Tác phẩm ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO
THIÊNG LIÊNG CỦA CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI TRONG BỐI CẢNH VIỆT
NAM NGÀY NAY
Nguyên bản tiếng Anh
Lm. Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY
Bản dịch Việt ngữ
Lm. Vincentê Trần Minh Thực, Lm.
GB. Nguyễn văn Hào
CHƯƠNG VI
ÁP DỤNG GIÁO HUẤN
CỦA HỘI THÁNH VÀO VIỆC
ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG
CHO CÁC CHỦNG SINH
A. Viển Ảnh Chức
Linh Mục Áp Dụng Vào Việc Đào Tạo Thiêng Liêng
Đâu là mẫu linh mục mà người ta nhắm
đào tạo cho Hội Thánh và cho thế giới ngày nay? Chủng sinh
được uốn nắn theo mẫu nào? Câu trả lời phải vừa thực tiễn,
vừa lý tưởng, vì linh mục phải nên đồng hình đồng dạng với
Chúa Giêsu Kitô, như là Đầu và Mục Tử của Hội Thánh,133 kiểu
mẫu duy nhất của các linh mục, đáp ứng với thực tế đa dạng
của Hội Thánh và thế giới, hôm nay và ngày mai.
Kiểu mẫu lý thuyết là nền tảng cho khoa
sư phạm hiện nay về việc đào tạo linh mục, nhằm làm cho
chủng sinh trở thành Thầy Dạy Lời Chúa, Thừa Tác Viên Bí
Tích, và Lãnh Đạo Cộng Đoàn,134 như Huấn Quyền Hội Thánh gợi
hứng và trình bày: một con người vừa thấm nhuần thiêng liêng
vừa thấm nhuần nhân bản, và kiên quyết dấn thân trong ơn gọi
linh mục, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Ta có thể tóm lược những quan điểm của
Công Đồng Vaticanô II về chức linh mục: Liên hệ với Giám Mục
như người cộng sự, linh mục phải nên đồng hình đồng dạng
với Chúa Giêsu và làm chứng cho Lời. Đời sống thiêng liêng
của linh mục chính là chu toàn thừa tác vụ của mình, như là
người phục vụ, chứ không phải dùng quyền mà thống trị trên
cộng đoàn. Ngài hành động nhân danh và con người của Chúa
Kitô để xây dựng và đảm bảo nguồn gốc tông truyền của Cộng
Đoàn Kitô giáo, như là mục tử và người chủ toạ cộng đoàn.
Các linh mục hôm nay phải nhìn nhận và
thăng tiến phẩm giá, việc đồng trách nhiệm và các đặc sủng
của giáo dân trong tinh thần bình đẳng, tương trợ, hài hoà
và liên đới với giáo dân, để họ tự do trong lĩnh vực và vai
trò riêng của họ. Cuối cùng, vì sự thống nhất và hoà giải
của cộng đoàn tín hữu, linh mục không nên trực tiếp tham gia
các tổ chức và đảng phái chính trị.135 Mẫu linh mục toàn
diện như thế phải được đào tạo một cách hài hoà cùng với
việc tích cực tự đào tạo của mỗi ứng viên.
1. Linh Mục, Người Được Chúa
Thánh Thần Thánh Hiến, Chiếm Hữu và Hướng Dẫn
Trước hết, linh mục phải tự để cho Chúa
Thánh Thần chiếm hữu (Lc 1,15.41.67; 4,18-19; Is 61,1-2; Cv
2,4; 4,8) và hướng dẫn (Mt 4,1; Mc 1,12; Lc 4,1.11). Vì Chúa
Thánh Thần là Đấng mà linh mục đã nhận lãnh từ khi chịu phép
rửa tội và trở thành đền thờ của Ngài (Mc 1,8; Lc 3,16; Ga
1,33;3,5; Cv 1,5), đặc biệt từ khi chịu chức thánh với quyền
tha tội (Ga 20,22), bằng cách hành động nhân danh và con
người của Chúa Kitô.
Được Chúa Cha và Chúa Giêsu sai đến,
Thần Khí Sự Thật sẽ dạy linh mục mọi điều và nhắc nhở ngài
tất cả những gì Chúa Giêsu đã nói (Ga 14,26). Cũng chính
Thần Khí đó sẽ dạy linh mục điều ngài phải nói (lc 12,12) và
sẽ nói thay cho ngài (Mt 10,20; Mc13,11). Nghĩa là linh mục
không chỉ chu toàn đời sống riêng mình, nhưng còn thừa tác
vụ linh mục, nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần qua bảy
ơn136 của Ngài (khôn ngoan, trí hiểu, thông biết, can đảm,
tư vấn, đạo đức và kính sợ Chúa). Cách ứng xử thích đáng của
linh mục là luôn trung thành và “nghe theo những linh hứng
của Chúa Thánh Thần,”137 để sinh hoa trái và mang hoa trái
của Chúa Thánh Thần đến cho người khác (bác ái, hoan lạc,
bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, quảng đại, dịu dàng,
trung tín, khiêm nhường, tiết độ và trong trắng). Chúa Thánh
Thần luôn họat động trong công trình sáng tạo và trong lịch
sử nhân loại, trong cuộc sống và sứ vụ của Chúa Giêsu, trong
Hội Thánh, Nhiệm Thể Chúa Kitô, đặc biệt là trong Hội Thánh
tại Á Châu.138
2. Linh Mục, Con Người Đạo Đức
và Cầu Nguyện
Linh mục phải thực sự là một con người
có đời sống cầu nguyện và thiêng liêng sâu xa, nghĩa là có
mối hiệp thông cá nhân sâu xa với Chúa Cha qua Chúa Con, nhờ
quyền năng Chúa Thánh Thần.139 Điều này được diễn tả trong
mối tương quan với người khác, linh mục nhìn bằng ánh mắt
của Chúa và yêu thương bằng trái tim của Chúa.140
Đời sống cầu nguyện của linh mục khiến
ngài có khả năng nhận thức được chính mình và sự tuỳ thuộc
của ngài, thậm chí cả chức linh mục của ngài, vào Chúa (Dt
5,4-6); nhận thức được sự hiện diện của Thiên Chúa và công
trình của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống hằng ngày nhờ sự
tự hiến và phó dâng hoàn toàn cho Thiên Chúa, theo gương
Chúa Giêsu Kitô.
Lời cầu nguyện của linh mục là lời cầu
nguyện trong lòng Hội Thánh, đặc biệt là lời cầu nguyện
thuộc Hội Thánh và mang tính bí tích trong Phụng Vụ, mà suối
nguồn và chóp đỉnh là Thánh Thể.141 Lời cầu nguyện này của
linh mục được lồng vào trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu:
Linh mục cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu và cầu nguyện với
Chúa Giêsu và cầu nguyện lên Chúa Giêsu.
Đời sống cầu nguyện của linh mục giúp
ngài tìm được Chúa Giêsu nơi người khác, đặc biệt là người
đau khổ, bệnh tật, nghèo đói, bị loại trừ, bị áp bức và bất
lực, để yêu thương họ và phục vụ họ như Chúa Giêsu đã dạy và
đã thực hành. “Người ta mong chờ điều này nơi linh mục: Họ
thật sự nhìn ngài như là một người của Thiên Chúa, một người
có kinh nghiệm về Thiên Chúa. Một điều người ta mong muốn
linh mục phải làm là dạy họ cách cầu nguyện.”142
3. Linh Mục, Con Người của
Linh Thánh
Linh mục tương lai phải nên đồng hình
đồng dạng với Chúa Giêsu và được kêu gọi tiếp nối sứ mệnh
của Chúa Giêsu, Đấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến
thế gian (Ga 10,36); Đấng được Chúa Thánh Thần xức dầu,
thánh hiến và chiếm hữu (Lc 4,18-19). Do vậy, được kêu gọi
nên thánh thiện,143 ứng viên linh mục phải được đào tạo và
tự đào tạo để trở thành con người cua linh thánh, vì linh
mục là người của Thiên Chúa, “là người thuộc về Thiên Chúa
và làm cho con người nghĩ đến Thiên Chúa, là một người sẽ
giúp con người hướng về Thiên Chúa, đi lên với Thiên
Chúa.”144 Nhân tố “linh thánh” trong các tôn giáo truyền
thống Á Châu là rất quan trọng và khả tín đối với sứ mệnh
của Hội Thánh tại Việt Nam. Cùng một đường hướng với
Pastores Dabo Vobis, Ecclesia in Asia dạy rằng con người Á
Châu cần thấy hàng giáo sĩ như là “những người mà lòng trí
luôn đặt để trong những thực tại sâu xa thuộc Thần Khí.”145
Các tăng ni Phật giáo và Lão giáo có
một kỷ luật tinh thần, nghiêng về chiêm niệm hơn là hoạt
động, nhấn mạnh đến việc tự chế, quên mình và siêu thoát
khỏi thế giới, nhằm chống lại những cám dỗ và say mê tìm sự
giải thoát. Thực tế này “thách thức các linh mục Công giáo
đào sâu đời sống thiêng liêng của mình; nếu không, chứng từ
của họ trong xã hội Việt Nam sẽ thiếu thuyết phục.”146
Chúng ta nên học tập họ và tăng cường
đời sống nội tâm mang tính truyền giáo của mình. Thực ra,
các linh mục có thể học hỏi cách sống của các tôn giáo đó
như là cánh cửa dẫn tới Thần Linh và là một phương tiện hiệp
thông với Đấng Thánh Thiêng.147 Nếu các ngài hân hoan và
trung thành sống lối sống và các nhân đức Tin Mừng (vâng
phục, nghèo khó và trong sạch), chứng từ và sứ vụ của họ sẽ
rất hữu hiệu. “Điều này là xác thực trong bối cảnh Á Châu,
nơi mà con người thường bị thuyết phục bởi đời sống thánh
thiện hơn là lý lẽ trí thức.”148 Trong Hội Thánh, linh mục
có mọi phương tiện thích hợp,149 cả tự nhiên lẫn siêu nhiên,
để trở thành một con người linh thánh. Điều quan trọng nhất
là thực hành các phương tiện ấy trong đời sống hằng
ngày.
4. Linh Mục, Người Có Nền Tảng
Thánh Kinh Vững Chắc
Linh mục sống giữa trần gian nhưng
không thuộc về trần gian, mà thuộc về Chúa Kitô và Hội Thánh
Ngài. Linh mục được “kêu gọi để biến đổi trần gian, chứ
không để bị trần gian biến đổi.”150 Thế nên linh mục phải là
một con người của Đức Tin với một nền tảng Thánh Kinh vững
chắc cho cuộc sống và sứ vụ của mình.151
Mọi khủng hoảng đều do thiếu đức tin.
Quả thế, linh mục cũng có thể bị ảnh hưởng bởi nhân tố văn
hoá và tâm thức xã hội do những cơ cấu chính trị và tôn giáo
tạo nên. Ví dụ, chịu ảnh hưởng từ Khổng giáo, chế độ phong
kiến, thực dân, các cơ cấu gia trưởng và phẩm trật trong Hội
Thánh thời tiền Vaticanô II, linh mục Việt Nam đôi khi phải
chịu đựng những thử thách và đấu tranh trong việc vâng phục
với ba loại tùng phục (quyền phục, lý phục, và tâm phục).
Nhưng với đức tin mạnh mẽ ăn rễ sâu
trên nền tảng Thánh Kinh vững chắc đặt trọng tâm nơi Chúa
Giêsu, nơi Tin Mừng, và nơi Hội Thánh, với lời cầu nguyện và
sự biện phân, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, ngài sẽ
tự nguyện vâng phục một cách siêu nhiên những vị lãnh đạo và
các cơ cấu Hội Thánh, không phải với tư cách là cơ cấu hay
hữu thể con người, nhưng là ý Chúa nơi và qua những cơ cấu
hay con người đó.
Việc đào tạo thiêng liêng cho các chủng
sinh Việt Nam cần để tâm tới những ảnh hưởng về văn hoá và
những yếu đuối của con người: Siêu nhiên ở trong tự nhiên để
nâng lên và hoàn thiện tự nhiên. Nhưng ta cũng phải nhẫn nại
lưu ý tới trình độ trưởng thành thiêng liêng và nhân bản của
các chủng sinh: “Tôi đã cho anh em uống sữa chứ không cho
dùng thức ăn cứng, vì anh em chưa chịu nổi. Ngay bây giờ anh
em cũng vẫn còn chưa chịu nổi” (1 Cr 3,2).
5. Linh Mục, Người Mở Ra cho Tình
Hiệp Thông
Ta không thể định nghĩa căn tính và sứ
vụ linh mục bên ngoài mối hiệp thông bắt nguồn từ Chúa Ba
Ngôi và nơi Chúa Ba Ngôi. Vaticanô II nhắc nhở chúng ta
rằng”việc đào tạo cần giúp chủng sinh sống sự hiệp nhất liên
lỉ và mật thiết với Thiên Chúa Cha qua Con Ngài là Chúa
Giêsu Kitô, và trong Chúa Thánh Thần.”152
Linh mục phải là người của Hội Thánh,
là người sẽ sống mối hiệp thông trọn vẹn của Hội Thánh qua
mối hiệp thông phẩm trật với Đức Giáo Hoàng, với hàng Giám
Mục, đặc biệt là với Giám Mục Bản Quyền của mình trong tâm
tình vâng phục hiếu thảo;153 tăng triển trong và cùng với
hàng linh mục trong tình hiệp nhất với Giám Mục của mình,154
với giáo dân và mọi người sống đời thánh hiến, nghĩa là với
toàn thể Dân Chúa, để xây dựng toàn bộ Nhiệm Thể Chúa Kitô
(Ep 4,12).
Đây là lời cầu nguyện tha thiết của Đức
Gioan Phaolô II cho những thừa tác viên chức thánh thuộc Hội
Thánh tại Á Châu: “sống và làm việc trong tinh thần hiệp
thông và hợp tác với hàng Giám Mục và mọi tín hữu, để làm
chứng cho tình yêu.”155 Với tư cách là con người của hiệp
thông, linh mục phải sống và xây dựng mối hiệp thông của
toàn thể nhân loại và thế giới được tạo thành. Thế giới được
tạo thành vẫn đang đợi chờ Nước Thiên Chúa và tha thiết
trông mong ngày giải thoát toàn thể vũ trụ (Rm 8,18-23).
“Mối hiệp thông và sứ vụ luôn đi đôi với nhau”156 và kết nối
với nhau không thể tách lìa.
6. Linh Mục, Người Dấn Thân
Truyền Giáo157
Công Đồng Vaticanô II giúp Hội Thánh
tái khám phá ra căn tính truyền giáo của mình. Quả thế,
Truyền giáo thuộc về chính bản chất của Hội Thánh,158 là cảm
thức và ý nghĩa, là nguồn gốc và mục đích của Hội Thánh.159
Bởi thế, tự bản chất linh mục là nhà thừa sai và phải luôn
luôn thiết tha với việc truyền giáo. Nếu không, ngài không
còn là một linh mục nữa và đánh mất căn tính của mình là
thừa tác viên của Lời Chúa.
Linh mục phải coi việc loan báo Tin
Mừng là ưu tiên số một, thậm chí còn hơn cả việc thờ phượng
mang tính bí tích và việc chăm sóc mục vụ:160 “Khốn thân tôi
nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9,16). Đấng Cứu Độ
đã được sinh ra ở Á Châu, nhưng Kitô giáo ngày nay lại là
nhóm thiểu số tuyệt đối nơi lục địa lớn nhất trái đất với
gần hai phần ba dân số nhân loại.161 Vì vậy, linh mục phải
rất lưu tâm đến lời kêu gọi khẩn thiết phải tiếp tục công
việc truyền giáo của Chúa Giêsu cho đồng bào mình, với lòng
khát khao cháy bỏng là làm cho mọi người biết và yêu mến
Chúa Kitô.
Vaticanô II mở rộng nhãn quan chúng ta
về Nước Thiên Chúa và thôi thúc chúng ta sống sứ mệnh Truyền
giáo, với lòng tin tưởng Chúa Thánh Thần đã “khơi dậy một
tinh thần truyền giáo thực sự trong lòng nhiều linh mục và
tín hữu.”162 Và Thượng Hội Đồng Giám Mục Đặc Biệt của Á Châu
và Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu chỉ ra con đường mới
mẻ trong sự hiện diện của Hội Thánh với ba chiều kích đối
thoại. Những hoạt động của Hội Thánh địa phương tại Việt Nam
trong dịp cử hành 470 năm loan báo Tin Mừng (1533-2004) là
lời nhắc nhở quí giá và lời mời gọi khẩn thiết đối với việc
truyền giáo: việc truyền giáo của người Châu Á cho người
Châu Á.
7. Linh Mục, Người của Đối Thoại
Con đường đối thoại163 bắt nguồn và
khởi đầu từ Thiên Chúa, Đấng luôn duy trì cuộc đối thoại với
con người, đặc biệt với người nghèo, người bị áp bức, và
người bị ruồng bỏ. Với tư cách là sứ giả của Thiên Chúa và
thừa tác viên của Hội Thánh, linh mục phải là con người của
đối thoại.
Đối với Á Châu, cái nôi của nhiều
truyền thống văn hoá, những tôn giáo lớn và đa số người
nghèo trên thế giới, sứ mệnh này lại càng khẩn thiết và
thích hợp hơn. Vì thế, các chủng sinh phải được huấn luyện
kỹ càng về các kỹnăng đối thoại. Chúng ta không chỉ cần ba
cuộc đối thoại mà Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã chỉ
ra như là cách thế hiện diện và thi hành sứ mệnh truyền giáo
(đối thoại với các nền văn hóa, với các tôn giáo và với
người nghèo), mà trong bối cảnh riêng biệt ở Việt Nam, chúng
ta còn cần cuộc đối thoại thứ tư, đối thoại với người cộng
sản.164 Nhưng không được xao nhãng cuộc đối thoại đại kết
trong lòng Hội Thánh.165
8. Linh Mục, Người của Truyền
Thông Xã Hội
Ngày nay, không ai có thể phủ nhận vai
trò quan trọng và ảnh hưởng ghê gớm của phương tiện truyền
thông đại chúng, những ích lợi và tác động tai hại của nó
trong đời sống con người, “cách riêng thế hệ trẻ đang lớn
lên trong một thế giới bị lệ thuộc vào phương tiện thông tin
đại chúng.”166
Linh mục phải hiểu cách sử dụng những
phương tiện truyền thông xã hội hiện đại như là những dụng
cụ hiệu quả để sống hiệp thông bằng lòng và trí với toàn thể
Hội Thánh, để cập nhật kiến thức thần học và mục vụ của
mình, cũng như giáo huấn luân lý và xã hội của Hội Thánh, để
thông truyền sứ điệp Tin Mừng và gia tăng đời sống thiêng
liêng. Ở thời đại chúng ta, linh mục phải học cách sử dụng
đúng đắn phương tiện truyền thông, dĩ nhiên không phải như
là chuyên gia và chuyên nghiệp trong lãnh vực này, để sử
dụng và hướng dẫn người khác cách sử dụng phương tiện thông
tin một cách đúng đắn trong đời sống hằng ngày.
Vì thế, Đức Gioan Phaolô II khuyên nhủ
rằng giáo dục về truyền thông cần phải là một mảng ngày càng
gia tăng trong việc đào tạo linh mục, chủng sinh, tu sĩ,
giáo lý viên, các giáo dân chuyên nghiệp, sinh viên…, theo
chỉ dẫn của Huấn Thị Mục Vụ Aetatis Novae, với sự chú ý
thích hợp đối với những cảnh huống đang phổ biến ở Á
Châu.”167
9. Linh Mục, Người Nhạy Bén với
Đổi Thay Xã Hội
Mọi thứ đang đổi thay và tiếp tục đổi
thay nhanh chóng. Linh mục phải là con người liên kết cách
hài hoà với những hoàn cảnh thay đổi hiện tại trên thế giới.
Ngài phải luôn sẵn sàng nhậy cảm đọc được những dấu chỉ thời
đại, đón nhận những đổi thay mới mẻ và tự thích ứng bằng
lòng can đảm và sự khôn ngoan sáng suốt với những dấu vết
của Chúa Thánh Thần, Đấng đổi mới mọi sự (Kh 21,5).
Vì thế, Công Đồng Vaticanô II khích lệ
các linh mục hoàn thiện một cách phù hợp và không gián đoạn
kiến thức về những sự thánh và những công việc của con người
để có thể trao đổi đàm luận với những người đương thời cho
đúng lúc đúng chỗ hơn.168 Sự nhậy bén sẽ giúp linh mục hiểu
rõ ràng hơn những nhu cầu của con người, nhận thức được
những vấn nạn không thành lời của họ, đáp lại những yêu cầu
của họ, chia sẻ những niềm hy vọng, mong đợi, niềm vui và
gánh nặng của họ.169
Sự nhậy bén này cũng gợi lên và hướng
dẫn những đổi thay của trí não và con tim hướng tới sự hoán
cải liên tục về với Thiên Chúa và người khác, bằng cách “để
mọi việc cứ qua đi và để Chúa lo liệu.” Thiên Chúa luôn canh
tân lời kêu gọi của Ngài qua Tin Mừng, qua các dấu chỉ thời
đại, qua những con người, những biến cố và những thăng trầm
của đời sống hằng ngày, thì linh mục và tất cả những ai theo
Chúa Giêsu cũng đều phải luôn canh tân lời đáp trả cho phù
hợp. Theo nghĩa này, linh mục trở nên một người khiêm tốn
phục vụ bất cứ việc gì, bất cứ ở đâu, bất cứ khi nào và theo
bất cứ cách nào mà con người cần ngài.
10. Linh Mục, Người Của Tác Vụ
Ngôn Sứ
Sau hết, linh mục bị buộc phải sống tác
vụ ngôn sứ. Quả thực, “Thiên Chúa quá yêu thế gian đến nỗi
đã ban Con Một mình cho thế gian” và Con Một Ngài, Chúa
Giêsu Nadarét là mặc khải liên tục của tình yêu tha thiết
Thiên Chúa dành cho con người. Để thi hành sứ vụ ngôn sứ của
mình, Chúa Giêsu rao giảng Bát Phúc, người con hoang đàng,
người Samaria Tốt Lành; Ngài đến với những người tội lỗi,
gái điếm, ngoại tình, bị ruồng bỏ, những người nghèo, những
người ngoài lề xã hội và bị loại bỏ; dù Ngài bị phê phán là
kẻ điên rồ và phản động.
Nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu,
linh mục phải thực thi tác vụ ngôn sứ của mình, với hết tấm
lòng, hết linh hồn và hết sức lực mình, trong hai nhiệm vụ
quan trọng này:
* Loan báo và sống tình yêu đam mê hai
mặt của Chúa Giêsu: đam mê Thiên Chúa và Nước Thiên Chúa, và
đam mê con người;170
* Tố cáo thói giả hình, bất công, áp
bức, v.v… dù phải trả giá bằng thập giá và cái chết (Đức Cha
Oscar Romero và mục sư Martin Luther King là những nhân
chứng thời hiện đại).
Vâng, ở đây và bây giờ, linh mục có cơ
hội để tuyên bố và giới thiệu cho thế giới và Dân Chúa sứ
điệp yêu thương của Ngài. Đồng thời, linh mục phải nhắc nhở
con người dấn thân vào mối tương quan giao ước với Thiên
Chúa. Hơn nữa, dù đó là nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm, ngài
cũng phải đóng vai trò chỉnh sửa trong Giáo Hội cũng như
trong Xã Hội, bất cứ khi nào có quá nhiều áp bức trong các
hệ thống xã hội, chính trị, kinh tế và tôn giáo.171
B. Linh Đạo và Thần
Học về Chức Linh Mục
1. Linh Đạo về Chức Linh Mục
Trước hết, nhấn mạnh đến phẩm chất của
thừa tác vụ linh mục là đòi hỏi tính trung thực và trưởng
thành của linh đạo của đời sống linh mục, qua căn tính, sự
thân mật, tính siêu việt và tính toàn diện của linh mục.
Linh đạo qui về kinh nghiệm nhân loại liên kết với cái tuyệt
đối, trong cả hai, vừa thực tại vừa mầu nhiệm. Linh đạo vén
mở cuộc sống của đương sự như là mối tương quan trong ân
sủng với Thiên Chúa và người khác trong Chúa Kitô và Chúa
Thánh Thần.
Có mối liên hệ qua lại và tuỳ thuộc lẫn
nhau giữa tác vụ và đời sống của linh mục: cả hai, cầu
nguyện và rao giảng đều là nền tảng của linh đạo linh mục
giáo phận. Chúng là hình thức và cơ cấu của đời sống linh
mục trong ân sủng, bám rễ sâu trong đời sống đức tin / cầu
nguyện và sự luyện tập thừa tác vụ linh mục, như là tôi tớ
của Dân Chúa và Nước Thiên Chúa.
Điều đó có nghĩa là tác vụ của linh mục
mang tính cộng đồng hơn, trong một Hội Thánh như là một
cộng đoàn lấy con người làm trung tâm, và cộng đoàn ấy làm
cho đời sống thiêng liêng của linh mục được lớn lên: khi
linh mục giảng dạy, ngài được dạy dỗ; khi khuyên bảo, ngài
được khuyên bảo; khi thăm viếng người bệnh, con bệnh là
chính ngài được nâng dậy; khi an ủi người đau buồn, ngài tìm
thấy sự an ủi; khi phục vụ người nghèo, sự nghèo nàn trong
linh hồn ngài tìm được sự nâng đỡ; khi hướng dẫn người khác,
ngài tìm được sự hướng dẫn và chỉ đạo; khi chủ toạ Thánh
Thể, tinh thần ngài được biến đổi và canh tân; khi cầu
nguyện, ngài tiếp xúc với những hoạt động kín đáo của ân
sủng.172
Theo nghĩa này, linh đạo của linh mục
giáo phận có bốn chiều hướng:
* Chiều hướng Hội Thánh: bao gồm cảm
thức Hội Thánh và sự dấn thân cho việc tăng trưởng cộng
đoàn, với nhiều dạng canh tân (chia sẻ niềm tin, nhân chứng
bác ái chia sẻ cho nhau, cầu nguyện và các nhóm đặc sủng,
đồng trách nhiệm, liên đới, đối thoại, hiểu biết lẫn nhau);
* Chiều hướng nhập thể: đối thoại và
thúc đẩy một nhận thức tích cực về thế giới và một sự phối
hợp cái thiêng liêng và cái trần tục, để biến đổi và thánh
hiến thế giới cho Thiên Chúa trong Chúa Kitô;
* Chiều hướng nhắm đến phục vụ trần
gian: xem việc phục vụ trần gian như một phần không thể
thiếu của linh đạo, và định hướng phục vụ trở nên cam kết
sâu sắc hơn trong chiều kích nhập thể của Hội Thánh phục
vụ;173
* Chiều hướng giải phóng: liên kết với
việc phục vụ trần gian và đáp lại tiếng kêu xin cuộc sống
dồi dào, trong viễn cảnh sinh thái học. Chiều hướng này lại
tự biểu lộ qua ba cách:
* qua việc chữa lành bằng một thái độ
và lối sống chia sẻ đời sống để giúp người thiếu thốn;
* qua một cuộc chiến mang tính ngôn sứ
chống lại những bất công của cơ cấu xã hội, dù là dân sự hay
thuộc về giáo hội;
* qua việc phát triển những thái độ mới
có tính sáng tạo và hy vọng nhằm đưa ra những giải pháp mới
mẻ và sáng tạo.174
2. Thần Học về Chức Linh Mục
1) Theo thư gửi tín hữu Do
Thái, Chúa Kitô là căn nguyên của mọi chức linh mục. Linh
mục nhận được quyền hành trực tiếp từ Chúa Kitô và phải
trung thành với Chúa Kitô, chứ không phải với cơ chế;
2) Chức linh mục của Chúa
Giêsu được chia sẻ trong toàn thể Hội Thánh, với chức linh
mục cộng đồng, được lãnh nhận khi chịu phép rửa của mọi tín
hữu. Tác vụ có chức thánh xuất phát từ cộng đoàn nguyên thuỷ
gồm mười hai môn đệ của Chúa Giêsu, nơi mà cả Chúa Kitô và
Chúa Thánh Thần cùng trực tiếp hoạt động. Vậy có sự trao đổi
qua lại giữa cộng đoàn và thừa tác vụ: Không có thừa tác vụ
nào tồn tại bên ngoài cộng đoàn;
3) Chức linh mục là để cho
cộng đoàn: Chúa Giêsu lập chức linh mục không chỉ trong Bữa
Tiệc Ly, nhưng trải qua suốt cuộc đời công khai của Ngài.
Ngài kêu gọi các môn đệ và mong muốn họ tiếp nối công việc
và sứ vụ của Ngài;
4) Hội Thánh không bao giờ
được hoàn thành hay được xây dựng đầy đủ, nhưng luôn được
Chúa Thánh Thần uốn nắn thành một mối hiệp thông của những
con người. Sự tràn đầy Thần Khí được biểu lộ trong mọi ân
huệ mà các thành viên nhận được;
5) Tác vụ linh mục là một
lời kêu gọi và lời đáp trả lại lời mời gọi này. Việc chấp
nhận ý Chúa thiết lập nên tác vụ và mối tương quan cá nhân
của linh mục với Chúa Giêsu;
6) Thừa tác vụ linh mục là
thừa tác vụ ngôn sứ và có thể nói linh mục được kêu gọi để
điều khiển một cộng đoàn ngôn sứ, với hai vai trò chính là
rao giảng Lời Chúa và cử hành Thánh Thể; và cau cùng
7) Phận vụ của linh mục là
đại diện và hành động nhân danh Chúa Giêsu, và linh mục phải
luôn là người đại diện của Ngài: không phải để được phục vụ
nhưng phục vụ và hiến trao mạng sống mình cho người khác.175
C. Hình Ảnh và
Căn Tính của Linh Mục
Việc Đào Tạo Thiêng Liêng “đòi hỏi toàn
bộ con người phải dấn thân”176 và làm cho người trẻ sẵn lòng
trở thành linh mục nên “một hình ảnh sống động của Chúa
Giêsu Kitô.”177 Nghĩa là, chủng sinh sẽ càng ngày càng được
đào tạo nhiều hơn để nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô
Linh Mục và Mục Tử Nhân Lành178 đối với Dân Chúa.
Vậy việc đào tạo thiêng liêng cung cấp
cho linh mục tương lai năm yếu tố:
* một sự hiệp thông sâu sắc với Chúa
Giêsu Kitô;
* một sự tuân phục hoàn toàn theo Chúa
Thánh Thần;
* một thái độ hiếu thảo đối với Chúa
Cha;
* một lòng gắn bó tin tưởng với Hội
Thánh;
* và một lối sống ăn rễ sâu từ kinh
nghiệm về Thập Giá.
Chúng ta có thể khai triển những cấu tố
này của việc đào tạo thiêng liêng cho linh mục tương lai
bằng cách sử dụng từ CHRIST theo kiểu lấy các chữ cái đầu
179 cho một nền linh đạo đặt Chúa Kitô làm trung tâm:
Cross
(Thập Giá)
Cuộc sống và thừa tác vụ linh mục bắt
nguồn nơi Thập Giá Chúa Giêsu, một con đường duy nhất để
bước theo Ngài: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình,
vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Mẹ Hội Thánh không
bao giờ che giấu thập giá; Hội Thánh tán dương và suy tôn
thập giá. Không thể xem thập giá như là một gánh nặng, nhưng
đúng hơn như là cây gậy nâng đỡ. “Cuộc sống của linh mục
càng cắm rễ sâu vào thập giá, thì càng sinh nhiều hoa
quả.”180 Vì thế, chúng ta không bao giờ nên che chắn cho
chủng sinh thoát khỏi bóng thập giá, thoát khỏi khía cạnh hy
sinh trong cuộc sống và tác vụ của họ.
Humanity (Nhân Tính)
Nhân tính của Chúa Giêsu gây kinh ngạc
cho chúng ta, khi chúng ta đọc và suy niệm Tin Mừng (Mc
10,14; 6,35; 1,41; Lc 7,11; Ga 11,35). Ta nhìn thấy nhân
tính của Chúa Giêsu cách rõ ràng nhất nơi lòng trắc ẩn của
Ngài. Lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu khiến Ngài liên kết với
mọi người: người bệnh tật và đau khổ, người nghèo đói và bị
áp bức, kẻ tội lỗi cũng như các thánh nhân (Mc 10,46; 5,30;
Lc 21,2). Linh mục không thể vô cảm, miễn nhiễm hay lãnh đạm
trước những nỗi đau buồn và những cuộc đấu tranh của những
con người mà ngài săn sóc.181 Sống tác vụ với người bệnh tật
và đau khổ, người nghèo đói và thiếu thốn cách nào đó làm
chúng ta nên mềm mại và dịu dàng, khiến chúng ta trở nên
nhân bản hơn và nên giống Chúa Kitô.182
Reconciliation
(Hoà Giải)
Chúa Kitô đến để hoà giải chúng ta với
chính mình, với người khác, với Thiên Chúa và với tất cả thế
giới được tạo thành. Ngài chữa lành những gì đã bị đổ vỡ,
tập hợp những gì đã bị phân tán, hiệp nhất những gì đã bị
chia rẽ (2 Cr 5,19; Ga 11,52; Dt 4,15; Mt 11,19; Lc 23,43).
Các nhà đào tạo là những thừa tác viên
và sứ giả của sự hoà giải. Nhưng các ngài cũng cần nhận thức
sâu xa nơi chính mình rằng các ngài vẫn mang những hạt giống
tội lỗi và ích kỷ; rằng các ngài cần hoán cải và hoà giải
trước tiên. Đồng thời, các ngài cần đào tạo và giúp các
chủng sinh của mình nhận thức, một cách khiêm tốn và trung
thực, sự dữ trong lòng họ, để họ phải được hoà giải với
chính họ, với người khác, với tạo thành và với Thiên Chúa,
và trở nên những sứ giả bình an và hoà hợp trong cộng đoàn
chủng viện cũng như trong Hội Thánh và xã hội.183
Interiority (Nội Tâm)
Các Tin Mừng miêu tả Chúa Giêsu như là
một con người cầu nguyện trong mối hiệp thông sâu xa nhất
với Chúa Cha (Mt 14,23; 26,36.42.44;27,46; Mc 6,46; 14,32;
Lc 6,12; 9,18.28; 10,21; 11,1; 23,46). Chúa Giêsu đã dạy các
môn đệ Ngài cầu nguyện bằng chính gương mẫu của Ngài. Lòng
gắn bó của Ngài với con người cũng xuất phát dồi dào từ mối
hiệp thông của Ngài với Chúa Cha.
Việc đào tạo thiêng liêng phải vun
trồng đời sống nội tâm, đời sống cầu nguyện, chiêm niệm
trong hành động, đặc biệt là đối với các linh mục giáo phận
là những vị sống trong trần gian nhưng không thuộc về trần
gian. Vậy việc đào tạo thiêng liêng phải giúp các chủng sinh
tập và yêu mến cầu nguyện, dành ưu tiên cho việc cầu nguyện
và hằng ngày dành thời gian tốt đẹp cho Chúa.184 Đời sống
thiêng liêng đích thực là “sống trong tình hiệp nhất thân
mật và liên lĩ với Chúa Cha, qua Con Ngài là Chúa Giêsu
Kitô, trong Chúa Thánh Thần”. Nhờ đó, “các ngài thủ đắc được
tinh thần cầu nguyện, học cách bảo vệ và củng cố ơn gọi của
mình, gia tăng các nhân đức khác và tăng trưởng trong lòng
nhiệt thành đem mọi người về cho Chúa Kitô.”185
Servanthood (Phục Vụ như Tôi Tớ)
Ở Á Châu, các linh mục vẫn còn được tôn
trọng và kính phục; các ngài được hưởng một uy tín và quyền
lực nào đó giữa người tín hữu, ngay cả xã hội cũng dành cho
các ngài một qui chế.
Việc đào tạo thiêng liêng phải làm sáng
tỏ, sửa lại và thay đổi nhãn quan của các chủng sinh về mặt
này theo gương mẫu Chúa Giêsu, Đấng “đã đến không phải để
được phục vụ nhưng là phục vụ và hiến ban mạng sống hầu cứu
chuộc muôn người” (Mc 10,45; Mt 20,28). “Chúa Giêsu hiểu
những yếu đuối của chúng ta, những thất bại của chúng ta,
những cảm giác ngã lòng, lo sợ và cô đơn của chúng ta. Chính
Ngài cũng đã trải nghiệm những khó khăn này.”186 Tinh thần
phục vụ của một tôi tớ vô dụng, kẻ chỉ làm bổn phận mình (Lc
17,10) sẽ làm cho các chủng sinh vui vẻ chấp nhận và quảng
đại dấn thân trong những nhiệm vụ được trao phó, với nhận
thức rằng thầy sẽ không được phong chức để thống trị cộng
đoàn Kitô hữu, nhưng để trao tặng cộng đoàn ấy tinh thần
phục vụ vị tha của mình.187
Teacher
(Thầy Dạy)
Việc đào tạo thiêng liêng nhắm mục đích
huấn luyện các chủng sinh nên Thầy Dạy Lời Chúa nhờ chính
đời sống cầu nguyện và chiêm niệm của họ: “Có mối tương quan
thiết yếu giữa việc cầu nguyện cá nhân và việc rao giảng…
Việc rao giảng hiệu quả là một hoa trái khác của việc cầu
nguyện cá nhân.”188 Trước khi dạy dỗ và rao giảng, các linh
mục phải có kinh nghiệm bản thân về Lời Chúa, như cô Maria
đã ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe lời Ngài (Lc 10,38-42),
hay người môn đệ học được từ nguồn kinh nghiệm cá nhân của
thầy Guru. Các ngài không dạy dỗ hay rao giảng “về chính bản
thân mình hay những ý kiến riêng mình, nhưng là một Tin Mừng
mà các ngài là những thừa tác viên với lòng trung tín trọn
vẹn.”189
D. Nâng Đỡ và Nuôi
Dưỡng Thiêng Liêng
Như trong cuộc sống con người, cha mẹ
trao ban sự sống cho con cái và phải bảo vệ sự sống đó, nuôi
dưỡng và chăm sóc cho con cái lớn lên tới lúc trưởng thành
về mọi phương diện, để đến lượt mình, con cái lại tiếp tục
trao ban sự sống cho thế hệ tiếp theo và như thế dòng chảy
sự sống sẽ được tiếp nối. Cũng vậy, việc đào tạo phải nuôi
nấng và tăng cường đời sống thiêng liêng cho các linh mục
tương lai, những người cũng sẽ trở thành những thầy dậy cầu
nguyện, những nhà đào tạo và linh hướng, những người sẽ giúp
nhiều thế hệ tương lai trong đời sống thiêng liêng cho đến
khi hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Theo chiều hướng này, người ta tìm được
sự nâng đỡ và nuôi dưỡng trong giáo huấn của Hội Thánh.
Trước hết, về phương tiện siêu nhiên:
Lời Chúa trong cả hai bàn tiệc Phụng vụ Lời và Phụng vụ
Thánh Thể, bí tích Sám Hối được chuẩn bị nhờ việc xem xét
lương tâm hằng ngày, việc đọc sách thiêng liêng để chuyên
cần tìm kiếm những dấu chỉ của thánh ý Thiên Chúa và những
thúc đẩy của Chúa Thánh Thần nơi những sự kiện khác nhau
trong cuộc sống, mẫu gương tuyệt vời của Đức Trinh Nữ Maria,
việc viếng thăm và sùng kính Bí Tích Thánh Thể, những cuộc
tĩnh tâm và linh hướng, trí nguyện và khẩu nguyện.190
Thứ hai, về phương tiện tự nhiên: sự
quan tâm của Giám Mục và cuộc sống huynh đệ giữa các linh
mục, sự trợ giúp của các tín hữu giáo dân với tình bằng hữu,
sự hiểu biết và hợp tác.191 Đức Gioan Phaolô II thúc giục
các Giám Mục Việt Nam luôn gần gũi các linh mục, để nâng đỡ
các linh mục trong những chương trình mục vụ, để chú tâm đến
đời sống hằng ngày và đồng hành với các linh mục, đặc biệt
khi họ gặp phải những khó khăn liên hệ đến thừa tác vụ của
họ. Cũng cần phải dành sẵn cho họ những kỳ đào tạo thiêng
liêng và tri thức thích ứng với những thách đố truyền giáo
mà họ phải đối mặt.192
Thứ ba, lòng trung thành với thừa tác
vụ cũng sẽ nâng đỡ và thánh hoá linh mục.193 Linh mục phải
thánh thiện để cử hành những mầu nhiệm thánh, và những mầu
nhiệm thánh được cử hành sẽ thánh hoá linh mục: nhờ các hành
động thiêng thánh … các linh mục được dẫn tới sự trọn hảo
trong đời sống và trong việc luyện tập đức ái mục tử, các
ngài sẽ khám phá ra mối ràng buộc của sự trọn lành linh mục,
trong khi đó sự thánh thiện cũng giúp nhiều cho linh mục
sống một tác vụ sinh hoa kết trái. Linh mục thu lượm được
của ăn thiêng liêng từ chính những hoạt động mà ngài dấn
thân vào.
Thứ tư, việc đào tạo thường xuyên sẽ
nâng cao đời sống linh mục và làm cho đời sống ấy sinh thêm
nhiều hoa trái. Bởi vậy, Sắc Lệnh Đào Tạo Linh Mục (Optatam
Totius) ước mong rằng việc huấn luyện linh mục phải được duy
trì và kiện toàn, bằng những phương tiện phù hợp để từng
bước đưa chủng sinh vào đời sống linh mục và hoạt động tông
đồ một cách hiệu quả.194 Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục
(Presbyterorum Ordinis) thúc giục các linh mục hoàn thiện,
cách thích hợp và không gián đoạn, kiến thức của các ngài về
những sự thánh, cũng như những công việc của con người, hầu
nuôi dưỡng và củng cố đời sống thiêng liêng của các ngài.195
Những Mục Tử Như Lòng Mong Ước (Pastores Dabo Vobis) xem
việc thường huấn như là một bổn phận, và chỉ dẫn chi tiết
nhiều hình thức và phương tiện cho việc đào tạo thường xuyên
cho mọi linh mục thuộc mọi lứa tuổi và mọi điều kiện sống,
đặc biệt là các linh mục trẻ.196
Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã đáp
lại sớm nhất với tài liệu nêu trên. Văn Phòng Giáo Dục và
Tuyên Uý Sinh Viên được chỉ định chuẩn bị và điều hành
chương trình đào tạo thường xuyên và nhấn mạnh những điểm
sau:
* việc học tập của hàng giáo sĩ trẻ;
* thay đổi lại mô hình Giáo Hội học;
* hội nhập văn hoá và đối thoại giữa
các niềm tin;
* phụng vụ và cuộc sống;
* lối tiếp cận trong linh hướng;
* đạo đức sinh học; và
* những quan tâm đến những mức độ và
giai đoạn khác nhau của đời sống linh mục, và thời gian nghỉ
phép.197
Tóm lại, trong mọi trạng huống của đời
sống và thừa tác vụ, các linh mục luôn được nhắc nhở rằng
không gì có thể tách các ngài ra khỏi tình yêu vĩnh cửu của
Chúa Kitô và lời hứa cứu độ của Thiên Chúa. Không hề sợ hãi,
các ngài nhìn vào sự canh tân và biến đổi trong cuộc sống và
thừa tác vụ linh mục của mình, nhờ hoạt động quyền năng của
Chúa Thánh Thần. Đằng sau gương mặt luôn đổi thay của thế
giới luôn tồn tại gương mặt cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, Đấng
đã hứa với các ngài “Thầy luôn ở cùng anh em!”
còn tiếp |