Lời Giới Thiệu Tổng Quát Về Công Ðồng (tiếp theo) |
II. Công Ðồng Vaticanô II
C. Một vài đặc điểm tiêu biểu của
Công Ðồng Vaticanô II
Với mục
đích giúp thấu triệt hơn Công Ðồng quan trọng này, chúng ta
nêu ra đây một vài đặc điểm tiêu biểu:
1. Công
Giáo tính
Chưa có
một Công Ðồng nào đã tạo được tính cách "Công Giáo" đầy đủ
như Vaticanô II. Hãy tạm miễn bàn vấn đề "giáo lý về công
giáo tính" mà chỉ đề cập đến các sự kiện. Chưa có một Công
Ðồng nào đã đề cập tới nhiều vấn đề phức tạp và phong phú
cùng với những tầm mức rộng rãi như vậy. Chỉ cần nhìn vào
những con số biểu trưng, chúng ta cũng có đủ lý do để xác
nhận sự kiện này.
Trước hết
chúng ta nói đến thành phần các Nghị Phụ. Ðây là lần đầu
tiên trong lịch sử mà chúng ta có quyền quả quyết rằng toàn
thế giới có mặt ở Công Ðồng. Con số các Nghị Phụ được triệu
tập là 3,058, trong đó có 129 Bề Trên Tổng Quyền các dòng.
Trong kỳ họp đầu tiên, có 2,449 Nghị Phụ tham dự trong số
2,904 vị được triệu tập, như vậy tỉ số tham dự là 84.34%. Ở
kỳ họp thứ hai, có 2,488 Nghị Phụ đến tham dự, trong số
3,022 vị được triệu tập, tức 82.34% tham dự. Và trong số
3,074 vị được mời cho kỳ họp thứ ba, có mặt 2,466 Nghị Phụ,
nghĩa là 80.23% tham dự. Cuối cùng ở kỳ họp thứ bốn, trong
số 3,093 vị được triệu tập, có 2,625 Nghị Phụ đến Công Ðồng,
và như thế tỉ số tham dự lên tới 84.88%. Như vậy chúng ta có
thể kết luận rằng đại đa số thành phần Giám Mục Ðoàn đã tham
dự Công Ðồng.
Nếu xét
qua nguồn gốc địa dư, chúng ta thấy rằng các Nghị Phụ từ
khắp năm châu trên toàn thế giới đều tựu về: 1,060 vị ở Âu
Châu, 408 Nghị Phụ ở Á Châu, 351 ở Phi Châu, 416 ở Bắc Mỹ,
89 ở Trung Mỹ, 531 ở Nam Mỹ, và 74 vị ở Ðại Dương Châu.
Trong các
phiên họp, có tất cả 695 Nghị Phụ lên tiếng tại nghị trường.
Tổng cộng tất cả, các ngài đã nói tới 2,234 lần; trong đó
các Nghị Phụ Pháp 231 lần, các Nghị Phụ Ðức 141 lần, các
Nghị Phụ Ba Lan 75 lần v.v..., các Nghị Phụ Việt Nam lên
tiếng 16 lần. Nghị Phụ được xem là hùng biện nhất là Hồng Y
Ruffini, ngài lên tiếng 36 lần.
Trong thời
gian họp Công Ðồng có 253 Nghị Phụ qua đời, và cùng lúc có
296 người được tấn phong Giám Mục.
Ngoài sự
tham dự của các Nghị Phụ, chúng ta còn phải kể đến sự có mặt
của những phần tử khác của Dân Chúa. Trước hết phải nói đến
các nhà chuyên môn, vì họ đã tích cực góp phần cho công việc
có kết quả. Ðược đề cử từ giai đoạn chuẩn bị Công Ðồng, các
nhà chuyên môn này đã tham gia vào công việc của các Ủy Ban,
trong việc soạn thảo các lược đồ, thăm dò ý kiến của các
Giám Mục v.v... Con số các nhà chuyên môn lên tới 460 vị,
gồm 235 linh mục giáo phận, 45 tu sĩ Dòng Tên, 42 tu sĩ Ða
Minh, 15 tu sĩ Phanxicô, 12 đan sĩ Dòng Ðức Mẹ Vô Nhiễm, 6
tu sĩ Biển Ðức, 5 tu sĩ Dòng Don Boscô, với nhiều thành phần
Tu Hội và giáo dân.
Công Ðồng
cũng kêu mời nhiều Cha Sở, với tư cách là cộng tác viên thân
cận của các Giám Mục. Thực sự họ chỉ được mời gọi sau các dự
thính viên giáo dân. Trong kỳ họp thứ ba, có tất cả 39 vị,
chia ra: Hoa Kỳ và Ý mỗi nước 5 vị; Tây Ban Nha, Pháp,
Canađa, Ðức, mỗi nước 4 vị; Argentina, Úc, Brazil, Liban,
mỗi nước 2 vị; Bỉ, Nhật, Mexicô, Hòa Lan, Palestina, mỗi
nước 1 vị. Ở kỳ họp thứ bốn con số các cộng tác viên này lên
tới 45 vị. Và ngày 27 tháng 10 năm 1965, cha sở Thomas Fall,
thuộc giáo phận Philadelphia Hoa Kỳ, lên tiếng trước nghị
trường.
Các giáo
dân được mời tham dự với tư cách là những dự thính viên.
trong thời gian chuẩn bị cho kỳ họp thứ hai, Ðức Giáo Hoàng
đã đề cử một nhóm gồm 13 giáo dân cả nam lẫn nữ giới, được
chọn lựa trong các tổ chức tông đồ quốc tế Công Giáo. Ở kỳ
họp cuối cùng, số dự thính viên này lên tới 42. Ngoài ra,
còn có sự tham dự của 10 nữ tu dự thính. sau cùng, để đại
diện cho gia đình Kitô giáo hai vợ chồng Mexicô, J. Alvarez
Icaza, được mời tham dự. Tất cả các dự thính viên giáo dân
này đã lên tiếng 6 lần ở Công Ðồng, và đã góp ý kiến về
nhiều vấn đề cho các Ủy Ban.
2. Tinh
thần hiệp nhất
Một trong
những ý tưởng chính yếu của Ðức Gioan XXIII khi ngài triệu
tập Công Ðồng Vaticanô II là nỗ lực nối lại vòng dây thân ái
giữa các Kitô hữu. Chúng ta nhận thấy Công Ðồng đã đạt được
mục đích này, qua những văn kiện giáo lý và các cuộc gặp gỡ
thân thiện từ bầu khí Công Ðồng.
Thật vậy,
Sắc Lệnh về Hiệp Nhất, Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo và Tuyên
Ngôn về các Tôn Giáo ngoài Kitô giáo đều nhấn mạnh đến tinh
thần hiệp nhất. Quan niệm mới mẻ này cũng xuất hiện ở Hiến
Chế tín lý về Giáo Hội, nhất là ở Hiến Chế Mục Vụ về Giáo
Hội trong thế giới ngày nay, khi Công Ðồng đề cập tới thái
độ phải có của Giáo Hội đối với thế giới.
Tìm hiểu
qua những ý kiến của các Nghị Phụ phát biểu ở nghị trường,
chúng ta cũng thấy các ngài ý thức rõ rệt tinh thần này.
Sau hết,
một sáng kiến đã tạo được thành quả tốt đẹp cho mối dây hiệp
nhất, đó là việc mời các quan sát viên ngoài Công Giáo. Sáng
kiến này do Ðức Hồng Y Ben khởi xướng và chính Ngài đã cố
gắng can thiệp với Ủy Ban Trung Ương Chuẩn Bị Công Ðồng. Sau
đó ít lâu, Hội Ðồng Thế Giới các Giáo Hội (CME) đã mời 5
quan sát viên Công Giáo đến tham dự Ðại Hội Quốc Tế ở Tân Ðề
Ly, với sự chấp thuận của Giáo Triều Roma, mặc dầu gặp nhiều
khó khăn. Dựa vào đó, Văn Phòng Hiệp Nhất gởi lời mời các
quan sát viên ngoài Công Giáo đến tham dự Công Ðồng. Ban
đầu, một số giáo hội từ chối; nhưng cuối cùng sau thời gian
đắn đo, họ đã gởi các đại diện đến Công Ðồng. Như vậy, trong
kỳ họp đầu tiên, con số quan sát viên ngoài Công Giáo được
gởi tới là 46 người, cộng với 8 quan sát viên do Văn Phòng
mời: họ đại diện cho 17 Giáo Hội và Cộng Ðồng Kitô Giáo. Ở
kỳ họp thứ hai, có 59 quan sát viên đại diện và 9 vị do Văn
Phòng mời. Trong kỳ họp thứ ba, có 70 quan sát viên đại diện
và 13 do Văn Phòng mời. Ở kỳ họp cuối cùng, con số quan sát
viên ngoài Công Giáo lên tới 90, cộng với 16 người do Văn
Phòng mời; và họ đại diện cho 29 Giáo Hội và Cộng Ðồng Kitô
Giáo.
D. Một vài con số tiêu biểu trong
công việc của Công Ðồng
Ðể ý thức
được công trình vĩ đại của Công Ðồng, chúng ta lược nhìn qua
vài con số tiêu biểu nhất.
Trước hết,
chúng ta nói đến các cuộc bỏ phiếu. Có tất cả 538 cuộc bỏ
phiếu toàn phần hay từng phần: 33 lần được tổ chức ở kỳ họp
đầu tiên, 94 lần ở kỳ họp thứ hai, 150 lần ở kỳ họp thứ ba
và 261 lần ở kỳ họp cuối cùng.
Ủy Ban ấn
loát của Tòa Thánh phải làm việc ngày đêm. Ở giai đoạn tiền
chuẩn bị, họ đã phát hành 19 quyển sách và mỗi quyển gồm
2,000 bản. Tổng cộng các lần phát hành các lược đồ, câu hỏi
thăm dò, các bản tường trình, các đề nghị tu chỉnh v.v...
mỗi thứ 3,000 bản, lên tới 40 triệu trang. Ngoài ra có
khoảng 16 triệu trang khác được in cho các Nghị Phụ sử dụng.
Tổng cộng: 150 tấn giấy in. Ðài phát thanh Vaticanô cũng đã
làm việc ngày đêm liên miên để thâu băng các phiên họp của
Công Ðồng; và để hoàn tất, các chuyên viên đài đã tiêu thụ
tới 712 cuốn băng, dài 284,000 mét.
Như vậy,
các con số ghi được khả dĩ cho chúng ta thấy tầm mức khổng
lồ của các công việc ở Công Ðồng.
E. Những ý hướng chính yếu của
Vaticanô II
Bất cứ
Công Ðồng nào cũng đều xoay quanh một trục ý thức hệ: hoặc
lên án một lạc giáo, hoặc định tín một tín điều. Chẳng hạn ở
Công Ðồng Calcedonia, trục ý thức hệ là Kitô học, và ở
Vaticanô I là vấn đề tối thượng quyền của Ðức Giáo Hoàng.
Vậy với Vaticanô II, đâu là trục ý thức hệ? Ðể có thể có câu
trả lời chính xác, dĩ nhiên chúng ta phải chờ đợi lịch sử
trong tương lai phê phán. Thế nhưng, hiện tại với những viễn
ảnh trông thấy của giai đoạn hậu Công Ðồng, chúng ta cố gắng
đưa lên vài điểm chính yếu và chắc chắn làm nền tảng cho
Công Ðồng.
1.
Vaticanô II: một Công Ðồng của Giáo Hội nói về Giáo Hội
Giáo Hội
là trung tâm điểm cho mọi giáo lý của Vaticanô II. Thật vậy,
đây là lần đầu tiên trong lịch sử một Công Ðồng bận tâm về
đề mục này: Giáo Hội đi tìm định nghĩa cho chính mình.
Dĩ nhiên,
như chúng ta đã biết, Ðức Gioan XXIII tha thiết lưu tâm tới
vấn đề hiệp nhất các Kitô hữu. Nhưng đồng thời ngài cũng
biết rằng Công Ðồng này chưa có thể là một Công Ðồng tái tạo
sự hiệp nhất theo đúng nghĩa; vì trên bước đường hiệp nhất,
Giáo Hội sẽ gặp không biết bao nhiêu chướng ngại vật và vượt
qua được những chướng ngại vật ấy là một điều không thể thực
hiện được một sớm một chiều.
Bởi thế,
ngài đã quan niệm rằng trước hết phải đổi mới bộ mặt của
Giáo Hội, làm tươi trẻ lại các cơ cấu và đem lại nhựa sống
cho thân thể xem ra đã già nua của Giáo Hội, sao cho hợp với
nhựa sống luôn mới mẻ của Phúc Âm. Lúc đó, theo Ðức Thánh
Cha, chúng ta mới có quyền nói với các anh em ly khai rằng:
"Ðây, Giáo Hội thật của Chúa Kitô, xin anh em hãy nhìn vào,
hãy chiêm ngưỡng, vì đó cũng chính là Giáo Hội của anh em.
Vậy chúng ta hãy hiệp nhất với nhau".
Bởi vậy,
Thánh Công Ðồng đã lưu tâm đặc biệt tới Hiến Chế Tín Lý về
Giáo Hội, không những vì tầm quan trọng của nó, nhưng Hiến
Chế này còn là ánh sáng chiếu soi cho các văn kiện khác. Các
văn kiện được công bố không theo lược đồ có sẵn của Ủy Ban
soạn thảo, nhưng được kết tạo bằng những đề nghị của các
Nghị Phụ mà đời sống nội tâm của Thánh Công Ðồng đã thôi
thúc các Ngài chọn lựa và xếp đặt cho thích hợp theo suy tư
của các ngài về Giáo Hội.
Giáo Hội
do đó được định nghĩa dựa theo các hình ảnh khác nhau của
Thánh Kinh. Giáo Hội trước tiên là Dân Thiên Chúa, định
nghĩa này bao hàm các khía cạnh xã hội và lịch sử của Giáo
Hội. Giáo Hội là Thân Thể Chúa Kitô, vì Giáo Hội muốn làm
nổi bật khía cạnh Kitô học, và huyền nhiệm của mình. Giáo
Hội là Nước Thiên Chúa để diễn tả tính cách cánh chung và
nhiều hình ảnh khác được ám chỉ Giáo Hội như đoàn chiên của
Chúa Kitô, cánh đồng, công trình kiến trúc, gia đình của
Thiên Chúa, đền thờ của Chúa Thánh Thần. Sau hết, Giáo Hội
được quan niệm như Hiền Thê của Chúa Kitô, để cho thấy sự
khác nhau cũng như sự thân mật của Giáo Hội với vị Hôn Phu
là Chúa Giêsu.
Chúng ta
có thể nói tất cả những văn kiện của Vaticanô II xoay quanh
vấn đề Giáo Hội. Hiến Chế về Giáo Hội là một văn kiện Công
Ðồng còn lại, cách trực tiếp hay gián tiếp, đề cập tới đời
sống của Giáo Hội. Thật vậy, Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh nhằm
diễn tả nhiệm vụ thánh hóa của Giáo Hội; các Sắc Lệnh về
Nhiệm Vụ Giám Mục và các Giáo Hội Công Giáo Ðông Phương có
mục đích minh định chức vụ điều khiển của Giáo Hội và Hiến
Chế về Mạc Khải cũng như Tuyên Ngôn về Giáo Dục đều muốn
giải thích quyền Giáo Huấn của Giáo Hội. Lại nữa, để phác
họa các chức bậc cũng như cách sống khác nhau trong Giáo
Hội, Công Ðồng đã ban hành nhiều văn kiện khác: hai Sắc Lệnh
về đời sống và đào tạo Linh Mục đề cập đến các Linh Mục; các
dòng tu có Sắc Lệnh về Dòng Tu và giáo dân có Sắc Lệnh về
Tông Ðồ Giáo Dân. Cuối cùng, một số văn kiện khác đề cập tới
sứ mệnh của Giáo Hội. Sắc Lệnh về Hiệp Nhất nhằm diễn tả mối
liên lạc với các người ngoài Kitô giáo. Sau hết, với toàn
thể thế giới nói chung, Công Ðồng ban hành Hiến Chế Mục Vụ
về Giáo Hội trong thế giới ngày nay và Tuyên Ngôn về các
phương tiện truyền thông xã hội.
Như thế,
chúng ta không do dự khi nói rằng Giáo Hội là trung tâm điểm
của Vaticanô II.
2.
Vaticanô II: Công Ðồng của tự do và đối thoại
Nói lên
điều này, chúng ta không muốn ám chỉ rằng những Công Ðồng
khác thiếu tự do hoặc thiếu tinh thần đối thoại; vì thực ra
Công Ðồng nào tự nó cũng đã là một cuộc đối thoại rồi. Ðiều
mà chúng ta muốn nhấn mạnh ở đây là Vaticanô II được coi là
Công Ðồng đầu tiên đã biết sử dụng sự tự do như một đề mục
để dạy dỗ và lấy tinh thần đối thoại với người ngoài làm
chương trình. Ở đây chúng ta cũng phải nhấn mạnh rằng sự tự
do sung mãn này không phải là không có nền tảng Thánh
Truyền; không một Nghị Phụ nào nghi ngờ các tín lý cổ truyền
của Giáo Hội.
Nhiều nhà
thần học chủ trương rằng sự bàn cãi lại một vài "chân lý",
một số quan niệm và một số thái độ được coi là cổ truyền của
Giáo Hội là một vấn đề không thể chấp nhận được nên khi soạn
thảo các lược đồ, họ đã mặc nhiên đem tất cả vào bản văn vì
coi như những điều chắc chắn. Thế nhưng các Nghị Phụ đã tự
do bác bỏ chủ trương đó, vì đối với các ngài, một số các
điều ấy vẫn phải được đem ra mổ xẻ lại. Hơn thế nữa, các
Nghị Phụ cũng đã nhiều lần bác bỏ các đề nghị sửa đổi của
chính Ðức Giáo Hoàng và ngay cả một lược đồ mà Ðức Giáo
Hoàng khuyến khích chấp thuận.
Trong cuộc
tranh luận về tự do tôn giáo, lần đầu tiên Thánh Công Ðồng
đã minh chứng cho thế giới thấy rằng Giáo Hội không úp mở
cũng như không e ngại khi phải đề cập tới tự do, bởi chính
nhân phẩm của con người đòi hỏi điều đó. Giáo Hội cố gắng
thoát ra khỏi "pháo đài" của mình, khỏi "chủ trương khép kín
huy hoàng" của mình, để đối thoại và thông cảm với anh em
Kitô hữu, với các tôn giáo khác và ngay với anh em vô thần.
Giáo Hội nhìn nhận và kính trọng những giá trị, những nền
văn hóa khác nhau cũng như các hệ thống chính trị khác nhau
của thế giới.
Vaticanô
II là Công Ðồng đầu tiên không có đề mục nào lên án tuyệt
thông. Ðây là nét độc đáo của Công Ðồng này trong lịch sử
Giáo Hội.
3.
Vaticanô II: Công Ðồng Mục Vụ
Ðức Gioan
XXIII mong mỏi Công Ðồng này sẽ là Công Ðồng "mục vụ". Ngài
không muốn Công Ðồng dề cập tới vấn đề lên án tuyệt thông
cũng như không bận tâm đến các tín điều. Thực tế, dầu Công
Ðồng có hai Hiến Chế Tín Lý (Hiến Chế về Giáo Hội và về Mạc
Khải), đó cũng chỉ là những điều được xác định lại, chứ
không có một tín điều nào mới.
Dĩ nhiên,
nếu cần, Thánh Công Ðồng phải nhắc lại những chân lý tín lý
và phải bác bỏ các sai lầm trong các văn kiện. Nhưng hướng
đi của Công Ðồng nhằm ở Mục Vụ. Thay vì đưa ra các qui tắc
từ những suy luận tiên thiên nơi các "nguyên lý vĩnh cửu",
Thánh Công Ðồng đã đi tìm những tiêu chuẩn hướng dẫn thuộc
loại đoàn sủng mới nơi những trạng huống thực tại.
Trong tinh
thần đó và để dung hòa các khía cạnh trái ngược nhau của các
vấn đề, thay vì dùng công thức "hoặc là... hoặc là...",
Thánh Công Ðồng chọn công thức "cả... cả...". Như vậy Công
Ðồng có thể giảm bớt tình trạng chú trọng đến khía cạnh này
mà lãng quên những khía cạnh kia, như Giáo Hội đã gặp phải
trong quá khứ. Trong mức độ đứng đắn, Công Ðồng đã tìm dung
hòa cả tối thượng quyền Giáo Hoàng cả cộng đoàn tính của các
Giám Mục. Công Ðồng đã đặt đúng chỗ cả hàng giáo phẩm cả
hàng giáo dân, đã giữ quân bình giữa cả Giáo Hội phổ quát cả
Giáo Hội địa phương, giữa cả các giá trị tu trì cả các giá
trị phàm trần...
Sau hết
tinh thần mục vụ thể hiện rõ rệt nhất trong chiều hướng
chung của Thánh Công Ðồng khi chủ trương không chống lại một
phần tử nào nhưng nhằm lợi ích cho mọi người, khi Giáo Hội
trình bày tất cả sứ mệnh của mình dưới ánh sáng tinh thần
phục vụ, Giáo Hội nhận mình như nữ tì, như kẻ được sai đến
đem ơn cứu độ cho nhân loại.
4.
Vaticanô II: nguồn sáng mới
Công Ðồng
không mang lại một tín điều nào mới. Thế nhưng, trong những
văn kiện đã công bố, Công Ðồng tạo được một đặc điểm độc đáo
khi nỗ lực xác định rõ một số khía cạnh của kho tàng chân
lý. Ở đây chúng ta chỉ nêu lên một vài nét điển hình cho đặc
điểm này.
Trước hết
Công Ðồng đã trình bày một nền thần học về Chúa Thánh Thần,
mà từ lâu hầu như bị lãng quên trong Giáo Hội Tây Phương.
Việc này được xem là công lao của các Nghị Phụ Ðông Phương.
Chẳng hạn ở các văn kiện về Giáo Hội (ví dụ các số 4, 19,
48) và về Truyền Giáo (ví dụ số 4), Công Ðồng đã trình bày
rõ ràng quan điểm này. Thứ đến, trong thần học về Mạc Khải,
Công Ðồng lại đưa ra một quan niệm mới về chân lý của Thánh
Kinh và về linh ứng (x. MK 11).
Nhưng phải
nhìn vào quan điểm thần học về Giáo Hội, chúng ta mới thấy
rõ những ánh sáng huy hoàng của Công Ðồng. Sự trở về với
cộng đoàn tính giám mục, quan niệm về Giáo Hội như bí tích
cứu rỗi, như dân Thiên Chúa, hay thái độ mới đối với thế
giới v.v... đều là những ánh sáng độc đáo. lại nữa, Công
Ðồng cũng đã giải chiếu ánh sáng mới cho tính cách bí tích
của hàng GiámMục, cho chức phó tế. Sau cùng, với các bí tích
khác. Công Ðồng đã thực sự đem đến bộ mặt mới, sáng sủa.
Công Ðồng đã quan niệm bí tích Giải Tội là sự hòa giải không
những với Thiên Chúa mà còn với Giáo Hội. Bí Tích Hôn Phối
được nhấn mạnh hơn ở khía cạnh tình yêu nhân loại và các mục
đích chính yếu; Công Ðồng cũng đưa ra qui chế mới cho các
cuộc hôn nhân tạp giáo v.v... Trong bí tích Thánh Thể, Công
Ðồng đã khéo léo đổi mới các nghi thức Thánh Lễ. Còn về quan
điểm thần học chủ trương giáo lý mới về "chức linh mục phổ
quát nơi mọi giáo dân", thì chúng ta cần phải đợi thời gian
mới thấy kết quả. Sau hết, tính cách cánh chung là một ánh
sáng mới được đưa vào trong tất cả các lãnh vực thần học, ví
dụ khía cạnh cánh chung của Giáo Hội lữ hành (x. GH ch 7),
của hoạt động truyền giáo (x. TG 9) của đời sống dòng tu (x.
GH 44) v.v...
III. Có Thể Có Vaticanô III Không?
Ðặt câu
hỏi trên, chúng ta không nghĩ rằng Công Ðồng Vaticanô II đã
lỗi thời. Nhưng ý kiến của chúng ta được nêu lên có mục đích
tìm hiểu chỗ đứng hiện tại của Công Ðồng này trong lịch sử
Giáo Hội.
Ngày hôm
nay, hơn bao giờ hết, một Công Ðồng phải được quan niệm như
là một bổ túc cho Công Ðồng trước và trở thành nhịp cầu để
nối kết Công Ðồng mới trong tương lai. Thế giới tiến bộ
nhanh chóng và Giáo Hội cần thích ứng không ngừng theo dòng
lịch sử, nếu Giáo Hội không muốn lùi bước. Ðàng khác, ngay
từ Công Ðồng Nicea, trong định thức số 5, Giáo Hội cũng đã
đòi hỏi rằng các Giám Mục trong một giáo tỉnh phải họp nhau
mỗi năm hai lần. Dĩ nhiên, nguyên tắc điều khiển giáo tỉnh
theo thể chế Công Ðồng nói ở đây phải hòa hợp với tối thượng
quyền của Giáo Hoàng trong những phạm vi thuộc toàn thể Giáo
Hội: tuy nhiên tính cách cộng đoàn của Giám Mục được
Vaticanô II cổ võ nói lên phương thức làm việc theo thể chế
Công Ðồng từng thịnh hành trong nhiều thời đại trước.
Vào thế kỷ
thứ XIX, vì quan tâm tìm kiếm một bảo đảm vững chắc cho giáo
lý của Giáo Hội, Công Ðồng Vaticanô I lúc đó đã đi tới định
tín quyền bất khả ngộ của Ðức Giáo Hoàng. Do định tín ấy,
người ta đã lầm tưởng rằng thời đại Công Ðồng đã chấm dứt.
Thế rồi, trong thời đại hiện tại của chúng ta, vì nhu cầu
của tính cách cộng đoàn Giám Mục đòi hỏi, Giáo Hội đã thiết
lập các Thượng Hội Ðồng Giám Mục rồi cũng vì đó, nhiều người
hiện nay nghĩ rằng không cần thiết phải triệu tập các Công
Ðồng Chung nữa. Họ đã lầm tưởng, một lầm tưởng sâu xa. Thực
ra Công Ðồng Vaticanô II đã khai mào những viễn ảnh mới, báo
hiệu cho một Công Ðồng trong tương lai để bổ túc, cũng như
Vaticanô II đã làm nhiệm vụ bổ túc cho Công Ðồng trước.
Nhìn vào
thực tại, chúng ta thấy rằng nếu Vaticanô II đã cố gắng dung
hòa sự chia cách giữa Giáo Hoàng và Giám Mục thì cũng cần
phải có một Công Ðồng trong những ngày sắp tới để tìm lại
mức quân bình cho hàng Giám Mục với hàng linh mục mà thực tế
đang cách biệt trầm trọng. Nói tổng quát hơn, cần đến một
Công Ðồng trong tương lai để tìm ra những dây liên lạc chân
thực giữa giáo sĩ và giáo dân, nghĩa là có mục đích tìm hiểu
và đề cập đến các vấn đề liên quan tới linh mục và giáo dân,
cũng như Vaticanô II đã đặt vấn đề ấy với các Giám Mục.
Hơn nữa, ý
hướng hiệp nhất của Vaticanô II chỉ mới ở những bước đầu.
Công Ðồng này đã rộng mở những cánh cửa mới để có lẽ với cố
gắng của một Công Ðồng trong tương lai, những ai còn ở ngoài
Giáo Hội sẽ vào trong Giáo Hội. Sự hiện diện của "các quan
sát viên" ở Công Ðồng Vaticanô II tiên báo sự tham dự của
toàn thế giới trong một Công Ðồng mới hoàn toàn hiệp nhất, ở
đó tính cách Công Giáo sẽ đạt tới sung mãn. Rồi nếu các cộng
đoàn anh em ly khai là những Giáo Hội chân thật, họ sẽ cần
hiện diện thực sự với Giáo Hội chúng ta. Hơn thế nữa, bởi vì
các Giám Mục các Giám Mục Chính Thống cũng là những người kế
vị thật của các Tông Ðồ, không có lý do gì họ lại không có
quyền đến họp vớ anh em thật của họ, với người kế vị Thánh
Phêrô, trong một Công Ðồng thật sự hiệp nhất mà chúng ta
mong ước.
Chúng ta
đặt trọn niềm hy vọng vào sự hướng dẫn khôn ngoan của Chúa
Thánh Thần, để tất cả chúng ta đều tiến theo con đường tươi
đẹp nhất, cho dầu nẻo đường đó có thể không phù hợp với
những tính toán nhân loại và giới hạn của chúng ta.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC VÀ VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH - SỰ QUAN
TRỌNG CỦA GIA ĐÌNH. |
LTS.
Trong 7 số báo liên tiếp kể từ hôm nay, Đặc San GSVN hân
hạnh giới thiệu với Quí độc giả chủ đề lớn "LINH
MỤC VÀ VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH"
Trong thư chung năm 2001, Hội đồng Giám
Mục Việt Nam đã đề cập đến gia đình như một chương trình mục
vụ cần lưu tâm trong thiên niên kỷ mới. Còn năm nay 2002,
Hội đồng muốn đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha
Gioan-Phaolô II trong tông huấn về gia đình “Consortio
Familiaris” ban hành năm 1981, đồng thời chào đón cuộc gặp
gỡ quốc tế của các gia đình sẽ tổ chức tại Manila vào đầu
năm tới, nên thư mục vụ đã được dành cho đề tài hôn nhân và
gia đình, đồng thời chọn chủ đề của năm 2003 là năm “Thánh
hóa gia đình”.
Đây phải là một dịp thuận tiện để chúng
ta, những linh mục và tu sĩ, tìm hiểu và sống tinh thần gia
đình, nhất là trong phạm vi giáo phận và giáo xứ, trước khi
có những chương trình mục vụ cụ thể giúp đỡ cho các gia đình
chúng ta có nhiệm vụ chăm sóc và hướng dẫn, bởi vì :
- Các cha phải đi trước, thì làng nước
theo sau.
Vậy tiên vàn gia đình là gì ?
Mở cuốn “Tự điển Việt Nam” của Lê văn
Đức, chúng ta thấy tác giả đã đưa ra ba định nghĩa như sau :
Trước hết, gia đình là một đơn vị, một
nhà gồm hai vợ chồng và con cái mình. Đó là ý nghĩa chặt chẽ
nhất chúng ta thường dùng để nói về gia đình.
Tiếp đến, gia đình là một dòng họ, gồm
tất cả ông bà, cha mẹ, con cháu cùng chung một huyết thống.
Đó là ý nghĩa rộng rãi hơn.
Từ đặc tính này, chúng ta đi tới một
nghĩa bóng, một ám chỉ, gia đình là một đoàn thể, một tổ
chức như khi chúng ta nói : gia đình giáo phận, gia đình
giáo xứ….
Theo tôi nghĩ thì gia đình là nơi qui
tụ những người cùng sống dưới một mái nhà, liên hệ với nhau
bằng sợi giây yêu thương. Mỗi định nghĩa đều có lý và nói
lên một góc cạnh nào đó. Nhưng điều quan trọng và cần thiết
đó là gia đình nắm giữ vai trò nào trong đời sống ?
1- GIA ĐÌNH VÀ CÁ
NHÂN.
Sống trong gia đình, nhiều lúc chúng ta
cảm thấy bực tức khó chịu vì phải đụng chạm với người này,
người khác. Thế nhưng, khi phải lìa xa, chúng ta thường
nghĩ về nó với những kỷ niệm, với những hình ảnh đẹp đẽ
nhất của những người thân yêu. Nói tới gia đình chúng ta
cảm thấy có một cái gì êm đềm và đầm ấm, như thế đủ chứng tỏ
gia đình có một chỗ đứng không thể thiếu vắng trong tình cảm
cá nhân của mỗi người.
Hơn thế nữa, Công đồng Vaticanô II còn
xác định : Gia đình chính là mái trường đầu tiên dạy cho
chúng ta những bài học làm người.
Trước hết, gia đình là trường đầu tiên
dạy nhân cách.
Khi bàn về bổn phận của mọi người trong
việc thăng tiến hôn nhân và gia đình, Công đồng Vaticanô II
trong hiến chế “Gaudium et Spes”,bàn về Giáo hội trong thế
giới hôm nay, đã viết :
- “Gia đình là một trường học phát
triển nhân tính. Nhưng để gia đình có thể chu toàn sứ mệnh
mình, cần phải biết hòa hợp tâm hồn : vợ chồng phải cùng
nhau bàn định, cũng như cha mẹ phải ân cần cộng tác trong
việc giáo dục con cái “ (GS 52).
Tục ngữ Việt Nam đã bảo :
- Học ăn học nói học gói học mở.
Chúng ta phải học từ những việc đơn sơ
và dễ dàng đến những việc phức tạp và khó khăn. Ngay từ tấm
bé, cha mẹ đã dạy cho chúng ta cách thức ăn uống, tắm
giặt…Lớn hơn một chút, cha mẹ cho chúng ta cắp sách đến
trường để được trang bị những kiến thức cần thiết. Và khi
sắp đến tuổi trưởng thành, dạy cho chúng ta nghề nghiệp để
có thể tự kiếm sống. Nhờ việc giáo dục của gia đình, chúng
ta trở nên một người khả dĩ có thể sống tự lập.
Tiếp đến, gia đình là trường dạy về đời
sống xã hội.
Khi con cái bắt đầu hiểu biết, không
cha mẹ nào mà không dạy cho chúng biết phép lịch sự, biết
cách xử thế. Rồi những bài học về đức công bằng, về tình bác
ái …Tất cả chúng ta đã lãnh hội được trong bầu khí yêu
thương của gia đình. Chính vì thế, gia đình đã trở thành mái
trường đầu tiên dạy cho chúng ta về đời sống xã hội.
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã viết
như sau :
- “Trong một xã hội đã bị lung lay và
phân hóa do những căng thẳng và xung khắc vì sự đối đầu khốc
liệt giữa các chủ nghĩa cá nhân và ích kỷ đủ loại, trẻ em
cần phải có được ý thức về sự công bằng đích thực, vì chỉ có
sự công bằng ấy mới đưa đến sự kính trọng phẩm giá ngôi vị
của từng người. Hơn thế nữa, chúng ta phải có ý thức về tình
yêu đích thực, tình yêu dệt bằng mối quan tâm chân thành và
việc phục vụ vô vị lời đối với kẻ khác, đặc biệt là đối với
những người nghèo nhất và những người cần được giúp đỡ nhất.
Gia đình là trường học đầu tiên, trường học căn bản về đời
sống xã hội; như một cộng đồng yêu thương, gia đình nhận ra
rằng tự hiến mình là qui luật hướng dẫn gia đình và làm cho
gia đình tăng trưởng”. (CF 37).
Như vậy, gia đình đào luyện chúng ta
trở thành một con người, con người ấy không phải chỉ biết
sống tự lập, sống cho mình mà còn phải biết sống với người
khác trong một cộng đồng, trong một xã hội.
Sau cùng, gia đình là con đường giúp
chúng ta nên thánh.
Khi bàn về sự thánh thiện của hôn nhân,
Công đồng đã viết :
- “Được cha mẹ hướng dẫn bằng gương
sáng và kinh nguyện gia đình, con cái và tất cả những ai
sống trong khuôn khổ gia đình sẽ gặp được con đường nhân ái,
cứu độ và thánh thiện dễ dàng hơn.” (GS 48).
Làm sao có thể quên được những lời kinh
bập bẹ mà người mẹ đã dạy chúng ta đọc. Làm sao có thể quên
được cách làm dấu thánh giá bằng bàn tay vụng dại được người
cha cầm lấy và đặt lên trán. Ngoài ra, biết bao nhiêu kỷ
niệm êm đẹp của ngày rước lễ lần đầu, của ngày lãnh nhận bí
tích Thêm sức sẽ theo chúng ta mãi trong suốt cả cuộc đời.
Như vậy, gia đình không phải chỉ giáo
dục chúng ta trở nên một con người đúng với ý nghĩa của nó,
mà còn hướng dẫn để chúng ta trở nên một con người thánh
thiện, một Kitô hữu trưởng thành, một người con cái Chúa.
Không phải chỉ cha mẹ giúp con cái nên
thánh, mà nhiều khi chính con cái cũng giúp cha mẹ nên
thánh. Công đồng viết :
- “Con cái là những phần tử sống động
trong gia đình nên cũng góp phần riêng vào việc thánh hóa
cha mẹ. Thực vậy, con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng
tri ân, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, và sẽ theo đạo làm
con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong
tuổi già cô quạnh…” (GS 48).
Trong mái trường đầu tiên này, cha mẹ
là những giáo viên chuyên cần, dạy bảo cho chúng ta từng li
từng tí, sở dĩ như vậy cha mẹ là những người gần gũi chúng
ta hơn hết, hiểu biết chúng ta hơn hết và cũng yêu thương
chúng ta hơn hết.
Một đứa trẻ mồ côi, sống trong cô nhi
viện, dù được nuôi dưỡng đầy đủ thì nó vẫn cảm thấy lạc
lõng bơ vơ. Tại sao thế ? Vì nó thiếu vắng một tình thương
chăm sóc và ủi an.
Bởi đó tục ngữ Việt Nam mới nói :
- Thà ăn bắp hột chà vôi,
Chẳng thà giầu có mồ côi một mình.
Giáo dục con cái cũng chính là một bổn
phận quan trọng nhất của những bậc làm cha mẹ, bởi vì :
- Đẻ con chẳng dạy chẳng răn,
Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng.
Trong Tuyên ngôn ”Gravissimum
Educationis” về giáo dục Kitô giáo, Công đồng đã nhắc lại :
- “Vì là người truyền sự sống cho con
cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng phải giáo dục
chúng, và vì thế, họ phải được coi là những nhà giáo dục đầu
tiên và chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng
đến nỗi nếu thiếu sót sẽ khó lòng bổ khuyết được. Thật vậy,
cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần
tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha
nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện của con cái họ
trong đời sống cá nhân và xã hội được dễ dàng.” (GE 3).
Đức Thánh Cha Goan-Phaolô II giải thích
như sau :
- “Vì cha mẹ đã sinh ra con cái nên
quyền và bổn phận giáo dục là một điều nằm trong yếu tính
của họ; vì tương quan giữa họ với con cái là một tình yêu
không thể thay thế được, nên quyền và bổn phận giáo dục của
họ có tính cách độc đáo và cơ bản so với bổn phận giáo dục
của những người khác, đó cũng là một cái gì không thể thay
thế và không thể chuyển nhượng được, cho nên cũng không thể
khoán trắng cho người khác hay bị người khác cưỡng đoạt.”
(CF 36).
2- GIA ĐÌNH VÀ XÃ
HỘI.
Người xưa đã bảo :
- Phải tu thân, tề gia trước đã, rồi
sau đó mới trị quốc bình thiên hạ.
Xem đó chúng ta thấy : Gia đình không
phải chỉ ảnh hưởng trên cá nhân, mà còn là nền tảng cho cả
xã hội nữa. Thực vậy, nhìn vào cách thức tổ chức, chúng ta
sẽ nghiệm ra rằng : nhiều gia đình họp lại thành thôn ấp, và
cứ thế đi lên tới xã, huyện, tỉnh, quốc gia và cộng đồng
quốc tế.
Bởi đó, gia đình đã trở nên một yếu tố
căn bản để xây dựng xã hội. Gia đình tốt làm cho cá nhân tốt
đã đành, mà hơn thế nữa, gia đình tốt còn làm cho cả xã hội
đều được tốt. Trái lại gia đình xấu, thì chắc hẳn xã hội
cũng sẽ bị ung thối. Gia đình là con tim của nhân loại. Nếu
như con tim mà đau, thì chắc chắn toàn thân sẽ bị bải hoải.
Một vài thí dụ để chúng ta hiểu được
điêu đó .
Những năm về trước, tệ nạn “đi bụi
đời” bành trướng mạnh mẽ trong giới trẻ. Vậy những kẻ đi bụi
đó là ai ? Họ là những thanh thiếu niên không hẳn là nghèo
túng, trái lại nhiều khi còn là những người thuộc gia đình
giầu sang và tiếng tăm. Tiền nhiều bạc lắm, nhưng họ chỉ
thiếu một điều, đó là thiếu tình thương trong gia đình. Theo
các bản thống kê cho biết thì đa số họ không tìm thấy được
niềm vui và hạnh phúc. Hoặc vì cha mẹ cãi cọ lục đục với
nhau, hoặc vì cha mẹ quá đam mê chạy theo tiền bạc, bắt mối
“áp phe” mà quên mất việc chăm sóc giúp đỡ họ, hoặc vì cha
mẹ cờ bạc, rượu chè, vợ nọ con kia mà không để ý đến họ.
Hay như một ông giám đốc, nếu không tìm
thấy sự thoải mái trong gia đình, thì khi đến công sở, chắc
hẳn sẽ cau có đối với nhân viên và dễ dàng đi đến những
quyết định lệch lạc mà hậu quả nhiều lúc thật trầm trọng.
Ý thức được tầm mức quan trọng của gia
đình, Công đồng đã viết như sau :
- “Gia đình trở thành nền tảng của xã
hội vì là nơi mà nhiều thế hệ gặp gỡ và giúp nhau nên khôn
ngoan đầy đủ hơn, cũng như giúp nhau hòa hợp những quyền lợi
cá nhân với những đòi hỏi khác của cuộc sống xã hội.” (GS
52)
Đức Thánh Cha cũng xác quyết :
- “Bởi vì Đấng Tạo hóa đã đặt gia đình
làm nguồn gốc và nền tảng cho xã hội con người, nên gia đình
trở thành tế bào đầu tiên và sống động của xã hội.” (CF 42).
Như vậy, gia đình sẽ phục vụ cho xã hội
:
- “Gia đình dù biệt lập hay kết thành
hiệp hội, đều có thể và phải dấn thân cho nhiều công cuộc
phục vụ xã hội, cách riêng là lo cho những người nghèo và
trong mọi trường hợp, lo cho những người và những tình cảnh
mà các tổ chức từ thiện và cứu tế công cộng không thể lo hết
được.” (CF 44).
Và hơn thế nữa, gia đình sẽ làm cho xã
hội được nhân bản hơn :
- “Chính những kinh nghiệm về sự hiệp
thông và chia sẻ phải là đặc điểm cho đời sống thường nhật
của gia đình, và tạo nên phần thiết yếu căn bản mà gia đình
đóng góp được cho xã hội…Gia đình làm nên cái nôi và là
phương tiện hữu hiệu nhất để nhân bản hóa và ngôi vị hóa xã
hội : chính gia đình hoạt động cách độc đáo và sâu xa cho
công cuộc kiến tạo thế giới, giúp đem lại được một đời sống
thực sự nhân đạo, cách riêng là bảo tồn và truyền đạt các
nhân đức và các giá trị”. (CF 43).
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta
có thể đi đến kết luận : gia đình là viên đá đầu tiên, làm
nền móng cho xã hội. Nền móng có vững chắc, thì tòa nhà mới
bảo đảm. Gia đình là một tế bào sống động của xã hôi. Nếu tế
bào mà èo uột, thì chắc hẳn xã hội cũng sẽ không thể nào
phát triển. Bởi đó, Đức Thánh Cha Lêô XIII đã nói :
- Gia đình nào, xã hội nấy.
Muốn đổi mới xã hội, thì việc đầu tiên
cần phải làm ngay, đó là phải canh tân gia đình.
3- GIA ĐÌNH VÀ GIÁO
HỘI.
Nhìn vào cơ cấu và tổ chức, chúng ta sẽ
thấy được chỗ đứng không thể thiếu vắng của gia đình trong
sinh hoạt của Giáo hội. Thực vậy, nhiều gia đình hợp lại
thành giáo xứ. Nhiều giáo xứ hợp lại thành một giáo phận.
Nhiều giáo phận hợp lại thành Giáo Hội toàn cầu. Và như
thế, gia đình cũng là nền tảng cho Giáo Hội.
Nếu vì hoàn cảnh, chúng ta không còn
các linh mục, các tu sĩ hay nếu vì sinh kế chúng ta phải
sống ở một nơi hẻo lánh, không có nhà thờ, không có họ đạo,
thì lúc bấy giờ chính gia đình của chúng ta phải là một giáo
xứ nhỏ bé, ở đó người gia trưởng sẽ đóng vai trò linh mục,
có bổn phận cử hành phụng vụ như giờ kinh tối, thực thi đức
tin và loan truyền Tin Mừng bằng một đời sống đạo đức và
thánh thiện, bác ái và yêu thương .
Thánh Augustinô đã viết :
- Gia đình là một Giáo Hội “cỡ nhỏ”,
một Giáo Hội được thu hẹp, tại đây Chúa Giêsu tiếp tục hiện
diện và sống động, tại đây Chúa Giêsu tiếp tục chịu chết và
sống lại.
Cũng trong chiều hướng ấy, Đức Thánh
Cha đã gọi gia đình là “Hội thánh tại gia” :
- “Ngoài ra, gia đình Kitô hữu còn được
mời gọi cảm nghiệm một sự hiệp thông mới mẻ và độc đáo, củng
cố cho sự hiệp thông tự nhiên và nhân bản. Thật vậy, ân sủng
của Đức Giêsu Kitô “Anh Cả của một đàn em đông đúc” theo bản
tính và sức mạnh nội tại của ơn ấy, là một ân sủng của tình
huynh đệ” như thánh Tôma Aquinô vẫn gọi. Thánh Thần được đổ
tràn xuống trong việc cử hành các bí tích chính là nguồn
mạch sống động và lương thực vô tận cho sự hiệp thông siêu
nhiên nối kết các tín hữu với Đức Kitô và qui tụ họ lại với
nhau trong sự hiệp nhất của Hội thánh Thiên Chúa. Gia đình
Kitô hữu là một mạc khải, một sự thực hiện đặc biệt mối hiệp
thông trong Hội Thánh. Vì thế, gia đình Kitô hữu có thể và
phải được gọi là “Hội Thánh tại gia”. (CF 21.
Gia đình là “Hội Thánh thu nhỏ” :
- Giữa các trách nhiệm căn bản của gia
đình Kitô hữu, có một trách nhiệm có thể nói là có tính cách
Hội thánh, vì trách nhiệm này đặt gia đình vào chỗ phục vụ
cho việc xây dựng Nước Thiên Chúa trong lịch sử, bằng cách
dự phần vào cuộc sống và sứ mạng của Hội Thánh. Để hiểu rõ
việc tham dự ấy hệ tại ở đâu, bao gồm và có những đặc điểm
nào, ta cần tìm hiểu những liên hệ rất nhiều và sâu xa nối
kết Hội Thánh với gia đình Kitô hữu và làm cho gia đình này
trở thành một “Hội Thánh thu nhỏ”, đến nỗi, theo cách của
nó, gia đình là một hình ảnh sống động và là một biểu hiện
lịch sử của chính mầu nhiệm Hội Thánh.” (CF 49).
Sở dĩ như vậy vì gia đình Kitô hữu cũng
thi hành những công việc, những bổn phận của Hội Thánh :
- “Như một Hội Thánh “nhỏ”, gia đình
Kitô hữu được mời gọi theo hình ảnh của Hội Thánh “lớn”, để
làm một dấu chỉ hiệp nhất cho thế giới và để theo chiều
hướng ấy mà thực hiện vai trò tiên tri, làm chứng cho vương
quốc và cho hòa bình của Đức Kitô mà cả thế giới đang tiến
tới.” (CF 48).
Gia đình là sự nối tiếp của Giáo Hội và
làm cho Giáo Hội có mặt ở mọi nơi và trong mọi lúc. Gia đình
là nơi kết nạp các phần tử lại với Đức Kitô. Gia đình có lên
tới Chúa thì Giáo Hội mới được phát triển :
- “Gia đình Kitô hữu được mời gọi góp
phần tích cực và có trách nhiệm vào sứ mạng của Hội Thánh
với tư thế riêng biệt và độc đáo, bằng cách tự đặt mình phục
vụ Hội Thánh và xã hội cả từ trong yếu tính lẫn trong hành
động của mình với tư cách là một cộng đồng thân mật của sự
sống và tình yêu.” (CF 50).
Tóm lại : Gia đình Kitô hữu phải là
một con đường dẫn người khác đến với Chúa bằng một cuộc sống
ngập tình yêu thương của mình, nhờ đó góp phần xây dựng Giáo
hội :
- “Tương lai việc Tin mừng hóa tùy
thuộc phần lớn nơi Hội Thánh tại gia.” (CF 52).
KẾT LUẬN
Qua những điều vừa trình bày, chúng ta
thấy được tầm mức quan trọng của gia đình đối với cá nhân,
xã hội và Giáo hội, vì thế Công đồng đã kêu gọi :
- “Tất cả những ai có ảnh hưởng trên
các cộng đoàn và tập thể xã hội phải góp công hữu hiệu
thăng tiến hôn nhân và gia đình.” (GS 52)
Cũng trong chiều hướng ấy, Đức Thánh
Cha đã nêu rõ :
- “Những đổi thay dồn dập trong lòng
hầu hết các xã hội tân tiến đòi hỏi không những chỉ gia đình
mà cả xã hội và Hội Thánh đều phải dấn thân vào nỗ lực chuẩn
bị tương xứng để các bạn trẻ có thể cáng đáng các trách
nhiệm trong tương lai.” (CF 66).
Và như vậy, trong việc thăng tiến gia
đình, chúng ta thấy :
Trước hết đó là trách nhiệm của Giáo
hội :
- “Hội Thánh phải cấp bách can thiệp
mục vụ để nâng đỡ gia đình. Cần phải cố gắng hết sức để
ngành mục vụ gia đình được củng cố và phát triển, trở thành
một ngành thật ưu tiên, vì chắc chắn trong tương lại, việc
loan báo Tin mừng phần lớn tùy thuộc nơi Hội Thánh tại gia
đình.” (CF 65).
Đặc biệt là vai trò của các linh mục :
- “Các ngài có bổn phận nâng đỡ ơn gọi
của vợ chồng trong đời sống hôn nhân và gia đình bằng những
phương tiện mục vụ khác nhau, như rao giảng Lời Chúa, lễ
nghi phụng vụ hay những trợ lực thiêng liêng khác. Các ngài
cũng phải nhân hậu và nhẫn nại nâng đỡ họ trong lúc gặp khó
khăn, và khích lệ họ trong tình bác ái, tạo nên những gia
đình thực gương mẫu rạng ngời.” (GS 52).
Tiếp đến đó là trách nhiệm của xã hội :
- “Xã hội và đúng hơn là quốc gia, phải
nhận rằng gia đình là “một xã hội được hưởng một quyền lợi
riêng biệt và ưu tiên”, do đó trong những gì liên hệ tới
tương quan giữa họ và gia đình, họ có nghĩa vụ trọng yếu
phải theo đúng nguyên tắc hỗ trợ gia đình…Quốc gia phải hết
sức tạo điều kiện thuận lợi và khơi động những sáng kiến có
trách nhiệm của gia đình.” (CF 45).
Đặc biệt là vai trò của chính quyền :
- ”Chính quyền phải nhìn nhận, bênh vực
và phát huy tính chất đích thực của hôn nhân và gia đình,
phải bảo vệ nền luân lý chung và giúp cho gia đình được sung
túc, vì đó là những bổn phận mà chính quyền phải coi như một
sứ mệnh thiêng liêng phải chu toàn.” (GS 52)
Sau cùng đó là trách nhiệm của mọi
thành viên trong gia đình, đặc biệt là vai trò của hai vợ
chồng :
- ”Chính các đôi vợ chồng, được tạo
thành giống hình ảnh Thiên Chúa và được ấn định trong cấp
bực của các nhân vị, hãy kết hợp trong tình tương thân tương
ái, đồng tâm hiệp ý và thánh hóa lẫn nhau, để trong khi theo
Đức Kitô là nguyên lý sự sống, giữa những nỗi vui mừng và hy
sinh của ơn gọi và qua tình yêu chung thủy, họ trở nên chứng
nhân của các mầu nhiệm tình thương mà Chúa đã tỏ ra cho thế
giới qua sự chết và sống lại của Ngài.” (GS 52).
Tóm lại, tất cả những người thiện chí
phải cộng tác với nhau để giúp gia đình thoát khỏi cơn khủng
hoảng như cuồng phong đang thổi đến, đồng thời thăng tiến
gia đình theo đúng với ý định tuyệt vời của Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha đã xác quyết :
- “Thế nên thật trọng yếu và cấp bách,
tất cả những người thiện chí đều phải hết sức mình để bảo vệ
và thăng tiến các giá trị và các đòi hỏi của gia đình.” (CF
86)
Bởi vì :
- “Tương lai của nhân loại sẽ đến qua
gia đình.” (CF 86).
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NĂM MỚI NÓI
CHUYỆN CŨ… CÒN MỚI ! |
Một vị trong Ban biên tập đến thăm khi
tôi đang nằn dưỡng bệnh tại Thánh phố và đề nghị tôi ghi lại
vài cảm nghiệm của một người bệnh để đăng vào số tháng
02/2007 nhân ngày Quốc tế Bệnh nhân. Tôi vừa nằm trên giường
bệnh vừa nhớ lại vài suy tư tản mạn và nhờ một “ thư ký” ghi
lại để chia sẻ với bạn đọc.
Tôi bị đau thần kinh toạ cách đây hơn
một năm, đi đứng rất đau đớn. Lúc đầu tôi uống 20 thang
thuốc bắc thấy hết đau. Khoảng 6 tháng sau thấy đau lại, tôi
đi điều trị theo Đông y nhưng không hết. Sau đó tôi đi bác
sĩ Tây y tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bác sĩ hỏi “Từ nhỏ tới
lớn có gành vác gì nặng không ?’ bác sĩ bảo đi chụp X quang,
biết là bị gai cột sống, rồi cho thuốc tây uống một tháng,
nhưng không thấy thuyên giảm. Sau đó bác sĩ bảo đi chụp “em
– rai” (MRI- Magnetic Resonance Images : cộng hưởng từ, mới
biết là bị thoái vị đĩa đệm giữa hai đốt cột sống, cần phải
phẫu thuật. Trước khi đi điều trị tại niềm Nam, một phần để
tránh làm phiền nhiều người đến thăm, tôi nghe giáo dân
quanh Toà giám mục Sơn Tây đến chào chúc có nói rằng : “ Tại
Đức Cha gánh vác giáo phận nặng quá”. Thực ra, suốt hai năm
đầu trong sứ vụ giám mục, tôi đã không điều độ giữa làm việc
và nghỉ ngơi, đã ngồi nhiều, kể cả trên xe để đi nhiều nơi,
mà không chịu tập thể dục và chơi thể thao đều đặn như hồi ở
Đại chủng viện Cần Thơ, ngoài lý do tuổi tác, tôi nghĩ đó là
nguyên nhân gây nên suy thoái cột sống.
Nghĩ đến “mổ’ cột sống thật đáng ngại,
nhưng bác sĩ bảo nếu không ‘phẫu thuật’ thì sẽ bị liệt cơ và
sẽ không đi lại được. Tôi đã quyết định chịu phẫu thuật
trong niềm tín thác vào Thiên Chúa và Mẹ Maria, đồng thời
xin nhiều người cầu nguyện cho. Nhờ đó tôi không thấy hồi
hộp khi được đẩy vào phòng mổ, mà chỉ buồn cười nhớ lại lời
cô y tá vừa nói với vị linh mục họ Hoàng đã ký tên vào tờ
cam kết phẫu thuật như người ‘ con” đưa người “cha” họ Vũ
nhập viện : “Chắc anh là con rể của bác ?”
Ca mổ đã diễn ra hơn ba tiếng đồ ngày
23/11/2006 tại bệnh viện Triều An. Sáng hôm đó tôi làm lễ
ngoại lịch kính các Thánh Tử đạo Việt Nam vì sợ rằng ngày
hôm sau mình chưa tỉnh để dâng lễ được. Vậy mà chiều hôm
sau tôi đã có thể “nằm đồng tế” với linh mục họ Hoàng đã
tháp tùng tôi trong suốt chuyến đi này. Năm ngày sau, thắt
đai lưng bảo vệ, tôi có thể đi đứng chút ít, và xuất viện về
nằm điều dưỡng tại trụ sở Hưng Hoá. Tự nhiên tôi nhớ đến lời
Chúa Giêsu nói với Phêrô : “ Khi anh còn trẻ, anh tự mình
thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi về già, anh sẽ
phải dang tay ra cho người ta thắt lưng và dẫn anh đến nơi
anh chẳng muốn” ( Ga 21, 18).
Trước, trong, và sau thời gian điều trị
tại bệnh viện, cũng như tại trụ sở Hưng Hoá, có những người
gọi điện thại thăm hỏi, và vì bệnh thuộc loại có thể thăm
được, nên cũng có những người biết tin đến thăm, chia sẻ
cách chân tình, trong đó có Đức Hồng Y, quý Đức cha, quý
cha, bạn bè xa gần, và những người thân, quên v. v… Tôi cảm
thấy được an ủi nhiều, và “ giác ngộ” rằng “ làm lớn” mà sắp
xếp được giờ đi thăm bệnh nhâm là một việc nên làm. Sau một
tháng điều dưỡng và đi lại được, ngày 28/12/2006 tôi đã cố
gắng làm “ việc nên làm” này là đến bệnh viện Chợ Rẫy để
thăm một người bạn là cha Giuse trần Trung Nghĩa, và ban bí
tích Xức dầu theo yêu cầu của ngài. Hôm đó tôi cứ suy nghĩ
lien mien về cuộc đời của một linh mục “ đang muốn dệt đời
mình thì bị cắt đứt ngay hang chỉ” , nhưng rất cảm kích về
thái độ “ xin vâng” của ngài.
Trở lại cảm nghiệm của tôi ; ba tuần
đầu sau khi mổ , tôi phải “ ăn nằm” , nghĩa là phải nằm để
người ta đút cơm cho ăn như con nít; hay có lúc thấy vui
vui, nhưng thật là xấu hổ, và càng xấu hổ hơn khi nghĩ đến
lời Chúa dạy “ phải trở nên như trẻ nhỏ” trong cuộc sống và
sứ vụ nữa. Càng “làm lớn” càng thấy khó trở nên như trẻ
nhỏ, nhất là khi quên lời căn dặn của Thầy mình : “ Những
người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì
không được như vậy : Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải
làm người phục vụ anh em “ ( Mt 20, 25 -26). Tôi thầm cầu
xin Chúa giúp, vì thấy có dấu hiệu thiếu tinh thần “ trẻ
nhỏ”, thái độ dễ la rầy người khác ! Tuy nhiên tôi vẫn cảm
thấy bình an khi phó thác như trẻ nhỏ trong tay Chúa.
Nằm bệnh tuy không thể làm được những
việc như ý mình muốn, nhưng khi viết lại những suy tư tản
mạn này, tôi thấy dội lên tầm tình biết ơn mọi người, và tôi
thầm tạ ơn Thiên Chúa, vì đã cho tôi có thời gian nghỉ ngơi
và tạo điều kiện cho tôi suy nghĩ nhiều điều về cuộc sống mà
tôi đã chia sẻ một vài điều, gọi là “năm mới nói chuyện cũ
nhưng… còn mới?!”
GM. Antôn
Vũ Huy Chương
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH
MỤC, NGƯỜI LÃNH ĐẠO CỘNG ĐOÀN |
Trước khi họp
HĐGM Việt Nam, các Đức Cha nhận được rất nhiều thư,
email góp ý từ trong nước cũng như ngoài nước để góp
ý với HĐGM xử trí cách này cách khác. Trước khi có
cuộc tĩnh tâm này, tôi cũng nhận được một số thư và
một số email góp ý làm sao để nói với các Cha về vấn
đề này vấn đề khác, tôi coi đó là những dấu hiệu
tốt, giáo dân quan tâm đến hàng linh mục chúng ta.
Bởi vì, họ biết chúng ta là những nhà lãnh đạo,
giống như ở ngoài đời có những góp của người dân cho
các quan chức, các cán bộ. Đối với chúng ta, khi
giáo dân họ có những cái góp ý cho chúng ta thì đó
là điều rất tốt, bởi vì chứng tỏ họ yêu mến giáo hội
và muốn cho mỗi người chúng ta tốt hơn để có thể
phục vụ tốt hơn. Tôi cũng đã gom lại một số những
điều mà người ta phàn nàn về anh em linh mục chúng
ta. Có những cái thư rất hay như: có thư ca tụng Cha
sở của mình đã sống với mình mấy chục năm và đã có
công rất nhiều đã xây nhà thờ, làm việc này việc
khác có ngôi nhà thờ lớn, nhiệt tình trong việc
truyền giáo, bên cạnh những thư ca tụng thì không
thiếu những thư phàn nàn, trách móc. Tôi dựa vào
những thư đó đồng thời tôi dựa vào bài nói chuyện
của Cha Trần Đình Quản ở đà lạt, Ngài đã nói rất hay
về Đức Bác Ai Mục Tử của linh mục để trình
bày với các Cha như trong gia đình vậy, bởi vì những
điều người ta góp ý đó không phải chỉ dành riêng cho
linh mục mà còn dành cho cà Giám Mục chúng tôi,
chúng tôi cai quản giáo phận cũng như giáo xứ như
thế nào cho hợp ý Chúa. Vậy, anh em biết rằng: năm
nay 2007, qua bức thư phục vụ của hội đồng mục vụ
thì mỗi người chúng ta đều được mời gọi để bước vào
năm sống đạo, sống đạo tức là sống noi gương Chúa
Giêsu là người mục tử yêu thương phục vụ
mà các linh mục chúng ta là người đầu tiên phải thực
hiện mục tiêu này, bởi vì cũng là mục tiêu kêu gọi
để trở nên mục tử và đức tính căn bản của người mục
tử đó là: Bác Ai Mục Tử hay cũng gọi là Bác Ai Mục
Vụ. Ngay ngày đầu tiên chúng ta đã được nghe thế nào
là Bác Ai Mục Vụ. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
trong tông huấn số 23 nói rằng: “Nguyên lý nội
tại thôi thúc và hướng dẫn đời sống của linh mục ”.
Vậy, Đức Ai Mục Tử là nguyên lý nội tại thôi thúc
hướng dẫn đời sống của linh mục tạo nên uy tín nội
tại và động lực có thể thống nhất cái hoạt động
phong phú và đa dạng của linh mục tưởng nó là một
động lực chính yếu để thôi thúc cũng như hướng dẫn
tất cả các hành vi các hoạt động mục vụ của chúng
ta. Sách GLCG cũng nói rằng nó còn là phương thế
thiết yếu để đưa con người vào đời sống dân dụng. Do
vậy, linh mục cần phải quan tâm thực hành. Vì thế
chúng ta sẽ tìm hiểu về ba điểm.
Điểm thứ
nhất: Đâu là kiểu mẫu của Bác Ai Mục Vụ. Thứ
hai, chúng ta phải thể hiện Đức Bác Ai Mục Vụ như
thế nào. Thứ ba, phải dùng phương thế nào để vun
trồng Bác Ai Mục Vụ. Có ba vấn đề chính: Trước hết,
chúng ta xem đâu là kiểu mẫu của Bác Ai Mục Vụ?
Trong Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập thì chỉ có một
Mục Tử duy nhất đó là chính Chúa Kitô, chính Chúa
Kitô là Mục Tử thôi không ai có thể tiến đến giống
Ngài được. Tuy nhiên để chăn dắt và phát triển dân
Chúa luôn mãi, Chúa Kitô đã thiết lập các thừa tác
vụ khác nhau trong Hội Thánh hầu mưu ích cho toàn
dân (Công đồng Vatican II số 18), không những thiết
lập Ngài còn trao ban quyền hành và sứ mạng, phương
hướng và cứu cánh cho thừa tác vụ Giáo Hội, trong số
những người lãnh nhận tác vụ này có Giám mục và linh
mục được đặt làm mục tử : hành động nhân danh Đức
Kitô, đúng hơn là hành động với thần lực, và vai trò
của Đức Kitô, không những nhân danh mà còn trong con
người Đức Kitô. Chính nhờ Bí Tích truyền chức Thánh
mà các linh mục trở nên đồng hình đồng dạng với Đức
Kitô. Đồng hình, đồng dạng sẽ có hai phương diện,
một là phương diện hữu thể học sau khi mà linh mục
chịu chức Thánh sẽ làm cho linh mục trở nên hình
đổng dạng với Chúa Kitô. Điều này có ý nghĩa, khi
các linh mục đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô cả về
phương diện luân lý và tu đức, nghĩa là trong cách
sống và hoạt động của mình, Các ngài phải làm nổi
bật cái hình ảnh Đức Kitô những nét khuân mẫu là Đức
Kitô, cái tình yêu của Đức Kitô mục tử. Chính cái
tình yêu này, làm cho việc chăn dắt đoàn chiên của
Chúa trở thành dịch vụ tình yêu. Chính cái tình yêu
này, phải làm khuân mẫu và là động lực thúc đẩy các
linh mục thi hành Bác Aí Mục Vụ. Bây giờ chúng ta
hãy nhìn vào Chúa Kitô, vì Đức Kitô là khuân mẫu của
chúng ta và Ngài đã thể hiện cái tình yêu đó như thế
nào? Trước hết, Chúa tự xưng mình là mục tử tốt(
phúc âm Gioan (10, 11)), từ tốt này theo tiếng Hylạp
có nghĩa là đích thật chứ không phải là thật, đó là
nghĩa căn bản. Nếu hiểu theo nghĩa luân lý có nghĩa
là tốt lành, cũng là điều không sai nhưng có thể
hiểu được, vì tốt lành là đặc điểm của mục tử đích
thực ở nơi Chúa Giêsu mục tử. Khi tự xưng mình là
mục tử tốt, Chúa muốn cho thấy rằng: Ngài đảm nhận
hoàn toàn trách nhiệm về đoạn diện, đồng thời cũng
cho thấy sự bảo đảm và đoan hứa mãi mãi sẽ là mục
tử tốt ở giữa đoàn chiên.
Như các linh
mục chúng ta hôm nay: cũng theo gương Chúa, cũng
luôn luôn tỏ ra là mục tử tốt, đương nhiên chúng ta
không thể nói như Chúa Giêsu: Tôi là mục tử tốt. Bởi
vì chính sự tốt lành theo khuân mẫu Đức Giêsu, Đức
Chúa Giêsu là mục tiêu để chúng ta vương tới, bằng
cách không ngừng cải thiện đời sống và hoạt động
thừa tác vụ của mình, sao cho mỗi ngày một tốt hơn.
Chúng ta không tự xưng mình là tốt nhưng cũng cố
gắng hết sức để cho đời sống, để làm sao theo mẫu
gương của Chúa Kitô mỗi ngày một tốt hơn. Vậy, sự
tốt lành của Chúa Kitô nó có thể thể hiện qua bằng
cách này:
Đặc tính thứ
nhất là: Chúa có lòng thương xót, theo phúc âm
Matthêu(9, 36), Marcô(6, 34) có nói rằng:
“trông thấy đám đông xin theo mình, Chúa chạch lòng
thương xót họ vì họ lầm than vất vưởng như bầy chiên
không có người chăn dắt ”. Chúng ta hãy nhìn
vào những đặc tính này: “thương xót đoàn chiên
”. Linh mục chúng ta không phải là người
chăn thuê, cũng không phải là một thứ công chức,
sống theo một thứ chủ nghĩa công chức. Tuy vậy,
trong thực tế cũng có một số linh mục có cái não
trạng thu hẹp chức tư tế thừa tác, vào những khía
cạnh thuần tuý công vụ, tức là chỉ làm việc bắt buộc
mình phải làm như: làm lễ hay là đọc kinh, khi làm
xong thì bỏ hết. Cái đó là một thứ công chức. Cái
não trạng này có nguy cơ làm cho đời sống linh mục
chúng ta trở thành trống rỗng, thường được bù trừ
bằng những lối sống không phù hợp với cái thừa tác
vụ của mình. Chúng ta đã tự nguyện nhận lãnh sức
mệnh của Chúa, phải quan tâm đến những người được
trao phó cho mình, phải gắn bó với đoàn chiên của
mình, phải vun đúc cho mình một sự mẫn cảm đối với
mọi người, nhất là những người đáng thương, những
người đói khát chân lý, cần được thông truyền chân
lý. Vì chúng ta được sai đến chủ yếu là cung ứng cho
họ chân lý của Thiên Chúa. Cái điều này, anh em nên
lưu tấm. Chúng ta không phải là người chăn thuê, mà
là chủ chăn tức là mục tử, mục tử phải gắn bó với
đoàn chiên. Chúng ta hãy suy nghĩ chỗ này sâu hơn,
chúng ta hãy có sự gắn bó tha thiết với đoàn chiên
của mình.
Trong bài viết
của Đức Cha Bùi Tuần nói : “mỗi người chúng ta
cần luôn tỉnh thức tìm Thánh ý Chúa, ta phải làm
những gì Chúa sai ta làm, ta phải đến đúng địa chỉ
Chúa sai ta đến phục vụ, làm đúng việc, dấn thân
đúng lúc”, đó là điều Chúa chờ đợi nơi ta, như những
các công tác viên trung tín và khôn ngoan ”.
Điểm nhấn mạnh là:“ Thánh ý Chúa chúng ta phải làm
”, là người mục tử phải thi hành Thánh ý Chúa. Thánh
ý Chúa đối với mỗi người Chúng ta, đó là phải đến
với điạ chỉ mà Chúa sai ta đến, làm những việc mà
Chúa muốn chúng ta làm như vậy chúng ta là linh mục
chánh xứ hay là phó xứ thì hãy luôn nhớ rằng: Chúng
ta đã được sai đi đến với một địa chỉ rõ ràng, với
những công việc rõ ràng, cho nên phải gắn bó với
cộng đoàn được giao phó mình để chăm sóc và dốc hết
sức lực cho những công việc chăm sóc ấy, đó chính là
Thánh ý Thiên Chúa. Thế nhưng trong thực tế có nhiều
người than phiền: có nhiều anh em linh mục có vẻ:
không gắn bó tha thiết với đoàn chiên của mình.
Chúng ta thường nghe có vị linh mục hai chấm bảy,
tức là sáng thứ hai đi sớm còn thứ bảy về làm lễ
ngày Chúa nhật, làm lễ ngày Chúa nhật xong thì thứ
hai lại ra khỏi xứ. Bây giờ, cũng có vị ba chấm bảy
hoặc năm chấm bảy thôi, có vị buổi sáng dâng lễ tại
nhà thờ giáo xứ rồi biến mất, đi chơi đến tối mới
về. Như vậy, Ngài chỉ lo chu toàn làm lễ mà thôi,
còn những việc khác như: tiếp giáo dân, dạy giáo lý,
chầu mình Thánh Chúa... thì không quan tâm, có vị
thường xuyên đi đến một vài gia đình quen thuộc để
nói chuyện, tán ngẫu cả buổi sáng đến trưa về ăn
cơm, rồi chiều lại tiếp tục cuộc vi hành. Có vị tuy
cả ngày ở nhà, nhưng luôn đóng kín cửa để nghe và
nói điện thoại, làm việc với máy vi tính và truy cập
Internet. Những vị này, coi như là đi vắng. Bởi vì,
giáo dân khó gặp được các Ngài. Qua việc này, chúng
ta cũng nên nhắc lại tật cư trú của linh mục, cư trú
ở đây hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa vật chất, có nghĩa
là mình phải gắn bó với cái nơi được sai đến. Một
linh mục khi nhận nhiệm vụ chính xứ, thì phải thi
hành cái bổn phận cư trú theo giáo luận năm 533.
Giáo luật đó như sau: Linh mục chính xứ có bổn phận
để cư trú tại nhà xứ, gần nhà thờ. Tuy nhiên, trong
những trường hợp đặc biệt, nếu có lý do chính đáng
thì Thượng Quyền Sở Tại có thể ban phép cho Ngài nơi
khác, miễn là làm sao để chu toàn các bổn phận giáo
xứ một cách thích đáng và thuận lợi. Thứ hai: trừ
khi có lý do quan trọng, linh mục chánh xứ được phép
vắng mặt Giáo xứ tối đa là một tháng liên tục. Những
ngày linh mục chánh xứ tĩnh tâm một lần hàng năm(
không kể thời gian đi nghỉ ngày). Thế nhưng, hễ vắng
mặt khỏi giáo xứ hơn một tuần lễ, linh mục chánh xứ
phải báo cáo với vị Thượng Quyền Sở Tại. Điều này,
tôi thấy các Cha già giữ một cách rất là chu đáo,
các Ngài đi đâu xa một tuần, các Ngài luôn luôn điện
thoại hoặc bằng cách nào đó để xin Cha Kim. Nhưng
các Cha trẻ mới ra trường thì lại hay quên về điểm
này hay chưa biết cái đó để giải quyết, bỏ đi mà
không có phép tắc gì hết. Bởi vì, bổn phận linh mục
chánh xứ phải hoà nhập với con người vào một cộng
đoàn, nới Ngài được sai đến. Ngài phải hiện diện để
có thể bảo đảm cho những công việc của giáo xứ. Có
một thư như sau: nhiều linh mục ngày nay dành nhiều
thời giờ cho mình, mà dành ít thời giờ cho giáo dân,
có linh mục làm lễ sáng sau rồi rúc lên lầu suốt
ngày sống với máy vi tính và các thứ khác, lúc cân
không thấy có mặt ở nhà, mọi việc trao cho văn phòng
giáo xứ, khiến cho giáo dân nhiều người cần gặp mà
không được gặp.
Đặc tính thứ
hai: Chúa Giêsu mục tử là người biết chiên và chiên
biết Ngài. Điều này, chắc hẳn chúng ta đã biết, biết
ở đây không phải chỉ là một thái độ thuần tuý nhất
và phải biết hồi hộp như biết một cái gì đó, như:
Cha dạy tôi, đây là một cái biết về chiều sâu, diễn
tả một cộng đoàn sinh mệnh vượt trên cả tri thức lẫn
tình yêu. Chúa Giêsu biết rõ và Ngài thương con
chiên như Ngài biết rõ và yêu mến chúng ta. Sự hiểu
biết của Ngài về con chiên, bắt nguồn từ tình yêu
của Ngài với Chúa Cha. Nhưng, Ngài chỉ có thể là
mục tử tốt như chính con chiên cũng biết để yêu mến
Chúa Cha. Vị mục tử hôm nay, tức là các linh mục
chúng ta dễ có khuynh hướng, biết rất nhiều thứ đoạn
này đoạn nọ, nhiều thứ diễn ra trước mắt, qua cuộc
sống cụ thể và những phương tiện thông tin hiện đại.
Thế nhưng, nếu muốn là mục tử tốt, thì phải ưu tiên
biết và yêu thương đoàn chiên được trao cho phó cho
mình, không những như thế còn phải giúp họ biết và
mến yêu Chúa Giêsu mục tử, nhờ Ngài mà họ biết và
yêu mến Thiên Chúa, tức là tất cả giáo dân của mình
phải là đối tượng để cho mình biết và yêu mến, chứ
không phải chỉ là một số gia đình hoặc là một số
những người giàu có, có quyền chứa, có tiền bạc ….
Đặc tính thứ ba
của người mục tử là Hy Sinh Mình Cho Đoàn
Chiên (đây là nét đặc chưng nhất nơi một mục
tử chân chính). Như Chúa Giêsu nói: Ta đến để cho
chúng được sống và sống dồi dào, vì Chúa Giêsu là
mẫu mục tử như vậy. Qua việc hiến mạng sống mình,
Ngài bộc lộ tấm lòng chân thành và vô vị lợi tuyệt
đối khi nhận chăm sóc đoàn chiên, những gì liên hệ
với đoàn chiên thì cũng liên hệ với Ngài, mọi nguy
hiểm đe doạ đoàn chiên đều làm cho Ngài lo lắng.
Nhưng Chúa Giêsu mục tử không chỉ hy sinh để cung
ứng những nhu cầu bên ngoài cho đoàn chiên, cái sự
hy sinh cao quý nhất, độc đáo nhất nói lên tình yêu
cao cả nhất chính là Ngài đã hy sinh mạng sống, đã
tự nguyện chấp nhận hy tế thập giá, cái hình ảnh mục
tử hoà lẫn với hình ảnh con chiên, hình ảnh người
tôi tớ đau khổ mang lấy mọi tội lỗi của đoàn chiên,
hy sinh thân mình để lôi kéo ơn tha thứ của Thiên
Chúa, Chúa Giêsu vừa là mục tử tốt trong cái chết,
Ngài còn là mục tử tốt trong sự sống lại. Nhờ sự
sống lại này, Ngài đã hoàn tất công cuộc cứu độ đưa
đoàn chiên trở về với Chúa Cha, làm cho họ sống vào
sự sống vĩnh cưu của Ngài.
Chắc chắn rằng,
người mục tử chúng ta hôm nay cũng phải noi gương
Chúa Giêsu, biết hy sinh cuộc sống của mình vì đoàn
chiên. Hy sinh, chấp nhận cái chết vì đoàn chiên thì
ít, nhưng hy sinh những cái gì thuộc về đời sống của
mình như là tiền bạc, thời giờ, tiện nghi, sở thích
thì là việc chúng ta có thể làm và phải làm. Những
hy sinh như vậy, cũng là một cách chết, chết dần
chết mòn: “Yêu là chết ở trong lòng một ít”,
thế nhưng cái chết đó là để sống, đặc biệt ở đây là
làm cho đoàn chiên của mình được sống. Nói tới đây,
tôi nghĩ đến một vị mục tử của chúng ta ở đây, có
một mẫu gương về hy sinh cho đoàn chiên. Khi Ngài
làm Cha xứ thì thấy đoàn chiên của mình, phải bỏ quê
hương để đi nơi khác lập nghiệp, học hành hoặc là
làm những cái công việc gì đó rời bỏ quê hương xứ
sở. Ngài ưu tư lo lắng cho những người đó, cố gắng
hết sức làm đủ mọi cách để cho những anh chi em đó
không còn cô độc trên bước đường mưu sinh, mà giúp
đỡ nhau học hành cũng như làm việc. Đây là một mẫu
gương mà tôi thấy rất tốt. Ước gì mọi người trong
chúng ta cố gắng hy sinh bản thân mình để giúp đỡ
cho những anh chi em đó. Bây giờ, Ngài đang tiếp tục
bỏ tiền ra để mua một cơ sở, làm thành một cái nhà
để có thể nâng đỡ những em học sinh xa nhà có chỗ ăn
học. Đây là một hình ảnh của người mục tử biết hy
sinh cho con chiên của mình.
Đặc tính thứ
tư, người mục tử tốt thì đi tìm chiên lạc, họ quy tụ
chiên thành một bầy chiên. Chiên lạc là hình ảnh của
người tội lỗi, Chúa Giêsu sẵn sàng bỏ chín mươi chín
con chiên còn lại để đi tìm con chiên xa bầy. Vì
Ngài đến để kêu gọi và tìm kiếm những kẻ có tội. Đối
tượng thứ nhất là chiên lạc, nhưng chiên lạc cũng có
thể hiểu như những người khác chưa thuộc về đàn
chiên của mình, Ngài cũng có sứ mệnh quy tụ những
con chiên đó, đưa về làm thành một đoàn chiên duy
nhất dưới sự chăn dắt của chủ chiên. Người mục tử
hôm nay, cũng có trọng trọng trách đối với hai đoàn
chiên này. Một đàng chúng ta phải quan tâm hết sức
đến những người tội lỗi và những người khô khan
nguội lạnh trong cộng đồng của mình, tìm cách đưa họ
về đường ngay nẻo chính, không quan tâm đến cái ý
nghĩa này: thôi sống chết mặc bay, kệ bay, mày không
cần tao, tao cũng không cần mày. Đằng khác nữa không
chỉ hài lòng với đoàn chiên được trao phó mà còn
phải hướng tới những người ở ngoài đoàn chiên chưa
được biết Chúa. Hướng truyền giáo luôn phải được
khơi dậy nơi bất cứ mục tử nào.
Tóm lại, mục tử
tốt đều phải Sống Bác Ai Mục Vụ trên,
theo gương Chúa Giêsu mục tử trong việc tự hiến mình
phục vụ mọi người. Tôi đề nghị việc này, xin anh em
cũng lưu tâm: nh?ng vũng cái sắn hầu hết là toàn đạo
công giáo, được tổ chức rất là tốt, giáo dân đi nhà
thờ, đi lễ thì cũng tương đối là tốt, nhung nhiều
khi chúng ta còn quên đi nh?ng ngu?i ? cuối knh, d?u
knh, chng ta c?n nên quan tm d?n h? n?a, cần tìm mọi
cách để đưa họ về với đoàn chiên.
Ðiểm thứ hai
: Làm thế nào để thể hiện Bác Ái Mục Vuï. Linh
mục là Thầy dạy lời Chúa, là thừa tác viên các bí
tích và là người lãnh đạo cộng đồng. Đó là những
hoạt động chuyên biệt của một vị mục tử, Ngài phải
thể hiện Đức Bác Ái Mục Vụ trong các hoạt động
chuyên biệt này. Chuyên biệt có ba tác vụ: tiên tri,
thánh hoá và lãnh đạo cộng đoàn - đó là việc chuyên
biệt của người mục tử, mà chúng ta phải thi hành.
Thứ nhất: Linh mục là Thầy dạy lời Chúa, lời Chúa là
lời thần linh, và là lời mặc khải, là lời đem lại sự
sống đời đời cho những ai tin, lắng nghe và thực
hành, lời đó được truyền đạt trong và qua Giáo Hội,
là một phương diện mà nhớ đó Chúa Kitô hiện diện và
hành động, lời Chúa khi được lắng nghe và đón nhận,
giúp con người gặp gỡ một Thiên Chúa, đòi họ quyết
định thay đổi đời sống. Bời vậy, Lời Chúa phải được
loan báo và giảng dạy, theo công đồng Vatican II,
nhiệm vụ hàng đầu của linh mục là Giảng Dạy. Cho
nên, dùng lời Chúa để dạy dỗ các tín hữu là một
trong số những việc làm thể hiện Đức Bác Ai Mục Vụ.
Công viêc truyền đạt lời Chúa là: dạy giáo lý và
giảng giải lời Chúa và ban các bí tích, nhất là
trong Thánh lễ, nhưng thực tế việc dạy giáo lý, các
Cha thường trao cho Giáo Lý Viên, chỉ còn công việc
thứ hai dành cho mục tử, công việc chỉ có chức Thánh
mới có quyền làm đó là: Giảng. Về vấn đề Giảng thì
có nhiều phản ánh, có những việc không phù hợp với
Đức Bác Ai Mục Vụ như: Có linh mục chửi mắng giáo
dân trên toà giảng, thay vì giúp họ hiểu biết hơn về
tình thương của Thiên Chúa, giúp họ được an ủi, được
khích lệ, được can đảm để đi theo Chúa, thì là những
lời con người trách móc con người( trực tiếp hoặc
gián tiếp), những lời thay vì đem sự sống thì lại
đem sự chết, không chết về thể xác mà lại chết về
tinh thần, nếu như đó là những lời thậm tệ. Ở đời,
người ta thường nói: “Trời đánh còn tránh bữa ăn”.
Thế nhưng, Linh Mục thì không tránh. Lương thực lời
Lời Chúa đã bị các Linh Mục thao túng một cách tệ
hại, làm sao giáo dân nuốt chúng vô cho được. Có
điều, thật sự cũng làm nhiều người khó hiểu như: có
những vị Linh Mục còn rất trẻ, mới ra trường vài ba
năm cũng đã mắc phải những tật này rồi. Các Cha già
ngày xưa đương nhiên cũng có thể có, nhưng mà nhiều
khi các Cha còn rất trẻ mới ra trường mà đã mắc phải
các tật này, tức là những Vị mà khi có uất ức trong
lòng là cứ mang lên tòa giảng nói bậy nói bạ, không
đụng chạm đến người này thì cũng đụng chạm đến người
kia, điều này là điều không phải. Tôi tha thiết xin
các vị ấy hãy xét mình vì điều này, phải sửa đổi
lại. Hoặc có những vị được bề trên hoặc người này
người khác góp ý, thì lại đem những lời đó lên tòa
giảng để xem đứa nào lên TGM nói kiểu nói như vậy,
hay tố cáo như vậy. Cái đó càng không đúng nữa.
Người ta góp ý là vì thành thực, vì sự chân thành
của họ. Nếu mình có thì sửa, không có thì thôi, chớ
đem lên tòa giảng như thể là rao cho người khác
biết, vậy thì không được tốt.
Có những bài
giảng không đụng chạm đến ai, thậm chí còn làm cho
một số người cảm thấy thích thú. Thế nhưng lại không
chứng tỏ bác ái mục vụ trung thực. Đó là những bài
giảng mà nội dung chỉ là những chuyện tếu lâm, vui
cười, đùa giỡn hay những sự khôn ngoan thần khí của
con người hay của mình, chứ không phải khôn ngoan
của Thiên Chúa. Thánh Agustinô nói rằng: “kiến
thức của chúng ta là Đức Kitô, sự khôn ngoan của
chúng ta là Đức Kitô” . Thánh Phaolô cũng
đã khẳng định trong thư gửi cho Côrintô :
“Chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi
trí khôn loài người, nhưng dùng những lời lẽ học
được nơi Thần khí. Chúng tôi dùng những lời lẽ Thần
khí linh hướng để diễn tả thực tại thuộc về Thần khí
”. Cho nên, chúng ta cố gắng hết sức trong
những bài giảng của mình, phải là lời Chúa, khôn
ngoan của Thần khí chứ không phải của con người. Dĩ
nhiên, nếu có thêm một vài câu chuyện minh họa để
cho bài giảng đậm đà thì cũng tốt, có thể chấp nhận
được. Thế nhưng, đừng làm người ta chỉ nhớ đến những
câu chuyện mà không nhớ đến lời Chúa. Điều này cũng
thường xảy ra, nhiều khi kể hai ba câu chuyện, người
ta sau này chỉ nhắc đến chuyện mà không nhắc đến lời
Chúa. Điều này thì không nên. Liên hệ hoàn cảnh cụ
thể và vấn nạn thực tế của người nghe là điều nên
làm và phải làm, tức là liên hệ với những chuyện nơi
này nơi kia xảy ra, thì rất hay. Thế những, phải
biết dùng Lời Chúa để cảm kích và soi sáng những
điều đó. Dân Chúa đói khát Lời Chúa, họ không phải
tìm đến tòa giảng để nghe những chuyện đâu đâu hoặc
những việc ai cũng biết chi tiết qua các phương tiện
thông tin hiện đại của ngày hôm nay, như Internet,
người ta có thể truy cập nhiều thứ Website của nơi
này nơi kia, rất nhiều bài giảng mà người ta có thể
đọc. Nhưng khi đến Nhà Thờ, người ta muốn nghe chính
Mục Tử nói lời Chúa, giảng lời Chúa. Bác Ai Mục Vụ
đòi Linh Mục chúng ta cung cấp cho họ một của ăn
đích thực có chất lượng, bồi bổ tâm linh để đời sống
đạo của họ không bị suy dinh dưỡng. Của ăn này chính
là Lời Chúa. Muốn vậy, chúng ta phải không ngừng học
hỏi và nghiền ngẫm lời Chúa “không biết Kinh
Thánh là không biết Đức Kitô”. Lười biếng trí
thức, trong đó có lười biếng học hỏi Kinh Thánh là
nguy cơ đáng báo động nơi không ít các Linh Mục. Có
thể coi lười biếng thực sự, cũng có thể là do tự
phụ. Cho rằng mình đã biết đủ rồi, không chịu học
hỏi thêm. Dĩ nhiên, biết ở đây không chỉ thuần túy
về tri thức nhưng còn biết bằng cả tấm lòng, yêu mến
lời Chúa để lời Chúa thấm nhập và biến cải tâm hồn
chúng ta qua những suy niệm cầu nguyện và thực hành.
Phải suy niệm trước rồi mới nói những đìều muốn
nói. Có những vị, tối thứ ngày thứ 7 truy cập
Internet để lấy bài giảng ở cái này một chút, lấy
cái kia một chút làm thành bài giảng của mình, không
chịu đầu tư, cầu nguyện riêng tư thì cũng không có
hiệu quả. Khi đó, chúng ta sẽ trở thành những kẻ
huyênh hoang rao giảng lời Chúa bằng môi miệng bởi
đã không nghe lời Chúa ở trong lòng. Còn một điều
khác, ngoài các điều chung đó, anh em Linh Mục cũng
nên để ý tới những phương diện khác như: cái bề
ngoài. Tức là để giúp cho việc giảng được có hiệu
quả thì phải biết trao dồi hình thức giảng. Làm sao
cho sứ điệp được trình bày một cách mạch lạc, hấp
dẫn và bằng ngôn ngữ dễ hiểu nhưng không tầm thường,
phù hợp với trình độ và não trạng người nghe. Điều
này rất quan trọng. Chúng ta nói chuyện với nhà quê,
thì nói bằng ngôn ngữ nào đó để người ta có thể chấp
nhận được. Nói với những người trí thức, thì phải
nói cách nào đó có phần trí thức để người ta chấp
nhận. Ngôn ngữ cũng là điều quan trọng. Cách thức
trình bày phải mạch lạc hấp dẫn, dễ chấp nhận. Có
nhiều Linh Mục có bài giảng nội dung rất hay, nhưng
khi trình bày hấp tấp, không mạch lạc, không có cấu
trúc rõ ràng, nên khó chấp nhận. Vì vậy, anh em Linh
Mục cần chú tâm những điều này: không những nội dung
mà còn giọng nói, cách nói, cách diễn đạt như thế
nào để người ta có thể dễ chấp nhận. Không phải ai
cũng có thể trở thành nhà hùng biện, nhưng nếu yêu
mến lời Chúa, yêu thương và tôn trọng người nghe,
chuyên cần học hỏi cả về những điều phải giảng lẫn
cách thức giảng, với thái độ chân thành và khiêm tốn
thì Lời Chúa mà chúng ta truyền đạt vẫn có thể biến
đổi tâm hồn họ. Có Linh Mục không chú trọng đến hình
thức giảng, cứ cầm bài viết sẵn rồi đem ra đọc với
sự truyền đạt buồn tẻ. Ngược lại, có Linh Mục quá
“nổ”, làm như mình là nhà hùng biện, múa chân múa
tay như nghệ sĩ ở trên sân khấu. Điều đó cũng là
hình thức không được tốt.
Tóm lại, Đức
Bác Ai Mục Vụ đòi người mục tử phải rao truyền chân
thực và trọn vẹn Lời Chúa, cố làm sao cho Lời Chúa
đạt được hiệu quả tối đa nơi người nghe.
Điều kế tiếp
của người mục tử: Thầy dạy Lời Chúa, Thừa tác viên
bí tích:
Linh mục là
người quản lí các mầu nhiệm của Thiên Chúa là
những kho tàng ân sủng nuôi sống đời sống đức tin
của Người Tín Hữu (đó chính là các Bí tích). Anh em
nên lưu ý: Linh mục chỉ là người quản lí các mầu
nhiệm của Chúa, chứ không phải là chủ nhân. Các bí
tích có vai trò quan trọng trong đời sống của Người
Kitô hữu, các Bí tích khai tâm đặc nền tảng cho toàn
thể đời sống của họ, giúp họ nhận thức sâu xa hơn về
đời sống thần linh và ngày càng tiến đến hoàn hảo,
đồng thời đặt nền tảng các ơn gọi chung của người
môn đệ Chúa Kitô. Các Bí tích thống hối, xức dầu
bệnh nhân, giúp họ được chữa lành, đặc biệt được tha
thứ tội lỗi. Các Bí tích truyền chức Thánh và Hôn
nhân, nhằm xây dựng cộng đồng và giúp phần cứu rỗi
bản thân. Được tham dự vào chức vụ Tư Tế của Chúa
Kitô, và thừa tác viên của Ngài, nên Linh Mục chúng
ta thi hành chức tư tế này, đặc biệt trong việc cử
hành các nghi thức phụng vụ các Bí tích. Trong tất
cả các Bí tích này, có các Bí tích sau đây được chú
ý nhiều hơn: Bí Tích Thánh Thể và Bí tích Thống hối.
Cho nên, Bác ái mục vụ của chúng ta cần phải ưu tiên
cho các Bí tích này. Dĩ nhiên, các Bí khác cũng quan
trọng nhưng nó không thường xuyên bằng hai bí tích
trên. Đối với các Bí tích nói chung, bổn phận của
Linh Mục là giúp cho giáo dân hiểu biết ý nghĩa của
Bí tích, cũng như làm cho họ khi tham dự, biết yêu
mến đón nhận và sống ơn Bí tích nhờ chức Tư tế cộng
đồng của họ. Chính vì thế mà họ tránh được những ý
tưởng sai lầm là: coi Bí tích là những ma thuật, nó
có hiệu lực không liên quan gì đến đời sống Kitô
giáo. Vì thế, nhiệm vụ của Linh Mục trước khi ban Bí
tích, phải làm sao cho giáo dân họ hiểu được ý
nghĩa, để người ta tránh đi được những sai lầm, coi
Bí tích là những ma thuật. Riêng về Bí tích Thánh
Thể, chúng ta đều biết bí tích Thánh thể có vai trò
trung tâm là nguồn mạch và là tột đỉnh của toàn thể
đời sống người Kitô hữu. Chính nhờ tác động của các
Bí tích này mà cộng đồng được sống và trưởng thàn,
như để cho thấy giá trị và hiệu quả của Thánh Lễ
trong đời sống, ngoài việc chuẩn bị cho giáo dân như
đã nói ở trên. Bác Ai Mục Vụ còn đòi hỏi chính Thừa
Tác Viên phải góp phần vào việc cử hành qua việc tổ
chức, thái độ, hành động của mình trong Thánh Lễ.
Đây là đường hướng chỉ dẫn tổng quát của Thánh Lễ
Rôma: “Phải hết sức lo cho việc cử hành Thánh
Lễ được tổ chức thế nào để các Thừa Tác Viên và các
Tín hữu khi tham dự, tùy theo địa vị của mình, được
lãnh nhận các hiệu quả dồi dào hơn và điều này có
thể đạt được nếu ta để ý đến bản chất và hoàn cảnh
của cộng đoàn, mà thiết lập toàn bộ việc cử hành thế
nào, để giúp các Tín hữu tham dự với cả xác hồn, một
cách ý thức, tích cực, đầy đủ và với lòng tin cậy
mến nồng nàn. Đó là việc tham dự mà Hội Thánh mong
muốn và bản chất việc cử hành đòi hỏi lại cũng là
quyền lợi và nghĩa vụ của giáo dân, phát xuất từ Bí
Tích Thánh Tẩy”. Cho nên, chúng ta thấy việc
đòi hỏi có Thánh Lễ là: không phải chúng ta muốn rao
lúc nào thì rao, mà phải là quyền lợi của giáo dân
đòi hỏi. Có nhiểu vị Linh Mục chỉ làm lễ sáng Chủ
Nhật. Đó là điều không đúng, giáo dân có quyền đòi
hỏi nghĩa vụ của linh mục. Nên chúng ta phải cố gắng
hết sức để có thánh lễ cả sáng và cả chiều nữa.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần để ý đến Bác ái và Công
bằng. Làm bác ái phải theo nghĩa công bằng, tức là
mình phải ban các Bí tích cho họ. Trong thánh lễ,
xin gợi ra những bác ái và công bằng như sau:
Thứ nhất là giữ
đúng giờ lễ. Nhiều người phàn nàn không chỉ vì lễ
lâu, vi giảng dài mà còn nhiều thứ khác như: giảng
dài trước lễ, trong lễ, sau lễ, làm lễ trễ giờ qui
định. Trong cuộc sống hôm nay, thời giờ lẫn công
việc thì rất xuýt xao. Ngày Chủ Nhật không đi làm
việc hay đi học thì cũng có những công việc khác để
làm. Làm lễ trễ giờ có thể gây khó khăn cho công
việc của họ, nhất là công việc làm ăn. Vả lại, dù
không thực sự bận việc, tâm lý của người đi lễ sẽ
khó chịu khi phải chờ đợi lâu, làm cho tâm hồn không
được thanh thản.
Thứ hai là phải
giữ đúng qui luật phụng vụ. Một Giáo sĩ có nói rằng:
“Trong số những khía cạnh khác nhau của kỷ
luật Giáo Hội, sự tuân phục đối với những luật lệ và
qui định phụng vụ của Giáo Hội nghĩa là trung thành
với các qui tắc, tổ chức việc phụng thờ Thiên Chúa
theo ý Linh Mục thượng phẩm đời đời và nhiệm thể của
Người. Việc ấn định các qui tắc phụng vụ thuộc phẩm
quyền của Giáo Hội, tức là Tòa Thánh mà thôi và
trong những điều Giáo Hội qui định thuộc phẩm quyền
của Giám Mục không ai khác ngay cả Giám Mục, hay là
Linh Mục không được thêm bớt thay đổi bất cứ điều gì
trong phụng vụ theo ý mình ”. Nhiều khi các
Cha không để ý lắm, cứ thấy nơi này nơi kia họ làm
thì về bắt chước thì điều đó là sai lầm không đúng.
Linh Mục chỉ là Thừa Tác Viên cử hành phụng vụ nhân
danh Chúa Kitô và Giáo hội, phải thi hành những gì
Chúa và Giáo hội dạy. Giáo dân có quyền được tham dự
phụng vụ theo nghi thức của Giáo Hội. Linh mục có
bổn phận cho họ được hưởng quyền đó chứ không phải
những gì theo những ý muốn riêng, sáng kiến riêng
của mình. Cho nên, chúng ta cũng phải để ý đến
chuyện này, đừng làm những gì theo sáng kiến riêng
của mình, đừng gây thắc mắc chia rẻ nơi họ, có liên
quan đến cử hành phụng vụ.
Thứ ba là thái
độ và cử chỉ của người của ngưởi chủ tế. Muốn cho
giáo dân tham lễ một cách sốt sắng, chính chủ tế
phải cử hành sao cho Thánh lễ sốt sắng qua thái độ,
cử chỉ, lời mình đọc. Sự cẩu thả, vội vã, hời hợt,
vô trật tự sẽ làm mất hết ý nghĩa, đồng thời làm suy
giảm chức năng của phụng vụ là làm tăng trưởng đức
tin. Cử hành Thánh lễ cẩu thả, chứng tỏ đức tin yếu
kém và không thể dạy người khác đạt được đức tin.
Ngược lại, cử hành tốt là một huấn giáo đức tin.
Các Cha khi cử hành Thánh lễ phải hết sức trang
nghiêm, những lời mình nói, những cử chỉ mình làm,
không làm theo ngẫu hứng. Điều đó là điều không được
tốt.
GM. Giuse
Trần Xuân Tiếu
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGƯ ÔNG TRƯỚC BIỂN CẢ
|
Phúc Âm Nhật Ký (Lc
5:1-11)
Cách đây hơn hai chục năm, chúng tôi bị
giam trong một phòng kín tại Sóc Trăng, Việt Nam. Phòng
rộng chừng 16 thước vuông, nhốt tất cả 58 người. Tất cả các
việc ăn uống, ngủ nghỉ, vệ sinh, đều phải giải quyết trong
phạm vi nhỏ hẹp đó. Mỗi ngày chúng tôi chỉ được phép ra
ngoài chừng năm phút tắm giặt tại một ao nước đục ngàu.
Phòng có một cửa cái trông sang bức tường phía sau của một
trại tù bên kia con đường nhỏ. Suốt ngày chúng tôi chỉ nhìn
thấy một bức tường trắng xóa. Nếu không nhờ hai cửa sổ, mỗi
cửa to bằng hòn gạch thẻ, chúng tôi hoàn toàn không thấy
được ánh sáng mặt trời. Nhưng phải thay nhau xếp hàng mới
được diễm phúc đó, nhất là khi ngắm các bạn tù nữ từ phòng
bên cạnh ra ngoài trời ...
Nhờ có mảnh trời ló qua cửa sổ tí hon
đó, chúng tôi còn may mắn hơn nhiều người trong thế giới hôm
nay đang tự nhốt kín mình trong thế giới vật chất với những
bức tường dầy đặc kinh nghiệm giác quan và niềm tin duy
vật. “Khi con người chỉ nghĩ tới vật chất và những vật khả
nghiệm, họ tự đóng kín trước những vấn đề về sự sống, về
chính mình và Thiên Chúa, tự làm cho mình ra nghèo nàn.
Phải nhận rằng khi chỉ coi những gì trong vòng kinh nghiệm
là thực, người ta có khuynh hướng tạo một giới hạn cho lý
trí và từ đó phát sinh một thứ bệnh phân liệt khủng khiếp,
cho thuyết duy lý và duy vật, siêu kỹ thuật và các bản năng
buông thả cùng tồn tại với nhau. ”[i]
Sống giữa bưng bít và hỗn độn đó, làm sao con người có đủ
khả năng nhìn thấy tương quan sâu xa và phong phú nơi vạn
vật ?
Ngày xưa, các môn đệ Ðức Giêsu cũng đã
sống trong một thế giới đóng kín với những kinh nghiệm và
bận rộn với cuộc sống hằng ngày. Bỗng dưng bao kinh nghiệm
trên biển cả bỗng trở thành vô ích. Ông Simon đã phải cay
đắng thú nhận với Chúa : “Chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà
không bắt được gì cả.” (Lc 5:5) Câu trả lời đó hoàn toàn
dựa trên kinh nghiệm nghề nghiệp, lý luận và thực tại vật
chất. Nếu không may mắn gặp Thày Chí Thánh, chắc chắn các
ông không bao giờ có thể ra khỏi khung trời nhỏ hẹp của
mình. Từ bao năm nay, các ông vẫn tin tưởng tuyệt đối vào
những đồ nghề và tài năng đánh cá của mình. Nhưng không ngờ
những tin tưởng đó đã bị phá vỡ. Không ngờ có thể có một
cái nhìn khác đang chọc thủng niềm tin của mình. Cả khối
nước biển dầy đặc cũng không che khuất nổi những bầy cá
trước cái nhìn đó.
Cái nhìn đó đã bộc lộ tất cả sức mạnh
qua lệnh truyền cho ông Simôn : “Chèo ra chỗ sâu mà thả lưới
bắt cá.” (Lc 5:4) Ðó là mệnh lệnh không phát xuất từ kinh
nghiệm thực tế hay lý trí, nhưng là từ một quyền năng siêu
nhiên tuyệt đối. Ðiều duy nhất đòi hỏi ông là đức tin.
Thật là một thử thách ghê gớm đối với ông. Ông không thể
tin vào tai mình nữa. Thày có nói đùa không ? Trong
tiếng thở dài, lòng ông như hoang mang, khi phải thưa “vâng
lời Thày.” (Lc 5:5) Câu trả lời phát xuất từ đức tin, tuy
chưa trọn vẹn, nhưng cũng đủ cho Chúa làm một phép lạ. Có
thế mới hiểu tại sao ông cảm thấy tôi lỗi (x. Lc 5:8) sau
khi chứng kiến quyền năng lạ lùng nơi Lời của Chúa Giêsu.
Một Lời đã làm thay đổi con người. Một
Lời mời gọi ra khơi. Một Lời thúc đẩy hành động : hãy thả
lưới bắt cá ! Một Lời đầy hiệu lực làm mọi người kinh ngạc
trước mẻ cá lạ lùng : ông này là ai mà có quyền phép khiến
bắt được mẻ cá lớn như vậy !
Quả thực, từ lúc thưa “vâng lời Thày,”
ông Simon đã thấy tất cả mọi sự đều biến chuyển. Mặc dù
đang chán nản và thất vọng, ông như bắt được làn sóng tình
yêu Thiên Chúa. Có lẽ ông thầm nghĩ, cứ theo Thày thả lưới
một lần, có mất mát gì đâu. Trong thái độ mạo hiểm đó, ông
đã tỏ ra tin tưởng và phó thác vào quyền năng Chúa. Niềm
tin đó không ngăn cản hay thu hẹp tầm nhìn của ông. Trái
lại, niềm tin mở rộng tâm hồn và làm cho con người thấy rõ
chân trời huyền nhiệm. Nói khác, “lý trí con người không
mất mát gì khi cởi mở đón nhận các nội dung đức tin. Hơn
nữa, đức tin còn mời gọi lý trí tham gia một cách tự do và ý
thức.”[ii]
“Hãy ra khơi ! Hãy thả lưới ! Tôi sẽ
làm cho các anh thành những người lưới người như lưới cá !”
Một ai đó đưa đề nghị, mở ra những cái nhìn mới, biến đổi
cuộc sống hằng ngày với một ý nghĩa mới, một sức năng động
mới. Phải chăng từ đó không gợi lên một khởi động mới, một
cuộc đổi đời ? Dù sao, rõ ràng trong cuộc hội ngộ này có
một cái gì rất sâu xa. “Từ bỏ mọi sự, các ông đi theo
Người” để trở thành những người thu phục người ta. Họ có
hiểu ý nghĩa điều đó không ? Không rõ. Nhưng hiển nhiên,
Người đã kêu gọi họ đổi đời để gặp gỡ mọi người.
Từ một đêm dài không hiệu quả, họ đã có
cơ duyên hội ngộ với con người ấy. Vì Lời Người, họ lại
quăng lưới, thay đổi hẳn thói quen và đặt vấn đề về tương
lai. Hôm nay phải chi Lời này còn sức mạnh đối với các cộng
đoàn chúng ta ! Phải chi Lời này có thể khơi dậy nơi
các bạn trẻ những phản ứng tích cực, tiếp bước ông Simon và
các bạn đồng nghiệp, để trở thành các môn đệ Chúa Kitô cho
Giáo hội và thế giới được nhờ !
Nhưng cũng như cộng đoàn Côrintô, có lẽ
chúng ta còn nghi ngờ về tâm điểm của đức tin : Chúa Phục
Sinh. Bởi thế chúng ta không thấy cần phải kêu gọi nhân
danh Chúa nữa. Tuy nhiên, trong thư gởi giáo đoàn Côrintô,
chứng từ đức tin của tông đồ Phaolô chắc chắn là lý do thúc
đẩy ông thi hành sứ mạng truyền giáo. Ðây là Tin Mừng độc
nhất, là điều chúng ta loan báo trong thánh lễ : “Ðức Kitô
đã chết vì tội lỗi chúng ta. Ðức Kitô đã chịu mai táng
trong mồ. Ðức Kitô đã phục sinh và chúng ta mong chờ Chúa
lại đến.” Ðó là biến cố đổi đời thánh Phaolô, các Tông đồ
và hằng trăm anh em. Các cộng đoàn chúng ta thường quen
nghe hát các câu đó, nhưng không cảm thấy thúc bách phải
loan báo cho mọi người biết biến cố đó và cũng không thấy
mình có sứ mệnh tìm kiếm giúp đỡ những ai đang loan báo Tin
Mừng nữa.
Bởi vậy, vấn đề cấp thiết hôm nay là
phải chọc thủng bức tường thế giới vật chất, và “tái khám
phá một đường lối mới để lý trí nhân loại hướng mở về ánh
sáng của ‘Ngôi Lời’ Thiên Chúa và mạc khải toàn hảo của
Người là Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người.”[iii]
Ngay trong Giáo hội cũng không thiếu những tâm thức dán chặt
vào thế giới vật chất và xác tín vào những năng lực trần thế
mà thôi. Quyền lực và tiền bạc khiến họ mờ mắt, không thể
nhìn thấy tính Thiên Chúa nơi nhiệm thể Chúa Kitô là Giáo
hội. Họ không dám ra khơi theo lời mời gọi của Chúa, vì sợ
phải rời xa những bờ bến họ đã bám trụ lâu đời. Họ tin
tưởng tuyệt đối vào những kiến thức, dư luận, phe cánh,
không đủ can đảm ra khỏi lâu đài bê tông cốt sắt là chính
cái tôi của mình mà đến với mọi người. Họ sợ phải đối diện
với những gì xa lạ và khác biệt với mình. Từ nội tâm sâu
thẳm đã không gặp gỡ Thiên Chúa, làm sao có thể đối thoại
anh em ?
Chỉ khi nào tin tưởng tuyệt đối vào Lời
Chúa, chúng ta mới có thể mạnh dạn ra khơi. Lời Chúa luôn
thúc đẩy con người dấn thân, cởi mở và đối thoại với mọi
người. Khi không trao đổi với anh em, chúng ta sẽ tin những
điều mình nghĩ là sự thật. Kết luận được đặt ra trước tiền
đề. Người ta cố tìm những dữ kiện hay dư luận phù hợp để
củng cố kết luận đó. Họ chỉ thấy những hiện tượng, chứ
không tìm hiểu sâu xa nội dung các sự kiện. Nhìn vào con
người qua những ống kính phòng thí nghiệm, làm sao biết được
thực tại tâm linh ? Theo nữ sĩ Dương Thu Hương, nửa ổ bánh
mì là bánh mì, nhưng một nửa sự thật không phải là sự thật.
Ðó là chưa kể nhiều trường hợp sự thật bị bẻ cong để phục vụ
mục tiêu hay quyền lợi phe đảng. Nhiều trường hợp sự thật
đã phải hy sinh chỉ vì con người đam mê tìm kiếm chính mình.
Không có đức tin, không thể ra khỏi
chính mình để mạo hiểm lao vào thực tế đầy thách đố. Ðức
tin luôn bơm thêm khí thế dũng cảm cho con người. Không có
đức tin, làm sao ông Simon và các bạn đồng nghiệp có thể lao
vào chỗ nước sâu mà thả lưới đánh cá ? Ðức tin luôn cho con
người sức mạnh khởi sự hành động và đi đến cùng nếu phải vác
thập giá lên đồi Canvê với Chúa. Không có đức tin, họ không
thể tìm thấy ý nghĩa trong việc theo Chúa. Nhiều người muốn
thênh thang theo Chúa. Bất cứ khổ giá nào đặt trên vai họ
đều tạo nên những chống đối hay buồn phiền cay đắng. Ông
Phêrô đã trải qua kinh nghiệm đó sau khi rời vườn Cây Dầu
vào trong dinh Philatô với Thày.
Simon được kêu gọi không phải đổi từ
nghề bắt cá sang việc chinh phục nhân tâm bằng những phương
tiện tự nhiên. Sứ mệnh cứu độ là một kỳ công của ân sủng
Thiên Chúa. Nếu đó là công việc của Thiên Chúa, làm sao con
người có thể thực hiện một mình ? Xưa nay, người ta vẫn cứ
tưởng mình “ngon” hơn người khác, đến nỗi quên mất vai trò
Thiên Chúa trong công cuộc cứu độ. Hành trình đem ơn cứu độ
đến với mọi hạng người trong xã hội rất phức tạp. Nhưng con
đường dài đó cũng không khó bằng con đường trở về với chính
mình để khám phá sự thật về mình.
Những tương giao chồng chéo nhau trong
xã hội đã đem lại bao hứa hẹn cũng như thất vọng. Sự thánh
thiện hay tội lỗi cũng từ những tương quan đó. Nhưng nên
nhớ “sự thánh thiện chủ yếu không phải là không bao giờ lầm
lỗi hay phạm tội. Sự thánh thiện tăng triển khi chúng ta có
khả năng trở lại hay sám hối, khả năng sẵn sàng bắt đầu lại,
và trên hết, khả năng hòa giải và tha thứ.”[iv]
Sự thánh thiện đó đã có nơi thánh Phaolô. “Nhưng thánh
Phaolô và Banaba đã có những bất đồng lớn ngay lúc khởi sự
hành trình truyền giáo lần thứ hai và đã chia tay nhau.”[v]
Ðó là những khác biệt trong quan niệm
và đường lối, chứ không phải là những bất hòa. Nhiều người
lẫn lộn bất đồng với bất hòa. Theo họ, bất cứ ai có tư
tưởng khác biệt đều là kẻ phá hoại, bất hòa, chống đối.
Thực tế, “ngay giữa các thánh cũng có những khác biệt, bất
đồng và các cuộc tranh luận.”[vi]
Các ngài rất sợ bất hòa, vì đó là phản chứng, lỗi đức bác
ái. Thích lên án người khác trước khi đối thoại để tìm hiểu
sự thật, mới gây chia rẽ và bất hòa trong cộng đoàn. Mất sự
hiệp nhất, làm sao cộng đoàn có thể chu toàn sứ mệnh phúc âm
hóa ? Thời gian chỉ có một. Nếu dồn hết sức vào việc “bới
lông tìm vết,” chúng ta sẽ không còn khả năng đến với muôn
dân.
Lạy Cha, khi vâng lời Cha xuống trần
gian, Ðức Giêsu đã gọi ông Simon và các bạn đồng nghiệp từ
bỏ nghề đánh cá để trở thành những người lưới người như lưới
cá. Xin cho chúng con luôn lắng nghe tiếng Con Cha mời gọi
để dấn thân và can đảm thi hành sứ mệnh cứu độ trong niềm
tin yêu tuyệt đối vào uy quyền toàn năng của Cha. Amen.
đỗ lực 04.02.2007
dzuize@gmail.com
[i]
ÐGH Bênêđictô XVI, Zenit 28.01.2007.
[ii]
ibid.
[iii]
ibid.
[iv]
ÐGH Bênêđictô XVI, CWNews.com, 31.01.2007.
[v]
ibid.
[vi]
ibid.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HÃY LÊN
ĐƯỜNG ĐẾN NHÀ CHA CUỐI ĐƯỜNG |
1.
Trăm năm trước, chưa từng
biết mặt
Trăm năm sau, còn
gặp nhau chăng ?
Cuộc đời sắc sắc
không không
Bên nhau hãy sống
hết lòng với nhau !
2.
Hơn nhau chỉ một CAÍ ĐẦU
Tư duy, hướng
thượng. Dạt dào CON TIM.
MIỆNG CƯỜI : phương
cách động viên.
ĐÔI TAY : phương thế
xây nên nghĩa tình!
ĐÔI CHÂN : phương
tiện lên đường
Tải chân lý lại đầu
phương, cuối trời.
MẮT là công cụ tuyệt
vời :
Thấy người quân tử,
biết người dối gian.
Ấy là mấy thứ khả
năng
Trời cho ta với
lượng phần khác nhau :
Người hiền ngất
ngưỡng trăng sao !
Người ngu chôn chặt
vực sâu bùn lầy !
3.
Nhắm mắt gieo Thiện Hảo,
Mở mắt thấy đời vui
.
4.
Mai đây từ giả cuộc đời
Đem theo gì những
hôm nay người làm.
5. Mai đây từ giả
cuộc chơi
Đem theo gì những
cuộc đời đã cho.
6. Đời này vắn
vỏi, mau qua
Hãy lên đường đến
Nhà Cha cuối đường.
Tác giả : Frère
NGUYỄN TẤN KIỆT
Sưu tầm và hiệu
chĩnh : Thuận Châu PHAN VĂN KHẢI
Saigòn – Việt Nam,
tháng 2/2007. |
VỀ MỤC LỤC |
|
MÙA XUÂN CHÍN |
Hàn Mặc Tử là nhà thơ tài hoa nhưng
đoản thọ. Oâng để lại cho đời không nhiều thi phẩm nhưng tác
phẩm nào của ông cũng thật đáng trân trọng.
Mùa xuân về, tiết trời nắng ấm, lộc
non nhú mầm từ cây cỏ. Mùa xuân làm rộn rã tâm tư. Khí trời
sắc xuân hoà quyện làm con người tươi trẻ đến lạ. Đọc bài
thơ: Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử, cảm được nét tươi
trẻ và đầy nhân văn của mùa xuân ngày Tết.
Mùa Xuân là mùa đẹp nhất trong năm,
hương hoa bàng bạc cả đất trời, những ngày Tết đượm thắm sắc
xuân.
Trong làn nắng ửng khói mơ tan.
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà gió biếc,
Trên giàn thiên ly, bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợi tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi:
Ngày mai trong đám
xuân sang ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ
cuộc chơi…
Tiếng ca vắt vẻo
lưng chừng núi
Hổn hển như lời của
nước mây…
Thầm thĩ với ai ngồi
dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ
ngây…
Khách xa gặp lúc mùa
xuân chín
Lòng trí bâng khuâng
sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn
gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Câu chữ trong thi ca của Hàn Mặc Tử
luôn được chắt lọc, ngôn từ được tìm tòi kỹ lưỡng.
Sột soạt gió trêu tà áo biết .
Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang
Câu thơ thật gợi mở. Trên những mái nhà
vách đất của làng quê ngày xưa điểm tô những nụ hoa thiên lý
nở vàng, xen giữa màu xanh tươi của lá. Lá và hoa thiên lý
tạo nên nét đặc sắc của hương vị quê nhà như lời ca dao:
Thương chồng nấu
cháo le le.
Nấu canh hoa lý nấu
chè hạt sen.
Gió trêu, gió đùa, gió
mơn man làm bất chợt mùa xuân ùa tới.
Sóng cỏ xanh tươi
gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát
trên đồi.
Ngày mai trong đám
xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ
cuộc chơi…
Mùa xuân từ trong nhà
đã lan xa ra vùng đồi núi. Mùa xuân làm tươi cảnh vật mang
niềm vui đến cho con người.
Con người của mùa xuân
thật trẻ trung, hồn nhiên, đầy sức sống:
Bao cô thôn nữ hát
trên đồi.
Các cô hát rằng:
Ngày mai trong đám
xuân xanh ấy.
Có kẻ theo chồng bỏ
cuộc chơi…
Ở lại làng để vui chơi
với nhau thật là hạnh phúc. Nhưng ai đó được đi lấy chồng
càng vui hơn. Mùa xuân như thêm đẹp, thêm tươi, thêm rực rỡ
hơn..
Tiếng ca vắt vẻo lưng
chừng núi,
Hổn hển như lời
của nước mây…
Thi nhân dùng từ vắt
vẻo, hổn hển thật tài tình. Vắt vẻo ở câu trên chỉ sự thơ
ngây, hổn hển ở câu dưới nói lên sư hồi hộp, đợi chờ trong
trái tim của những cô gái đang tràn trề sức sống. Ai đó
đang ngồi dưới khóm trúc cũng phải rộn ràng:
Khách xa gặp lúc mùa
xuân chín
Lòng trí bâng khâng
sực nhớ làng.
Chị ấy năm nay còn
gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang ?
Thấy mùa xuân ở quê người lại nhớ tới
cảnh làng mình. Cảnh làng mùa hạ có nắng chang chang và bao
nhiêu người thân đang oằn lừng lao động giữa trời nắng gắt.
Người ta hay nói sông xanh, sông đỏ, còn Hàn Mặc Tử lại nói
sông trắng “Dọc bờ sông trắng, nắng chang chang”. Nắng
đến trắng cả sông, diễn tả sự gay gắt của nắng làm chói
chang bạc trắng.
Đây là nét rất nhân bản của người luôn
nặng tình với quê hương xứ sở. Thi sĩ họ Mặc cảm xuân nhớ về
quê mình nặng tình gởi hồn thơ bộc bạch nổi niềm.
Xuân về Tết đến. Mọi người có dịp để
thể hiện tình yêu thương nhau. Gia đình sum họp, tưởng nhớ
Oâng Bà Tổ Tiên, thăm viếng bạn bè người thân làng xóm. Con
người rộng rãi, phóng khoáng hơn ngày thường từ cách bài
biện trong nhà cho đến giao tiêp ứng xứ với nhau. Nhẹ nhàng
thanh lịch như tình xuân ấm áp. Đó cũng là giá trị nhân văn
của ngày Tết.
Tết Nguyên Đán Việt Nam tiềm tàng những
giá trị nhân văn thể hiện mối quan hệ giữa con người với
thiên nhiên, vũ trụ qua bốn mùa xuân-hạ-thu-đông và quan
niệm "ơn trời mưa nắng phải thì" chân chất của người nông
dân cày cấy ở làng quê thanh bình.
Tết còn là dịp để mọi người Việt Nam
tưởng nhớ, tri tâm tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh
trong quan hệ đạo lý “ăn quả nhờ kẻ trồng cây” và tình làng
nghĩa xóm ...
Ông Táo hay thần bếp là người mục kích
sự làm ăn của mọi nhà. Theo tập tục hàng năm ông Táo phải
thu xếp lên trời vào ngày 23 tháng chạp để tâu bày mọi việc
dưới trần thế với Ngọc Hoàng. Bởi thế nên, trong ngày này,
thường thì gia đình người Việt làm mâm cơm đạm bạc tiễn đưa
"ông Táo ". Ngày ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu
tiên của Tết Nguyên Đán. Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta
bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ cúng ông bà tổ tiên,
treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi trang trọng để
chuẩn bị đón Tết.
Cùng với tranh, hoa quả là yếu tố tinh
thần cao quý thanh khiết của người Việt Nam trong những ngày
đầu xuân. Miền Bắc có hoa Đào, miền Nam có hoa Mai. Hoa Đào,
hoa Mai tượng trưng cho phước lộc đầu xuân của mọi gia đình.
Ngoài cành Đào, cành Mai, mấy ngày Tết người ta còn "chơi"
thêm cây Quất chi chít trái vàng mọng, đặt ở phòng khách như
biểu tượng cho sự sung mãn, may mắn, hạnh phúc...
Ngày Tết, trên bàn thờ tổ tiên của mọi
gia đình, ngoài các thứ bành trái đều không thể thiếu mâm
ngũ quả. Mân ngũ quả ở miền Bắc thường gồm có nải chuối
xanh, quả bưởi, quả cam (hoặc quít), hồng, quất. Còn ở miền
Nam, mâm ngũ quả là dừa xiêm, mãng cầu, đu đủ, xoài xanh,
nhành sung hoặc một loại trái cây khác. Ngũ quả là lộc của
trời, tượng trưng cho ý niệm khát khao của con người vì sự
đầy đủ, sung túc.
Ngày Tết, dân tộc Việt nam có nhiều
phong tục hay, đáng được gọi là thuần phong mỹ tục như khai
bút, khai canh, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ.
Năm cũ sắp qua, năm mới sắp đến, nên
cần phải “tống cưụ nghênh tân”. Cuối năm quét dọn sạch sẽ
nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, lau giặt, cắt
tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn
ghế ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng.
Con cháu trong nhà từ phút giao thừa
trở đi được nhắc nhở không được nghịch nghợm, cãi cọ nhau,
không nói tục chửi bậy... anh chị, cha mẹ cũng không quở
mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui
vẻ niềm nở, chúc nhau những điều tốt lành.
Hái lộc, xông nhà, chúc tết, mừng tuổi.
Ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh
vượng, mạnh khoẻ, thành đạt hơn năm cũ. Các Giáo xứ tổ chức
hái Lộc Thánh Đêm Giao Thừa hoặc Sáng Mồng Một Tết. Gia đình
Phật Tử hay bên Luơng thì đi hái lộc ở chốn đình chùa, nơi
tôn nghiêm về nhà, tự xông nhà hay dặn trước người "nhẹ vía"
mà mình thích đến xông nhà. Nhiều người không tin tục xông
nhà nhưng cũng dè dặt, chưa dám đến nhà ai sớm, sợ trong năm
mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì không hay lại đổ tại
mình "nặng vía". Chính vì vậy, sáng mùng Một lại ít khách.
Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc
Tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà cha mẹ. Ông bà cũng
chuẩn bị ít tiền để mừng tuổi con cháu trong nhà và con cháu
hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Lời chúc tết thường
là dồi dào Ơn Chúa, hạnh phúc, sức khoẻ, phát tài phát lộc.
Những người năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau "tai qua
nạn khỏi"hay "của đi thay người", nghĩa là trong cái hoạ
cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Nhưng nhìn
chung trong những ngày đầu năm, người ta thường kiêng không
nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa.
Ngày Tết có biếu quà Tết cho nhau để tỏ
ân nghĩa tình cảm. Học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy
thuốc, con rể tết bố mẹ vợ... Quà biếu, quà tết không đánh
giá theo giá thị trường mà là tấm lòng dành cho nhau.
Vào dịp đầu xuân, con cháu thường tổ
chức mừng thọ lục tuần, thất tuần, bát tuần, cửu tuần cho
Oâng Bà Cha Mẹ. Ngày Tết ngày Xuân là dịp mọi người dành
thời gian cho nhau, con cháu tụ tập đông vui bên gia đình
dòng tộc.
Cũng vào dịp đầu Xuân, người có chức
tước khai ấn, học trò, sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh,
người buôn bán mở hàng lấy ngày. Sĩ, Nông, Công, Thương "Tứ
dân bách nghệ" của dân tộc vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới
vận hội hành thông, làm ăn suôn sẻ.
Mùa Xuân Đinh Hợi đang cận kề. Xuân
đem hy vọng đến. Xuân đẩy lui mây xám cuộc đời.
Những rủi ro, Xuân mang đi. Điều may mắn, Xuân chở về. Xuân
tặng mỗi nhà một cành Mai may mắn, một cành Đào thủy chung.
Bó hoa niềm vui, Xuân trao tất cả. Cành lá phúc lộc, Xuân
gởi tặng không. Trái tim băng giá, Xuân hâm cho nóng lại.
Ánh mắt hận thù, Xuân nhỏ giọt yêu thương. Xuân kết chặt bàn
tay nhân loại, để truyền cho nhau hơi ấm tình người. Đôi môi
con người, Xuân điểm hoa cười, để thốt nên lời: “Hạnh phúc
nhé anh!” (x.Sequela Christi Số 2).
Những
Ngày Lễ Tết đang tới gần. Người Kitô hữu quan niệm Tết là
Một Hồng Aân.
Một Hồng
Ân vì đó là cơ hội cho con người sống tâm tình tri ân, cảm
tạ. Ngày đầu năm mới, con
người hướng về Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn của vũ trụ,
cùng đích của muôn loài, hướng về để tạ ơn, ngợi khen và
chúc tụng. Tạ ơn vì một năm đi qua trong ân sủng, tình yêu
và bình an. Tạ ơn vì tình yêu đó vẫn tuôn tràn trên đời sống
con người. Tạ ơn bằng việc dâng lên Thiên Chúa tất cả những
thành công và những thất bại của một năm qua, cũng như trao
phó vào tay Ngài năm mới sắp tới. Lời tạ ơn đầu năm sẽ được
tiếp nối và kéo dài suốt cả hành trình đời người.
Một Hồng Ân vì đó là cơ hội để con người có thể dừng lại -
dù chỉ là những khoảnh khắc ngắn
ngủi, nhưng thật hữu ích - trên hành trình cuộc sống đầy
những biến động, những bận tâm, những tính toán để mưu sinh.
Dừng để nhìn lại một năm đã qua, cái gì tôi đã làm được cho
bản thân, cho cộng đồng, cho xã hội, cái gì tôi cần phải
khắc phục, biến đổi, cái gì cần phải phát triển, nhân lên…
Dừng lại cũng là để chuẩn bị cho hành trình sắp tới, chuẩn
bị để cho những dự tính trong tương lai được sáng sủa hơn,
vững chắc hơn.
Một Hồng
Ân vì đó là một cơ hội để con người trở về nguồn. Mỗi người
đều có nguồn cội, tổ
tiên, mỗi người đều có một truyền thống vốn được kết dệt từ
cha ông tổ tiên. Nhưng suốt một năm dài, vì công việc, vì
học hành, vì những lo toan khác do cuộc sống đưa đến, người
ta ít có cơ hội để nhớ về cội nguồn và truyền thống đó. Ngày
đầu năm mới, mọi người đều sắp xếp để trở về, gia đình sum
họp đông đủ. Mọi người thắp nén hương cho tổ tiên, cho những
người quá cố. Con cháu chúc tuổi ông bà, cha mẹ… Gia đình
quây quần bên mâm cơm, cùng ôn lại truyền thống, cùng chia
sẻ cho nhau những tình cảm, những suy nghĩ, thật ấm cúng,
thật thân thương.
Một Hồng
Ân vì đó là một cơ hội để con người gặp gỡ, chia sẻ. Ngày
đầu năm, người ta dành
thời gian để đi thăm nhau, gặp gỡ nhau, trao cho nhau những
lời chúc tốt đẹp, chân thành, những nụ cười thiện cảm. Đó là
dịp để làm lớn mạnh tình người, làm đậm đà tình làng nghĩa
xóm, và làm lớn lên cái nhạy bén với những nhu cầu của tha
nhân.
Một Hồng
Ân vì đó là cơ hội để con người cật vấn mình. Tết chính là
cái “cột mốc” làm cho
người ta nhận ra cuộc đời đang trôi đi, thời gian đang qua
mau. Cứ mỗi khi thêm một cái Tết, người ta thấy mình già
hơn, và thời gian phía trước như rút ngắn lại. Có người nói:
“Tổng số quá khứ và tương lai của một đời người là một hằng
số”, thêm vào quá khứ thì giảm bớt tương lai. Có lẽ vì vậy
mà khi sống tâm tình những ngày Tết, người ta cũng giật mình
về quãng đới đã qua, và nảy sinh nơi người ta cái thao thức
về ý nghĩa cuộc đời, cật vấn về bản thân mình, về thái độ
sống của mình, “vì thời gian đang qua mau, tôi đã tận dụng
nó như thế nào hay tôi để nó trôi qua một cách uổng phí.”
.(x.Sequela
Christi Số 2).
Người Việt nam Công Giáo gìn giữ những
nét đẹp văn hoá của ngày Tết cổ truyền và làm cho những nét
đẹp ấy thành những trang Tin Mừng sống động. Khi sống tâm
tình biết ơn trong ngày Tết, là ta sống lòng tri ân sâu xa
vì nhìn thấy ơn Chúa ban qua mọi ân huệ nhận được. Khi cho
đi trong ngày Tết là ta cho đi với tâm tình yêu mến, kính
trọng thực sự. Khi đón tiếp khách thăm viếng là ta như đón
tiếp chính Chúa viếng thăm.
Khi sống tinh thần Tin Mừng trong những
phong tục ngày Tết, người Kitô hữu góp phần xây dựng một mùa
Xuân mới, một mùa Xuân dân tộc, một mùa Xuân tình thương.
Mùa Xuân ấy sẽ vĩnh cửu vì sẽ dẫn đến mùa Xuân Nước Trời.
Đón Tết
và xem Tết như là Một Hồng Ân của Thiên Chúa, sống đầy đủ
cái ý nghĩa của những ngày Tết thì chính mỗi người sẽ tràn
trề hạnh phúc, tươi trẻ tình xuân, có được một “Mùa Xuân
Chín” như Thi sĩ Hàn Mặc Tử.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An |
VỀ MỤC LỤC |
|
Ngày Xuân,
nói về những mê tín trong tôn giáo |
Nói nôm na, mê tín nghĩa là tin sai lầm, tin theo thói quen
ai sao tôi vậy. Tin không cần suy nghĩ, tin không cơ sở vào
một điều gì đó.
Tôn giáo nào cũng có những yếu tố thần linh, dù không ai
chứng minh được thần linh bằng khoa học thực nghiệm, nhưng
tôn giáo không phải là mê tín, vì có nhiều cơ sở đủ để tin
vào những điều không thể chứng minh.
Nhưng cũng vì tôn giáo mang yếu tố thần linh, nên đã có
nhiều điều “ăn theo” tôn giáo, để trở nên buôn thần bán
thánh hoặc có những mê tín đáng tiếc. Những điều đáng tiếc
này chẳng những không giúp cho đời sống tâm linh phát triển,
mà chỉ đóng khung nhận thức và làm sơ cứng các khả năng suy
tư của con ngươiø. Từ đó, sẽ dẫn đến một cung cách sống đạo
theo thói quen, ai sao tôi vậy và không cần suy nghĩ, vì đã
có người khác suy nghĩ thay cho rồi.
Điều đáng buồn này không mới, vì thời nào cũng có, nơi nào
cũng có và tôn giáo nào cũng có. Sách vở, báo chí và cả kinh
sách cũng đã nói đến rất nhiều, nhưng hiệu quả cũng chỉ phần
nào, và xem ra vẫn luôn có nhiều hạn chế.
Người Công giáo trong cộng đồng Việt Nam chỉ là thiểu số từ
khoảng 7 đến 8 %. Phật giáo và các tín ngưỡng dân gian là
phần đông và luôn chiếm phần đa số. Ta sẽ tự cô lập mình và
trở nên lạc lõng ngay trên địa bàn ta đang sống, nếu không
hiểu biết, không hoà đồng với xung quanh, một môi trường
không có hoặc đang có rất ít Công giáo.
Ngày Xuân đi lễ chùa và hái lộc đầu năm. Hình ảnh truyền
thống này thật đẹp đẽ và rất thi vị. Bài thơ Đi lễ chùa
Hương của Nguyễn nhược Pháp, nói về cảnh này đã sống trong
lòng mọi người qua bao thế hệ. Nhưng đến chùa để xin xăm bói
quẻ và đốt vàng mã cho nhiều, thì quả thật, chỉ là những
chuyện “ăn theo” nhưng lại được gán cho là của Phật giáo, mà
không phải là Phật giáo đích thật.
Xin xăm bói quẻ chỉ là một hình thức của bói toán, mà bói ra
ma quét nhà ra rác. Nhiều khi chỉ chuốc lấy lo lắng, và sợ
hãi buồn phiền vì xăm quẻ nếu “thầy”đoán quẻ phán những điều
bất lợi. Rõ ràng, thày đã vận dụng những lời của Thần Phật
để diễn tả theo ý của mình.
Đốt vàng mã cũng thế. Hàng năm trong những dịp này, trên cả
nước, bao nhiêu tỷ đồng đã biến thành khói than vì đốt vàng
mã thì không ai thống kê cho nổi. Nhưng khổ nỗi, không đốt
thì không an tâm. Sợ người thân của mình dưới cõi âm bị túng
thiếu khổ sở. Không đốt thì sợ Thần Phật sẽ giận, sẽ không
ban phước lộc cho mình và gia đình. Họ làm như Thần linh
cũng có thể mua chuộc, cũng có thể lấy lòng và hối lộ bằng
vật phẩm và tiền bạc trần gian.
Thật tội nghiệp cho thần linh.
Cũng tội nghiệp cho những niềm tin lầm lạc như vậy .
***
Phải dài giòng như thế, để trông người mà nghĩ đến ta, vì ta
cũng có những điều, không phải giống hệt như thế, nhưng cùng
phát xuất từ sự lầm lạc. Nói điều này, có thể gây xốc đối
với nhiều người, nhưng thật đáng tiếc, đây lại là một thực
tế.
Không ít giáo dân đã lầm lạc khi thần thánh hoá linh mục,
“bắt” các ngài phải là những con người lý tưởng, nghĩ các
ngài phải thế này, phải thế khác. Khi các ngài không giống
như mình nghĩ, hoặc có va chạm mâu thuẫn gì đó, thì họ bỏ
lễ, hoặc không đi lễ xứ mình. Trầm trọng hơn, nhiều người đã
bỏ cả đạo. Con số này tuy không nhiều, nhưng đang là một
thực tế đã xảy ra nơi các xứ đạo. Hoặc nếu không bỏ đạo, thì
những liên hệ và sự cộng tác với các vị chủ chăn, cũng có
những trở ngại và không thuận lợi nhất định nào đó. Những
trở ngại đã phát khởi từ việc thần thánh hoá, lý tưởng hoá
các bậc chủ chăn.
Từ lâu, người ta đã nói nhiều về những khoảng cách giữa linh
mục và giáo dân. Khoảng cách vì nhiều lý do, cả khách quan
và chủ quan đều có. Linh mục là người tinh thông mọi
sự, vì các ngài học trường lý đoán, La tinh và mang bảy chức
thánh. Nhiều giáo dân đã được nghe dạy và vẫn
luôn tin như vậy . Các ngài được học 2 năm Triết học và
4 năm Thần học, là những môn học mà ít giáo dân nào đủ thời
gian và có điều kiện để học. Đó là một vài lý do, khiến giáo
dân thường lý tưởng và thần thánh hoá những người anh em của
mình. Điều đó cũng dễ hiểu.
Thực ra, triết học là gì ? nếu không phải là khoa học để dạy
về sự khôn ngoan hiểu biết ? Như thế, bao thế hệ cha ông ta,
dù chẳng học ngày nào về triết học, nhưng vẫn đầy khôn ngoan
hiểu biết và còn lưu truyền mãi đến ngày nay. Có khác chăng,
triết học đã giúp ta biết hệ thống, biết sắp xếp các suy
nghĩ lý luận và hành vi đời sống để trật tự hơn, nhờ thế,
sẽ hạnh phúc hơn cho người và cho mình .
Còn Thần học là gì ? nếu không phải là môn học về Thiên
Chúa, là những suy tư dựa trên Lời Chúa và được xây dựng
thành hệ thống, nhằm làm sáng sủa hơn, dễ hiểu hơn về một
đối tượng vốn trừu tượng khó nhận biết là Thiên Chúa thần
linh . Và nếu như vậy, thì mỗi giáo dân đều đã có sẵn thần
học tính trong người, khi tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Thiên
Chúa của mình.
Xem như thế, ai cũng thấy Thần và Triết là những điều gần
gũi và cần thiết biết bao đối với mọi người. Gần gũi và quen
thuộc, nhưng nói thế nào để không trở thành xa lạ, viết ra
sao để không biến thành khó hiểu là điều không phải ai và
lúc nào cũng làm được. Vì ngay cả Thần học Kinh Viện cũng đã
vướng phải điều này. Thần học Kinh viện với bao nhiêu ngôn
từ chuyên môn, và đầy tính bác học của các thuật ngữ mà muốn
hiểu rõ phải tra nhiều loại tự điển. Những điều ấy đã khiến
nhiều người nản chí, hay ít ra, cũng e ngại khi muốn tiếp
cận với loại Thần học này. Giáo Hội đã nhận ra và từng bước,
đang có những chấn chỉnh phù hợp.
Đức Giêsu là bậc thày của các bậc thày, khi Ngài nói về
những điều cao siêu huyền nhiệm, Ngài đã dùng những hình ảnh
của dụ ngôn một cách tuyệt vời, và nhờ thế, đã giúp người
nghe có thể hiểu ngay ý Ngài muốn truyền đạt. Dùng lời để
diễn ý, dùng hình ảnh để minh hoạ, Ngài muôn đời vẫn là mẫu
gương trọn hảo. Chẳng hạn, khi muốn diễn tả sự gắn bó mật
thiết giữa con người với Thiên Chúa, Ngài đã nói : “Thầy là
cây nho, các con là ngành. Ngành nào kết hợp cùng cây,
sẽ trổ sinh hoa trái. Ngành nào lìa cây, sẽ bị héo khô”.
Chỉ một câu này thôi, nhưng có nhiều tác giả đã viết
thành những tác phẩm dày cả trăm trang.
Một câu nói thật gần gũi vì mang đầy tính dân gian quen
thuộc. Nhưng lại đầy tính Triết, đầy tính Thần trong câu nói
giản dị này. Còn biết bao những câu nói đơn sơ như thế, đầy
rãy trong Kinh Thánh.
Xem như thế, Triết và Thần là những môn cần thiết và hấp dẫn
biết bao. Nhưng không hiểu từ lúc nào, nó đã biến thành
những gì khô khan khó nuốt và chỉ dành riêng cho một số
người nào đó muốn học , hoặc bị học. Ai cũng biết rằng, ngôn
ngữ loài người là hạn chế không thể nào nói đủ, nói hết được
những thực tại thiêng liêng. Nhưng dù sao đi nữa, nói mà
không ai hiểu, thậm chí còn hiểu sai thì đây là một sự thất
bại của những ai học Thần và Triết.
Sau cùng, không phải ai học Triết, học Thần cũng đều trở
thành các Triết gia hoặc nhà Thần học. Và ngay cả khi đã là
các Triết gia và nhà Thần học, cũng chẳng có gì bảo đảm các
vị ấy sẽ không sai lầm hoặc sẽ không vấp ngã. Ta đã chẳng
thường nghe Giáo hội cảnh báo về các triết gia này chệch
hướng, hoặc nhà thần học kia lạc đường đó hay sao ???
Và nữa, bảy chức thánh đâu đã phải là thánh. Nhưng 7 chức
thánh chỉ để thi hành các tác vụ thánh mà Giáo hội đã tín
nhiệm uỷ thác. Vậy thôi, và ngoài những điều này ra, các
ngài vẫn là những con người tự nhiên với tất cả những điều
tự nhiên bình thường.
Vì thế, xin đừng thần thánh hoá các ngài, kẻo tội nghiệp.
Tội nghiệp cho các ngài, nhưng phải tội nghiệp cho chính
mình trước hết, vì mình đã hiểu sai, tin lầm.
Linh mục, dù mang 7 chức thánh nhưng vẫn là con người với
đầy đủ các mảng sáng tối như bất cứ ai. Sáng tối nơi thân
xác, tối sáng trong tâm hồn và cũng không thiếu cả những
linh mục vô tín. Vô tín nghĩa là không tin. Điều này nghe
hơi lạ tai. Nhưng ta sẽ hiểu ra ngay, khi biết một tông huấn
của Giáo hội đã nói với các chủ chăn đại ý rằng : “ Các con
hãy rao giảng điều con tin. Hãy tin lời con rao giảng và
thực hành những điều con đang rao giảng”.
Một khi không thực hành chính điều mình đã rao giảng thì
đúng là một kẻ vô tín. Khi ấy đã tự biến mình thành những
thợ giảng, những kẻ chỉ bán nước bọt nhưng cái giá lại quá
cao.
Xin cũng đừng lý tưởng hoá các ngài, đúng hơn phải nói
rằng,”bắt” các ngài phải sống một cách lý tưởng như ý mình
muốn và theo suy nghĩ của mình. Điều này thật tệ hại và quá
xa rời với tinh thần Tin mừng, vì Đức Giêsu luôn tôn trọng
mọi người. Với ngay cả kẻ sắp hãm hại mình là Giuđa, Ngài
đâu có dùng quyền phép của mình mà thay đổi ông ta, hoặc ép
buộc ông ta phải theo ý muốn của Ngài.
Khi đọc Kinh thánh, ai không biết chuyện này, sao Bạn lại
quên ?
Thần thánh hoá linh mục là một sai lầm, sai lầm dẫn đến mê
tín.
Không đi lễ, bỏ đạo là một cực đoan.
Cộng cả mê tín và cực đoan lại, liệu tâm hồn Bạn có còn sự
bình an ?
Hỏi là đã trả lời rồi vậy . Thêm nữa, Giáo hội đâu chỉ có
một người, sao không hỏi ý kiến và tham khảo nơi nhiều bậc
khôn ngoan và đạo hạnh trong Giáo hội, trước khi đi đến
quyết định liên quan đến vận mệnh của cả đời mình ?
****
Những ngày Xuân cũng là những ngày của thăm viếng, chúc
tuổi. Đặc biệt, đi thăm viếng chúc tuổi các vị chủ chăn,
các cha linh hướng và các vị lãnh đạo là không thể thiếu.
Con đến thăm Cha và Cha cũng sẽ đến thăm con.
Nguyện xin, trong các dịp đầy ý nghĩa này, sự cảm thông và
yêu mến sẽ nhiều hơn, nhờ đó, những ngày Xuân sẽ có thêm
nhiều ý nghĩa mới. Khi không còn những lấn cấn trong lòng vì
lầm lạc mê tín, mỗi giáo dân sẽ là những cánh tay nối dài
đích thực của các vị chủ chăn. Khi mọi người đã nhận ra nhau
là huynh đệ anh em, những cánh tay nối dài kia thực sự sẽ là
những người cộng tác, mà không phải là các gia nhân, để thực
thi Lời Chúa đã nói trước khi Ngài về Trời :
“ Từ nay, Ta không gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ
không biết việc của chủ làm. Nhưng Ta gọi các con là bằng
hữu thân tình, vì mọi việc Ta làm, Ta đã tỏ hết cho các con
biết”.
Chúa Giêsu rất thân mến của con ơi !
Làm bằng hữu thân tình với Chúa thì dễ, nên nghe câu
này con thấy vui vì có nhiều an ủi. Làm bạn với Chúa
dễ, vì Chúa vô hình và nếu có phiền trách con điều gì, Ngài
cũng nhẹ nhàng kín đáo nói riêng với con trong lòng. Làm bạn
với Chúa lại càng dễ hơn, vì Ngài chẳng bao giờ gây khó khăn
hoặc xúc phạm con bao giờ. Ai mà không mong có được người
Bạn tuyệt vời như vậy ?
Nhưng làm bằng hữu thân tình với anh em con thì trăm lần khó
hơn với Chúa. Vì, trước tiên là con ngại họ và họ cũng ngại
con. Ngại vì nhiều thứ, những người hơn con, họ sẽ ngại con
làm phiền khi con đến với họ. Những người kém con, con cũng
e dè ngại ngùng, sợ họ sẽ làm phiền mình khi họ tìm đến với
con. Và còn bao nhiêu điều khác nữa đã làm cho con khó thân
với anh em của mình .
Nhưng ….rồi, con chợt giật mình và nhận ra rằng, nếu không
thể thân với anh em mình, cũng là không thể thân với chính
Chúa.
Chúa Giêsu rất thân mến của con ơi !
Con đã đón bao nhiêu mùa Xuân trong đời, xin hãy giúp con,
mùa Xuân này mỗi ngày, con sẽ có thêm nhiều bằng hữu thân
tình. Vìø chỉ như thế, lòng con mới có được mùa Xuân viên
mãn tràn đầy, và nhờ vậy, con sẽ luôn có được nụ cười thanh
thản an vui. Chính sự thanh thản an vui này, sẽ lan toả ra
xung quanh và làm chứng rằng con đang có Chúa trong lòng.
Amen.
Cư sĩ Xuân Thái
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH CA SỐ MỘT |
Mỗi khi con nguyện
“Lạy Cha …”
nghe trong huyết quản
chan hòa niềm vui.
Con tim thổn thức bồi
hồi,
nhớ về năm tháng đất
trời hư không.
Trước khi tạo dựng càn
khôn,
Cha là
Thân Phụ Chúa Con muôn đời.
Tình
Yêu nguồn mạch tuyệt vời,
Kết
duyên Một Chúa Ba Ngôi vĩnh hằng.
Cha là
Thiên Chúa trọn lành,
cho con
một chiếc thuyền tình ra khơi,
một nền
công chính Nước Trời,
muôn
người hạnh phúc sống đời tự do,
Cha từng sai Ðức Kitô,
vào đời
chia sẻ căn cơ cuộc trần.
vâng
theo Thánh Ý dấn thân,
mở
đường cứu độ muôn dân an lành.
Xin thương cho mọi phàm
nhân,
biết
Cha là Chúa khôn ngoan vô cùng,
trong muôn lối Chúa
quan phòng,
hồng ân trải ngập bước
đường trần gian.
Cha là
Thiên Chúa toàn năng,
thương
ban mạc khải kho tàng tình yêu,
sao cho mau đến Vương
Triều,
Ý Cha thể hiện phong
nhiêu đất trời.
Xin Cha
lương thực hằng ngày,
cho bao
cuộc sống tương lai tươi màu.
cuộc
đời chớ để hư hao,
vì bao
cám dỗ thét gào con tim.
Cha ơi,
cứu vớt chúng sinh,
khỏi bao sự dữ nhận
chìm bể dâu.
Vì tình yêu Chúa nhiệm
mầu,
xin tha tội lỗi ngập
đầu chúng con.
thánh ân mở rộng tâm
hồn,
bài ca đức ái dập dồn
bốn phương.
Cha là
mạch suối trào tuôn
Tình
Yêu dào dạt tận nguồn thiên ân.
vân thanh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GIAI ĐOẠN CHỦNG VIỆN ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG |
ĐÀO TẠO VÀ
TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG CỦA CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI
TRONG BỐI
CẢNH VIỆT NAM HÔM NAY
Nguyên
bản tiếng Anh
Lm.
Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY
Bản dịch
Việt ngữ
Lm. Vincentê
Trần Minh Thực, Lm. GB. Nguyễn văn Hào
CHƯƠNG IX
GIAI ĐOẠN CHỦNG
VIỆN ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG
E. Cơ Cấu Của Việc
Đào Tạo Thiêng Liêng
1. Việc Đào Tạo và Toà Trong/Toà
Ngoài335
a. Định Nghĩa Từ Ngữ
“Toà” là một từ gốc Latinh và là một
thuật ngữ luật pháp, có nghĩa là một nơi công cộng mà ở đó
sự công bằng được xác lập. Trong quá khứ, người ta phân biệt
toà trong như nơi phán xử lương tâm của một người và toà
ngoài như toà án của người đời, chẳng hạn như chính quyền
hay công an. Trong việc biện phân ơn gọi, toà được quan niệm
như “quyền” phê phán ơn gọi của một chủng sinh hướng tới
chức linh mục. Ở đây cũng có hai mức độ, toà ngoài và toà
trong, nhưng đối tượng của phê phán không hoàn toàn như
nhau, tùy theo từng toà.
b. Toà Trong
Khi nói về toà trong, người ta có ý nói
về việc phán xét trong lương tâm của chủng sinh. Anh quyết
định tự trình diện với Hội Thánh để trở thành một linh mục,
vì anh cảm thấy được Chúa gọi. Chính anh phân định ơn gọi
của anh, dưới sự hướng dẫn của vị linh hướng. Việc này theo
sau một thời gian suy nghĩ chín chắn, từ đó, theo sự phán
đoán của chính mình, anh đánh giá rằng anh có khả năng phục
vụ Hội Thánh như linh mục. Việc suy nghĩ này được tiến hành
dưới hình thức một phân định thiêng liêng về thực tại khách
quan của tác vụ linh mục và thực tại chủ quan của lời mời
gọi cá nhân và duy nhất của anh, qua đối thoại với một vị
linh hướng. Chính với vị linh hướng mà việc phân định ơn gọi
được hoàn tất.
Mặc dù toà trong là lương tâm của chủng
sinh, nhưng không có nghĩa là vị linh hướng không có vai trò
gì trong tiến trình này. Thường thường vị linh hướng đi vào
trong tiến trình này bằng cách cống hiến ý kiến riêng làm
sao ngài kinh nghiệm rằng chủng sinh ấy được Chúa gọi. Vị
linh hướng có lý mạnh để can thiệp, nếu ngài cảm thấy người
thụ hướng đang làm một lầm lỗi nghiêm trọng. Nhưng trong mọi
trường hợp, chủng sinh không thể được bảo phải làm gì, ngoại
trừ khẳng định rằng đó là đánh giá, phán đoán, và quyết
định của anh. Sự hiện hữu của tòa trong vẫn cần thiết trong
nhiều con đường Chúa gọi một con người. Quả vậy, tòa trong
là nơi một chủng sinh nắm lấy tiếng gọi, một cách nội tâm và
tự do, qua bất cứ con đường nào mà lời mời gọi ấy đạt tới
anh.
c. Toà Ngoài
Toà ngoài là quyết định và phê phán
của người khác hơn là của chủng sinh. Trong trường hợp đánh
giá một thanh niên có thích hợp với chức linh mục hay không,
trách nhiệm cao nhất thuộc về Giám Mục. Trách nhiệm này
thường được ngài uỷ cho những người thích hợp. Tại Việt Nam,
đó là những thành viên thuộc hội đồng chủng viện. Hội đồng
này phải phán quyết một thanh niên có thích hợp hay không để
trở thành linh mục. Trong tiến trình đánh giá cuối cùng, hội
đồng sẽ giới thiệu ứng viên lên Giám Mục xin ngài phong
chức.
2. Tiến Trình và Sự Tương Tác
Giữa Hai Tòa
a. Khác Biệt Nhưng Bổ Túc
Cho Nhau
Toà trong đóng vai trò bổ túc, nhưng
lại hoàn toàn khác biệt với toà ngoài. Thật vậy, điều mà vị
linh hướng khám phá về chủng sinh ở toà trong sẽ không được
tiết lộ ra ở toà ngoài. Dữ kiện này có cùng một qui chế như
của toà giải tội.336 Điều này không chỉ để bảo vệ chủng
sinh, mà còn cống hiến cho anh sự tín nhiệm và tin tưởng
rằng điều gì anh đã bộc lộ ở tòa trong vẫn được giữ kín.
Trong quá trình phân định ơn gọi, mối
quan tâm của cả hai người, chủng sinh và vị linh hướng, là
lợi ích của Hội Thánh. Chủng sinh không tìm phân định ý
riêng hay ước vọng cá nhân của mình. Đúng hơn, anh tìm khám
phá ý muốn của Chúa cho anh, bằng cách phân tích các khả
năng và động lực của anh đối với những kỳ vọng và nhu cầu
của Hội Thánh. Do đó, ở toà trong, vị linh hướng không chỉ
là người thụ động lắng nghe, song ngài phải sẵn lòng và có
khả năng thách đố và đối đầu, khi sự việc đòi hỏi, để giúp
chủng sinh trải qua một tiến trình phân định ơn gọi đích
thực.
Thông thường ở toà ngoài, vị Giám đốc
chủng viện có trách nhiệm hàng đầu trong việc đánh giá tính
thích hợp hay không của chủng sinh với chức linh mục. Vì
thế, ngài không thể đóng một vai trò nào ở toà trong. Sự
hiểu biết có được về chủng sinh ở toà ngoài đều do nhận xét
của nhiều nhà đào tạo. Vì toà ngoài không trực tiếp nghiên
cứu sâu vào nội tâm của chủng sinh, nên sự hiểu biết có được
thường có một mức độ chắc chắn khác và ít hơn sự chắc chắn
có được ở tòa trong.
Một câu hỏi căn bản là: Người này có
được Chúa kêu gọi không? Tất cả các nhận xét đều nhằm trả
lời câu hỏi này. Trong khi tìm trả lời câu hỏi này, các nhà
đào tạo sẽ thừa nhận với tất cả khiêm tốn rằng Chúa kêu gọi
người yếu đuối để làm xấu hổ kẻ hùng mạnh! (x. 1Cr 1,
26-29). Không phải Giáo Hội kêu gọi ứng sinh, nhưng là chính
Thiên Chúa. Vai trò của Giáo Hội là đánh giá lời kêu gọi ấy
và rồi chấp nhận ứng sinh với vui mừng và tạ ơn Thiên Chúa.
b. Thực Hành Chuyên Biệt
Vị linh hướng không bao giờ được nói về
những người ngài tháp tùng, không nói với hội đồng và cũng
chẳng nói riêng với ai ngoài hội đồng, không được lên tiếng
để kết án mà cũng chẳng được lên tiếng để bảo vệ: ngài phải
im lặng khi hội đồng nói về người thụ hướng của mình. Chỉ vị
Bề Trên nói lại cho chủng sinh ý kiến của hội đồng và đại
diện cho hội đồng chủng viện bên cạnh Giám Mục. Một cách rõ
ràng, sự bảo mật này là bảo đảm cho tự do nội tâm của chủng
sinh. Nhưng vị linh hướng có thể nghe trong hội đồng những
quan điểm khác quan điểm của ngài về người thụ hướng của
ngài. Như thế, vị linh hướng có thể được thông tin về những
yếu tố khác, nhờ đó ngài sẽ phân định tốt hơn phán đoán của
ngài và chọn lựa sự giúp đỡ thích hợp mà ngài có thể mang
lại cho người thụ hướng của ngài.
Toà ngoài sẽ hình thành phán quyết của
mình về các chủng sinh từ sự hiểu biết trong việc tháp tùng
hằng ngày của tiến trình đào tạo, bởi vì cuộc sống hàng ngày
mạc khải trọn vẹn tất cả con người. Như thế, cả hai toà
trong và toà ngoài không đối nghịch nhau, nhưng bổ túc cho
nhau để phục vụ một công việc của Hội Thánh.
c. Khác Biệt
Rõ ràng vì có hai toà cùng trong một
tiến trình phân định ơn gọi, nên luôn có khả năng là kết quả
không đồng ý được với nhau.
Một đàng, có thể xảy ra là một người đã
tự trình diện với Giáo Hội như một người đã được kêu gọi,
nhưng anh lại nhận thấy rằng cảm thức được gọi của anh là
sai lầm. Thế mà, vị giám đốc và hội đồng có thể đã đi tới
quyết định rằng người này rất xứng đáng và có khả năng theo
đuổi việc chuẩn bị chịu chức linh mục. Trong trường hợp này,
vị giám đốc và hội đồng chỉ có thể chấp nhận sự chân thành
trong nhận định mới của người đó, tin tưởng rằng Chúa sẽ sử
dụng anh cách tốt lành cho lợi ích của Giáo Hội.
Trường hợp khác biệt thứ hai không dễ
giải quyết. Đó là trường hợp khi vị giám đốc và hội đồng
đều đồng ý rằng, trong thời gian này, không nên cho chủng
sinh này tiếp tục ở trong chủng viện nữa, trong khi đó anh
ta lại xác tín rằng anh được Chúa kêu gọi làm linh mục. Tiến
trình phân định ơn gọi và những quyết định của chủng sinh
này không thể phủ nhận. Tuy nhiên, căn bản của quyết định
tòa ngoài phải được giải thích cho ứng sinh, để anh có thể
cố gắng hiểu và chấp nhận quyết định đã được đưa ra ở tòa
ngoài.
Tòa ngoài có thể đồng ý rằng chủng sinh
này có một đặc tính, hay một thái độ có thể làm thiệt hại
việc anh thực thi phận vụ với tư cách linh mục, nhưng có thể
sửa chữa được. Trong trường hợp này, nên yêu cầu ứng sinh
rời khỏi chủng viện và ra sống ở ngoài chủng viện cho tới
khi vấn đề đã được sửa chữa. Như thế, cánh cửa chủng viện
không hoàn toàn đóng lại đối với anh. Anh được khuyến khích
tiếp tục tương quan linh hướng, ngõ hầu khám phá ra Chúa kêu
gọi anh thế nào để phục vụ Hội Thánh Chúa và Dân Người.
Thông thường hơn, toà ngoài đạt tới một
quyết định rằng người nọ quả thực không thích hợp để được
chấp nhận là ứng sinh linh mục. Chắc chắn điều đó phải được
giải thích cho anh cách tế nhị và tình cảm. Ở Việt Nam,
quyết định rời khỏi chủng viện chịu ảnh hưởng sâu xa bởi gia
đình và áp lực của xã hội, cũng như bởi cảm thức xấu hổ, ân
nghĩa và tình bạn bè. Chủng viện nên hướng dẫn anh làm một
chọn lựa đúng đắn và giúp họ vượt qua các khó khăn. Trong
việc này, Giám Mục nên ủng hộ quyết định của chủng viện.337
F. Những Tác Nhân
Đào Tạo
1. Cộng Đoàn Giáo Dục
“Việc đào tạo linh mục được hiệu quả
nhất ở trong cộng đoàn, được hiểu như một mạng lưới hữu cơ
của mối tương quan liên nhân vị.”338 Vì thế, chủng viện phải
được quan niệm như một cộng đoàn giáo dục,339 nơi mà chủng
sinh được hướng dẫn “không chỉ tới chức linh mục, song còn
khám phá và sống đời sống của Chúa Giêsu.”340
Cộng đoàn giáo dục này gắn liền với
việc thực thi tập thể trách nhiệm của các nhà đào tạo trước
tiên. Nó cũng mời gọi các chủng sinh đảm nhận trách nhiệm
hàng đầu của việc đào tạo chính họ, và cộng tác vào việc đào
tạo các bạn của họ, nhờ đời sống chung của chủng viện.341
Yếu tố căn bản của việc đào tạo linh mục là kiến tạo bầu khí
kiên định, trước sau như một, thích hợp cho việc phát triển
tâm lý và thiêng liêng. Sự thật và tính đơn sơ trong mối
tương quan dẫn đến việc chỉ bảo lẫn nhau, chấp nhận lẫn
nhau, ý thức chung về lợi ích chung và niềm vui chung trong
việc tìm kiếm và phục vụ Chúa.
Những nhóm nhỏ cống hiến nhiều cơ hội
chia sẻ đức tin, kiểm điểm đời sống và kinh nghiệm cầu
nguyện sẽ góp phần làm phát triển cộng đoàn giáo dục ấy.
Cộng đoàn giáo dục này cũng mở ra với các cơ chế cộng đoàn
của Giáo Hội địa phương, nơi mà các ứng sinh sẽ lãnh nhận
được kinh nghiệm mục vụ phục vụ đoàn chiên Chúa. Những kinh
nghiệm về Giáo Hội này lớn hơn kinh nghiệm mà cộng đoàn
chủng viện cống hiến cho họ. Các kinh nghiệm ấy sẽ đào tạo ý
thức mục vụ và tinh thần tông đồ của chủng sinh, đồng thời
giúp họ khám phá ra cách cụ thể tính cấp bách của việc loan
báo Tin Mừng, ý nghĩa và những đòi hỏi của cuộc đời họ, được
trọn vẹn hiến dâng cho việc phục vụ Dân Chúa. Nhưng những
kinh nghiệm ấy chỉ sinh hoa kết quả nhờ một suy tư thần học
và tu đức được các nhà đào tạo tốt gợi lên và hướng dẫn.342
2. Chính Ứng Sinh343
Việc đào tạo sẽ mất đi hiệu quả của nó,
nếu nó không bao hàm sự tham gia cá nhân của ứng sinh, nghĩa
là sự tự đào tạo của anh. Chính vì thế, Đức Gioan Phaolo II
đã nhắc nhở rằng chính ứng sinh là nhân tố cần thiết và
không thể thay thế được trong việc đào tạo của chính anh:
“Tự đào tạo là tối quan trọng trong tất cả mọi công cuộc đào
tạo, kể cả đào tạo linh mục. Không ai có thể thay thế chúng
ta trong sự tự do có trách nhiệm mà chúng ta có được như là
những nhân vị độc đáo.”344
Vâng, tự đào tạo là yếu tố quyết định
đưa tới thành công trong việc đào tạo thiêng liêng. Mặc dù
Chúa Thánh Thần là tác nhân tuyệt hảo trong việc đào tạo
này, ứng sinh phải hoàn toàn tự do đón nhận tác động định
hình Ngài. Cũng thế, hoạt động của các nhà đào tạo khác nhau
sẽ chỉ “trở nên thực sự và đầy đủ hiệu quả, nếu ứng sinh này
cống hiến sự cộng tác chân thành và xác tín của chính anh
vào công cuộc đào tạo này.”345
Quan niệm Á Châu “không thầy đố mầy làm
nên” ngày này đã được thay đổi: nếu không có sự thực hành
của trò thì những giáo điều và lý thuyết của thầy chỉ là
những lời hoa mỹ thôi. Điều rất quan trọng là việc đào tạo
phải cung cấp cho ứng sinh cách suy nghĩ mới, cách sống mới,
cách hành động mới, cách yêu thương mới và cách làm chứng
mới cho Tin Mừng. Nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là việc
tự đào tạo này phải đem sự hiểu biết hữu ích đó ra thực
hiện. Sự cộng tác chặt chẽ giữa hai phía, đào tạo và tự đào
tạo, là điều kiện tiên quyết cho mọi thành công, và dĩ nhiên
với ơn Chúa nữa. Vì thế, Pastores Dabo Vobis đòi hỏi: “Các
ứng sinh linh mục phải hết sức ý thức chuẩn bị chính mình để
đón nhận ơn Chúa và đem ra thực hành, biết rằng Giáo Hội và
thế giới đang rất cần đến họ.346
3. Các Nhà Đào Tạo347
a. Chúa Giêsu, Gương Mẫu Của
Nhà Đào Tạo
Để đồng hành với chủng sinh và giúp họ
trở nên linh mục đích thực, các nhà đào tạo phải là những
người đầu tiên bước theo mẫu gương hoàn hảo là Chúa Giêsu,
Đấng đã dạy dỗ với ví dụ cụ thể bằng cách rửa chân cho các
môn đệ (x. Ga 13,12-15). Ngài yêu thương họ và đối xử với họ
như bạn hữu. Ngài sống với họ và đồng hành với họ trên hành
trình trưởng thành đức tin và thiêng liêng bằng tình yêu
thương, kiên nhẫn, săn sóc, và sự tận tâm của Ngài. Ngài
biết rõ họ từng người một: tính tình, phẩm chất và những
điểm yếu của họ. Ngài bao dung trước sự yếu đuối, khuyết
điểm, những tham vọng trần thế, cứng đầu cứng cổ, yếu lòng
tin và chậm hiểu mầu nhiệm Nước Trời của họ, và Ngài kiên
nhẫn chờ đợi sự giáo dục bổ túc của Chúa Thánh Thần cho họ
(x. Ga 16,12). Ngài cầu nguyện cho họ và trao họ cho Cha
trên trời gìn giữ và bảo vệ (x. Ga 17,15).
Vâng, không ai có thể cho điều mình
không có. Để đào tạo chủng sinh trở thành linh mục, các nhà
đào tạo phải luôn qui chiếu về Chúa Giêsu và trở nên đồng
hình đồng dạng với Chúa Giêsu là mẫu gương vĩnh cửu của mọi
linh mục, hôm qua, hôm nay và mãi mãi.348 Họ phải trở nên
những chứng nhân đích thực của Chúa Giêsu, đôi khi cả chứng
tá câm nín bằng cuộc sống. Những ai dấn thân vào công cuộc
đào tạo, nhất là đào tạo thiêng liêng, phải được liên tục
cập nhật và đào tạo. Sự hiện diện đồng hành và chứng tá của
các nhà đào tạo phải được gia tăng vì lợi ích của chủng
sinh. Các ngài nên tỏ lòng yêu thương hơn đối với họ, như
các bậc cha mẹ vốn làm khi nuôi lớn con cái, trong vai trò
cố vấn hay hướng dẫn vì sự phát triển toàn diện của họ.
b. Vai Trò và Sự Hiệp Nhất của
Đội Ngũ Đào Tạo
Đội ngũ đào tạo phải thực hiện thực
hành trách nhiệm tập thể, cùng với sự cộng tác của các ứng
sinh, của hàng giáo sĩ giáo phận, và của các thành viên khác
của cộng đoàn Kitô, vì sự phát triển toàn diện của các ứng
sinh linh mục. Những Chỉ Dẫn Liên Quan Việc Chuẩn Bị Các Nhà
Đào Tạo Chủng Viện quả quyết rằng việc chọn lựa và đào tạo
các nhà giáo dục, ngay cả khi họ rất giỏi, là “không đủ, nếu
họ không có khả năng thiết lập ‘đội ngũ giảng dạy’ thực sự
và thích hợp, mà mọi thành viên đều hợp nhất tinh thần và
cộng tác huynh đệ.”349 Họ phải cùng với các ứng sinh xây
dựng một cộng đoàn giáo dục bằng việc chia sẻ đời sống và
đối thoại chân thành.
Cộng đoàn giáo dục này cho phép sự đồng
trách nhiệm, đối chất khi cần thiết, phân định và đánh giá
tốt hơn các ơn gọi, qua việc tiếp xúc cá nhân, gương sáng và
linh hướng đều đặn. Việc tham dự các cuộc họp của hội đồng
chủng viện biểu lộ rõ nét trách nhiệm tập thể này.350 Tất cả
các nhà đào tạo làm việc chung với nhau dưới sự lãnh đạo của
vị giám đốc, bắt nhịp với những thực tại của Giáo Hội và của
thế giới.
Các ngài phải đào sâu các nguyên tắc
của đời sống thiêng liêng và sự hiểu biết tâm lý cần thiết
cho vai trò hướng dẫn và cố vấn. Tự do thiêng liêng của ứng
sinh là một mối quan tâm lớn hơn, được nhấn mạnh bởi một sự
phân biệt rõ ràng về trách nhiệm giữa toà trong và toà
ngoài. Sự hiệp nhất với Chúa Kitô là khuôn mẫu của việc
thống nhất đời sống của các ngài và những khía cạnh đào tạo
khác nhau (nhân bản, thiêng liêng, tri thức, cộng đoàn và
mục vụ). Các ngài nên làm cho chính mình trở nên dễ dàng cho
những ai đến với các ngài để xưng tội và linh hướng. Vai trò
quan trọng nhất của các ngài là đào tạo nơi chủng sinh lòng
quí trọng và yêu thích sự thật, óc phê bình thực sự với sự
sáng suốt, quân bình và khiêm tốn.
Các ngài phải phát huy khả năng giảng
dạy và cập nhật hoá kiến thức của mình bằng việc cải tiến
phương pháp, cùng thực hiện những cập nhật cần thiết đối với
những nhu cầu hiện tại của Giáo Hội, giữa một thế giới đang
đổi thay nhanh chóng, trong sự trung thành với Mạc Khải và
Huấn Quyền.
c. Cần Những Nhà Đào Tạo Có
Phẩm Chất
Phẩm chất và đức tính của các nhà đạo
tạo là hết sức quan trọng. Họ phải là những con người của
đời sống cầu nguyện sâu xa, khiêm tốn và khôn ngoan. Họ cần
“được tuyển chọn giữa những người ưu tú, được chuẩn bị kỹ
lưỡng bởi một nền giáo lý vững chắc, một kinh nghiệm mục vụ
thích hợp, được huấn luyện đặc biệt về thiêng liêng và sư
phạm.”351
Đức Gioan Phaolô II đã ký thác cho các
Giám Mục “trách nhiệm nặng nề đào tạo những người sẽ được
giao phó nhiệm vụ giáo dục các linh mục tương lai.”352 Ngài
còn căn dặn rằng “họ cần nhận được một đào tạo chuyên biệt
chú trọng về linh đạo linh mục, nghệ thuật linh hướng, và
những khía cạnh khác của nhiệm vụ khó khăn và tế nhị đang
chờ đợi họ trong việc giáo dục các linh mục tương lai.”353
4. Vị Linh Hướng
a. Vai Trò Thiết Yếu của
Chúa Thánh Thần
Chúa Thánh Thần luôn hoạt động trong
Hội Thánh, trong thế giới và trong từng con người. Mỗi người
phải để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn và nắn đúc con tim,
tình cảm và đời sống nội tâm của mình ngõ hầu sống giống như
Đức Giêsu Nagiaret đã sống: là sự kéo dài của Đức Giêsu
trong lịch sử và hoàn toàn hiến mình cho Thiên Chúa như của
lễ toàn thiêu.354 Sức mạnh của Chúa Thánh Thần luôn luôn “có
đó để soi sáng, tăng sức và hoàn thiện sứ vụ của chúng ta.”
355
Đào tạo thiêng liêng là công việc của
Chúa Thánh Thần và Ngài là vị linh hướng đích thực. Vị linh
hướng chỉ là dụng cụ của Chúa Thánh Thần: vị linh hướng
hướng dẫn chủng sinh, nhưng chính ngài cũng được hướng dẫn
bởi Chúa Thánh Thần và vị đồng hành thiêng liêng của ngài.
Chỉ có Chúa Thánh Thần mới biết đầy đủ và có thể biến đổi
một con người: “Bất cứ sự thay đổi đích thực và bền lâu nào
cũng đều chỉ đến từ Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trực
tiếp trên dân chúng và trong mọi hoàn cảnh.”356 Ngài sẽ soi
sáng cho chúng ta vào lúc thích hợp những gì phải nói và nói
thế nào (x. Mt 10,19-20). Nhưng, “một thừa tác viên được
hướng dẫn tốt của Chúa (họ có thể là giáo sĩ, tu sĩ hoặc
giáo dân), sẽ hướng dẫn người khác cách hữu hiệu trong hành
trình thiêng liêng.”357 Nếu vị linh hướng luôn luôn “ngoan
ngoãn vâng theo những linh hứng của Chúa Thánh Thần,”358
người có thể làm việc cùng với Ngài: “Thánh Thần và chúng
tôi” (Cv 15,28).
b. Vai Trò Quan Trọng của Vị
Linh Hướng
Các vị linh hướng phải là những người
có khả năng hiểu được hoạt động của Thánh Thần Thiên Chúa
nơi những người thụ hướng và giúp họ “phân định các đường
lối Chúa.”359 Họ phải là những chứng nhân bằng chính con
người và toàn bộ đời sống đức tin - nhân bản của họ để người
được đào tạo lắng nghe và tuân giữ.360 Họ phải khơi dậy lòng
tín nhiệm nơi người thụ hướng bởi thái độ đón tiếp niềm nở
và chân thành, đồng thời nuôi dưỡng một tinh thần tin cậy
nhờ sự cẩn mật của họ, có thế thì những người thụ hướng mới
có thể tự do nói lên những trăn trở riêng tư, đặc biệt trong
lãnh vực giới tính.
Các vị linh hướng phải cập nhật các kỹ
năng linh hướng, những hiểu biết về tâm sinh lý, khả năng tư
vấn và các đề tài thích hợp khác để có thể nâng cao chuyên
môn của mình: “những khám phá của khoa tâm lý học, những gợi
ý từ y học hiện đại và những điều tra về xã hội học, được
áp dụng vào bối cảnh nền tảng của con người, đều rất hữu
ích.”361 Họ có thể rút ra được một chương trình linh hướng
có hệ thống và dễ hiểu qua con đường trao đổi với các đồng
nghiệp. Họ nên tham dự các khoá bồi dưỡng định kỳ dành cho
các vị linh hướng, cả hai hạng, vừa huấn luyện các vị linh
hướng mới, vừa cập nhật hoá cho các vị linh hướng cũ, nhờ đó
khả năng của họ có thể tiến bộ liên tục hầu đáp ứng nhu cầu
của người thụ hướng. Thật là lợi ích khi thỉnh thoảng có
cuộc tĩnh tâm dành riêng cho các vị linh hướng thuộc các
chủng viện khác nhau.362
c. Nguyên Tắc Khi Cần Thay Đổi
Vị Linh Hướng
Có thể xảy ra trường hợp thiếu hoặc mất
tín nhiệm, thì “việc đổi linh hướng là luôn có thể và đôi
khi đáng ao ước nữa.”363 Chủng sinh có thể đề nghị trước.
Đôi khi, vị linh hướng sẽ yêu cầu chủng sinh đi linh hướng
với người khác, bởi vì ngài nghĩ rằng ngài sẽ không thể tiếp
tục trách nhiệm nữa.”364
Vì lợi ích của người thụ hướng, những
nguyên tắc sau đây giúp anh phân định xem có nên hay không
tiếp tục gặp một vị linh hướng cá biệt. Anh thẳng thắn xem
xét các động lực khiến anh muốn thay đổi vị linh hướng của
anh: Có phải do mâu thuẫn cá nhân không? Có phải anh muốn
thoát khỏi bị thách đố? Có phải anh đang phóng chiếu những
đức tính tiêu cực như hách dịch, vô cảm, thiếu thông cảm và
hiểu biết lên vị linh hướng của anh ? Có những mong đợi
không thực tiễn chăng? Có phải vì vị linh hướng từ chối cung
cấp thêm ảo tưởng của anh ? Anh cần tranh luận với vị linh
hướng về những khó khăn mà anh đang trải nghiệm trong giao
tế? Anh có tiếp tục nhận được ích lợi thiêng liêng từ việc
hướng dẫn này không? Có vị linh hướng khác mà anh bị lôi
cuốn chăng? Đâu là những lý do?
Người thụ hướng cần phải có đủ thời
gian để suy nghĩ về toàn bộ vấn đề trước khi đưa ra một
quyết định. Anh không nên vội vả, nhưng nên bàn hỏi vấn đề
này với một người trung lập. Có phải đó là sự chấm dứt tự
nhiên, vì sự hướng dẫn tìm kiếm đã được thực hiện? Liệu đây
có phải là thời gian để thay đổi vì hoàn cảnh của người thụ
hướng hay của vị linh hướng, hoặc của cả hai?: thay đổi sự
bổ nhiệm, chuyển sang giai đoạn huấn luyện khác? Hay còn
những việc khác xem ra gặp phải trên đường tương quan linh
hướng như: thời gian, lòng tín nhiệm, hấp dẫn giới tính, đổ
vở giá trị?365
5. Vị Giám Đốc và Hội Đồng
Ratio Fundamentalis Institutionis
Sacerdotalis khuyên Giám Mục bổ nhiệm vị giám đốc “sau khi
tham khảo cẩn thận.”366 Như là trung tâm của chủng viện, vị
giám đốc phải là mẫu mực đức tin và bác ái trong sứ vụ và
đời sống linh mục, với một viễn ảnh rõ ràng về Giáo Hội của
tương lai. Ngài phải được cập nhật cách triệt để và quen
thuộc với những văn kiện của Giáo Hội liên quan tới việc đào
tạo linh mục. Ngài cũng phải rõ ràng về khoa Giáo hội học
của Giáo Hội và có khả năng xây dựng một đội ngũ đào tạo
hiệp nhất và làm việc cho một viễn ảnh chung của chủng viện.
Ngài phải vô tư, không thiên vị và có thể đưa ra những quyết
định đúng đắn và công bằng.
Ngài cũng nên liên kêt với các vị giám
đốc và các nhà đào tạo thuộc các chủng viện khác ở Việt Nam
cũng như ở các nước Á châu, trong tinh thần của một cuộc
trao đổi huynh đệ và hiệu quả. Ngài cần can đảm và thận
trọng trong việc tuyển chọn các ứng sinh, lúc chiêu sinh
cũng như trong thời gian đào tạo, nhấn mạnh đến chất lượng
hơn số lượng. Ngài nên có một sự hiện diện hữu hiệu trong
chủng viện. Sự chia sẻ đời sống hằng ngày trong chủng viện,
tính đều đặn và gương sáng của ngài là hết sức quan trọng
đối với chủng sinh. Ngài nên soạn thảo một chương trình cho
các linh mục mới chịu chức trong vòng năm năm đầu tiên sau
khi thụ phong, với sự chấp thuận và giúp đỡ của Giám Mục.367
6. Nhóm Nhỏ Các Bạn Đồng Môn
Ngày nay người ta nhấn mạnh nhiều đến
tính năng động của nhóm đào tạo. Dưới Ban Giám Đốc, một Ban
Đại Diện, được anh em bạn bầu lên, tham gia vào việc điều
hành chủng viện. Cộng đoàn chủng viện được phân chia thành
nhiều nhóm nhỏ, nhằm thăng tiến việc làm việc nhóm và đời
sống cộng đoàn.368
Các nhóm nhỏ chủng sinh được hình thành
theo các trình độ khác nhau hoặc theo năm đào tạo. Một người
trong ban đào tạo được chỉ định làm linh hoạt viên của nhóm,
để duy trì thế quân bình giữa đời sống cấp nhóm và đời sống
cấp chủng viện. Phải nhắm đến cả hai, các cá nhân và nhóm,
như một toàn thể, ngõ hầu bảo đảm được sự trưởng thành của
cả hai, cá nhân và tập thể.
Đời sống trong nhóm gồm có những lúc
cầu nguyện, gặp gỡ hàng tuần về một đề tài thuộc đời sống
thiêng liêng (chia sẻ đức tin), những giờ giải trí, các hoạt
động mục vụ, trách nhiệm phụng vụ và các dịch vụ hàng
ngày.369 “Sự tương tác trong những nhóm như thế giúp phát
triển sự tin tưởng lẫn nhau, truyền thông và chia sẻ, góp
phần xây dựng một cộng đoàn đúng nghĩa.”370
Nhóm nhỏ này có thể trở thành một nhóm
bạn thân có thể dễ dàng thực hành việc “chỉ bảo huynh
đệ.”371 Thường người ta không dám sửa lỗi người khác, phần
vì con người ai cũng yếu đuối và bất toàn, phần vì tế nhị
hay sợ phản ứng tiêu cực từ phía người kia, hay ít nhất để
tránh hiểu lầm nhau, mâu thuẫn và xung đột có thể có. Vậy,
cách tốt hơn và dễ hơn là mọi người đồng ý thỏa thuận với
nhau rằng “nếu một người trong nhóm thấy người khác có lỗi,
thì người này sẽ nói với người đó về lỗi ấy.”
Trong bối cảnh cuộc gặp gỡ hàng tuần
chia sẻ Phúc Âm và kiểm điểm đời sống, mỗi người có thể góp
ý phản hồi cho người khác và giúp nhau tiến bộ hơn trong
tiến trình đào tạo chủng viện và tự đào tạo, hy vọng tiến
tới “tình huynh đệ bí tích” của chức linh mục (x.Tv 133, 1).
Tiến trình này đòi hỏi phải có ý ngay lành, sự sẵn sàng để
thay đổi, lòng can đảm, tình bác ái, và nhất là ơn Chúa.
Trong cấp độ đời sống nhóm này, mỗi
người phải học biết chăm chú lắng nghe và cho người khác ý
kiến phản hồi cách thích hợp. Mỗi người cũng phải học biết
chấp nhận chính mình và chấp nhận người khác: càng biết nhìn
nhận lỗi lầm, thiếu sót, giới hạn, yếu đuối và bất lực của
mình, ta càng trở nên khiêm tốn hơn; càng biết chấp nhận
những bất lợi đó của người khác, ta càng trở nên độ lượng và
cảm thông hơn.
Đời sống nhóm giúp mỗi thành viên khám
phá và phát triển những tài năng, tài năng tự nhiên và tài
năng đạt được từ kinh nghiệm cuộc sống. Mọi người đều được
Thiên Chúa kêu gọi và trao cho một số ân huệ để mở rộng Nước
Thiên Chúa. Mỗi người có trách nhiệm tìm biết và phát triển
những ân huệ ấy. Chẳng ai sở hữu được mọi ân huệ của Thiên
Chúa, nhưng những ân huệ cần thiết cho sứ mạng luôn hiện
diện trong cộng đoàn, và cộng đoàn là nơi cần thiết để nhận
ra các ân huệ của mỗi thành viên (x. 1Cr 12-14).
Tuy nhiên, nhiều khi người ta phải chịu
đựng những khó khăn và xung đột do ý niệm sai lầm hoặc đặt
không đúng chỗ đức khiêm nhường, sợ hãi, ghen tị hay thèm
muốn ân huệ của người khác (x. Gal 5,26). Nếu biết chú ý tới
những khác biệt của tha nhân, đánh giá sự độc đáo của người
khác với sự hiểu biết tích cực, coi những xung đột chỉ là
một phần cần thiết trong tiến trình sáng tạo, chứ không phải
là vấn đề, thì mọi sự sẽ được giải quyết, cộng đoàn sẽ tiến
triển tốt đẹp,372 và sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội Thánh
sẽ được hiệu quả hơn (Gal 6,2).
7. Môi Trường Thực Tập Mục Vụ
“Bổn phận nuôi dưỡng các ơn gọi thuộc
về toàn thể cộng đồng kitô.”373 Do đó, “toàn thể Dân Chúa
phải cầu nguyện và làm việc không mệt mõi cho các ơn gọi
linh mục.”374 Giáo xứ nhà quê của chủng sinh hay giáo xứ mà
chủng sinh được gửi tới giúp theo chương trình kỳ hè hoặc
thực tập mục vụ là môi trường cần thiết và lý tưởng để mở
rộng việc tự đào tạo của chủng sinh, cũng như việc đào tạo
linh mục của Hội Thánh.
Trong suốt thời gian nghỉ ở môi trường
này, chủng sinh tham gia vào đời sống và sứ vụ của các linh
mục, được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Các ngài có cơ hội để
biết, làm việc với và trở nên một phần trong việc đào tạo
chủng sinh, mà một ngày kia họ sẽ hội nhập với các ngài
trong sứ vụ linh mục. Môi trường này sẽ cung ứng cho chủng
sinh nhiều cơ hội thuận lợi:
* Anh được kinh nghiệm và tham dự vào
sứ vụ giáo xứ;
* Anh sẽ phát triển đời sống cầu nguyện
của anh ngay trong bối cảnh đời sống giáo xứ, vì đó sẽ là
cuộc sống thực sự của anh sau này;
* Anh sẽ học hỏi với cha xứ mà anh đang
sống với ngài như người tập sự;
* Anh được làm quen với nhiều giáo xứ
khác nhau trong Giáo phận;
* Anh đem những gì đã học và kinh
nghiệm trong chủng viện vào hành động, trong những hoàn cảnh
thực tế;
* Anh kinh nghiệm được cuộc sống nhà
xứ.375
Chương trình đào tạo linh mục tại các
chủng viện Việt Nam bao gồm một hoặc hai năm thực tập mục vụ
tại giáo xứ. Việc thực tập mục vụ này tùy theo yêu cầu của
chủng viện và nhu cầu của giáo phận.376 Ngoài ra, việc thực
tập mục vụ này mang lại những lợi ích sau:
* Sự hiện diện hữu hình của các chủng
sinh ở trong giáo xứ sẽ thăng tiến việc phát triển các ơn
gọi;
* Qua việc phục vụ và cộng tác với giáo
dân, chủng sinh có thể học được nơi họ rất nhiều điều: “học
biết giáo dân chiến đấu và sống thế nào là một chuẩn bị
tuyệt vời cho sứ vụ của anh sau này.”377
Sau sáu mươi sáu năm tuổi đời và ba
mươi bốn năm làm linh mục, người viết nhận thấy rằng có sự
tương tác rất hữu ích giữa giáo sĩ và giáo dân, và người
được trợ giúp, nâng đỡ và đào luyện rất nhiều bởi các giáo
dân được trao phó cho người chăm sóc mục vụ. Thật vậy, nếu
chúng ta hỏi ý kiến giáo dân và lắng nghe ý kiến phản hồi
của họ, chúng ta sẽ biết thực hiện làm sao các thay đổi cần
thiết trong đời sống và sứ vụ của mình, đồng thời biết làm
sao đáp ứng thực sự nhu cầu của giáo dân.” 378
Cha xứ (hoặc Văn phòng Ơn gọi của Giáo
phận) sẽ gửi về chủng viện một bản nhận xét góp thêm vào hồ
sơ đào tạo của chủng sinh. Đôi khi nếu các ngài chia sẽ với
chủng sinh sự đánh giá của các ngài trước khi gửi về chủng
viện sẽ có ích hơn. Vì nếu có gì sai hoặc hiểu lầm, chủng
sinh có thể bàn cải hoặc giải thích để vấn đề được giải
quyết, thỏa mãn ích lợi đào tạo trong chân lý và tình
thương: “cây lau bị dập, Người không nỡ bẻ gãy, tim đèn leo
lét khói, Người không nỡ tắt đi. Ngài sẽ làm cho công lý
xuất hiện trong chân lý” (Is 42, 3).
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
Giảm Thiểu Cảm-Cúm
mùa Ðông |
Câu
Chuyện Thầy Lang
Bác sĩ
Nguyễn Ý Ðức
Cảm- Cúm, mà dân gian gọi
là “Bệnh Thời Khí”, thường xảy ra nhiều hơn vào những ngày
Ðông tuyết lạnh, mưa bay.
Cúm hoành hành từ tháng
11 tới tháng 3 dương lịch, đôi khi quyến luyến tới đầu Xuân.
Cảm Lạnh có quanh năm
nhưng cũng hay xuất hiện vào mùa lạnh. Trung bình mỗi người
mỗi năm có thể bị cảm lạnh ba, bốn lần.
Thời tiết lạnh không gây
ra Cảm Cúm, nhưng vào thời điểm này, có nhiều lễ hội nên
người ta thường gặp gỡ nhau và cũng vì mưa lạnh nên họ sống
ở trong nhà nhiều hơn, tạo cơ hội tốt cho Cảm Cúm lây lan.
Cảm-Cúm đều là bệnh của
cơ quan hô hấp và do virus gây ra. Virus khác với vi khuẩn
(bacteria).
Vi khuẩn là các sinh vật
có một tế bào, có thể tự nuôi dưỡng, tăng trưởng và tăng
sinh.
Virus là những hạt acid
nucleic chứa gen di truyền, bao bọc trong một cái vỏ bằng
chất đạm và chất béo. Các hạt này có thể tăng sinh nhưng
phải là ở trong tế bào sống của động vật hoặc thực vật.
Chúng cũng biến hình đổi dạng dễ dàng như Tề Thiên Ðại
Thánh: mỗi mùa cúm một loại virus, mỗi người bị cảm lạnh với
virus khác nhau.
Virus gây Cảm Lạnh có cả
trăm giống, vì vậy không có thuốc chích ngừa. Với Cúm thì
chỉ có dăm loại virus thay phiên nhau gây ra Cúm vào mỗi mùa
Ðông, nên hàng năm cần phải tiêm ngừa.
Kháng sinh có thể tiêu
diệt vi khuẩn nhưng không có tác dụng gì với virus.
Cảm Cúm là bệnh của cơ
quan hô hấp phía trên, ảnh hưởng tới niêm mạc của miệng,
mũi, cuống họng và phổi. Cảm-Cúm rất dễ lây lan. Ngay từ một
ngày trước khi có triệu chứng, người bệnh đã có thể truyền
virus cho người khác và tiếp tục truyền lan dăm ngày kế
tiếp.
Các dấu hiệu của Cảm Cúm
đôi khi trùng hợp nên khó mà biết khi nào bị Cúm, khi nào bị
Cảm. Sau đây là mấy điểm khác biệt để tiện bề so sánh:
Triệu chứng
Cảm Lạnh Cúm
Nóng sốt |
Ít khi có |
Thường có |
Đau nhức |
Nhẹ thôi |
Thường có, nặng |
Ớn lạnh |
Ít có |
Thường có |
Mệt mỏi |
Nhẹ |
Từ nhẹ tới trầm
trọng |
Xuất hiện |
Từ từ |
Khá nhanh, trong
2-3giờ |
Ho |
Ho ra đàm |
Ho khan |
Hắt hơi |
Thường có |
Ít khi có |
Nghẹt mũi |
Thường có |
Ít khi có |
Ðau cuống họng |
Thường có |
Ít khi có |
Nặng ngực |
Nhẹ tới vừa phải |
Thường rất nặng |
Nhức đầu |
Ít khi có |
Thường có |
Cảm Cúm thường tự hết
trong thời gian từ mười ngày tới hai tuần lễ, nếu không có
các biến chứng như viêm phế quản, sưng phổi. Chính những
biến chứng này mới khiến cho người bệnh phải nhập viện và
mới gây ra một số tử vong, đặc biệt là ở người tuổi cao, có
bệnh mãn tính.
Phòng ngừa Cúm hữu hiệu
nhất vẫn là tiêm ngừa. Cho tới hôm nay thì chắc là hầu hết
mọi người đều đã làm rồi. Nói hầu hết vì cũng có một số
người vì lý do này lý do khác hoặc quên chưa kịp chích, thì
nên đi chích ngay. Bây giờ mới tháng Giêng, Flu còn hoành
hành vài ba tháng nữa.
Cảm lạnh thì vẫn chưa có
vaccin ngừa. Cho nên để tránh bệnh, ta cần phải áp dụng các
phương thức phòng chống ngăn ngừa giống như với Cúm.
Virus Cảm Cúm có rất
nhiều trong mũi trong miệng người bệnh. Khi họ ho hoặc hắt
xì hơi là virus theo nhau bay ra không khí từng đàn. Chúng
sống trong không khí, bám trên bàn ghế, vật dụng người bệnh
dùng cả mấy tiếng đồng hồ, có khi cả vài ngày. Ðụng chạm vào
các vật này, hít phải không khí đó là nhiễm bệnh dễ dàng.
Nếu người bệnh lịch sự
đưa tay che miệng che mũi mỗi khi hắt hơi hoặc ho thì bàn
tay của họ sẽ phủ kín những virus Cảm, Cúm. Bàn tay đó cầm
chiếc điện thoại đưa cho người khác hoặc bắt tay đón tiếp
bạn bè là bạn bè lãnh đủ tác nhân gây bệnh.
Kết quả nghiên cứu của
Ðại học Y tế Virginia được công bố vào tháng 9 năm 2006 tại
Ðại hội Vi Trùng Học họp ở San Francisco, cho hay, bệnh nhân
bị cảm lạnh, rời khách sạn sau vài ngày trú ngụ, đều để lại
nhiều virus trên vật dụng trong phòng như điện thoại, nắm
cửa, nút điều chỉnh TV...Khách vãng lưu kế tiếp có thể dễ
dàng nhiễm bệnh, nếu sờ mó vào các vật dụng đó rồi đưa tay
lên dụi mắt, lau mũi..
Vì thế gìn giữ vệ sinh cá
nhân là điều cần ưu tiên áp dụng.
-Xin tạo ra thói quen
rửa tay mỗi khi thấy cần để có thể ngăn ngừa truyền
bệnh và nhận bệnh.
Theo kết quả quan sát của
Hội Vi Trùng Học Hoa Kỳ, thường thường người ta chỉ rửa tay
trước khi dọn cơm, ăn uống, sau khi đại tiểu tiện, thay tã
cho con...chứ ít ai rửa tay sau khi che miệng che mũi để ho
để hắt hơi. Nhất là ở người đang có Cảm Cúm ngự trị. Bàn tay
là yếu tố lớn trong việc lan truyền bệnh tật, nếu người bệnh
không che miệng mũi khi ho hoặc hắt hơi với khăn giấy dùng
một lần rồi vứt bỏ vào nơi không ai đụng chạm tới.
Vậy thì xin chịu khó rửa
tay mỗi khi thấy cần. Chỉ mười lăm giây đồng hồ xoa vò đôi
bàn tay trong nước ấm với chút xà bông là trăm phần trăm
công hiệu phòng chống lây lan Cúm Cảm. Có người gợi ý vừa
rửa tay vừa lẩm bẩm vui vẻ hát hết mấy câu của bài “Happy
Birthday To You”là vừa đủ sạch sẽ đôi bàn tay mà khỏi phải
nhìn đồng hồ...Ðây cũng là ý kiến hay hay, ngộ nghĩnh nên
theo.
Có thể lau tay với dung
dịch có chất cồn khi không có xà phòng.
- Người thân chẳng may bị
Cảm Cúm thì ai cũng sẵn lòng chăm sóc, thuốc thang. Nhưng
nên cẩn thận giữ gìn khi tiếp xúc. Chẳng nên chung chiếu
chung giường, bắt tay ôm hôn từ biệt. Mang khẩu trang khi
phải tới gần phục vụ người bệnh. Lau rửa vật dụng người bệnh
dùng, buồng tắm, cầu tiêu, bàn ghế với nước sát trùng mua
ngoài chợ hoặc pha một phần chất tẩy mầu sát trùng
(chlorox), mười phần nước lã là có dung dịch loại trừ virus.
- Tránh đưa bàn tay dù
ngà ngọc nhưng dính chùm virus Cảm Cúm lên mũi, lên miệng,
lên mắt.
- Khi bắt đầu thấy có dấu
hiệu Cảm Cúm thì nên ở nhà, vừa để nghỉ ngơi vừa để tránh
truyền lan bệnh cho bạn đồng sở, cho học sinh cùng trường.
Cảm Cúm lây lan mạnh nhất vào mấy ngày đầu sau khi nhiễm
bệnh.
Có bệnh là phải kiếm thầy
kiếm thuốc chữa trị.
Ngày xưa thì đi cúng đi
bái:
“Tôi lậy ông Cúm bà Co
Ông ở xứ Nghệ ông bò
sang đây
Khôn thiêng có mâm cỗ
này
Ông sơi cho sạch, ông
rày tha tôi”
Mâm cỗ gồm có một đĩa sôi
trắng, mấy miếng đậu phụ, một chén mắm tôm chanh ớt. Ấy vậy
mà cúng xong là bệnh nhân khỏi liền. Các cụ nói vậy.
Ngày nay, y khoa học tiến
bộ nên chẳng thiếu gì thuốc, từ thuốc tây đến thuốc ta,
thuốc mua theo toa bác sĩ, thuốc bán tự do.
Nhiều người tự động ra
tiệm mua thuốc về uống. Các thuốc này có thể giảm thiểu các
triệu chứng của Cảm-Cúm chứ không chuyên trị virus.
Thuốc gồm có mấy loại
như:
- Thuốc làm giảm đau nhức
vì viêm cuống họng, nhức đầu và để hạ nóng sốt. Các thuốc
thông thường là ibuprofen(Advil, Motrim), acetaminophen
(Tylenol), Naproxen (Aleve), aspirin.
- Thuốc chống triệu chứng
của dị ứng, giảm chẩy nước mắt nước mũi như diphenydramine,
chlorpheniramine.Thuốc thường gây ra khô miệng, cuống họng,
mũi, chóng mặt, khó chịu dạ dày, buồn nôn, nhức đầu, mờ mắt,
buồn ngủ...Không nên uống khi đang bị nghẹt mũi: Thuốc làm
chất nhờn trong mủi đặc lại và khó thoát ra ngoài.
- Thuốc thông đàm như
chất guaifenesin (Guaifed, Anti-Tuss, Dristan Cold and
Cough..), làm loãng đàm và chất nhờn ở hệ hộ hấp. Tác dụng
phụ của thuốc là ói mửa, tiêu chảy, khó chịu dạ dày, nhức
đầu, nổi ngứa trên da.
- Thuốc giảm ho với hoạt
chất thông thường dextromethorphan ( DimatappDM, Vicks 44
cough, Coricidin .). Thuốc khá an toàn và công hiệu nếu dùng
đúng theo hướng dẫn của bác sĩ hoặc nhà sản xuất. Ðôi khi,
sự lạm dụng thuốc có thể đưa tới ảnh hưởng xấu như chóng
mặt, nhìn một vật thành hai, gọng nói lơ lớ, đau bụng, tim
đập nhanh, mất định hướng, hoang tưởng...
- Thuốc chống nghẹt mũi
với hoạt chất chính pseudoephedrine ( Contact, Sudafed) hoặc
phenylephrine (sudafed PE), dưới dạng thuốc viên, xịt
mũi.Thuốc có tác dụng làm xẹp các mạch máu bị giãn sưng ở
trong mũi.
Thuốc có thể làm tim đập
nhanh, chóng mặt,hồi hộp, tính tình nóng nẩy, khó ngủ, tăng
huyết áp.Cần hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng nếu có các
bệnh kinh niên như cao huyết áp, tiểu đường, bệnh tim, thận,
tuyến giáp, cao áp suất mắt hoặc tiểu tiện khó khăn vì nhiếp
tuyến sưng. Tránh thuốc có chất phenylpropanolamine vì thuốc
này gây tác dụng nguy hại cho tim, đã bị cấm bán.
Một dung dịch rẻ tiền,
khá công hiệu và sẵn có trong nhà để hết nghẹt mũi là pha
một chút muối ăn trong nước lã, nhỏ vài giọt là mũi thông
thoáng ngay.
Xúc miệng với dung dịch
muối ấm cũng làm nhẹ đau rát cuống họng.
Với các thuốc kể trên,
xin lưu ý mấy điểm:
- Thuốc Cảm Cúm có thể
chứa nhiều hoạt chất với tác dụng khác nhau, như là vừa
chống ho, vừa chống nghẹt mũi, sổ mũi.
- Lựa mua thuốc đúng với
triệu chứng bệnh của mình. Nếu chỉ sổ mũi, nghẹt mũi thì đâu
có cần phải uống loại thuốc để chữa ho.
- Ðọc kỹ nhãn hiệu, coi
thành phần hoạt chất trong thuốc, để tránh uống nhiều chất
thuốc một lúc. Chẳng hạn chất acetaminophen (Tylenol) có
trong nhiều chế phẩm chữa cảm cúm khác nhau. Nếu uống hai ba
thuốc có cùng hóa chất này thì mình đã tiêu thụ một lượng
quá lớn, có thể có tác dụng bất lợi.
- Với các cháu bé bị cảm
lạnh hoặc thủy đậu, không bao giờ cho uống thuốc giảm sốt
chống đau có chất aspirin. Chất này có thể gây ra hội chứng
Reye với hậu quả trầm trọng là tổn thương não bộ.
- Không nên dùng thuốc
xịt chống nghẹt mũi quá 3 ngày, để tránh tổn thương cho niêm
mạc của mũi cũng như nghẹt mũi gia tăng.
- Một vài loại thuốc cảm
cúm có thể làm cho các bệnh đang có trầm trọng hơn: thuốc
chống ngẹt mũi làm tim đập nhanh, huyết áp lên cao, thuốc
chống dị ứng gây ra chóng mặt, buồn ngủ ảnh hưởng tới việc
lái xe hơi.
- Ðể ý tới ngày hết hạn
dùng ghi trên chai thuốc.
Câu hỏi thường được nêu
ra là bị Cảm Cúm có cần đi bác sĩ để khám bệnh điều trị hay
không?
Bác sĩ chuyên khoa gia
đình Jerry Rogers, tiểu bang Minnesota, cho hay là các
bác sĩ ít khi điều trị Cảm Cúm, trừ khi bệnh nhân có các
biến chứng như viêm cuống phổi, sưng phổi, viêm tai,
viêm xoang do bội nhiễm vi khuẩn. Cảm Cúm thường thường
tự khỏi sau vài tuần lễ.
Nhiều người thấy bị cảm
cúm là vội vàng kiếm thuốc kháng sinh để uống. Nhưng xin nhớ
là thuốc kháng sinh không tiêu diệt được virus. Vì vậy, uống
kháng sinh không những vô ích, tốn tiền mà còn gây ra nhiều
hậu quả không tốt như tạo ra sự nhờn thuốc đối với một số vi
khuẩn, gây ra dị ứng, nhiễm khuẩn cơ quan sinh dục nữ, tiêu
chẩy, khó chịu bao tử.
Sau một tuần lễ mà bệnh
không thuyên giảm hoặc thấy đau ngực, nóng sốt cao, ho ra
đàm có mầu xám thì nên đi bác sĩ để được kiểm tra thêm. Có
thể là mình đã bị viêm sưng phổi và lúc này mới cần điều trị
với kháng sinh.
Cũng xin nhớ là:
- Ta không “bắt cảm lạnh”
(Catch a cold) vì nằm gần cửa sổ gió lùa.
- Không “bắt cảm lạnh”
khi ra ngoài trời với đầu tóc ướt.
- Không “bắt cảm lạnh” vì
thời thiết giảm nhiệt độ bất thình lình.
Các thuốc đặc nhiệm để
phòng ngừa và điều trị các virus cúm A và B là hai loại
thường gây ra bệnh Cúm, gồm có Tamiflu, Relenza, amantadine
và rimantadine. Thuốc có một số giới hạn như sau:
- Chỉ công hiệu nếu được
uống trong vòng hai ngày đầu sau khi có triệu chứng bệnh.
- Không làm bệnh bớt ngay
mà chỉ thu ngắn thời gian bị cúm khoảng một ngày.
- Không thay thế cho
vaccine tiêm ngừa cúm
- Không công hiệu với vi
khuẩn.
- Không loại trừ các biến
chứng của cúm như viêm phổi, viêm tai..
- Có một vài tác dụng phụ
như buồn nôn, khó chịu dạ dày...
Ngoài ra, trong thời gian
Cảm Cúm, nên:
- Nghỉ ngơi trên giường
vài ngày để thư giãn cơ bắp.
- Uống nhiều chất lỏng
như nước lã, nước cam, nước chanh, húp bát súp khoai tây cà
rốt hoặc cháo hoa hành tây nóng hổi...
- Gối đầu hơi cao để mũi
đỡ nghẹt.
- Hỉ mũi nhè nhẹ trong
khăn giấy mềm để loại bỏ chất nhờn
- Ðể máy phun hơi nước
(humidifier) trong phòng để không khí khỏi quá khô.
- Hít hơi ấm từ một bát
cháo nóng, một ly nước trà mới sôi hoặc tắm nước nóng để
giảm nghẹt mũi.
Theo kết quả của một số
nghiên cứu, uống sinh tố C với liều lượng lớn, dùng viên kẹo
ngậm có chất kẽm (zinc), ăn tỏi tươi.. có thể ngăn ngừa và
giảm thiểu bệnh trạng cũng như thời gian bị Cảm Cúm. Nhưng
các ý kiến này chưa được sự chấp nhận của các khoa học gia
vì chưa có bằng chứng rõ rệt.
Cũng trong mục đích giảm
thiểu Cảm Cúm, nên:
- Hàng ngày duy trì chế
độ dinh dưỡng đầy đủ, cân bằng hợp lý để đáp ứng nhu cẩu
năng lượng của cơ thể cũng như để tạo ra tính miễn dịch
mạnh, phòng chống bệnh tật. Nếu cần có thể dùng thêm vài
viên sinh tố, khoáng chất.
- Ngủ nghỉ đầy đủ. Mỗi
đêm cần ngủ khoảng 8 giờ. Thiếu ngủ làm suy yếu hệ miễn
nhiễm, mở đường cho bệnh hoạn.
- Vận động cơ thể đều
đặn.
- Bớt uống rượu, hút
thuốc và
- Bớt căng thẳng buồn bực
vu vơ trong đời sống.
Kết luận nghiên cứu vào
năm 2003 của Tiến sĩ Sheldon Cohen, Ðại học Carnegie Mellon,
Pennsylvania, cho hay: “Người nhiều sinh lực, yêu đời, thư
giãn đều tăng sức đề kháng của cơ thể, tăng miễn dịch tính
và ít bị cảm lạnh trong khi đó người hay cau có, buồn rầu,
nóng nẩy lại dễ dàng bị virus cảm viếng thăm”. .
Bác sĩ Vikki Burns, Ðại
Học Burmingham bên Anh cũng có cùng ý kiến: “Người có nhiều
căng thẳng trong đời sống đều có ít đáp ứng với vaccin ngừa
Cúm, do đó họ dễ bị bệnh”.
Vậy thì xin hãy cùng nhau
“Mỗi
ngày tôi chọn một niềm vui
Cùng với anh em tìm đến mọi người
Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát
Để thấy tiếng cười rộn rã bay xa”
-Trịnh Công Sơn.
Và nhớ rửa tay, khi thấy
cần!
Bác sĩ
Nguyễn Ý Ðức
Texas-Hoa Kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|