chúa, mà Ngài có trách nhiệm
dưỡng dục.
Đối với
chúng ta, chúng ta có thể thực hành nhân đức này được không?
Thưa, tuy khó thực hiện hơn các nhân đức khác, nhưng mỗi
người chúng ta đều có thể thực thi. Vì nhân đức khiết tịnh
là nhân đức giúp con người tiết chế ước muốn khoái lạc dục
tình theo các nguyên tắc Đức Tin. Với những người đã kết
hôn, đức khiết tịnh giúp tiết chế sự thèm muốn không thích
hợp cho đời sống vợ chồng. Với những người chưa kết hôn, đức
khiết tịnh giúp kìm giữ sự thèm muốn làm điều dâm ô tục tĩu,
ảnh hưởng xấu đến luân lý. Với những ai quyết định sống bậc
tu trì, đức khiết tịnh giúp ước ao được thánh hiến hoàn
toàn.
5. Đức khôn ngoan:
Tuy Phúc Âm
không ghi lại lời nào của Thánh Giuse. Nhưng hành động và
việc làm của Ngài đã nói lên rất nhiều điều, vì “đức khôn
ngoan được chứng minh bằng hành động” (x. Mt 11,19). Chúng
ta nhận thấy Ngài hành động hoàn toàn là điều khôn ngoan, kể
cả trong sự im lặng.
Trong nhân
đức khôn ngoan có ẩn chứa một đời sống âm thầm cầu nguyện.
Ngài cũng thường xuyên cầu nguyện bằng đời sống vừa chiêm
niệm vừa hoạt động: khi chiêm niệm, Ngài cầu nguyện trong
thinh lặng; khi hoạt động, Ngài cầu nguyện bằng chính những
công việc bổn phận hằng ngày. Dù là chiêm niệm hay hoạt
động, Ngài luôn cầu nguyện bên Chúa Giêsu và Mẹ Maria với
hết tâm tình, sức lực và trí khôn của Ngài.
Qua nhân đức
này, Thánh Giuse dạy chúng ta rằng: khôn ngoan chính là biết
nhận thức đúng đắn về những việc phải làm hoặc những việc
cần phải tránh.
Kinh Thánh
dạy rằng: “người khôn ngoan là người biết tìm kiếm nước
Thiên Chúa và sự công chính của Người” (Mt 6,33; xem
thêm I Côrintô và II Côrintô).
Còn Sách
luân lý thì dạy rằng: Đức khôn ngoan là một nhân đức bản
trụ, thuộc về trí tuệ, nhờ đó con người nhận ra đâu là điều
tốt phải làm và đâu là điều xấu cần phải tránh. Sự khôn
ngoan có thể nhận được trực tiếp nhờ ơn sủng Chúa ban, nhưng
cũng có thể huấn luyện và nâng cấp bằng thực hành trí tuệ
của riêng mình. Vì thế đức khôn ngoan được coi là tự nhiên
khi được phát triển bằng nỗ lực riêng và cũng được gọi là ơn
siêu nhiên, vì do Thiên Chúa ban để thực thi chương trình
cứu độ của Người.
IV. THAY LỜI KẾT- THÁNH GIUSE TRONG LÒNG
NGƯỜI KITÔ HỮU:
1. Noi gương và cầu xin:
Thánh Giuse
hẳn nhiên đáng cho mọi người Kitô hữu học hỏi và kêu cầu
Ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta trước tòa Thiên Chúa.
Thánh Giuse,
vốn là người luôn thực thi Thánh Ý Chúa một cách tức khắc và
chu toàn. Ước gì, mỗi người Kitô hữu chúng ta, đặc biệt là
những người cha trong gia đình, luôn biết hướng nhìn lên
Thánh nhân như một mẫu gương tin yêu phó thác và hy sinh,
đặc biệt là bổn phận bảo vệ gia đình và giáo dục con cái.
Như việc
Ngài cộng tác thực thi kế hoạch cứu độ của Chúa một cách
nhạy bén, trong sáng, khôn ngoan, kín đáo, khiêm tốn và khó
nghèo. Mong sao, mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng có một
lương tâm trong sáng và nhạy bén, luôn biết chú tâm đón nhận
ý Chúa trong mọi hoàn cảnh; nhờ đó, chúng ta được ơn Chúa
hướng dẫn để có thể vượt qua mọi khó khăn và thử thách trong
đời sống thường ngày. Vì trong đời sống của chúng ta, thường
khi gặp những lúc khó khăn, thử thách, nhất là cuộc sống
giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái hoặc giữa những tương quan
liên đới của ta với người khác. Ước chi mỗi người chúng ta
cũng có những quyết định tự quyết khi có những vấn đề quan
trọng trong lắng nghe và cầu nguyện, để ý muốn của chúng ta
luôn hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
2. Những ngày lễ kính:
Lễ Thánh Giuse - Bạn trăm năm Đức Maria
(19-03, Lễ trọng):
Chỉ có Phúc
Âm thánh Máthêu và thánh Luca mới nói về Thánh Giuse. Theo
hai Thánh Sử, Thánh Giuse thuộc chi tộc Đavít: người được
xem như dây liên hệ giữa dòng dõi Đavít với Đấng Mêsia.
Những chặng
đường đời của Thánh Giuse cho chúng ta thấy rõ: Thánh nhân
là con người của niềm tin và phó thác, một người được chia
sẻ để hiểu biết Mầu Nhiệm của Thiên Chúa. Thánh nhân là con
người thinh lặng, ít nói nhưng cần cù lao động.
Như được
Thiên Chúa chọn làm Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Maria;
Ngài cũng được trao phó cho việc chăm sóc Con Thiên Chúa,
như một người cha.
Thánh nhân
sống bao lâu, chúng ta không rõ mấy. Kinh Thánh cho chúng ta
thấy lần cuối cùng Ngài xuất hiện tại Giêrusalem, khi trẻ
Giêsu lên 12 tuổi.
Giáo Hội
Phương Tây chính thức tôn kính Thánh Giuse vào khoảng thế kỷ
14,15. Trong phụng vụ Rôma, thánh lễ này bắt đầu được cử
hành vào năm 1621.
Đức Thánh
Cha Piô XI đã công bố: Thánh Giuse là quan thầy của cả Hội
Thánh.
Lễ Thánh Giuse Thợ - Bổn mạng của những người
lao động (01-05, Lễ trọng):
Chính Đức
Thánh Cha Piô XII đã xác định lễ Thánh Giuse Thợ vào ngày
01-05; đó cũng là ngày toàn thế giới mừng ngày Quốc Tế Lao
Động. Trong ngày này, Thánh Giuse được tôn kính như một mẫu
gương lao động để mọi người noi theo. Điều này cũng nói lên
ý thức và giá trị lao động của con người trong cuộc sống
trần thế.
Thánh Giuse
đã lao động bằng chính đôi tay và sức lực của mình để phục
vụ lương thực và nhu cầu sống cho gia đình Thánh Gia. Lao
động ngày hôm nay khác với ngày xưa, nhưng cũng có cùng một
ý nghĩa khi con người sử dụng thân xác và trí óc của mình để
lao động, họ thể hiện chính cuộc sống ý nghĩa và đích thực
của mình để phát triển nhân vị và làm cho cuộc sống đó có
giá trị ở giữa trần gian.
Hơn ai hết,
người Kitô hữu lại cần phải có ý thức về đời sống lao động
chân chính của mình, mọi công việc và thành quả của lao động
đều phải qui hướng về Thiên Chúa.
3. Cầu nguyện:
Lạy Thiên
Chúa là Cha toàn năng, Cha đã giao phó Mẹ Maria và Đức Giêsu
cho Thánh Giuse, và Thánh nhân đã trung thành chu toàn sứ
mệnh của mình để cộng tác vào công trình cứu độ nhân loại
của Cha. - Xin nhậm lời Thánh nhân cầu thay nguyện giúp, cho
Hội Thánh biết luôn luôn cộng tác với Đức Giêsu để hoàn tất
công trình Cha đã khởi sự. Chúng con cầu xin…
Lạy Thiên
Chúa tạo thành trời đất. Cha đã muốn cho con người lao động
để tiếp tục công trình của Cha. - Xin nhậm lời Thánh Giuse
chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương Ngài để lại, mà chu
toàn nhiệm vụ Cha đã giao phó, hầu sau này được hưởng niềm
vui Cha đã hứa cho những ai trung thành với Thánh Ý Cha.
Chúng con cầu xin…
JB. Bùi Ngọc Điệp |
VỀ MỤC LỤC |
|
HỌ CŨNG LÀ
MỘT CON NGƯỜI |
Man is imperfect.
Con người là
bất toàn.
Đây là
câu châm ngôn của trường phái Alfred Adler của chúng tôi. Họ
không bao giờ lên án, nhưng luôn khuyến khích chúng tôi:
không có gì phải mặc cảm, không có gì phải lo sợ, không có
gì phải e ngại, không có gì phải xấu hổ, không có gì phải
chán nản, không có gì phải thất vọng khi thấy chúng ta lầm
lỗi, vì chúng ta còn là con người chưa phải thần thánh. Điều
quan trọng không phải là lỗi lầm, nhưng là sau lầm lỗi chúng
ta có biết chổi dậy và lên đường trở về nhà Cha hay không?
Khi nói đến
những người lãnh đạo, thường chúng ta nghĩ ngay đến những
con người cao siêu, thánh thiện, tài ba, lỗi lạc, ít có
người nghĩ đến những con người cũng mang những yếu hèn của
một kiếp người như chúng ta để cảm thông, để nâng đỡ và
nhất là để thêm lời cầu nguyện cho họ. Bài viết nầy tôi muốn
chia xẻ với quí anh chị em về khía cạnh đó, một khía cạnh
rất thực tế, một khía cạnh rất là người của bất cứ một con
người nào, dù là một con người rất thánh thiện và tài ba như
vua thánh Đavit chẳng hạn, cũng đã có lúc trót lỗi lầm, để
chúng ta biết rõ thân phận của kiếp người chúng ta và học ở
đó một bài học khiêm tốn và thông cảm.
Hãy trở lại
với câu chuyện vua thánh Đavit. Một buổi chiều kia, một buổi
chiều đẹp trời, Đavit chổi dậy và đi bách bộ trên sân
thượng, ông thấy một người đàn bà đang tắm. Người đàn bà ấy
rất đẹp và ông đã bị quyến rũ.
Sau giấc
ngủ, Đavit đi bách bộ trên sân thượng nhà vua, việc đó không
có gì sai trái cả, nhưng chính sự chán nản, chính khi tâm
hồn xuống dốc cho thấy sức mạnh của sự dữ trong mỗi con
người chúng ta. Sự dữ là một phần của con người. Nó nằm sẵn
trong chúng ta và chỉ cần một sự khơi nhẹ cũng đủ để làm nó
lộ diện.
Từ ngày hôm
đó, Đavit âm thầm cho người điều tra về người đàn bà ấy và
được biết bà ta là Bathseba, con gái Eliam, vợ của Uria.
Đavit đã cho người đi đưa bà ta về và Đavit đã ngủ với bà
ta.
Một con
người tốt lành như Đavit nhưng chỉ trong phút chốc đã phạm
tội. Thật vậy, chúng ta mang những kho tàng quí báu của
chúng ta trong những chiếc bình sành, chỉ cần một chút bất
cẩn là có thể làm tiêu tan ngay. Blessed Claude de la
Colombiere nói: “Tôi cảm thấy trong tôi khả năng của mọi
tội”.
Quả thế,
trong bản tính con người yếu hèn của chúng ta, nhất là trong
những lúc buồn phiền, chán nản, thất vọng hay những lúc
chúng ta bất hòa, giận dữ người khác, chúng ta có thể liều
mình dám làm bất cứ điều gì ngay cả những tội tầy đình mà
chúng ta không bao giờ dám nghĩ đến trước đây. Đó cũng là
trường hợp vừa xảy ra ngay tại cung điện Roma. Một người
lính vệ binh của Đức giáo hoàng vì quá tức giận trong phút
chốc đã rút súng bắn chết ngay cả hai vợ chồng của viên đại
tá, vị chỉ huy trưởng của anh ta, và sau đó anh ta cũng dùng
ngay chính khẩu súng đó để tự sát.
Quả thật,
may mắn cho chúng ta nếu chúng ta biết nhận thức ra được
những điều đó. Ít ra nó cũng ngăn ngừa chúng ta khỏi bị
khủng hoảng bỡi những điều xâu mà chúng ta thấy nơi những
người khác. Chúng ta không thể biết được lúc nào nó có thể
xảy ra cho chúng ta.
Tiến trình
của sự dữ luôn là một tiến trình chậm, nhưng nó vẫn luôn
hoạt động. Nó thường bắt đầu với một yếu điểm vô tội. Đó có
thể là một sự tò mò, một hiếu kỳ của con người mà ai trong
chúng ta cũng đều có. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn,
cái yếu điểm ấy đã phát triển một cách nhanh chóng, trở
thành một tội ác, một kẻ giết người ở cuối câu chuyện của
Davit: Uria đã bị giết chết bỡi mưu đồ của Đavit.
Đây là cách
thế mà sự dữ thường phát triển trong mỗi con người chúng ta.
Nó bắt đầu không có gì là quan trọng, không có gì đáng quan
tâm. Nó quá tầm thường đến độ không ai để ý, chẳng hạn như
tôi nói láo, đó có thể là một điều nhỏ. Nhưng đã một lần tôi
nói láo, tôi phải nói một lần nữa để người ta tin. Không bao
lâu tôi đã rơi vào tình trạng một kẻ chuyên môn nói láo. Lấy
một ví dụ: một người muốn lập công với cấp trên của mình để
có được một chỗ đứng quan trọng trong cộng đồng như lòng
mong ước. Một hôm anh đến thưa với cấp trên rằng:
Anh Nguyễn
văn A đang âm mưu tìm cách tẩy chay ngài để chiếm địa vị của
ngài.
Thế là anh
được hỏi: Anh biết Nguyễn văn A đang âm mưu thế nào ?
Vì đã trót
nói láo nên phải nói láo luôn để họ tin:
- Anh ta đã
triệu tập những người chống đối ngài.
- Ở đâu ? Ở
đường Charles, số nhà 100, nhà ông David Nguyễn.
- Gồm những
ai ? - Gồm ông Peter Trịnh, bà Anna Lê , ông Joseph Nguyễn..
- Vào ngày
nào ? - Ngày 26/11/97 lúc 10:00am, vào chính lúc ngài cho ra
mắt tập sách của ngài.
- Khi nào
thì họ ra tay hành động ? - Vào tháng sau. Họ tính làm gấp
nên chúng ta phải hành động trước họ, càng sớm càng tốt,
không được chậm trễ. Tuyệt đối là ngài phải giữ bí mật, nếu
để lộ bí mật thì nguy to cho ngài và cho cả chúng tôi nữa vì
tất cả dân chúng đều nghe theo lời anh ta.
Và nếu vị
lãnh đạo ấy thiếu khôn ngoan, sáng suốt thì chắc chắn anh
Nguyễn văn A sẽ phải đền tội đủ. Có ai biết cho rằng đó chỉ
là một sự giàu óc tưởng tượng của những con người chuyên môn
nói láo.
Cũng vậy,
một người không đi học nhưng muốn khoe khoang là một người
có học, bị người bạn hỏi thăm: Anh đang làm gì ? Có còn đi
học không ? Vì không dám trả lời rằng không, nên nói có. Thế
rồi, người bạn hỏi tiếp: Anh đang theo học trường nào ? Đã
lỡ nói láo nên phải nói láo luôn: trường U of M (university
of Minnesota) –Học môn gì ? –Computer science –Lấy mấy lớp ?
Lấy 4 lớp …và cứ như thế đến vô tận.
Một ví dụ
khác là ly dị. Ly dị không phải là mới xảy ra bây giờ. Nó đã
có lâu đời trong lịch sử. Nó có thể bắt đầu với cảm giác
chán chường. Có lẽ người chồng có cảm giác sợ hãi mình trở
nên già và đã phóng sự sợ ấy lên người vợ. Sự lo âu sợ hãi
của anh làm anh ta buồn chán và bắt đầu mất đi sự thích thú
với vợ mình. Những cảm giác đó làm việc trong vô thức để
rồi dần dần khiến anh xa dần vợ anh. Anh ta bắt đầu thích đi
tìm một người đàn bà khác, một cái gì mới mẻ hơn. Vì thế,
khi có dịp may đến, dĩ nhiên anh sẽ không bỏ lỡ cơ hội để
làm quen, để gây mối tình thân thiện, hay để nối lại mối
tình xưa nghĩa cũ đối với những bạn bè ngày xưa. Chẳng hạn,
vào một ngày cuối tuần nào đó, có thể tình cờ gặp lại một
người bạn cũ, chắc chắn anh sẽ không bỏ lỡ cơ hội tốt để ngỏ
ý mời cô bạn đi ăn tối và cùng nhau đi xem phim cuối tuần.
Và dĩ nhiên cô bạn cũng sẽ vui vẻ đáp lại lời mời của anh.
Từ đó, hai người có dịp gặp gỡ trở lại và dần dần họ trở
thành thân mật với nhau hơn trước. Sau một thời gian, họ
thấy rằng họ đang trên con đường nguy hiểm, nhưng họ nói với
nhau: “Chúng ta sẽ xếp đặt. Chúng ta sẽ có giới hạn. Chúng
ta chỉ là những người bạn tốt của nhau”. Họ thật là điên
cuồng bỡi lẽ lý luận của con tim thì khác với lý luận của lý
trí và cảm xúc của con người thì khó có thể giới hạn được.
Dĩ nhiên là ở cuối chặng đường, họ sẽ tìm cách để có thể đi
đến quyết định ly dị hôn nhân của họ để họ có thể lấy nhau
và chung sống với nhau.
Thật vậy, sự
dữ bắt đầu với một yếu tố hết sức tầm thường, tầm thường đến
độ không một ai có thể ngờ được nên chẳng mấy ai đề phòng.
Như mọi sự sống, sự dữ bắt đầu với một hạt giống, nó đâm
chồi đâm rễ và mọc lên. Hãy xem trong câu chuyện Đavit, sự
dữ tiến hành thế nào ? Người đàn bà mang thai và đưa tin cho
Đavit. Đavit sau khi nghe biết sự việc, đã tìm cách che giấu
tội mình. Một điều mà ông ta hết sức quan tâm đó là cứu bộ
mặt của ông. Ông ta không muốn nhận tội mình và vì thế ngày
càng lún sâu vào vũng lầy của sự dữ. Từ nay mọi quyền lực
của ngai vàng đều được xử dụng cho mục đích nầy là: bảo vệ
danh dự của ông. Không có lý do nào để Đavit ra lệnh cho
Uria rời bỏ chiến trường về hoàng cung và rồi cho về nhà để
ngủ với vợ trong lúc chiến trường đang gay cấn. Nhưng không
may cho Đavit, Uria đã không về nhà nhưng ngủ lại hoàng
cung, và như thế mưu đồ của Đavit thất bại. Đavit thấy mình
thất bại, vội vàng xoay sang thủ đoạn khác. Ông tìm cách để
cho Uria được đẩy ra ngoài địa đầu chiến tuyến, chỗ nguy
hiểm nhất để Uria bị giết chết. Lần nầy thì mưu đồ của ông
đã thành công. Ông đã làm công việc đó để cứu sỉ diện của
ông. Nhưng điều đó không đúng chút nào lại còn mang thêm một
trọng tội khác.
Sau khi
Đavit đã được sứ giả cho biết Uria đã bị giết chết, Đavit đã
đổi ngay thái độ. Ông không còn hay nổi trận lôi đình nữa,
cũng không còn hay gắt gỏng, cau có, nóng giận, khó tính và
lo sợ nữa. Ông xem ra trầm tĩnh hơn, bỡi lẽ bây giờ ông có
thể lấy Bathseba làm thiếp mà không còn phải sợ mất sỉ diện
nữa.
Chính việc
nầy, chính việc che dấu tội của Đavit còn xấu hơn gấp trăm
ngàn lần tội mà ông đã phạm với bà Bathseba. Nếu ông đã
xưng thú, đã nhận lỗi, điều đó không đến nỗi quá xấu. Tội ác
tầy đình bắt đầu khi ông cố gắng che dấu tội mình. Vì thế,
Thiên Chúa đã sai tiên tri Nathan đến nói cho ông dụ ngôn
nầy:
Trong một
thành kia có hai người, một người giàu và một người nghèo.
Người giàu thì có vô số chiên lừa, còn người nghèo chỉ có
một con làm gia sản. Một ngày kia, người giàu, có khách đến
thăm. Ông không muốn giết chiên mình để đãi khách mà đi bắt
con chiên của người nghèo giết đi mà đãi khách. Đavit nghe
đến đó thì nỗi trận lôi đình lên và phán bảo: “Người đó đáng
chết!” Lương tâm của Đavit tốt đối với việc quan tâm đến
người khác. Ông ta thấy rõ ràng rằng người giàu đã làm một
việc bất công và ông không chấp nhận điều đó. Nhưng ông đâu
có biết rằng chính ông cũng đã làm như vậy. Đavit đã sống
trong sự yên hàn bấp bênh của lương tâm bằng việc dấn thân
cho một thế giới bên ngoài.
Trong khi
lên án tố cáo người khác, con người không còn năng lực nào
còn lại để đối diện và nhận ra lỗi mình. Sự nhiệt thành cũa
Đavit đối với công việc bên ngoài là một sự chạy trốn. Cái
tội mà Đavit lên án nơi người giàu là một tội đáng phạt. Tuy
nhiên, lòng đam mê công lý của Đavit cho thấy sự bất công
quá đáng nơi chính ông ta. Sự sốt sắng cải thiện và sự dấn
thân phục vụ để tác động những người khác quả thật có thể đó
là một sự che lấp tinh vi của một sự sợ sệt và tội lỗi cá
nhân.
Các nhà tâm
lý học cho chúng ta thấy rằng qua những đam mê hoạt động của
chúng ta, chúng ta cố gắng dập tắt cái cảm giác sợ sệt và
tội lỗi để làm chúng ta trở nên có giá trị hơn dưới con mắt
người khác bằng những công việc hoạt động. Chính những hoạt
động đó có thể làm chúng ta trở thành những con người hết
sức hấp dẫn mà rất ít người có thể nhận ra có một sự chạy
trốn nào đó ở đàng sau bộ mặt hấp dẫn đó. Và đây chính là
trường hợp của Đavit. Nhưng Thiên Chúa có muôn ngàn cách thế
để cảnh tĩnh những con người Ngài muốn tuyển chọn. Ngài đã
sai tiên tri Nathan đến cảnh cáo Đavit: “Chính ngươi là
người nhà giàu mà ngươi đã lên án đó!” Từ bấy giờ, Đavit bắt
đầu mở bừng mắt ra và ông đã thú nhận những tội lỗi mình.
Lời Chúa là
một cái gì sống động và hữu hiệu. Lời đó được nói với Đavit
qua một người khác. Đavit cần một người trung gian để đưa
ông đến việc chấp nhận và xưng thú tội mình: “Tôi đã phạm
tội chống lại Giavê”.
Bao lâu
chúng ta còn che dấu lỗi mình, bấy lâu chúng ta còn cảm thấy
mình không được đón nhận. Khi chúng ta thật sự chấp nhận sự
đón nhận của Thiên Chúa và tin rằng sự đón nhận của Ngài là
vô giới hạn, bấy giờ chúng ta mới có thể xưng thú tội mình.
Việc chúng ta dấu tội là một dấu chỉ cho thấy chúng ta không
hoàn toàn tin vào tình yêu Thiên Chúa. Nó nói lên một sự
thiếu kém lòng tin. Thỉnh thoảng, chúng ta gặp những người
không biết chấp nhận lỗi mình, không bao giờ biết nói lên
lời xin lỗi, họ là những con người đáng được thương hại vì
họ là những con người đau khổ hơn cả bỡi sự bất an của tâm
hồn họ. Sự an bình không tìm được trong sự che dấu nhưng
trong sự tha thứ. Bấy giờ sự tha thứ mặc khải cho họ một
chiều sâu mới trong tình yêu Thiên Chúa. Trong giây phút tha
thứ, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Ngài lớn lao hơn
những lầm lỗi của chúng ta và sự chấp nhận của Ngài là vô
điều kiện. Sự tha thứ tạo nên một mối giây liên hệ mới giữa
con người và Thiên Chúa. Chỉ có những con người có sự can
đảm dám xưng thú tội mình mới có thể thật sự chấp nhận chính
mình và tìm thấy được sự an bình mà thế gian không thể ban
cho và lấy đi được.
Lm. Lê
Văn Quảng |
VỀ MỤC LỤC |
|
Hiểu Biết Căn Bản về Dược Thảo |
Câu Chuyện Thầy Lang
Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức
Dược Thảo hiện nay đang được
công chúng mọi nơi rộng rãi sử dụng, đặc biệt là tại các
quốc gia kỹ nghệ phát triển.
Riêng tại Hoa Kỳ, trong năm
1998, dân chúng đã tiêu hơn 4 tỷ mỹ kim để mua các lọai dược
thảo. Từ năm 1990 tới 1997, số người dùng dược thảo tăng
380%, số người đi khám bác sĩ giảm, mà số người đi khám bệnh
thầy thuốc không chính thống cũng nhiều hơn.
Dược thảo được bầy bán khắp
nơi, ngay cả trong tiệm chuyên bán âu dược. Những môn thuốc
cuả Mẹ Thiên Nhiên như lá, củ, rễ, vỏ, hoa.đã mau chóng trở
nên phương tiện trị liệu ưa thích của người dân. Họ mua dùng
để chữa từ các bệnh thường thấy như cảm cúm, đau nhức , tiểu
đường, tới một số bệnh trầm trọng hơn như ung thư các loại,
tê liệt tứ chi, liệt kháng HIV-ADS, viêm siêu gan A,B,C.
Biết bao nhiêu người đang
dùng St. Jolhn Wort để chữa trầm cảm; ginkgo biloba để trì
hoãn sự hóa già, sa sút trí nhớ; melatonin cho rối loạn giấc
ngủ do chệch múi giờ; saw palmetto cho ung thư nhiếp hộ
tuyến; lá đu đủ cho ung thư gan; sừng tê giác cho ung thư
đường ruột; mã hoàng ephedra để giảm nghẹt mũi.
Theo cơ quan Y Tế Quốc Tế,
hiện có trên 4 tỉ ( 67% dân số ) người dùng dược thảo trên
thế giới. Kỹ nghệ chế biến dược thảo, bốc thuốc, hiện rất
phát triển, thịnh vượng, thu vào 12 tỉ mỹ kim trong năm
1998.
Để đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi
của dân chúng, chính quyền các quốc gia cũng đã bắt đầu lưu
ý, dành ngân khoản, lập cơ quan nghiên cứu về công dụng và
sự an toàn của dược thảo.
Định
nghĩa
Theo định nghĩa của cơ quan
Y Tế Thế Giới, một sản phẩm được coi là dược thảo khi thành
phần chủ động gồm một bộ phận của thảo mộc nằm trên không
hay dưới đất, trong hình dạng nguyên thủy hay được chế biến.
Khi có pha lẫn bất cứ hoá chất hay khoáng chất thì thuốc
không còn là dược thảo nữa.
Lịch sử
dược thảo
Dược thảo đã giữ vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ sức khỏe con người từ nhiều ngàn
năm, nhất là ở các quốc gia đang mở mang..
Ở Việt Nam ta, các vị lương y
( cụ Lang, Đông Y sĩ ) đã sử dụng dược thảo từ thời lập quốc
với hai loại thuốc: thuốc Bắc, cây cỏ nhập từ Trung Hoa;
thuốc Nam dùng cây cỏ thổ sản quốc gia, trong những bài
thuốc gia truyền, theo kinh nghiệm qua nhiều thế hệ.
Các vị danh y như Tuệ Tĩnh,
Hải Thượng Lãn Ông đã để lại những tác phẩm đông y giá trị.
Bộ sách Nam Dược Thần Hiệu của Tuệ Tĩnh viết vào thế kỷ 17
liệt kê trên năm trăm vị thuốc có gốc thảo mộc và động vật
và ông chữa bệnh theo phương châm “ thuốc Nam Việt chữa
người Nam Việt ”.
Mới đây, ở Hà Nội, Giáo sư
Đỗ Tất Lợi tái bản bộ sách “ Những cây thuốc và vị thuốc
Việt Nam ” với trên 800 vị thuốc, cây thuốc được phân tích.
Dược Sĩ Lợi, trên 90 tuổi, được đào tạo về Tây Y dược,
nhưng đã dành trọn đời nghiên cứu, bảo tồn, truyền bá y dược
học cổ truyền Việt Nam. Bộ sách “ Cây Thuốc và Ðộng Vật Làm
Thuốc” của nhiều tác giả cũng là tác phẩm có giá trị.
Tại Trung Hoa, dược thảo
được ghi nhận từ năm 168 Trước Thiên Chúa, rất phổ thông và
đang được hệ thống hóa. Năm 1977, quốc gia này đã xuất bản
một dược thư gồm trên 5000 dược thảo.
Dược thảo du nhập Nhật Bản
năm 411 sau TC qua ngả Triều Tiên và nền y học thảo dược rất
phát triển và đáng tin cậy.
Ai Cập đã tìm ra tài liệu cho
thấy dược thảo được dùng từ năm 2000 trước TC. La Mã - Hi
Lạp đã dùng dược thảo từ thời Aristole, và sách dược thảo
cuả Dioscorides viết vào thế kỷ thứ nhất sau TC có ghi trên
600 vị thuốc cỏ cây.
Nền y học Ayurvedic Ấn Độ
cũng dùng dược thảo từ trên năm ngàn năm để hỗ trợ việc trị
bệnh và phòng bệnh do sự mất thăng bằng của tâm trí.
Ở Pháp, nhất là Đức, các bác
sĩ y khoa biên toa âu dược chung với dược thảo.
Tại Đức, một ủy ban gồm nhiều
bác sĩ, dược sĩ, chuyên gia về chất độc đã hoàn thành một
tài liệu với trên 400 chuyên đề tả công dụng, tác dụng phụ,
phân lượng của nhiều dược thảo.
Bên Anh, một công trình tương
tự cũng đã được hoàn tất.
Bên Mỹ, dược thảo rất thông
dụng với thổ dân bản xứ. Năm 1716, nhà thám hiểm Pháp
Lafitau đã tìm ra sâm Mỹ ở vùng New World. Hiện nay sâm là
tài nguyên xuất cảng quan trọng của Hoa Kỳ. Cơ quan The
American Botanical Council, Austin-Texas, dựa vào hai công
trình của Đức và Anh, đã soạn thảo một tài liệu nói về 26
dược thảo thông dụng.
Với cơ quan Thực phẩm và Dược
phẩm Hoa kỳ ( FDA ) thì dược thảo được xếp hạng như thực
phẩm phụ, được bầy bán không cần thử nghiệm, nghiên cứu như
âu dược, mặc dù dược thảo có tính cách trị bệnh và cũng có
tác dụng phụ. Dược thảo không được quảng cáo là có công dụng
trị bệnh mà chỉ được nói chung chung về ích lợi của sản
phẩm, thí dụ thuốc làm lợi tiểu tiện, bổ gan, tăng cường
miễn nhiễm...
Khi thuốc bị coi là không an
toàn thì cơ quan này sẽ không cho bầy bán.
Đa số dược thảo hiện có trên
thị trường đều được sản xuất theo kinh nghiệm đã dùng hay
dựa vào những bài thuốc được lưu truyền trong giòng họ và
được coi như đáng tin cậy. Vì dược thảo không được cơ quan
FDA cấp bằng đặc quyền chế tạo, nên các nhà sản xuất không
chịu bỏ vốn cho chi phí nghiên cứu khoa học như âu dược.
Mấy năm gần đây, Viện Sức
Khỏe Hoa Kỳ, đã thành lập một trung tâm nghiên cứu về dược
thảo cũng như các phương tiện trị liệu không chính thống, và
đã dành một ngân khoản là 50 triệu trong tài khóa 1999 cho
việc nghiên cứu này. Đó là do áp lực của người tiêu thụ dược
thảo mồi ngày một tăng, vì nhiều lý do như:
a) Âu dược quá đắt, đôi khi
không công hiệu, mà lại có nhiều tác dụng độc hại, không
muốn; b)Dân chúng thích dược thảo có nguồn gốc trực tiếp từ
cây cỏ hơn là âu dược hóa chất;
c) Bất bình với nhóm tài
phiệt bao thầu quản trị y tế giới hạn việc sử dụng tây y để
kiếm nhiều lợi nhuận..
Một vài
đặc điểm về dược thảo.
Trước khi nghĩ tới việc dùng
dược thảo cho bệnh tật, tưởng cũng nên tìm hiểu một vài dữ
kiện về loại thuốc này:
1- Sự an
toàn của dược thảo.-
Ý kiến chung coi dược thảo an
toàn hơn âu dược, ít gây chứng bệnh phụ và rất ít khi gây
tai nạn tử vong.
Tuy nhiên dược thảo vẫn là
một loại thuốc, khi dùng ta cần cẩn thận, không nên nghĩ vì
nó là cây thiên nhiên thì không có hại.
Cam thảo ( licorice ) là một
trong những thuốc cây cỏ dùng nhiều nhất trên khắp thế giới
để chữa bệnh lở bao tử, ho, suyễn, nhưng nếu dùng lâu ngày,
có thể gây cao huyết áp, nhức đầu, mệt mỏi. Khi mới dùng lần
đầu, nên dùng với phân lượng nhỏ rồi tăng dần cho tới liều
chỉ dẫn bởi nhà sản xuất.
Một thí dụ khác là cà phê,
một loại họ thảo ta dùng mỗi buổi sáng để nâng cao tinh
thần. Nếu uống hai ly mỗi sáng thì có tác dụng tốt như ý
muốn, năm ly là có nhức đầu, nóng nẩy, 15 ly thì bắt đầu
thấy ù tai, chóng mặt.
Dược thảo bán trên thị trường
không được thử nghiệm về sự tinh khiết và hiệu nghiệm, nên
đôi khi có lẫn chất không cần như phấn hoa, phấn lá...và có
thể gây dị ứng.
2- Công
hiệu của dược thảo.
Các nhà sản xuất cũng như hơn
4 tỉ người đang dùng dược thảo đều cho là thuốc công hiệu
trong việc trị bệnh và ngừa bệnh. Đã có nhiều nghiên cứu
khoa học hỗ trợ ý kiến này.
Có điều là tác dụng của dược
thảo thường từ từ, nhẹ nhàng, cần thời gian lâu để có hiệu
qủa, do đó tốt trong việc phòng bệnh.
Dược thảo, với nhiều chất
thuốc khác nhau, có tác dụng vào nhiều bộ phận cơ thể hơn là
âu dược, với một dược chất, tác dụng vào một bệnh chỉ định.
Dược thảo thường không đủ
mạnh để trị cấp cứu, nhất là các bệnh do vi khuẩn gây ra,
nên thuốc kháng sinh vẫn là thuốc căn bản.
3- Dược
thảo không gây ghiền.
Thường thường cỏ cây gây
ghiền như cây thuốc phiện, cần sa... không được phép bán
công khai tại tiệm thuốc âu dược hay tiệm thuốc thiên nhiên.
Dược thảo không có kích thích tố hay chất chống viêm
steroid, nhưng một vài dược thảo có tác dụng hỗ trợ sự tiết
các chất này trong cơ thể.
4- Nguồn
gốc dược thảo.
Theo các nhà sản xuất, thì
dược thảo đều do cây cỏ được trồng trong môi trường có kiểm
soát, đôi khi không dùng hoá chất diệt sâu bọ, cỏ dại hoặc
phân bón nên phẩm chất tốt, thiên nhiên. Nhiều khi cây cỏ
mọc hoang cũng được dùng để chế thành thuốc.
5- Chọn
lựa dược thảo
Như đã nói ở trên, nhà sản
xuất không cần chứng minh sự an toàn và công hiệu của dược
thảo khi tung ra thị trường, mà chỉ khi nào có chuyện xẩy ra
thì thuốc đó mới bị bỏ đi. Tiêu chuẩn bào chế của mỗi nhà
sản xuất đều khác nhau, nên tỷ lệ dược liệu đều thay đổi. Tỷ
lệ này cũng thay đổi tùy theo cây cỏ được trồng ở địa dư
nào, được hái vào mùa nào, được tồn trữ ra sao và phần nào
(rễ, thân hay lá ) của cây được sử dụng để bào chế thuốc.
Những điều này gây khó khăn
không ít cho giới tiêu thụ khi mua thuốc. Vì thế các nhà sản
xuất đã tổ hợp với nhau để thống nhất sản xuất. Hiện có hai
tổ hợp lớn: American Herbal Products Association và National
Nutritional Foods Association.
Khi mua, nên lựa sản phẩm do
sự liên kết với các công ty tín nhiệm có cơ sở nghiên cứu
đầy đủ về phân lượng, tinh khiết và công hiệu. Cũng nên lựa
sản phẩm có nhãn hiệu với chỉ dẫn cách dùng, tác dụng phụ,
loại cây cỏ, ngày hết hạn.
Những
điều cần lưu ý khi dùng dược thảo
Tại Hoa Kỳ,Tây y được xây
dựng trên căn bản sinh hóa học hiện đại. Cơ quan Thực Phẩm
và Dược Phẩm, với nhiệm vụ điều hợp thực dược phẩm, bảo vệ
sức khoẻ con người, thường nhìn dược thảo với con mắt dè
dặt, nghiêm khắc. Họ cho là dược thảo không có công dụng trị
liệu và nguy hiểm.
Một luật gia than phiền là
hiện giờ có hai chế độ dược phẩm: một chế độ muốn được bầy
bán phải chứng minh có công hiệu trị liệu và tuân theo luật
lệ; chế độ kia được bán tự do, không cần kê khai giá trị.
Bác sĩ Marcia Angel, Chủ bút
tập san Y học uy tín New England Journal of Medecine khẩn
khoản kêu nài dân chúng đừng tự chữa bệnh, tự dùng dược
thảo vì thuốc có nhiều thành phần không khai báo được pha
thêm vào như chì, thạch tín, rất nguy hiểm.
Còn giáo sư dược khoa nổi
danh Varro Tyler cho là sự nghiên cứu về dược thảo của các
quốc gia Âu Châu rất đáng tin cậy, tuy nhiên, độc tính dài
hạn của thuốc cần được theo dõi, tác dụng phụ có hại thường
được che dấu, giảm thiểu.
Dù vậy, dược thảo vẫn được
người dân tiêu thụ, vì niềm tin có bệnh thì vái tứ phương,
vì có ngay khi cần, không phải mất công lấy hẹn, ngồi chờ
bác sĩ, cũng như khi gặp trọng bệnh mà Tây Y bó tay. Tuy
nhiên cũng nên lưu ý mấy điều để tránh chuyện chẳng lành:
1-
Thông báo cho bác sĩ nếu đang dùng dược thảo để tránh tác
dụng không tốt giữa âu dược và thuốc cỏ cây. Không dùng
ginkgo biloba (bạch quả ) với thuốc trị đau nhức Aspirin,
thuốc ngừa tai biến não Ticlid, Persantine; âu dược trị trầm
cảm với St John Wort...
2-
Không dùng dược thảo
khi mang thai, nuôi con bằng sữa mẹ, không cho con nhỏ dùng
dược thảo vì ở trẻ em và thai nhi, gan chưa đủ sức vô hiệu
hóa độc chất cuả dược thảo. Xin đan cử một thí dụ: khi uống
một ly cà phê, người lớn chỉ cần 5 giờ để loại khỏi cơ thể
mà con nít cần đến cả 80 giờ.
3-
Tuy dược thảo có nguồn
gốc thiên nhiên nhưng không thiên nhiên với cơ thể con
người. Cho nên thuốc có thể gây bất lợi khi dùng, nhất là vì
thiếu kiểm soát nên thành phần không thống nhất, phẩm chất
không tinh khiết, đôi khi pha lẫn chất có hại cho cơ thể.
4-
Không nên dùng dược thảo quá dăm tuần lễ vì an toàn dùng dài
hạn chưa được chứng minh, cũng như không dùng quá nhiều vì
nguy cơ gây độc cho gan và thận. Cũng không nên dùng nhiều
dược thảo khác nhau một lúc vì tác dụng tương phản của
thuốc.
5-
Dược thảo cũng có
tác dụng phụ như bạch qủa gây xuất huyết; mã hoàng (ephedra
) gây tăng huyết áp, nhức đầu, rối loạn nhịp tim; St John
wort làm chóng mặt, mệt mỏi khô miệng, mất định hướng... Mã
Hoàng hiện nay đã bị cấm bầy bán tại Hoa Kỳ.
Và cuối cùng là không nên quá
tin tưởng ở lời quảng cáo, giới thiệu của nhà sản xuất vì
những lời này không được cơ quan trách nhiệm xác định giá
trị, đồng thời cũng nên tìm hiểu về đặc tính trị liệu của
loại dược thảo đang dùng.
Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức |
VỀ MỤC LỤC |
NHỮNG TẠI HẠI CỦA
BỆNH TƯỞNG |
Tại
bệnh viện tâm thần nọ, có môt bệnh nhân cứ tưởng mình là hạt
thóc, vì thế khi thấy con gà, anh sợ run cả người, ôm đầu
chạy trốn vì sợ gà mổ. Sau mấy tháng chữa trị, bệnh anh đã
thuyên giảm.
Một hôm bác
sĩ dẫn anh đi một vòng quanh khu vực nhà bếp của bệnh viện
xem anh khỏi hẳn chưa. Thình lình anh trông thấy một con gà
mái, khiếp sợ qúa, vội vàng, sợ sệt trốn sau lưng bác sĩ.
Bác sĩ dịu
dàng bảo: “Đừng sợ! Này sao anh lại sợ con gà? Bây giờ anh
đã hết bệnh rồi. Anh có biết rằng mình là con người chứ
không phải làm hạt thóc không.?
Bệnh nhân đáp
một cách mạnh dạn: “Tôi biết chứ, tôi là con người mà tôi
không phải hạt thóc! Nhưng con gà nó đâu có biết như vậy, nó
cứ tưởng tôi là hạt thóc mới chết chứ.”
* Một Phút Suy Tư:
Tâm thần
được phân định dưới nhiều dạng khác nhau, tùy mức độ nặng
nhẹ! Nặng thì có thể giết người, nhẹ thì cười cười nói nói,
hoặc trầm uất hoặc hoang tưởng. Ta cùng suy nghĩ đến những
chứng bệnh “tưởng” tâm linh trong Hội Thánh.
Có kẻ tuởng
mình khôn ngoan nên kiêu căng và ngạo mạn, người khác tưởng
mình dốt nát nên mặc cảm tự ty, có kẻ tưởng mình tài giỏi
nên không chịu nghe ai góp ý. Bất chấp Cộng đồng, đường ta
ta cứ đi, việc ta ta cứ làm. Có người tưởng mình vô dụng nên
chẳng dám làm công việc nào, đi nhà thờ giữ luật rồi lầm lì
ra về…
Dù là bệnh tưởng ở khía cạnh nào đều là không tốt cả. Hội
Thánh sẽ gặp nhiều rắc rối nếu có qúa nhiều người mắc bệnh
“tưởng”. Chúa Giêsu đến thế gian để bạn nhận ra giá
trị thật của mình. Nên có những nhận định đúng về chính
mình, dưới ánh sáng Lời Chúa. Bạn cần lắng nghe và tương
giao với Chúa từng giây phút.
Vì thế
thánh Phaolô khuyên: “Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững,
thì hãy coi chừng kẻo ngã.” (1Corintô 10, 12)
Đức Maria
ca ngợi Chúa: “Chúa dơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan
phường lòng trí kiêu căng.” (Luca 2, 51)
Phó tế: GB Huyền
Đồng-Nguyễn văn Định |
VỀ MỤC LỤC |
CHẾT |
(Viết để cầu nguyện cho Camie Hồng Dương
vừa được Chúa gọi về ngày 17/4/2006)
Từ thưở tạo
thiên lập địa cho đến ngày nay, chưa từng có ai thoát được
cái chết. Quả thật, già trẻ lớn bé, vua quan quyền cao chức
trọng cho đến dân cùng đinh nghèo hèn đều phải qua chung một
ngưỡng cửa của sự chết và rời khỏi thế gian. Hình như ai
cũng biết điều này và vì vậy người ta đâm ra … sợ chết!!!
Người ta sợ và tránh, không dám nói đến chữ “chết”, làm như
không nhắc đến chữ “chết” thì mình khỏi phải chết.
Tại sao người
ta lại kinh hãi sự chết đến như vậy??
Phải chăng,
chúng ta sợ chết vì chúng ta không còn được nhìn thấy, được
chuyện trò với những người đã chết. Chúng ta không biết họ
có còn hiện hữu ở một hình thức nào khác nữa không và họ đi
về đâu, sướng khổ ra sao; hay chết là hết, hết thật sự,
không còn hiện hữu dù ở bất cứ cõi giới nào.
Những người
vô thần tin chết là hết, không có đời sau. Có lẽ họ nghĩ
rằng thân xác con người với bộ não và năm giác quan: nghe,
thấy, nếm, ngửi, sờ đã tạo nên phần tinh thần của con người
- hay nói theo kiểu những người tin vào Chúa hay Phật thì
gọi đó là linh hồn. Vì vậy khi thân xác con người chết đi,
thì tinh thần hay linh hồn cũng không còn nữa. Như nhà đèn
hay lò biến điện bị phá hủy thì chúng ta không có điện. Nói
một cách khác, những người vô thần tin rằng thân xác tạo ra
tâm linh. Có người lại nói, linh hồn không có vì không ai sờ
thấy hay cảm nghiệm được linh hồn. Nhưng liệu có ai thấy
được điện đâu nhưng nó vẫn hiện hữu. Người ta biết được có
điện vì thấy bóng đèn bật sáng, các vật dụng bằng điện hoạt
động khi bật nút mà thôi. Nếu nghĩ như những người vô thần
thì chết là điều đáng sợ và phải sợ, vì chết đồng nghĩa với
sự hủy diệt, mất đi vĩnh viễn.
Còn chúng ta,
những kẻ tin vào Thiên Chúa mà cũng sợ chết sao?? Á à, có
người có thể nói rằng sợ chết vì sợ phải trả lẻ, rằng thì
con người ai mà chẳng yếu đuối và phạm tội nên sợ phải ra
trước sự phán xử công minh của Thiên Chúa. Điều này hợp lý,
nhưng chẳng phải chúng ta - các môn đồ của Chúa Giêsu - vẫn
thường nghe nói hay chúc tụng tình yêu và lòng thương xót
của Thiên Chúa sao?? Phải chăng chúng ta chỉ nghe, chỉ nói
như chim két mà không thật sự tin vào tình yêu và lòng
thương xót của Ngài???
Điều quan
trọng chúng ta ai cũng biết là một ngày nào đó, có thể là
lát nữa đây, có thể là ngày mai, tháng tới, năm tới hay một
ngày tháng nào đó, cái chết sẽ đến với người thân yêu của
mình và rồi đến phiên “tôi”, chính “tôi” chết! Liệu chúng ta
đã chuẩn bị cho người thân yêu của mình hay chính mình để
khi ngày chết của ta đến thì chúng ta đã sẵn sàng, hân hoan
về cùng Chúa.
Trong cuộc
sống, chúng ta chuẩn bị nhiều thứ cho mình và người thân.
Chẳng hạn cho con ăn học là bậc làm cha mẹ chuẩn bị để khi
lớn lên ra đời, con mình được nhẹ nhàng tấm thân, ăn nên làm
ra. Càng thương con, cha mẹ càng tìm đủ mọi phương tiện cho
con học hành. Lớn lên một chút, trái tim lúc lắc, sét ái
tình đánh cho tơi tả, người ta dắt nhau đi học giáo lý hôn
nhân, chuẩn bị cho cuộc sống lứa đôi cho đời sống gia đình,
v .. v .. và v..v…
Vậy mà đối
với cái chết - một điều mà chưa ai thoát khỏi thì người ta
lại lẩn tránh, không dám nhắc tới, làm như không nhắc thì nó
sẽ không bao giờ tới vậy đó. Chúng ta không dám đối diện với
sự thật rằng thì rồi một ngày chính “tôi” sẽ phải chết.
Người ta không muốn hay không dám chuẩn bị cho người thân và
chính mình hành trang để bước qua ngưỡng cửa của sự chết.
Nói quơ đủa
cả nắm như vậy thể nào cũng bị mắng cho là con nhà có đạo mà
dốt nát. Thật ra thì là người Công giáo có đạo hạnh nên hể
thấy cái chết lúp ló trước cửa thì ta có lật đật cho mời Cha
đến để được ơn giải tội, được lãnh bí tích xức dầu. Còn thì
ngày ngày (?) đọc kinh xin ơn chết lành để khỏi phải chết
tươi ăn năn tội chẳng kịp cũng …. đủ rồi!!
Nhưng, lỡ như
Chúa muốn ta chết bất đắc kỳ tử thì sao nà?? Ôi lạy Chúa,
con van xin Ngài đừng dắt con đi theo kiểu đó vì các bà bạn
trong nhóm đọc kinh của con sẽ “sung sướng“ mà đi rêu rao
rằng thì con mang nhiều tội trọng ác nghiệt nên mới vô phúc
phải chết tươi như thế đó. Nghĩ tới chết tươi chẳng kịp mời
Cha xức dầu thì hoảng kinh hồn vía làm dấu thánh giá lia lịa
và năn nỉ ỉ ôi với Chúa.
Chừng thấy
ông X bị bệnh nằm liệt giường hàng mấy năm trời, chẳng tự
mình tiêu tiểu vệ sinh gì được phải nhờ người thân chăm sóc.
Lại than thở rằng thì: thôi phần tôi, tôi xin Chúa cho tôi
bệnh chi thì chết ngay để không bị hành hạ thân xác. Ừ, hay
là ta xin Chúa cho đủ giờ để lãnh nhận bí tích xức dầu thôi,
nhưng đừng để con vật vờ dở sống dở chết nha Chúa.
Tội nghiệp
Chúa, chắc Ngài phải phân vân xem nhậm lời cầu nào đây cho
vừa ý con cái!!! Nghĩ cho cùng, nếu ta cụ bị sẵn sàng thì
khi nào hay cách nào Chúa gọi thì ta cũng đã …. sẵn sàng. Và
như ta đã nhận ra thế gian là cõi tạm và cái ngày Chúa gọi
ta có thể rất thình lình và khó ai biết trước đuợc, cái ngày
ta sẽ rời khỏi nơi tạm bợ này để trở về trả lẻ trước mặt
Thiên Chúa; thì chắc chắn ta phải sống khác hơn, phải chuẩn
bị chu đáo hơn.
Vậy mà ta
nhìn chung quanh thử xem, chúng ta - những kẻ được lãnh nhận
nhiều bí tích và nhờ Ơn Chúa mà có đức tin - có sống khác
hơn kẻ vô thần hay người không có đức tin chăng?? Hàng ngày,
chúng ta có sống theo điều răn của Chúa Giêsu là Mến Chúa
Yêu Người không? Chúng ta có làm mọi việc với tất cả tâm
tình yêu mến không?
Nhiều lần tôi
xét mình rồi tự an ủi: ừ thì ai sao tôi vậy, tại người ta
làm bậy nên tôi làm … theo!! Không phải lỗi tôi!! Tôi nói
tôi xét mình nhưng nghĩ quanh quẩn một hồi thì hình như là
tôi xét người và biện hộ cho mình thì đúng hơn. Tôi dễ dãi
với chính tôi nhưng tôi lại khe khắc với anh chị em quanh
mình!! Nếu mỗi ngày tôi suy nghĩ như vậy thì đến giờ tôi hấp
hối, cái giờ Chúa gọi tôi bất ngờ, liệu rằng tôi có nghĩ
khác hơn không?? Chắc là không!! Thành nếp rồi, cứ theo nếp
củ mà suy ra thôi!!
Thật là đáng
sợ!! đáng kinh sợ hơn cả sự chết vì tôi đang đánh cuộc rủi
may cho việc mệnh hệ đời đời của mình. Trong những dịp quan
trọng ở nơi trần thế tạm bợ như khi tôi đi thi tôi chuẩn bị
bài vở cẩn thận, khi tôi nộp đơn đi làm và tha thiết mong
mình được nhận làm việc tôi cũng chuẩn bị có khi tập dượt
trước cẩn thận, ngày đầu tiên tôi hẹn hò với người tôi yêu,
ngày cưới v..v.. tôi dành nhiều giờ để chuẩn bị quần áo, tóc
tai v..v.. và v .. v….. Còn ngày giờ tôi đi trình diện với
Đấng có thể ban cho tôi sự sống đời đời thì tôi lại phó mặc
cho may rủi!! Bạn ơi, tôi nói với bạn mà cũng là nói với
chính tôi rằng trước tiên mình phải tận nhân lực thì sau đó
mới tri thiên mệnh, chưa làm hết sức của mình thì đổ thừa
cho người hay trách Chúa sao được!!
Như vậy thì
chuẩn bị cách nào đây cho ngày trọng đại đó, cho giờ chết
của chính mình???
Ta thử bắt
đầu một ngày sống của mình với tâm tình suy nghĩ đây là ngày
cuối Chúa để ta nơi trần gian này, vậy thì ta làm gì ngày
hôm nay?? Xin hãy tạm ngừng một chút, khoan đọc tiếp nhưng
hãy thành thật trả lời cho chính mình: Ngày hôm nay ta sẽ
làm gì nếu biết Chúa cất ta đi đêm nay??
Bạn thử viết
ra vài điều mà bạn sẽ làm nếu tối nay Chúa dắt bạn đi và giả
dụ ngày giờ chết Chúa đã báo cho bạn biết là điều tối mật,
tuyệt đối bạn không thể chia sẻ cho bất kỳ ai dù là vợ chồng
hay cha mẹ, con cháu, anh chị em hay bạn hữu.
Ngày hôm nay
và lúc này đây, bạn còn có thì giờ để suy nghĩ xem hành
trang gì mình mang theo được trong cuộc vượt biên bí hiểm
với Chúa và không bao giờ trở lại đây nữa. Chuyến ra đi này
bạn không mang theo được vàng bạc, tiền của nhưng bạn có thể
“gửi chính thức”, “chuyển tiền” qua những người sống quanh
mình, những người Chúa gửi đến cho mình bằng cách sống quảng
đại hơn, cho đi, chia sẻ những thứ mình có. Bạn nhớ không,
Chúa nói dù là việc nhỏ bé nhất và bạn làm cho người bé mọn
nhất thì Chúa cũng ghi công, cũng chuyển thành tiền mua vé,
mua chỗ cho ta trong nước Thiên Chúa. Như vậy chính tình yêu
mến, cách ta cư xử với những người quanh ta sẽ quyết định
chỗ của ta trong nhà của Thiên Chúa, ta càng yêu mến đối xử
tốt với những người quanh ta thì đó chính là vàng, là đô la,
là vé để ta vượt biên cửa Chết và vào nước Trời.
Khi suy nghĩ,
ghi ra những điều mình muốn làm trước khi rời khỏi trần thế,
ta sẽ nhận ra các điều quan trọng hay ưu tiên chúng ta cần
phải làm. Phải thường xuyên kiểm soạn lại hành trang vì ta
không biết chắc ngày giờ Chúa đến đón ta. Có những điều bạn
khắc khoải, mơ ước được làm thì hãy bắt tay làm ngay đi,
đừng chần chờ nữa và hãy làm với tất cả lòng yêu mến. Chúng
ta phải bắt đầu từ giới răn thương yêu của Chúa thôi, bạn
ơi. Khi ta chú tâm làm mọi việc với tất cả tâm tình yêu
thương, ta cũng sẽ nhận ra được tình Chúa tình người nhiều
lắm ở quanh ta. Nếu bạn nghĩ rằng môi trường bạn sống toàn
là thủ đoạn, toan tính, thù hằn, lường gạt … bạn hãy làm
người chiến sĩ tiền phong của Chúa, bạn thử kiên trì đốt lên
ngọn lửa yêu thương và cầu nguyện, bạn sẽ cảm nghiệm được
tình yêu và sự hiện hữu của Chúa.
Nếu ngày nay
là ngày cuối ở trần thế thì ta có đi lễ không? Có viếng Chúa
không? Chắc là phải có để xin Thiên Chúa, Mẹ Maria và các
Thánh phù trợ cho ta trong bước đăng trình về với các Ngài.
Rồi ta làm gì nữa đây?? Có lẽ ta đi thăm Cha Mẹ già, thăm
con cháu, ta thăm anh chị em, những người bạn thân; ta đi
giải hòa với những người thân – vì ai mà để bụng giận người
dưng kẻ lạ bao giờ!!! Ta sẽ nói với vợ/chồng và con cháu,
với bạn bè những lời yêu thương, ta sẽ cố làm cho xong công
việc đang dở dang ….. Bạn ơi nếu ta sống một ngày với đầy ắp
những yêu thương như vậy và yêu mến Thánh Ý Chúa, chấp nhận
vâng theo ý Ngài không than van, không trả giá thì … thiên
đường là ngay đây rồi. Ngài dắt ta đi hay để ta ở đều là ân
phúc từ Trời ban.
Có người sẽ
nói mỗi ngày bao nhiêu là công việc, giờ đâu mà thăm nom,
giờ đâu mà hòa giải với mấy bản mặt ó đâm, chuyên làm mất
lòng ta hay tệ hơn còn làm ta điêu đứng?? Này bạn, khi tôi
nói tôi không có giờ để đi thăm Mẹ già - hay nói một cách
khác tôi đã không xếp công việc thăm nom Mẹ là một việc ưu
tiên trong chương trình của tôi, vì ngày nào Chúa cũng cho
tôi 24 giờ như nhau, còn sử dụng thì giờ đó ra sao thì Chúa
ban cho tôi tự do để lựa chọn. Khi người ta thật lòng muốn,
muốn một cách mãnh liệt, ta sẽ tìm ra được thì giờ và phương
cách để thực hiện ý muốn của mình.
Ý thức và
chuẩn bị cho cái chết của chính mình không phải là một việc
tiêu cực đâu bạn. Tiêu cực là khi ta không có đức tin và
không tin vào tình yêu của Thiên Chúa kìa. Hãy gẫm lại xem,
Chúa hạ mình xuống làm người và chết cho ta, phải rồi Chúa
Giêsu chết cho chính mỗi người chúng ta. Bạn ơi có tình yêu
nào mạnh mẽ hơn, cao cả hơn tình yêu của bậc cha mẹ chết cho
con cái, chết để cứu mạng cho con mình; có tình yêu nào lớn
hơn việc hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu. Bạn ơi, đó là
tình yêu của Thiên Chúa, của chính Chúa Giêsu cho bạn, cho
tôi!! Khi ta cảm nghiệm được tình yêu mãnh liệt này của
Thiên Chúa, ta sẽ không còn sợ chết nữa. Nhưng làm sao để ta
cảm nghiệm được đây??
Phải cầu
nguyện đối thoại với Chúa thôi!! Bạn ơi, khi ta cầu nguyện
và tìm nghe tiếng Chúa, ta sẽ cảm được sự hiện diện của Chúa
và sẽ thấy được câu trả lời của Ngài cho những điều ta thắc
mắc, băn khoăn. Cầu nguyện nhiều với Chúa ta sẽ thấy gần
gũi, thân mật với Chúa hơn, ta sẽ cảm nghiệm được tình yêu
và nhận ra được ân sủng của Ngài trong cuộc sống của mình.
Có bao giờ bạn để ý là khi ta liên lạc, lui tới thăm nom với
người nào nhiều thì thân tình thêm thắm thiết không?? Có khi
là thân nhân ruột thịt mà ta không cảm thấy gần gũi thân
thiết bằng người bạn hàng xóm chỉ vì ta ít khi liên lạc,
thăm nom nhau. Khi có việc ta thường chạy đến nhờ vả những
người mà ta thân thiết vì dễ thông cảm, dễ nói hơn.
Cũng vậy khi
ta cầu nguyện là ta nói chuyện, kể lể với Chúa; càng nói
chuyện nhiều với Chúa ta sẽ thấy gần hơn, thân hơn và cũng
thành thói quen nữa. Ta có thể tập thói quen tốt này ngay
bây giờ, thay vì để tư tưởng của ta lang thang, nghĩ vẩn vơ
bất định hướng ta có thể bắt đầu tập nói chuyện với Chúa thí
dụ khi ta bị kẹt xe giữa giờ cao điểm thay vì buông một câu
chửi thề, ta có thể nói: Chúa ơi, kẹt xe quá mà Chúa biết
con đang vội vàng, con sắp trễ làm rồi và con rất sợ khuôn
mặt hắc ám của ông xếp khi con đi trễ … Nghĩa là nói, kể với
Chúa mọi điều, mọi việc, thay vì: tí nữa “mình” sẽ làm điều
này thì ta tập nghĩ/nói: Chúa ơi, lát nữa con tính, con làm
….v..v… Bạn làm thử xem, lúc đầu hơi ngượng ngập nhưng chừng
một buổi hay vài ngày bạn sẽ quen dần.
Điều này có
lợi lắm vì khi ta cảm thấy gần gũi thân thiết chuyện trò với
Chúa ta cũng đang củng cố đức tin của mình. Tin cậy và kính
yêu Chúa ta sẽ cảm thấy bình an, phó thác và không còn sợ
hãi điều gì ngay cả sự chết. Chết không còn là lưỡi hái ghê
rợn của tử thần mà là một cái gì êm đềm thoáng chút xao
xuyến vì ta biết khi đến giờ Chúa dắt ta về, ta sẽ được diện
kiến đấng quyền uy bao trùm vũ trụ, hơn thế nữa đó là người
Cha, người anh, người bạn nhân từ mà ta hay nói chuyện ngày
đêm. Chắc chắn Chúa Giêsu phải đón ta trịnh trọng lắm không
phải vì công lao của ta mà vì Ngài yêu ta và ta biết chắc
điều đó vì ta cảm nghiệm được tình yêu vô biên của Ngài.
Bạn ơi, chúng
ta thường sợ chết vì chúng ta cậy sức mình, sức con người
hữu hạn kém cỏi. Chúng ta chạy đông chạy tây tìm mọi cách
nào là thiền, là liên lạc tâm linh, là gọi hồn người chết
bên kia của tử … phải chăng là để ta trấn an sự sợ hãi của
chính mình về cái chết. Chúng ta quên đi cách hay nhất vẫn
là tìm đến suối nguồn tình yêu của Thiên Chúa, nương tựa nơi
Ngài, cậy trông nơi Ngài. Thiết lập được mối dây liên hệ mật
thiết với Thiên Chúa thì dù sống hay chết ta vững tin vào
Ngài và can đảm bước tới.
Như vậy nếu
hôm nay là ngày giờ chết của bạn, của tôi; ngày Chúa dắt bạn
và tôi về - bạn ơi, chúng ta có quà gì mang về cho Chúa
chưa? Hãy chuẩn bị cho Chúa một món quà đặc biệt nhất, món
quà mà Ngài đã hạ mình làm “người” để tìm kiếm và căn dặn
các môn đệ đi tìm mang về cho Ngài. Đó là là tình yêu của
chúng ta. Ngài yêu ta và khao khát được ta yêu Ngài.
Nếu ta tin
vào tình yêu mãnh liệt này của Thiên Chúa thì ngay giờ này
nếu ta phải đi về với Ngài, ta cũng có món quà mà Ngài trông
đợi - nếu như ta muốn trao cho Ngài.
Đó là tình
yêu của chính ta - chắc chắn là ta có thể cho Ngài tình yêu,
ta có thể yêu mến Chúa với trọn cả xác hồn và rước Chúa làm
trung tâm điểm cho cuộc sống của ta.
Với món quà
tình yêu, ta có thể xin Chúa bất cứ điều gì. Vậy nếu tôi
chân thành yêu mến Chúa, yêu mến người bạn Camie Dương của
mình và liên lỉ cậy trông, thầm thì cầu xin Chúa cho linh
hồn Camie Hồng Dương được an vui bên Chúa, bạn nghĩ Chúa
Tình Yêu nở từ chối sao??? Bạn ơi, Tình Yêu mạnh hơn sự
chết!!!
Vân Diễm
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|