Sắc lệnh về Đào tạo Linh mục (tiếp theo và hết) |
VI. CỔ VÕ VIỆC HUẤN LUYỆN MỤC VU
Mối quan tâm
về mục vụ phải chi phối tất cả việc đào tạo chủng sinh, nên
cũng đòi hỏi các chủng sinh phải được cẩn thận giáo huấn về
những gì đặc biệt liên quan đến chức vụ Thánh, nhất là việc
dạy giáo lý và giảng thuyết, việc phụng tự và ban phát các
bí tích, về các công cuộc bác ái, nghĩa vụ tìm đến với các
chiên lạc và những người vô tín ngưỡng, cùng những công tác
mục vụ khác. Phải chăm lo dạy họ nghệ thuật dìu dắt các linh
hồn, nhờ vậy họ có thể đào tạo mọi con cái của Giáo Hội,
trước hết biết hoàn toàn ý thức sống đời Kitô hữu và có tinh
thần tông đồ, thứ đến biết chu toàn bổn phận của bậc sống
mình; Chủng sinh cũng phải lưu tâm học cho biết cách giúp đỡ
các tu sĩ nam nữ bền đỗ trong ơn gọi riêng và tiến đức theo
tinh thấn của Hội Dòng.
Cách chung,
phải làm phát triển nơi các Chủng sinh những khả năng thích
hợp rất cần thiết để đối thoại được với mọi người, thí dụ:
biềt lắng nghe người khác, biết lưu tâm đến những hoàn cảnh
khác nhau của thân phận con người trong tinh thần bác ái.
Cũng phải
dạy họ biết sử dụng những phương thế mà các khoa sư phạm,
tâm lý cũng như xã hội có thể cung cấp cho, theo những
phương pháp đúng đắn và các tiêu chuẩn do Giáo Quyền ấn
định. Phải lo giáo huấn họ biết khích lệ và nâng đỡ hoạt
động tông đồ giáo dân cũng như biết khởi xướng nhiều hình
thức hoạt động tông đồ khác nhau cho hữu hiệu hon, họ phải
được thấm nhuần tinh thấn Công Giáo đích thực, để biết quen
vượt khỏi những ranh giới địa phận, quốc gia hoặc lễ chế
riêng hầu hỗ trợ các nhu cầu của toàn thể Giáo Hội và sẵn
sàng đi rao giảng Phúc ảm ở bất cứ nơi nào.
Vì
các chủng sinh phải học nghệ thuật hoạt động tông đồ không
những trên lý thuyết nhưng trên thực hành nữa, và còn phải
có khả năng thi hành công tác với tinh thần trách nhiệm cá
nhân hay tập đoàn, nên trong kỳ học cũng như kỳ nghỉ, phải
cho họ tập sự mục vụ bằng những công tác thực tập thích
đáng. Phải tùy theo tuổi của Chủng sinh, tùy theo hoàn cành
địa phương và sự xét đoán khôn ngoan của các Giám Mục mà
thực hiện các hoạt động ấy cho có phương pháp với sự hướng
dẫn của những vị giàu kinh nghiệm mục vụ, đồng thời cũng
đừng quên sức hiệu nghiệm của những phương thế hỗ trợ siêu
nhiên.
VII.
BÔ TÚC VIỆC HUẤN LUYỆN SAU KHI MÃN TRƯỜNG
Nhất là vì
hoàn cánh xã hội tân tiên, mà việc huấn luyện Linh mục phải
được tiếp tục và kiện toàn, cả sau khi kêt thúc chu trình
học vấn trong chủng viện, nên, các Hội Đồng Giám Mục phải
liệu tìm trong mỗi quốc gia những phương thế thích hợp, thí
dụ như thiết lập những Học Viện Mục Vụ hợp tác với những họ
đạo đã tùy nghi chọn lựa, tổ chức những cuộc hội thảo định
kỳ, những khóa thực tập chuyên biệt, nhờ đó lớp Giáo Sĩ còn
non trẻ về phương diện tu đức, trí thức và mục vụ được dần
dần đưa dẫn vào đời sông Linh mục và hoạt động tông đồ, và
họ có thể càng ngày càng cải tiến và phát triển các hoạt
động ấy hơn nữa.
KẼT LUẬN
Tiêp tục
công trình đo Công Đồng Trentô khời xướng, và trong khi tin
tưỏng trao phó cho các vị Giám Đốc và Giáo sư Chủng Viện
nhiệm vụ đào tạo các Linh Mục tương lai của Chúa Kitô trong
tinh thần canh tân do Thánh Công Đồng này khởi xướng, toàn
thể Nghị Phụ của Thánh Công Đồng này thiết tha khuyên dụ
những người đang dọn mình nhận lãnh chức Linh Mục hãy cảm
thức niềm kỳ vọng của Giáo Hội và phần rỗi các linh hồn đã
được trao phó cho họ, các Nghị Phụ cũng khuyến dụ; để một
khi hân hoan đón nhận những tiêu chuẩn ghi trong Sắc Lệnh
này, họ sẽ thâu lượm được nhiều kết quả mỹ mãn và trường
tồn.
Tất cả và từng điều đã được ban bố
trong Sắc Lệnh này đều đuợc các Nghị Phụ Thánh Công Đồng
chấp thuận. Và, dùng quyền Tông Đồ Chúa Kitô trao ban, hiệp
cùng các Nghị Phụ khá kính, trong Chúa Thánh Thần, chúng tôi
phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì đã được Thánh
Công Đồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa
cả sáng.
Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 28
tháng 10 năm 1965.
Tôi, PHAỌLÔ
Giám Mục Giáo Hội Công Giáo
Tiềp theo là
chữ ký của các Nghị Phụ . |
VỀ MỤC LỤC |
|
Người tu sĩ SỐNG ĐỨC TRONG SẠCH VÀ KHIẾT TỊNH |
Có một cậu bé được vị ẩn sĩ đưa lên núi từ thưở nhỏ.
Ngày ngày tu hành học đạo, xa tránh cuộc sống trần gian. Cho
đến ngày kia, cậu bé trở thành một thanh niên khỏe mạnh và
cường tráng. Vị ẩn sĩ mới quyết định đem cậu ta xuống núi
để thử thách.
Cuộc sống phàm tục có nhiều điều mới lạ khiến cậu ta
hết sức ngạc nhiên và thích thú. Gặp bất cứ điều gì, cậu ta
cũng ngắm nghía và hỏi han thầy mình.
Trên đường về, gặp mấy cô gái đang cấy lúa cất tiếng
cười trong trẻo, cậu ta liền hỏi :
- Thưa thầy, cái gì thế ?
Vị ẩn sĩ ngước nhìn và thấy mấy chiếc nón các cô đang
đội, liền ôn tồn trả lời :
- Ồ, đó chỉ là mấy chiếc nón mà thôi con ạ.
Về đến núi, tự nhiên cậu ta đâm ra ngẩn ngơ như người
mất hồn. Thấy vậy, vị ẩn sĩ mới hỏi :
- Con đau bệnh hay sao ?
Cậu ta buồn bã trả lời :
- Chẳng biết tại sao con nhớ mấy chiếc nón ấy quá,
con thương mấy chiếc nón ấy lắm.
Câu chuyện dí dỏm ấy muốn nói lên một sự thật, đó là
nam và nữ, trai và gái thường lôi cuốn và hấp dẫn lẫn nhau.
Sự kiện này là điều hết sức tự nhiên và bình thường, như ca
dao vốn diễn tả :
- Mình về, mình nhớ ta chăng ?
Ta về, ta nhớ hàm răng mình cười.
Từ sự lôi cuốn và hấp dẫn ấy mới nảy sinh ra tình
yêu, để rồi kết thúc bằng cuộc sống hôn nhân, trong đó hai
vợ chồng được Thiên Chúa mời gọi tham dự vào tình yêu quyền
năng sáng tạo của Ngài.
Thế nhưng ngày nay, người ta đã lạm dụng khả năng
tính dục mà Thiên Chúa đã trao ban. Khắp nơi trên thế giới,
con số những người ly dị cũng như phá thai mỗi ngày một gia
tăng, đẩy gia đình vào một cơn khủng hoảng trầm trọng. Người
ta cổ võ cho những cuộc tình cùng phái tính, những kiểu sống
bệnh hoạn…Phải chăng những giá trị luân lý và đạo đức đang
dần dần bị mai một ?
Đi tới đâu, chúng ta cũng thấy nhan nhản những sách
báo, phim ảnh và quảng cáo mang tính cách đồi trụy và khiêu
dâm. Thân xác người phụ nữ trở nên như một món hàng được mời
chào để đổi chác và mua bán. Phải chăng xã hội đang bùng nổ
về tính dục ? Phải chăng bầu khí chúng ta thở hút đã bị ô
nhiễm nặng nề ? Phải chăng nói tới đức trong sạch và khiết
tịnh là một cái gì lỗi thời và…xưa rồi Diễm ơi!
Ngay cả trong giới các linh mục và tu sĩ, những ý
niệm về hai nhân đức trên cũng đã bị sói mòn và mất dần ý
nghĩa nguyên thủy của chúng. Ở bên Mỹ, vụ lạm dụng tình dục
của các linh mục và tu sĩ đã là một “gương mù gương xấu”,
làm cho Giáo hội phải xất bất xang bang. Còn ở Việt Nam, một
vị Giám mục phụ trách về chủng viện, Đức Cha Nguyễn Bình
Tĩnh, cũng đã phải than phiền :
“Vì cởi mở với đời, Linh mục ngày nay rất dễ tiếp xúc
với nữ giới. Xu hướng sống tiện nghi thoải mái cũng dễ kéo
theo xu hướng tìm vui chơi khoái lạc, nhất là khi các ngài
còn có quan niệm phóng khoáng về đòi hỏi của đời độc thân.
Vì thế, cũng có những Linh mục ngày nay cùng đoàn nữ
giới đi tắm biển, đi trại hè…không còn là điều chướng tai
gai mắt nữa.
Có vị còn coi bồ bịch với nữ giới là hợp tình hợp
lý. Những phim ảnh lõa lồ, những sách báo khiêu dâm không
còn là cấm địa đối với một số vị.
Giáo dân và chính cả Linh mục không còn dị ứng nữa
khi thấy một Linh mục có con mà vãn ngang nhiên làm mục vụ.”
Thế nhưng, người môn đệ của Đức Kitô, dấn thân vào
nếp sống tu trì, không được trôi theo dòng chảy, trái lại
phải đi ngược với những trào lưu trên bằng cách thực thi
đức trong sạch và khiết tịnh.
Như vậy, sống trong sạch và khiết tịnh phải chăng là
sự ngược đời thứ hai mà người tu sĩ cần phải tuân giữ trong
cuộc sống của mình ? Vậy trong sạch và khiết tịnh là gì ?
TRONG SẠCH VÀ KHIẾT TỊNH
THEO CÁI NHÌN CỦA CHÚA
Hai chữ “trong sạch” ở đây không được hiểu theo nghĩa
hẹp, nói tới việc giữ phép vệ sinh nơi thân xác, chẳng hạn
mỗi buổi sáng khi thức dậy phải lấy nước đánh răng và rửa
mặt, mỗi ngày phải tắm rửa và kỳ cọ cho sạch sẽ, râu tóc
phải cho tươm tất và áo quần phải cho gọn ghẽ :
- Đói cho sạch, rách cho thơm…
Cũng không được hiểu theo nghĩa rộng, nói tới tình
trạng tâm hồn không vướng mắc tội lỗi.
Trái lại, phải được hiểu theo một nghĩa đặc biệt. Với
nghĩa đặc biệt này thì trong sạch là nhân đức giúp chúng ta
xa tránh những vui thú thể xác bất chính, không được phép.
Cao điểm của đức trong sạch chính là đức khiết tịnh, hoàn
toàn xa tránh những vui thú xác thịt, kể cả những vui thú
chính đáng và được phép, bằng việc tự nguyện khước từ hôn
nhân.
Tự bản chất, nhân đức trong sạch cho chúng ta thấy rõ
sự trổi vượt và chiến thắng của tinh thần trên vật chất, của
linh hồn trên thân xác. Chính vì thế, chúng ta thường gọi
hai nhân đức này là nhân đức thiên thần, vì nó làm cho chúng
ta trở nên giống như các thiên thần ở trên trời.
Qua bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng đã xác quyết
:
“Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được
nhìn thấy Thiên Chúa.” (Mt 5,8).
Kinh nghiệm thường ngày cho hay : phần đông con người
thời nay mất đức tin, không phải vì thiếu hiểu biết về Thiên
Chúa, nhưng vì đã sống sa đọa, thiếu trong sạch. Điều đó đã
trở nên một sự thật tại các nước Âu Mỹ : với những tiện nghi
vật chất, với những hưởng thụ dễ dãi, người ta dần dần xa
lìa và chôn vùi niềm tin của mình.
Chính vì thế, Đức Kitô đã đánh giá cao hai nhân đức
này, bởi vì chính Ngài đã được sinh ra bởi một người mẹ đồng
trinh và cha nuôi của Ngài là một người hoàn toàn trong
sạch. Hơn thế nữa, chính bản thân Ngài cũng đã luôn sống đức
khiết tịnh tuyệt đối nhất. Nhân đức này chiếu tỏa rạng ngời
trong cuộc sống của Ngài, đến nỗi những kẻ thù địch không
bao giờ dám lăng nhục Ngài về vấn đề này. Thực vậy, Ngài có
rất nhiều kẻ thù địch, họ căm ghét Ngài và vu cáo cho Ngài
những tội tày trời, nhưng không bao giờ họ dám tấn công Ngài
trong lãnh vực này.
Suốt dọc cuộc đời, Ngài luôn qui hướng về Cha trên
trời, cũng như dồn mọi cố gắng cho việc cứu rỗi nhân loại.
Tình yêu đối với Chúa Cha và tình yêu đối với nhân loại đã
thúc bách Ngài nhập thể. Trọn thời gian nơi dương thế, trái
tim Ngài chỉ đập vì tình yêu đó. Và chúng ta có thể nói được
rằng : tình yêu đó chính là hơi thở của Ngài, tình yêu đó đã
hướng dẫn từng bước Ngài đi, từng lời Ngài nói và từng việc
Ngài làm. Chính tình yêu đó đã dẫn Ngài tới đỉnh Canvê, hy
sinh mạng sống mình qua cái chết trên thập giá để mưu cầu
lợi ích cho toàn thể nhân loại.
Vì thế đối với người môn đệ, tấm gương của Ngài về
đức khiết tịnh phải là một lời mời gọi tuy âm thầm nhưng lại
vô cùng mãnh liệt, để bắt chước Ngài thực thi nhân đức này
trong nếp sống tu trì.
LỜI MỜI GỌI TỰ NGUYỆN SỐNG
KHIẾT TỊNH
Khi bọn Biệt phái hỏi về vấn đề ly dị, Chúa Giêsu đã
xác nhận hôn nhân là một giao ước bất khả phân ly, do Thiên
Chúa ấn định ngay từ lúc ban đầu :
"Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có
nam có nữ", và Người đã phán: "Vì thế, người ta sẽ lìa cha
mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một
thịt." Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương
một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người
không được phân ly." (Mt 19,4-6).
Lời xác quyết của Chúa là cho các tông đồ chưng hửng,
bởi vì các ông đã quen với thói tục rẫy vợ bỏ chồng. Các ông
liền thưa lên cùng Chúa :
"Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà
đừng lấy vợ còn hơn." (Mt 19,10).
Nhân cơ hội này, Ngài đã dạy cho các ông một bài học
cao cả, nói với các ông một lời chân thành và ngỏ cùng các
ông một mời gọi tha thiết. Thực vậy, trong xã hội, chúng ta
thấy có những kẻ từ chối hôn nhân vì một lý do tự nhiên
chẳng hạn như họ đang đầu tư cuộc đời vào một lý tưởng phải
theo đuổi hay vào một công trình khoa học phải nghiên cứu…Có
những kẻ từ chối hôn nhân vì bị cưỡng bức, bởi họ không thể
kết hôn được cũng như không hội đủ những điều kiện cần thiết
như sức khỏe…để tạo dựng một mái gia đình hạnh phúc. Có
những kẻ từ chối hôn nhân vì muốn lẩn tránh những hy sinh,
những trách nhiệm mà những người sống trong bậc vợ chồng
phải gánh chịu…Trong khi đó, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ
tình nguyện từ bỏ vĩnh viễn việc kết hôn, với một lý do duy
nhất, đó là vì Chúa và vì Nước Trời.
Đúng thế, các môn đệ của Chúa không phải chỉ cho
hạnh phúc của bản thân mình, cho phần rỗi của cá nhân mình,
cho sự hoàn thiện của phần riêng mình, trái lại họ còn phải
yêu thương tha nhân, tìm kiếm lợi ích cho tha nhân cũng như
đặc biệt lo đến hạnh phúc đời đời của tha nhân.
Họ có thể thực hiện mục đích ấy một cách nhiều hơn và
tốt hơn, nếu họ biết thoát ly mọi liên hệ gia đình, hầu dấn
thân trọn vẹn cho tha nhân. Nói khác đi : người có tâm hồn
trong sạch và thực thi đức khiết tịnh sẽ được hoàn toàn tự
do và bình an, nhất là được thành tâm kính mến Chúa. Họ có
thể dành tất cả nghị lực cũng như thời gian để phụng sự Chúa
và giúp đỡ tha nhân. Trong khi đó, những người sống đời hôn
nhân, phải dành phần lớn nghị lực và thời gian cho vợ con và
gia đình của mình.
Vì thế, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ từ bỏ hoàn toàn
và dứt khoát việc kết hôn để có thể hoạt động hữu hiệu hơn,
hăng say hơn, nhiệt thành hơn cho lợi ích của Nước Trời.
Tuy nhiên để có được một tâm hồn trong sạch và sống
trọn vẹn đức khiết tịnh, chúng ta cần phải có hai điều kiện
:
Điều kiện thứ nhất, đó là sự
trợ giúp của ơn Chúa.
Thực vậy, muốn từ khước hôn nhân để được nên hoàn
thiện thiêng liêng, cũng như để hy sinh trọn vẹn cho hoạt
động của Nước Thiên Chúa, chứ không tìm lợi lộc trần gian,
thì không thể dùng những lý luận của loài người hay những
nghị lực nghèo nàn của bản thân, trái lại rất cần phải có ơn
Chúa trợ giúp đặc biệt, bởi vì thân phận của người vốn yếu
đuối và giòn mỏng. Nói cách khác, rất cần phải có ơn Chúa
gọi.
Công đồng Vaticanô đã xác quyết như sau :
“Đức khiết tịnh vì Nước Trời (Mt 19,12), mà các tu
sĩ khấn giữ, phải được quí trọng như một ân huệ cao cả của
ơn thánh”. (DT 12).
Chúa Giêsu cũng cho chúng ta thấy rõ điều ấy qua câu
trả lời sau đây :
"Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ
những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu.
Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt
lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không thể
kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không
kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu." (Mt 19,10-12).
Điều kiện thứ hai, đó là
thiện chí và lòng quảng đại.
Chúa Giêsu đã kêu gọi thiện chí và lòng quảng đại của
chúng ta khi Ngài nói :
- Ai hiểu được thì hiểu.(Mt 19,12).
Chỉ có những người nhận được ánh sáng ân sủng mới có
thể thấu hiểu những lợi ích thiêng liêng của đức khiết tịnh,
thế nhưng lại có hàng ngàn lý do ngăn cản không cho họ chọn
bậc sống ấy. Vì thế, chúng ta cần phải có thiện chí và lòng
quảng đại để can đảm bước đi theo sự soi dẫn của ân sủng,
cũng như đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy khi chọn đời sống khiết tịnh,
chúng ta có thể được thúc đẩy bởi những lý do mang tính cách
nhân loại để khước từ hôn nhân, nhưng nếu chúng ta thật lòng
bước theo Chúa, thì lý do khiến chúng ta quyết định phải là
những lý do siêu nhiên, đó là để được trở nên hoàn thiện và
hiến trọn cuộc đời cho Nước Chúa, như lời Chúa đã nói :
- Lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước
Trời. (Mt 19,12).
ĐỨC KHIẾT TỊNH CỦA NGƯỜI TU
SĨ
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta đi vào lời khấn
khiết tịnh của người tu sĩ và chúng ta có thể định nghĩa :
Khấn khiết tịnh có nghĩa là thánh hiến cho Thiên Chúa khả
năng yêu thương của riêng mình, bằng cách tự nguyện khước từ
hôn nhân để đạt tới sự thánh hóa bản thân và mưu cầu lợi ích
cho tha nhân một cách dễ dàng và hữu hiệu hơn.
Khi kết hôn, người ta ký kết một giao ước bất khả
phân ly với kẻ họ yêu. Qua giao ước ấy, người ta dành cho
nhau tất cả khả năng yêu thương của mình, người ta trao cho
nhau thân xác và tâm hồn mình. Người này có quyền trên thân
xác và tâm hồn của người kia. Còn người tu sĩ, khi tuyên
hứa lời khấn khiết tịnh, chúng ta ký kết một giao ước vĩnh
viễn với Thiên Chúa, dâng hiến cho Ngài tất cả khả năng yêu
thương của chúng ta, nghĩa là tất cả những gì có thể sử dụng
để yêu thương một thụ tạo bằng cả trái tim, theo bản năng
của con người.
Và như vậy, kể từ lúc tuyên khấn, kể từ lúc dâng hiến
cho Thiên Chúa khả năng ấy, thì tất cả những gì trong tâm
hồn và thân xác chúng ta, khả dĩ có thể được sử dụng để yêu
thương, đều thuộc về Thiên Chúa và chúng ta có bổn phận phải
tôn trọng.
Trước hết, chúng ta phải bảo vệ và phát huy khả năng
yêu thương của mình, bởi vì không gì có thể hủy diệt được
khả năng ấy. Nếu chúng ta tìm cách bóp nghẹt khả năng ấy, là
chúng ta đã lỗi phạm. Càng có khả năng yêu thương và càng
yêu thương thật sự, thì càng chứng tỏ mình là con người đích
thực.
Dĩ nhiên, một khi khả năng yêu thương đã được thánh
hiến cho Thiên Chúa, thì khả năng ấy phải thuộc về Ngài và
chỉ được sử dụng để phụng sự và làm vinh danh Ngài mà thôi.
Thế nhưng, chúng ta phụng sự và làm vinh danh Ngài như thế
nào ?
Tôi xin thưa : chúng ta phụng sự và làm vinh danh
Ngài khi sử dụng khả năng yêu thương để thánh hóa bản thân
và mưu cầu lợi ích cho người khác. Công đồng Vaticanô II
cũng đã xác nhận như sau :
“Đức khiết tịnh giải thoát lòng con người cách đặc
biệt (x 1Cor 7,32-35) để ngày càng kính mến Chúa và yêu
thương mọi người cách nồng nàn hơn.” (DT 12)
Có một liên hệ mật thiết giữa khả năng yêu thương và
sự thánh hóa bản thân : càng trở nên trọn lành thì càng kính
mến Thiên Chúa nhiều hơn. Ai tiến tới mức độ kính mến Thiên
Chúa cao nhất thì cũng đạt được mức độ trọn lành cao nhất.
Như vậy, việc dâng hiến khả năng yêu thương cho Thiên
Chúa để không gắn bó và quyến luyến với riêng một thụ tạo,
chắc chắn sẽ hỗ trợ cho lòng kính mến Thiên Chúa và cho việc
tiến bước trên con đường trọn lành.
Và như chúng ta đã thấy : không thể tách biệt lòng
kính mến Thiên Chúa ra khỏi tình yêu thương anh em, vì đây
chỉ là một tình yêu duy nhất, một nhân đức duy nhất : Đức
mến có đối tượng là Thiên Chúa, nhưng cũng phải trở lại trên
tha nhân, như thánh Gioan đã khẳng định :
“Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét
anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương
người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên
Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã
nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu
thương anh em mình.” (1Ga 4,20-21).
Vì thế, chúng ta không thể kính mến Thiên Chúa mà lại
không yêu thương anh em, không ước muốn cho họ được những sự
tốt lành và không cố gắng mưu cầu lợi ích thiêng liêng cũng
như vật chất cho họ. Chúng ta không thể nào tăng trưởng
trong tình mến đối với Thiên Chúa, mà lại không tăng trưởng
trong tình yêu đối với tha thân.
Người tu sĩ tuyên hứa lời khấn khiết tịnh để có thể
kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân một cách dễ dàng
và hữu hiệu hơn, đồng thời tránh đi những chướng ngại vật
cản ngăn không cho tình yêu này được phát triển, lớn mạnh và
đạt tới mức độ hoàn thiện.
Một khi đã tiến triển trong tình yêu đối với Thiên
Chúa và tha nhân, chúng ta cũng tiến triển trên con đường
trọn lành. Đó là những mục đích chúng ta theo đuổi và đó
cũng là những hậu quả nhân đức khiết tịnh đem lại nếu chúng
ta thực thi nhân đức này trong cuộc sống.
Chúa Giêsu đã chỉ rõ cho các môn đệ điều ấy khi Ngài
khuyên các ông sống khiết tịnh vì Nước trời.
Thánh Phaolô cũng đã nêu lên những mục đích của đức
khiết tịnh khi nói chúng ta phải thánh hóa cả thân xác lẫn
tâm hồn để chỉ lo việc của Chúa. Lời khuyên của vị thánh
tông đồ dân ngoại được ghi lại như sau :
“Về vấn đề độc thân, tôi không có chỉ thị nào của
Chúa, nhưng tôi chỉ khuyên nhủ anh em với tư cách là người
-nhờ Chúa thương- đáng được anh em tín nhiệm. Vậy tôi nghĩ
rằng: vì những nỗi thống khổ hiện tại, ở vậy là điều tốt.
Phải, tôi nghĩ rằng đối với người ta, như thế là tốt. Bạn đã
kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng tìm cách gỡ ra. Bạn
chưa kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng lo kiếm vợ. Nhưng
nếu bạn cưới vợ, thì cũng chẳng có tội gì. Và nếu người con
gái lấy chồng, thì cũng chẳng có tội gì. Tuy nhiên, những
người ấy sẽ tự chuốc lấy những nỗi gian truân khốn khổ. Mà
tôi, tôi muốn cho anh em thoát khỏi điều đó. Thưa anh em,
tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao
lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; ai
khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng
mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả, kẻ hưởng
dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế
gian này đang biến đi. Tôi muốn anh chị em không phải bận
tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc
Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo
lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị
chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ
thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn
xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách
làm đẹp lòng chồng. Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho
anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ
muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được
gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co.” (1Cr 7,25-30).
KẾT LUẬN
Để kết luận, tôi xin kể lại một mẩu chuyện nho nhỏ :
Có hai vị sư, một già và một trẻ, sau một ngày khất
thực xin ăn, đang cất bước trở về chùa. Trên con đường trở
về này có một đoạn lầy lội. Hai vị sư nhìn thấy một cô gái
vừa trẻ lại vừa đẹp đang loay hoay bấm từng bước một giữa
đám bùn đen. Áo quần lòa xòa. Giày dép lỉnh kỉnh. Đường sá
trơn trượt. Cô gái té lên ngã xuống nhiều lần.
Trước tình cảnh ấy, vị sư trẻ đã nhanh chân chạy tới
và bế cô gái qua khỏi đoạn đường khó khăn ấy. Sau đó, hai vị
sư tiếp tục bước đi trong thinh lặng.
Về tới chùa, vị sự già mới nói với vị sư trẻ rằng :
- Chúng ta là những người tu hành, không được phép bế
cô gái như thế để băng qua quãng sình lầy.
Thế nhưng, vị sư trẻ đã trả lời :
- Thưa thầy, con đã để cô gái ấy lại trên đường sau
quãng sình lầy. Còn thầy, sao thầy lại mang cô gái ấy về tận
đây, nơi cửa chùa này.
Câu chuyện trên làm tôi nhớ tới lời Chúa đã phán :
- Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được
nhìn thấy Thiên Chúa.” (Mt 5,8).
Lời chúc phúc của Chúa, phải chăng cũng chính là sự
ngược đời mà người tu sĩ cần phải thực thi và sống trong
suốt cả cuộc đời của mình.
GSVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
GƯƠNG MẶT CHÚA GIÊSU TRONG TÔNG HUẤN ECCLESLA IN ASIA |
Món Quà đức tin
Đức Giêsu Kitô. Đấng Cứu Độ Thần
Nhân
Con người và sứ mạng Con Thiên Chúa
Đức Giêsu Ki tô: Sự Thật về con
người
Ơn Cứu Độ Duy Nhất và Phổ Quát nơi
Đức Giêsu
Một vài nhận xét về cách giới thiệu
Chúa Giêsu Kitô trong Ecclesia in Asia
Kitô học và Thánh Linh học là nội dung rất quan trọng cần
phải bàn đến, khi muốn trình bày về Tông Huấn Ecclesia in
Asia. Đó là phần Thần Học được trao đổi và tranh luận nhiều
trong các nhóm nghị phụ Thượng Hội Đồng.
Các vấn đề được trao đổi và được sắp xếp thành 4 phần: Phần
1 là Kitô học và Thánh Linh Học; Phần 2 là Sứ vụ Loan Báo
Tin Mừng của Giáo Hội; Phần 3 là Sứ mạng Yêu Thương và Phục
Vụ của Giáo Hội; Phần 4 là các vấn đề liên quan khác.
Bố cục của Tông Huấn Ecclesia in Asia gồm 7 chương, trong đó
chương 2 là chương Kitô học và chương 3 là chương Thánh Linh
học. Hai chương ấy đi liền nhau, gắn bó với nhau mật thiết
và bổ sung cho nhau. Chúng ta không được tách rời hai chương
ấy, vì Thượng Hội Đồng, với tất cả các nghị phụ, đã nỗ lực
tối đa để giữ cho Thánh Linh học gắn liền với Kitô học. Nỗ
lực này cần thiết, vì nhờ đó chúng ta vừa nhận ra giá trị
cứu độ của các tôn giáo ngoài Kitô giáo, vừa giữ vững đức
tin tông truyền tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ Duy
Nhất.
Đạo của chúng ta là Đạo của Chúa Giêsu, nên không thể tránh
né đề cập đến Người. Loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu là nhiệm
vụ của mọi Kitô hữu. Tin Mừng Chúa Giêsu được hiểu theo hai
nghĩa: Chúa Giêsu là Chủ Thể của Tin Mừng, Người loan báo
Tin Mừng về Nước Trời, Tin Mừng về tình Yêu Tạo Dựng và Cứu
Độ của Thiên Chúa; Chúa Giêsu là Đối Tượng của Tin Mừng,
Người là nội dung của Tin Mừng, Người là Đấng Chúa Cha sai
đến trần gian để cứu độ trần gian, Người đã chết để chuộc
tội loài người và đã sống lại cho loài người được thông phần
sự sống của Thiên Chúa.
Món Quà đức tin:
Đóng góp lớn nhất và duy nhất của Giáo Hội Công Giáo với các
Dân Tộc Á Châu là loan báo Đức Giêsu Kitô, Đấng là Thiên
Chúa thật và thực sự là con người, Đấng Cứu Độ Duy Nhất của
mọi dân tộc. Điều phân biệt Giáo Hội với những cộng đoàn tôn
giáo khác là niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Đó là Ánh Sáng
Giáo Hội không thể giữ riêng cho mình, mà phải chia sẻ cho
mọi người. Giáo Hội muốn hiến cho các dân tộc Sự Sống Mới
trong Chúa Giêsu Kitô, vì biết mọi người đều đi tìm Sự Sống
viên mãn. Niềm tin vào Chúa Giêsu Kilô là động lực cho việc
loan báo Tin Mừng tại Á Châu của Giáo Hội. Niềm tin ấy, Giáo
Hội thừa hưởng từ các Tông Đồ, là Hồng Ân đã nhận lãnh và
cần được chia sẻ. ( x.EA số 10 ).
Đức Giêsu Kitô. Đấng Cứu Độ Thần
Nhân:
Đức Giêsu Kitô mà Giáo Hội tin và loan báo là một con người
cụ thể, một con người lịch sử đã sinh ra tại mãnh đất thuộc
miền tây Á Châu, mà ngày nay đang là mãnh đất tranh chấp
giữa Israel và Palestine. Người đã sinh ra yếu đuối như
những trẻ thơ khác, đã trải qua thân phận người di dân, trốn
chạy sự tàn ác của vua Hêrôđê. Người có cha mẹ trần gian,
nhưng luôn sống trong tương quan thân mật với Thiên Chúa, mà
Người gọi là Abba.
Đức Giêsu gần gũi với những người nghèo khổ, những người bị
lãng quên, những người thấp cổ bé họng. Người dùng bữa với
những người tội lỗi và bảo đảm với họ bàn tiệc của Cha trên
trời có chỗ cho họ, nếu họ trở về với Ngài. Một nhóm môn đồ
theo sau Người, phần lớn là những người ít thông hiểu lề
luật, và có cả phụ nữ. Nhóm người ấy trở thành một gia đình
mới sống trong tình yêu lạ lùng của Chúa Cha.
Đức Giêsu giảng dạy cách đơn sơ, dùng những hình ảnh và ví
dụ trong đời sống hằng ngày để nói về Tình Yêu của Thiên
Chúa và Nước Trời. Dân chúng nhận ra rằng Người nói với uy
quyền. Là một con người có bản chất hiền lành dịu dàng,
nhưng không tránh né sự thật, Đức Giêsu sẵn sàng trả giá cho
sứ mạng của mình. Người đã bị vu cáo là phạm thượng và phỉ
báng lề luật, luôn bị coi là một người nguy hiểm cho xã hội,
cần phải loại trừ. Người đã bị xử tử như một phạm nhân, bị
đóng đinh thập giá, chết đau thương và chôn cất vội vã,
nhưng ngày thứ ba Người đã sống lại.
Đức Giêsu là con người bình thường, đơn sơ, nhưng rất lạ
lùng và huyền nhiệm. Người đã thi hành thánh ý Chúa Cha là
hòa giải nhân loại với Cha. Người là Đấng Cứu Độ theo nghĩa
tròn đầy nhất, vì các lời nói và việc làm, mà nhất là sự
Phục Sinh của Người đã mạc khải Người là Con Thiên Chúa.
Con người và sứ mạng Con Thiên
Chúa:
Chân tính và sứ mạng của Đức Giêsu chỉ có thể hiểu được cách
đầy đủ, khi được đặt trong mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hành vi cứu độ của Người bắt nguồn từ sự Hiệp Thông Ba Ngôi,
từ Tình Yêu và Sự Sống của Ba Ngôi. Nơi con người Đức Giêsu
có trọn vẹn thần tính của Thiên Chúa ( Cl 2, 9 ); Người mở
đường cho chúng ta đi sâu vào mầu nhiệm Hiệp Thông Ba Ngôi.
Là Lời Nói Tối Hậu của Thiên Chúa, Người mạc khải Thiên Chúa
và Ý Muốn Cứu Độ của Thiên Chúa cách đầy đủ nhất.
Sứ mạng của Đấng Cứu Thế đat tới Tột Đỉnh trong mầu nhiệm
Vượt Qua. Nhờ Hy Tế Thập Giá của Người, Chúa Cha đã ban cho
thế giới ơn Tha Tội và Sự Sống Viên Mãn. Hồng Ân ấy chỉ có
thể đến với chúng ta qua Người Con Yêu Dấu, Đấng Duy Nhất có
thể đáp trả tình Yêu của Cha cách trọn vẹn.
Trong Đức Giêsu Kitô, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần,
chúng ta được biết Thiên Chúa không ở xa, tách biệt với con
người, nhưng ớ gần, thậm chí còn kết hợp với mỗi một con
người và với toàn thể nhân loại trong tất cả mọi tình huống.
Đó là sứ điệp mà Kitô giáo hiến cho thế giới, là nguồn an ủi
và niềm hy vọng cho mọi tín hữu.
Đức Giêsu Ki tô: Sự Thật về con
người:
Nhờ Đức Giêsu, con người biết được sự thật về chính mình.
Nơi Đức Giêsu, chúng ta nhận ra sự cao cả và địa vị của mỗi
con người trong Lòng, trong trái tim của Thiên Chúa. Vì mầu
nhiệm Nhập Thể, Người đã kết hợp một cách nào đó với từng cá
nhân con người. Nơi Đức Giêsu, chúng ta khám phá khả năng vô
tận của trái tim con người, đối với Thiên Chúa và đối với
con người.
Đức Giêsu không những tái tạo sự hiệp thông giữa Thiên Chúa
và nhân loại, mà còn làm nên một sự hiệp thông mới mẽ giữa
những con người đã bị xa cách nhau vì tội lỗi. Nơi Người,
chúng ta có một trật tự mới, một hòa điệu mới. Người là Bình
An của chúng ta. Trong tất cả những gì Người đã nói và đã
làm, Người giống như tiếng nói, giống như bàn tay và cánh
tay quy tụ tất cả con cái của Thiên Chúa thành một gia đình
yêu thương.
Đức Giêsu đã nối kết Trời và Đất nơi con người của mình.
Nhân loại có thể tìm gặp ơn Cứu Độ nơi Ngôi Vị Con Thiên
Chúa làm người và nơi sứ mạng được trao phó cho một mình
ngài với tư cách là Người Con, sứ mạng yêu thương và phục vụ
sự sống của mọi người.
Ơn Cứu Độ Duy Nhất và Phổ Quát nơi
Đức Giêsu:
Nhờ Ngôi Lời hiện diện trước khi có biến cố Nhập Thể mà thế
giới được tạo thành. Nhưng với tư cách là Ngôi Lời Nhập Thể,
đã sống, đã chết và đã phục sinh, Đức Giêsu Kitô đã được
loan báo là Đấng hoàn tất công trình tạo dựng, hoàn tất lịch
sử, hoàn thành những khát vọng sống viên mãn của con người.
Phục Sinh từ kẻ chết, Đức Giêsu Kitô hiện diện với mọi
người, với toàn thể tạo vật một cách mới mẽ và huyền nhiệm.
Nơi Người, mọi giá trị chân chính của các tôn giáo và các
nền văn hóa đạt tới sự viên mãn và hoàn thành. Từ lúc khởi
thủy cho tới ngày cùng tận, Đức Giêsu là Đấng Trung Gian Duy
Nhất. Ngay cả cho những người không tuyên xưng Người là Đấng
Cứu Độ, vẫn có ơn Cứu Độ là ân sủng bởi Người, vì Thần Khí
vẫn được Người thông ban.
Chúng ta tin Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là Người
thật, là Đấng Cứu Độ Duy Nhất vì chỉ một mình Người đã hoàn
tất chương trình cứu độ phổ quát của Chúa Cha. Ngài là Người
duy nhất biểu lộ trọn vẹn Tình Yêu của Chúa Cha cho loài
người. Tính Độc Nhất ấy làm cho Đức Giêsu có một cương vị
tuyệt đối và phổ quát. Ngài thuộc về lịch sử, nhưng vẫn là
trọng tâm và là cùng đích của lịch sử.
Một vài nhận xét về cách giới thiệu
Chúa Giêsu Kitô trong Ecclesia in Asia:
Kitô học trong Ecclesia in Asia rất trung thành với đức tin
tông truyền của Hội Thánh Công Giáo, triệt để tôn trọng các
tín điều của Công Đồng Nixê và Calcêđônia. Nhưng cũng rất
sinh động, nhẹ nhàng, không kinh viện, trường ốc, trái lại
đi sát với Kinh Thánh.
Tông Huấn không tránh né khẳng định lập trường chính thống
của Giáo Hội về Đức Kitô là Đấng Cứu Độ Duy Nhất, mặc dù vẫn
công nhận các giá trị cứu độ trong các tôn giáo khác, vì mọi
ân sủng đều được ban trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô.
Quan điểm của Tông Huấn có tính mục vụ và truyền giáo nhiều
hơn. Bận tâm của các Chủ Chăn mà Đức Thánh Cha hoàn toàn
chia sẻ là làm thế nào để có được những cách trình bày, giới
thiệu những hình ảnh, những cách nói về Chúa Giêsu phù hợp
với người Á Châu hơn, đánh động tâm hồn, trái tim họ nhiều
hơn. Điều này đã được thảo luận sôi nỗi trong các nhóm tại
Thượng Hội Đồng. Thượng Hội Đồng, cũng như Tông Huấn chỉ đề
ra hướng đi, phần còn lại là công việc của các nhà thần học.
Quan điểm mục vụ ấy của Giáo Hội được trình bày trong chương
4 của Tông Huấn, đề cập đến các vấn đề loan báo Đức Kitô tại
Á Châu (số 20) những thách đố của Hội Nhập Văn Hoá (số 21),
các lãnh vực then chốt của Hội Nhập Văn Hóa (số 22). Tông
Huấn có lưu ý rằng nhiều nghị phụ đã nêu lên sự kiện Đức
Giêsu là một người Á Châu lại được coi là xa lạ với Á Châu.
Phần lớn những người Á Châu có khuynh hướng coi Đức Giêsu
như một Gương Mặt Tây Phương hơn là Gương Mặt Á Châu.
Như vậy vấn đề cụ thể hiện nay là làm sao cho Kitô học có
nhiều sắc thái Á Châu hơn nữa. Kitô học phải có chiều hướng
mục vụ nhiều hơn. Và trong chiều hướng ấy nên phân biệt làm
2 giai đoạn: giai đoạn bắt đầu giới thiệu Đức Giêsu cho
những người không là Kitô hữu, giai đoạn tiếp tục loan
truyền về Ngài cho các tín hữu Kitô.
Trong giai đoạn đầu, phải làm thế nào để giới thiệu Đức
Giêsu là Đấng đáp ứng những khát vọng sâu thẳm của con người
Á Châu biểu lộ trong văn hóa dân gian, trong các huyền
thoại. Nói chung nên dùng những phương thức kể chuyện, vì
chúng gần gũi với các hình thái văn hóa Á Châu hơn là suy
luận. Còn trong giai đoạn hai, nên dùng lối sư phạm khơi
gợi, vận dụng các câu truyện, dụ ngôn, biểu tượng.
Các nghị phụ đã đưa ra một số hình ảnh về Đức Giêsu, mà các
ngài cho là vừa trung thành với Mạc Khải và Truyền Thống,
vừa có khả năng đánh động con người Á Châu: Đức Giêsu là
Minh Sư, là Thần Y, là Vị Linh Hướng, là Con Người Giác Ngộ,
là Bạn của người nghèo, là Chủ Chăn Tốt Lành… Các nghị phụ
mới phác họa, chưa có thể nghiên cứu đào sâu. Đây là một
công việc rất lớn, rất lý thú, nhưng cũng rất khó khăn mà
các nhà thần học phải đảm nhận để giúp đỡ Giáo Hội.
Một số nghị phụ đã đề ra một hướng đi khá rõ trong các bản
trả lời các câu hỏi của Thượng Hội Đồng, được đúc kết khá cô
đọng trong lnstrumentum Laboris số 30. Nhấn mạnh sự gặp gỡ
giữa trời và đất, giữa thần linh và con người, giữa vô hạn
và hữu hạn nơi Đức Giêsu Kitô. Văn hóa Á Châu yêu thích sự
hòa điệu giữa các tương phản, vì sự hòa điệu ấy vừa rất
huyền nhiệm, nhưng cũng rất gần gũi với con người: hòa điệu
giữa siêu việt và nội tại, giữa không và có, giữa rỗng và
đầy, giữa chết và sống, giữa đau khổ và hạnh phúc, giữa yếu
và mạnh, giữa nghèo và giàu, giữa tĩnh và động, giữa âm và
dương, giữa thời gian và vĩnh cửu, giữa lịch sử và tuần hoàn
vũ trụ... Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể, đã
chết và đã sống lại là Điểm Hội Tụ tuyệt vời của các tương
phản ấy.
+ Phaolô BÙI VĂN ĐỌC
Giám Mục Mỹ Tho |
VỀ MỤC LỤC |
|
Tác vụ Lời Chúa và linh đạo linh mục giáo phận |
Trong Thư Mục Vụ 2005, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhắn nhủ
các linh mục: “Loan báo Lời Chúa là sứ mạng chính yếu và là
lẽ sống của chúng ta. Chính vì sứ mạng này mà chúng ta được
chọn và sai đi (x. Mt 10,4; Mc 3, 13-14). Đó cũng là di chúc
của Thày Chí Thánh trước khi về trời (x. Mt 28, 19-20; Mc
16, 15-18).” Lời nhắn nhủ này hàm chứa khẳng định: sứ mạng
loan báo Lời Chúa làm nên lý do hiện hữu của linh mục nói
chung và linh mục giáo phận nói riêng; vì thế, sứ mạng này
phải đóng vai trò cốt lõi trong linh đạo linh mục. Chính vì
thế, tuần tĩnh tâm linh mục trong năm 2006 này tập trung vào
chủ đề : Tác Vụ Lời Chúa và Linh Đạo Linh Mục Giáo Phận.
1. Trước Công đồng Vaticano II
Nói theo ngôn ngữ của thần học kinh viện thì linh đạo của
linh mục nói chung và linh mục giáo phận nói riêng được đặt
nền trên vị thế hữu thể học (ontological status). Lãnh nhận
chức linh mục (qua bí tích Truyền Chức Thánh) là mang một
status mới cắm rễ sâu trong chính hữu thể linh mục. Chính do
vị thế này mà linh mục có thể hành động in persona Christi
Capitis, được ban năng quyền đặc biệt mà người giáo dân
không có: thánh hoá, tha tội, xức dầu, chúc phúc. Cũng vì
thế, linh mục có vị trí hết sức cao cả trong đời sống Giáo
Hội.1 Dĩ nhiên cũng không thể không quan tâm đến những yếu
tố khác về mặt xã hội đã tạo nên hào quang cho linh mục,
chẳng hạn trong nhiều thế kỷ qua, tại Việt Nam, linh mục vẫn
được coi là người học cao hiểu rộng và có quyền lực lớn
trong xã hội; vì thế được hưởng sự nể trọng đặc biệt của
giáo dân.
Vì mang vị thế và có quyền năng đặc biệt, linh mục có trách
nhiệm phải sống thánh thiện để có thể chu toàn nhiệm vụ cao
quý: cử hành Thánh Thể, đọc sách nguyện, lần chuỗi, và những
việc đạo đức khác. Tất cả những việc đạo đức trên được coi
là suối nguồn và nhiên liệu cho đời sống thiêng liêng của
linh mục. Suy tư của thánh Grêgôriô Nadianô có thể tóm tắt
cách nhìn này: “Trước tiên, phải thanh luyện mình rồi mới
thanh luyện người khác, phải trở nên ánh sáng rồi mới chiếu
soi, phải đến với Chúa rồi mới kéo kẻ khác được, phải tự
thánh hoá rồi mới thánh hoá kẻ khác”2
Dù tất cả những công việc trên đều nhằm mục đích phục vụ
cộng đoàn, linh đạo linh mục chủ yếu vẫn mang tính đạo đức
cá nhân nhiều hơn, nghĩa là hoàn toàn nằm trong chiều hướng
từ cá nhân linh mục đến cộng đoàn chứ không có chiều ngược
lại. Linh mục cầu nguyện và làm các việc đạo đức là để chính
mình được nên thánh, nhờ đó phục vụ Chúa và con người tốt
hơn.
2. Sau Công đồng Vaticano II
Những phát triển trong suy tư về linh đạo linh mục sau
Vaticano II không phải là đứt đoạn với quá khứ nhưng đúng
hơn, mang tính tiếp nối. Nếu trước kia, đời sống thiêng
liêng của cá nhân linh mục được coi là nguồn của tác vụ và
đời sống linh mục, thì bây giờ, tuy tầm nhìn trên không bị
phủ nhận nhưng đồng thời được gắn thêm một chiều kích khác,
tức là chính việc thi hành tác vụ cũng là nguồn cho đời sống
thiêng liêng.
Cách nhìn này được khơi nguồn từ chính cách nhìn về Giáo
Hội. Vào thời của Công đồng Tridentino, Giáo Hội được nhìn
như trung tâm của ơn cứu độ và như thế, linh mục đóng vai
trò chủ chốt trong Giáo Hội. Có người gọi mô hình Giáo hội
đó là một cộng đoàn tập trung vào linh mục (a
priest-centered community). Ngày nay, theo Hiến chế Giáo
Hội, Giáo Hội được trình bày như là mầu nhiệm và là Dân
Thiên Chúa. Điểm tập trung không còn là linh mục mà là Dân
Chúa (people-centered community). Trong Giáo Hội, dĩ nhiên
tác vụ linh mục vẫn là tác vụ đặc biệt nhưng cũng có những
tác vụ khác.3 Vì thế, linh mục được mời gọi thi hành tác vụ
của mình trong tinh thần của người tôi tớ và thúc đẩy sự hợp
tác (servant leadership and collaborative leadership). Trong
Thư Gửi các Linh Mục vào Thứ Năm Tuần Thánh 1990, Đức Gioan
Phaolô II đã nhấn mạnh đến điều này: “Chức linh mục không
phải là một thể chế hiện hữu song hành với giáo dân, hoặc “ở
trên” giáo dân. Chức tư tế của các giám mục và linh mục cũng
như thừa tác vụ của các phó tế là “cho” giáo dân, và chính
vì thế mà chức tư tế mang tính phục vụ. “Tính thừa tác” ở
đây có nghĩa là một công việc phục vụ.”
Trong cách nhìn này, chính công tác mục vụ của linh mục trở
thành nguồn cho linh đạo linh mục: Sắc lệnh về Chức vụ và
Đời Sống Linh Mục khẳng định: “Thành tâm và kiên nhẫn thi
hành nhiệm vụ của mình trong tinh thần Chúa Kitô là cách thế
riêng giúp các linh mục theo đuổi sự thánh thiện.” Tiếp đó,
khi bàn đến sự thống nhất trong đời sống linh mục, Sắc Lệnh
viết tiếp: “Nhờ thi hành nhiệm vụ của mục tử nhân lành và
chính trong khi thi hành đức Ai mục tử, các linh mục tìm
được mối dây hoàn thiện nối kết đời sống và hoạt động của
mình làm một.”4
Như thế, đời sống nội tâm của cá nhân linh mục và những công
việc mục vụ của linh mục ở trong thế hỗ tương và bổ túc cho
nhau, chứ không chỉ theo một chiều như trước. Có thể nói
chính điểm này làm nên nét độc đáo trong linh đạo của linh
mục giáo phận. Cũng vì thế, có tác giả đề nghị gọi linh đạo
này là linh đạo mang tính biện chứng. Đúng là đời sống nội
tâm của cá nhân linh mục khơi nguồn cho công tác mục vụ của
linh mục, nhưng đồng thời chính khi cố gắng thi hành công
việc của một mục tử, công việc đó sẽ biến đổi con người linh
mục nên giống Vị Mục Tử nhân lành hơn, nghĩa là sống chức
linh mục của mình đúng nghĩa hơn.
3. Linh đạo linh mục: linh đạo phục
vụ Lời
Trong các nhiệm vụ của linh mục thì nhiệm vụ rao giảng Lời
Chúa được xếp hàng ưu tiên:
“Dân Chúa được quy tụ trước hết là nhờ Lời Thiên Chúa hằng
sống; lời này phải được đặc biệt tìm thấy nơi môi miệng các
linh mục... Do đó các linh mục, vì là cộng sự viên của giám
mục, có nhiệm vụ đầu tiên là loan báo Tin Mừng của Thiên
Chúa... Các ngài mắc nợ với mọi người về việc thông truyền
cho họ chân lý Phúc Am mà các ngài đã nhận được nơi Chúa.”5
Yves Congar - nhà thần học đã đóng vai trò lớn trong việc
soạn thảo các văn bản Công đồng, và đã được Đức Gioan Phaolô
II nâng lên hàng Hồng y – đã phát biểu rằng : “Tôi có thể
trích dẫn một loạt các văn bản xưa với chung một nội dung
rằng: nếu trong một đất nước mà trong suốt 30 năm người ta
cử hành Thánh Lễ hằng ngày nhưng không giảng, và một nơi mà
trong suốt 30 năm không có Thánh Lễ nhưng có giảng Lời Chúa,
thì chắc chắn dân chúng ở nơi có nghe giảng sẽ là những
người Kitô hữu tốt hơn.”6
Vì là nhiệm vụ hàng đầu nên linh mục được mời gọi phải giảng
trong Thánh Lễ Chúa nhật: “Trong những Thánh Lễ được cử hành
những ngày Chúa nhật và lễ buộc, có dân chúng tham dự, không
được bỏ giảng nếu không có lý do hệ trọng.7 Hơn thế nữa,
linh mục còn được khuyến khích giảng Lời Chúa hằng ngày:
“Trong các Chúa nhật và lễ buộc, phải giảng trong mọi Thánh
Lễ có giáo dân tham dự. Còn trong những ngày khác, nên
giảng, nhất là trong Mùa Vọng, Mùa Chay, Mùa Phục Sinh, cũng
như trong các ngày lễ khác và những dịp có đông giáo dân đến
tập họp nơi thánh đường.”8 Để có thể chu toàn nhiệm vụ cao
quý này, linh mục được nhắn nhủ là phải gắn bó với Thánh
Kinh qua việc chăm chú đọc Thánh Kinh và ân cần học hỏi; nếu
không, linh mục có thể trở thành những người “huênh hoang
rao giảng Lời Thiên Chúa ngoài môi miệng vì đã không lắng
nghe Lời Thiên Chúa trong lòng.”9
Dĩ nhiên nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa chỉ có thể chu toàn và
mang lại hiệu quả nếu bản thân linh mục có đời sống thánh
thiện; do đó linh mục phải có đời sống cầu nguyện sâu xa để
có thể chu toàn nhiệm vụ rao giảng Lời. Tông huấn về Chức
Linh Mục Thừa Tác vẫn nhắc nhớ điều này: “Theo gương Chúa
Kitô là Đấng không ngừng cầu nguyện và đặt mình trong sự
hướng dẫn của Thánh Thần, các linh mục nên tận hiến cho việc
chiêm ngắm Lời Chúa, và hằng ngày nhìn mọi biến cố đời sống
trong ánh sáng Phúc Am, để một khi trở thành những người
lắng nghe Lời Chúa cách trung thành và chăm chú, các linh
mục cũng trở thành những thừa tác viên đích thực của Lời
Chúa.” 10
Tuy nhiên, trong cách nhìn biện chứng như đã trình bày thì
cần nói thêm: đúng là linh mục phải nên thánh để có thể thi
hành tác vụ giảng dạy cách hiệu quả nhưng đồng thời chính
việc thi hành nhiệm vụ giảng dạy giúp linh mục nên thánh.
Nếu linh mục được khuyến khích giảng Lời Chúa mỗi ngày, và
nếu linh mục muốn thi hành nhiệm vụ đó cách nghiêm túc, thì
mỗi ngày bản thân linh mục phải đọc Lời Chúa, cầu nguyện và
suy niệm để soạn bài giảng. Như thế, mỗi ngày bản thân linh
mục được Lời Chúa mà mình rao giảng soi sáng, hướng dẫn và
tác tạo chính con người mình. Chính vì thế, việc rao giảng
Lời Chúa trở thành trọng tâm và nền tảng trong linh đạo linh
mục giáo phận. Đối với một linh mục trung thành với việc cầu
nguyện và suy niệm, đọc và lắng nghe Lời Chúa để có thể chia
sẻ cho người khác, thì chính bổn phận rao giảng Lời Chúa sẽ
trở thành cái neo giữ cho đời sống linh mục được vững vàng
trong mọi sóng gió.
Robert M. Schwartz, linh mục đặc trách Ủy Ban Thường Huấn
Linh Mục thuộc HĐGM Hoa Kỳ, đã chia sẻ kinh nghiệm của ngài
về việc soạn bài giảng Chúa nhật trong nhiều năm như sau:
Thứ Hai, đọc bài Tin Mừng – Thứ Ba, đọc bài đọc I – Thứ Tư,
đọc bài đọc II. Mỗi ngày như thế, tâm trí của cha thấm nhuần
Lời Chúa sẽ được công bố vào Chúa nhật tới, đồng thời qua
những tiếp xúc gặp gỡ giáo dân và mọi biến cố xảy ra trong
tuần, chất liệu bài giảng Chúa nhật mỗi ngày mỗi rõ nét
hơn.11
Nếu một linh mục trung thành với việc soạn bài giảng như
thế, thì Lời Chúa sẽ tác động trên linh mục đó sâu xa thế
nào! Thế nên có thể nói chính nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa
làm nên linh đạo linh mục, linh đạo phục vụ Lời.
4. Dẫn vào những đề tài sẽ trình
bày
Trong ý hướng trên, những đề tài được trình bày trong tuần
tĩnh tâm này nhằm mục đích khắc hoạ những khía cạnh khác
nhau trong chân dung linh mục xét như người phục vụ Lời.
Avery Dulles, nhà thần học Hoa Kỳ đầu tiên được trao mũ Hồng
Y, đã viết tác phẩm nổi tiếng mang tựa đề Những Mô Hình của
Giáo Hội (Models of the Church). Trong tác phẩm này, tác giả
đã dựa vào những nghiên cứu sâu rộng để trình bày 5 mô hình
về Giáo hội.12 Không chỉ một nhưng là 5 mô hình. Lý do là
vì Giáo hội là một mầu nhiệm và một thực tại hết sức phong
phú, cho nên không thể chỉ nhìn Giáo hội theo một mô hình
duy nhất nhưng cần nhiều mô hình để diễn tả và bổ túc cho
nhau.
Tương tự như thế, đã có nhiều hình ảnh để diễn tả chân dung
linh mục như người rao giảng Lời Chúa. Mỗi hình ảnh nói lên
một khía cạnh trong sứ mạng rao giảng Lời Chúa của linh mục,
đồng thời khắc hoạ những đòi hỏi của sứ mạng đó. Thiết nghĩ
khai triển những hình ảnh này vừa là cơ hội chiêm ngắm chân
dung người rao giảng, lại vừa là dịp để soi bóng chính mình
trong tuần tĩnh tâm. Theo đó, trong tuần tĩnh tâm này, những
hình ảnh sau đây sẽ được vận dụng để phần nào khắc hoạ chân
dung người rao giảng Lời Chúa: (1) Phát ngôn viên, (2) Giáo
viên, (3) Thông dịch viên, (4) Chứng nhân, và (5) Ngôn sứ.
Lm. Phêrô Nguyễn Khảm
1 Donald B. Cozzens, The Spirituality of the Diocesan
Priest, Minnesota: Collegeville, The Liturgical Press, 1997,
50.
2 Or. 2,73
3 Trong thực tế, thừa tác vụ giáo dân (Lay Ministry) càng
ngày càng được quan tâm hơn. Có thể do tình trạng thiếu vắng
linh mục nên có nhiều giáo dân được đào tạo để làm một số
công việc thay thế linh mục. Tuy nhiên, không thể không nghĩ
đến ảnh hưởng của Vaticano II khi nhấn mạnh đến ơn gọi và sứ
mạng của giáo dân.
4 Sắc lệnh về Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục, số 13 & 14.
5 Ibid., 4.
6 Yves Congar, O.P., “Sacrament, Worship and Preaching,”
trong The Renewal of Preaching: Theory and Practice
(Concilium 33; New York: Paulist 1968), 51-63.
7 Hiến chế Phụng Vụ, số 52.
8 Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Roma, số 42.
9 Hiến chế Mạc Khải, số 25.
10 Phaolô VI, Tông huấn Chức Linh Mục Thừa Tác, II. I/3.
11 Donald B. Cozzens, The Spirituality of the Diocesan
Priest, Minnesota: The Liturgical Press, 1997, 5-6.
12 Những mô hình về Giáo hội mà tác giả trình bày là: Giáo
hội như một cơ chế, Giáo hội như sự hiệp thông huyền nhiệm,
Giáo hội như bí tích, Giáo hội như phát ngôn viên, Giáo hội
người tôi tớ. X. Avery Cardinal Dulles, Models of the
Church, Image Book, Doubleday, 2002. |
VỀ MỤC LỤC |
|
TỪ TRÊN ÐỈNH NÚI |
Phúc Âm
Nhật Ký Ngày 06.08.2006
TỪ TRÊN ÐỈNH NÚI
Mc
9:2-10
Cách đây hơn mười năm,
một người bạn linh mục ở Úc lâm trọng bệnh. Những ngày
tháng cuối cùng, anh đã tìm được nguồn an ủi nơi bạn bè và
giáo dân. Một ngày đẹp trời nọ, chúng tôi đã mời anh tới
Canberra, thủ đô Úc để tham quan lần chót. Chúng tôi đã
đưa anh lên ngọn tháp cao nhất nước Úc : tháp Telecom xây
trên đỉnh núi. Anh có dịp quên cơn bệnh trong vài giờ và
chia sẻ về những năm tháng hoạt động bên nhau. Anh đã thấy
rõ thân phận con người trước Ðấng Tạo Hóa và hồng ân lớn lao
của Thiên Chúa là Cha. Anh thầm cảm tạ vì Chúa đã kêu gọi
anh làm linh mục và trao cho anh sứ mệnh cao cả. Mặc dù
cuộc đời và sứ mạng dở dang, nhưng anh đã tìm được sự bình
an trong vòng tay đầy ắp tình thương của Chúa.
Ngày xưa, trước cảnh chia
lìa với bao thử thách sắp tới, Chúa Giêsu cũng rủ các môn đệ
thân tín lên núi với mình. Nhưng thay vì ngắm nhìn cảnh vật
ngoài trời, các ông được chiêm ngắm tự bên trong mạc khải sự
thật về Con Thiên Chúa (x. Mc 9:7). Nhờ đó, niềm tin vững
mạnh và hy vọng tràn trề. Nếu Chúa Giêsu cứ mải mê với công
cuộc giảng dạy và làm phép lạ dưới chân núi, chắc chắn cũng
không thể thay đổi nhiều nơi các môn đệ. Bằng chứng các
người pharisêu cũng nghe lời giảng và chứng kiến tận mắt các
phép lạ, nhưng họ có tiến được bước nào đâu ?
Chúa đã chọn đúng thời
điểm để làm một việc vô cùng cần thiết cho các môn đệ. Tại
sao Chúa không hoãn lại sau khi phục sinh mới cho các tông
đồ thấy tất cả sự thật về mình ? Phải chăng Chúa thiếu kiên
nhẫn hay các môn đệ không đủ lòng tin ? Nếu đợi tới ngày
phục sinh Chúa mới mạc khải tất cả căn tính của mình, e rằng
quá trễ. Cuộc thương khó quá lớn, đến nỗi các môn đệ không
thể vượt qua. Dù đã lên núi chứng kiến những cảnh lạ lùng
như thế, Phêrô vẫn thẳng thừng chối Chúa tới ba lần. Nhưng
có lẽ ánh sáng Chúa hiển dung hôm nay vẫn chưa biến mất hoàn
toàn trong tâm trí, nên ông mới có ngày bị giật ngược lại.
Nếu không, số phận Phêrô chắc chẳng hơn Giuđa !
Mạc khải đã diễn ra trong
một khung cảnh thật hoành tráng. Ngọn núi cao tỏa sáng.
Chúa Giêsu đã xuất hiện giữa các nhân vật cực kỳ quan trọng
trong Cựu ước và Tân ước. Hội Ðường và Hội Thánh đều vây
quanh Chúa. Trước cảnh tượng vô cùng lớn lao đó, các môn đệ
đều kinh hoàng (x. Mc 9:6). Nhưng lên tới núi cao vẫn chưa
phải là cao. Phải lên tới mây xanh, các ông mới có thể được
mạc khải về bản chất con người của Chúa Giêsu và vị thế của
Người (x. Mc 9:7; 2 Pr 1:17). Từ đó, các ông mới biết mình
đang theo ai và đi tới đâu. Nếu không trải qua kinh nghiệm
tuyệt vời này, các ông sẽ không biết tại sao mình phải vâng
nghe những lời chói tai và phải từ bỏ mình mà vác thập giá
theo Chúa Kitô.
Chúa Giêsu xuất hiện ở
trung tâm mạc khải. Ðịa vị độc tôn của Chúa không ai có thể
so sánh được. Người là Con chí ái của Chúa Cha (x. Mc
9:7). Thư Do thái đã quả quyết thiên thần cũng không xứng
đáng đón nhận được thiên tính và địa vị cao cả đó (x. Dt
1:5). Nếu thiên thần còn không xứng đáng, làm sao chúng ta
dám tự phụ mình có thiên tính như Chúa Giêsu ? Có
chăng, chúng ta chỉ được tiền định “làm nghĩa tử nhờ
Ðức Giêsu Kitô.” (Ep 1:5) Bởi đấy, ngày chịu thanh tẩy, nếu
chúng ta trở thành con Thiên Chúa, thì cũng chỉ theo nghĩa
loại suy hay đạo đứcmà thôi. Nếu Chúa không chết và phục
sinh, chắc chắn đời đời chúng ta vẫn là kẻ thù của Thiên
Chúa (x. Rm 5:10). Nếu có thiên tính như Chúa Giêsu và được
sinh ra từ Chúa Cha như Người, tại sao chúng ta lại bất lực
như vậy ?
Sau khi đón nhận mạc khải
lớn nhất về Chúa Giêsu, “các ông (...) không thấy ai nữa,
chỉ còn Ðức Giêsu và các ông mà thôi.” (Mc 9:8) Mạc khải
về Thầy không giữ mãi họ trên mây. Cảnh huy hoàng thiên
quốc như khép lại, nhường cho thực tế cuộc sống. Các ông đã
xuống núi với Chúa (x. Mc 9:9). Họ đã bị trả về thực tế.
Siêu nhiên và thực tại cuộc đời gặp nhau. Chính lúc biết rõ
về Thầy cũng là lúc hiểu về chính mình và cuộc đời.
Nhưng bao lâu Chúa chưa
phục sinh, các ông không thể hiểu tại sao có sự kiện “Con
Người từ cõi chết sống lại.” (Mc 9:10) Ðó là một sự kiện
độc nhất trên trần gian. Chưa ai trải qua kinh nghiệm đó để
giải thích cho người khác. Nhưng trước khi trở thành điểm
tựa cho niềm hy vọng lớn lao và là sức mạnh giúp các ông
vượt qua mọi thử thách, sự kiện đó đã gây nhức nhối khủng
khiếp cho người môn đệ.
Lạy Chúa, xin dẫn con
lên núi với Chúa. Xin dẫn con lên cao hơn nữa để con lắng
nghe mạc khải về Con Chúa. Nhờ đó, con có thể vận dụng
những thực tại hôm nay cho công cuộc xây dựng Nước Chúa cùng
với anh em. Amen.
dzuize@gmail.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÚA CHA
LÀ “THIÊN TÍNH CỦA CHÚA KITÔ” ? |
Sau bài viết của tôi để giải thích
điều sai lầm có người nói về “thiên tính của người Kitôhữu”,
tôi lại nhận được bài thứ hai cũng từ Website Tâm Linh Vào
Đời và cùng tác giả dưới nhan đề “Giải mã thiên tính của Đức
Kitô”. Tôi không có giờ đọc ngay và cũng không muốn đọc vì
biết tác giả lại viết sai lạc nữa về Đức Kitô. Trong lúc ấy,
tôi lại nhận thêm một bài nữa cũng từ Website và tác giả
nói trên luận bàn sai lạc về bài viết của tôi và lập lại
luận cứ sai lầm về cái gọi là “thiên tính của người Kitôhữu”
cũng như kết luận rằng “ Đức Chúa Cha là thiên tính của
Chúa Kitô” !.Đây là kết quả “giải mã thiên tính của Chúa
Kitô” tiếp theo “công trình giải mã về thiên tính của người
Kitô hữu”. Tôi biết có viết gì thêm thì tác giả và một vài
người phụ họa khác cũng không hiểu được hay không muốn điều
tôi muốn nói vì họ cho rằng tôi chỉ nói theo “ quan điểm học
thức có bài bản” và mang nhãn quan “nhân loại” nên họ
không hiểu được ! Nghĩa là phải có “kiến thức đặc biệt” như
tác giả kia thì mới hiểu được được điều tác giả muốn nói về
“thiên tính của người Kitôhữu” cũng như về “thiên tính của
Chúa Kitô”! Tôi xin chào thua loại “kiến thức” này và chắc
chắn không muốn viết để tranh luận gì với các bạn đó vì hoàn
toàn vô ích, và mất thì giờ.
Tuy nhiên, vì sự hiểu biết không chính
xác của mấy anh em này về những vấn đề có liên quan đến
thần học, kinh thánh và giáo lý của Giáo Hội qua những bài
viết chỉ gây hiểu lầm cho người khác, nên tôi lại phải
viết một lần nữa để giải thích cho độc giả Công giáo vô tình
đọc những bài viết của các tác giả này và hoang mang về
những gì họ viết, như một độc giả kia đã thắc mắc “ xin các
vị mục tử giải thích hộ nội dung bài viết ấy”. Đó là lý do
khiến tôi viết chứ không phải muốn viết để bút chiến với ai
cảvì không đáng. Tôi xin minh xác rõ điều này. Sau đây là
những điều tôi muốn giải thích:
Trước hết về từ
ngữ “giải mã”.
Tôi không mấy vừa ý về từ ngữ này vì nó
gợi lại cho tôi – và chắc cũng cho nhiều người khác- cảm
nghĩ không tốt đẹp về việc làm tồi bại của Dan Brown khi anh
này cố ý “giải mã”(decode) bức hoạ Bữa Tiệc Ly của DaVinci
với chủ tâm lăng mạ Kitôgiáo nói chung và niềm tin của
người Công Giáo nói riêng về Chúa Giêsu Kitô và công nghiệp
cứu chuộc của Người.Vì thế, từ ngữ “giải mã” đã gắn liền với
âm mưu thâm độc của Dan Brown tiếp tay với các thế lực thù
nghịch KitôGiáo từ Đông sang Tây và từ xưa đến nay nhằm đánh
phá điên cuồng Đaọ thánh của Chúa Kitô.Nhưng càng đánh phá,
chúng càng giúp cho Đạo Công Giáo trêm vững mạnh và ngày một
lan rộng khắp nơi trên thế giới vì đã có lời hứa bảo vệ của
chính Đấng sáng lập là Chúa Kitô: “ anh là Phêrô, nghĩa là
Tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy,
và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” (Mt 16:18).
Như vậy, từ ngữ “giải mã” đã trở thành
đồng nghĩa với hư cấu, ngụy tạo, lăng mạ, và bôi bẩn cách
tệ mạt của Dan Brown, kẻ vô lương tâm đã “giải mã” tầm
bậy bức tranh của Da Vinci với mục đích đánh phá KitôGiáo,
xúc phạm nặng nề đến Chúa GIêsu và cũng để kiếm tiền không
hơn không kém.
Nay lại có người dùng từ ngữ này để
quảng bá (hay giải mã) về vài vấn đề có liên quan đến
thần học, kinh thánh và giáo lý mà chính tác giả cũng không
hiểu rõ, nhưng cứ viết để gây hiểu lầm cho người khác dưới
nhãn hiệu “giải mã”.
ĐỨC KITÔ là AI ?
Trước hết, từ ngữ “ Kitô”, lấy từ
tiếng Hy lạp “Christos”được phiên dịch nguyên ngữ từ tiếng
Do Thái “Messiah”, có nghiã là “Đấng được xức dầu=Anointed
One”. Trong Cựu ước, từ ngữ này được dùng để chỉ việc xức
dầu cho những người được phong Vương để cai trị Israel như
các Vua Saul, David, Solomon , Jehu và cả vua dân ngoại
(pagan king)Cyrus …( x. 1 Sam 9:16; 2 Sam 2:4,7; Ps 89: 20;
1 Kings 1:39…Isa.45:1) . Ngoài ra, đôi khi từ ngữ này cũng
chỉ các ngôn sứ và tư tế như lời Thiên Chúa nói với ông
Mai-sen sau đây:
Ngươi cũng xức dầu cho A-ha-ron và các
con của ông; ngươisẽ thánh hiến họ làm tư tế phục vụ Ta” (Xh
30:30)
Nhưng chủ yếu từ ngữ này được dùng để
chỉ Đấng Thiên Sai sẽ xuất hiện vào thời cuối cùng để cứu
nhân loại khỏi tội và khỏi chết đời đời:
“ Sau sáu muơi hai tuần một Vị được
xức dầu sẽ bị thủ tiêu…..(Đaniel 9:26)
Trong sứ mạng cứu thế đó, Chúa Giêsu,
Ngôi Lời nhập thể (the Incarnate Word) đã sinh xuống thế làm
Con Người bởi Đức Trính Nữ Maria nhờ quyền năng của Chúa
Thánh Thần cách nay trên 2000 năm như chúng ta đọc thấy
trong Tin Mừng các Thánh Luca và Gioan:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư
ngụ giữa chúng ta…”(Jn 1:14)
“Hôm nay, một Đấng Cứu Độ sẽ sinh ra
cho anh em trong thành vua Đa-vít. Người là Đấng Kitô Đức
Chúa.”(Lc 2:11)
Trong Kinh Thánh Tân Ược , từ ngữ Kitô
được dùng như tên thứ hai của Chúa Giêsu :
“Gia-cóp sinh Giuse, chồng của bà
Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô.” ( Mt 1:16)
Hoặc:
“Còn chúng ta,quê hương chúng ta ở trên
trời , và chúng ta nóng lòng mong đợi
Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng
ta.” ( 1Phil 3:20)
Chính Chúa Giêsu cũng đã công khai xác
nhận tên Kitô dành cho Người khi Philatô hỏi Chúa: “ Ông có
phải là Đấng Kitô, Con của Đấng đáng chúc tụng không ?”
Chúa Giêsu đã trả lời: “ Phải chính thế.” ( Mk 15:62).
Đó là tất cả nguồn gốc và ý nghĩa của
từ ngữ “Kitô” chỉ sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu , Ngôi Hai
Thiên Chúa trong trần gian này.Với tước hiệu và sứ mệnh ấy,
Chúa Kitô đã lẩn lượt đóng những vai trò sau đây trong
Chương Trình Cứu Chuộc loài người của Thiên Chúa:
1- Là Con
Người (Son of Man) vì được sinh ra bởi Đức Trính
Nữ Maria là người thật và nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần
như chúng ta đọc trong Kinh Tín kính Nicene mỗi ngày Chúa
Nhật.Tước hiệu này trước tiên đã được tiên tri Daniel nói
đến trước khi Chúa Giêsu sinh ra làm Người như sau :
“ Trong những thị kiến ban đêm, Tôi mải
nhìn thì kià Có ai như một Con Người Đang ngự giá mây trời
mà đến…(Đn 7:13)
Chúa Giêsu cũng tự nhận mình là Con
Người như sau :
“ Từ nay các ông sẽ thấy Con Người ngự
bên hữu Đấng Toàn năng và ngự giá mây trời mà đến.”(Mt
26:64)
Là Con Người, Chúa Giêsu có hai bản
tính không hề tách rời nhau đó là thiên tính (divinity) và
nhân tính( humanity).
Nghĩa là chỉ có Chúa Giêsu mới chung
phần nhân tính với con người chúng ta mà thôi. Chúa Cha và
Chúa Thánh Thần không chung bản tính với nhân loại và chỉ
có Ba Ngôi Thiên Chúa cùng bản tính hay bản thể.(
Consubstantialis). Ngoài Ba Ngôi ra, không một thần linh hay
tạo vật nào có chung bản tính hay bản thể (substance) với
Thiên Chúa. Xin nhớ kỹ điều này.
Trong Lễ Qui Rôma, khi nhỏ giọt nước
vào chén rượu nho trước khi truyền phép Thánh Thể, Giáo Hội
đọc lời nguyện sau đây qua miệng Chủ tế hay Phó tế:
“Nhờ mầu nhiệm nước hoà rượu này, xin
cho chúng con được tham dự vào thiên tính của Đấng đã đoái
thương thông phần nhân tính của chúng con.” (Per huius aqu„
et vini mystérium, eius efficiamur divinitatis consortes,
qui humanitatis nostr„ fieri dignatus est particeps)
Như thế, qua lời cầu nguyện trên đây,
chúng ta thấy rõ Giáo Hội cầu xin cho con người được “thông
phần thiên tính” với Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu đã mặc lấy
nhân tính khi làm Con Người. Nếu con người chúng ta cũng
có “thiên tính”(cùng bản thể=consubstantialis”với Thiên
Chúa) như có người không hiểu gì đã viết và còn chưa chịu
nhận mình sai lạc thì Giáo Hội cầu như trên để làm gì ?
Vậy xin nhắc lại cho người anh em
biết là có thiên tính thì khác xa một trời một vực với được
“tham dự vào thiên tính.” của Thiên Chúa nhờ công nghiệp của
Chúa Kitô và trong viễn ảnh được ơn cứu chuộc để được chung
hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa trên thiên đàng.Tất cả viễn
ảnh được kết hơp với Thiên Chúa trong sự sống, sự trọn hảo
và hạnh phúc của Người chính là được “thông phần thiên
tính” –hay nói khác đi- được chia sẻ chính đời sống và sự
cực tốt cực lành của Thiên Chúa, Cha chúng ta ở trên trời
nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần.
Đây là kiến thức thần học (theology) và
bản thể học (ontology) chứ không phải là “quan niệm bình
dân” hay “quan niệm học thức bài bản” nào cả.Xin đừng nói vớ
vẩn kẻo người ta cười cho là không hiểu biết chính xác mà
dám nói.
Người tín hữu chúng ta mới chỉ có hy
vọng được hưởng ơn cứu độ và được “thông phần bản tính Thiên
Chúa” trong tinh thần được chia sẻ chính đời sống và sự trọn
hảo của Người , NẾU chúng ta sống trọn vẹn với những cam
kết của bí tích Rửa tội là từ bỏ ma quỉ vàmọi tội lỗi song
song với nỗ lực yêu mến Chúa hết tâm trí và yêu người khác
như chính mình, tức là sống đúng với tinh thần của con người
mới sau khi được tái sinh qua bí tích rửa tội.
Nhưng bao lâu chúng ta còn sống trên
đời này và trong thân xác hay chết với bản chất (nature) đã
bị “vong thân” này vì hậu quả của tội nguyên tổ (original
sin) thì bấy lâu còn đầy rẫy những cơ hội bị đẩy xa khỏi
tình yêu của Thiên Chúa và làm hư công nghiệp cứu chuộc của
Chúa Kitô. Ai không nhìn nhận thực tế và nhãn giới thần học
này thì đúng là người sống trên mây trên gió với những lý
thuyết không tưởng hoàn toàn thiếu căn bản giáo lý và thần
học. Chắc chắn như vậy , vì không làm gì có cái gọi là
“thiên tính bị chôn vùi hay bị lãng quên” trong con người
chúng ta cả vì tự bản chất, con người đã không hề có
“thiên tính” thì làm sao nói đến chuyện “thiên tính bị chôn
vùi hay lãng quên” được ?. Có chăng, chỉ có thể nói là ơn
tái sinh của phép rửa đã “bị lãng quên hay bị chôn vùi” nơi
nhiều người nên ơn cứu chuộc của Chúa Kitô đã không sinh
hoa kết trái gì được nơi những tâm hồn tiếp tục sống trong
tội và bọp nghẹt hạt giống đức tin không cho nẩy nở được
nữa. Đó là tình trạng của những người đã lãnh bí tích rửa
tội khi còn nhỏ nhưng nay đang tôn thờ vật chất và khoái
lạc vô luân thay vì tôn thờ Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc
thật. Đó là những người mang danh Kitôhữu nhưng đang sống
theo “văn hoá sự chết” làm những điều gian ác, lường gạt
tình và tiền của người khác để thoả mãn lòng tham vô đạo của
mình.Tắt một lời, đó là những người đang khước từ Thiên
Chúa hoàn toàn bằng chính đời sống của họ.
Nếu tiếp tục sống như thế thì phải
chăng họ đang chôn vùi “ơn cứu độ và hạnh phúc” mà Thiên
Chúa hứa ban trong Đức Kitô ?
Tóm lại, con người chỉ có hy vọng
được tham dự vào thiên tính củaThiên Chúa NẾU thực tâm muốn
hoán cải (convert, transform) đời sống theo tinh thần của
Tin Mừng Cứu Độ, nghĩa là “mặc lấy Chúa Kitô” ngay từ bây
giờ trong cuộc sống lữ hành trên trần thế này trước khi được
gặp Người cách nhãn tiền trong Nước Thiên Chúa ở chung cuộc.
Đây là giáo lý chân chính phải tin và
thực hành để được cứu rỗi chứ không phải là “quan niệm học
thức bài bản” nào cả.
2- Là Con Thiên
Chúa:
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa vì được
sinh ra bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần như lời Sứ Thần
Gabriel đã nói với Đức Trinh Nữ Mariạ ngày Truyền tin: “
Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tôí Cao
sẽ phủ bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được
gọi là Con Thiên Chúa.” (x. Lc 1:35)
Chúa Cha đã xác nhận tước hiệu này của
Chúa Giêsu nhân dịp Chúa Con nhận phép rửa của Gioan Tẩy Giả
tại sông Jordan:
“ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài
lòng về Người.” ( x.Mt 3:17)
Chúa Giêsu cũng đã nhận tước hiêụ này
trong nhiều dịp công khai rao giảng Tin Mừng :
“ Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi.
Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không
ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn
mặc khải cho. (x. Mt 11: 27; Lc 10:21-22)
3- Là Chiên Thiên
Chúa:
Trong Kinh Thánh Tân Ước, tước hiệu này
trước hết đã được Thánh Gioan Tiền Hô giới thiệu với các môn
đệ của ngài khi thấy Chúa Giêsu đi ngang qua một ngày kia:
“Đây là Chiên Thiên Chúa” (Jn 1:36)
Giáo Hội đã mượn lời giới thiệu trên để
thêm vào lời tuyên xưng của mình về sứ mạng của Chúa Cưú Thế
trước khi trao Mình Thánh Người cho giáo hữu tham dự Thánh
Lễ :
“ Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội
trần gian.Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên
Chúa.”
Trong Cựu Ước, ngôn sứ Isa-ia đã nói
đến “con chiên bị đem đi giết” như sau:
“ Bị ngược đãi, người cam chịu nhục,
chẳng mở miệng kêu ca như chiên bị đem đi làm thịt,như cừu
câm nín khi bị xén lông người chẳng hề mở miệng.” ( Is
53:7)
Rỏ rệt, ngôn sứ đã ám chỉ Đức Kitô
khiêm hạ và nhẫn nhục chịu đựng mọi thống khỗ để chu toàn sứ
mạng là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian”. Người đã
im lặng không trả lời Philatô (x.Jn 19,9) hay khi bị điệu
ra trước Hội Đồng Do Thái và bị các thượng tế và kỳ mục tra
hỏi.(x. Mt 26:63). Chính nhờ sự nhẫn nhục hy sinh này của
Đức Kitô, Chiên Thiên Chúa, Chiên Vượt qua mà nhân loại được
tha thứ tội lỗi và được giao hoà lại với Thiên Chúa.
4- Là người tôi tớ
trung thành nhưng đau khổ (the Suffering Servant) của Thiên
Chúa
Tước hiệu này được ngôn sứ Isa-ia đã
nói đến từ 7 thế kỷ trước khi Chúa Giêsu đến trần gian như
sau :
“ Cũng như bao kẻ đã sửng sốt khi thấy
tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người không còn
dáng vẻ người ta nữa.” (Is 52:14)
hoậc:
“ Người bị đời khinh bỉ ruồng rãy phải
đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật Người như kẻ ai thấy
cũng che mặt không nhìn
Bị chúng ta khinh khi, không đếm xiả
đến.” ( cf. 53:3)
Nhưng dù là “con chiên bị đem đi giết”
hay là “người tôi trung đau khổ” như trên thì Chúa Giêsu
cũng chỉ hy sinh nhẫn nhục chịu đựng tất cả như vậy để thực
hiện Mầu Nhiệm yêu thương và cứu chuộc của Thiên Chúa mà
thôi, chứ không vì một lý do nào khác :
“ĐỨC CHÚA đã muốn người phải bị nghiền
nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội Người
sẽ được thấy kẻ nối dõi,sẽ được trường tồn Và nhờ người, ý
muốn của ĐỨC CHÚA sẽ thành tựu.” (cf. 53:10)
Tôi phải nhấn mạnh điều trên đây để
đính chính một sai lầm to lớn của một người đã nói: “ Đức
Kitô là đấng thánh đã thành Thánh, còn chúng ta là những
người đang cố gắng để thành thánh.” ! Sở dĩ có suy luận rất
sai lầm này vì người đó đã hiểu và giải nghĩa sai hoàn
toàn câu kinh thánh sau đây :
“ Đức Kitô đã lớn tiếng kêu van khóc
lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng
cứu người khỏi chết. Người đã được nhậm lời vì có lòng tôn
kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã đã phải trải qua nhiều
đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản
thân đã tới mức thập toàn, Người đã trở nên nguồn ơn cứu độ
vĩnh viễn cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã
được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm hàm
Men-ki-xê-đê.” (Dt 5: 7-10)
Hiểu theo nghĩa đen (literal or
textual meaning) thì câu trên có thể giải thích là Chúa
Kitô phải trải qua một tiến trình đào luyện trong đau khổ và
nhẫn nhục để được cứu sống và trở nên hoàn hảo ( nên
thánh).Nhưng thực ra có phải như vậy không ?
Chắc chắn không phải vậy. Nhìn từ góc
độ thần học sâu xa hơn thì phải nói ngược lại là Chúa
Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể đã cam lòng chịu đựng mọi thống
khổ trong thân phận Con Người, hay trong vai trò là Chiên
Thiên Chúa hoặc là Người tôi trung đau khổ của Đức Yavê
Thiên Chúa chỉ vì Người đã vâng phục Chúa Cha để thi hành
Chương Trình cứu rỗi nhân loại của Thiên Chúa chứ tuyệt đối
không vì lý do nào khác.
Thật vậy, Đức Kitô không cần phải xuống
thế làm người, phải chịu đau khổ nhục nhã ê chề mới được
“mức thập toàn” cho chính mình bao giờ. Là Thiên Chúa “
cùng bản thể và quyền phép như Chúa Cha và Chúa Thánh Thần”,
Chúa Giêu đã thập toàn ngay từ đầu với Chúa Cha và Chúa
Thánh Thần rồi, chứ không cần phải làm gì thêm về phần Ngài
nữa để được “thành Thánh” như có người hiểu lầm và giải
nghĩa sai hoàn toàn cho người khác. Chúa Kitô chịu đau khổ
nhực nhã vì “Sứ Mệnh Thiên sai=Messianic Mission” của Ngài
và vì sự “khôn ngoan của Thiên Chúa” trong việc thanh tẩy
và cưú rỗi cho con người như Thánh Phaolô đã viết:
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng
với Thiên Chúa, nhưng đãhoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc
lấy thân nô lệ trở nên giống người phàm sống như người trần
thế…..(Pl 2:6-7)
Nghĩa là, dù đóng vai “Người tôi tớ
đau khổ”, “con chiên bị đem đi giết”, dù bị xử án như một
tội nhân, dù bị khinh chê như một vật ô uế, dù cúi đầu
nhận phép rửa của Gioan tại sông Gio-đan hay dù “than khóc”
để xin tha chết trong vườn Cây Dầu , Chúa Giêsu chỉ làm
tất cả để thay cho nhân loại và để cứu chuộc cho loài
người khỏi án phạt vì tội mà thôi, chứ tuyệt nhiên không
phải vì lợi ích nào của riêng Người.
Chắc chắn như vậy. Xin nhấn mạnh điều
này.
Người quả thật là Đấng Thánh vẹn toàn
nhưng đã đóng vai người tội lỗi, bất toàn để đền tội thay
và nêu gương kiện toàn cho chúng ta là những người tội lỗi
và bất toàn. Người chịu đau khổ để nói lên giá trị của khổ
đau theo khôn ngoan của Thiên Chúa trong việc cứu chữa nhân
loại, chứ không phải Người đáng chịu đau khổ để được “thành
Thánh”!
Sau hết, trong phạm trù bản tính hay
bản thể, Chúa Kitô hoàn toàn là Thiên Chúa thật “bởi Thiên
Chúa thật” và cùng bản tính với Chúa Cha như Giáo Hội
tuyên xưng trong Kinh Tin Kính Nicene.Vậy không thể nói cách
ngớ ngẩn rằng “ Chúa Cha là thiên tính của Chúa Kitô.” !
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cùng chung bản thể
(consubstantialis) thì thiên tính của Chúa Kitô cũng là
thiên tính của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần chứ ? Nếu nói
Chúa Cha là thiên tính của Chúa Kitô thì tự bản chất, bản
thể, Chúa Giêsu không có thiên tính đó hay sao ? Vậy là
không đúng nhé, thưa người anh em.
Có chăng, chúng ta chỉ có thể nói
rằng: Chúa Kitô là vinh quang của Chúa Cha, là hiện thân
tình yêu và ơn tha thứ của Chúa Cha cho toàn thể nhân loại,
vì qua sự hy sinh chịu đau khổ của Người, Chúa Cha đã tha
thứ cho con người đáng bị luật phạt vì tôi lỗi, và hứa ban
phúc trường sinh, “thông phần thiên tính” cho những ai quyết
tâm sống và chết như Chúa Kitô. Đúng không ?
Đó là tất cả những gì tôi muốn nói thêm
để sửa chữa những sai lầm của người anh em kia đã nói không
đúng về “thiên tính của người Kitô hữu,” về “thiên tính của
Đức Kitô” cũng như giải thích sai của người anh em khác về
ý nghĩa sự đau khổ, nhẫn nhục mà Chúa Giêsu đã vui lòng chịu
trong vai trò “người tôi tớ đau khổ” của Thiên Chúa.
LM Phanxicô Xaviê
Ngô Tôn Huấn |
VỀ MỤC LỤC |
|
BIẾT ƠN NGƯỜI CAO TUỔI |
Kính dâng hương hồn Đức Tổng
Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình.
Kính tặng Đức Cha GB. Bùi Tuần, các
Đức Giám mục, linh mục, tu sĩ về hưu.
Tôi đọc trong mục Thông báo của tài liệu tĩnh tâm linh mục
giáo phận Phú Cường tháng 6.2006, thấy một mẫu thông báo
ngắn: “Tiền thau thu được trong lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu
(ngày 23.06.2006) sẽ được dùng để giúp đỡ quý cha hưu dưỡng
của giáo phận. Xin quý cha nhắc nhở giáo dân quảng đại giúp
đỡ quý cha hưu dưỡng…”.
Tôi hiểu giáo Phú Cường có những nỗ lực hết sức, và quan tâm
cách cụ thể đến những mục tử trong giáo phận, mà nay đang
sống ở tuổi xế chiều. Điều đó đúng đắn, đáng hoan nghênh,
đáng nhân lên.
Nhưng cũng từ mẫu tin ngắn ấy, tôi hiểu rằng, sự giúp đỡ vật
chất chưa phải là tất cả của lòng quan tâm, sự nâng đỡ. Suy
nghĩ đó, gợi lên trong tôi mấy việc phải làm, có khi còn
quan trọng hơn cả vật chất. Đó là lòng biết ơn đối
với những người cao niên. Từ lòng biết ơn, tôi biết mình cần
phải thông cảm và cầu nguyện cho những người
cao niên.
I. LÒNG BIẾT ƠN.
Ngày ấy, khi chúng tôi đến thăm,
Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình đã yếu nhiều. Biết
chúng tôi ở giáo phận A., và cũng trong thời gian đó, Đức
Giám mục L. của giáo phận chúng tôi vừa qua đời. Nhưng dường
như mọi người đều muốn dấu Đức Tổng Phaolô tin buồn này. Vì
thế, Đức Tổng chẳng biết gì. Đức Tổng hỏi thăm: “Đức Cha
của anh em đã khỏe chưa?”. Trong một thoáng, chúng tôi
nhìn nhau không biết trả lời thế nào. Rồi một người anh em
của chúng tôi có vẻ nhanh trí hơn, đã trả lời Đức Tổng bằng
một câu… không thành thực cho lắm: “Kính thưa Đức Tổng,
Đức Cha của chúng con không còn ở nhà thương nữa ạ!”.
Không biết Đức Tổng Phaolô hiểu câu nói ấy thế nào, mà lại
vui ra mặt: “Thế là tốt rồi. Không biết chúng tôi đã làm
được gì cho giáo phận. Nhưng những lúc yếu đau như thế này,
giáo phận vất vả với chúng tôi quá. Chúa thương chúng tôi
quá”.
“Chúa thương chúng tôi quá”. Một
lời nói quá đơn sơ, nhưng tôi lại thấy chứa cả một nỗi niềm
của đức tin, của sự cậy trông và của lòng bình an lớn. Đối
với người bình thường, thì lời nói ấy sẽ rất bình thường.
Tôi cũng hay nói như thế. Nhưng có khi trong tôi, đó chỉ là
lời sáo rỗng, nói để mà nói, nói để người ta thấy mình… “có
Chúa”. Nhưng với một người đang tiến về cõi chết như Đức
Tổng, đó phải là lời nói của một người biết mình đang tiến
về cùng Cha. Vì thế, trong giọng nói yếu ớt, run run ấy, lại
có sức lôi cuốn và gây cảm động.
Lời của Đức Tổng làm chúng tôi nghèn nghẹn làm sao ấy. Bởi
chính lúc già nua tuổi tác và yếu đau thế này, là lúc cả
giáo phận và mỗi một thành viên trong giáo phận phải chứng
tỏ lòng biết ơn của mình qua những cử chỉ chăm sóc, viếng
thăm, thì chính Đức Tổng lại biết ơn giáo phận! Bởi thế, dù
Đức Tổng đã ra đi khá lâu rồi, nhưng không chỉ lời nói mà cả
hình ảnh của ngài, tôi vẫn nhớ như in. Người lẽ ra phải được
đền ơn, lại là người mang ơn người khác. Chính những lời,
những hình ảnh cuối đời ấy của Đức Tổng đã nhắc tôi rất
nhiều về lòng biết ơn những người già cả, trong đó có cha mẹ
tôi, những người thân yêu trong gia đình, trong dòng họ, bạn
bè, và đông đảo những người già cả âm thầm dâng hiến những
hy sinh từng ngày để cầu nguyện cho ơn gọi trong Hội Thánh.
Trong số đó còn có không biết bao nhiêu hồng y, giám mục,
linh mục, tu sĩ ở tuổi nghỉ hưu.
Cách riêng, là linh mục đang coi xứ, tôi duy trì lòng biết
ơn các vị tiền nhiệm của mình. Nơi giáo xứ mà tôi đang có
trách nhiệm, có cả một bề dày lịch sử hàng trăm năm. Hàng
trăm năm, để lại dấu ấn của không biết bao nhiêu người đã đi
qua. Từ những vị thừa sai khởi gieo mầm giống đức tin, đến
tất cả những ai chung sức, chung lòng, nhuộm thắm mồ hôi,
nước mắt, và cả xương máu nữa, trao lại gia sản đức tin quý
giá cho đời sau. Vì thế, để thỏa lòng biết ơn của mình, thế
hệ con cháu phải làm sống động đức tin, lòng đạo đức và xây
dựng giáo xứ bằng tất cả tinh thần trách nhiệm của mình.
II. NIỀM CẢM THÔNG.
Đã chứng kiến những ngày cuối đời của Đức Tổng Phaolô Nguyễn
Văn Bình, gần đây lại được đọc cảm nghiệm lắng sâu như một
lời trăn trối của một vị Giám mục “chẳng còn xa Nước Thiên
Chúa bao nhiêu”, tôi lại thấy lòng mình dâng tràn thương
cảm, đồng thời cũng kính phục sự chiến đấu dũng cảm đối với
những đau đớn, bệt tật, sự cô đơn của những con người ở tuổi
hoàng hôn khi phải cùng vác thánh giá với Chúa Kitô lên Đồi
Tử Nạn. Cảm nghiệm lắng sâu đó là hai bài viết của Đức Cha
Gioan Baotixita Bùi Tuần: “Xin đừng sa thải và bỏ rơi con”
(Công giáo và Dân tộc số 1549) và “Cuộc đời thanh vắng”
(Công giáo và Dân tộc số 1560).
Để thông cảm với người lớn tuổi,
và thông cảm cách hiệu quả nhất, thông cảm như chính mình là
người trong cuộc, tôi nghĩ, cách hay nhất là lắng nghe tâm
tư của họ. Tôi coi những chia sẻ rất cảm động của Đức Cha
Bùi Tuần là đại diện cho nỗi lòng của lớp người lớn tuổi.
Đọc lại những chia sẻ đó, tôi thấy mình thật sự gần gũi,
không chỉ với Đức Cha mà còn với lớp lớp người tuổi cao, sức
yếu.
Bằng suy niệm Thánh Kinh: “Xin
đừng sa thải con lúc tuổi đà xế bóng. Chớ bỏ rơi con khi sức
lực suy tàn” (Tv 71,9), Đức Cha Gioan Baotixia Bùi Tuần,
không chỉ muốn viết về mình, viết cho mình mà còn viết về và
viết cho cả một lớp người dễ bị chúng ta “bỏ quên”, hoặc tệ
hơn, nhiều người già bị con cháu coi là “phế nhân”: “Đây
là những lời (tức TV 71,9) xem ra nói lên đúng hoàn
cảnh của tôi. Thiết tưởng hoàn cảnh của tôi cũng là hoàn
cảnh của nhiều người" (Xin đừng sa thải và bỏ rơi con).
Đức Cha thật lòng bộc bạch:
“Các ngài đang sống hiệp thông giữa Hội Thánh Việt Nam vừa
hoạt động, vừa thầm lặng. Gánh nặng trách nhiệm đã trao nay
được cất khỏi các ngài. Nhưng gánh nặng về bệnh tật thân xác
và về khổ đau tâm hồn nhiều khi lại mỗi ngày mỗi tăng thêm.
Với những gánh nặng âm thầm ấy, nhiều vị sống cuộc đời hưu
thanh vắng. Trong cuộc sống thanh vắng ấy, nhiều giáo sĩ và
tu sĩ về hưu đã là những thành phần thật sự phục vụ hữu ích,
ngay trong hoàn cảnh bại liệt…” (Cuộc đời thanh vắng).
Hoặc: “Tuổi già sức yếu và bao điều đi theo tuổi già sức
yếu đều là những xuống cấp gây nên do luật tự nhiên một cách
thông thường” (Xin đừng sa thải và bỏ rơi con).
Dù phải gánh nhiều khó khăn nơi
thân xác, lẽ ra người ta sẽ rã rời mệt mỏi. Cũng có thể, có
lúc do phải chịu đựng nhiều, người ta dễ cay đắng cho bản
thân mình. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Những người phải
sống “cuộc đời thanh vắng”, lại cảm nghiệm rất sâu lòng yêu
thương của Chúa. Dường như chính lúc thanh vắng này, là lúc
sự cảm nghiệm ấy càng mạnh mẽ, càng lớn lao: “Mặc dầu
hưu, các ngài vẫn đi theo Chúa bằng cách thích hợp mà Chúa
soi cho các ngài…Nhiều vị về hưu đã chia sẻ cho tôi biết sự
các ngài nghe tiếng Chúa gọi các ngài trong đời hưu”
(Cuộc đời thanh vắng). Dù phải sống cuộc đời thanh vắng, các
ngài vẫn khẳng định: “Đó không phải là dấu Chúa sa thải,
bỏ rơi. Trái lại, những ai khiêm tốn vâng phục ý Chúa, chấp
nhận chuyển biến tự nhiên đó, sẽ cảm thấy thanh thản. Hơn
nữa, nếu họ đón nhận với lòng mến Chúa, với ý thức mình được
Chúa yêu thương, thì họ sẽ được hạnh phúc. Hạnh phúc này
Chúa dành riêng cho những ai chịu thử thách mà vẫn trung
thành” (Xin đừng sa thải và bỏ rơi con).
Đọc lại, dù chỉ là một chút những
tâm tình của Đức Cha, chúng ta thấy trong nội tâm của chính
mình gọi về một đòi hỏi lớn: đó là niềm kính trọng, sự yêu
thương đối với người cao tuổi. Yêu thương và kính trọng sẽ
giúp ta thông cảm với những đổi thay của tuổi già. Những đổi
thay đó càng gây cực lòng bao nhiêu, thì càng phải cảm thông
bấy nhiêu. Niềm cảm thông của chúng ta còn là sự nâng đỡ tốt
nhất mà người tuổi già rất cần. Niềm cảm thông ấy lớn bao
nhiêu thì sẽ mang lại cho người tuổi già sự vui sống, lòng
ham thích được sống lớn bấy nhiêu. Chúng ta không được quyền
bỏ rơi người lớn tuổi, càng không bao giờ được phép coi họ
như phế nhân. Hãy để cho người tuổi già có dịp trụ lại trong
trái tim mỗi người chúng ta. Vì nếu cư ngụ được trong trái
tim ai, đó là hạnh của người được cư ngụ. Hạnh phúc khi được
trụ lại trong trái tim yêu thương của ta, hạnh phúc ấy chính
là quà tặng quý giá vô cùng, ta dành cho người ở tuổi cao.
Nếu Chúa muốn chúng ta sống lâu
năm, thì rồi bất cứ là ai, giai tầng nào, đều phải sống
những ngày hoàng hôn của đời mình. Đọc những suy tư quý báu
của Đức Cha, tôi không chỉ hiểu và đồng cảm hơn với người
tuổi già, mà còn nhìn thấy trước chính tương lai đời mình.
Càng hiểu rằng bất cứ ai cũng đều có thể bước vào hoàng hôn
cuộc đời, tôi càng muốn chia sẻ thật nhiều, nhiều hơn nữa
niềm thông cảm của mình với người tuổi cao.
III. CẦU NGUYỆN.
Cầu nguyện phải là việc làm trước
tiên, khi chúng ta tỏ lòng kính trọng, yêu mến người già.
Chính bản thân tôi, không thể nhớ là bao nhiêu lần, đã xin
người khác cầu nguyện cho mình. Mỗi một lần thăm viếng bệnh
nhân, thăm viếng người già yếu liệt, tôi đều xin họ dâng hy
sinh của chính họ cầu nguyện cho tôi. Cũng vậy, không ít
lần, anh chị em được tôi thăm viếng đã ngỏ lời xin tôi cầu
nguyện. Hiểu được tầm quan trọng của ơn Chúa cho đời người,
trong các giờ kinh hằng ngày, tôi vẫn thường thốt lên cùng
Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa đoái thương đến tất cả những người
đã từng xin con cầu nguyện, những người con có trách nhiệm
phải cầu nguyện cho, những người con đã hứa cầu nguyện cho.
Xin Chúa ban cho họ ơn của Chúa và giúp họ sống theo thánh ý
Chúa”.
Tin tưởng vào ơn Chúa là món quà
rất đỗi thánh thiêng, hiệu nghiệm, có sức mạnh diệu kỳ, tôi
vẫn thầm thỉ cầu nguyện cho những bậc cao niên. Những bậc
cao niên ấy là ông bà, cha mẹ, mọi người thân thuộc của tôi.
Họ cũng là tất cả những người để lại những dấu ấn, những kỷ
niệm trong cuộc đời tôi. Họ còn là tất cả những người tôi
biết mặt biết tên, hay không biết mặt, biết tên:
Tôi xin Chúa ban cho họ sức mạnh
để họ chịu đựng những khó khăn, những bệnh tật và vô vàn các
giới hạn của tuổi già.
Tôi hiến dâng những người lớn
tuổi cho Chúa Kitô thánh giá, Người sẽ biến đau khổ của
những bậc già nua thành hoa trái đạo đức, hoa trái của ơn
cứu chuộc.
Tôi hiến dâng những người lớn
tuổi cho mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô, để từ trong
chính những đau khổ của mình, họ được nâng đỡ, được vui mừng
và hạnh phúc vì được tin tưởng và cảm nhận sức sống của ơn
thánh bừng lên trong đau khổ mà họ phải chịu đựng.
Tôi xin Chúa chấp nhận và biến
lòng can đảm, sự chịu đựng của người lớn tuổi thành hoa trái
của ơn truyền giáo, để danh Chúa được cả sáng và họ được
tham dự vào sứ mạng truyền giáo của Hội Thánh.
Tôi xin Chúa, nhờ những hy sinh
và lời cầu nguyện thầm lặng của những người lớn tuổi, làm
cho mọi người thiện tâm được ơn thánh hóa; người nguội lạnh
được ơn trở lại; người đau khổ, nghèo khó, bệnh tật, dốt
nát, tù đày, mồ côi, bị bỏ rơi, mỏi mệt, bạc mệnh, thất
vọng, bị phụ tình, góa bụa, các trẻ em và các phụ nữ bị mua
bán, bị lợi dụng… được ơn ủi an và nâng đỡ; người vất vả lầm
than được ơn hiểu biết sức mạnh cứu chuộc trong lao động; cả
những người giàu sang, hạnh phúc cũng được ơn biết rung động
con tim, để họ không vô tâm nhưng chia sớt và thông cảm
trước những anh chị em rủi ro, xấu số; và tất cả những ai là
con cháu, người thân thuộc, những ai được coi là bình
thường, mạnh khỏe, trẻ trung được ơn yêu mến, tận tụy, kiên
nhẫn, quan tâm săn sóc những người lớn tuổi, những người
thiếu khả năng về tinh thần cũng như thể lý…
Tôi xin Chúa ban cho các mục tử
ơn quan tâm đặc biệt đối với những bậc già cả và người bất
hạnh trong công tác mục vụ hằng ngày.
Tôi cũng xin Chúa ban cho mọi
người, nhất là anh chị em tín hữu ơn yêu thương, quý trọng
các mục tử đã từng sống với họ, và tất cả các giáo sĩ, tu sĩ
hiện đang phải sống trong tuổi hoàng hôn.
Tôi đặc biệt xin Chúa ban cho tôi
có một trái tim biết đập bằng chính những nhịp đập của Trái
Tim Chúa Giêsu, để như Người, tôi luôn sống với mọi người
bằng đức bác ái mục tử cao độ, nhất là sống bác ái với những
người lớn tuổi xung quanh tôi.
Lm. VŨ XUÂN HẠNH
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Đói khát hiệp thông |
Trong sống chung ở đời, các cụm từ diễn tả mối quan hệ giữa
người với người kể ra rất nhiều: trao đổi, giao lưu, đối
thọai, vv.. Đối thọai với địch thù, kẻ lạ cả với người thân.
Trong quá trình đối thoại và trao đổi với nhà Đạo, các cụm
từ này nhường chỗ cho sự hiệp thông, kết hợp. Đây là sự liên
kết cả về thể xác, lẫn tinh thần. Chí ít, là chuyện thiêng
liêng, linh đạo.
Mới đây, tôi được mời đến ăn tối ở nhà người bà con, thân
thuộc. Gia đình lúc ấy đang ở trong tình huống lúng túng với
cô con gái tuổi mới 13, mà tinh khí đã thất thường. Trước
mặt khách quan, mà cô bé vẫn tỏ thái độ bất cần đời, nổi
lọan. Cô không thích món rau trộn mẹ cô làm. Nên, mặt mày cô
ủ rũ, nhất quyết tuyệt thực, để phản đối. Tự nhiên, món rau
trộn trở thành đầu giây mối nhợ cho một mâu thuẫn, nghịch
thường giữa hai thế hệ, mẹ và con.
Bà mẹ cố nhỏ nhẹ thuyết phục con gái yêu bằng những lời lẽ,
rất ôn tồn: “Con à, phí của giời như thế, tội chết! Con
biết không, trên thế giới còn rất nhiều người thèm được ăn
cọng rau con bỏ đi, đấy. Họ mà ăn được đĩa sà-lát này, chắc
sẽ nhớ ơn suốt đời”. Nghe thế, chẳng nói chẳng rằng, cô
bé vụt dậy, bỏ đi nơi khác. Hồi sau trở lại, cầm chiếc phong
bì lớn với cây bút nét đậm, cô đổ luôn đĩa rau vào phong
bì, dán lại rồi vùng vằng nói: “Vậy chứ, bà muốn tôi gửi
gói rau thúi cho đứa chó chết nào đây? Địa chỉ đâu?”
Chứng kiến cảnh ‘hỡi ôi’ ấy, tôi thấy, ở đời làm cha làm mẹ
không phải chuyện dễ. Sống độc thân như tôi, có khi thế mà
lại hay. Nhưng, tất cả vẫn là: thông cảm, hòa hoãn, và kết
hợp.
Phúc âm hôm nay cho thấy, khi biến 7 chiếc bánh và 5 con cá
nuôi đủ 5 ngàn người, Đức Kitô nói thêm: “Mấy ông hãy
thâu nhặt các vụn vặt, còn thừa. Đừng bỏ phí.” Nghe
Ngài nói, chắc người phương Tây chúng ta cũng chẳng bao giờ
mường tượng nổi cái cảnh bụng đói cồn cào mà người dân ở các
nước chậm phát triển đang gặp, hằng ngày. Có chứng kiến cảnh
người nghèo đói chết dọc đường, các nước Âu Mỹ mới biết họ
đang phung phí của ăn thức uống, đến chừng nào. Có lẽ, phải
là than thuộc người nhà đang chết dần chết mòn vì đói, hẳn
mọi người mới thấy quý cuống rau, hột gạo. Và, dân tộc nào
một khi đã kinh qua cảnh kinh tế suy thoái, chiến tranh điêu
tàn, mới thấu hiểu ý nghĩa của câu nói: “Đừng bỏ phí!”.
Ngày nay, những ai có kinh nghiệm về đói - nghèo, đều đã
cảnh giác trước những tình huống phung phí, đổ bỏ. Trong khi
đó, ngược lại, vẫn có nhiều người tìm cách quên đi những
tháng ngày cồn cào, thời bĩ cực. Họ chỉ biết quan tâm chuyện
‘khoan khóai’, hưởng thụ. Với người sống ở các nước đã phát
triển, như cô bé tuổi 13 vừa kể, đói và khát chỉ là chuyện
trong sách vở, quá khứ. Con người ngày nay đã quên đi các
thảm cảnh xưa cũ, đang ‘ăn vào’ thân xác của mình, để rồi cứ
thế béo phì, dư mỡ.
Có người còn cho rằng: câu truyện Phúc âm về 5000 người được
nuôi béo, đủ ăn, hòan toàn có tính cách tượng trưng, giả
tưởng. Chẳng cần tranh cãi, câu truyện Tin Mừng hôm nay qui
chiếu về Thân Mình Đức Kitô, nơi đó chúng ta đang được Đức
Chúa nuôi dưỡng bằng tình thương yêu, linh đạo. Tin Mừng của
Chúa còn soi dọi về bữa tiệc long mến viên mãn, kéo dài.
Ở nơi đó, không còn ai bụng đói, chết thèm.
Dù chỉ cuống rau, hột gạo hoặc giọt nước trong lành.
Tin Mừng của Chúa đòi chúng ta nhìn vào thế giới hôm này,
với nhãn giới Vương quốc Nước Trời; ở đó, vị Chúa tể Tình
thương vẫn san sẻ, quyết rời bỏ chốn ngai vàng bệ cao, ngõ
hầu những người bụng cồn dạ đói, mới có được sự đỡ nâng, no
đầy. Và, cùng lúc ấy, các người giàu sang, phung phí lâu nay
chẳng đoái hoài đến chuyện sẻ san, nuôi sống kẻ khác, sẽ bị
án phạt, chúc dữ.
Có một yếu tố được gọi là sự ‘lầm-lỡ ân-tình’. Chính nhờ yếu
tố này, chúng ta biết được những gì ta chịu làm, hoặc vẫn
không muốn làm, ngõ hầu đem Vương quốc Nước Trời về với
thế-giới-có-quá-nhiều-thức-ăn-thừa-mứa. Nếu biết rằng, trên
thế giới, mỗi ngày bình quân có đến 29,000 người đã và đang
chết một cách lãng phí, chỉ vì thiếu thức ăn, nước uống; và
từ đó, là bệnh tật do thiếu thốn, do thái độ cố ý quên lãng
nơi những người dư ăn, dư mặc là chúng ta; thì thử hỏi: phải
chăng đây là một đáp trả có lý lẽ, hẳn hòi?
Vấn đề đặt ra hôm nay, là: có một khoảnh khắc trầm lặng,
lành mạnh nào đó khơi dậy cuộc sống của chúng ta, về một
chuyển đổi các thứ tự ưu tiên trong mọi sự việc. Chuyển đổi
các thứ tự ưu tiên trong hành động, để rồi dẫn đến kêu gọi
phải có thay đổi trong quyết định đối xử với nước nghèo,
người nghèo? Cụ thể hơn, cần có một thay đổi về hệ cấp ưu
tiên trong hành xử; ưu tiên cao, từ nay, không còn tùy vào
số lượng và kết quả của súng ống bom đạn nữa, mà là số lượng
các bé lê lết thân gầy, những bụng cồn, dạ đói, đang chết
khát.
Tôi vẫn tự hỏi: Đức Chúa nghĩ gì khi Ngài nghe người các
nước giàu sang biện luận rằng: sở dĩ họ không chia sớt thức
ăn, của cải cho người nghèo đói, là vì tại đây vẫn còn các
nhà độc tài, tự cao tự mãn, chuyên ăn trên ngồi chốc, không
lo cho con dân của mình; thậm chí, vẫn cứ vơ vét tiền tài,
vật chất đem chôn giấu tại các ngân hàng úp mở ở Thụy sỹ
-hay đâu đó- hoặc vẫn bỏ tiền ra quyết xây dựng thật nhiều
vũ khí hạt nhân, qui ước. Và, muôn ngàn lý do khác khả dĩ
biện minh cho thái độ ơ hờ, quên lãng.
Dù có phải đối đầu với những vấn đề phức tạp như thế, chúng
ta vẫn còn khá nhiều phương thế thực tiễn hầu cứu sống
người đói kém, nghèo hèn. Bởi, người nghèo đói có được cứu
sống, đỡ nâng tăng cường sinh lực, thì một ngày nào đó, mới
có khả năng lo cho đất nước, dân tộc của chính mình.
Với câu xấc xược của cô bé tuổi 13: “Vậy chứ, bà muốn tôi
gửi mớ rau thúi cho đứa nào đây?” tôi đã có câu trả lời:
“Này cháu, hãy viết chính tên mình vào bì thư mà gửi.
Bởi, chính sự dư dật thừa mứa lâu nay đã biến cháu thành
người có nhiều nhu cầu nhất thế giới rồi đó.”
Cầu mong Tiệc thánh hôm nay giúp ta làm được đôi chuyện cho
trái đất này, như ta sẽ làm ở nơi cao, chốn vĩnh hằng, muôn
thuở. Bởi, Vương quốc Nước Trời chính là chốn có nhiều người
bụng đói, môi miệng khát thèm dù chỉ một giọt nước trong
lành. Bởi, nơi đó, mọi người không kể đói no giàu nghèo, đều
được đón tiếp, ăn uống thỏa thuê. Bởi, những gì ‘dư thừa
còn sót’ đã được các đấng công chính thu nhặt lại, chẳng bỏ
phí. Và, ở nơi đó, chẳng có gì để vứt bỏ, phung phí.
Quả là, trần gian còn đó nỗi buồn. Buồn, vì vẫn còn nghịch
lý, trớ trêu. Trớ trêu và lý lẽ rất nghịch là bởi người đời
sống với nhau rất gần, kéo dài nhiều năm tháng, nhưng vẫn
chẳng tìm đâu ra nỗi niềm hân hoan, trao đổi. Người người
vẫn cứ quan hệ đối trao, nhưng nào có được sự cảm thông, kết
hợp. Chí ít, là thông cảm thắm thiết tình mẹ con, chồng vợ.
Nỗi buồn trần gian cứ mãi miên trường, không dứt. Và, trớ
trêu vẫn chỉ chấm dứt, khi những người con trâng tráo, xấc
xược biết thông cảm, hiểu được mẹ hiền. Nghịch lý cuộc đời
sẽ chỉ kết thúc, một khi kẻ giàu người sang biết san sẻ tiền
tài, vật chất với dân hèn mạt kiếp, đang cồn cào đói khát
hiệp thông, chia sớt. Chia thức ăn, nước uống; sớt tình yêu
thương, vỗ về. Khi ấy, Nước Trời đã trở thành hiện thực.
Vương quốc Đức Kitô đã nên ngời sáng.
Đấy mới là nhu cầu ‘ắt và đủ’ trong cuộc sống, người đời.
Lm Dã Sơn Minh Cát (Úc
châu)
Mai Tá diễn dịch. |
VỀ MỤC LỤC |
|
RA ĐI |
Trong công tác mục vụ, “vì phần rỗi các linh hồn” (x. Giáo
luật điều 1752) các Giám Mục, hay Bề Trên Dòng sẽ thuyên
chuyển các Linh Mục và Tu Sĩ từ giáo xứ này đến giáo xứ
khác. Nhận “bài sai” của bề trên, đương sự phải sẵn sàng rời
xa nơi mình đã gắn bó, lên đường, ra đi.
Con ra đi vì được sai đi. Ra đi là chấp nhận rời xa người ở
lại, ra đi để thi hành một công việc mới mà Chúa muốn.
Có người nói, ra đi là chia ly, chia ly là “chết đi trong
lòng một ít.” Nếu điều này đúng thì ai chết ? Người đi hay
người ở lại ? Người sống đời thánh hiến, theo Chúa Kitô,
Đấng luôn lên đường thi hành sứ vụ, Đấng “không có chỗ tựa
đầu” (Mt 8, 20) thì phải dám ra đi, kể cả đi để chết “Đã hẳn
Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người.” (Mt 26, 24)
Biết bao tấm gương trong Kinh Thánh đã dám can đảm ra đi.
“Ông Áp-ram ra đi, như ĐỨC CHÚA đã phán với ông. Ông Áp-ram
được bảy mươi lăm tuổi khi ông rời Kha-ran.” (St, 12, 4)
Tuổi 75 của Abraham là tuổi hưu theo giáo luật ngày nay của
các Giám Mục và Cha Sở, tuổi an phận, hưởng già, thế mà phải
ra đi, dám ra đi, dám lên đường theo lệnh Chúa, đi để bắt
đầu một cuộc sống khác, ở nơi khác.
Được gọi là Cha của kẻ tin, mẫu mực của lòng tín thác trong
Cựu Ước, “Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa
gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia
nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu.” (Dt11,
8) nhưng tổ phụ của chúng ta ra đi đâu có dễ, ông đã phải
hỏi Chúa : “Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Chúa sẽ ban cho con
cái gì? Con ra đi mà không con cái, và người thừa tự gia
đình con là Ê-li-e-de, một người Đa-mát."(St 15, 2).
Linh mục, Tu sĩ ngày nay phải ra đi, phải dám rời nơi mình
muốn lưu lại, can đảm đi đến nơi mình không rõ. Người ra đi
có hỏi gì Chúa không ? Nếu có hỏi đến đó con sẽ sống với ai,
liệu những người mới có dễ chịu, phù hợp với con không… thì
chắc chắn sẽ nhận được câu trả lời mà Chúa đã dành cho
Abraham, cho Môsê, và bao người khác khi còn do dự : “Đừng
sợ, vì Ta ở với ngươi.” (St 26, 24) ; “Này Ta ở với ngươi;
ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta sẽ giữ gìn ngươi” (Xh 28,15).
Người tu sĩ đến đâu cũng là đến nơi Chúa bảo, để sống với
Chúa, ở với Chúa, và được Chúa giữ gìn.
Theo chương trình của Chúa, cô Rêbêca đã dám rời gia đình để
đến với tổ phụ Isáac : “Cô Rê-bê-ca cùng với các tớ gái đứng
dậy, cỡi lên lạc đà mà đi theo người lão bộc. Ông nhận cô
Rê-bê-ca và ra đi.” (St, 24, 61). Phận nữ nhi một thân một
mình đến chung sống với người khác. Nhưng Rêbêca cứ đi và
lại thích đi nữa.
Ra đi theo lệnh Chúa sẽ luôn bình an, vì hy vọng ân sủng sẽ
thực hiện những điều kỳ diệu mà Đức Chúa đã làm cho Môsê khi
sai ông đi. Đức Chúa đã hứa, và thực hiện nơi vị anh hùng
giải phóng Dân Chúa thời nô lệ :"Khi ngươi ra đi để trở về
Ai-cập, ngươi hãy nhìn xem: mọi điều lạ lùng Ta đã ban cho
ngươi có quyền làm, thì ngươi sẽ làm trước mặt Pha-ra-ô…"(Xh
4, 21). Và Môsê, người chăn chiên ấy đã dám đương đầu, cùng
làm được nhiều điều kỳ diệu với Pharaô và toàn cõi Aicâp.
Ra đi sau khi cầu nguyện, và trong tinh thần cầu nguyện sẽ
được hưởng lời chúc phúc của ông Eli dành cho bà Anna, mẹ
ngôn sứ Samuen : “Bà hãy đi về bình an, Thiên Chúa của
Israel ban cho bà điều bà xin người” ; và người nữ được tán
dương ấy đã quên đi những ưu sầu : "Ước chi nữ tỳ của ngài
đây được đẹp lòng ngài!" Rồi người đàn bà ra đi; bà dùng bữa
và nét mặt bà không còn như trước nữa.” (1Sm 1, 17-18)
Ra đi thi hành sứ vụ quan trọng, sẽ được hưởng lời chúc phúc
của Ông Út-di-gia và các thủ lãnh dành cho bà Giuđitha "Chúc
bà ra đi bình an và xin Đức Chúa là Thiên Chúa hằng đi trước
…” (Gđ 8, 35)
Ước mong những lời cầu chúc ấy được thành sự nơi những người
ra đi, để cho dù phải đến nơi khắc nghiệt, xa cách, nơi :
“Trước khi con ra đi, không hẹn ngày trở lại, đi về nơi tăm
tối, dưới bóng tử thần,” (G 10, 21) ; ra đi với tâm trạng có
lúc nặng nề “Xin ngoảnh mặt đi cho lòng con thanh thoả,
trước lúc thân này phải ra đi và không còn nữa.” ( Tv 39,
14) ; “Con ra đi, như chiều tà bóng ngả, bị cuốn lôi đi như
gió cuốn cào cào.” (Tv 109, 23), “Tôi có nói: nửa cuộc đời
dang dở mà đã phải ra đi, bao tháng năm còn lại, giam tại
cửa âm ty.” (Is 38, 10), người ra đi luôn xác tín “Ai nghẹn
ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra
đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về
reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.” (Tv 126, 5-6)
Các nữ tu ra đi truyền giáo, là làm công việc đưa đàn chiên
đến gặp chủ chăn của cộng đoàn, xứng đáng hưởng lời ca của
Diễm Ca1, 8 : “Này hỡi trang tuyệt thế giai nhân, nếu quả
nàng không biết, thì hãy ra đi theo vết chân đàn cừu, mà dẫn
dê con của nàng đi ăn quanh các lều mục tử.” Giúp các tông
đồ ngày nay, và làm việc tông đồ, người nữ tu được động viên
bằng chính lời Thầy Giêsu Chí Thánh dành cho các tông đồ :
"Khi các con vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò
hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến
lúc ra đi”. (Mt 10, 11) ; “Các con hãy ra đi. Này Thầy sai
các con đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.” (Lc 10, 3) ;
“Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn
các con, và cắt cử các con để các con ra đi, sinh được hoa
trái, và hoa trái của các con tồn tại.” (Ga 15, 16). Nhờ sức
mạnh của Lời Chúa, người được sai đi sẽ ra sức chu toàn sứ
vụ như các tông đồ : “Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức
Giê-su đã truyền.” (Mt 21, 6) ; “Còn các Tông Đồ thì ra đi
rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động .” (Mc 16, 20)
Nhớ đến những người mình đã chung sống và phục vụ, người ra
đi có thể lưỡng lự như thánh Phaolô : “Vì tôi bị giằng co
giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức
Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần, nhưng ở lại thì cần thiết
hơn vì anh em… ở lại và ở bên cạnh tất cả anh em để giúp anh
em…” (Pl 1,23-24) ; hay lo lắng cho thiệt hại có thể xảy đến
với cộng đoàn mình gắn bó :"Phần tôi, tôi biết rằng khi tôi
đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng
không tha đàn chiên…” (Cv 20, 29) Thế nhưng, phải can đảm và
tín thác vào Chúa quan phòng, biết khiêm tốn nhìn nhận có
khi mình ra đi vì lợi ích của đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã
tâmsự :“Thầy nói thật với anh em: Thầy ra đi thì có lợi cho
anh em.” (Ga 16, 7) và mạnh mẽ lên đường, sau khi dâng những
người thân yêu ở lại cho Chúa :”Giờ đây, tôi xin phó thác
anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, là lời
có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài
cùng với tất cả những người đã được thánh hiến.” (Cv 20, 32)
Có thể có những cuộc chia ly rất cảm động diễn ra như thánh
Phaolô và các kỳ mục Ephêsô tại Milêtô : “Nói thế rồi, ông
Phao-lô cùng với tất cả các anh em quỳ gối xuống cầu nguyện.
Ai nấy oà lên khóc và ôm cổ ông mà hôn. Họ đau đớn nhất vì
lời ông vừa nói là họ sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Rồi họ
tiễn ông xuống tàu.” (Cv 20 36-38)
Người ở lại muốn tiễn người ra đi bằng lời ông Gít-rô-bố vợ
Môsê dành cho Mô-sê –lời của Cha dành cho con “Con đi bình
an!" (Xh 4, 18) và tin tưởng cầu chúc rằng :
“Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình,
dựng lên bảy cây cột,
hạ thú vật, pha chế rượu, dọn bàn ăn
và sai các nữ tỳ ra đi.
Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố
và kêu gọi:
"Hỡi người ngây thơ, hãy lại đây!"
Với người ngu si, Đức Khôn Ngoan bảo:
"Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế!
Đừng ngây thơ khờ dại nữa, và các con sẽ được sống;
hãy bước đi trên con đường hiểu biết." (Cn 9, 1-6)
Chính Chúa Giêsu Thánh Thể-“Đức Khôn Ngoan sẽ xây nhà, dọn
bàn ăn, ban khôn ngoan cho những “nữ tì ra đi”, cho những
Cha Sở đến nhiệm sở mới, những người đã, đang và sẽ cảm
nghiệm “Việc Chúa khởi sự nơi con, Ngài sẽ hoàn tất. Lạy
Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 138, 8)
Bình An, 09.08.2006
Lm. Phêrô Nguyễn Hữu Duy
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GIÁO HỘI
TẠI GIA
Hay
Linh Mục Gia Đình |
Từ sau Công đồng Vatican II , Giáo hội
đã rất quan tâm đến Gia đình một cách đặc biệt và gọi Gia
đình là Giáo hội tại gia hay Giáo hội nhỏ. Đến đời ĐTC
Phaolô VI, ngài gọi các cha mẹ, gia trưởng hay anh chị lớn
là Linh mục Gia đình hay Linh mục tại gia.
1-
Những danh từ này vẫn còn xa lạ với nhiều Kitô hữu, vì họ
chưa được học hỏi, nhất là các bậc cha mẹ, vì bận kế sinh
nhai nên chưa có giờ suy nghĩ về nhiệm vụ thật quan trọng
này.
2-
Theo hiến chế về Giáo hội hôm nay thì Giáo hội là mỗi người
Kitô hữu, mỗi Gia đình, mỗi Cộng đoàn Giáo xứ, Giáo phận
chúng ta là Giáo hội, chứ không phải Giáo hội chỉ ở bên
Rôma.
3-
Giáo hội tai gia hay Gia đình là Giáo hội nhỏ. Vậy ai là
người có trách nhiệm trong Giáo hội này? Chính là các cha mẹ
hay anh chị lớn, họ có một chức năng và trách nhiệm như là
môt Linh mục phụ trách một Giáo xứ. Đó là “Linh mục tại gia
hay Linh mục Gia đình.”
4-
Họ có trách nhiệm dạy bảo con em về đời sống đạo đức nhân
bản đối với mỗi người trong Gia đình và tha nhân ngoài Xã
hội. Họ có bộn phận dạy Giáo lý và dẫn giải Lời Chúa cho con
em qua bài bài giảng của Cha sở hay những kinh nghiệm về
sống đạo của mình.
5-
Mỗi buổi tối trong ngày hoặc ít mỗi tuần một lần, Gia trưởng
nên xếp thì giờ thuận tiện tập hợp mọi người lại, chính cha
mẹ hay anh chị đốt nến trên bàn thờ, rồi nói ý cầu nguyện
chung. Phân công người đọc Lời Chúa, dẫn ý suy niệm xem ý
Chúa muốn dạy điều gì và áp dụng bài Phúc âm vừa đọc vào đời
sống. Có thể suy niệm một chục kinh Mân côi, rồi Cám ơn
trông cậy, Sau cùng, cha mẹ, con em cùng chia sẻ những vui
buồn và nhắc nhở những điều cần thiết.
6-
Nhiều vị Gia trưởng hay cha mẹ kêu rằng đời sống hôm nay
nhiều cực nhọc, vất vả, về đến nhà thì qúa mệt, còn thì giờ
đâu mà lo cho việc đạo đức cho con cái, đã có các Linh mục,
các Dì, Sơ lo việc đó. Nghĩ như thế, qúi vị đã khoán trắng
cho các ngài, mà quên rằng từ sau khi chịu phép Rửa tội mỗi
Tín hữu đã đã lãnh nhận ba chức vụ Tư tế, Tiên tri và Vương
đế, nhất là từ sau Công Đồng Vatican II, Giáo hội đã trả lại
ba chức vụ này cho các Tín hữu rồi.
7-
Trong thực tế, hàng tuần các Cha xứ hay các Sơ chỉ dạy cho
con em chúng ta được một giờ và hai giờ học Giáo lý là
nhiều. Các ngài không thể làm thay chúng ta bẩy ngày trong
tuần được. Do đó chức vụ Linh mục Gia đình hay tại gia của
qúi vị thật là quan trọng.
8-
Chỉ khi nào các bậc phụ huynh quan tâm đến “Giáo hội tại
gia” cùng với các Linh mục, Phó tế, Tu sĩ thì mới thực sự
đáp lại Lời mời gọi của Chúa Kitô để thực hiện một Giáo hội
tai gia hay Gia đình là Giáo hội nhỏ, trong thân thể là Giáo
hội Mẹ được. Lúc ấy, các cha mẹ đã làm tròn chức vụ Linh mục
Gia đình của mình.
Thánh Phaolô đã gọi qúi vị là dân
thánh, hàng tư tế thánh của Chúa, thật qúi trọng biết bao !
Mới đây nhất trong bài diễn văn của
ĐTC Biển Đức XVI cho các Gia đình trong Đại hội lần thứ V về
Gia đình trên thế giới, tại Valencia Tây Ban Nha, tôi xin
tóm tắt vài điểm chính như sau:
Gia đình được gọi là Giáo hội tại
gia vì hiệp thông với Giáo hội.
Gia đình là trường học huấn luyện
công cuộc phát triển nhân bản.
Gia đình là môi trường ưu tiên
Một cho việc học hỏi sống đạo.
Gia đình là cơ chế trung gian
giữa cá nhân, Xã hội và Dân tộc.
Gia đình là nơi vun trồng tình
yêu với sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Gia đình là điều thiện hảo, là
nền tảng không thể thiếu cho Xã hội.
Gia đình là nơi cha mẹ hứa trước
mặt Thiên Chúa chấp nhận nhau.
Cuối cùng ĐTC nói đây là chủ đề
trách nhiệm “Thông Truyền Đức Tin trong Gia đình”. Giáo hội
có trách nhiệm Mục vụ giảng dạy, nâng đỡ, khích lệ sự gắn
chặt giữa cha mẹ, con cái trong Gia đình.
Tôi muốn ngỏ lời với các ông bà Nội
Ngoại, những thành phần rất quan trọng trong Gia đình; những
người bảo đảm cho tình thương và sự dịu dàng mà mọi người
cần cho đi và lãnh nhận. Ông bà Nội Ngoại cống hiến cho các
cháu một ký ức và sự phong phú của Gia đình. Và là một kho
tàng không thể nào quên lãng trong thế hệ mới này, khi làm
chứng về đức tin cho con cháu, lúc cái chết gần bên.
Ưóc mong từ năm nay, mỗi Gia trưởng hãy
dành thì giờ tìm hiểu về trách nhiệm về Linh mục Gia đình,
Giáo hội tại gia và Gia đình là Giáo hội nhỏ để thực hiện sứ
mạng mà quý vị đã lãnh nhận. Xin đừng chờ hay khoán trắng
cho ai, để Gia đình ta là Gia đình Thánh.
Phó tế GB Huyền Đồng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Cơn đau tim |
Tại Hoa Kỳ, mỗi năm
có khoảng 1,5 triệu người bị Cơn đau tim (heart attack)
với hậu quả là gần 500,000 trường hợp tử vong. Hơn một nửa
số tử vong này xảy ra trong khoảng thời gian 1 giờ sau cơn
đau và trước khi bệnh nhân tới bệnh viện. Vì cơn đau tim là
một trường hợp khẩn cấp, cần được điều trị tức thì. Mỗi mỗi
giây phút trì hoãn là giây phút dẫn tới “thập tử nhất sinh”
cho người bệnh.
Tuy nhiên, cơn đau
tim có thể điều trị được và các nguy cơ gây ra cơn đau tim
có thể đối phó, thay đổi để phòng ngừa căn bệnh hiểm nghèo
này.
Xin cùng tìm hiểu về
các nguy cơ gây bệnh cũng như các phương thức phòng ngừa,
điều trị.
1.
Cơn đau tim là gì?
Tim là bộ phận thiết
yếu trong việc nuôi dưỡng toàn bộ tế bào trong cơ thể. Hằng
ngày, tim liên tục làm việc suốt 24 giờ để bơm một khối
lượng hơn 7000 lít máu . Ðể hoàn thành công việc này, tim
cần oxy và chất dinh dưỡng do động mạch vành cung cấp.
Khi động mạch vành bị
tắc nghẽn, sự lưu hành của máu bị gián đoạn, tế bào tim sẽ
bị tổn thương vì thiếu oxy. Nếu không được điều trị
tức thì để tái lập dòng máu nuôi tim thì tim sẽ bị hủy hoại
nhiều hơn và đưa tới cơn đau tim.
2-
Nguyên nhân cơn đau tim
Trong đa số các trường
hợp, cơn đau tim gây ra do bệnh của động mạch vành. Vì nhiều
lý do khác nhau, mặt trong của động mạch bị các mảng chất
béo bám vào, làm cho động mạch trở nên cứng và hẹp, máu lưu
thông giảm đi. Một máu cục có thể thành hình và gây tắc
nghẽn hoàn toàn sự lưu hành của máu. Tế bào tim không nhận
được chất dinh dưỡng và oxy, sẽ bị hủy hoại Ðó là sự nhồi
máu cơ tim (myocardial infarction). Thời gian thiếu
máu càng lâu thì sự hủy hoại của tế bào tim càng lan rộng và
cơn đau tim càng trầm trọng hơn.
Ðôi khi, cơn đau tim
cũng xảy ra khi động mạch vành co thắt tạm thời làm cho lưu
lượng máu tới tim giảm đi.
Các cơn co thắt tạm thời này có thể gây
ra do căng thẳng tâm thần, tiếp xúc với thời ti ết lạnh,
khói thuốc lá hoặc khi sử dụng vài loại thuốc như bạch
phiến...
3- Những rủi ro đưa tới cơn đau tim
Có hai loại nguy cơ
có thể đưa tới cơn đau tim:
a- Các nguy cơ không thay đổi được:
- Nam giới từ 45
tuổi trở lên, nữ giới từ 55 tuổi trở lên;
- Trong gia đình có
người bị bệnh tim (cha hoặc anh em có bệnh trước 55 tuổi, mẹ
hoặc chị, em có bệnh trước 65 tuổi);
- Ðã từng bị cơn đau
thắt tim (angina) hoặc cơn đau tim;
- Ðã được thông mạch
máu tim (angioplasty) hoặc giải phẫu cầu vượt động mạch vành
(coronary artery bypass surgery)
b- Các nguy cơ
gây cơn đau tim có thể thay đổi được gồm có hút thuốc lá,
béo phì, ít vận động cơ thể, huyết áp cao, cholesterol trong
máu cao, bệnh tiểu đường..
4-Những dấu hiệu báo trước Cơn ÐauTim
Có một số dấu hiệu
báo trước sự xuất hiện của cơn đau tim:
a- Cảm giác khó
chịu, nặng nặng đau như có vật nặng đè trên ngực, kéo dài
tới mấy phút rồi mất đi, nhưng có thể tái xuất hiện. Cơn đau
có thể nhè nhẹ vừa phải tới đau không chịu được. Ðiểm đặc
biệt là các cơn đau này không giống như khi cơ thể bị xé, bị
đâm.
b- Cảm giác đau từ
ngực chạy lên vai, cổ hoặc lan ra cánh tay; đầu ngón tay cảm
thấy tê tê..
c- Choáng váng, muốn
sỉu, đổ mồ hôi, buồn nôn, khó thở.
d- Lo sợ, nóng nẩy,
bồn chồn.
đ- Da xanh nhợt..
e- Nhịp tim nhanh,
không đều.
Nếu cảm thấy một
trong những dấu hiệu này thì phải kêu cấp cứu ngay. Nhiều
người trì hoãn cấp cứu vì cho rằng đó chỉ là dấu hiệu của ăn
khó tiêu, ợ chua, nên khi tới bệnh viện thì đôi khi đã quá
trễ.
5. Xác định bệnh
Tại bệnh viện, các
bác sĩ sẽ áp dụng các phương thức cấp cứu sơ khởi, đồng thời
tìm hiểu xem người bệnh đã bị cơn đau tim trong quá khứ, hỏi
y sử cá nhân và gia đình, làm các thử nghiệm y khoa..
Có nhiều thử nghiệm
để xác định bệnh:
a- Ðiện tâm đồ
Ðiện tâm đồ ghi các
hoạt động điện của tim trên một băng giấy chuyển động. Ðiện
tâm đồ giúp theo dõi số lượng và sự đều đặn của nhịp tim,
tình trạng thương tổn của tế bào tim... Ðây là thử nghiệm
rất quan trọng và cần được thực hiện càng sớm càng tốt,
trong vòng 10 phút, kể từ khi có dấu hiệu cơn đau tim.
b-Thử nghiệm máu.
Khi bị hủy hoại, tế
bào tim nhả vào máu mấy loại men (enzyme) mà khi đo số lượng
có thể giúp bác sĩ biết được mức độ hủy hoại của tế bào tim.
Ngoài ra, chụp
X-quang động mạch tim, siêu âm đôi khi cũng được dùng để tìm
hiểu tình trạng tắc nghẽn của động mạch vành, kích thước,
hình dạng và sự tổn thương các thành phần của trái tim.
6. Ðiều trị
Ngay khi cảm thấy có
dấu hiệu bị cơn đau tim, bệnh nhân cần phải kêu số điện
thoại cấp cứu ngay để được đưa đi khám bệnh và điều trị càng
sớm càng tốt. Ðiều trị sớm có thề ngăn ngừa hoặc giới hạn sự
hư hao của tế bào tim và giảm được tử vong cho người bệnh.
Trên đường chuyên
trở bệnh nhân tới bệnh viện, nhân viên cấp cứu đã có thể bắt
đầu sự chữa trị với phương tiện sẵn có trong xe cấp cứu. Họ
thường xuyên liên lạc trực tiếp với bác sĩ tại bệnh viện để
thông báo tình trạng người bệnh và tham khảo ý kiến về cách
thức đối phó với cơn đau tim. Họ có thể cho bệnh nhân thở
oxy, dùng thuốc giảm đau tim nitroglycerin, morphine..Họ
cũng sử dụng máy cấp cứu tim khi nhịp tim rối loạn, tạm
ngưng..
Tới nhà thương, bệnh
nhân thường được đưa vào phòng cấp cứu tim trang bị đầy đủ
dụng cụ, và dược phẩm. Các bác sĩ sẽ hành động ngay để phục
hồi sự lưu hành máu tới tim, giảm thiểu tổn thương cho các
tế bào và liên tục theo dõi tình trạng bệnh.
Thuốc gây tan cục
huyết được dùng trong vòng 1 giờ kể từ khi bắt đầu có dấu
hiệu của cơn đau tim.Thuốc loại nitrate để giúp động mạch
bớt co thắt và giảm cơn đau trước ngực.Thuốc chống đông máu
đề làm máu loãng, tránh đóng cục trong lòng động mạch. Thuốc
viên aspirin để ngăn ngừa tiều cầu kết tụ với nhau...
Ngoài ra còn các
dược phẩm giúp hạ huyết áp, giảm sức căng của động mạch, nhờ
đó tim làm việc nhẹ nhàng hơn; thuốc điều hòa nhịp tim;
thuốc an thần giảm đau. Bệnh nhân liên tục được hít thở
oxy...
Thời gian điều trị
tại bệnh việc tùy thuộc tình trạng nặng hay nhẹ của bệnh, sự
đáp ứng với các phương thức chữa trị, thường thường là năm,
sáu ngày nếu không có biến chứng.
Trước khi xuất viện,
bệnh nhân được hướng dẫn về cách thức chăm sóc và dùng
thuốc, về chế độ dinh dưỡng, về nếp sống, về sự vận động cơ
thể với chương trình vật lý trị liệu, phục hồi chức năng của
tim. Bệnh nhân sẽ hiểu rõ nên vận động như thế nào để tăng
cường sức mạnh của cơ thể mà không gây ra rủi ro cho trái
tim, hiểu rõ về bệnh tim của mình và biết cách đối phó với
các khó khăn trong đời sống hằng ngày để tránh cơn đau tim
tái phát.
7. Phòng ngừa
Ða số cơn đau tim là
do bệnh của động mạch vành (coronary artery disease)
gây ra. Vì thế, để phòng ngừa cơn đau tim, phải giảm thiểu,
loại trừ các nguy cơ đưa tới bệnh của mạch máu nuôi dưỡng
trái tim này.
Ðó là: không hút
thuốc lá, giảm tiêu thụ quá nhiều chất béo động vật,
cholesterol, ăn nhiều rau trái cây, giảm muối, giới hạn tiêu
thụ rượu, niauống thuốc hạ cao cholesterol trong máu, giữ
huyết áp ở mức trung bình 120 / 80mm Hg, giảm cân nếu béo
phì, giữ mức đường huyết dưới 110mg/dl, năng vận động cơ
thể, tránh các căng thẳng tinh thần, ngủ nghỉ đầy đủ...
Nếu đã có tiền sử
cơn đau tim, cần phải lưu ý chăm sóc sức khỏe, theo lời
hướng dẫn của bác sĩ trong việc dùng thuốc và tập luyện phục
hồi chức năng tim, thay đổi nếp sống.. để tránh cơn đau tim
tái phát.
Cần giữ hẹn tái khám
với bác sĩ để theo dõi tình trạng trái tim và thay đổi thuốc
nếu cần...
Kết
luận
Thường thường,
khoảng 6 tuần lễ sau cơn đau tim, đa số bệnh nhân có thể trở
lại đời sống bình thường, nếu được điều trị sớm và đúng đắn,
cũng như không có biến chứng và không bị những cơn đau thắt
tim quấy rầy.
Nhiều người có thể
đi lại ngay sau khi cơn đau tim đã được điều trị. Ða số có
thể lái xe trở lại sau vài tuần lễ, nếu không có biến chứng,
đau ngực. Và sau vài tuần lễ không còn cơn đau thắt tim thì
cũng có thể sinh hoạt tình dục với người bạn thân quen..
Một số người, sau
khi qua khỏi cơn đau tim, thường rơi vào tâm trạng buồn rầu,
lo ngại: lo ngại cơn đau tim tái phát.
Trong trường hợp
này, nên tham khảo ý kiến bác sĩ để được hướng dẩn cách thức
đối phó. Nếu cần, bác sĩ cũng có thể cho dùng vài loại thuốc
an thần để giảm lo âu, trầm cảm...
Ðặc biệt là người
bệnh cần có những hỗ trợ, những tình cảm thương yêu của thân
nhân gia đình, để tránh rơi vào hoàn cảnh lẻ loi, canh cánh
niềm đau một mình...
Bác sĩ Nguyển Ý Ðức,
Texas-Hoa Kỳ
www.khoahoc.net
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|