PHẦN BA
ĐÀO TẠO VÀ
TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG CỦA CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI
TRONG BỐI
CẢNH VIỆT NAM HÔM NAY
Nguyên
bản tiếng Anh
Lm.
Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY
Bản dịch
Việt ngữ
Lm. Vincentê
Trần Minh Thực, Lm. GB. Nguyễn văn Hào
Trong vài năm qua, Hội
Thánh Công giáo đã phải chịu đau đớn nhiều vì cách cư xử
không đúng đắn của một ít linh mục. “Chúng ta phải thừa nhận
rằng hàng giáo sĩ của chúng ta, cả trẻ và già, không phải
không có những vấn đề, những xung đột, và những khủng hoảng
có lẽ phản ánh việc lựa chọn và đào tạo chưa đầy đủ của
họ.”198
Những trường hợp này có
thể được dùng như phúc lành của Chúa nhắc nhở và thách thức
chúng ta phân tích, lượng định và tổ chức lại việc huấn
luyện chủng viện.199 Có những người sẽ nói rằng việc huấn
luyện ở chủng viện trong quá khứ đã phải chịu đựng một loại
nhị nguyên luận. Nghĩa là có sự tách đôi giữa những gì các
chủng sinh học, và những gì họ sống. Chúng tôi bác bỏ kiểu
phân chia như thế trong chương trình đào tạo chủng viện, vì
con người là một thể thống nhất. Cuộc sống con người với và
trong Thiên Chúa tác động mọi khía cạnh của con người, bởi
vậy, đời sống thiêng liêng phải bao gồm, tác động, và bao
quát mọi khía cạnh của đời sống con người, cùng những gì
thuộc về con người cách chân thực và đích thực.
Phần ba này sử dụng những
nền tảng, thách đố và cơ hội khả dĩ trong bối cảnh Việt nam
đã được trình bày ở phân thứ nhất, và giáo huấn của Huấn
Quyền Giáo Hội đã được nhấn mạnh ở phần thứ hai. Sử dụng hai
cột trụ quan trọng đó, phần này sẽ tạo nên toà nhà của việc
đào tạo ở chủng viện và toà nhà sẽ gồm cả việc đào tạo
thiêng liêng cho các chủng sinh đặt trong bối cảnh Việt Nam
hôm nay, với cả những quan điểm về Giáo Hội học của Vaticanô
II, của việc Truyền Giáo, của việc Cộng Tác với Giáo Dân, và
của việc Đối Thoại. Việc Đào Tạo và Tự Đào Tạo Thiêng Liêng
sẽ được trình bày theo ba thời kỳ: Giai đoạn Tiền Chủng
Viện, Giai đoạn đào tạo Chủng Viện, và năm năm đầu đời Linh
Mục thuộc thời kỳ Hậu Chủng Viện.
CHƯƠNG
VII
BỐI CẢNH
HÓA ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG CHO CÁC
LINH MỤC
VIỆT NAM TƯƠNG LAI
A. Trong
Viễn Anh Giáo Hội Học của Vaticanô II
Trong kiểu Giáo Hội nào
mà các chủng sinh hôm nay được đào tạo, và rồi, họ sẽ thi
hành tác vụ trong tương lai? Ta có thể nói ngay rằng đó là
Giáo Hội của Vaticanô II: với cái nhìn năng động mới và một
hiểu biết quân bình hơn về những hình thức khác nhau của đời
sống Kitô giáo: Giáo Dân, Tu Sĩ và Giáo Sĩ cùng với nhau
trong bình đẳng phẩm giá, bổ sung, hài hoà và liên đới với
nhau vì Nước Thiên Chúa.
Giáo Hội ấy được xem như:
* Giáo Hội Hiệp Thông,
hiệp thông trong lòng Giáo Hội: Tình huynh đệ, phục vụ lẫn
nhau, vâng phục lẫn nhau và hiệp nhất trong đa dạng giữa
Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương;
* Giáo Hội Truyền Giáo,
mở ra với thế giới: Nước Thiên Chúa vượt ra ngoài biên giới
Giáo Hội, và Thần Khí vẫn luôn hiện diện trong Giáo Hội,
trong thế giới, trong các tôn giáo khác và xã hội. Với tư
cách là thừa tác viên và người truyền đạt Lời Chúa, Giáo Hội
là dấu chỉ bí tích, là hạt mầm của Nước Trời, theo cái nhìn
cánh chung;
* Dân Lữ Hành của Thiên
Chúa: mặc dù với những cơ cấu, nhưng không chỉ là thể chế
được thiết lập, vẫn luôn trên hành trình về với Chúa Cha,
trong Chúa Giêsu Kitô, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh
Thần;
* Giáo Hội Phục Vụ: Giáo
Hội không phải ở ngoài hay song hành với nhân loại, nhưng
được lồng vào trong lịch sử nhân loại vì sự sống của trần
gian, với thái độ bất biến là đối thoại và hợp tác với con
người trong việc xây dựng tình huynh đệ phổ quát.
Trong khi đó, thế giới
hôm nay là thế giới của văn minh khoa học kỹ thuật, thế giới
của thần học giải phóng, của sự thăng tiến phụ nữ, của lựa
chọn ưu tiên cho người nghèo, người bên lề, người bị áp bức,
và người thấp cổ bé họng; thế giới của nền kinh tế lấy thị
trường làm trung tâm với nền văn hoá duy vật và duy tiêu
thụ.
Các linh mục tương lai sẽ
được đào tạo và rồi thi hành thừa tác vụ trong nhãn quan
Giáo Hội học này: mọi thành phần của Giáo Hội đều được kêu
gọi nên thánh và đạt tới đức ái trọn hảo; nên đồng hình đồng
dạng với Chúa Kitô linh mục, ngôn sứ và vương giả, qua phép
rửa tội và phép thêm sức; được thánh hiến vì sứ vụ, để yêu
mến, để phục vụ và để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa,
trong sự hiểu biết phổ quát về ơn cứu độ, với lòng khiêm tốn
và với ý thức về những yếu đuối của con người và những điều
kiện tội lỗi, không còn những thái độ và lời lẽ ngạo mạn.200
B. Trong
Viễn Anh Truyền Giáo
1. Tính Khẩn
Thiết của Việc Truyền Giáo với Giáo Hội Việt Nam Hôm Nay
Á Châu là cái nôi của các
tôn giáo lớn trên thế giới. Đặc tính thánh thiêng của các
tôn giáo này đã được rất nhiều người biết đến, đặc biệt là
người Âu Châu, trong số đó có nhiều người, thậm chí các Kitô
hữu, sử dụng những lối thực hành cầu nguyện chiêm niệm, suy
niệm, và một số người trở thành những môn đệ thuần thục của
các tôn giáo này.
Trong bối cảnh này, chúng
ta có nhu cầu khẩn thiết phải loan báo Tin Mừng,201 bởi vì
“hầu hết các linh mục địa phương có thể là những người quản
lý tốt những cộng đoàn Kitô hữu, nhưng họ lại thường thiếu
quan tâm và lòng cởi mở với những người không Công giáo
quanh họ,”202 trong khi Thiên Chúa lại muốn cho cả trần gian
được cứu độ (x. Ga 3,16-17). Bản chất của tình yêu là chia
sẻ sự phong phú tràn trào của nó và đó cũng là lý do tồn tại
của sứ vụ của Chúa Giêsu là chia sẻ tình yêu tràn trào của
Thiên Chúa cho nhân loại. Chúa Giêsu trao sứ vụ của Ngài cho
Giáo Hội và Giáo Hội gắng sức làm chứng cho tình yêu đó của
Thiên Chúa và tập hợp mọi người lại trong Nước Thiên Chúa,
như Công Đồng Vaticanô II thúc đẩy chúng ta.
Nếu chúng ta hiểu thấu
đáo ý nghĩa sứ vụ của Chúa Giêsu, cũng là sứ vụ của Giáo
Hội, chúng ta sẽ không giới hạn việc thực thi sứ vụ này
trong việc rửa tội cho người ta để biến họ thành Kitô hữu:
“Việc tân Phúc Âm hoá cần những người loan báo Tin Mừng mới…
những người động lòng trắc ẩn trước đám đông và trao cho họ
bánh sự thật, bánh tình yêu, bánh sự sống.”203 Nước Thiên
Chúa bao gồm mọi người, mọi thụ tạo của Thiên Chúa. Vì thế
“việc tân Phúc Âm hoá chính là nhiệm vụ thiết yếu và cấp
bách của Hội Thánh.”204
Trong nhãn quan rộng rãi
hơn như thế, việc đào tạo thiêng liêng nhắm mục đích giúp
các linh mục tương lai nhận thức được việc tự đào tạo để nên
những linh mục truyền giáo nhiệt thành mà Giáo Hội cần,
không chỉ cho Giáo Hội địa phương ở Việt Nam, nhưng còn cho
các Giáo Hội anh em tại Á Châu. Quả thực, “toàn thể Giáo Hội
đều là thừa sai. Ngay cả khi chúng ta phục vụ tại chính giáo
phận mình, thừa tác vụ của chúng ta cũng phải thấm nhuần
chiều kích truyền giáo.”205
2. Nguồn Gốc và
Mẫu Mực: Sứ Vụ của Chúa Giêsu
a. Sứ Vụ của Chúa
Giêsu trước Phục Sinh
Chúa Giêsu là nhà thừa
sai trước tiên được Chúa Cha sai đến. Sứ vụ của Chúa Giêsu
mở ra một cuộc canh tân. Ngài phá đổ những ranh giới qua
nhiều lời nói, dụ ngôn và hành động của Ngài. Tính chất bao
gồm (inclusiveness) trong sứ vụ của Chúa Giêsu gây sửng sốt!
Ngài là người đặt nền móng cho sứ vụ với Dân Ngoại. Những
nét quan trọng trong sứ vụ của Chúa Giêsu là: Chúa Giêsu thi
hành sứ vụ của Ngài với lời cầu nguyện liên lỉ và kinh
nghiệm sâu xa về Thiên Chúa, Cha của Ngài; Nước Thiên Chúa
là trung tâm trong toàn bộ tác vụ của Chúa Giêsu và là trung
tâm đối với sự hiểu biết về chính sứ vụ của Ngài; sứ vụ của
Chúa Giêsu đặt tâm điểm nơi vấn đề con người hơn là những
nguyên tắc và nghi thức.206
b. Sứ Vụ của Chúa
Giêsu sau Phục Sinh
Sau khi sống lại, Chúa
Giêsu tiếp tục bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người,
khi Ngài hiện ra với các môn đệ và chào họ bằng những lời
trấn an: “Bình an cho anh em!” Chúa Giêsu thổi hơi vào họ,
trao ban Chúa Thánh Thần cho họ và sai họ ra đi tiếp nối
chính sứ vụ của Ngài.
Kinh nghiệm Phục Sinh là
trung tâm, không chỉ cho các môn đệ của Chúa Giêsu, nhưng
còn cho tất cả chúng ta, vì kinh nghiệm này giữ cho sứ vụ
của Chúa Giêsu luôn sống động. Rời bỏ thế gian và lên với
Chúa Cha, giờ đây Chúa Giêsu có thể làm công việc của Ngài ở
mọi nơi trên thế giới, bất cứ nơi đâu có các môn đệ của Ngài
hiện diện. Là những môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta có một
sứ điệp tuyệt đẹp của tình yêu Thiên Chúa để sẻ chia. Và
trước hết, đó không phải là một sứ điệp bằng lời, mà là một
sứ điệp tự diễn tả qua cách sống và cách hiện diện của chúng
ta. Đây là sứ vụ vĩ đại mà chúng ta được đặc quyền chia sẻ
và làm chứng, ở đây và bây giờ.
c. Bản Chất của
Giáo Hội là Truyền Giáo
Tự chính bản chất, Giáo
Hội lữ hành là truyền giáo, vì Giáo Hội được khơi nguồn từ
chính sứ vụ của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần, theo đúng
thánh ý Chúa Cha, như Công Đồng Vaticanô II nhấn mạnh (LG
4). Vậy tất cả Dân Chúa đều được mời gọi canh tân nội tâm
sâu xa với ý thức sống động trách nhiệm của chính mình trong
việc truyền bá Tin Mừng (AG 35): “Anh em hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc
16,15). Hành động nhân danh và là hiện thân của Đấng Cứu
Thế, linh mục phải cưu mang trong tâm trí mình lời kêu gọi
cấp thiết này và duy trì tinh thần truyền giáo theo lệnh
truyền của Chúa Giêsu.
3. Đối Thoại,
Con Đường Thích Hợp để Sống và Thi Hành Sứ Vụ Truyền Giáo
Theo quan điểm của Liên
Hội Đồng Giám Mục Á Châu, con đường mới trong sự hiện diện
của Giáo Hội là con đường với ba cuộc đối thoại: Đối thoại
với các nền văn hoá và các truyền thống, đối thoại với các
Tôn Giáo Khác và đối thoại bằng cuộc sống với người nghèo.
Nhưng bối cảnh Việt Nam đòi hỏi thêm một chiều kích đối
thoại nữa: đối thoại với người cộng sản.207 Mặc dù điều này
xem ra có vẻ khó khăn vì chính sách tôn giáo khắt khe của ý
thức hệ cộng sản, chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng là
Chủ của lịch sử, Ngài sẽ biến đổi mọi sự vào đúng thời của
nó. Được trang bị bằng đời sống nội tâm vững chắc trong mối
tương quan gần gũi với Thiên Chúa, các linh mục dấn thân vào
thế giới để cứu độ thế giới và để được cứu độ cùng với toàn
thể thế giới được tạo thành.
4. Trở Nên
Những Thừa Sai Hăng Say và Hiệu Quả
Mỗi thời đại có những
khía cạnh tích cực và tiêu cực của nó. Chúa Thánh Thần là
tác giả của mọi cuộc canh tân trong Hội Thánh và trong thế
giới. Hướng tới một cách thức hiện diện và thi hành sứ vụ
truyền giáo hữu hiệu trong thế giới đương đại, các linh mục
Việt Nam208 phải lắng nghe theo những linh hứng của Ngài.
Tin rằng Chúa Thánh Thần luôn cùng làm việc với các ngài,
các linh mục tự dấn thân vào công việc Phúc Âm hoá, ý thức
đầy đủ về sứ vụ khẩn cấp của mình (1 Cr 9,16). Nhưng các
ngài cũng ý thức được những giới hạn con người của mình với
những yếu đuối và tội lỗi, luôn ghi nhớ trong tâm trí lời
Thánh Phaolô: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng,
kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại”
(1 Cr 9,27).
C. Trong
Viễn Ảnh Cộng Tác Với Giáo Dân
1. Quan Tâm Mới,
Cái Nhìn Mới
Chịu ảnh hưởng do quan
niệm tiền Vaticanô về đời sống linh mục và đời sống tu trì,
hàng giáo sĩ thường có mặc cảm tự tôn đối với giáo dân.
Nhưng ngày nay nhiều giáo dân giỏi hơn nhiều linh mục do căn
bản giáo dục và kiến thức thần học cao hơn. Thách đố này
mang đến một nhìn nhận rõ ràng: ở tuyến đầu của Giáo Hội,
trong địa hạt các đặc sủng và sứ mệnh, cũng như trong định
nghĩa (Dân Thiên Chúa, tham dự vào chức linh mục của Chúa
Kitô) và con số (99,80% giáo dân, mà chỉ 0,12% tu sĩ và chỉ
0,08% thừa tác viên chức thánh),210 người giáo dân cho thấy
một đóng góp đối với việc thực hiện Nước Thiên Chúa và công
trình thánh hoá trần gian từ bên trong như men. Mọi người đã
chịu phép rửa tội được kêu gọi nên thánh, tùy theo việc phục
vụ và thừa tác vụ hợp với những ân huệ và tài năng của riêng
mình. Cả giáo dân và giáo sĩ đều góp phần vào Triều Đại
Thiên Chúa trong chiều kích cánh chung: người giáo dân nhấn
mạnh cái hiện tại (cái đã có), trong khi hàng giáo sĩ nhấn
mạnh đến cái tương lai (cái chưa có).
Việc xây dựng sự cộng tác
làm việc giữa giáo dân-giáo sĩ là rất quan trọng và thông
qua ba yếu tố chủ yếu: hiệp thông, hợp tác trong sứ vụ và
việc đào tạo thích hợp về thiêng liêng, tín lý và văn hoá.
Đúng thế, hình ảnh thích hợp của linh mục thế kỷ hai mươi
mốt là bậc thầy luôn học hỏi Chúa Kitô: ngài luôn đồng hành
với con người ở đúng nơi mà họ đang hiện diện, lắng nghe họ
và rồi chia sẻ những hiểu biết trong hành trình của họ. Đó
cũng là người chữa lành mà lại mang thương tích như Chúa
Kitô: ngài có mọi quyền năng, nhưng lại hoàn toàn dễ dàng bị
tổn thương. Bắt chước người chữa lành mang thương tích, các
linh mục và giáo dân biết mình là ai nơi cốt lõi của chính
mình, bằng cách chia sẻ chính mình với Thiên Chúa và với mọi
người, nam cũng như nữ, trong những mối tương quan mật
thiết, như Chúa Giêsu, Đấng từng có cả bạn bè nam và nữ.211
Để xúc tiến sự hợp tác
giáo dân-giáo sĩ này, hàng giáo sĩ và giáo dân phải:
* dấn thân nhiều hơn
trong đời sống của nhau với sự cảm thông với nhau sâu sắc
hơn;
* chia sẻ những trách
nhiệm trong sự hiểu biết, tự do và viển ảnh Kitô giáo với
tình yêu chân thực của những người cộng tác với nhau;
* cổ vũ sự hiệp thông với
ý thức về sự hiện diện của người khác, với sự nhìn nhận
những tình trạng khác nhau trong cuộc sống và chấp nhận
người khác theo như đúng bản chất của họ;
* nâng phẩm chất việc đào
tạo toàn diện của giáo sĩ và giáo dân, trong đó chiều kích
liên hiệp của giới tính con người phải được đề cao.212
2. Cộng Tác
với Người Giáo Dân Nói Chung
Công Đồng Vaticanô II là
một Lễ Hiện Xuống mới với viễn ảnh mới về Giáo Hội như là
hiệp thông, mà hàng giáo phẩm là ở trong lòng Dân Chúa, chứ
không phải ở bên trên, và như huynh đệ, nhấn mạnh đến sự
bình đẳng của mọi tín hữu dựa trên phép rửa tội (LG 30;32).
Các mục tử phải nhìn nhận các đặc sủng và sứ vụ của giáo dân
: cộng tác trong đời sống và sứ vụ của Giáo Hội; chia sẻ ý
kiến vì lợi ích của Giáo Hội trong tinh thần vâng phục lẫn
nhau; thi hành sứ vụ trong lãnh vực hôn nhân, gia đình, văn
hoá, các cơ cấu xã hội, kinh tế, chính trị, tình liên đới,
công lý và hoà bình.213 Vấn đề chính yếu không phải là canh
tân một phía, giáo sĩ hoặc giáo dân, vì giáo sĩ và giáo dân
có liên hệ với nhau và tùy thuộc lẫn nhau. Họ phải cảm thấy
nhu cầu cần thay đổi căn bản trong tâm trí, để cùng bước đi
trên con đường Nước Thiên Chúa.
Trong tinh thần đó, linh
mục phải đề cao sự cộng tác214 với người giáo dân, lắng nghe
họ và đáp ứng lại những mong đợi của họ liên quan đến đời
sống và sứ vụ linh mục, đào tạo và tự đào tạo cho việc Phúc
Âm hoá và vì ích chung của Giáo Hội và thế giới. Giáo dân
mong đợi nơi linh mục:
* canh tân và thánh hoá
đời sống linh mục như là chuyện quan trọng nhất;
* đời sống thiêng liêng
và cầu nguyện của linh mục như là mẫu mực của người tín hữu;
* linh mục phải là hình
ảnh của Chúa Kitô và là mẫu mực cho đời sống đức tin của
người tín hữu;
* Thiên Chúa phải là mục
đích trước tiên và tối hậu của đời sống linh mục;
* một linh mục luôn trung
thành với thánh ý Thiên Chúa sẽ biết cách giữ quân bình
trong các hoạt động thuộc thừa tác vụ của mình, vượt qua
những khó khăn và cám dỗ mà ngài gặp phải trong đời sống
hằng ngày;
* mọi giáo sĩ phải yêu
thương tất cả mọi người và yêu thương nhau như là những môn
đệ yêu thương của Chúa Kitô (Ga 13,1.34-35), và trung thành
với chức linh mục cho đến chết;
* linh mục không kiêu
căng và độc đoán, nhưng khiêm tốn đứng về phía người nghèo,
người ngoài lề xã hội và người bị áp bức;
* linh mục phải luôn hiệp
thông gần gũi với tín hữu và tránh mọi hình thức độc đoán và
quản lý theo kiểu dân chủ, vì những điều này dẫn tới tục hoá
linh mục và giáo sĩ hoá giáo dân;
* Đức Trinh Mữ Maria phải
là mẹ và mẫu mực cho linh mục và linh mục phải đón nhận Mẹ
vào cuộc đời mình, để học cách sống khiêm nhường, trong sạch
và vâng phục của Mẹ, và tìm thấy niềm vui và nguồn an ủi nơi
Mẹ;
* Mong sao giáo dân được
sử dụng trong việc giáo dục các chủng sinh.215
3. Cộng
Tác với Phụ Nữ, Nữ Giáo Dân và Nữ Tu
Nữ tu Sung-Hae Kim, SC,
“than phiền” rằng việc đào tạo linh mục hiện nay không tạo
ra được những cơ hội tự nhiên để đào tạo một kiểu mẫu tích
cực về nữ giới: một khi đã vào chủng viện, các chủng sinh
sinh sống, giải trí và học tập trong một thế giới toàn nam
giới, không có những tiếp xúc có ý nghĩa với phụ nữ, không
có kinh nghiệm về phụ nữ như là những môn đệ bình đẳng của
Chúa Kitô… Sau khi chịu chức, nhiều vị không được chuẩn bị
để làm việc với phụ nữ, và đôi khi cảm thấy bị các nữ tu và
các lãnh đạo phụ nữ đe doạ nghiêm trọng, nên phản ứng tiêu
cực, thậm chí phân biệt đối xử và dùng ngôn ngữ miệt thị.
Một nghiên cứu kết luận rằng phân biệt giới tính đối với phụ
nữ trong Giáo Hội còn lớn hơn ngoài xã hội.
Để cải thiện tình trạng
này, chị gợi ý nên thuê những phụ nữ có khả năng, cả nữ tu
và giáo dân, dạy trong chủng viện hoặc hướng dẫn tĩnh tâm,
để các chủng sinh có thể tôn trọng, đề cao và hình thành một
mô hình tích cực về phụ nữ, một quan niệm quân bình về phụ
nữ, và có cơ hội nhìn Thiên Chúa theo viễn ảnh của phụ nữ.
Các linh mục hiện nay sở hữu một kiến thức hời hợt về đời
sống tu trì và vì thế có xu hướng đi tới hai thái cực. Do
đó, người ta mong ước rằng các chủng sinh được cung ứng một
hiểu biết tốt hơn về đời sống thánh hiến trong bối cảnh khoa
Giáo Hội học hiệp thông. Hiểu biết lẫn nhau chính là chìa
khoá. Và sau cùng chị ước mong rằng chúng ta nên làm bất cứ
điều gì có thể để giáo dục các chủng sinh, tu sĩ và giáo
dân, để giúp họ tập làm việc với nhau như là những cộng sự
viên bình đẳng, và trở nên những nhân chứng sống động của
Tin Mừng.216
4. Kiểu Mẫu
Đào Tạo ICLA
Ta có thể nhìn nhận một
cách thẳng thắn rằng theo tâm thức tự tôn của nam giới, cách
nào đó, người phụ nữ Á Châu bị coi thường, khinh miệt, bách
hại và đàn áp, không chỉ ngoài xã hội, do những người bên
ngoài, nhưng ngay trong chính gia đình, do cha, chồng và anh
em của họ. Và thật phi lý khi có sự phân biệt đối xử, ngược
đãi, bất công và đàn áp mà người phụ nữ phải chịu đựng ngay
trong Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô. Trong khi, do tinh thần
xã hội phong kiến và cơ cấu tôn ti, người Công giáo Á Châu
quá tôn trọng hàng giáo sĩ, và thực tế này làm cho các linh
mục trở nên quan liêu và độc đoán, ít ra là với mặc cảm tự
tôn.
Hi vọng rằng Học Viện Đời
Sống Thánh Hiến tại Á Châu (Institute for Consecrated Life
in Asia – ICLA, Manila, Philippines), như là một dấu chỉ mới
mẻ và tuyệt vời của Chúa Thánh Thần, là học viện chào đón
các tu sĩ nam nữ, linh mục, chủng sinh và giáo dân từ trên
hai mươi nước Á Châu, sẽ tạo ra những cơ hội cho một mô hình
tích cực về nữ giới, biến chuyển từ mô hình cổ điển, qua mô
hình của Vaticanô II và hậu Vaticanô II, sang mô hình nữ
quyền:217 Bên cạnh những phụ nữ có khả năng, cả tu sĩ lẫn
giáo dân, đang dạy học và hướng dẫn tĩnh tâm, còn có nhiều
nữ tu có trình độ cao hơn các sinh viên nam trong một số
khía cạnh, và họ được tôn trọng, đề cao và vì vậy tự tin
hơn.
Đời sống cộng đoàn và
những hoạt động của ICLA cung cấp cho các sinh viên thuộc cả
hai giới những cơ hội hợp tác, chia sẻ cuộc sống và trách
nhiệm, trong đời sống hằng ngày cũng như trong đời sống
thiêng liêng, để cùng làm việc, cùng học tập, cùng ăn uống,
cùng vui chơi, cùng cầu nguyện, cùng tham dự tĩnh tâm, và
cùng cử hành Thánh Thể, với sự tôn trọng lẫn nhau, hiểu biết
và khích lệ mang tính bằng hữu, với quan niệm quân bình,
những mối tương quan hài hoà và trưởng thành, với kinh
nghiệm là những môn đệ bình đẳng của Chúa Kitô cùng làm
chứng cho Tin Mừng. Những mối tương quan trưởng thành và tôn
trọng nhau giữa các nhà đào tạo ICLA (linh mục, nữ tu, giáo
dân nam và nữ) đối với các sinh viên là mẫu gương tốt đẹp và
là bằng chứng rõ ràng về điều mà họ muốn tạo nên và đào tạo,
đặc biệt Cha Giám Đốc với sự săn sóc hiền hậu, sự quan tâm
nhậy bén, sự cảm thông sâu sắc, sự hiện diện gây an lòng, sự
khích lệ đầy tin tưởng và tình yêu bền chặt với mọi người.
Sự hiện diện của họ mang
tính giáo dục còn nhiều hơn chính điều họ dậy dỗ. Mẫu đào
tạo của ICLA là một đóng góp hữu hiệu cho cuộc canh tân Giáo
Hội, đặc biệt là cho đời sống tu trì. Mọi người đều ước mong
rằng mẫu đào tạo của ICLA sẽ được nhân rộng, được thực hiện
và được đẩy mạnh, để ta có thể nhìn tới một tương lai tốt
đẹp hơn của một số Giáo Hội Á Châu trong sứ vụ tân Phúc Âm
hoá, sứ vụ của người Á Châu cho người Á Châu.
5. Viển Ảnh và
Đề Nghị của FABC
Trong đường hướng này,
Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu cũng khích lệ chúng ta. Các
ngài tuyên bố rằng Thiên Chúa đã chọn một phụ nữ, Đức Trinh
Nữ Maria, làm mẹ Chúa Giêsu, qua Mẹ, Thiên Chúa mặc khải
giá trị và phẩm giá của người phụ nữ. Chúng ta lấy Chúa
Giêsu làm mẫu mực cho chúng ta theo cách Ngài đón nhận và
nhìn nhận thiên hướng và phẩm giá của phụ nữ, thái độ và sự
nhậy cảm của ngài đối với phụ nữ và lòng can đảm của Ngài
khi đối xử với phục nữ với lòng tôn trọng và phẩm giá bình
đẳng.
Và rồi, các ngài ước mong
rằng việc đào tạo linh mục phải bao gồm:
* Một tương tác lành
mạnh với phụ nữ;
* Huấn luyện sự nhậy
bén về giới tính;
* Đọc lại, giải thích
lại và tái khám phá Sách Thánh để bao gồm cả nhãn quan phụ
nữ;
* Các giáo trình thần
học và các giáo huấn của Đức Giáo Hoàng về phụ nữ; Sự hiện
diện của các nữ giáo sư và nữ sinh viên trong các chủng
viện.218
D. Trong
Viễn Ảnh Đối Thoại
1. Thái Độ và
Chỉ Đạo của Đức Bênêđitô XVI
Sau khi đưa ra cái nhìn
toàn cảnh về tình trạng của Giáo Hội và của thế giới, với
nhiều dòng ý thức hệ và mốt suy tư dẫn đưa tới lầm lạc, Đức
Giáo Hoàng Bênêđitô XVI giới thiệu niềm tin trưởng thành và
chín chắn vào Con Thiên Chúa, Đấng là thước đo tối hậu và
tiêu chuẩn, như là con đường dẫn đưa tới nền tảng đời sống
Kitô hữu.219
Tiếp đến ngài giải thích
cho các Hồng Y220 chương trình tổng quát của ngài trong việc
cai quản và dẫn dắt Giáo Hội hoàn vũ: vâng theo những linh
hứng của Chúa Thánh Thần, với lòng phó thác khiêm nhường cho
sự quan phòng của Thiên Chúa, bước theo những vị tiền nhiệm
trong việc tiếp tục dấn thân thực hiện Công Đồng Vaticanô
II, trong việc xây dựng sự hiệp thông trong lòng Hội Thánh,
thiết lập sự hiệp nhất giữa mọi người đi theo Chúa Kitô, làm
sống lại sứ vụ Truyền Giáo, đảm bảo một cuộc đối thoại chân
thành và cởi mở với các tôn giáo khác, các nền văn hoá và
văn minh, và tuyên bố mọi người Công giáo sẵn lòng cộng tác
vì sự phát triển xã hội và phẩm giá của mọi người.
Và sau cùng, ngài nhắc
lại những lời của Đức Gioan Phaolô II “Đừng sợ! Hãy mở rộng
cửa cho Chúa Kitô!”… Chỉ nơi tình bằng hữu này chúng ta mới
cảm nghiệm được vẻ đẹp và sự giải phóng.”221 Chúng ta hiểu
rằng trong những con đường rộng mở ấy, chúng ta sẽ đào tạo
các ứng sinh linh mục của chúng ta, để họ đáp ứng đúng theo
những nhu cầu của thời đại chúng ta, hướng tới một tương lai
tốt đẹp hơn cho mọi người.
2. Đối Thoại với
Các Nền Văn Hoá
Việc hội nhập văn hoá,
như một điều khẩn thiết được Công Đồng Vaticanô II nhấn
mạnh, là một nhu cầu khẩn cấp đối với sứ vụ Truyền Giáo ở
Việt Nam hôm nay. Hội nhập văn hóa phải được nuôi dưỡng ngay
trong đào tạo chủng viện. Việc này nhằm biến đổi nền văn hoá
đón nhận Tin Mừng nhờ sứ điệp Tin Mừng và làm cho các thừa
tác viên thích ứng với văn hoá và môi trường sống của đoàn
chiên222 như Thánh Phaolô đã làm (1 Cr 9,23). Hội nhập văn
hóa là một nhu cầu khẩn cấp đối với sứ vụ của các linh mục
Việt Nam. Nó làm cho người Việt Nam dễ dàng đón nhận Tin
Mừng và điều chỉnh theo Tin Mừng các giá trị văn hoá phong
phú và cao quí của họ: “Phúc Âm hoá và hội nhập văn hoá liên
kết với nhau một cách tự nhiên và mật thiết.”223 Các linh
mục được kêu gọi làm tăng triển sự nhậy bén của họ đối với
văn hoá, để họ có thể hội nhập văn hoá công việc tân Phúc Âm
hoá của mình vì vinh quang Thiên Chúa, và ơn cứu độ của toàn
thể thế giới được tạo thành.
Trong tiến trình hội nhập
văn hoá, mỗi nền văn hoá đón nhận những yếu tố tích cực từ
nền văn hoá khác và do đó được nên phong phú hơn. Ví dụ,
cuộc gặp gỡ giữa nền văn hoá Việt Nam và Tin Mừng của Kitô
giáo, Tin Mừng đề cao nhiều yếu tố văn hoá, và khám phá ra
những cách thức mới mẻ diễn tả các giá trị Tin Mừng. Vậy ta
có thể nói rằng việc hội nhập văn hoá của Kitô giáo phải đặt
nền tảng trên mầu nhiệm Nhập Thể. Hội nhập văn hoá theo tinh
thần như thế sẽ làm cho các “Kitô hữu bản địa có khả năng
sống theo những giá trị văn hoá của riêng họ, không bị méo
mó, và đồng thời sống theo những giá trị đặc biệt của Tin
Mừng.”224
Từng trải nghiệm sự thiệt
hại không thể phủ nhận do việc Giáo Hội bác bỏ việc thờ kính
tổ tiên nhân danh việc Phúc Âm hoá trong quá khứ, Giáo Hội
địa phương ở Việt Nam buộc phải dấn thân không hề chậm trễ
trong việc hội nhập văn hoá. Nhưng trong hiện tại, việc
thiếu nhân sự thành thạo, thời gian và thiện chí là những
trở ngại chính cho việc hội nhập văn hoá.225 Do vậy, chúng
ta phải để ý nhiều hơn tới vấn đề này trong công việc đào
tạo linh mục: những người loan báo Tin Mừng buộc phải “đặt
mình vào hoàn cảnh của người nghe, để cho việc loan báo của
mình thích ứng với trình độ và mức trưởng thành của người
nghe, và theo hình thức ngôn ngữ phù hợp.”226 Nhất là phải
nổ lực đặc biệt để hội nhập cái tinh thần, cái lối sống, chứ
không chỉ với cái hình thức bên ngoài
3.
Đối Thoại Liên Tôn
Đối thoại liên tôn, “như
là một bổn phận và thách đố của toàn thể Hội Thánh,”227 muốn
nói tới việc xem xét những đường lối “cổ vũ sự hiểu biết và
làm phong phú lẫn nhau” trong đó các thành viên của các
truyền thống tôn giáo khác nhau có thể học hỏi nhau và học
hỏi về nhau, đồng thời học hỏi về chính mình để nhận ra
những giá trị thiêng liêng và cứu độ của chính mình và tin
vào sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong chính mình.
Ở mức độ sâu xa nhất, đối
thoại liên tôn luôn là đối thoại về ơn cứu độ, bởi vì cuộc
đối thoại này tìm cách khám phá, làm sáng tỏ, và hiểu biết
hơn những dấu chỉ thời đại trong suốt cuộc đối thoại mà
Thiên Chúa duy trì với nhân loại.
Một cuộc đối thoại liên
tôn chân thành và cởi mở là một con đường tốt cho sứ vụ
truyền giáo tại Việt Nam, một đất nước giàu các tôn giáo
truyền thống. Qua đối thoại, chúng ta để Thiên Chúa hiện
diện ở giữa chúng ta, vì khi chúng ta tự mở ra với người
khác, chúng ta cũng tự mở ra với Thiên Chúa. Vì thế đối
thoại liên tôn là công trình Thiên Chúa khát khao, một yếu
tố không thể thiếu trong sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội
Thánh, sứ vụ này tìm ra cách diễn tả trong khi phục vụ đức
tin, sự thăng tiến công bằng và phẩm giá con người.
Dù những hình thức cụ thể
của việc thực hiện cuộc đối thoại liên tôn có thể khác biệt,
căn bản của cuộc đối thoại (thái độ kính trọng và tin tưởng)
phải luôn là một, đặc biệt với “đức tin Kitô giáo trưởng
thành và xác tín.”228 Cuộc đối thoại như thế khiến các Kitô
hữu trở nên tốt hơn và dễ thương hơn. Điều này cũng tương tự
cho các tín hữu thuộc các tôn giáo khác. Sự thăng tiến chung
này chuẩn bị đất đai mầu mỡ cho Tin Mừng được gieo xuống và
mọc lên.
Bởi thế, một chương trình
huấn luyện phù hợp cho các linh mục tương lai là rất quan
trọng. Cuộc hội thảo toàn thể của Liên Hội Đồng Giám Mục Á
Châu (FABC) tại Sam Phran, Thái Lan, đề nghị rằng linh đạo
đối thoại liên tôn, như là một “cách thức hiện diện mới mẻ
của Hội Thánh,” phải được in sâu nơi các nhà lãnh đạo trẻ
của Giáo Hội tại Á Châu. Những người tham dự cuộc hội thảo
nhận diện những nỗi sợ hãi và những thành kiến về tôn giáo
như là những trở ngại to lớn trong việc theo đuổi cuộc đối
thoại liên tôn. Và họ kể ra việc lắng nghe nhau, học hỏi
nhau, khuyến khích nhau, cảm thông lẫn nhau, kính trọng và
tin tưởng nhau như là điều kiện bó buộc để giúp thăng tiến
cuộc đối thoại liên tôn hướng tới cuộc sống sung mãn.229 Quả
thực, “nơi đầu tiên mà chúng ta phải thoát khỏi là trái tim
nhỏ bé và hẹp hòi của chúng ta.”230
4. Hiện Diện với
Người Nghèo:
Thiên Chúa là Đấng đầu
tiên đã ưu tiên chọn lựa người nghèo. Qua Con Yêu Dấu của
Ngài, Thiên Chúa khai mạc Vương Quốc giữa người nghèo (x. Mt
5,3; 25,40). Và “khi tìm cách thăng tiến nhân phẩm con
người, Hội Thánh chứng tỏ lòng yêu thương ưu ái dành cho
người nghèo và người thấp cổ bé miệng.”231
Nghèo đói là một số phận
đối với nhiều người Việt Nam. Vì thế, Giáo Hội tại Việt Nam
phải thực sự là Giáo Hội của người nghèo, vì người nghèo,
cho người nghèo và với người nghèo “cả trong lời nói và việc
làm” và trong cách “sống giản dị theo gương Chúa Giêsu.”232
Các linh mục phải sẵng lòng lắng nghe người nghèo và người
bên lề xã hội, để thực sự là dấu chỉ chữa lành của tình yêu
Thiên Chúa đối với họ.
Đức Hồng Y Paul Shan
Kuo-hsi ước mong rằng “Tình yêu ưu ái và tình liên đới với
người nghèo phải được truyền đạt cho các chủng sinh và phải
bám rễ vào lòng họ, để họ có thể mang Tin Mừng cho người
nghèo.” Và ngài gợi ý rằng “Các chủng sinh cần có kinh
nghiệm về một số công việc dãi gió dầm sương trong cuộc sống
thực của người nghèo, để các thầy có sự cảm thương sâu sắc
với người nghèo, và sống một cuộc sống giản dị,” bởi vì
“trong một xã hội thiên về vật chất và hưởng thụ, cuộc sống
giản dị của linh mục là một bằng chứng mạnh mẽ cho những giá
trị Tin Mừng và là một liều thuốc giải độc hữu hiệu đối với
tình trạng khó chịu của thế giới hiện đại.233
Ngày nay chúng ta có một
nhận thức mới mẻ rằng người nghèo không chỉ nghèo, nhưng còn
bị áp bức, cả về vật chất lẫn tinh thần. Họ là những nạn
nhân của những cơ cấu kinh tế và chính trị bất công, thậm
chí cả những cơ cấu tôn ti và gia trưởng của kiểu tự tôn
trong gia đình, trong xã hội và trong Hội Thánh, là nạn nhân
của bóc lột, phân biệt đối xử và bạo lực, đặc biệt là phụ nữ
và trẻ nhỏ. Vì thế, tham dự vào cuộc đấu tranh của người
nghèo để giải phóng họ là một phần không thể thiếu trong sứ
vụ của chúng ta: “Hội Thánh phải làm tất cả những gì có thể
để vượt qua những sự dữ như thế, để hành động vì lợi ích của
những người bị bóc lột nhiều nhất ấy và tìm cách đưa những
người nhỏ nhất đến với tình yêu của Chúa Kitô.”234
Các linh mục thực sự
hướng về phía người nghèo và người thiếu thốn trong sứ vụ
của mình. Các ngài phải để giáo xứ mình dấn thân vào nhiều
hình thức khác nhau trong việc nâng đỡ người nghèo, các trẻ
mồ côi, những người goá bụa và sống dưới mức bình thường,
nhằm “giúp cho họ biết tự giúp mình, để họ có thể làm việc
nhằm thăng tiến tình trạng của họ và trở thành những người
loan báo Tin Mừng cho chính nền văn hoá và xã hội của
họ.”235
Chúng ta phải nhận ra
hình ảnh Chúa Kitô, Đấng đã tự hủy mình ra không nơi người
nghèo, và lắng nghe tiếng kêu của Ngài qua tiếng kêu của
người nghèo, tin rằng nghèo khổ có thể mang tính cứu độ, nếu
như đó là một sự nghèo khổ theo Tin Mừng. Tại Việt Nam, ta
có thể xem xét, như là một khía cạnh tích cực trong sự quan
phòng của Thiên Chúa, chính sách của những người cộng sản là
áp đặt những hạn chế trên Giáo Hội và trưng thu những tài
sản của Giáo Hội, nhờ thế các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân
phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình và thăm dò những
cách thức mới mẻ để sống với người nghèo và với những người
sống niềm tin khác, thậm chí đối nghịch với mình.236
5. Đối Thoại với
Người Cộng Sản
Sống dưới chính sách Cộng
sản, Việt Nam có hoàn cảnh riêng của mình. Vì thế, nghiên
cứu này chú ý nhiều hơn đến địa hạt đối thoại với người Cộng
Sản, trong đó bao hàm cả việc đào tạo, cuộc sống và thừa tác
vụ của các linh mục tương lai.
a. Những Lý Do
Đối Thoại với Người Cộng Sản
1) Sứ Vụ Của
Chúa Giêsu Và Sứ Vụ Của Hội Thánh
Thiên Chúa là Đấng đi
bước trước trong cuộc đối thoại với con người. Hội Thánh
được kêu gọi tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu được Chúa Cha
trao phó, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nước Thiên
Chúa không loại trừ ai, và sứ vụ của Chúa Giêsu, cũng là sứ
vụ của Hội Thánh, là”một sứ vụ bao gồm tất cả:”237 gồm cả
người nghèo và người giầu, người bị áp bức và người áp bức,
tội nhân và người đạo đức, làm tan biến sự tha hoá và phá đổ
những bức tường thù địch.
Công Đồng Vaticanô II đề
nghị rằng các chủng sinh “cần học để tìm Chúa Kitô nơi … đặc
biệt là người nghèo, các trẻ em, người bệnh tật, người tội
lỗi và người không tin.”238 Chúng ta không được quên sự hiện
diện của người Cộng Sản Việt Nam và chúng ta có thể tiếp cận
họ qua con đường đối thoại, trong nhãn quan về sứ vụ cứu độ
của Hội Thánh.239
Thực thế, “hầu hết mọi
quan chức chính quyền và các nhà lãnh đạo trong xã hội đều
chính thức đi theo ý thức hệ Mác-xít. Vì thế, Hội Thánh tại
Việt Nam cũng được kêu gọi đối thoại với những người vô
thần.”240 Vấn đề chính là phải theo kiểu đối thoại nào? Nếu
chúng ta hiểu đối thoại như là một tương quan theo đúng mô
hình “ad intra” (hướng vào trong) và “ad extra” (hướng ra
ngoài) của Chúa Ba Ngôi, như là việc mang sứ điệp đi phân
phát và mang sự hiệp thông đi trao tặng, như là chia sẻ tình
yêu Thiên Chúa và làm chứng về tình yêu Thiên Chúa cho mọi
người, như là một nỗ lực biến đổi thế giới này thành một thế
giới tốt đẹp hơn và huynh đệ hơn, thì đối thoại trở thành
một bổn phận của Hội Thánh như là hạt giống, men, muối và
ánh sáng của trần gian.
2) Đòi
Hỏi Của Tin Mừng
Đó là điều Chúa Giêsu
Nadarét, Thiên Chúa thật và người thật, đã mang đến cho nhân
loại nhờ tình yêu đến mức chết trên thập giá của Ngài. Ngài
khởi sự một trật tự mới xuất phát từ tình yêu và sự tha thứ
của Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Ngài chúc phúc cho
người xây dựng hoà bình (Ga 16,33; Mt 5,9) và ra lệnh phải
yêu thương kẻ thù (Mt 5,43-45). Chúng ta phải góp phần thực
hiện những viễn tượng hoà bình của Isaia (Is 2,4). Thế giới
đương thời của chúng ta được tình yêu cứu độ của Thiên Chúa
Cha khích lệ và đảm bảo. Chúa Cha là Đấng “đã sai Con Ngài
đến cứu độ thế gian” (1 Ga 4,14) để cho thế gian có “sự sống
dồi dào” (Ga 10,10). Cuộc đối thoại cứu độ này xuất phát từ
Thiên Chúa Cha đến với nhân loại qua Chúa Con và quyền năng
Chúa Thánh Thần. Chỉ có một cuộc đối thoại chân thành và tin
tưởng giữa mọi thành phần của xã hội dân sự mới có thể tạo
nên mội hy vọng mới cho toàn thể dân tộc Việt Nam.241
3) Định
Hướng Lịch Sử Của Nhân Loại Trong Thời Đại Chúng Ta
Nhân loại đã chịu đựng
quá nhiều các loại chiến tranh: chiến tranh ý thức hệ và
diệt chủng, chiến tranh thế giới, nội chiến và chiến tranh
quốc gia, chiến tranh đẫm máu giữa những anh em cùng dòng
máu, chiến tranh nóng với bom hạt nhân, chiến tranh lạnh với
đe doạ của nguyên tử, chiến tranh kinh tế, v.v…
Thật tuyệt vời khi biến
kẻ thù thành bạn hữu. Một bài hát Việt Nam ca rằng: “Kẻ thù
ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai? Kẻ
thù ta, tên nó hờn căm, tên nó là tỵ hiềm, tên nó là một lủ
ma.” Ta không thể tiếp tục cuộc tàn sát của chiến tranh.
Nhân loại phải phá bỏ xiềng xích bạo lực và hận thù, và bắt
đầu cùng tồn tại trong hoà bình và liên đới, bằng đối thoại
và hợp tác, bằng cách dùng mọi nghiên cứu và mọi tiến bộ xã
hội và kỹ thuật để phục vụ cho mọt tương lai tốt đẹp hơn cho
mọi người.
“Thế giới này của chúng
ta có thể biến đổi: hoà bình là có thể, thậm chí ở nơi đã có
giao chiến và chết chóc kéo dài.”242 Lịch sử chứng minh rằng
thế giới có thể thay đổi (và phải thay đổi) những cách suy
nghĩ và hành động, để hướng tới mối tương quan tốt đẹp với
Thiên Chúa, với chính mình, với người khác và với tạo thành,
trong tình liên đới và yêu thương. Dù hoà giải các lập
trường của các đối thủ có những mối hận thù xa xưa và những
vấn đề trầm trọng thật là khó,”243 nhưng “Thần Khí vẫn luôn
dùng sự bất lực và yếu đuối con người để thực hiện sự tha
thứ lẫn nhau và hoà giải giữa các cá nhân, các gia đình và
các cộng đoàn.”244
4) Sự Biến
Chuyển Của Nhận Thức Và Các Mối Liên Hệ
Chúng ta phải sống bài
học quá khứ của lịch sử với niềm hy vọng: đó là sự biến
chuyển nhận thức và mối liên hệ giữa Giáo Hội và Chủ Nghĩa
Cộng Sản, biến chuyển của mối quan tâm và liên hệ trong
chính mỗi cơ cấu. Chẳng hạn, sự biến chuyển này diễn ra từ
quan điểm đối đầu và loại trừ của Thông Điệp Divini
Redemptoris về Chủ Nghiã Cộng Sản Vô Thần,245 của Thư Mục Vụ
1951 của các Giám Mục Đông Dương 246coi chủ nghĩa cộng sản
như là mối nguy hiểm lớn nhất của thời đại, hoàn toàn mâu
thuẫn với Công giáo, xấu xa tự bản chất, những người Công
giáo tham gia chủ nghĩa cộng sản sẽ bị vạ tuyệt thông; và
điều này được lặp lại trong Thư Mục Vụ 1960 do các Giám Mục
Miền Nam Việt Nam,247 đến tinh thần đối thoại và cộng tác
của Công Đồng Vaticanô II và sự cộng tác lành mạnh của Đức
Gioan Phaolô II.
Về phía Chủ Nghĩa Cộng
Sản, điều tương tự cũng diễn ra, đặc biệt là với những chính
sách perestroika và glasnost248 (canh tân và mở ra công
khai) của Mikhail Gorbachev, được thực hiện ở Việt Nam với
chính sách Đổi Mới của Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí Thư Đảng
Cộng Sản; với chuyến viếng thăm Vaticanô gần đây của Phó Thủ
Tướng Việt Nam, ông Vũ Khoan, “nhân vật quan trọng nhất của
Việt Nam trở lại thăm viếng các chức sắc Rôma kể từ năm
1987.” Trong chuyến viếng thăm này, “hai bên đã đồng ý về
nhu cầu tăng cường hợp tác giữa Giáo Hội và Chính Phủ, vì
lợi ích của toàn xã hội Việt Nam, bao gồm cả vấn đề bình
thường hoá quan hệ ngoại giao.”249
b. Những Tiêu Chí
Của Cuộc Đối Thoại Này
1) Khuyến
Cáo Của Đức Gioan Phaolô II
Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II đã cụ thể hoá và bối cảnh hoá những nguyên tắc chỉ
đạo cho cuộc đối thoại này trong những bài nói chuyện với
các Giám Mục Việt Nam.
Những Điều Kiện Tiên
Quyết: Đức Tin Mạnh Mẽ, Hiệp Nhất và Hiệp Thông trong Hội
Thánh250
Trong bài nói chuyện vào
ngày 17-6-1980, Đức Gioan Phaolô II đã nhắc nhở các Giám Mục
Việt Nam về sứ vụ quan trọng nhất là giảng dạy, bảo vệ và
nâng đỡ đức tin của đồng bào mình. Ngài nói rằng cuộc tiếp
xúc và đối thoại với nhà cầm quyền dân sự là cùng nhau tìm
kiếm lợi ích của đất nước và Hội Thánh tại Việt Nam.251
Trong bài nói chuyện ngày
11-12-1980, ngài nhấn mạnh đến mối hiệp nhất trong hàng giám
mục như là sự bảo đảm cho mối hiệp nhất giữa các linh mục
địa phận: hiệp nhất và hiệp thông bằng lòng yêu mến và hành
động, bằng suy nghĩ và việc làm trong Hội Thánh là rất quan
trọng, bởi vì thật phi lý là cuộc đối thoại trong lòng Hội
Thánh đôi khi còn khó khăn hơn cuộc đối thoại với bên ngoài.
Đức Giáo Hoàng ước mong rằng hàng Giám Mục biểu lộ cho người
khác thấy các ngài yêu mến quê hương đến mức nào, và rằng
tham dự vào việc thăng tiến đất nước cũng là cách các ngài
loan báo Tin Mừng.252
Tôn Trọng Sự Độc Lập
và Tự Quản
Trong bài nói chuyện ngày
22-1-2002, Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh rằng “do nhiệm vụ
và thẩm quyền của mình, Hội Thánh không hoà mình, bằng bất
cứ cách nào, vào cộng động chính trị và không liên kết với
bất cứ hệ thống chính trị nào”; rằng “cộng đồng chính trị và
Hội Thánh độc lập với nhau và tự quản trong địa hạt của mỗi
bên;”253 “được kêu gọi vừa để chu toàn sứ vụ riêng biệt của
mình vì lợi ích của cùng một dân tộc, việc phục vụ của cả
hai phía sẽ còn hữu hiệu hơn vì họ còn thực hiện giữa họ một
sự cộng tác lành mạnh.”254
Tôn Trọng Sự Phát
Triển của Tự Do Tôn Giáo
Để tiến hành “sự cộng tác
lành mạnh” này, Giáo Hội chờ đợi nơi cộng đồng chính trị sự
tôn trọng hoàn toàn tính độc lập và tự quản của Giáo Hội.
Chính sự thiện vô giá là tự do tôn giáo - được Công Đồng
Vaticanô II, các Tuyên Ngôn và Công Ước Quốc Tế đặt thành
vấn đề – cũng được gửi tới các cá nhân và các cộng đồng tôn
giáo. Dựa trên Tuyên Ngôn Dignitatis Humanae,255 Đức Giáo
Hoàng miêu tả chi tiết những quyền tự do tôn giáo đối với
các cá nhân cũng như cộng đồng tôn giáo.256
Viễn Ảnh Một Tương Lai
Tốt Đẹp Hơn
Về tương lai của Việt
Nam, Đức Gioan Phaolô II ước mong rằng người tín hữu phải có
khả năng được hưởng một nền giáo dục khả dĩ giúp họ nên
chứng nhân trong đời sống xã hội, chính trị và kinh tế, để
họ có thể “đảm nhiệm vai trò thuộc về họ trong đời sống và
sứ vụ của Dân Chúa, như những chứng nhân của Chúa Kitô, ở
bất cứ nơi đâu mà họ có thể hiện diện;”257 rằng “mọi thành
phần quốc gia đều được liên kết nhằm thăng tiến nền văn minh
tình thương, đặt nền tảng trên những giá trị phổ quát là hoà
bình, công lý, liên đới và tự do” và rằng đức cậy Kitô giáo
làm phong phú nhiệt tình tông đồ và trao ban những sức mạnh
mới để công bố Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ, Ngài đã đến “để con
người được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
2) Thái Độ Của
Các Giám Mục Việt Nam
Trong Thư Mục Vụ 1976,
các Giám Mục Việt Nam nhận định rằng cuộc xung đột giữa niềm
tin Kitô giáo và học thuyết Mác-xít là rõ ràng, nhưng đó
không phải là lý do để nói rằng cuộc đối thoại và hợp tác
giữa những người phục vụ con người trong sứ mệnh cá nhân và
xã hội là không thể diễn ra. Và các ngài kết luận rằng đức
tin Kitô giáo không phải là trở lực gây chia rẽ người có tôn
giáo và người không tôn giáo, đức tin ấy cũng không phải
chất ma tuý đem người Công giáo ra khỏi thực tại trần thế.
Trái lại, đức tin dẫn chúng ta đến với con người và làm cho
chúng ta có khả năng đánh giá đúng đắn các thực tại trần
thế.258
Với lòng gắn bó như thế
với cuộc đối thoại và hợp tác, được những khích lệ của Đức
Giáo Hoàng động viên và soi sáng, các Giám Mục Việt Nam đã
thẳng thắn trình lên các Nhà Lập Pháp Việt nam một lá thư
ngỏ nêu ra những gợi ý của các ngài hướng đến việc xây dựng
và phát triển xã hội vì nhân vị con người, như là cùng đích
của bất cứ tổ chức và cơ cấu xã hội nào, theo phẩm giá và
các quyền của họ:
* Giảm thiểu những khiếm
khuyết xã hội hiện nay: tha hoá nhân vị con người, hệ thống
bất công làm tha hoá con người, ví dụ cơ chế “xin cho” máy
móc;
* Phát triển các giá trị
nhân bản làm cho con người trở nên nhân bản hơn và sống theo
phẩm giá con người của mình, “như là một giá trị Tin Mừng
không thể bị khinh miệt mà không xúc phạm trầm trọng đến
Đấng Tạo Hoá:”259 phát triển nhân phẩm con người, phát triển
xã hội và thăng tiến nhân vị con người dựa trên sự thật,
phát triển tình liên đới trong mọi sinh hoạt gia đình và xã
hội, phát triển nguyên tắc phân quyền, phát triển nhận thức
và lòng sẵn sàng phục vụ công ích.”260
Ngoài ra, Đức Cha Chủ
Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng nói với Hội Đồng Giám
Mục Công Giáo Hoa Kỳ rằng việc loan báo Tin Mừng không thể
tách lìa sứ vụ thăng tiến sự tiến bộ thực sự của tất cả mọi
con người. Đây là giáo huấn cốt lõi của Đức Gioan Phaolô II
trong Ecclesia in Asia mà các Giám Mục Việt Nam đã đón nhận
như là chỉ dẫn mục vụ cho mình. Và ngài kết luận: “Để hoàn
thành sứ vụ yêu thương và phục vụ của Chúa Kitô tại Việt
Nam, chúng tôi đang nổ lực gia tăng nhân sự được huấn luyện
kỹ càng và thực hiện các giá trị truyền thống trong gia đình
và xã hội.”261
Và gần đây, Tuần Báo
France Catholique tường thuật cuộc phỏng vấn của
Vietcatholic News với Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn.
Với câu hỏi tại sao các Giám Mục Việt Nam không dùng một lập
trường cứng rắn hơn đối với chính quyền, Hồng Y Mẫn trả lời
rằng người Kitô hữu Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, có
những thái độ khác nhau trong lãnh vực này. Về phía các Giám
Mục, các ngài luôn khởi đi từ Tin Mừng, nguồn ánh sáng, sự
thiện và chân lý. Các ngài có trách nhiệm mang Tin Mừng đến
cho dân chúng, mà các ngài phải yêu thương tất cả mọi người,
bất cứ họ là ai. Hồng Y Mẫn cũng nhắc tới Đức Gioan Phaolô
II, vị đã thường tuyên bố rằng con đường duy nhất mà Hội
Thánh phải theo đuổi, cho dù thiếu tự do hay gặp nhiều khó
khăn, là con đường đối thoại, con đường của Vaticanô II. Như
thế, các Giám Mục không thực hành sự đối lập mang tính hệ
thống, nhưng là thái độ đối thoại.262
3) Sự Cảm
Thông Của FABC
Với tinh thần thực tế và
lòng cậy trông vào ân sủng Thiên Chúa, Liên Hội Đồng Giám
Mục Á Châu (FABC) tuyên bố rằng việc đối thoại đòi hỏi đời
sống nội tâm sâu sắc giúp con người có khả năng tin vào tình
yêu Thiên Chúa, dám mạo hiểm chịu thương tích và hiểu lầm,
thậm chí mọi thứ có vẻ như tan tành; và giống Chúa Kitô hoàn
toàn khi tự huỷ mình ra không, để rồi, được Chúa Thánh Thần
hướng dẫn, “chúng ta có thể thành những dụng cụ hữu hiệu để
xây dựng Nước Thiên Chúa.”263
c. Đường Lối Đối
Thoại Thích Hợp với Người Cộng Sản
1) Nhìn Nhận
Những Quyền Bính Dân Sự
Không gì thoát khỏi kế
hoạch quan phòng của Thiên Chúa, cho dù con người không thể
hiểu được (Is 55,8). Quyền bính “được Đức Chúa trao ban và
chính Đấng Tối Cao đã ban quyền thống trị” (Kn 6,3). Chính
Chúa Giêsu đã trả lời Philatô rằng: “Ngài không có quyền gì
trên tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19,11); và Ngài
nói với những người Pharisêu: “Của Xêda, trả cho Xêda; của
Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa” (Mt 22,21). Thánh Phêrô cũng
dạy như thế (1 Pr 2,13-14).
Trong chiều hướng này,
Chính Quyền và Đảng Cộng Sản là những thực thể không thể
chối cãi, đã kết thúc chiến tranh và đem lại hoà bình, thống
nhất và độc lập cho toàn thể đất mẹ Việt Nam, cùng với sự
đóng góp của toàn thể dân chúng. Giáo Hội Công Giáo và các
Giáo Hội thuộc các tôn giáo khác cũng là những thực thể
không thể chối cãi được, phải được nhìn nhận và tôn trọng.
Ta phải thẳng thắn thừa nhận sự nhìn nhận tích cực của Hiến
Pháp 1992 của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và ước
mong rằng với đối thoại và cùng nhau làm việc, Hiến Pháp sẽ
được đem ra thực hiện:
Công dân có quyền tự do
tín ngưỡng và tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Các Tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi
thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.
Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính
sách của Nhà nước.264
Có chung cùng một mục
đích, các tôn giáo và cộng đồng chính trị được “kêu gọi hoàn
thành sứ mệnh riêng biệt của mình vì lợi ích của dân tộc,
việc phục vụ của họ sẽ hữu hiệu hơn nhiều vì họ sẽ cùng nhau
thực hiện một sự hợp tác lành mạnh.”265
2) Bác Bỏ Đối
Thoại ở Mức Độ Ý Thức Hệ
Tốt hơn là nên đối thoại
với người cộng sản hơn là chủ nghĩa cộng sản, với con người
hơn là với ý thức hệ, do có sự khác biệt tận căn giữa Công
Giáo với ý thức hệ Cộng Sản. Ta phải chấp nhận và tôn trọng
sự khác biệt nơi người khác; đón nhận cái tích cực và loại
bỏ cái tiêu cực; đề cao và phát triển những giá trị của mỗi
phía. Ta không thể phủ nhận những giá trị tích cực của Chủ
Nghĩa Cộng Sản trong kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa đối
với nhân loại và đối với Dân Thiên Chúa.
Hãy để thời gian và con
người thử nghiệm các ý thức hệ. Bất cứ học thuyết nào không
còn đáp ứng được những khát vọng của con người sẽ bị loại
bỏ. Đó là lý do của sự sụp đổ của Chủ Nghĩa Cộng Sản sau một
thời gian thống trị kéo dài gần một thế kỷ. Đó cũng là lý do
bỏ đạo của nhiều Kitô hữu trong thế giới phát triển, ở các
nước hậu cộng sản Đông Âu, thậm chí trong các nước mới phát
triển thuộc thế giới thứ ba.
Đây là một lời cảnh báo
nghiêm khắc thúc giục Giáo Hội có lựa chọn ưu tiên cho người
nghèo, người bị áp bức, người bị bóc lột và người bị đặt
ngoài lề; tự đặt mình về phía những người đói khát sự thật,
công lý, sự kính trọng, tự do, hoà bình, nhân phẩm con
người, nhân phẩm của con cái Thiên Chúa, tình liên đới và
tình yêu; và từ đó, hăm hở làm chứng cho Thiên Chúa và Nước
Thiên Chúa, một Vương Quốc bao gồm tất cả mọi người.
3) Đối Thoại Bằng
Cuộc Sống Và Hành Động Với Người Cộng Sản
“Cuộc đối thoại cơ bản
nhất là cuộc đối thoại của con tim và linh hồn. Cuộc đối
thoại này đưa tới đối thoại về cuộc sống và hành động để
cùng nhau khắc phục những thảm họa xã hội.”266
Tại Việt Nam hôm nay, con
đường thích hợp để đối thoại với người Cộng Sản là Đối Thoại
bằng Cuộc Sống và Đối Thoại bằng Hành Động:
* Đối thoại bằng cuộc
sống xảy ra ở nơi con người phấn đấu sống trong tinh thần
cởi mở và thân thiện, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn, những
vấn đề nhân sinh và những mối bận tâm của mình;267
* Đối thoại bằng hành
động được thực hiện ở nơi mà người Kitô hữu và người Cộng
Sản hợp tác vì sự phát triển toàn diện và vì cuộc giải phóng
đất nước.
Dựa trên các giáo huấn
Tin Mừng của Công Đồng Vaticanô II, với tinh thần cởi mở,
đối thoại, hoà giải và chấp nhận những khác biệt, các Giám
Mục Việt Nam đã nói trong Thư Mục Vụ 1980: “Là Hội Thánh
trong lòng Dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với
vận mạng Quê hương, noi theo truyền thống Dân tộc, hoà mình
vào cuộc sống hiện tại của Đất Nước.”268 Và trong Thư Mục Vụ
2001, các ngài viết: “Để yêu thương và phục vụ, trước hết ta
phải tiếp tục đường hướng đồng hành với dân tộc, đồng cảm,
chia sẻ hy vọng và lo âu của dân tộc, trong tiến trình phát
triển xã hội và thăng tiến con người.”269
4) Đối Thoại Bằng
Cách Làm Chứng Cho Tình Yêu Thiên Chúa
Đặc biệt, ở phạm vi cá
nhân cũng như tập thể, mọi thành phần Giáo Hội Việt Nam phải
làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa đối với người cộng sản và
thật lòng yêu thương họ. Thái độ thù địch là một sức mạnh
phá hủy khủng khiếp, nhưng Tình Yêu lại còn mạnh mẽ hơn:
“Đức mến không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi
thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến
tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng
tất cả” (1 Cr 13,5-7). Quả thực, “một tình yêu mạnh hơn vượt
thắng một tình yêu yếu hơn và sự gắn bó đi liền với tình yêu
ấy … Nếu đức tin của chúng ta đủ mạnh, chúng ta sẽ không bị
sức lôi cuốn của ý thức hệ áp đảo.”270 Tình yêu sẽ biến đổi
mọi sự trong thế giới này, và hy vọng sự biến đổi ngay trong
lòng Chủ Nghĩa Cộng Sản và giữa những người Cộng Sản.
5) Một Số Dữ Liệu
Thống Kê
Những con số thống kê năm
2003 cho biết: Giáo Hội địa phương ở Việt Nam có hai mươi
lăm giáo phận chia thành ba giáo tỉnh, một ở miền Bắc, một ở
miền Trung và một ở miền Nam với tổng số 5.572.525 người
Công giáo (6,69%) trong tổng dân số 79.347.431 người. Đoàn
chiên này của Thiên Chúa được uỷ thác cho hai Hồng Y, 38
Giám Mục và Tổng Giám Mục, 2125 linh mục giáo phận, 432 linh
mục dòng, với sự cộng tác của 1920 nam tu sĩ, 10337 nữ tu sĩ
và 50272 giáo lý viên. Có 1085 chủng sinh đang theo học ở
sáu đại chủng viện, 100 trong số 241 chủng sinh mãn trường
đã chịu chức linh mục, và 1712 chủng sinh còn trong danh
sách chờ đợi.271
d. Con Đường Hy Vọng
Đã Được Mở Ra
Thiên Chúa luôn luôn
đúng. Ngài có thể uốn đường cong nên thẳng và rút điều tốt
ra từ điều xấu. Bây giờ người Công giáo có hiểu biết nhiều
hơn về người vô thần, người Cộng Sản và những người theo các
tôn giáo khác. Và chính quyền các cấp cũng đã nhận ra sự
đóng góp tích cực của người Công giáo trong việc phục vụ xã
hội, xây dựng đất nước và đoàn kết quốc gia. Hơn thế nữa,
với pháp lệnh mới về tôn giáo, ban hành ngày 18-6-2004 và có
hiệu lực từ ngày 15-11-2004,272 (gồm sáu chương và 41 điều),
tình trạng của các tôn giáo tại Việt Nam dần dần trở nên tốt
hơn. Không ai có thể phủ nhận rằng, qua cuộc đối thoại bằng
cuộc sống, bằng hành động, và bằng việc làm chứng cho tình
yêu Thiên Chúa, trong đất nước, có nhiều đổi thay tích cực
và những biến đổi tốt hơn trong nhiều phạm vi, và một số
người cộng sản trở lại Công giáo, ít nhất là bằng con đường
hôn nhân.
Con Đường Hy Vọng đã được
mở ra. Các linh mục tương lai phải tiếp tục và thực hiện
những nỗ lực của những người tiền nhiệm, trong tình liên đới
và hợp tác với đồng bào, trong Cách Thức Hiện Diện Mới của
Hội Thánh tại Á Châu, với bốn cuộc đối thoại: đối thoại với
các tôn giáo khác, với các nền văn hoá, với người nghèo và
với người cộng sản. Các ngài sẽ cùng làm việc với người khác
để xây dựng thành trì dưới đất, nhưng không bao giờ đánh mất
tầm nhìn về vương quốc trên trời.
Với tình yêu Thiên Chúa
và với tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta trông mong có
một tương lai tốt đẹp hơn cho nước Việt Nam và Hội Thánh tại
Việt Nam: “Mọi thành phần trong quốc gia đều liên kết với
nhau để thăng tiến một nền văn minh tình thương, đặt nền
móng trên những giá trị phổ quát là hoà bình, công lý, liên
đới và tự do.”273
Mới đây, chính quyền Việt
Nam và các nhà lãnh đạo Hội Thánh Công giáo địa phương đã tỏ
lòng biết ơn sự đóng góp của Đức Gioan Phaolô II đối với
việc cải thiện những mối quan hệ Vaticanô – Việt Nam và bày
tỏ hy vọng rằng sự tiến bộ sẽ còn tiếp tục. Các phái đoàn
Vaticanô đã tiến hành 12 cuộc thăm viếng làm việc chính thức
với các quan chức Việt Nam kể từ cuộc gặp mặt năm 1989, và
điều này đã giúp ích cho Giáo Hội địa phương và Đất Nước.
Với tinh thần đối thoại thẳng thắn và một thái độ tôn trọng
lẫn nhau, hai bên có thể đạt được những thỏa thuận tích cực,
hy vọng rằng chính quyền Việt Nam và Toà Thánh sẽ thiết lập
quan hệ ngoại giao trong tương lai gần.
(còn
tiếp)
Vì giới
hạn của bài báo, phần ghi chú xin vui lòng tham khảo tại
www.conggiaovietnam.net hoặc
www.chungnhanduckito.net - Hoặc cũng có thể gởi thư yêu
cầu chúng tôi gởi riêng cho từng độc giả qua email. Xin cám
ơn. |