Tác phẩm ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO
THIÊNG LIÊNG CỦA CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI TRONG BỐI CẢNH VIỆT
NAM NGÀY NAY
Nguyên bản tiếng Anh
Lm. Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY
Bản dịch Việt ngữ
Lm. Vincentê Trần Minh Thực, Lm.
GB. Nguyễn văn Hào
PHẦN II
NHỮNG GIÁO HUẤN CỦA
HỘI THÁNH VỀ VIỆC ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG
CHO CÁC CHỦNG SINH
Các ứng sinh linh mục phải chuẩn bị một
cách có ý thức để lãnh nhận và sống ân huệ của Thiên Chúa và
luôn hiểu rằng Hội thánh và thế giới đang rất cần đến họ.70
Đời sống thiêng liêng phải bao gồm và
chi phối toàn bộ đời sống con người, vì đời sống thiêng
liêng là đời sống nhân bản được sống trong Chúa Thánh Thần.
Môi trường hiện tại dẫn đến một hoàn cảnh và hoàn cảnh này
lại gây ra những thay đổi sâu xa trong Hội thánh và thế
giới. Hoàn cảnh ấy buộc chúng ta phải đặt ra vấn nạn: “Hội
Thánh ngày nay và thế giới ngày nay cần kiểu linh mục nào?”
Câu trả lời cho vấn nạn này sẽ giúp ích rất nhiều cho công
việc hình thành một chương trình đào tạo phù hợp. Trong khi
tìm kiếm một số hướng trả lời, tác giả sẽ quan sát, lượng
định, và phân tích một số giáo huấn của Hội Thánh về đời
sống thiêng liêng, đặc biệt là đời sống thiêng liêng của các
linh mục.
Như đã được đề cập trên đây, việc đào
tạo thiêng liêng là yếu tố trung tâm trong sứ mệnh của bất
cứ chủng viện nào, vì thế “thiếu đào tạo thiêng liêng, việc
đào tạo mục vụ sẽ không có nền tảng.”71
Một số tài liệu của Hội Thánh về tiến
trình đào tạo thiêng liêng sẽ được nghiên cứu gồm:
* Optatam Totius (Đào Tạo Linh Mục) và
Presbyterorum Ordinis (Sứ Vụ và Đời Sống Linh Mục) của Công
Đồng Vaticanô II;
* Pastores Dabo Vobis (Những Mục Tử Như
Lòng Mong Ước) và Ecclesia in Asia (Hội Thánh tại Á Châu),
Tông Thư Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục của Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II;
* Ratio Fundamentalis Institutionis
Sacerdotalis (Lược Đồ Cơ Bản cho Việc Huấn Luyện Linh Mục)
và Spiritual Formation in Seminaries của Thánh Bộ Giáo Dục
Công Giáo.
* Một số Bài Diễn Văn của Đức Thánh Cha
cũng được đề cập tới.
* Các tài liệu của Liên Hiệp Hội Đồng
Giám Mục Á Châu (FABC), và của Hội Đồng Giám Mục Việc Nam
(HĐGMVN) cũng sẽ được nghiên cứu.
CHƯƠNG IV
GIÁO HUẤN CỦA HỘI
THÁNH HOÀN VŨ
VỀ VIỆC ĐÀO TẠO
THIÊNG LIÊNG
A. Tài Liệu của
Công Đồng Vaticanô II
1.
Đào Tạo Linh Mục (Optatam Totius)
Optatam Totius đưa ra nghiên cứu súc
tích nhất về những mục đích của bất cứ chương trình đào tạo
nào và nhấn mạnh đến việc đào tạo thiêng liêng.72
Trước hết, Đời Sống Thiêng Liêng Sâu Xa
và Cảm Thức về Mầu Nhiệm Hội Thánh: Đời Sống Thiêng Liêng
Sâu Xa phải giúp các chủng sinh tập sống trong tình hiệp
thông mật thiết và liên tục với Chúa Ba Ngôi, bằng các biện
pháp: trung thành suy ngẫm Lời Chúa, tích cực tham dự vào
các mầu nhiệm thánh của Hội Thánh, đặc biệt là Thánh Thể và
Kinh Thần Vụ, tìm kiếm Chúa Kitô nơi người khác, đặc biệt là
những người nghèo khổ và nhỏ bé, và lòng tôn kính hiếu thảo
với Đức Trinh Nữ Maria.73
Cảm Thức về Mầu Nhiệm Hội Thánh sẽ được
diễn tả bằng lòng gắn bó con thảo với Đức Giáo Hoàng, bằng
việc trung thành cộng tác với các Giám Mục, bằng sự hoà hợp
với anh em linh mục, để làm chứng về sự hiệp nhất của Hội
Thánh. Họ phải bày tỏ lòng sẵn sàng đón nhận quyền bính với
xác tín sâu xa và vì những lý do siêu nhiên. Bằng lòng yêu
mến như thế đối với Hội Thánh, họ củng cố đời sống thiêng
liêng.74
Thứ đến, Đời Sống Độc Thân Linh Mục
phải được trình bày hết sức kỹ lưỡng cho các chủng sinh như
là một món quà quí giá của Thiên Chúa, với tình yêu không
chia sẻ vì Nước Trời. Công tác đào tạo này cần được bổ sung
bằng những khám phá mới nhất của khoa sư phạm và tâm lý lành
mạnh,75 nhằm biết làm thế nào tránh được những hiểm nguy đe
doạ đức trong sạch, làm thế nào đạt tới mức trưởng thành về
nhân bản và làm chủ suy nghĩ, cơ thể, bản năng, tình cảm và
những đam mê của mình.
Các chủng sinh cần được huấn luyện
trong tinh thần vâng phục của linh mục, tinh thần nghèo khó
và từ bỏ, để họ có thể tự nguyện từ bỏ ngay cả những thứ hợp
pháp nhưng không thiết thực. Họ phải khiêm tốn hướng tới và
đáp lại đời sống độc thân linh mục một cách tự do và quảng
đại dưới ơn trợ giúp và tác động của Chúa Thánh Thần, với
những phẩm chất tốt đẹp như thành thật, lòng yêu mến lẽ công
bình, lòng trung thành với những lời cam kết, thái độ lịch
lãm trong hành động, lòng khiêm tốn và bác ái trong lời
nói.76
Và sau cùng, Optatam Totius ước mong
sao các Giám Mục dành riêng ra một khoảng thời gian thích
hợp để chuẩn bị kỹ lưỡng hơn về thiêng liêng và sắp xếp công
việc mục vụ để thử thách mức độ phù hợp của các ứng viên
tiến tới chức linh mục.77
2.
Sứ Vụ và Đời Sống Linh Mục (Presbyterorum Ordinis)
Presbyterorum Ordinis tập trung vào
những đòi hỏi thiêng liêng.78
Trước hết, Lòng Khiêm Tốn và Vâng Phục:
Đức tính quan trọng nhất của các linh mục là luôn sẵn sàng
nhận ra và thi hành ý Chúa, chứ không phải ý riêng mình. Ý
thức được sự yếu đuối của mình (1 Cr 1,27), các ngài khiêm
tốn làm việc và cố gắng làm điều đẹp lòng Chúa (Ep 5,10),
các Ngài hiểu và dấn bước theo khát mong của Thiên Chúa
trong những tình huống bình thường của đời sống hằng ngày.
Lòng bác ái mục tử thôi thúc các linh
mục dâng hiến ý muốn của riêng mình bằng lòng tuân phục nhằm
phục vụ Thiên Chúa và người khác. Bằng tinh thần đức tin,
các ngài vâng phục Đức Giáo Hoàng, Giám Mục Bản quyền và các
Bề Trên của mình, trong nhiệm vụ được trao, dầu tầm thường
và vô danh, để xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô. Lòng tuân phục
này thăng tiến tự do trưởng thành. Bằng lòng khiêm tốn và
tuân phục có trách nhiệm, các ngài trở nên thích hợp với
Chúa Kitô (Pl 2,7-9; Rm5,19).
Thứ hai, Món Quà Đời Sống Độc Thân:
Được Hội thánh Latinh quyết định và bó buộc, Đời Sống Độc
Thân được gìn giữ và đánh giá như là món quà của Thiên Chúa,
được đón nhận và tuân giữ như một giá trị cao quí của đời
sống linh mục. Nó là một dấu chỉ của đức bác ái mục tử và là
một suối nguồi đặc biệt của sự phong phú thiêng liêng.
Thực ra, đời sống độc thân có nhiều
khía cạnh thích hợp với chức linh mục. Qua đời sống độc
thân, được tuân giữ vì Nước Trời, các linh mục kết hợp với
Chúa Kitô dễ dàng hơn bằng một con tim không san sẻ (1 Cr
7,32-34). Qua Chúa Kitô, họ hiến dâng bản thân để phục vụ
Thiên Chúa và Dân Ngài, và như thế các ngài dễ dàng trở nên
dấu chỉ sống động của một thế giới tương lai.
Các linh mục phải khiêm tốn và nhiệt
thành cầu nguyện cho đời sống độc thân và đón nhận đời sống
ấy như là một món quà thuộc về ân sủng Thiên Chúa. Cùng với
Hội Thánh, họ phải khiêm tốn và kiên định cầu nguyện cho ơn
trung thành và sử dụng mọi sự trợ giúp siêu nhiên cũng như
tự nhiên, đặc biệt là lối thực hành khổ chế đã được kinh
nghiệm của Hội Thánh chấp thuận. Cả các linh mục và tín hữu
đều phải ấp ủ và nài xin Thiên Chúa quà tặng quí giá là đời
sống độc thân linh mục.79
Thứ ba, Đức Nghèo Khó Tự Nguyện: Sống
trong thế gian và sử dụng thế gian, các linh mục phải học
cách thế không thuộc về thế gian và trở nên ngoan ngoãn với
tiếng Chúa trong đời sống hằng ngày. Từ sự tự do và ngoan
ngoãn này mà sự tự do thiêng liêng lớn mạnh. Nơi sự tự do
thiêng liêng, các linh mục tìm được mối tương quan thích hợp
với trần gian và của cải trần gian, từ đó các ngài có thể sử
dụng của cải cách đúng đắn theo ý Thiên Chúa và từ bỏ những
gì phương hại cho sứ vụ của mình.
Vì thế, các ngài phải tránh mọi thứ bề
ngoài xa hoa và phù phiếm, và xếp đặt nhà ở sao cho phù hợp
để các ngài không tỏ ra xa cách với bất cứ ai, thậm chí
những người khiêm tốn nhất cũng dễ dàng thăm viếng các ngài.
Do đó, các ngài được mời gọi sống theo đức khó nghèo tự
nguyện, nhờ đó các ngài nên phù hợp với Chúa Kitô một cách
rõ ràng hơn và trở nên nhiệt thành với tác vụ thánh.80
Sau cùng, Cuộc Sống Nội Tâm của các
linh mục cần được cổ vũ nhờ các phương tiện thiêng liêng để
thánh hoá bản thân: hợp nhất với Chúa Kitô trong mọi trạng
huống của cuộc sống; sống nhờ hai bàn tiệc Lời Chúa và Thánh
Thể, hai bàn tiệc này được cử hành trong Thánh Lễ và được
sùng kính trong Bí Tích Cực Thánh; tự xét lương tâm hằng
ngày; đọc sách thiêng liêng để tìm ý Chúa nhờ tác động của
Chúa Thánh Thần; các dấu chỉ thời đại và các biến cố cuộc
sống; lòng sùng kính đối với Đức Trinh Nữ Maria; các cuộc
tĩnh tâm và linh hướng; và các dạng khẩu nguyện và suy
nguyện khác.81
B. Các Tài Liệu
của Toà Thánh
1. Những Mục Tử Như Lòng Mong
Ước (Pastores Dabo Vobis)
Pastores Dabo Vobis khai triển những ý
niệm này một cách cụ thể hơn về công việc đào tạo thiêng
liêng.82
Trước hết, Sự Thinh Lặng và Tiếng Chúa:
Cho dù cá nhân con người vẫn mở ra trước siêu việt, trước
tuyệt đối, thì việc lắng nghe tiếng Chúa và hiểu rõ giá trị
của thinh lặng trong sâu thẳm lòng người, nơi họ hiện diện
một mình với Thiên Chúa,83 cũng là việc rất khó trong xã hội
hiện đại. Sự thinh lặng cho phép chúng ta nhận ra sự hiện
diện của Thiên Chúa và để cho sự hiện diện này chiếm đoạt.
Thứ hai, Thánh Thể: không chỉ vì Thánh
Thể là suối nguồn và tuyệt đỉnh đời sống thiêng liêng, mà
còn vì Thánh Thể hàm dưỡng những thái độ quyết định nơi cá
nhân: Các chủng sinh phải được huấn luyện để góp phần tích
cực hằng ngày và coi việc cử hành Thánh Thể như là thời điểm
cốt yếu trong ngày sống của mình. Những tâm tình quan trọng
bậc nhất được Thánh Thể nuôi dưỡng là lòng tri ân, tự hiến,
bác ái, và tôn thờ.
Thứ ba, Bí Tích Sám Hối: Hết sức nhạy
bén đối với giá trị và sức mạnh của Thánh Thể, PDV thúc giục
việc tái khám phá vẻ đẹp và niềm vui của Bí Tích Sám Hối
bằng việc phát huy cảm thức về tội lỗi, về khổ chế, kỷ luật
nội tâm, tinh thần hi sinh và Thập Giá.
Thứ tư, Khiêm Tốn Phục Vụ: Các chủng
sinh cần một chương trình huấn luyện thích hợp theo tinh
thần khiêm tốn phục vụ của Chúa Giêsu (Ga 13,15), theo tình
bác ái, đặc biệt là bằng tình yêu thương ưu tiên với người
nghèo và lòng thương xót đối với tội nhân.84
Thứ năm, Đời Sống Độc Thân Linh Mục
được nêu bật như là một ân huệ và quà tặng đặc biệt của
Thiên Chúa,85 như là lựa chọn một tình yêu không chia sẻ và
mạnh mẽ hơn vì Chúa Kitô và vì Nước Thiên Chúa. Đời sống độc
thân cần được trình bày rõ ràng, không hàm hồ và theo cách
tích cực. Các chủng sinh cần đạt mức trưởng thành về tính
dục và tâm lý đầy đủ và một cuộc sống cầu nguyện siêng năng
và đích thực, dưới sự hướng dẫn của cha linh hướng. Những
điều đó sẽ hàm dưỡng khả năng đánh giá giá trị của hi sinh,
xả kỷ, tự hiến hết mình, tự giác kỷ luật, đón nhận sự cô
tịch và thập giá. Mọi công việc đào tạo nội tâm phải sinh
hoa trái trong chính lối sống của ứng sinh: Các ứng sinh
phải tìm kiếm Thiên Chúa nơi người khác qua việc phục vụ
thừa tác vụ được trao ban nhưng không và đức bác ái mục tử.
2.
Hội Thánh tại Á Châu
a. Những Ưu Tiên
của Hội Thánh tại Á Châu
Ecclesia in Asia dành những ưu tiên
tuyệt đối cho việc loan báo Tin Mừng (EA số 19) và cho linh
đạo về Truyền giáo, tại Á Châu điều này có nghĩa là loan báo
Chúa Giêsu như là Đấng Cứu Độ duy nhất (EA số 20), bằng
phương tiện hội nhập văn hoá (EA số 21-22), trong suy tư
thần học, phụng vụ, và công tác đào tạo linh mục với sự
tương tác cả chiêm niệm lẫn hành động.
Để cho sứ vụ truyền giáo được hữu hiệu,
Hội Thánh tại Á Châu phải sống hiệp thông mật thiết với Chúa
Giêsu Kitô, hiệp thông trong lòng Hội Thánh (EA số 25), hiệp
thông bằng đối thoại: đối thoại đại kết giữa các giáo hội,
đối thoại với các nền văn hoá, đối thoại với các tôn giáo
khác (EA số 29-30), đối thoại bằng cuộc sống với người nghèo
(EA số 34), dấn thân để thăng tiến nhân vị, đặc biệt là
người nghèo trong mọi chiều kích về phẩm giá, kinh tế, cuộc
sống, về hoà bình và về môi trường (EA số 41).
Sau hết, Hội Thánh tại Á Châu phải đẩy
mạnh việc làm chứng cho Tin Mừng (EA số 42-49), nghĩa là Hội
Thánh phải thực sự sống điều mình rao giảng.
b. Đào Tạo Thiêng
Liêng cho Các Chủng Sinh
Theo lời Đức Hồng Y Paul Shan Kuo-hsi
trình bày,86 Hội Thánh tại Á Châu cần các linh mục quân bình
về tâm lý, trưởng thành về tình cảm, lành mạnh về phán đoán,
chính thống về giáo lý, mạnh mẽ về ý chí, nhanh nhẹn về lòng
bác ái, luôn sẵn lòng phục vụ người khác, nhiệt tâm đối với
việc Phúc Âm hoá và việc mục vụ, có đời sống thiêng liêng
bám rễ sâu trong mối hiệp thông mật thiết với Ba Ngôi Cực
Thánh và đặt Chúa Giêsu Kitô làm trung tâm. Trước khi vào
chủng viện, ứng sinh phải trải qua một trắc nghiệm tâm linh,
tốt nhất là do một linh mục chuyên gia hướng dẫn.87 Với trắc
nghiệm này, ít nhất ứng sinh phải chứng tỏ mình có những
dấu hiệu tiềm tàng và tích cực của những phẩm chất nêu trên,
và không có những vết tích quá tiêu cực trái ngược.
Những phẩm chất được nêu trên của linh
mục cần được ứng sinh thủ đắc dần dần trong những năm dài
của quá trình đào tạo. Mặc dù các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng
không đưa ra đề nghị chính thức về việc đào tạo tâm lý, tuy
nhiên, các ngài đã bàn về điều này trong những cuộc thảo
luận theo nhóm nhỏ và những cuộc đàm luận riêng tư. Các ngài
đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo về độc thân, các tương
giao nhân bản và hợp tác hài hoà với người khác. Các ngài
cũng hết sức nhấn mạnh tới việc cầu nguyện, chiêm niệm và cô
tịch trong việc đào tạo thiêng liêng. Cầu nguyện, suy niệm,
chiêm niệm và cô tịch là những đường hướng thiêng liêng
truyền thống dẫn dắt con người tới sự thánh thiện và hoàn
hảo trong tất cả các tôn giáo lớn ở Á Châu. Phúc Âm hoá hữu
hiệu không chỉ đòi hỏi việc loan báo tích cực, những công
việc phục vụ bác ái xã hội, những hoạt động văn hoá và giáo
dục, nhưng còn đòi hỏi một đời sống cầu nguyện sâu xa với
suy niệm, chiêm niệm, cô tịch và kết hợp với Thiên Chúa.88
3. Lược
Đồ Cơ Bản cho Việc Huấn Luyện Linh Mục
(Ratio Fundamentalis
Institutionis Sacerdotalis)
a. Những Nguyên Tắc Chỉ Đạo
Tổng Quát
Trước hết, những linh mục tương lai cần
học:89
* sống gần gũi và luôn đồng hành cùng
Chúa Ba Ngôi;
* thường xuyên tìm được Chúa Kitô trong
mối hiệp thông thân mật của lời cầu nguyện;
* giữ Lời Chúa với lòng yêu mến ăn rễ
sâu trong niềm tin, và trao Lời Chúa cho người khác;
* thăm viếng và thờ lạy Chúa Kitô hiện
diện nơi bí tích Thánh Thể;
* có lòng mến yêu thân thiết đối với
Đức Trinh Nữ Maria là Đấng liên kết cách đặc biệt với công
trình Cứu Độ;
* tham khảo các tài liệu thánh truyền,
các tác phẩm của các Giáo Phụ, và mẫu gương của các thánh;
* biết cách tra xét và phán đoán lương
tâm và những động cơ của chính mình với lòng lương thiện và
thành thật.
Thứ hai, việc đào tạo thiêng liêng cho
các chủng sinh là một tiến trình bao gồm những giai đoạn
khác nhau; mỗi giai đoạn cần được thích ứng với tuổi tác,
kinh nghiệm, và khả năng của các chủng sinh. Hiệu quả của
việc đào tạo này được nâng cao đáng kể nhờ một số những thời
kỳ ấn định cho việc huấn luyện chuyên sâu hơn. Những thời kỳ
này có thể là: lúc mới vào chủng viện, lúc bắt đầu học thần
học, và khi họ tiến gần tới ngày chịu chức linh mục.
b. Những Khía Cạnh Cụ
Thể
Mục đích trước tiên của việc đào tạo
thiêng liêng là đức ái hoàn hảo. Mức hoàn hảo này giúp các
chủng sinh trở nên Chúa Kitô khác. Được thấm nhuần Thần Khí
của Chúa Kitô cách sâu xa, họ sẽ nhận ra điều họ đang làm
khi cử hành mầu nhiệm sự chết của Đức Kitô phục vụ (Mt
20,28). Từng bước một, họ phải hiểu biết rõ ràng và chắc
chắn về ơn gọi linh mục của mình, và như thế họ làm cho mình
có nhiều khả năng thủ đắc những đức tính và thói quen của
đời sống linh mục. Họ được kêu gọi cố gắng hết sức để hoàn
thiện đời sống của chính mình và đời sống chung trong chủng
viện nên một tâm hồn (Cv 2, 44-46).
Nhờ đó, cộng đoàn vui hưởng sự hiện
diện của Thiên Chúa, triệt để tuân giữ luật lệ và đạt được
mối liên kết hoàn hảo.90 Đời sống cộng đoàn như thế chuẩn bị
cho các ứng sinh để họ có thể nên một trong tình “huynh đệ
bí tích” với cộng đoàn rộng lớn hơn là hàng giáo sĩ giáo
phận, nhờ mối liên kết bác ái, cầu nguyện, và sự hợp tác
trong nhiều khía cạnh, nhằm xây dựng Hội Thánh, một bổn phận
đòi hỏi nhiều trách nhiệm và những c anh tân hợp thời.91
Mục đích thứ hai là đời sống độc thân
linh mục, một nguyên tắc được Hội Thánh Latinh đặt ra cho
những ai, nhờ ân sủng Thiên Chúa, tự nguyện đón nhận vì Nước
Trời. Ở tình trạng này, các linh mục dễ dàng ở gần Chúa Kitô
hơn với một trái tim không chia sẻ; tự do hơn trong việc
trao hiến chính mình phục vụ Chúa và Dân Chúa, và đón nhận
chức linh mục với lòng quảng đại.92
Bởi vậy, các linh mục tương lai phải ý
thức và đón nhận đời sống độc thân như là một món quà đặc
biệt Chúa ban. Nhờ đời sống dành trọn cho việc cầu nguyện,
cho mối hiệp nhất với Chúa Kitô, cho đức ái huynh đệ chân
thành, các thầy có thể giữ gìn cách hân hoan và trọn vẹn đời
sống độc thân của mình. Các thầy cần có được tự do hoàn toàn
về tâm lý, cả bề trong lẫn bề ngoài, và đạt mức ổn định về
tình cảm, để hiểu rõ và sống đời độc thân như là sự kiện
toàn bản thân. Một nền giáo dục thích đáng về giới tính sẽ
dẫn đưa các thầy tới một tình yêu trong trắng đối với con
người hơn là một nỗi lo âu nhằm tránh tội, như vậy nhằm
chuẩn bị cho họ dấn thân vững vàng vào tác vụ mục vụ trong
tương lai.93
Một khía cạnh khác của việc đào tạo
thiêng liêng là mối tương quan thân mật với Chúa Kitô, “vẫn
là một, hôm qua, hôm nay, và mãi đến muôn đời” (Dt13,8). Các
chủng sinh nên nhắm tới mối tương quan bằng hữu gần gũi với
con người và sứ vụ của Chúa Kitô, Đấng đã hoàn thành nhiệm
vụ mình với lòng khiêm tốn tùng phục thánh ý Chúa Cha như là
lương thực của mình (Ga 4,34). Các thầy được kêu gọi dâng
hiến ý muốn riêng mình để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân,
nhờ lòng vâng phục với niềm tin.
Họ không chỉ học đón nhận thánh giá,
nhưng là yêu mến thánh giá, và gánh vác những trách nhiệm
nặng nề được uỷ thác nhằm thi hành sứ mạng tông đồ của mình.
Họ cần sống đức vâng phục chân thành đối với Đức Giáo Hoàng
và Giám Mục của mình. Bằng việc sống tinh thần phục vụ khiêm
tốn và lòng hiếu thảo, họ trở thành những cộng tác viên
trung thành của các ngài.94
Thứ tư, các chủng sinh phải học nuôi
dưỡng Tinh Thần Nghèo Khó để chu toàn việc tông đồ: tin vào
sự Quan Phòng của Chúa Cha, họ cần biết thế nào là dư dật và
thiếu thốn, thế nào là đói khổ và no đầy, thế nào là có
nhiều và có ít, bắt chước gương thánh Phaolô (Pl 4,12). Bước
theo gương mẫu Chúa Kitô (2 Cr 8,9), họ nên coi người nghèo
và người kém may mắn như là bổn phận đặc biệt của mình và
làm chứng cho đức nghèo khó, với tinh thần từ bỏ chính mình
trước những của cải không cần thiết.95
Thứ năm, việc đào tạo thiêng liêng bao
trùm con người toàn diện. Ân sủng không bóp nghẹt tự nhiên,
nhưng nâng tự nhiên lên mức độ cao hơn. Các chủng sinh phải
tập sống thành thật, luôn quan tâm tới công lý, và những
cách ứng xử tốt trong giao thiệp với con người với tinh thần
bằng hữu và phục vụ, tinh thần sẵn sàng làm việc, và khả
năng làm việc với người khác. Họ phải giữ lời, tự chủ và ân
cần trong giao tiếp. Vì nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho mọi
người, họ phải học nghệ thuật, nghĩa là biết nói chuyện với
người khác cách đúng đắn, kiên nhẫn lắng nghe và có khả năng
diễn đạt ý mình.96
Sau cùng, sinh lực và sự mới mẻ trong
đời sống linh mục là Thánh Thể và Bí Tích Sám Hối. Các chủng
sinh hằng ngày phải tham dự vào việc cử hành Thánh Thể,
“suối nguồn và tột đỉnh của cả đời sống Kitô giáo” và là
trung tâm toàn bộ đời sống chủng viện. Việc tôn thờ Thánh
Thể phải gắn liền với Kinh Thần Vụ. Nhờ Thánh Thể, phụng vụ
và lời cầu nguyện, các thầy sẽ có thể kiên tâm gắn bó thân
tình và thật sự với Chúa Kitô và Hội Thánh.97 Bí tích Sám
Hối phải được thấm nhuần vào các linh mục tương lai, để họ
có thể được canh tân hằng ngày. Mỗi chủng sinh phải khiêm
tốn và tin tưởng cởi mở lương tâm mình trước vị linh hướng,
thông qua việc linh hướng, để thầy được hướng dẫn cách an
toàn trên con đường của Chúa.98
Thầy phải từng bước thủ đắc đời sống
thiêng liêng trưởng thành thật sự qua sự tự đánh giá, tĩnh
tâm thường kỳ, và những dạng luyện tập khác, luôn ý thức
rằng những hoạt động thiêng liêng ấy sẽ giúp phát triển và
tăng cường đời sống thiêng liêng của thầy.99 Thầy phải được
huấn luyện quan sát chính xác những dấu chỉ thời đại và phán
đoán các sự kiện nhờ ánh sáng Tin Mừng. Theo nghĩa này,
thinh lặng bên ngoài là bắt buộc, vì thiếu thinh lặng bên
ngoài sẽ chẳng có thinh lặng nội tâm trong linh hồn.
4.
Đào Tạo Thiêng Liêng Trong Các Chủng Viện
Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo chỉ ra bốn
nguyên tắc chỉ đạo khẩn thiết của việc đào tạo thiêng liêng
cho các linh mục tương lai:100
Trước hết, Lời Chúa: Ứng sinh phải
tạo được một cảm thức về thinh lặng nội tâm thực sự để có
thể lắng nghe và hiểu sâu xa Lời Chúa, và kiên nhẫn tìm Chúa
Kitô qua chính kinh nghiệm lắng nghe tiếng Chúa trong cầu
nguyện của mình. Kinh nghiệm này giúp thầy trở thành thầy
dạy cầu nguyện cho người khác. Thinh lặng nội tâm tìm được
nơi Chúa Kitô suối nguồn và mục đích: là phó thác cho Chúa
Cha và tuỳ thuộc vào Ngài, là sự thân mật nội tâm và đối
thoại thực sự với Chúa. Thinh lặng bên trong và thinh lặng
bên ngoài ảnh hưởng lẫn nhau và nuôi dưỡng nhau. Trong một
chủng viện, nơi mà thinh lặng bên ngoài không hiện hữu thì
thinh lặng nội tâm cũng vắng bóng. Luật Sống ở chủng viện
phải thu xếp ưu tiên cho việc này.101
Thứ hai, ứng sinh phải sống hy tế cứu
độ và làm cho hy tế của Chúa Kitô hiện diện nhờ Thánh Thể và
làm cho người tín hữu hiệp thông cách xứng đáng với hy tế
này.102
Thứ ba, thầy phải lớn lên trong hy tế
thiêng liêng nhờ đón nhận và vác thập giá theo vết chân từ
bỏ chính mình của Chúa Kitô, nghĩa là có lòng vâng phục thực
sự và có cảm thức sám hối.
Và sau cùng, thầy phải có lòng hiếu
thảo và tin tưởng đối với Đức Trinh Nữ Maria, Đấng mà Chúa
Giêsu trên thập giá đã ban cho chúng ta như người mẹ. Mầu
nhiệm Đức Maria dẫn đưa tới cuộc tiếp xúc tuyệt vời hơn với
Chúa Kitô và thập giá của Ngài. Kitô học cũng là Thánh Mẫu
học. Tình yêu và lòng sùng kính với Đức Trinh Nữ Maria phải
được dậy dỗ và thực hành trong chủng viện với một nguồn sinh
lực nội tâm.103
Tài liệu này cũng đề nghị chủng viện có
một thời kỳ chuẩn bị dành riêng cho việc đào tạo thiêng
liêng. Thời kỳ chuẩn bị này nên diễn ra trước, hoặc cách nào
đó ngoài thời gian chủng viện, các sinh viên có cơ hội để
hoàn tất một thời gian học tập thiêng liêng thực sự.104
C. Giáo Huấn của Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
1. Đóng
Góp của Khoa Tâm Lý Học trong Việc Đào Tạo Linh Mục 105
a. Đóng Góp Thích Đáng và
Hạn Chế của Khoa Tâm Lý Trong Tiến Trình Đào Tạo Linh Mục
Theo Đức Giáo Hoàng, sự đóng góp chuyên
môn của các nhà tâm lý có thể được sử dụng thích hợp vào
thời gian mới nhập học, cũng như trong toàn bộ tiến trình
đào tạo. Ý kiến chuyên môn này phải được đưa vào sử dụng
theo một đường lối quân bình, nhằm bảo vệ giá trị lớn lao
của việc linh hướng. Những can thiệp tâm lý này106 không
loại bỏ khó khăn và căng thẳng nơi con người, nhưng khuyến
khích làm triển nở một nhận thức rộng rãi hơn và một rèn
luyện khoảng khoát hơn tự do cá nhân của con người.
Theo đường hướng này, con người có thể
đón nhận một cuộc đấu tranh cởi mở và thành thật, nhờ sự trợ
giúp không thể thay thế của ân sủng. Vì vậy, các nhà đào tạo
cần chú ý đến phẩm chất tôn giáo của các chuyên gia tâm lý,
cũng như khả năng chuyên môn khoa học của họ. Nhà tâm lý học
cần hiểu biết thấu đáo quan điểm Kitô giáo về cuộc sống, và
về ơn gọi linh mục, nếu muốn cung cấp một trợ giúp hữu hiệu
cho sự hòa hợp cần thiết giữa các chiều kích nhân bản và
siêu nhiên.
b. Đào Tạo Thiêng Liêng Và Đời
Sống Độc Thân
Đức Giáo Hoàng dạy rằng các ứng viên
phải được giới thiệu thực hành cầu nguyện, suy niệm và khổ
chế cá nhân dựa trên các nhân đức đối thần được sống trong
đời sống hằng ngày. Cả đức ái tông đồ trong Giáo Hội và giáo
luật đều đưa ra những bó buộc thích hợp cho tác vụ tương
lai của ứng viên. Đời sống độc thân vì Nước Trời phải được
trình bày như một chọn lựa rất thuận lợi cho việc hân hoan
loan báo Chúa Kitô Phục Sinh.
2. Chuẩn
Bị Vững Chắc Cho Các Linh Mục
Đức Gioan Phaolô II nói rằng việc lựa
chọn chính xác các ứng viên là một tiến trình phức tạp. Bởi
thế, ta phải lập tức bắt đầu tiến trình chuẩn bị các ứng
viên được chọn lựa để sau này trở nên các linh mục tốt lành,
thánh thiện. Việc đào tạo thiêng liêng và dạy dỗ giáo lý cho
các sinh viên phải được kết hợp hài hoà với nhau và do các
nhà đào tạo được huấn luyện chu đáo giám sát. Phải nhấn mạnh
tới nhu cầu chính yếu là thường xuyên cử hành các bí tích,
đặc biệt là Bí Tích Sám Hối, cùng với việc cầu nguyện riêng
tư và sốt sắng và thường xuyên gặp một vị linh hướng.
Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng chức linh
mục phải được xem như một ơn gọi hướng tới sự phục vụ vị tha
và yêu thương; rằng đời sống độc thân, món quà quí giá và
mọi thứ liên quan đến đời sống ấy, “phải được coi như là
phần không thể thiếu của đời sống bên trong và bên ngoài của
linh mục.”10
3. Việc
Đào Tạo Thiêng Liêng Thích Ứng với Những Thách Đố Truyền
Giáo
Đức Gioan Phaolô II yêu cầu mọi người
Công giáo Việt Nam tiến tới một đường lối mới trong việc
Phúc Âm hoá; luôn sống nghiêm túc ơn gọi tín hữu đã lãnh
nhận từ khi chịu phép rửa và “đảm nhận vai trò của mình
trong đời sống và sứ mệnh của Dân Chúa, là chứng nhân của
Chúa Kitô, ở mọi nơi mà họ hiện diện.”108
Đối với việc đào tạo người trẻ, ngài
yêu cầu các Giám Mục Việt Nam lưu tâm tới những điều kiện
đào tạo tri thức và thiêng liêng thích ứng với những thách
đố truyền giáo mà giới trẻ phải đối mặt, bằng việc tuyển
chọn kỹ lưỡng những người huấn luyện và các giáo sư, những
vị đã thủ đắc mức trưởng thành về nhân bản và đời sống linh
mục. Các ngài phải ý thức rằng nhiệm vụ Phúc Âm hoá liên
quan tới mọi thành phần Dân Chúa và đòi hỏi lòng nhiệt thành
mới, những phương pháp mới và ngôn ngữ mới.109
D. Giáo Huấn của Đức
Bênêđitô XVI
1. Chúa
Giêsu Kitô Là Chuẩn Mực Chân Thực
Ngay trước khi được bầu, Đức Giáo Hoàng
Bênêđitô XVI tổng kết rằng nhiều luồng ý thức hệ và mốt nghĩ
đã làm giao động và hất con thuyền bé nhỏ là lối suy tư của
các Kitô hữu đi từ thái cực này sang thái cực khác: từ chủ
nghĩa Mác sang chủ nghĩa tự do, rồi chủ nghĩa phóng đãng; từ
chủ nghĩa tập thể sang chủ nghĩa cá nhân triệt để; từ chủ
nghĩa vô thần sang hiện tượng thần bí tôn giáo mơ hồ; tư
thuyết bất khả tri đến tạp giáo. Mỗi ngày, các giáo phái mới
được sinh ra, dẫn đến lầm lạc (x. Eph.4:14). Đức tin rõ ràng
đúng theo Tín Điều của Giáo Hội thường bị chụp mũ là chủ
nghĩa cơ bản tuyệt đối dựa vào Kinh Thánh, trong khi thuyết
tương đối dường như là thái độ xứng hợp của thời đại chúng
ta. Một sự độc tài của thuyết tương đốichẳng nhìn nhận điều
gì là tuyệt đối, ngoài cái tôi và những ý nghĩ chợt nảy ra.
Nhưng chúng ta có Con Thiên Chúa, là
Con Người Thật như là chuẩn mực cho thuyết nhân bản đích
thực. Đức tin trưởng thành và chín chắn là đức tin bám rễ
sâu trong tình bằng hữu với Chúa Kitô. Tình bằng hữu này làm
chúng ta mở ra với mọi điều tốt đẹp và cho chúng ta chuẩn
mực để biện phân giữa cái gì là chân thực và cái gì là giả
dối, giữa sự dối trá và chân lý. Chúng ta cần phải trở nên
chín chắn trong đức tin trưởng thành này; phải dẫn đưa đoàn
chiên Chúa Kitô tới đức tin này. Và đức tin này, đức tin duy
nhất, tạo ra sự hiệp nhất và xây dựng trong đức ái như là
nền tảng của đời sống Kitô hữu.110
2. Hội
Thánh Không Sợ Tương Lai
Trong Sứ Điệp cho các Hồng Y,111 Đức
Bênêđitô XVI cam kết sẽ luôn luôn nghe theo những linh hứng
của Chúa Thánh Thần, với lòng khiêm tốn phó thác cho sự quan
phòng của Thiên Chúa, để tiếp tục con đường của các vị tiền
nhiệm là loan báo cho toàn thế giới sự hiện diện sống động
của Chúa Kitô. Ngài mạnh mẽ khẳng định quyết tâm tiếp tục
dấn thân thi hành Công Đồng Vaticanô II. Ngài cũng cố gắng
xây dựng sự hiệp thông trong lòng Hội Thánh, dựa trên sự
hiệp thông trọn vẹn với Chúa Kitô Phục Sinh, biểu lộ nơi
Thánh Thể.
Trong tương quan với bên ngoài, ngài
lấy việc tái lập sự hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình nơi những
người theo Chúa Kitô, thông qua việc “thanh tẩy ký ức”, như
là cam kết ưu tiên. Ngài thúc đẩy Hội Thánh làm sống lại ý
thức Truyền Giáo để làm cho ánh sáng Chúa Kitô chiếu soi
trước mọi dân tộc ngày nay. Ngài quả quyết sẽ tiếp tục một
cuộc đối thoại cởi mở và chân thành với các tôn giáo khác,
với các nền văn hoá và văn minh khác nhau, đặc biệt là với
những người nghèo và những người nhỏ bé. Ngài cũng tuyên bố
rằng mọi người Công giáo sẵn lòng cộng tác để nhắm tới sự
phát triển xã hội đích thực vì phẩm giá mọi người, với hy
vọng rằng nhờ sự hiểu biết lẫn nhau, hoàn cảnh sẽ làm nảy
sinh một tương lai tốt đẹp hơn cho mọi người.
3. Mở
Rộng Cửa cho Chúa Kitô
Sau hết, trong Thánh Lễ Nhậm Chức,112
ngài lặp lại lời Đức Gioan Phaolô II “Đừng sợ! Hãy mở rộng
cửa cho Chúa Kitô!” Đấng “sẽ chẳng lấy đi điều gì thuộc về
tự do và nhân phẩm của con người … Chỉ trong tình bằng hữu
này chúng ta mới cảm nghiệm được vẻ đẹp và sự giải thoát.”
còn tiếp |