Sứ Ðiệp Của Công Ðồng Vatican 2 Gửi Ðến Tất Cả Mọi Người |
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo
Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
I. Sứ Ðiệp Của Công Ðồng Nhân Dịp
Khai Mạc (29-10-1962)
1. Chúng tôi muốn
gửi sứ điệp cứu độ, tình yêu và hòa bình đến tất cả mọi
người, đến mọi dân tộc, sứ điệp đã được Ðức Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống đem đến cho thế giới và giao phó cho
Giáo Hội Người.
Chính vì mục
đích đó, theo lời mời gọi của Ðức Giáo Hoàng khả kính Gioan
XXIII và "đồng tâm nhất trí trong kinh nguyện cùng với Ðức
Maria, Mẹ Chúa Giêsu", chúng tôi, những người kế vị các Sứ
Ðồ, đã qui tụ nơi đây trong sự hiệp nhất của một Ðoàn Thể Sứ
Ðồ mà người đứng đầu là Ðấng kế vị Thánh Phêrô.
2. Ước gì khuôn mặt của Ðức Giêsu
Kitô tỏa chiếu! Trong Nghị Hội Công Ðồng này,
dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng tôi quyết tìm
cách canh tân chính mình chúng tôi để "càng ngày chúng tôi
càng nên trung thành hơn với Phúc Âm của Ðức Kitô". Chúng
tôi sẽ chuyên tâm trình bày chân lý của Thiên Chúa cho con
người thời đại, một chân lý toàn vẹn và thuần khiết để họ có
thể hiểu được dễ dàng và nhiệt tâm gắn bó với chân lý đó.
Ý thức trách
nhiệm chủ chăn, chúng tôi muốn đáp ứng những nhu cầu của mọi
người tìm kiếm Chúa, "đang mò mẫm cố tìm với hy vọng khám
phá ra được Ngài và quả thực Ngài không xa cách mỗi người
chúng ta" (CvTđ 17,27).
Chính vì thế,
vâng theo ý định của Ðức Kitô Ðấng đã nộp mình chịu chết
"hầu tự hiến cho mình một Giáo Hội không vết nhơ hay nét
nhăn... nhưng thánh thiện và tinh tuyền" (Eph 5,27), chúng
tôi sẵn sàng hiến trọn con người chúng tôi cho công cuộc
canh tân tinh thần này để Giáo Hội, từ các thủ lãnh cho đến
các phần tử, chứng tỏ cho thế giới thấy khuôn mặt đáng yêu
của Ðức Kitô tỏa chiếu trong tâm hồn chúng ta "để làm rạng
ngời vinh quang của Thiên Chúa" (2Cor 4,6).
3. Thiên Chúa đã quá yêu thương
thế gian. Chúng tôi tin rằng Chúa Cha đã yêu
thương thế gian đến nỗi đã ban Con mình hầu cứu rỗi thế
gian, giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, "giao hòa
cả vạn vật với Cha Người, thiết lập hòa bình nhờ bửu huyết
đổ ra nơi thập giá Người", nhờ đó chúng ta trở thành "con
của Thiên Chúa, theo danh hiệu cũng như thực sự là thế".
Người đã sai đến cho chúng ta Thánh Thần Người từ nơi Cha,
để cho chúng ta sống bằng chính cuộc sống thần linh của
Người trong tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với những
người anh em chúng ta khiến tất cả nên một trong Ðức Kitô.
4. Nhưng thay vì
làm chúng ta quay lưng lại với những nghĩa vụ trần thế, việc
chúng ta gắn bó với Ðức Kitô trong Ðức Tin, Ðức Cậy và Ðức
Ái lại khiến chúng ta dấn toàn thân vào việc phục vụ những
người anh em chúng ta, theo gương Thầy đáng kính "Ðấng không
đến để được phục vụ nhưng để phục vụ" (Mt 20,28). Chính vì
thế, Giáo Hội được thiết lập không để cai trị nhưng để phục
vụ. "Người đã trao ban mạng sống mình vì chúng ta và chúng
ta cũng phải giao phó mạng sống chúng ta vì anh em" (1Gio
3,16).
Ngoài ra, khi
hy vọng những công việc của Công Ðồng làm cho ánh sáng đức
tin trở nên rực rỡ hơn sống động hơn, chúng tôi ước mong tạo
được một sự canh tân tinh thần và từ đó đem lại một niềm
hứng khởi lý thú làm phong phú gia tài nhân loại trong những
phát minh khoa học, tiến bộ kỹ thuật và phổ biến văn hóa.
5. Tình yêu Ðức Kitô thúc đẩy
chúng tôi. Từ khắp mọi dân tộc trên mặt đất
chúng tôi đến đây mang theo với mình những nỗi khốn quẫn về
vật chất cũng như tinh thần, những khổ đau và khát vọng của
các dân tộc đã được giao phó cho chúng tôi. Chúng tôi hằng
chú ý đến những vấn đề đang bao vây họ. Trước tiên chúng tôi
muốn đem sự săn sóc ân cần đến tận những người hèn mọn nhất,
bần cùng nhất và yếu kém nhất. Theo gương Ðức Kitô, chúng
tôi thương xót đám đông dân chúng đang phải khổ đau vì đói
kém, vì khốn cùng, vì dốt nát. Chúng tôi hằng nhìn đến tất
cả những người, vì thiếu sự trợ giúp đầy đủ, hiện chưa thể
đạt tới mức sống xứng hợp với con người.
Vì thế, khi
bắt tay vào việc, chúng tôi sẽ rất chú trọng đến tất cả
những gì có liên quan đến phẩm giá con người, những gì góp
phần vào sự hiệp thông thực sự giữa các dân tộc. "Tình yêu
Chúa Kitô thúc đẩy chúng tôi" (2Cor 5,14) "Nếu ai thấy người
anh em mình lâm cơn túng thiếu mà lại khép kín cửa lòng với
người anh em, thì làm gì còn tình yêu của Thiên Chúa nơi
mình?" (1Gio 3,17).
6. Hai vấn đề chính yếu.
Trong sứ điệp truyền thanh ngày 21-09-1962, Ðức Giáo
Hoàng Gioan XXIII đã đặc biệt nhấn mạnh đến hai điểm:
Ðiểm thứ nhất
là vấn đề hòa bình giữa các dân tộc. Ai lại không gớm ghét
chiến tranh? Ai lại không hết sức khao khát hòa bình? Giáo
Hội cũng vậy và còn hơn hết mọi người vì Giáo Hội là mẹ tất
cả mọi người. Qua tiếng nói của các Giáo Hoàng, Giáo Hội
không ngừng tuyên bố lòng yêu mến hòa bình, thiện chí xây
dựng hòa bình và hết lòng cộng tác vào mọi nỗ lực chân thành
nhằm kiến tạo hòa bình. Giáo Hội hết sức làm việc để các dân
tộc xích lại gần nhau, hiểu biết nhau và kính trọng lẫn
nhau. Chính Công Ðồng này, với những dị biệt kỳ lạ về chủng
tộc, về quốc gia và về ngôn ngữ lại không phải là chứng từ
sống động, là dấu chỉ hữu hình cho một cộng đoàn yêu thương
huynh đệ hay sao? Chúng tôi khẳng quyết rằng tất cả mọi
người đều là anh em dù thuộc bất cứ chủng tộc hay quốc gia
nào.
Ðiểm thứ hai,
Ðức Giáo Hoàng chú trọng đến công bằng xã hội. Giáo thuyết
được trình bày trong thông điệp Mẹ và Thầy chứng tỏ rõ ràng
hơn bao giờ hết Giáo Hội trở thành cần thiết cho thế giới
hiện đại để tố giác những bất công và những bất bình đẳng
trắng trợn, để tái tạo một bậc thang đúng đắn cho các giá
trị, làm cho đời sống trở thành nhân bản hơn theo những
nguyên tắc của Phúc Âm.
7. Sức mạnh của Thánh Thần.
Chắc hẳn chúng tôi không có những phương tiện kinh tế cũng
như không có thế lực trần gian, nhưng chúng tôi đặt niềm tin
tưởng nơi sức mạnh của Thánh Thần mà Chúa Giêsu Kitô đã hứa
ban cho Giáo Hội. Vì thế, với lòng khiêm cung và nhiệt
thành, chúng tôi kêu mời không phải chỉ những anh em mà
chúng tôi đang phục vụ với tư cách chủ chăn nhưng cũng kêu
mời tất cả những anh em tin vào Ðức Kitô và tất cả mọi người
thiện chí "mà Thiên Chúa muốn cứu thoát và đưa dẫn tới chỗ
nhận biết chân lý" (1Tim 2,4). Ước gì tất cả đều kết hiệp
với chúng tôi trong công cuộc xây dựng ngay tại trần gian
này một xã hội công bằng hơn và huynh đệ hơn. Bởi vì ý định
của Thiên Chúa là muốn nước của mình chiếu tỏa phần nào trên
mặt đất nhờ đức ái như một hình bóng của vương quốc vĩnh
cửu.
Giữa một thế
giới còn đang quá xa cách hòa bình mình mong đợi, còn đang
lo âu trước những đe dọa đè nặng bởi những tiến bộ kỹ thuật
tự chúng rất đáng khâm phục nhưng cũng nguy hại bao lâu
chúng không qui chiếu vào một lề luật luân lý cao hơn, ước
gì bừng lên ánh sáng của niềm hy vọng lớn lao vào Ðức Giêsu
Kitô, Vị Cứu Tinh duy nhất của con người chúng ta.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC VÀ GIA
ĐÌNH GIÁO PHẬN. |
Trong bài trước, chúng
ta đã thấy gia đình có thể được hiểu theo ba nghĩa, đó là
nghĩa chặt, nghĩa rộng và nghĩa bóng. Trước hết, chúng ta sẽ
bàn về nghĩa bóng của danh từ này.
1-
GIA ĐÌNH GIÁO PHẬN
Nếu hiểu theo nghĩa
bóng, thì gia đình là một đoàn thể, là một tổ chức. Chính
trong ý nghĩa này, chúng ta có thể gọi giáo phận là một gia
đình.
Đây cũng là điều Đức
Thánh Cha mong mỏi :
- “Đối với những người
không có gia đình tự nhiên, thì càng phải mở rộng hơn nữa
các cánh cửa của đại gia đình Hội Thánh. Đại gia đình này
mang một khuôn mặt cụ thể, trong gia đình giáo phận và giáo
xứ, trong các cộng đồng căn bản và trong các phong trào tông
đồ. Trong thế giới ngày nay không ai vô gia đình : Hội Thánh
là nhà và gia đình của tất cả mọi người, cách riêng là của
những ai “đang lao đao và gánh nặng.” (CF 85).
Công đồng Vaticanô II
trong sắc lệnh “Christus Dominus”, bàn về nhiệm vụ mục vụ
của các Giám mục trong Giáo hội, đã định nghĩa :
- “Giáo phận là một
phần Dân Thiên Chúa được giao phó cho một Giám mục chăm sóc,
với sự cộng tác của linh mục đoàn, để nhờ liên kết với vị
chủ chăn của mình và qua ngài, giáo phận được tập trung
trong Chúa Thánh Thần nhờ Phúc âm và Thánh Thể, làm thành
một Giáo hội riêng biệt, trong đó Giáo hội Duy nhất, Thánh
thiện, Công giáo và Tông truyền của Chúa Kitô hiện diện và
hành động thực sự.” (CD 11).
Như vậy, chúng ta có
thể coi giáo phận là một gia đình. Và gia đình ấy được đặt
nền tảng trên sự hiệp thông, như Đức Thánh Cha đã viết trong
tông huấn “Ecclesia in Asia”, Giáo hội tại Á châu như sau :
- “Giáo phận là sự hiệp
thông của các cộng đoàn chung quanh vị mục tử; trong đó giáo
sĩ, tu sĩ và giáo dân tham gia cuộc đối thoại bằng đời sống
và bằng tâm hồn, cuộc đối thoại được Chúa Thánh Thần nâng
đỡ. Giáo phận là nơi ưu tiên cho ta thấy cụ thể hình ảnh sự
hiệp thông của các cộng đoàn giữa bao thực tế xã hội, chính
trị, tôn giáo, văn hóa vô cùng phức tạp của Á Châu”. (EA
25).
Quây quần chung quanh
Giám mục, là như người cha của mình, chúng ta thực sự sống
tình nghĩa gia đình :
- “Trong việc soi sóc
các linh hồn, các linh mục giáo phận giữ vai trò số một, vì
khi gia nhập hay liên kết với Giáo hội địa phương, các ngài
hiến toàn thân phục vụ Giáo hội ấy để chăn dắt một phần đoàn
chiên Chúa; vì thế các ngài làm thành một linh mục đoàn và
một gia đình mà Giám mục là người cha.” (CD 28).
Chính cuộc sống ngập
tràn yêu thương này sẽ là một chứng tá củng cố cho những
lời giảng dạy, bằng không thì “thượng bất chính, hạ tác
loạn”, lời giảng dạy của chúng ta sẽ chẳng được ai nghe.
Vậy trước hết, Giám
mục là ai ?
2-
GIÁM MỤC
Giám mục là người cha
trong gia đình giáo phận. Công đồng Vaticanô II trong hiến
chế “Lumen Gentium”, bàn về mầu nhiệm Giáo hội, đã viết :
- “Vì tham dự vào chức
linh mục và vào sứ mệnh của Giám mục, linh mục phải coi ngài
như cha mình và phải kính cẩn vâng phục ngài.” (LG 28).
Ngài còn là vị chủ
chăn, kế vị các Tông đồ, được Chúa trao cho nhiệm vụ chăn
dắt đoàn chiên mình :
- “Thay thế Thiên Chúa,
các ngài đứng đầu đoàn chiên mà các ngài là chủ chăn…chức vụ
chăn dắt Giáo hội của các Tông đồ phải tồn tại và được thi
hành liên tục do thánh chức Giám mục. Vì thế, Thánh Công
đồng dạy rằng chính Chúa đã lập các Giám mục kế vị các Tông
đồ làm mục tử Giáo hội.” (LG 20).
- “Được ủy thác chăm
sóc một Giáo hội riêng biệt, mỗi Giám mục dẫn dắt các con
chiên của mình nhân danh Chúa dưới quyền Đức Giáo hoàng, với
danh nghĩa là chủ chăn riêng, thường xuyên và trực tiếp khi
thi hành nhiệm vụ giáo huấn, thánh hóa và cai quản các con
chiên.” (CD 11).
Và hơn thế nữa, ngài
chính là điểm hội tụ, là nguyên lý hợp nhất của gia đình
giáo phận :
- “Giám mục là nguyên
lý và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất trong Giáo hội địa
phương. Các Giáo hội này được thành lập theo hình ảnh Giáo
hội phổ quát : chính nhờ các Giáo hội ấy mà có một Giáo hội
công giáo, duy nhất.” (LG 23).
Với chức Giám mục, các
ngài phải chu toàn ba chức vụ chính yếu sau đây :
* Trước hết là chức vụ
giáo huấn.
Các ngài phải nỗ lực
loan truyền Tin mừng cho mọi người :
- “Chúa Giêsu, Đấng
được ban mọi quyền năng trên trời dưới đất, đã trao cho các
Giám mục, vì là những người kế vị các Tông đồ, sứ mệnh dạy
dỗ muôn dân và rao giảng Phúc âm cho mọi tạo vật, hầu mọi
người được cứu rỗi nhờ lãnh nhận đức tin, phép Thánh tẩy, và
việc chu toàn giới răn Chúa.” (LG 24).
- “Giám mục là những
người rao truyền đức tin, đem nhiều môn đệ mới về với Đức
Kitô. Giám mục là những tiến sĩ đích thực, nghĩa là có uy
quyền của Đức Kitô, giảng dạy cho những kẻ được trao phó…”
(LG 25).
- “Các ngài phải trình
bày giáo thuyết Kitô giáo một cách thích hợp với những nhu
cầu của thời đại, nghĩa là đáp ứng những khó khăn và những
vấn đề đang làm cho mọi người xao động và khắc khoải nhất…
Trong việc giảng truyền giáo thuyết này, các ngài phải tỏ
lòng ân cần từ mẫu của Giáo hội đối với hết mọi người, tín
hữu cũng như lương dân, và phải chăm sóc đặc biệt đến những
người nghèo khổ, hèn kém nà Chúa đã sai các ngài rao giảng
Phúc Âm cho họ.” (CD 13).
* Tiếp đến là chức vụ
Thánh hóa.
Các ngài phải giúp mọi
người nên thánh bằng các bí tích cũng như bằng chính cuộc
sống gương mẫu của mình :
- “Khi thi hành chức vụ
thánh hóa, các Giám mục phải nhớ rằng mình đã được chọn từ
muôn người và được đặt lên cho họ trong những việc liên quan
đến Thiên Chúa, để dâng của lễ và lễ vật hy sinh đền tội.”
(LG 15).
- “Các ngài thánh hóa
giáo hữu bằng các bí tích mà với quyền giám mục, các ngài lo
ban phát cách đều đặn và phong phú…Trong cách sống, các ngài
phải xa tránh mọi điều ác, và với ơn Chúa giúp, cố gắng hoàn
thiện theo hết khả năng, để cùng với đoàn chiên Chúa trao
phó, đạt tới đời sống vĩnh cửu” (LG 26)
“Các ngài hãy nhớ rằng
mình cũng phải nêu gương thánh thiện bằng bác ái, khiêm
nhường và bằng đời sống đơn giản. Các ngài phải thánh hóa
các Giáo hội được trao phó, sao cho ý nghĩa Giáo hội phổ
quát của Đức Kitô được sáng chói hoàn toàn nơi các Giáo hội
đó.” (CD 15).
* Sau cùng là chức vụ
cai quản.
Trong tinh thần của
Chúa Giêsu, cai quản chính là phục vụ :
- “Trong khi thi hành
nhiệm vụ người cha và chủ chăn, các Giám mục hãy sống giữa
dân mình như những người phục vụ, nghĩa là như những chủ
chăn hiền từ biết các con chiên mình và các con chiên cũng
biết các chủ chăn; như những người cha đích thực tỏ lòng yêu
thương và lo lắng cho hết mọi người và mọi người tỏ lòng tri
ân tuân phục quyền hành Thiên Chúa đã ban cho các ngài. Các
ngài hãy qui tụ đoàn chiên của mình thành một gia đình đông
đủ để mọi người đều ý thức nhiệm vụ riêng mà sống và hoạt
động trong tình hiệp thông bác ái.” (CD 16).
- “Các ngài chỉ dùng
quyền bính để xây dựng đoàn chiên trong chân lý và thánh
thiện, và luôn tâm niệm rằng : người cao trọng hãy nên như
kẻ rốt hết, người làm chủ hãy nên như kẻ tôi tớ.” (LG 27).
Qua những điều vừa
trình bày, chúng ta thấy được một vài nét căn bản về con
người và chức vụ Giám mục.
Để làm cho giáo phận
thực sự trở thành một gia đình, chúng ta sẽ bàn đến mối liên
hệ giữa Giám mục với các linh mục và ngược lại giữa các linh
mục và Giám mục của mình, cũng như mối liên hệ giữa các linh
mục với nhau.
3-
LIÊN HỆ GIỮA GIÁM MỤC VỚI CÁC LINH MỤC.
Trong gia đình giáo
phận, Giám mục chính là một người cha và mối liên hệ giữa
ngài với các linh mục được đặt nền tảng trên tình bác ái
siêu nhiên, như Công đồng đã xác định :
- “Những liên hệ giữa
Giám mục và các linh mục giáo phận phải dựa trên những mối
dây bác ái hoàn toàn siêu nhiên, để sự đồng tâm nhất trí
giữa hàng linh mục với Giám mục làm cho hành động mục vụ của
mình được phong phú hơn.” (CD 28).
Với tư cách là một
người cha, Giám mục phải yêu thương và coi các linh mục như
những người con của mình :
- “Vì các linh mục chia
sẻ một phần nghĩa vụ cũng như nỗi lo âu của chính các ngài
vì hằng ngày họ hăng say thi hành nghĩa vụ đó, nên các ngài
hãy luôn đặc biệt yêu mến họ, coi họ như những người con,
người bạn; như thế, nhờ sẵn sàng nghe họ và liên lạc thân
tín với họ, các ngài nhiệt thành cổ võ toàn thể công tác mục
vụ trong cả giáo phận.” (CD 16).
- “Giám mục không nên
từ chối lắng nghe những kẻ thuộc quyền, nhưng hãy ân cần săn
sóc họ như những người con đích thực, và khuyên nhủ họ hăng
hái cộng tác với mình.” (CD 19).
Với tư cách là một
người cha, Giám mục có bổn phận phải chăm lo cho đời sống
tinh thần cũng như vật chất của các Linh mục :
- “Các ngài phải lo
lắng tới tình trạng thiêng liêng, trí thức và vật chất của
các linh mục mình, để họ có thể sống thánh thiện và đạo đức
cũng như có thể trung thành chu toàn nhiệm vụ riêng một cách
hữu hiệu.” (CD 16).
Công đồng đã đưa ra một
vài việc làm cụ thể. Trước hết đó là sự giúp đỡ về thiêng
liêng và trí thức :
- “Các ngài phải hết
sức chú tâm đến việc đào luyện liên tục các linh mục của
mình.” (P0 7)
- “Do đó, các ngài nên
khuyến khích mở những trung tâm huấn luyện và tổ chức các
cuộc gặp gỡ đặc biệt giúp các linh mục thỉnh thoảng qui tụ
lại với nhau, vừa để chu toàn các việc linh thao lâu dài
hơn, nhằm cải tạo cuộc sống, vừa để học hỏi sâu xa hơn những
môn học của Giáo hội, nhất là Thánh Kinh và thần học hay
những vấn đề xã hội khá quan trọng, và cả những phương pháp
mới của hoạt động mục vụ nữa”. (CD 16).
Tiếp đến là sự giúp đỡ
về vật chất. Trong lãnh vực này có một số vấn đề được Công
đồng, trong sắc lệnh “Presbyterorum Ordinis” bàn về chức vụ
và đời sống các linh mục, đã nêu lên, nhưng rất khó thực
hiện tại Việt Nam, cũng xin đưa ra ở đây để cùng nhau suy
nghĩ :
1-
Vấn đề thù lao :
- “Nhờ hiến thân phụng
sự Thiên Chúa trong việc chu toàn nhiệm vụ được trao phó,
các linh mục được lãnh một số thù lao cân xứng, vì “thợ đáng
ăn lương của mình” và “Chúa đã định liệu những ai rao giảng
Phúc âm được sống bởi Phúc âm”…Phần thù lao cấp phát cho mỗi
vị phải được ấn định hoặc tùy theo bản chất của chức vụ,
hoặc tùy theo hoàn cảnh địa phương và thời gian. Nhưng thù
lao căn bản phải đồng đều cho tất cả các vị có cùng một hoàn
cảnh, phải xứng hợp với hoàn cảnh của các ngài, và hơn nữa
phải giúp các ngài chẳng những có thể cấp một phần thù lao
cân xứng cho những kẻ hy sinh giúp việc các ngài, nhưng còn
có thể tự mình giúp đỡ những kẻ thiếu thốn vì một lý do nào
đó….” (PO 20).
2-
Vấn đề nghỉ ngơi :
- “Ngoài ra, cũng phải
lo liệu làm sao cho phần thù lao này có thể giúp các linh
mục hằng năm có một thời gian nghỉ ngơi thích đáng và đầy
đủ; các Giám mục phải lo cho các linh mục có thể có thời
gian nghỉ ngơi đó.” (PO 20).
3-
Vấn đề bảo hiểm :
- “Trong các quốc gia
mà sự bảo hiểm xã hội cho hàng giáo sĩ chưa được tổ chức
cách thích hợp, Hội đồng Giám mục hãy lưu ý đến giáo luật và
dân luật mà lo liệu cho có những tổ chức trong các giáo
phận... nhờ những tổ chức này và dưới sự chăm sóc của hàng
Giáo phẩm, việc bảo hiểm xã hội được dự liệu đầy đủ cho tổ
chức mà người ta thường gọi là tổ chức y tế dự phòng và cứu
trợ, và dự liệu việc trợ cấp cân xứng cho các linh mục bệnh
tật, tàn phế và già yếu….Chính vì không phải bận tâm đến
tương lai, các ngài có thể hoàn toàn tận hiến cho phần rỗi
các linh hồn và thực hành đức khó nghèo trong tinh thần Phúc
âm một cách hăng say hơn.” (PO 21).
Riêng với những linh
mục đang gặp khó khăn, các ngài nên có những cư xử hợp tình
và hợp lý :
- “Các ngài nên đối xử
nhân từ cách tích cực với những linh mục đang lâm nguy bằng
cách này hay bằng cách khác, hoặc đã sa ngã một cách nào
đó.” (CD 16).
Linh mục không phải chỉ
là con cái, mà còn là anh em, bạn hữu và là người cộng tác
với Giám mục :
- “Vì ơn Chúa Thánh
Thần ban cho các linh mục khi lãnh nhận chức thánh, các Giám
mục phải coi các ngài như những trợ tá và cố vấn cần thiết
trong thừa tác vụ cũng như trong chức vụ dạy dỗ, thánh hóa
và chăn dắt dân Chúa…Chính vì sự hiệp thông trong cùng một
chức Linh mục và thừa tác vụ, các Giám mục phải coi các linh
mục như anh em và bạn hữu, và hết sức lo lắng đến phần lợi
ích vật chất và nhất là thiêng liêng của các ngài.” (PO 7).
- “Phần Giám mục, cũng
phải coi sóc các linh mục cộng tác với mình như con cái và
bạn hữu, như Đức Kitô không gọi các môn đệ là tôi tớ, nhưng
là bạn hữu.” (LG 28).
Vì thế, Giám mục cũng
phải biết lắng nghe và đối thoại, để tránh đi tình trạng đối
đầu và căng thẳng, nhưng sẽ đem đến một sự cộng tác hài hòa
và tốt đẹp :
- “Các Giám mục phải
sẵn sàng lắng nghe, hơn nữa phải hỏi han và đối thoại với
các linh mục về những vấn đề cần thiết cho công việc mục vụ
và lợi ích cho giáo phận.” (PO 7).
Chính nhờ tình yêu
thương chân thành ấy mà giáo phận thực sự trở thành một gia
đình, một mái nhà chung.
4-
LIÊN HỆ GIỮA CÁC LINH MỤC VỚI GIÁM MỤC.
Trong gia đình giáo
phận, các linh mục phải coi Giám mục như người cha thực sự
của mình. Vì thế, các linh mục phải :
* Trọng kính Giám mục :
- “Phần các linh mục,
nên nhớ rằng : các Giám mục lãnh nhận sung mãn Bí tích
Truyền chức thánh, nên phải tôn trọng nơi các ngài quyền
bính của Đức Kitô, vị Chủ Chăn tối cao.” (PO 7).
- “Mọi người phải kính
trọng các Giám mục như những chứng nhân của chân lý thần
linh và công giáo khi các ngài thông hiệp với Giáo hoàng
Rôma mà dạy dỗ.” (LG 25).
* Vâng phục Giám mục :
- “Vậy các linh mục
phải kết hợp với Giám mục bằng tình thương yêu chân thành và
lòng vâng phục.” (LG 25).
- “Phải chấp nhận phán
quyết của Giám mục mình, khi nhân danh Đức Kitô, công bố
những gì về đức tin và phong hóa, cũng như phải tuân theo
ngài với một lòng kính cẩn tuân phục.” LG 25).
* Phải hiệp thông với
Giám mục :
- “Tất cả các linh mục,
hiệp nhất với các Giám mục, đều tham dự cùng một chức Linh
mục và thừa tác vụ duy nhất của Đức Kitô; cho nên chính tính
cách duy nhất của việc tấn phong và sứ mệnh đòi phải có sự
hiệp thông phẩm trật giữa các ngài và hàng Giám mục.” (PO
7).
- “Phải liên kết với
Giám mục như Giáo hội gắn bó với Đức Kitô và như Đức Kitô
gắn bó với Chúa Cha, hầu nhờ sự hiệp nhất ấy tất cả mọi sự
đều hòa hợp và trở nên phong phú cho vinh quang Thiên Chúa.”
(LG 27).
* Phải cộng tác với
Giám mục :
- “Tất cả các linh mục,
nhất là những vị đặc biệt thụ phong để thành linh mục giáo
phận, hãy nhớ rằng việc trung thành kết hợp và quảng đại
cộng tác với Giám mục là phương tiện rất tốt để thánh hóa
chính mình.” (LG 41).
- “Tất cả các linh mục
giáo phận cũng như linh mục dòng đều cùng Giám mục tham dự
và thi hành một chức Linh mục của Đức Kitô và do đó các ngài
thành những người cộng tác khôn ngoan của hàng Giám mục.”
(CD 28).
* Phải chia sẻ những lo
lắng với Giám mục :
- “Trong mỗi cộng đoàn
tín hữu địa phương, linh mục là hiện thân của Giám mục mà
các ngài hằng liên kết với lòng tin tưởng và quảng đại, lãnh
nhận phần chức vụ cùng chia sẻ nỗi lo lắng của Giám mục và
hằng ngày ân cần thi hành chức vụ ấy.” (LG 28).
* Phải lắng nghe và
trao đổi với Giám mục :
- “Để cổ võ việc phục
vụ các linh hồn mỗi ngày một hơn, Giám mục nên mời gọi các
linh mục đối thoại riêng và chung nữa, nhất là về vấn đề mục
vụ, không những khi thuận tiện, mà còn nên ấn định thời gian
nếu có thể.” (LG 28).
* Phải tham gia những
công việc chung của giáo phận :
- “Luôn mưu cầu lợi ích
cho con cái Thiên Chúa, linh mục phải hăng hái tham gia
những công cuộc mục vụ của cả giáo phận, hơn nữa của toàn
thể Giáo hội.” (LG 28).
5-
MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁC LINH MỤC VỚI NHAU.
Trong gia đình giáo
phận, nếu Giám mục đã là người cha, thì các linh mục chính
là những người anh em với nhau, được nối kết bằng một tình
huynh đệ chân thành, như Công đồng đã xác quyết :
- “Một tình huynh đệ
thắm thiết nối kết tất cả các linh mục với nhau vì cùng tham
dự một chức thánh và một sứ mệnh chung. Tình huynh đệ ấy
phải bộc lộ một cách tự phát tự nguyện qua sự tương trợ cả
tinh thần lẫn vật chất, trong phạm vi mục vụ cũng như trong
phạm vi cá nhân, trong các cuộc hội họp cũng như trong sự
hiệp thông với nhau qua đời sống, việc làm và tình bác ái.”
(LG 28).
- “Khi gia nhập hàng
linh mục nhờ bí tích Truyền chức thánh, tất cả các linh mục
liên kết với nhau bằng một tình huynh đệ do bí tích; nhưng
đặc biệt trong một giáo phận, khi được chỉ định phục vụ dưới
quyền Giám mục của mình, các ngài hợp thành một Linh mục
đoàn duy nhất.” (PO 8).
Tình huynh đệ ấy phải
được biểu lộ qua những việc làm cụ thể chẳng hạn như :
* Giúp đỡ lẫn nhau về
tinh thần cũng như vật chất :
- “Điều rất quan trọng
là tất cả các linh mục, triều cũng như dòng, phải giúp đỡ
nhau, để luôn luôn là những cộng tác viên của chân lý.” (PO
8).
- Về vật chất : “Trong
tinh thần huynh đệ đó, các linh mục đừng quên lòng hiếu
khách, phải lo làm việc thiện và san sẻ của cải, nhất là chú
tâm đến những vị đau yếu, phiền muộn, lao lực, cô đơn, bị
đày ải và ngay cả những vị bị bách hại.” (PO 8).
- Về tinh thần : “Các
ngài cũng hãy sẵn lòng và vui vẻ họp nhau để tĩnh dưỡng tâm
hồn, vì nhớ lại những lời chính Chúa đã mời gọi các tông đồ
mệt mỏi : các con hãy đến nơi thanh vắng và nghỉ ngơi một
chút. Ngoài ra, để giúp nhau vun trồng đời sống thiêng liêng
và trí thức, để có thể cộng tác với nhau đắc lực hơn trong
thừa tác vụ và để tránh những nguy hiểm có thể xảy ra do sự
cô đơn, các linh mục phải cổ võ một đời sống chung, hoặc một
lối sống cộng đoàn nào đó. Việc này có thể thực hiện theo
nhiều hình thức khác nhau tùy những nhu cầu khác biệt thuộc
cá nhân hay mục vụ : như ở chung nơi nào có thể hoặc ăn
chung, hoặc ít là có những cuộc họp mặt thường xuyên và định
kỳ. Cũng nên thành lập và nhiệt liệt khuyến khích các hội
Linh mục mà nội quy đă được giáo quyền hữu trách chuẩn
nhận…” (PO 8).
* Hợp nhất và cộng tác
với nhau trong việc mục vụ của giáo phận :
- “Tất cả các linh mục
giáo phận hãy hợp nhất với nhau và nhờ thế thúc đẩy lo lắng
cho lợi ích thiêng liêng của toàn giáo phận. Hơn nữa các
ngài hãy nhớ rằng những của cải mình có được khi nhận chức
vụ trong Giáo hội đều liên hệ vì nhiệm vụ thánh, nên các
ngài hãy tùy sức mà quảng đại giúp đỡ những nhu cầu vật chất
của giáo phận, theo như sự quy định của Giám mục.” (CD 28).
* Ngoài ra, Công đồng
cũng đề cập đến những mối liên hệ đặc biệt giữa các linh mục
:
1- Trẻ và già :
- “Những linh mục lớn
tuổi hãy thực sự đón nhận các linh mục trẻ như những người
em và hãy giúp đỡ họ trong những công tác cũng như những
gánh nặng đầu tiên của thừa tác vụ; hơn nữa các ngài nên cố
gắng hiểu biết tâm trạng của họ, dù khác với tâm trạng của
mình,và theo dõi các công việc của họ với lòng nhân hậu.
Cũng thế, các linh mục trẻ phải kính trọng tuổi tác cũng như
phải bàn hỏi với các ngài về những vấn đề liên quan đến việc
coi sóc các linh hồn và sẵn lòng cộng tác với các ngài.” (PO
8).
2- Những linh mục gặp
phải khó khăn :
- “Vì liên kết với nhau
trong chức Linh mục như thế, nên các ngài phải biết rằng
mình đặc biệt có trách nhiệm đối với những vị đang gặp phải
những hoàn cảnh khó khăn; các ngài phải kịp thời giúp đỡ và
nếu cần phải khuyên bảo cách tế nhị. Đối với những vị khiếm
khuyết về một vấn đề nào đó, các ngài phải luôn lấy tình bác
ái huynh đệ và quảng đại mà đối xử , lại phải cầu nguyện rất
nhiều với Chúa cho các vị đó, và phải luôn tỏ ra mình là
anh em và bạn hữu đích thực của họ.” (PO 8).
3- Chính và phó :
- “Để việc săn sóc các
linh hồn được hữu hiệu hơn, đời sống chung của các linh mục,
đặc biệt là các linh mục trong cùng một giáo xứ, được tha
thiết khuyến khích, vì một đời sống như thế vừa hỗ trợ hoạt
động tông đồ, vừa nêu gương bác ái và đoàn kết cho giáo
hữu.” (CD 30).
- “Các linh mục phó xứ
là những cộng sự viên của linh mục chính xứ, hằng ngày các
ngài góp phần cộng tác quí giá và sống động vào việc thi
hành phận sự mục vụ dưới quyền linh mục chính xứ. Vì thế,
linh mục chính xứ và các linh mục phó xứ của ngài, phải có
những liên lạc huynh đệ, luôn bác ái và kính trọng nhau,
tương trợ lẫn nhau, bằng những lời khuyên nhủ, giúp đỡ và
gương mẫu, đồng tâm hiệp ý và hăng say lo lắng cho giáo xứ.”
(CD 30).
4- Dòng và triều :
- Trọng kính và giúp đỡ
Giám mục : “Tất cả các tu sĩ dòng tu phải sốt sắng tuân phục
và kính trọng các Giám mục là những đấng kế vị các Tông đồ.
Ngoài ra, mỗi khi được mời cách hợp pháp tham dự vào các
hoạt động tông đồ, họ buộc phải thi hành nhiệm vụ của mình
sao cho thành những cộng sự viên thường trực và tùng phục
Giám mục.” (CD 35).
- “Giữa các tu hội với
nhau, cũng như giữa các tu hội với hàng giáo sĩ giáo phận,
phải khuyến khích việc hợp tác có tổ chức. Nhất là phải có
sự phối hợp chặt chẽ giữa mọi công việc và hoạt động tông
đồ, nó tùy thuộc ở ý hướng siêu nhiên của tinh thần và tâm
hồn, đâm rễ sâu và xây dựng trên bác ái.” (CD 35).
- Muốn được như vậy cần
phải biết trao đổi với nhau : “Để đồng một lòng tán trợ
những mối tương quan giữa các Giám mục và các tu sĩ cách
hữu hiệu, các Giám mục và các bề trên dòng tu hãy vui lòng
họp lại với nhau vào những kỳ hạn nhất địnhm và mỗi khi thấy
thích hợp, để thảo luận về những công việc có liên hệ tổng
quát tới hoạt động tông đồ tại lãnh thổ mình.” (CD 35).
KẾT
LUẬN :
Tóm lại, lại qua sự
hiệp thông và cộng tác ấy, các linh mục kết thành vòng hoa
thiêng liêng và thực sự là niềm vinh dự cho hàng Giám mục.
(LG 41).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH TUYỆT VỜI |
Phúc Âm Nhật Ký
18.02.2007
(Lc 6:27-38)
Năm nay ngày lễ Valentine trùng vào dịp
Tết Ðinh Hợi. Mọi người như ngụp lặn trong hạnh phúc. Những
ngày hạnh phúc thật vắn vỏi. Niềm vui qua mau ...
Ðứng trước hạnh phúc, nhiều người bi
quan than thở : “Hạnh phúc trên trần gian là hư vô, Chúa ơi
!” Nhà Phật cũng nhìn cuộc đời như cảnh sắc sắc không
không. Còn Chúa Giêsu cho thấy hạnh phúc trần gian là khởi
điểm dẫn tới hạnh phúc đích thực trên Thiên đàng, nếu con
người nhận biết có Ðấng Tạo Hóa cao trọng hơn mình. Hạnh
phúc dành cho những ai có lòng tin, vì họ biết dâng về Thiên
Chúa danh dự và vinh quang. Bởi vậy, Chúa nói : “Ai tin tôi
thì được sự sống đời đời.” (Ga 6:47) Ðức tin đem lại cuộc
sống hạnh phúc là đức tin sống nhờ tình yêu Thiên Chúa vô
biên, một tình yêu biểu hiện qua tình thân nơi mọi người
đang chung sống với chúng ta hằng ngày.
Dầu sao hạnh phúc trong mấy ngày
Valentine và Tết cũng chỉ xuất hiện trong tương quan tốt đẹp
giữa những người thân yêu. Nhưng cuộc sống mấy khi có
những tương quan tốt đẹp như thế ? Tương quan nhiều lúc rất
căng thẳng ngay giữa những người cùng huyết tộc hay lý
tưởng. Tương quan căng thẳng thường gãy đổ hay bùng nổ
thành những cuộc báo thù. Thử hỏi có thể tìm thấy hạnh phúc
trong những tương quan gẫy đổ đó không ? Bằng cách nào?
Ðức Phật khuyên con người không nên lấy
oán báo oán. Lời khuyên chưa xác định rõ khuôn mặt kẻ thù.
Nghe đến kẻ thù, ai cũng cảm thấy ớn lạnh. Phần thưởng đích
đáng cho kẻ thù chỉ là sự trả thù hay báo oán.
Nhưng không thấy ai đồng thời với Ðức
Giêsu khuyên dạy một luật nào tương đương hay tương tự luật
yêu kẻ thù. Ngay cả luật vàng (Mt 7:12; Lc 6:31) cũng chưa
vượt qua được biên giới dầy cộm giữa các đối phương. Khuôn
vàng thước ngọc đó có thể kiếm thấy điểm chung với những
mệnh lệnh của Rabbi Hillel ghi trong sách Talmud ở Babylone
(“Ðừng làm cho tha nhân điều anh em không muốn người ta làm
cho anh em” : Shabbat 31a). Trong khi đó, Ðức Giêsu mạnh
mẽ khuyên chúng ta : “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét
anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện
cho kẻ vu khống anh em.” (Lc 6:27-28) Nhiều người cho rằng
đây là điều phi lý, điên rồ, không thể thực hiện được. Vậy
nếu điều phi lý đó trở thành hiện thực thì sao ?
Quả thật, lời khuyên đó phi lý và
chướng tai, nếu người nghe không có đức tin. Phải có đức
tin, mới thấy tất cả vinh dự và hạnh phúc của người đang cố
gắng trở thành “con Ðấng Tối Cao” (Lc 6:35) và “nên hoàn
thiện, như Cha trên trời là Ðấng hoàn thiện.” (Mt 5:48) Tất
cả sức mạnh bí mật và lý tưởng cao cả lôi cuốn Kitô hữu là ở
đó ! Chỉ có lòng quảng đại mới khiến họ nên thánh thiện như
Chúa Cha mà thôi. Lòng thương xót của Chúa Cha vượt trên
lòng thương xót của vị Quan án. Lòng thương xót có sức chữa
lành hơn án lệnh.
Lý tưởng đó đã thành hiện thực trong
cuộc tử nạn. Qua đó, Chúa Giêsu cho thấy ý nghĩa giáo huấn
yêu kẻ thù. Người đã xin Chúa Cha tha cho những kẻ giết
mình, vì chúng “không biết việc chúng làm.” (Lc 23:34) Giả
sử bị treo trên thập giá như Thày, chúng ta có thể nói lên
lời tha thứ đó không ? Nhiều lúc chưa bị đối xử tàn tệ đến
như vậy, chúng ta đã thốt lên những lời chua cay, nguyền
rủa, nóng giận hay hành hung, bạo động với đối phương rồi.
Thực tế khó biết chừng nào ! Nhưng trong mầu nhiệm Phục
sinh, tình yêu đối với kẻ thù đã hiện thực và trở thành hình
tượng biểu hiện lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa.
Cái gì làm cho Kitô hữu khác biệt và
Kitô giáo nổi bật hơn các tôn giáo khác? Ðó chính là ân
sủng giúp ta “đối xử với tha nhân, không phải như họ đáng,
nhưng như Thiên Chúa muốn họ được đối xử” một cách nhân từ
và quảng đại. Lòng bao dung dạy ta trao tặng kẻ thù điều họ
không đáng hưởng. Ngược lại, không có lòng bao dung đó,
con người trở nên hẹp hòi và nhỏ mọn. Họ bới lông tìm vết
và nhìn người anh em với con mắt tiêu cực. Lúc nào họ cũng
sẵn sàng lên án, dù chưa hề dành thời giờ và công sức tìm
hiểu sự thật. Với những thành kiến nặng nề, họ dễ dàng biến
anh em thành kẻ thù. Không gì đảo ngược Giáo huấn của Chúa
hơn !
Xin hỏi : Bạn có muốn sống hạnh phúc
theo Tin Mừng không ? Nếu muốn, bạn phải trở nên ngu dại
trước mắt trần gian. Ðó là cách sống Tin Mừng. Chỉ có con
đường thập giá mới dẫn đến Phục sinh trong Ðức Kitô. Ðức
tin mới cho thấy con đường đó. “Thật thế, lời rao giảng về
thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư
mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì
đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa.” (1 Cr 1:18) Chỉ có cây
thập giá của Ðức Giêsu Kitô mới có thể giải thoát chúng ta
khỏi sự bạo ngược, tàn ác, ghen ghét, hận thù, oán giận và
làm cho chúng ta can đảm biến điều ác thành điều lành. Tình
yêu và ân sủng đó có sức chữa lành và cứu khỏi diệt vong.
Nếu muốn sống hạnh phúc, chúng ta hãy
sống trong đức tin và tình yêu Thiên Chúa và con người, tình
yêu của mọi người, bất kể họ là ai. Nhờ đó, chúng ta tìm
thấy hạnh phúc. Lịch sử cho thấy có nhiều người đã thuộc
lòng bài học tha thứ của Chúa Giêsu trên thập giá. Năm
2006 vừa qua, sau bài diễn văn của ÐGH Bênêđictô XVI ở
Regenburg, Ðức quốc, một nữ tu đã bị ám sát tại Somalia.
Trên đường cứu cấp, vị nữ tu đã liên tục nói lời cuối cùng :
“Tôi tha thứ, tôi tha thứ ...” Ai có thể quên được hình
ảnh ÐGH Gioan Phaolô II vào tận sà lim thăm viếng và ngỏ lời
tha thứ Mehmet Ali Agca,
kẻ đã ám sát người năm 1981 ?
Sử xanh vẫn còn ghi đậm hành động quá
tốt của Ðavít đối với vua Saulê. Mặc dù bị vua Saulê săn
đuổi và cướp hết tài sản và những người thân, Ðavit vẫn một
mực trung thành và ái mộ, chứ không phục thù hay giết hại
nhà vua, ngay cả khi có cơ hội. Ông đã không hành động theo
đam mê hay thói đời vay trả, nhưng đã theo lòng kính sợ và
sự công chính của Thiên Chúa.
Làm sao các ngài có thể biến nỗi đau
đớn, sự giận dữ hay mất mát thành lòng thương xót và sự tha
thứ như thế ? Phải có đức tin mãnh liệt lắm, mới có thể có
một tâm hồn quảng đại lớn lao. Không có đức tin, không thể
hiểu được ý nghĩa siêu nhiên của sự sống trên trần gian.
Tận thâm tâm, nhiều người không thể tha thứ cho những người
lầm lỗi. Nhưng nếu biết cầu nguyện đôi chút, họ sẽ được
Thiên Chúa ban ơn biết thứ tha. Nhất là, nếu có kinh nghiệm
về lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng bao
dung và quảng đại với tha nhân. Có cảm nghiệm sâu xa lòng
Chúa thương xót, chúng ta mới hiểu biết và thấy được tất cả
giá trị của lòng quảng đại của Thiên Chúa. Từ đó, chúng ta
mới thấy mình bị thôi thúc phải bao dung độ lượng với tha
nhân.
Bao dung không phải là phép lạ xảy ra
chớp nhoáng, nhưng là cao điểm của một đời sống quảng đại,
hằng ngày tập tha thứ cho những người xúc phạm đến mình.
Khi bị đối xử bất công, ai cũng có khuynh hướng trả thù.
Trong đời sống hằng ngày, hình thức phổ biến nhất là nói
hành, nói xấu đối phương để tạo dư luận hay kéo bè kéo
cánh. Mục đích để bôi nhọ hay làm mất danh dự. Nếu không
bạo động để trả thù được, ít nhất cũng vui mừng khi thấy đối
phương bị tai nạn.
Khi bị xúc phạm hay tổn thương, ai
chẳng đau khổ ? Khi tha thứ, ta đau khổ thêm một lần nữa.
Thập giá dù nhỏ bé tới đâu cũng sẽ đem vinh quang phục
sinh. Thật vậy, vì yêu thương, Thiên Chúa sẽ ban phần
thưởng rất lớn lao khi chúng ta thật tình tha thứ cho tha
nhân (x. Lc 6:38). Nhưng việc tha thứ không chỉ cần thiết
để lãnh phần thưởng đời sau. Nhưng ngay trong cuộc sống hôm
nay, sự tha thứ vô cùng cần thiết cho hạnh phúc gia đình và
trật tự xã hội. Chính vì thiếu quảng đại, con người đã
không thể tha thứ cho nhau. Biết bao người đã trở thành nạn
nhân cho sự oán thù giữa các phe phái. Cuộc chiến hung tàn
giữa những người cùng một niềm tin ở Ái Nhĩ Lan kéo dài hàng
thế kỷ và ở Trung Ðông hiện nay đã cướp đi hàng triệu sinh
mạng và phân tán bao nhiêu gia đình. Cuộc chiến Việt nam đã
chấm dứt trên ba chục năm, nhưng ngọn lửa oán hờn đã bị dập
tắt trong lòng mọi người chưa ?
Thực tế rất khó thực hiện giới luật
tình yêu của Chúa. Ðòi tình yêu tràn sang kẻ thù là một
điều không bình thường. Kẻ thù không thể trở thành đối
tượng của tình yêu. Khi kẻ thù trở thành đối tượng của tình
yêu, kẻ thù không còn phải là kẻ thù nữa. Nói khác, người
môn đệ Chúa Kitô không thể có kẻ thù. Còn ai muốn coi Kitô
hữu là kẻ thù, thì đó là vấn đề của họ.
Chúa đòi hỏi rất gắt gao. Nên nhớ lý
tưởng của Kitô hữu là trọn lành như Chúa Cha ở trên trời.
Lý tưởng đó quá cao vời. Bởi thế, Chúa Cha muốn trình bày
cho mọi người một mẫu gương khả thi nơi Chúa Con, Ðấng đã
thi hành giới luật thương yêu tuyệt đối đó trên thập giá.
Sở dĩ Chúa Con đã hoàn thành sứ mệnh tình yêu, vì Người đã
được Thần Khí hướng dẫn và nâng đỡ. Cũng Thần Khí đó đã
giúp đỡ bao thánh nhân yêu thương và tha thứ cho kẻ thù như
Chúa Kitô.
Không có giới răn nào đòi hỏi gắt gao
bằng giới luật tình yêu, nhất là tình yêu đối với kẻ thù.
Ngoài Thần Khí, hỏi sức mạnh nào có thể giúp chúng ta thỏa
mãn đòi hỏi gắt gao đó của Chúa ? Bởi vậy, cần cầu nguyện
thật nhiều mới có thể làm chứng cho Ðức Kitô giữa một thế
giới đầy tinh thần thế tục và bạo loạn hôm nay. Khi tình
yêu không còn biên giới, mùa xuân mới thực sự đem lại hạnh
phúc và ấm no cho gia đình nhân loại.
Lạy Chúa, tình yêu Chúa đem lại tự
do và ơn tha thứ. Xin Chúa cho con tràn đầy Thần Khí Chúa
và giải thoát tâm hồn con, hầu không gì có thể khiến con
nuôi sự hận thù, mất bình an, niềm vui và cay đắng với tha
nhân. Amen.
đỗ lực
18.02.2007
dzuize@gmail.com |
VỀ MỤC LỤC
|
|
KHÔN NGOAN TRONG HÀNH ĐỘNG KIÊN TRÌ TRONG CẦU NGUYỆN
VÀ HIỀN
LÀNH TRONG PHỤC VỤ |
Ngày 12 tháng 12 năm 2006 vừa qua, giáo
phận Ban Mê Thuột chúng tôi hân hoan đón nhận 7 tân Phó tế.
Trong Thánh lễ truyền chức. Đức Giám Mục đã đọc lời tổng
nguyện với những dòng cuối như sau: Xin cho các thầy biết
khôn ngoan trong hành động, kiên trì trong cầu nguyện, và
hiền lành trong phục vụ. Lời cầu xin thật hàm súc và ý vị.
Xin được chia sẻ đôi tâm tình cùng các “thầy sáu” và hẳn
nhiên cũng là những lời tự kiểm cho bản thân.
Khôn ngoan trong hành động: Người khôn
ngoan trước hết là người biết phân biệt các sự vật hiện
tượng. Họ biết phân biệt cái gì tốt, cái gì xấu, cái gì
đúng, cái gì sai, biết phân biệt điều hơn điểm kém, điểm
chính, điểm phụ, đâu là nguyên nhân, đâu là kết quả, đâu là
bản chất, đâu là hiện tượng … Có lẽ môn toán ta học ở nhà
trường là một trong những môn học góp phần rất lớn trong
việc rèn luyện trí khôn. Từ bậc tiểu học qua các phép tính
cộng trừ nhân chia đến bậc trung học qua các dấu hiệu:
“bằng, hơn, kém, suy ra, ắt có và đủ…” tất cả đều giúp ta
biết phân biệt, biết phân biệt là tiền đề của sự khôn ngoan.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó thì
chưa phải là khôn ngoan. Người khôn ngoan không chỉ biết
phân biệt cái gì tốt, cái gì xấu, nhưng còn biết chọn lựa.
Họ biết chọn điều tốt hơn điều xấu, biết chọn điều tốt nhiền
hơn là tốt ít và dĩ nhiên luôn ưu tiên chọn điều tốt nhất.
Để đạt mục tiêu nào đó, thì trong hành động người khôn ngoan
luôn chọn phương án tối ưu và luôn sẵn sàng phương án kém
hơn để dự phòng một khi phương án tối ưu bị ngăn trở không
thể thực thi. Trong các mục tiêu đề ra, người khôn ngoan
thường chọn lựa mục tiêu tốt nhất và khả thi nhất. và tương
tự như thế, trong các nguyên nhân làm nên mức kết quả thì
người khôn ngoan xem trọng những nguyên nhân chính. Trong
các điều kiện để hình thành một sự kiện hay hiện tượng thì
người khôn ngoan lưu tâm đặc biệt đến những điều kiện tất
yếu phải có.
Vấn đề đặt ra ở đây không phải trình
bày thế nào là khôn ngoan, nhưng lướt qua một đôi nét khái
niệm về khôn ngoan để tự kiểm xem mình có thật sự khôn ngoan
hay chỉ khôn lanh, thậm chí có khi chỉ là khôn ranh. Quả
thật xét lại bản thân, rất nhiều khi tôi những tưởng mình đã
khôn, nhưng chỉ là khôn lanh mà thôi. Đó là mặc dù có biết
phân biệt điều gì tốt và điều gì tốt hơn, thậm chí điều gì
tốt nhất, thế mà tôi thường chọn lựa điều tốt “xoàng xĩnh”
điều tốt ít hơn để khỏi “bán đi tất cả gia tài để tậu cho
được kho báu” (x. Mt 13,44-46), khỏi phải hy sinh hoặc để
khỏi phải đụng chạm ai, nhất là khỏi phải làm mất lòng kẻ có
thế, có quyền. Biết đó là điều tốt hơn mà bản thân không dám
chọn lựa, quả là vẫn còn khôn ngoan theo “kiểu thế gian”,
nếu không muốn nói là khôn lanh, khôn lỏi.
Người ta thường gắn sự khôn ngoan với
đức cẩn trọng. Dĩ nhiên người khôn ngoan thì phải biết thận
trọng nhưng không phải hễ thận trọng là khôn ngoan. Ta cần
lưu ý điều này: rất nhiều khi cái vỏ bọc thận trọng đang che
đậy cái sự khôn lanh của ta. Bên ngoài xem ra là thận trọng
nhưng bên trong là sự toan tính thiệt hơn, sợ bị mang tiếng,
sợ bị khó dễ, sợ bị mất lòng … Phải chăng đang có đó những
người ngoài đời lẫn trong đạo rất “thận trọng” nên không làm
gì, không nói gì, vì thế chẳng đụng đến ai, chẳng làm mất
lòng ai, và mỗi khi có bầu cử chọn lựa nhân sự nào, trách vụ
lớn nào đó, họ đều được rất nhiều phiếu. Và rồi sau đó trong
chức vụ đảm nhận họ cũng chẳng làm gì vì thận trọng hay
chẳng làm gì được cho tha nhân khi mà họ chỉ biết lo cho
bản thân. Đó là khôn ngoan Chúa muốn hay là khôn ngoan của
thế gian này? Bản thân cũng đã từng khuyên nhủ các thầy phó
tế về giúp xứ rằng: đang thời kỳ chuyển tiếp, đừng có làm gì
nói gì đụng đến ai. Hãy cứ nói và làm kiểu chung chung không
mất lòng ai cả. Cứ đợi cờ đến tay tức là thụ phong linh mục,
rồi hãy phất. Quả thật với kiểu khuyên nhủ ấy thì không khác
gì bày mưu tính kế cho các vị ấy sống khôn lanh. Và rồi khi
cờ đến tay thì các vị ấy cũng có phất nhưng thường thì phất
“theo chiều gió”!
Kiên trì trong cầu nguyện : Là
Kitô hữu, bản thân chúng ta không thể quên lời dạy của Đức
Giêsu là hãy kiên trì cầu nguyện (x. Lc 11, 1-13). Thế nhưng
Đức Giêsu còn căn dặn chúng ta khi cầu nguyện chớ có dài lời
vì Cha trên trời thừa biết chúng ta cần những gì. Chính vì
thế mà chúng ta cần xác định rõ nội hàm của việc cầu nguyện.
Các nhà tu đức dạy ta: Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên, tiếp
xúc, gặp gỡ Chúa để hiểu biết Chúa, yêu mến Chúa và sau đó
thực thi thánh ý Người. Để tiếp xúc, gặp gỡ Chúa thì cách
thế và hình thái khác nhau. Nhưng đã là tâm nguyện hay khẩu
nguyện, dù là cách cộng đoàn công khai, chính thức trong cá
buổi cử hành Phụng vụ hay âm thầm cá nhân riêng tư, dù là
suy niệm hay chiêm niệm, dù là chi chi nữa thì cái đích nhắm
cũng là để hiểu biết Chúa, yêu mến Chúa và rồi để thực thi
thánh ý Người.
Quả thật không một ai dám to gan khẳng
định mình có thể trong một sớm một chiều mà hiểu được Chúa,
Dấng hoàn toàn khác ta, vượt quá mọi luận lý hay nghĩ suy
của con người. Ngay cả với những thực tại trần thế này,
những dữ kiện, những con người cụ thể quanh ta mà ta khó có
thể hiểu nổi và chắc chắn không thể nào hiểu biết cách tường
tận. Với cả chính bản thân, ta cũng nhiều khi không hiểu con
người của mình. Trước giờ chịu tử nạn, Chúa Giêsu đã tha
thiết cầu nguyện: “Sự sống đời đời là họ nhận biết Cha,
Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã
sai đến là Giêsu Kitô…” (Ga 17,3 tt). Sự hiểu biết ở đây
không dừng lại ở sự nhận thức của lý trí mà gồm cả sự gắn bó
của ý chí. Nếu chỉ xét nguyên về khía cạnh nhận thức của trí
khôn thì để biết được Thiên Chúa là một cách nào đó, một mức
độ nào đó thôi thì quả là một quá trình tìm kiếm học hỏi
không ngừng. Xin đừng hài lòng với việc thuộc nằm lòng một
số tín điều hay một vốn liếng thần học cho dù có cao siêu
hay chặt chẽ. Lời Lão Tử: “Đạo khả đạo phi thường đạo, danh
khả danh phi thường danh”. Rất có thể ta vô tình thờ ngẫy
tượng do chính những khái niệm hoàn toàn mang tính nhân loại
của chúng ta. Tuy nhiên, Thiên Chúa, Đấng xưa đã tỏ bày cho
Môsê là Đấng không ai có thể nắm được khi tự giới thiệu danh
tính: “Ta là Ta” (Xh 3,13-15), thì nay chúng ta có thể tiếp
cận qua Đức Giêsu Kitô: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga
14,9). Để ngày càng hiểu biết Đức Giêsu Kitô thì có nhiều
phương thế, tuy nhiên các bản văn Tin Mừng vẫn là những
phương thế không thể thay thế vì chúng trực tiếp giới thiệu
cho chúng ta chân dung của Đấng Cứu Thế. Hội Thánh khẳng
định: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô” (MK
25). Cái biết ở đây mới chỉ dừng lại ở phạm trù lý trí.
Nhưng dầu sao nó cũng là cánh cửa để lòng mến đi vào vì như
lời một thánh giáo phụ: không biết thì không yêu mến.
Đọc Kinh Thánh, nghiên cứu Kinh Thánh
và cầu nguyện với Kinh Thánh là một quá trình bền bỉ của bất
cứ Kitô hữu nào, cách riêng với những người có sứ mạng rao
giảng Lời Chúa cách công khai và chính thức là hàng giáo sĩ
(phó tế, linh mục, giám mục). Thời lượng 6,7 năm ở chủng
viện, các ứng viên được giảng dạy về Kinh Thánh có lẽ chưa
đến đâu, vì chương trình giảng dạy có quá nhiều môn học
khác, cho dù đa phần các môn học ấy đều có Lời Chúa. Có đấng
bậc còn ví von là thời gian ở chủng viện, ở học viện chỉ là
thời gian học biết cách lật sách. Mà xem ra sự thật thì
không khác là bao. Đã biết cách lật sách mà sau đó không mở
thì phỏng có ích gì. Nói rằng không mở thì quả là hàm hồ.
Thế nhưng với cái thị hiếu “mì ăn liền” đang len lỏi vào mọi
ngõ ngách của cuộc sống thì chúng ta cũng dễ bị cám dỗ mở
những trang sách “đã xào nấu sẵn”, và cứ thế mà nhai nuốt
hay dọn cho người khác dùng mà chính bản thân không hay chưa
cảm nhận chút nào hương vị của món ăn Lời Chúa.
Điều này thật dễ nhận ra. Bà con tín
hữu thỉnh thoảng than phiền đấng bậc này, đấng bậc nọ giảng
lễ nhạt nhẽo, nếu không muốn nói là cách vô hồn hay thiếu
xác tín. Chập chững bước vào hàng giáo sĩ, được chính thức
giảng Lời Chúa trong thánh lễ, cái tâm lý dễ có nơi chúng ta
đó là muốn chứng tỏ mình. Tài giảng dạy của mình không thua
các bậc đàn anh, mà phải qua mặt các vị ấy chứ. Cái tâm lý
này tự nó không xấu. Xét trên bình diện tự nhiên thì rất tốt
là đàng khác, vì “hậu sinh khả úy”, và “con hơn cha là nhà
có phúc”. Tuy nhiên một điều không thể thiếu là cần có một
chút xác tín nào đó về những gì mình giảng dạy. Và sẽ không
có điều này nếu thiếu một đời sống cầu nguyện chuyên chăm,
thiếu gắn bó với Lời Chúa cách bền bỉ. Những gì thánh tiến
sĩ Thomas d’Aquin để lại cho chúng ta thường là kết quả của
những giờ chầu Thánh Thể và những lần lật giở các trang Kinh
Thánh. Những người đã lâu năm trong giảng dạy thì rất có thể
bị cám dỗ “liếc qua” các bài đọc Lời Chúa, có khi chỉ liếc
sơ bài Tin Mừng, vì chỉ cần liếc sơ sơ là biết rõ nội dung.
Chính vì thế mà các vị không còn đọc Lời Chúa cách kỹ lưỡng
và dường như đánh mất cái thói quen cầu nguyện với bản văn
Lời Chúa như thuở nào.
Hiền lành trong phục vụ : Một
lời cầu xin và cũng là một lời khẳng định. Đã là người phục
vụ thì phải là người hiền lành không thể khác hơn. “Con
Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng để phục
vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc muôn người” (Mt
20,28). Hạn từ phục vụ xem ra thanh nhã nhưng cũng có thể
làm ta khó sâu sát cái ý nghĩa của nó. Có bản dịch Thánh
Kinh dùng hạn từ “hầu hạ”. Dù dịch là hầu hạ hay phục vụ thì
từ nguyên nghĩa của chúng là làm công việc của người hầu,
người nô lệ (servus). Phục vụ hay làm dịch vụ là phải hiền
lành. Vì đó là một trong những điều kiện tất yếu có tính
sống còn của người hầu, người nô lệ. Ngay cả với những người
làm dịch vụ trong kinh doanh thì không thể nào giữ mãi thái
độ hống hách như thời kinh tế bao cấp của nước ta đã qua.
Hội nhập vào nền kinh tế thị trường, người làm dịch vụ không
những phải hiền lành mà còn phải tận tụy và dễ thương thì
mong có và giữ chân khách hàng.
Mặc dù trách vụ chính của hàng phó tế
là phục vụ bắt nguồn từ thời các tông đồ (x. Cvtđ 6,1-7),
thế nhưng mọi Kitô hữu, đặc biệt hàng tư tế thừa tác đều là
những người phục vụ. Người càng được trao phó nhiệm vụ càng
cao thì trọng trách phục vụ càng lớn. Nhận thức điều này,
các Đức Giáo Hoàng đều tự xưng là “tôi tớ của các tôi tớ”.
Đã là tôi tớ thì phải đặt lợi ích của chủ lên hàng đầu. Thế
mà khi một ngài tôi tớ nào đó được sai đi phục vụ như linh
mục hay phó tế thì “người ta” đòi hỏi nào là có nhà ở, nào
là có các tiện nghi này nọ, nào là phải lo bảo đảm đời sống
nọ kia… Có thể người ta nại đến câu nói của Chúa rằng “thợ
thì đáng được lĩnh công” hay câu nói truyền thông: chăn
chiên thì uống sữa chiên. Chuyện là đương nhiên dễ hiểu,
nhưng trước hết những người chăn chiên, những người thợ ấy
phải là những tôi tớ thật sự. Tôi đã từng viết một bài báo
nhan đề: “Tìm việc cho người hay tìm người cho việc?” Các
đấng bậc có trách nhiệm khi bố trí nhân sự cũng dễ bị cám dỗ
xem trọng các “đầy tớ” hơn là nhưng lợi ích của những ông
chủ là tập thể đoàn tín hữu. Đúng là một giải pháp giải
quyết nhân sự chứ không phải là một chiến lược phục vụ đoàn
chiên.
Trở lại với các thầy phó tế. Bản thân
tôi đã từng gặp gỡ nhiều phó tế vĩnh viễn, dĩ nhiên không
phải ở trong nước, vì tôi chưa thấy hàng phó tế vĩnh viễn
trong Hội Thánh Việt Nam. Phải chăng vì đã chọn một bậc
sống, một thừa tác vụ thánh cách vĩnh viễn nên các vị phó tế
vĩnh viễn xem ra hiền hòa trong cung cách phục vụ? Trong khi
đó, các phó tế “chuyển tiếp”, tức là các thầy sáu đang chờ
đợi tiến lên chức linh mục, rất có thể sống ơn phục vụ kiểu
qua ngày. Chắc chắn khi ta làm một việc gì đó kiểu chiếu lệ,
qua ngày thì có nhiều hạn chế khó tránh khỏi dù bản thân
không chủ ý. Chưa kể đến chuyện đã từng có, đó là các vị hữu
trách khi sai các thầy đi thực tập ở đâu thường căn dặn các
linh mục sở tại là đừng để các phó tế “bị sứt mẻ” điều gì
khiến khó chịu chức linh mục sau này. Thế là các thầy sáu
được o bế từ hàng linh mục đến đoàn tín hữu, kiểu o bế cô
dâu chờ ngày lên xe hoa. Thế là mục đích phục vụ, làm tôi
tớ, dường như chỉ còn trên danh nghĩa hay chỉ còn trên các
buổi lễ đại trào. Một sự thực đáng được ta ngẫm nghĩ lắm
chứ. Đã được o bế, cưng chìu một thời gian, rồi sau đó lại
được đưa lên tận mây xanh khi lãnh chức linh mục, thì mục
tiêu phục vụ thật khó thực thi cách hữu hiệu.
Một vài tâm tình gởi đến các thầy phó
tế cũng là những ý tưởng để bản thân xét mình về lý tưởng
sống trong đời tu trì tận hiến qua tác vụ thánh đã lãnh
nhận. Khôn ngoan trong hành động, kiên trì trong cầu nguyện,
và hiền lành trong phục vụ quả là lời cầu thiết thực cho bất
cứ ai, đặc biệt cho những người làm tông đồ. Ước gì lời cầu
ấy không dừng lại trong thánh lể truyền chức phó tế nhưng
được cụ thể hóa bằng nỗ lực thực hiện hằng ngày trong đời
sống chúng ta, vì một trong những mục đích của cầu nguyện là
biết ý Chúa để chúng ta cố gắng thực thi.
Lm. Giuse
Nguyễn Văn Nghĩa - Ban Mê Thuột tinvui.net |
VỀ MỤC LỤC |
|
Tâm sự loài Heo |
Khi nói đến Heo, người
ta thường nghĩ ngay đến chúng tôi là con vật có bốn chân
cẳng, ăn ở không sạch sẽ, ăn xong tiêu hóa thải phân ra hàng
đống to lớn ngay tại chuồng xông mùi hôi thối ô nhiễm môi
trường, con vật béo phì, nhiều mỡ màng, cứng đờ nhiều lông
lá, một con vật sung sướng chỉ ăn với nằm ngủ, một con vật
ăn tạp đủ mọi thứ bằng mồm mõm, và có tuổi đời sống không
đầy một năm là bị lên án rồi.
Chúng tôi loài heo có
hai loại: loại nuôi trong nhà mang lại lợi nhuận kinh tế cao
và loại heo hoang dã sống trong rừng. Cả hai loại đều ăn
thịt được. Hình thể loài Heo chúng tôi tuy mang tiếng là
phéo phì, nhưng lại cân đối đấy. Chúng tôi có mõm dài đàng
trước và có đuôi ở đàng sau, nên khi vẽ phác họa một chú Heo
rất dễ đơn giản.
Và người ta cũng lấy
Heo chúng tôi, cùng với cách sống của chúng tôi làm biểu
tượng hình ảnh, nhất là về phương diện đạo đức luân lý, cho
sự sống theo ý thích bừa bãi đồi bại. Một hình ảnh ví von
theo nghĩa xấu ngụ ý khinh chê chửi rủa!
Nhưng loài heo cũng là
loài vật sinh sản con cái sai mắn hằng năm. Một con heo nái
hằng năm sinh sản chừng 15 heo con. Có heo con mới heo thịt,
heo nái làm giống.
Loài heo nuôi mau lớn,
chỉ trong khoảng năm sáu tháng là heo lớn mập to nặng đủ cân
tạ bán được rồi. Càng ngày người ta phát triển thành nền
công nghệ nuôi sản xuất heo hàng loạt.
Cũng với đà tiến bộ của
khoa học, người ta thử nghiệm phát triển loài Heo chúng tôi
theo phương pháp nhân tạo, sao cho giống Heo tốt không bị
bệnh, mau lớn ít mỡ. Tất cả để đáp ứng nhu cầu thị trường
kinh tế ngày càng cao có nhiều đòi hỏi về thức ăn cho ngon,
cho sang đẹp.
Một nguồn lợi kinh tế
không chỉ cho gia đình, cho hãng xưởng nông trại mà còn cho
cả nền kinh tế quốc gia đất nước nữa.
Một nguồn thức ăn không
chỉ riêng cho một vùng, một đất nước mà cho cả thị trường
xuất cảng nữa.
Ngày nay đâu đâu cũng
cần có, cũng bán thịt heo làm thức ăn. Thịt heo vừa dễ nấu,
vừa ngon lại vừa gía phải chăng. Không dùng thịt heo thì
dùng thịt nào đây?
Như thế, thịt heo hữu
ích nhiều cho đời sống con người. Với tiến bộ khoa học bắt
đầu từ giữa thế kỷ 20. người ta đã nghiên cứu cấy trồng
giống heo sao cho ít mỡ, có nhiều thịt nạc. Nên giống heo
bây giờ có ít hơn 50% lượng mỡ, có 16 rẻ sườn thay vì 12 rẻ
sườn. Ngay thịt bụng của heo cũng phát triển sinh nhiều nạc
hơn mỡ.
Dẫu vậy thịt heo mà
không có mỡ sẽ khô bã không ngậy ngon. Khi chọn mua thịt
heo, người ta thích miếng thịt có nhiều nạc nhưng cũng phải
có mỡ dính kèm theo.
Thịt heo được phân loại
ra nhiều phần tùy theo cách thức nấu món ăn của nhà bếp. Như
thịt đùi dùng để luộc nấu gỉa làm thịt chó. Chân heo dùng
nấu bún bò Huế. Thịt chân heo ít mở luộc ăn ngon dòn. Cỗ
Lòng heo cũng là món ăn ngon miệng dùng nhậu chén hay cho
nồi cháo; Đầu heo, Tai heo dùng để xào giò thủ, ngâm dấm làm
dưa rất ngon dòn; Da heo cũng là một món ăn trộn pha với
thịt nạc làm nem, chạo; Sườn heo nướng hay chiên thơm ngon.
Thịt nạc vai, thịt Thăn
của heo thường dùng làm nem, giò, chả, thịt xá xíu, nấu thịt
đông, thịt hộp, làm ruốc sấy khô. Thịt Heo quay ăn với bánh
hỏi hay với bún rất đúng hợp khẩu vị và có vẻ sang trọng
nữa... Tùy theo cách thức nấu nướng, người ta chế biến thịt
heo theo nhiều công thức làm thức ăn tùy theo khẩu vị, theo
phong tục tập quán của từng dân tộc, từng quốc gia đất nước.
Cũng theo tục lệ cưới
hỏi bên Việtnam, người ta thường đem đến làm lễ cưới sính
hỏi, một con heo quay chín vàng còn nguyên con nằm trên một
mâm khay trông rất đẹp mắt. Điều này cũng muốn nói lên điều
may mắn hạnh phúc.
Thay vì nuôi heo sống
sau một vài tháng bán có tiền, người ta cũng đúc nung con
heo bằng đất, bằng sành, rồi mỗi ngày hay mỗi tuần cất bỏ
tiền còn dư vào đó. Sau một thời gian heo đất đầy no, đổ ra
có được một số tiền tiết kiệm để dành trong bụng heo đất.
Đây là một cách nuôi heo bỏ ống gây vốn và cũng là cách sống
tập tiết kiệm để dành trong cuộc sống.
Trong lịch sử niềm tin
đạo giáo hình ảnh loài heo chúng tôi được nhìn theo nhiều
khía cạnh gần như trái ngược khác nhau.
Thời xa xưa thượng cổ,
người Ai Cập nhìn con heo là hình ảnh biểu tượng của mặt
trăng. Nên họ giết heo vào những ngày có trăng.
Ở bên Syria con heo là
con vật thánh, dùng để tế nữ Thần sự sinh sôi nẩy nở
Astarte.
Trái lại theo Do Thái
giáo và Hồi Giáo cùng những vùng bên Trung Đông, heo là con
vật dơ bẩn kinh tởm. Vì thế người ta không được phép ăn thịt
heo.
Trong Kinh Thánh Cựu
ước con heo cũng là con vật dơ bẩn: „con heo, vì nó có chân
chẻ làm hai móng, nhưng không nhai lại: các ngươi phải coi
nó là loài ô uế. Thịt của chúng, các ngươi không
được ăn, xác chết của chúng, các ngươi không được đụng đến;
các ngươi phải coi chúng là loài ô uế.“ ( Levi 11,7; Dân số
14,8).
Chúa Giêsu cũng dùng
hình ảnh con heo để nói về con người có lối sống không trong
sạch, không có kỷ luật phạm sự thánh:"Của thánh, đừng quăng
cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp
dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em.“ ( Mt 7,6).
Hình ảnh người con đi
hoang phải đi chăn heo sinh sống, nói lên cảnh cùng cực và
sự xấu hổ lớn lao phải chịu của một con người ( Lc 15,15).
Trong nghệ thuật Kitô
giáo, loài Heo chúng tôi được diễn tả bằng hình hay bằng chữ
viết gần như chỉ về sự xấu xa tội lỗi.
Trong dân gian người ta
đem loài Heo chúng tôi ra để ví von với ngụ ý chửi rủa:„ ngu
như lợn!“
"Bẩn
như heo!“ "chỉ biết ăn no lại nằm như heo!“.
Nhưng họ cũng dùng loài
Heo chúng tôi để nói về may mắn tự nhiên tới mà không phải
làm gì, như „ có số sướng như Heo!“, và người Đức có câu
ngạn ngữ ví von „ Schwein gehabt !“
Trong dân gian có
câu ca dao ví von:
“Trông mặt mà bắt
hình dong,
Con Lợn có béo thì
lòng mới ngon.”
Người ta cũng nói: loài
heo chúng tôi có mõm dài chũi ủi đất cát hất ra đằng trước.
Đó cũng là hình ảnh của sự tiến bộ khai phá. Và như thế mang
đến hạnh phúc.
Có lẽ vì thế, nhiều nơi
người ta nấu món thịt heo ăn vào ngày 01.01. hằng năm, để
cầu sự may mắn cho năm đó!
Cũng theo phong tục tập
quán bên Á Đông, người ta chọn loài heo chúng tôi làm hình
ảnh biểu tượng cho một năm. Trong số 12 con vật biểu tượng
cho năm luân phiên đứng làm chủ năm đó, loài Heo chúng tôi
là con vật biểu tượng thứ mười hai.
Con số mười hai là số
nói về điều gì mang lại hạnh phúc. Trong vũ trụ, một năm
chia ra làm mười hai tháng theo vòng quay mặt trời. Một ngày
chia ra làm hai chu kỳ: ngày có mười hai tiếng và đêm cũng
có mười hai tiếng đồng hồ. Năm nay, vào ngày 17.02.2007, bắt
đầu tới lượt vòng loài Heo chúng tôi xuất hiện như vai chính
trên sân khấu thời gian năm Âm lịch với tên Đinh Hợi.
Loài Heo chúng tôi là
lòai thú vật cũng được Đấng Tạo Hóa dựng nên trong công
trình sáng tạo của Ngài cho trần gian như bao loài tạo vật
khác.
Nếu không lầm, Thiên
Chúa đã tạo dựng loài gia súc, loài dã thú, trong đó có
loài Heo cùng vào ngày sáng tạo thứ sáu trước khi Ngài tạo
dựng nên con người như cao điểm của công trình sáng tạo,
cũng trong ngày hôm đó. (Sáng thế 1,24-31). Chúng tôi không
biết gì nhiều hơn nữa.
Và đã là tạo vật do
Ngài tạo dựng trong thiên nhiên, chắc Ngài phải có một
chương trình nào đó cho loài Heo chúng tôi.
Chúng tôi tin và hy
vọng như vậy!
Chúc mừng Năm Mới Đinh Hợi!
Lm.
Nguyễn ngọc Long |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỪNG ĐỂ MÙA XUÂN HẾT XUÂN |
Sáng Mồng 2 Tết, tôi đi
ban Bí tích Xức Dầu cho một bệnh nhân sắp lìa đời. Khởi đầu
mùa xuân mà người trai trẻ đã sắp vào mùa đông sự chết. Một
thanh niên mới ngoài ba mươi tuổi. Nhậu nhẹt say sưa, chạy
ẩu bị tông xe, chấn thương sọ não, gãy xương cỗ, gãy xương
chân. Báo hại vợ con, bán hết tài sản để lo thuốc thang mà
chẳng ăn thua gì. Ông bà cụ thân sinh đã ngoài 80 phải lo
vay mượn khắp nơi để lo cho con, nhưng “đệ tử lưu linh” này
sắp bị lưỡi hái thần chết cắt đứt nay mai. Khi tôi Xức Dầu
cho anh xong , anh khóc, nước mắt lăn dài trên hai khoé mắt,
dòng nước mắt sám hối muộn màng. Tôi phó thác thân xác và
linh hồn của anh trong tay Thiên Chúa nhân lành.
Sáng Mồng 3 Tết, tôi đi
làm nghi thức tẩm liệm bên bờ sông cho một thanh niên 19
tuổi bị chết đuối khi đi tắm sông. Năm nào Thác Mai của sông
La Ngà cũng có người tế “Hà Bá”. Kể cũng lạ lùng, năm nào
cũng có người chết đuối mà người ta đi chơi Tết, tắm sông
mỗi năm mỗi đông. Ở thôn quê chẳng có điểm du lịch vui chơi
nào. Vì thế mà nhậu nhẹt, tắm sông, bài bạc, đua xe… thu hút
phần đông giới trẻ…
Những ngày Tết, ra đường
cảm thấy sợ hãi. Xe cộ chạy bát nháo đến phát khiếp. Các bãi
biển đông nghẹt những đoàn người ăn nhậu.
Tối Mồng 3 Tết, Đài
Truyền Hình HTV 9 cho biết tình hình tai nạn giao thông tăng
vọt trong 3 ngày Tết. Các Bệnh viện quá tải ở khoa cấp cứu.
Hàng trăm vụ tai nạn làm hơn 250 người chết và hàng trăm
người mang thương tích. Nguyên nhân chủ yếu là do uống bia
rượu nhiều nên “phóng nhanh vượt ẩu”.
Ông bà ta ngày xưa có
câu: “Khách đến nhà không trà thì rượu”. Ngày xưa uống rượu
là một phần nghi lễ trong đời sống văn hóa, xã giao của
người Việt, người ta uống đúng nơi, đúng chổ, đúng lúc.
Cụ Nguyễn Khuyến viết: “Rượu
ngon không có bạn hiền.
Không mua không phải
không tiền không mua”
Cụ Nguyễn chỉ nhậu với
“bạn hiền”, còn “bạn” dạng khác hay không phải “bạn” thì cụ
thà nhịn chớ không nhậu chung.
Con cháu các cụ thời nay
thì lại khác. Ăn nhậu trở thành “mốt” trong những mối quan
hệ xã hội. Nhậu nhẹt, say sưa, tai nạn, gây biết bao đau khổ
cho bản thân gia đình và xã hội.
Theo tác giả Tạ Phong
Tần, Sở Thương mại và Du lịch Bạc Liêu thì: Đàn ông miền Tây
Nam bộ vốn nổi tiếng thích nhậu, uống rượu đế như uống nước
lã.
Thời nay
Bạn bè lâu ngày gặp nhau
tay bắt mặt mừng: nhậu; ma chay, cưới hỏi, giỗ chạp: nhậu;
có chuyện vui: nhậu; gặp chuyện buồn: nhậu; hết giờ làm việc
đồng nghiệp cùng nhau thư giãn: nhậu; ra ngoài đi công tác
rồi “giao lưu”, “kết nghĩa: nhậu; có khách đến nhà: nhậu.
Gặp người quen: nhậu, gặp
người lạ mời: cứ nhậu trước rồi khắc quen sau. Nói chung là
bất cứ việc gì cũng nhậu trước nói sau, “uống rồi nói mới
tin”, ai không muốn nhậu thì bị coi là “chơi không vô”,
“không cùng hội cùng thuyền”, thuộc loại “cần phải đề
phòng”, v.v…
Tôi có thời gian công tác
ở một đơn vị đặc thù mà ở đó tính trung bình cứ 1 nữ thì có
đến…18 người đàn ông.
Nhiều lúc, tôi có cảm
giác trong mắt các đồng nghiệp nam tôi không phải là phụ nữ
mà là một “thằng” như họ, vì vậy, họ mặc sức “xả” ra trước
mặt tôi những “câu chuyện đàn ông”, đưa vấn đề ra cùng thảo
luận hết sức tự nhiên không chút ngượng ngùng, kể cả chuyện
“nhậu rồi sanh tệ” cũng không tha.
Có người còn coi tôi như
“quân sư quạt mo” để “vấn kế” chinh phục bạn gái, bị bạn gái
“cài số de”, bị vợ chửi…cũng kiếm tôi để “nhỏ to tâm sự” cho
bớt ấm ức. Nhờ vậy, tôi phát hiện ra một “chân lý” của các
ông là: Đàn ông thích vợ, bạn gái của người khác nhậu với
mình (vì có nhậu say thì mới dễ có cơ hội lợi dụng) nhưng
kịch liệt phản đối vợ, bạn gái của mình nhậu với người khác
(sợ bị “thằng khác” lợi dụng). Vì vậy mà tôi luôn luôn có
tinh thần “đề cao cảnh giác” không để nhậu “quyến rũ”.
Nữ cũng nhậu
Cứ tưởng đàn ông mới đầu
têu trong chuyện nhậu, ai ngờ, có lần tôi đi công tác chung
với các đồng nghiệp nam xuống nông thôn thì có dịp “mục tận
sở thị” phụ nữ gầy sòng nhậu.
Đang ngồi trong trụ sở
UBND xã nhìn ra thấy có mấy chị trung niên đứng lấp ló ngoài
cửa nhìn vào.
Tôi nói: “Có khách kiếm
kìa”. Ông Xã trưởng nhìn ra rồi nói: “Khách khứa gì đâu, mấy
bả kiếm người nhậu đó, tối ngày rủ tụi tui nhậu hoài riết
rồi tụi tui cũng ngán muốn chết, hễ nhậu vô thì không làm
việc được nên tụi tui từ chối. Mấy bả bèn nghĩ cách hễ thấy
có khách thì tự động đem mồi nhậu đến, tiếng là mời khách
nhưng cũng có dịp nhậu cho vui. Kinh phí hoạt động của tụi
tui cũng hạn hẹp nên có mấy bả thì đỡ tốn nên tụi tui cũng
làm thinh luôn”.
Tôi hỏi tiếp: “Sao mấy bả
không nhậu với chồng hay mấy ông trong xóm mà ra đây?”. Ông
Xã trưởng cười: “Mấy bà này đàn bà giá không hà, nhậu với
tụi tui dầu sao cũng “an toàn” hơn nhậu với mấy thằng cha
bợm nhậu trong xóm, nhậu xong hay quay ra quậy, đánh lộn”.
Đúng như lời ông Xã
trưởng nói, không hiểu mấy bà chị này “canh me” như thế nào
mà vừa làm việc xong đã thấy mâm bát bày ra đầy đủ rồi.
Thật tội cho các chị ở
nông thôn, sinh hoạt văn hóa văn nghệ giải trí rất nghèo
nàn, thiếu thốn, phải mượn tiệc nhậu để có đôi chút vui vẻ
ngoài giờ lao động cực nhọc hay lúc nông nhàn.
Nhậu để thăng tiến ?
Còn ở thành thị, điều
đáng buồn là “biết nhậu” đang trở thành “lợi thế” cho những
ai muốn thăng tiến trên con đường hoạn lộ, nhậu trở thành
một biện pháp xã giao không thể thiếu.
Trong một bữa tiệc mà
không uống với anh này một ly, anh kia một ít thì bị coi là
người… khô khan tình cảm. Ngược lại, nếu bưng ly mời khắp
lượt và “uống tất” với “anh em” thì được coi là “giỏi giao
tiếp” (?!). Không hiếm trường hợp có người nhờ tửu lượng cao
nên được sếp đưa ra để dành tiếp khách, có sếp thì có người
đó, riết rồi trở thành “oai” không kém sếp.
Có lần, tôi được dịp dự
đám táng chung với một phụ nữ thuộc hàng lãnh đạo cấp trung
bình, được dư luận khen là “giỏi xã giao” nên tôi cũng để ý
cử chỉ của “đàn chị” nhằm học hỏi.
Xã giao thế này thì tôi
xin lạy cả nón, thà mang tiếng giao tiếp dở còn hơn.
Đám táng là dịp để bà
con, thân nhân người đã khuất về làm nhiệm vụ “nghĩa tử là
nghĩa tận” với người thân nên tập trung cả người chúng tôi
quen lẫn những người lạ rất đông.
Thật bất ngờ, “đàn chị”
của tôi nhanh nhảu bắt chuyện làm quen với những người đàn
ông lạ trong đám táng, sau vài câu hỏi thăm như: quan hệ thế
nào với người chết, hiện nay ở đâu, làm gì, bao nhiêu tuổi,
thứ mấy, tên gì… thì “đàn chị” chủ động rót rượu đế ra ly
mời “đối phương” cùng cụng ly uống làm quen, coi như “hôm
nay là đánh dấu ngày mở đầu tình nghĩa quen biết của hai
bên”.
Đàn chị uống “làm quen”
liên tục, còn đưa ly rượu bảo tôi “uống làm quen” với người
này, người kia.
Từ chối thẳng thừng quá
thì không tiện, tôi cũng phải ráng “làm quen” được hai người
theo lời chị rồi đánh bài “say”.
Xã giao thế này thì tôi
xin “Lạy cả nón”, thà mang tiếng “giao tiếp dở” còn hơn. May
mắn là tôi có đặc điểm “ngửi hơi rượu mặt cũng đỏ như cà
chua” nên không ai phát hiện cái sự “giả vờ say” của tôi,
rủi ai phát hiện thì kể như đời tôi “thê thảm” vậy.
Người phương Tây có một
phong tục rất hay khi nhập tiệc là: Mỗi người một bộ đồ ăn
riêng, một chai rượu riêng, một cái ly riêng, ai thích uống
bao nhiêu cứ tự giác rót, không có chuyện ép uống rượu đến
mức chịu không nổi ói mữa đầy bàn tiệc như ở ta. Và họ cũng
không có cái kiểu ngồi ăn nhậu tì tì hết giờ này sang giờ
khác, ngồi lâu đến chai đít như chúng ta.
Tôi ước gì người Việt
chúng ta học nét văn hóa “uống rượu tự giác” của mấy ông Tây
để tôi đỡ mang tiếng là “khó chơi”, “khô cằn sỏi đá” thì tôi
đội ơn vạn bội.
NHỮNG KIỂU ĂN UỐNG
QUÁI LẠ.
Trong một cuốn sách xuất
bản tại Mỹ dưới nhan đề Tour du lịch về ẩm thực, Anthony
Bourdain - ký giả tờ New York Times đã mô tả thật ấn tượng
về cách thưởng thức món huyết rắn tươi tại một nhà hàng ở
trung tâm Sài Gòn: “… Người phục vụ cười toe toét tiến về
phía tôi, trên tay đang giữ một chiếc túi nặng. Anh ta mở
miệng túi lôi ra một con rắn hổ dài khoảng 1,2 mét trông rất
hung hãn. Nó ngóc cao đầu, mang bạnh to ra trong tư thế sẵn
sàng tấn công khiến tất cả thực khách đều rú lên kinh hãi…
Người huấn luyện rắn được sự giúp đỡ của một người trợ lý
với một cái đĩa kim loại, một cái tách trắng nhỏ, một bình
rượu đế và một bộ kéo tỉa vườn. Hai người đàn ông chụp con
rắn hổ mang, và trong khi người trợ lý dùng tay vuốt dọc
theo thân rắn thì người huấn luyện với một tay còn lại kê
chiếc lưỡi kéo sắc nhọn chọc vào bên trong ngực nó một cách
nhanh nhẹn và thuần thục móc quả tim ra ngoài. Một dòng máu
đỏ thẫm chảy vào chiếc đĩa kim loại, sau đó được rót vào
chiếc ly hòa với rượu đế.
Trái tim rắn được đặt
trong chiếc tách trắng nhỏ và khi được di chuyển đến trước
mặt tôi nó vẫn còn đập! Tôi ngửa cổ dốc cạn ly rượu pha tiết
rắn như cố nuốt một cảm giác thật khó tả…”.
Khi thú ẩm thực đã được
nâng lên thành một nghệ thuật với đủ cách sáng tạo không
ngừng, thì việc bày ra các kiểu “ăn sống nuốt tươi” càng
quái chiêu bao nhiêu lại càng được dân nhậu chuyên nghiệp ưa
chuộng bấy nhiêu. Sách chép rằng: ngày xưa, bà Từ Hy thái
hậu cho nuôi chuột bạch bằng nhân sâm đến đời thứ ba rồi
dùng những con chuột con còn đỏ hỏn thả vào cái chén ngọc
đựng đầy mật ong đem chiêu đãi thượng khách. Đến lúc chuột
uống no một bụng mật, thực khách đưa lên miệng cắn sẽ nghe
phát ra một tiếng “bụp”, đó là một cách khoái khẩu của bậc
vương giả! Chỉ nghe kể thôi nhưng người “yếu bụng dạ” đã cảm
thấy buồn nôn, song vẫn chưa bằng những kiểu ăn uống còn
khủng khiếp hơn vào thời đại văn minh của thế kỷ 21 này: Có
một nhóm du khách người nước ngoài đi vào ngôi làng người
dân tộc thuộc tỉnh Quảng Nam tìm mua một con bê độ vài tháng
tuổi với giá năm trăm ngàn đồng. Bữa tiệc… sống bắt đầu khi
một người trong nhóm lôi từ trong chiếc cặp ra một ống
xi-lanh khổng lồ. Bằng một động tác cực kỳ nhanh nhẹn và
điệu nghệ, ông ta chọc mũi kim vào đúng động mạch cổ con vật
rút đầy một ống máu tươi rồi chia đều mỗi cốc cho cả nhóm.
Tiêu được rắc lên và mọi người cùng ngửa cổ ực cả cốc máu
tươi vẫn còn nóng hôi hổi với một vẻ khoái trá sau những cái
chép miệng! Sau đó, người đàn ông này dùng con dao bén ngót
rạch một đường dài ở hai bên đùi sau của con vật và khéo léo
tách ra hai mảng thịt đỏ ối, cắt chia ra từng phần và mỗi
người cầm một tảng thịt đang rỏ máu chấm vào đĩa muối tiêu
chanh nhai ngấu nghiến!
Muốn thưởng thức các món
thịt hoặc hải sản tươi sống phải liệt kê ra đến hàng trang
giấy, nhưng vẫn chưa làm thỏa mãn dân nhậu chuyên nghiệp và
họ lại đổ xô đi săn lùng các loại huyết tươi động vật pha
rượu. Từ huyết tươi, người ta còn chế ra các món đưa cay rất
dễ sợ là tiết canh – từ tiết canh vịt, tiết canh dê, tiết
canh heo đến cả tiết canh chó! Dân nhậu thường kháo nhau một
cách khá ngây thơ về “công dụng” của các chế phẩm huyết
tươi, rằng sẽ giúp quý ông tìm lại phong độ hùng dũng của
tuổi xuân, nào là “ông uống bà khen”… Nhưng khoa học đã
chứng minh điều này bằng con số zêrô, thậm chí còn rất có
hại.
Có một kiểu ăn “không
đụng hàng” chỉ dành cho các bậc vua quan Trung Hoa cổ, sau
đó được du nhập sang Việt Nam. Bẵng đi một thời gian khá dài
nhưng hiện nay nghe nói đã xuất hiện ở một vài nơi của xứ
ta, tất nhiên chỉ những người thuộc “hệ máu lạnh” mới dám
thưởng thức.
Đó là món óc khỉ sống mà
mới nghe kể qua sởn gai ốc bởi kiểu “hành quyết” chỉ có ở
thời trung cổ: một con khỉ sống nhăn được đặt ngồi cho một
phần đầu nhô lên dưới tấm gỗ khoét lỗ tròn vừa vặn. Lông ở
đỉnh đầu kẻ “tử tội” được cạo sạch. Sau khi dùng rượu cồn
sát trùng, tay “đao phủ” dùng con dao to bản phạt ngang hộp
sọ con khỉ để lộ ra một mảng óc trắng phếu. Kế đến các thực
khách dùng muỗng múc óc từ trong sọ khỉ cho vào chén và bắt
đầu một bữa tiệc kinh dị!
Tác giả Cửu Long cũng đã
viết một bài phóng sự về Chợ Côn Trùng mà các “đệ tử
lưu linh” từ khắp nơi đổ về tìm mua loại “rượu ông uống bà
khen”. Trong Đại Nam Nhất Thống Chí, phần nói về việc mở
mang bờ cõi phía Nam cũng có nói đến vùng núi Thất Sơn huyền
bí. Thất Sơn hay Bảy Núi (An giang) không chỉ là “bảy ngọn
núi”: Phụng Hoàng Sơn, Thiên Cấm Sơn, Ngoạ Long Sơn, Anh Vũ
Sơn,Thuỷ Đài Sơn, Liên Hoa Sơn, Ngũ Hồ Sơn mà còn có Núi Trà
Sư, Núi Nhạn, Núi Sam… tạo thành một quần thể núi non trùng
điệp kéo dài từ Thị Xã Châu Đốc về Huyện Tịnh Biên đến Huyện
Tri Tôn. Chơ biên giới “Tịnh Biên” nay đã “chết tên” với
những tay bợm nhậu: “chợ ông uống bà khen”. Xung quanh chợ
có nhiều người chuyên bán: tắc kè, mối chúa, bữa củi, bò
cạp, rắn rít…Những thứ mà theo truyền miệng, chỉ cần thêm
một thang thuốc bắc và một lít “rượu gốc” sẽ trở thành loại
thuốc..’cường dương”. Bà Ba (Nguyễn thị kim Ba), mấy năm làm
“tiểu thương” tại cái chợ đặc biệt này, bà đã “rành” “công
hiệu” từng con bò cạp, bữa củi, tắc kè, mối chúa…hơn cả mấy
ông Đông Y. Bà đọc làu làu “công hiệu” từng con một. “Nói
cho chú em biết, dân địa phương ở đây đau ốm chẳng ai tốn
một xu uống thuốc tây. Họ ăn mấy thứ này không à”. Bà Ba vừa
nói vừa lấy tay chỉ mấy cái thau đựng côn trùng. Một anh
lính biên phòng trờ tới mua, mua một lúc 100 con bữa củi rồi
rồ ga lao xe đi mất. Chú em biết không, các sếp ở tỉnh giờ
mua mấy cái thứ này ngâm rượu làm quà tặng nhau. Họ sai lính
đến đây mua hoài à.
Từ ngày có cái chợ này,
Thất Sơn huyền bí gần như bị dân thất nghiệp lật tung lên
từng mét núi để kiếm bò cạp, bữa củi, rắn, rít, nhền nhện
núi…bán cho “lái”. Lúc đầu mấy thứ này hoàn toàn do dân địa
phương lên núi bắt, giờ thì hết sạch rồi, may ra chỉ còn bữa
củi mà thôi. Anh Cao Hoàng Lâm, một “tiểu thương” nói. Anh
Lâm cho biết, gần đây nguồn côn trùng có được là do “dân
Miên” (người Kh-mer) bắt ở Campuchia rồi đem sang Việt nam
bán lại. Một con bò cạp (cỡ ngón tay cái) bán 2000đ/con, bữa
củi 2000đ/con, nhưng cũng có con rắn hỗ dài hơn cả mét giá
hàng trăm ngàn đồng, thậm chí có hũ rượu Lâm bán hơn cả
triệu đồng…mỗi tuần Lâm bỏ mối cho 4-5 quán “đặc sản miền
núi” Huyện Tri Tôn khoảng 1000 con bò cạp.
Từ miếu Bà Chúa Xứ, ngước
nhìn lên lưng chừng Núi Sam, lô xô am, cốc của những đạo sĩ.
Tôi thầm nghĩ, bây giờ các đạo sĩ có muốn ”luyện thuốc” chắc
cũng phải lắc đầu ngao ngán vì biềt tìm đâu ra côn trùng.
Thất sơn huyền bí đã bị xâm phạm thô bạo bởi từ khi có cái
chợ “đặc sản miền núi” kia. Tất cả cũng chỉ vì “miệng lưỡi”
con người mà thôi!. (x.Báo Công Giáo Dân Tộc số 1551, bài Đi
chợ côn trùng ).
Theo tác giả Phan Trường
Giang kể lại trong báo công an thành phố. Khoa cấp cứu Bệnh
viện 115 đã từng tiếp nhận và điều trị khá nhiều trường hợp
bệnh nhân bị nghi ngờ nhiễm giun lươn. Trong số này có một
bệnh nhân nam từ tuyến dưới chuyển lên TP. Hồ Chí Minh.
Người này kể, sau một lần bị ngã bỗng phát hiện có một khối
u nổi lên phía sau đầu. Điều kỳ lạ là cục u này lại biết di
chuyển. Hôm nay đang ở trên đầu, ngày mai nó đã đi xuống má.
Đến hôm sau nữa nó lại đi xuống cổ. Từ cổ nó lại “chạy” lung
tung khiến ông này phát hoảng. Qua nhiều lần xét nghiệm ở
nhiều nơi, các bác sĩ cũng lắc đầu không biết ông mắc chứng
bệnh gì. Sau đó, một bác sĩ có nhiều kinh nghiệm nghi ngờ
ông có thể bị nhiễm ký sinh trùng. Kết quả thử huyết thanh
cho biết ông đã bị nhiễm giun lươn giai đoạn ấu trùng di
chuyển. Ông này cho biết trước đây mình thường xuyên cùng
bạn bè uống rượu huyết rắn.
Khoa tiêu hóa BV 115 cũng
tiếp nhận một ca tương tự sau khi đã mất hai năm điều trị
tại một BV khác với chẩn đoán là viêm đa khớp dạng thấp và
viêm dạ dày, nhưng càng điều trị bệnh lại càng trở nên nặng
hơn. Tại đây, các bác sĩ đã cho bấm nội soi để sinh thiết,
và trong khi chờ kết quả, bệnh nhân xin được về nhà. Kết quả
trên hình ảnh sinh thiết dạ dày cho thấy ký sinh trùng hiện
diện trên cả bề mặt niêm mạc, trong lòng ống tuyến, tấm dưới
niêm. Ngay lập tức, BV gửi thư yêu cầu bệnh nhân trở lại BV
ngay để điều trị, nhưng bệnh nhân đã chết trước đó một ngày
khi lá thư kịp đến!
Một trường hợp khác, có
anh thanh niên (ngụ TP. Nha Trang, Khánh Hòa) một hôm phát
hiện trên mu bàn tay mình bỗng nổi lên cái mụn nhỏ. Sờ vào
không thấy đau, nhưng cái mụn này có hôm biến đi đâu mất,
hôm khác lại thấy xuất hiện. Trong một buổi ngồi nhậu với
bạn bè, táy máy anh cạy thử cái mụn nhỏ ấy ra thì một con ấu
trùng giun từ đấy rơi ra và ngọ ngoạy trên bàn khiến cả bàn
nhậu một phen xanh mặt! Anh này thừa nhận mình là một “đồ
đệ” trung thành của món tôm sống chấm mù tạt và gỏi cá sống…
Theo tiến sĩ, bác sĩ Trần
Thị Hồng - chủ nhiệm bộ môn ký sinh Trung tâm đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ y tế TPHCM thì trong các món đặc sản từ cá,
rắn, lươn, ếch… đều tiềm chứa ấu trùng Gnathostoma. Thông
thường ấu trùng xâm nhập vào cơ thể con người khi ăn thức ăn
chưa nấu chín hoặc các món sống sít, nhất là huyết rắn hổ
pha rượu. Tại các nước Đông Nam Á, nhất là Nhật, Thái Lan,
Việt Nam, Philippines… tỉ lệ gặp hội chứng ấu trùng di
chuyển rất cao, đơn giản là vì những nơi này là “vua” khoái
ăn đồ sống! Ấu trùng Gnathostoma có thể đưa bệnh nhân đến tử
vong do chúng di chuyển qua hệ thần kinh trung ương làm viêm
não - tủy, xuất huyết dưới màng nhện. Bệnh kèm theo là liệt
nhiều chi, thông thường liệt hai chân, có khi liệt cả bốn
chi. Đáng sợ hơn là loại ấu trùng này như có phép tàng hình
- cứ xuất hiện rồi biến mất, rồi bỗng nhiên lại xuất đầu lộ
diện ở một nơi khác sau một thời gian nằm im hoặc bí mật chu
du khắp bên trong nội tạng cơ thể con người… nên việc định
bệnh là không đơn giản.
Theo thông tin mới nhất,
trong sáu tháng đầu năm 2006, Viện sốt rét - Ký sinh trùng -
Côn trùng Quy Nhơn (Bình Định) đã tiếp nhận hơn 1.200 bệnh
nhân nhiễm sán lá gan. Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TPHCM mỗi
ngày tiếp nhận hàng chục ca nhiễm sán lá gan. Đây là loại
sán thường ký sinh ở gan và đường mật những động vật ăn cỏ.
Hiện nay dịch bệnh sán lá gan đã xuất hiện ở hơn 45 tỉnh
thành trong cả nước.
Đây quả là một tín hiệu
không vui cho những người khoái ăn thịt tươi sống với cái đà
“liên tục phát triển” như hiện nay. (x. Báo công an thành
phố, ngày 4.2.2007).
Tết là ngày lễ của mùa
xuân. Ngày Tết không một người nào có vẻ nghèo cả! Mọi người
đều có một chút gì để mà “ăn Tết”. Người ta chấp nhận mang
công mắc nợ để rồi sau đó sẽ vất vả làm lụng để trả nợ,
nhưng vào ngày Tết người ta cần phải tận hưởng. Mọi người
đều có quyền “ăn Tết”, mọi người đều cảm thấy có bổn phận
vui hưởng Tết.
Biết bao là những nét đẹp
thanh cao, tao nhã của truyền thống ngày Tết cổ truyền Dân
tộc. Ước mong mọi người biết “chay tịnh”, biết “hãm mình”,
luôn tự chủ bản thân để những ngày vui xuân thật sự hạnh
phúc, an lành cho mình và cho gia đình, cho xã hội.
Mồng 4 Tết
Lm
Giuse Nguyễn Hữu An |
VỀ MỤC LỤC |
|
Nếu Có Thiên
Chúa, Tại Sao Có Sự Dữ? |
Thân trần truồng tôi
đến từ lòng mẹ,
và tôi cũng sẽ trần
trụi trở về;
Chúa đã cho và Ngài
đã lấy lại;
xin chúc tụng thánh
danh Ngài.
Gióp 1:21
Ðương nhiên lý luận thông thường nhất
để bác bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa dựa vào một câu hỏi cố
hữu: "Nếu thật sự có một Thiên Chúa tốt lành, thì tại sao
lại có sự dữ trên thế gian?" Lý luận này thường được trình
bày thế này: "Vì thế gian đầy sự dữ, một Thiên Chúa tốt lành
và toàn năng không bao giờ cho phép sự dữ xuất hiện, như vậy
thì không có Thiên Chúa!" Lý luận này liên quan đến tình cảm
nhiều hơn lý trí, nhưng nó quan trọng và đáng cho chúng ta
quan tâm. Nó có thể được đặt ra dưới nhiều hình thức và một
số sẽ được đưa ra ở đây.
Trước hết chúng ta phải tìm hiểu ý
nghĩa của sự dữ. Có hai loại sự dữ là sự dữ luân lý và vật
lý. Sự dữ luân lý là cố tình phạm tội, và sự dữ vật lý là
những tai ương tự nhiên. Thí dụ giết người, ngoại tình, dâm
dật, ăn cắp, phù thủy, phá thai... là những sự dữ luân lý
(Didache 2:2). Còn nạn đói, bậnh tật, tai họa thiên nhiên
và sự chết là sự dữ tự nhìên. Sự dữ tự nó không là gì,
nhưng là thiếu điều gì đáng lẽ phải có, thí dụ nói dối là
thiếu chân thật. Thiên Chúa không dựng nên sự dữ vì nó không
phải là điều cần được dưng nên. Sự dữ là điều bất toàn,
thiếu hay không có trong việc tạo dựng của Thiên Chúa.
Ðầu tiên hãy chú tâm đến sự dữ luân lý,
câu hỏi có thể được đặt ra là: "Nếu có một Thiên Chúa nhân
lành, sao Ngài lại tạo nên người ác?" Ðể trả lởi câu hỏi
này, chúng ta phải ý thức rằng Thiên Chúa không dựng nên
người ác (STK 1:26-31). Là một Thiên Chúa thông biềt mọi
sự, Thiên Chúa biết rằng Ngài dưng nên những người sẽ trở
nên người tội lỗi, nhưng biết và điều khiển là hai việc khác
nhau. Thiên Chúa dựng nên chúng ta với ý chí tự do, là khả
năng cố tình chọn lựa hay chối bỏ Ngài. Chúng ta đã chọn
phạm tội - chối bỏ Thìên Chúa - bằng cách cố tình bất tuân.
Sự bất tuân này là một lỗ hổng trong chương trình của Thiên
Chúa đối với chúng ta.
Thiên Chúa muốn chúng ta kính mến Ngài,
nhưng nếu không có ý chí tự do, chúng ta không thể yêu Chúa
cách chân thành được. Không ai có thể bắt chúng ta yêu họ
được. Nếu Thiên Chúa dựng nên chúng ta không có ý chí tự do,
chúng ta sẽ là những cái máy sống và đã không được dựng nên
theo hình ảnh Ngài và giống Ngài. Thiên Chúa cho phép sự dữ
luân lý xảy ra trong phạm vi Ngài cho chúng ta ý chí tự do.
Sự dữ luân lý trên đời là kết quả của sự chọn lựa của chúng
ta.
Kế đến chúng ta xét đến sự dữ vật lý,
câu hỏi có thể được bắt đầu như sau: "Nếu có một Thiên Chúa
tốt lành, tại sao đau đớn, khổ cực, và chết chóc lại có trên
thế gian?" Câu hỏi hóc búa hơn là: "Nếu có một Thiên Chúa
công bằng, sao những người tốt phải chịu đau khổ?" Trong thế
giới vật chất đau khổ có một mục đích. Ðau đớn ngăn trở việc
chúng ta làm tổn thương thân xác. Tôi không cho tay vào lửa
chính vì sợ đau. Chứng đau ngực có thể báo hiệu cho chúng ta
sắp đến cơn đau tim. Các lực sĩ phải chịu đựng những khó
khăn mệt nhọc kinh khủng mà rèn luyện thân thể để có thể
chơi các môn thể thao cách điêu luyện hơn, vì họ biết rằng
không có đau khổ thì không đạt được gì. Dù cho những người
tốt, chịu đau khổ như thế không hoàn toàn là phi lý.
Vật chất hoạt động theo luật vật lý.
Thí dụ, lửa hoạt đông theo luật nhiệt động học. Cũng luật
này cho phép chúng ta sưởi ấm nhà trong mùa đông, nhưng đồng
thời cũng cho phép chúng ta thiêu hủy nhà chúng ta. Ðể tránh
việc thứ hai cần phại có phép lạ - một sự tạm ngưng của luật
vật lý. Thiên Chúa cho phép sự dữ vật lý xảy ra vì Ngài
không làm hết phép lạ này đến phép lạ khác để chặn đứng
chúng, như vậy làm cho những gì thông thường trở nên phi
thường. Những định luật vật lý được áp dụng cho cả người
lành lẫn người dữ (Matt 5:45).
Câu hỏi thực sự đương nhiên không phải
là tại sao Thiên Chúa cho phép sự dữ vật lý xảy ra, nhưng
tại sao Thiên Chúa dựng nên chúng ta trong thế giới vật
chất? Có những người cho rằng Thiên Chúa dựng nên chúng ta
trong thế giới vật chất bất toàn này để chúng ta không cậy
sức mình, nhưng để chúng ta yêu mến và dựa vào một Thiên
Chúa thiện hảo (2 Cor 1:8-9). Chúng ta được dựng nên với
những ước muốn và khao khát chỉ được thỏa mãn bởi Thiên
Chúa. Sự trống vắng hạnh phúc này mời gọi chúng ta đến cùng
Ngài. Theo lời Thánh Augustinô: "... Vì Chúa đã tạo dựng
nên chúng con cho Chính Chúa, Lạy Chúa, tâm hồn chúng con
không bao được yên hàn cho đến khi được nghỉ ngơi trong
Chúa". [Tự Thú I,1,1]. Thánh Irênê thành Lyon (190 Tr.
CN) có một tư tưởng khác:
...nơi nào không có sự cố gắng thì
cũng không có giá trị. Chúng ta không cần nhãn quan nếu
chúng ta không biết rằng bị mù khổ sở thế nào. Cũng thế, sức
khỏe trở nên quý giá hơn sau khi chúng ta bị ốm; ánh sáng so
với tối tăm; sự sống so với cái chết. Cũng vậy, Nước Thiên
Chúa trở nên quý giá hơn cho những ai đã nếm mùi trần thế.
Nhưng nó càng quý giá, thì chúng ta càng yêu nó nhiều; và
càng yêu nhiều thì chúng ta càng được nhiều vinh quang trước
mặt Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa cho phép tất cả những
điều đó, để chúng ta học từ chúng và biết khôn ngoan yêu mến
Thiên Chúa, để chúng ta được sống trong tình yêu hoàn hảo
ấy. [Chống Lạc Giáo IV, 37,7].
Nghĩ xa hơn, đau khổ và hy sinh có thể
giúp chúng ta chế ngự tính ích kỷ của chúng ta. Lại nữa,
Thiên Chúa là Ðấng Thánh, vì tạo vật ly tách khỏi Ngài nên
trở thành bất toàn.
Sách Ông Gióp trong Kinh Thánh đối phó
với vấn đề này một cách thơ mộng và tuyệt vời. Ông Gióp là
một người công chính, kính sợ Thiên Chúa (Gióp 1:1); tuy
thế, Ngài cho phép Satan gây cho ông những tai nạn và bệnh
tật kinh khủng để thử lòng trung thành của ông. Satan muốn
chứng minh cho Thiên Chúa rằng ông Gióp sẽ ngã lòng (Gióp
2:3-7). Trong đau khổ cùng cực, ông Gióp đã tranh luận với
"các bạn" về sự đau khổ của người vô tội. Cuối cùng Thiên
Chúa nhập cuộc tranh luận và trả lời:
Ai là kẻ dám dùng những lời thiếu
hiểu biết để làm u tối kế hoạch của Thiên Chúa? Giờ đây, hãy
thắt lưng như một nam nhân; Ta sẽ hỏi ngươi và ngươi hãy trả
lời Ta! Ngươi ở đâu khi Ta đặt nền móng địa cầu? Hãy nói cho
ta, nếu ngươi thật hiểu biết... [Gióp 38:2-4]
* Kẻ tranh luận với Đấng Toàn Năng
có chịu thua không, và kẻ kêu trách Thiên Chúa, hãy trả lời
Ngài?
Thiên Chúa trả lời bằng cách bảo ông
Gióp rằng sự khôn ngoan và quyền năng của Ngài vượt trên sự
hiểu biết của loài người. Con người cũng không làm chủ vũ
trụ, và nhân đức của con người mà thôi cũng không đảm bảo
được hạnh phúc trần thế. Ông Gióp khiêm nhường kết thúc cuộc
tranh luận bằng những lời này:
Con đã đối phó với những điều cao
trọng mà con không hiểu; những điều quá kỳ diệu cho con, mà
con không biết... Cho nên con rút lại những gì con đã nói,
và ăn năn thống hối trong đống bụi tro [Gióp 42:2-6].
Ở đây Kinh Thánh đề nghị chúng ta rằng
chúng ta phải chấp nhận đau khổ và tín thác vào Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu đã trả lời thắc mắc này cách vẹn toàn khi
dùng cái chết của Người mà chiến thắng Sự Dữ trên Thánh Giá.
Ðối với Kitô hữu, đau khổ đời này có
thể trở nên niềm vui và vinh quang đời sau. Trong Kinh
Thánh, Thánh Phaolô đưa ra sự liên hệ giữa sự dữ vật lý (sự
chết) và sự dữ luân lý (tội lỗi):
Như vậy, vì một người (Adong) mà tội
lỗi xâm nhập vào thế gian, và qua tội lỗi là sự chết, cho
nên sự chết lan tràn đến mọi người vì tất cả mọi người đều
phạm tội [Rom 5:12].
Qua ông Adong (tội Tổ Tông), tất cả
chúng ta đều có tội và phải chết; tuy nhiên, Thiên Chúa là
Ðấng từ bi, qua. Kitô Giáo đã đem đến cho chúng ta niềm hy
vọng:
Như vì một người mà sự chết đã đến,
thì nhờ một người mà sự kẻ chết sống lại cũng đến. Vì mọi
người đều chết nơi Adong, thì tất cả sẽ được cho sống lại
trong Ðừc Kitô [1 Cor 15:21-22].
Ðức Kitô chết trên Thánh Giá để lấp đầy
khoảng trống gây nên bởi tội lỗi. Mặc dầu chúng ta chịu đau
khổ vá chết vì tội lỗi chúng ta, Thiên Chúa là Ðấng vô tội
đã chấp nhận đau khổ và chết trên Thánh Giá như một con
người để cứu chuộc chúng ta. Tình yêu đòi hỏi hy sinh, và
Ðức Kitô đã làm gương cho chúng ta trước:
Mặc dầu là Con Thiên Chúa, Người đã
học vâng phụcqua những đau khổ Người phải chịu; và khi đã
trở nên hoàn hảo, Người trở thành nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu
cho tất cả những ai vâng phục Người [Heb 5:8-9].
"Nếu ai muốn đi theo Thầy, hãy bỏ
mình đi và vác thập giá mình (hàng ngày) mà theo Thầy"
[Marcô 8:34; cũng xem Phr 2:20-21; Phil 1:29].
Là Kitô hữu chúng ta có thể hy vọng vào
hạnh phúc vĩnh cửu - nhờ Thập Giá Ðức Giêsu Kitô. Như Thánh
Pholô đã hứa:
...chúng ta là con cái Thiên Chúa,
mà đã là con cái, thì cũng là người thừa tự của Thiên Chúa
và đồng thừa tự với Ðức Kitô, miễn là chúng ta cùng chịu đau
khổ với Người để chúng ta cũng được vinh quang với Người.
Tôi cho là những đau khổ ở đời này không đáng để so sánh với
vinh quang sẽ được tỏ ra cho chúng ta [Rom 8:16-18].
Trong đau khổ, chúng ta chia sẻ sự đau
khổ của Ðức Kitô (Col 1:24) để trên thiên đàng chúng ta được
chia sẻ vinh quang của Người (1 Phr 4:19).
Thế giới tội lỗi của chúng ta chẳng may
là kết quả của sự lựa chọn của chúng ta; ngay cả Satan cũng
không ép chúng ta phạm tội được. Ðau đớn, khổ cực và sự chết
là một phần của thế giới vật chất vì tội Adong, nhưng Kitô
Giáo đem lại cho chúng ta niềm hy vọng qua sự Thương Khó của
Ðức Giêsu Kitô. Sự dữ trong thế gian này không phải là một
bằng chứng là không có Thiên Chúa, nhưng là một nhắc nhở
liên tục cho chúng ta rằng chúng ta cần đến Thiên Chúa toàn
hảo trong Kinh Thánh (2 Cor 1:8-9).
A Catholic
Response, Inc.
P.O. Box 84272
Lincoln, NE 68501-4272
GLV Phaolô Phạm xuân
Khôi chuyển ngữ
Kết luận của người
dịch:
Nơi nào không có Tình Yêu Thiên
Chúa thì nơi đó có sự dữ, giống như nơi nào không có ánh
sáng thì nơi đó có tối tăm. Hãy cùng nhau làm nhân chứng cho
Chúa khắp nơi thì sự dữ sẽ biến đi như ánh sang đẩy lui tăm
tối. |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG
QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ VIỆC THƯỞNG PHẠT |
Bà mẹ lấy làm lạ sao mọi
sự lại yên tĩnh như thế và bà đâm ra nghi ngờ, nên quyết
định đi rảo thử một vòng. Bà khám phá ra cậu bé Bình 2 tuổi
rưỡi đang bận bịu, lom khom nhét giấy vệ sinh vào cầu tiêu
lần nữa. Cậu bé đã bị đánh nhiều lần vì cái tọäi đã nhét
giấy làm nghẹt cầu tiêu. Một cách giận dữ, bà mẹ la lên:
“Con ơi! Đã bao lần mẹ đã phải đánh con vì việc làm như thế,
tại sao con không chừa?” Thế rồi, bà chụp lấy cổ cậu bé, kéo
quần nó xuống và quất đít nó. Nhưng chỉ một lúc sau, ngay
chiều hôm đó ba nó khám phá ra nhà cầu lại bị nghẹt nữa.
Bị ăn nhiều trận đòn cho
cùng một hành động, tại sao cu bé vẫn tiếp tục, không chừa?
Có phải nó còn quá nhỏ, chưa đủ hiểu? Không phải vậy! Cậu bé
biết chính xác điều nó đang làm. Nó cố ý lập lại hành vi lỗi
lầm đó. Dĩ nhiên, nó không biết tại sao. Nhưng hành động của
nó nói cho chúng ta tại sao. Cha mẹ nó bảo: “Không được,
không được như vậy”. Hành động nó nói: “Tôi tỏ cho thấy, tôi
làm được điều đó. Không thành vấn đề cái gì sẽ xảy ra”.
Nếu hình phạt sẽ làm cho
cậu bé ngưng việc ngịch ngợm phá phách, một cái phết đít
cũng đủ để cảnh cáo và mang lại kết quả. Nhiều lần phết đít
cũng không mang lại được kết quả nào. Vậy cái gì là sai?
Trong những bài trước
chúng ta đã đề cập đến sự thay đổi của xã hội để mang lại
một nhận thức về sự dân chủ như một nền tảng cho cuộc sống
chúng ta ngày hôm nay. Dân chủ ám chỉ sự bình quyền của con
người, vì thế cha mẹ nên đóng vai trò của một người dìu dắt,
hướng dẫn, giáo dục hơn là của một kẻ có quyền. Quyền hành
ám chỉ sự thống trị, có nghĩa là người nầy có quyền thống
trị trên người kia. Không thể có sự thống trị như thế giữa
những người bình quyền với nhau. Sự thống trị bằng vũ lực
hoặc quyền bính phải được thay thế bằng những ảnh hưởng
thanh cao, đẹp đẽ hơn.
Thưởng phạt nằm trong hệ
thống của xã hội độc tài, ở đó chính quyền thích địa vị
thống trị, họ có đặc quyền ban phát thưởng hay phạt tùy theo
công đức của người dân. Chỉ có họ mới có quyền quyết định
những ai đáng thưởng và những ai đáng phạt. Và vì hệ thống
của xã hội độc tài đặt nền tảng trên sự thiết lập vững chắc
quyền hành thống trị, nên những phán quyết như thế được dân
chúng chấp nhận như một phần của cách sống. Trẻ con quan
sát, chờ đợi, và hy vọng một ngày nào đó chúng cũng có thể
trở thành những con người có được những quyền hành lớn lao
như vậy. Ngày nay, cấu trúc của xã hội chúng ta đã thay đổi.
Trẻ con có quyền bình đẳng về xã hội so với người lớn và
chúng ta cũng không còn thích những đặc quyền hay vị thế ưu
tiên hơn chúng. Quyền bính của chúng ta trên con trẻ trong
thế giới ngày nay cũng không còn thích hợp nữa. Và chúng
biết điều đó. Chúng không còn công nhận chúng ta như những
kẻ có quyền trên chúng nữa.
Chúng ta phải biết nhận
ra rằng những cố gắng áp đặt ý muốn của chúng ta trên con
cái là vô ích. Hình phạt không mang lại khuất phục lâu dài.
Trẻ con ngày nay muốn chấp nhận một số hình phạt để xác nhận
quyền lợi của chúng. Nhiều cha mẹ vẫn còn lầm lẫn nghĩ rằng
hình phạt sẽ mang lại kết quả mà không biết rằng với những
phương pháp đó họ chẳng bao giờ đi đến thành công. Có thể là
có một kết quả tạm thời do hình phạt. Nhưng hãy nhớ rằng nếu
cùng một hình phạt được lập đi lập lại nhiều lần thì điều đó
cho thấy hình phạt đó không mang lại kết quả. Trái lại, việc
áp dụng hình phạt chỉ giúp đứa trẻ phát triển sức kháng cự
và sự bất tuân đối với chúng ta mà thôi.
(còn tiếp)
Lm. Lê
Văn Quảng |
VỀ MỤC LỤC |
|
Xin Đừng Làm Tôi Tớ
Vô Duyên |
Tối nay là tối ngày Valentine, 14 tháng
Hai, 2007, trời mùa đông lạnh rất vừa cho người ta yêu nhau.
Anh chị em Cursillista giáo phận Los Angeles trong Trường
Lãnh Đạo gặp nhau và hỏi thăm nhau bánh chưng bánh tét, dưa
hành, giò chả… làm cho Tết như đang về gần, và năm mới như
đang ở ngay ngoài cửa. Một anh nói: “Không mấy gì vui”. Một
chị bảo:”Chẳng mừng Xuân nữa đâu. Mừng Xuân nhiều mau già
lắm”. Nói vậy thôi, nhưng tôi tin chắc trong lòng mỗi người
đều có sẵn một lời nguyện: “Tạ ơn Chúa cho con được thêm một
Mùa Xuân nữa trong đời”.
Đề tài hội thảo tối nay là Khiêm
Nhường và Phục Vụ. Những điều cha giảng thuyết trình bày
chắc đã được ghi lại trong một bài khác, ở đây tôi chỉ ghi
nhận và suy tư một chút trong phần thảo luận mà thôi.
Số người ‘đi học’ hôm nay đông hơn mọi
khi nên 15 bản hát “xin cho con biết sống chân thật và
đầy lòng khiêm nhu” của nhạc sĩ Thùy Trang phải ‘share’
hai người một tờ.
Anh B. - xưa nay trong các buổi họp vẫn
thường nhỏ nhẹ và bình dị - tối nay lên tiếng trước nhất:
“Con thấy khi làm những công việc chung dù là việc đời hay
việc đạo mà mình có lòng khiêm tốn thì mới dễ thấy được niềm
vui và sự bình an. Ai cũng vậy khi làm việc đều muốn công
việc mình làm có hiệu năng, có kết quả tốt. Chẳng hạn như
Trường Lãnh Đạo đây, khi nào thấy lớp học đông thì người phụ
trách cảm thấy phấn khởi và hăng say… Nhưng lâu nay con đã
tự nhủ, mình làm việc cho Chúa mà - tại sao phải thắc mắc
nhiều - cho nên con chấp nhận hết. Ngày nào anh chị em đến
đông thì chia thành nhiều nhóm chia sẻ hăng hái vui nhộn,
còn ngày nào anh chị em đến ít thì mình qui tụ thành một
nhóm, lúc ấy lại gần nhau và thân tình hơn. Rồi khi làm việc
con cũng cố gắng chỉ nhìn điểm tốt của người khác để cùng
làm. Anh này có tài nhưng lại nóng tính. Chị kia hăng hái
nhưng lại hay giận hờn… Con cố gắng quên đi cái nóng tính
của anh này và bỏ qua cái hay hờn của chị kia để làm việc…”.
Tôi không biết phải gọi ‘thói quen’ của
anh B. là gì? Khiêm tốn? quảng đại? kiên nhẫn?… Có lẽ là sự
tổng hợp mỗi đức tính một ít. Tôi cố gắng đi theo đường của
anh đi mà chưa được. Ở Việt Nam ngày xưa, sinh hoạt các đoàn
thể tương đối dễ: lớp giáo lý cứ đến giờ là lớp học đầy đủ
dù các em chẳng có xe đạp hay xe hơi gì cả, ca đoàn cứ đến
giờ tập hát là đông đủ dù chẳng em nào có cell phones,
emails, hay web cam…chi hết. Cha xứ kêu một tiếng là các ông
trùm có mặt ngay, rồi ông trùm hét một tiếng là không còn
một bóng trẻ con lảng vảng ngoài nhà thờ. Ở Mỹ đây thì khác
và tâm tư con người bây giờ cũng đã khác xưa. Tôi phải khiêm
tốn mà sửa đổi lối sống và cách làm việc của mình cho phù
hợp với hoàn cảnh thôi. Cho nên mỗi lần đi ngang nhà thờ
West Covina thấy một huynh trưởng thiếu nhi đang dậy cho một
nhóm bốn năm em nhỏ lòng tôi vui mừng và thán phục các em
rất nhiều, nhiều như là thán phục cha chủ tế đứng giảng
trước cả ngàn giáo dân vậy. Nghe anh B. chia sẻ, tôi nhớ lời
cha Nguyễn Trường Luân trên chương trình phát thanh Đức Mẹ
Hằng Cứu Giúp: “Mình hăng say phục vụ Chúa, phục vụ giáo xứ,
nhưng không thể bắt tất cả những người khác phải hăng say
như mình được. Khó là chỗ đó, hy sinh là ở chỗ đó”. Quả thật
vì kiêu ngạo mà đặt nặng cái tôi thay cho tập thể nên tôi
mới dễ chán nản thất vọng khi ý mình không đạt. Vì kiêu ngạo
mà đi quá vai trò của người làm công nên đôi khi tôi mới khó
chịu với Ông Chủ Vườn Nho…
Đến lần anh T. đưa thắc mắc: “Sao con
chẳng thấy vui khi làm việc tông đồ, hoặc khi phải gánh vác
công việc chung gì cả. Con chỉ coi đó như là món nợ mình
phải trả, như một trách nhiệm mình phải hoàn tất trong cuộc
đời. Thế thôi. Cha nghĩ sao?” Có lẽ đây là lần thứ ba tôi
nghe anh T. tâm sự như vậy.
Nhưng. Anh bảo anh không vui nhưng anh
lại vẫn tươi cười khi làm việc chung. Nghĩa là sao?
Có lẽ anh giống ba vị sau đây chăng:
Trứơc hết là nhà thơ Nguyễn Công Trứ:
Đã mang tiếng đứng trong Trời Đất.
Phải có danh gì với Núi Sông.
Nhà thơ này quan niệm đã có mặt trong
cuộc đời là ta đã mắc nợ, nợ với mẹ cha, nợ với anh em, với
xã hội, và nợ với nước non nên phải làm một điều gì đó để
đền ơn và phải để lại điều gì tốt lành cho hậu thế. Cho nên
thích hay không thích cũng phải làm. Khó hay dễ cũng phải
thi hành…
Người thứ hai là triết gia Kant. Căn
bản triết lý sống của ông này là Trách Nhiệm, Duty, Mệnh
Lệnh, Imperative, Lề Luật, Moral Law. Ông sống rất nghiêm
khắc và tiết độ với những triết lý này. ‘Fais ce que tu dois
faire. C’est tout’. Đã hơn 30 năm rời trừơng ốc, tôi chỉ nhớ
có thế thôi, nhưng vẫn không quên triết gia này kỷ luật với
chính mình đến nỗi không bao giờ thức dậy trễ hơn giờ đã
định dù là …một phút.
Người thứ ba lại chính là Chúa Giêsu.
Trong suốt 4 Phúc Âm, tôi tìm không thấy một câu nào nói
Chúa cười vui. Rất có thể khi tìm được một đệ tử mới, khi
thấy các tông đồ khiếp sợ trước giông bão trên biển, khi đến
chơi nhà chị em Lazarô, hoặc khi làm phép lạ cho 5000 người
ăn no, Chúa Giêsu đã cười hoặc ít nhất cũng đã mỉm cười(con
người mà) đấy, nhưng chẳng thấy thánh sử nào ghi chép cả.
Chỉ thấy: “Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con
sao?”. “Con cáo có hang, con chim có tổ, con người không chỗ
dựa đầu”. Rồi: “Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này cho
khỏi con đi, nhưng theo ý cha thôi, và nếu là ý cha thì
chết bỏ con cũng thi hành”.
Anh T. bảo anh không vui nhưng anh lại
vẫn ‘tỉnh bơ’ sau những công việc mệt nhọc khó khăn.
Nghĩa là sao? Tôi mà như anh thì đã đau
tim hay ít là đã bị depressed từ lâu rồi. Ah ha, hay anh đã
là một ông Socrate nhỏ của thế kỷ 21: “Trời giông gió, rồi
trời đổ mưa anh vẫn cứ ‘tỉnh bơ’, chẳng sợ ướt áo vì chậu
nước của người đẹp trong cơn tam bành”. Hay anh đã là một
ông Confucius con trong thời đại mới: “ Thắng không kiêu,
bại không nản và đường ta phải đi cứ đi”. Hay là niềm vui
của anh khác hẳn với niềm vui của đời thường, của người
thường, hay là cái niềm vui mà anh đang tìm thì chưa mấy ai
đã cảm nghiệm được...
Anh T. bảo anh không vui khi làm việc
chung, nhưng anh lại mỉm cười (rất tươi) khi có người trong
lớp lên tiếng một cách rất triết lý và nhân bản: “Anh không
vui, nhưng anh làm cho người khác vui là được rồi”. Tôi cầu
mong nụ cười vừa nở trên môi của anh tối nay sẽ nở tươi khi
anh về với cát bụi, và lúc ấy nếu còn sống tôi sẽ đọc cho
anh câu thơ cuối bài của Nguyễn Công Trứ:
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo.
Bây giờ đến anh H. giơ tay: “Thưa cha,
xin cha chỉ cho chúng con vài phương thế để khiêm tốn trong
khi phục vụ?”. Cha giảng thuyết đáp: “Phải đưa Chúa vào
trong các công việc làm của mình. Phải nhớ mình làm việc là
làm cho Chúa. ‘Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm
nhường trong lòng’, Chúa đã dạy vậy đó. Phải tập, phải tập
như tập nói một ngôn ngữ vậy. Khó lắm anh ạ…”
Tôi nghĩ đến một phương cách khác để
thấy nhẹ nhàng với những cái gọi là ‘tiếng thơm’ khi phục vụ
là suy tư về cái chết. Trong những ngày gần đây ở Mỹ có vài
nhân vật ‘tiếng tăm’ vừa qua đời. Đó là cựu Tổng Thống
Gerald Ford, cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, cựu phó đề
đốc Trần Cao Thăng, ca sĩ La Sương Sương, và gần đây là cô
Anna Nicole Smith…Già lão hay trẻ trung, tất cả đều đã về
với bụi đất. Đẹp hay xấu, sang hay hèn, tội lỗi hay thánh
thiện, tất cả đều đã nằm yên trong lòng đất và nhường thế
giới này cho người khác. Riêng bạn bè của tôi thì một người
nghèo nhất trong lớp và một người giầu có nhất trong lớp, cả
hai cũng đã đều chết cách nhau ít tháng. Chỉ khác là người
nghèo thì đựoc thiêu xác, còn người giầu thì có mộ phần. Cho
nên có là ông này hay bà nọ, có được yêu hay bị ghét rồi
cũng sẽ dần đi vào quên lãng mà thôi. Ông chủ tịch Hội Đồng
Giáo Xứ có là gì so với một vị Giáo Hoàng Thánh Thiện như
Gioan Phaolô VI. Ngoài phạm vi giáo xứ và ngoài nhà thờ ra
thì ‘ông chánh trương is nobody’. Chị ca trưởng có là gì so
với những ngôi sao nhạc Pop ở Hollywood. Ngoài mấy em trong
ca đoàn công giáo và ngoài mấy hàng ghế gần gian cung thánh
ra thì ‘chị ca trưởng is anonymous’. Lợi danh có là chi đâu,
chỉ là cảnh đẹp trên đồi Rose Hill, trên đồi Lawn Forest,
hoặc cánh đồng Good Shepherd…mà thôi.
Cái có và cái còn vĩnh cửu là cái ta có
với người đã dựng nên ta, người đã trao cho ta sứ mệnh vào
đời. Cái còn và cái có vĩnh cửu là mối liên hệ của linh hồn
ta với người mà ta phải đối diện sau cuộc sống này. Thế
thôi.
Khiêm Nhường và Phục Vụ là một nhân đức
và là một công việc phải đi đôi với nhau. Hay đúng hơn phải
nói là Khiêm Tốn Để Phục Vụ hoặc nói gọn hơn là Phục Vụ
Trong Khiêm Cung.
Khiêm Nhường mà không Phục Vụ cũng
như không vì “Đức Tin không việc làm là đức tin chết”.
Phục Vụ mà không Khiêm Nhường thì
cũng như không vì “Dù tôi làm làm đựơc những phép lạ cả thể,
dù tôi nói được các thứ tiếng… mà tôi không có lòng bác ái
thì cũng chỉ là cái loa to…”
Để học hỏi về sự khiêm tốn trong phục
vụ, thường ta đọc đoạn Tin Mừng thánh Luc 17, 7-10
Từ đoạn Tin Mừng này đã có bài hát với
lời: “Lạy Chúa con chỉ là đầy tớ vô duyên, vô duyên hơn tất
cả, vô duyên hơn tất cả…”. Bài hát được khá nhiều người
thích vì giai điệu khá êm tai ở hai chữ ‘vô duyên’ và được
lập đi lập lại. Tôi thì không thích mấy, nhưng cũng không
‘ke’ lắm. Có lẽ vì dòng nhạc mà tác giả phải đổi từ ‘vô
dụng’ thành ‘vô duyên’ để nói lên mình là một con người yếu
đuối, tội lỗi, và thấp hèn trước mặt Chúa chăng?.
Dù sao, khiêm tốn coi mình là
‘đầy tớ vô duyên’ thì được chứ hành động như một
người vô duyên thì chẳng nên tí nào. Tôi đã nghe nói: ‘Bà ấy
thật là vô duyên, cho mình là có tài mà không chịu tham gia,
nhưng ai đứng ra làm thì phê bình’. ‘Cái ông ấy vô duyên
lắm, nói truyện mà chẳng nhìn mặt người đối diện, cứ nhìn đi
đẩu đi đâu’. Có lần đi lễ nhà thờ nọ, trên bàn thờ cha chủ
tế vừa trích Paris by Night: ‘Tình chỉ đẹp khi còn giang dở.
Lấy nhau rồi nham nhở lắm em ơi’ thì cậu thanh niên bên cạnh
tôi lắc đầu: ‘Ông cha vô duyên’. Lần khác đi lễ nhà thờ kia,
cha bắt đầu bài giảng Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội bằng câu
‘Ai trong nhà thờ này còn trinh?’ thì bà già bên cạnh tôi
cúi mặt: ‘Giảng gì vô duyên quá.’. Cho nên một người thợ tầm
thường thì chấp nhận được hoặc một nhân công nhỏ bé thì cũng
đáng thuê mướn, chứ một tay ‘đầy tớ vô duyên’ ăn nói cộc
lốc, ăn mặc lôi thôi, chủ bảo một đàng làm một nẻo, không
tỉnh thức canh kho lúa cho chủ thì đáng bị … đuổi thôi.
Tôi nghĩ phục vụ trong khiêm tốn là
phục vụ với tất cả những gì mình có một cách chân thành chứ
không phải kiêu ngạo mơ tưởng những cái gì mình không có
hoặc bày đặt phủ nhận những gì mình đã đựoc trao ban để rồi
lẩn tránh trách nhiệm.
Còn 3 giờ nữa là đến Giao Thừa Xuân
Đinh Hợi 2007 ở California, mong ước trong năm mới mỗi anh
chị em Cursillista sẽ khiêm tốn làm một người thợ hèn mọn
để sinh lời ½ hoặc ¼ lén bạc mà Chúa đã gởi, chứ đừng bao
giờ làm một người ‘đầy tớ vô duyên’.
Joseph Vũ 02/16/2007 |
VỀ MỤC LỤC |
|
Đánh
Giá và Giới Thiệu Chịu Chức |
ĐÀO TẠO VÀ
TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG CỦA CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI
TRONG BỐI
CẢNH VIỆT NAM HÔM NAY
Nguyên
bản tiếng Anh
Lm.
Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY
Bản dịch
Việt ngữ
Lm. Vincentê
Trần Minh Thực, Lm. GB. Nguyễn văn Hào
CHƯƠNG IX
GIAI ĐOẠN CHỦNG
VIỆN ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG
(tiếp theo)
G. Đánh Giá và Giới
Thiệu Chịu Chức
Việc đào tạo linh mục là một tiến trình
chuẩn bị chủng sinh tiến tới chức linh mục trong Hội Thánh
Công giáo theo bốn chiều kích căn bản: nhân bản, thiêng
liêng, tri thức và mục vụ. Việc đào tạo này nhằm giúp chủng
sinh trưởng thành và cung cấp một đánh giá xác thực và hữu
ích cho việc Giám Mục gọi chủng sinh ấy: “Tiếng gọi nội tâm
của Chúa Thánh Thần cần được nhìn nhận như tiếng gọi đích
thực bởi việc Giám Mục gọi.” Mục đích của việc nhận xét
hàng năm là để giúp chủng sinh tự suy nghĩ và đánh giá, nhờ
đó, trong cái nhìn xác thực về đời mình, anh có thể thấy
những gì cần phải thay đổi và lên kế hoạch cụ thể để việc
thay đổi ấy được hiệu quả.
Đức Gioan Phaolô II đề cao: “Tính thích
hợp của ứng sinh, trên hết, nhắm đến tinh thần cầu nguyện,
sự thấm nhuần sâu xa giáo lý đức tin, khả năng sống tình
huynh đệ và đặc sủng độc thân.” Vì thế, bên cạnh các cuộc
họp thường xuyên của hội đồng chủng viện để nhận xét chủng
sinh, Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu mong muốn rằng việc nhận
xét này cũng bao gồm việc đánh giá của đương sự, các bạn
đồng môn, các nhân viên và những người chủng sinh thi hành
sứ vụ cho. Ở đây nhấn mạnh đến đánh giá hàng năm của hội
đồng chủng viện và tự đánh giá hàng năm của chính chủng
sinh.
1. Tiến
Trình Đánh Giá Hàng Năm của Hội Đồng Chủng Viện
Thỉnh thoảng, Giám Mục hay đại diện của
Ngài và các linh mục giáo phận khác dấn thân vào công cuộc
đào tạo cũng được mời tham dự buổi họp nhận xét của hội đồng
chủng viện. Mọi người phải tôn trọng chặt chẻ phận vụ của
toà trong và toà ngoài. Các giá trị và kỹ năng được đánh giá
dựa trên giáo huấn của Hội Thánh và nền đào tạo của chủng
viện. Các lãnh vực khác nhau của việc đánh giá là:
* Trưởng thành nhân bản;
* Đời sống xã hội (cộng đoàn) và những
kỹ năng tương tác liên nhân vị;
* Trưởng thành thiêng liêng được diễn
tả bởi cam kết dấn thân cầu nguyện và sống thân phận môn đồ
(discipleship);
* Sự sẵn sàng mục tử cho sứ vụ công
cộng phục vụ Hội Thánh, hiệp thông với Đức Thánh Cha, Giám
Mục Giáo phận, linh mục đoàn giáo phận, các thừa tác viên
giáo dân trong Giáo hội và với các tín hữu Kitô;
* Hiểu biết sâu xa thần học và chấp
nhận giáo huấn của Hội Thánh về đức tin và luân lý;
* Lòng yêu mến Lời Chúa và những dấu
chỉ khả năng rao giảng Lời Chúa cho người khác;
* Lòng sùng kính Bí tích Thánh Thể và
Đức Maria;
* Sẵn sàng nắm giữ đời sống độc thân,
tính đơn sơ Tin Mừng, và đức ái mục tử;
* Sẵn sàng thi hành sứ vụ trong cuộc
sống đang thay đổi của Giáo Hội và Thế Giới tại giáo phận
mình, nhất là cảm thức liên đới với người nghèo, với nạn
nhân của bất công và tôn trọng sự sống;
* Mối quan tâm tới Đại kết và Liên lạc
liên tôn;
* Kỹ năng lãnh đạo, bao gồm sự sẵn sàng
và các kỹ năng cần thiết cho hợp tác sứ vụ;
* Sẵn sàng chấp nhận trách nhiệm tiếp
tục đào tạo linh mục.
Như “những thừa tác viên hợp luật của
Hội Thánh được trao trách nhiệm phán đoán tính thích hợp của
các ứng sinh,” Hội đồng chủng viện bỏ phiếu trong buổi đánh
giá cuối cùng. Phiếu bầu có nhiều loại: khẳng định, khẳng
định có ghi chú, tiêu cực và loại. Loại “khẳng định có ghi
chú” có nghĩa là còn có khiếm khuyết cần phải sửa chữa và
trau dồi thêm. Nếu là phiếu loại thì nên giải thích. Nên
nhắm giáo dục hơn là loại bỏ. Giáo dục nhắm biến đổi người
xấu thành người tốt và người tốt thành người tốt hơn, phó
thác cho quyền năng của ơn Chúa: Đối với con người thì không
thể, nhưng với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể.
2. Tự
Đánh Giá Hàng Năm của Chủng Sinh
Để đẩy xa hơn việc tự đào tạo, mỗi
chủng sinh được yêu cầu trình bày một
dự-án-một-năm-đời-sống-cá-nhân của mình, dưới sự hướng dẫn
của người cố vấn/linh hướng. Dự án này xem xét các tiềm năng
cụ thể của mỗi ứng sinh, cũng như những khuyến cáo của hội
đồng đánh giá định kỳ của chủng viện. Đánh giá của hội đồng
sẽ trở nên rõ ràng hơn, khi hội đồng có thể đánh giá nỗ lực
đặc biệt và sự tiến bộ chủng sinh so với dự án sống này.
Căn cứ vào dự án sống liên quan đến
việc đào tạo của chủng viện này, cuối mỗi năm học hàn lâm
của thời kỳ đào tạo, chủng sinh sẽ viết có chọn lọc, chính
xác, thực tế và ngắn gọn bản tự đánh giá của mình về thái độ
ứng xử, về những điểm mạnh và về những lãnh vực đặc biệt có
tiến bộ trong năm học vừa qua. Chủng sinh sẽ viết ít nhất ba
lần bản tự đánh giá này vào ba thời điểm quan trọng trong
tiến trình đào tạo:
* Cuối phân khoa triết học;
* Sau năm thực tập mục vụ, còn được gọi
là năm giúp xứ hay “năm thử”;
* Năm thần học cuối chuẩn bị thụ phong
linh mục.
3. Đánh
Giá Chung Cuộc và Giới Thiệu Chịu Chức
Hội đồng chủng viện và tất cả các nhà
đào tạo cố gắng hiểu biết đầy đủ về từng chủng sinh để giáo
dục anh và giúp anh phát huy nỗ lực tự đào tạo của anh. Các
ngài góp phần vào công việc chung của Giáo Hội, bằng việc
đánh giá cuối cùng và giới thiệu ứng sinh lên chịu chức linh
mục.
Bản đánh giá này nhấn mạnh những lãnh
vực chủ yếu: trưởng thành thiêng liêng, kết quả các môn học,
tiến bộ trong lãnh vực giáo dục và tương tác xã hội vối các
bạn đồng môn, các nhà đào tạo và những người khác. “Khoa tâm
lý giáo dục đương thời cung cấp nhiều kỹ thuật để đánh giá
cách thích hợp hơn sự phát triển thực sự của sinh viên.”
Vì Ấn toà Giải Tội và bí mật của việc
linh hướng, vị linh hướng bị ràng buộc bởi toà trong và do
đó, không được bàn cải khi đánh giá và nhận xét về tính
thích hợp của chủng sinh trong việc chịu chức linh mục. Còn
các vị khác đã tương tác làm việc với chủng sinh cách công
cộng và ở toà ngoài nên bị đòi buộc tham dự tiến trình đánh
giá này, vì đó là trách nhiệm đã được trao phó cho các ngài.
Ngay từ đầu, chủng viện cần sự cộng
tác của Giáo phận trong việc chuẩn bị chủng sinh đi vào tiến
trình đào tạo chủng viện. Bây giờ, hội đồng chủng viện được
chờ đợi, không những báo cáo cho Giám Mục biết thái độ ứng
xử bên ngoài của chủng sinh (những gì anh nói và làm, và anh
đạt được những đòi hỏi hàn lâm như thế nào), mà còn đánh giá
anh xét như một ứng sinh và nộp cho Giám Mục đề nghị phong
chức cho anh.
Nhưng trong cảm thức Giáo Hội, người ta
không dừng lại ở đó. Chủng viện có thể báo cáo cho Giám Mục
về các khuynh hướng đặc biệt, những khả năng và đức tính của
ứng sinh nữa, ngõ hầu giúp Giám Mục “dùng” và bổ nhiệm anh
phù hợp với các ân huệ Chúa ban cho anh và các nhu cầu của
Hội Thánh.
Chủng viện cũng có thể gợi ý và đề nghị
Giám Mục cho phép một số ứng sinh đẩy xa việc học hơn nữa
“hầu có thể cống hiến cho Giáo Hội những mục tử bén nhạy với
các nhu cầu thiêng liêng hiện nay,” bởi vì không phải bất cứ
linh mục nào cũng có thể trở thành nhà đào tạo, nhất là linh
hướng. Đây là sự chuẩn bị các người kế vị thích hợp của Giáo
Hội. Nếu việc đào tạo chủng sinh là ưu tiên hàng đầu của Hội
Thánh, thì các Giám Mục nên chọn những linh mục ưu tú để
được huấn luyện thành các nhà đào tạo tương lai trong chủng
viện của các ngài.
4. Ứng
Sinh Không Thích Hợp với Chức Linh Mục
Trong ơn kêu gọi tới chức linh mục của
một ứng sinh, ta phải phân biệt hai yếu tố: Ước muốn và sự
thích hợp. Lòng ước muốn thuộc bình diện tình cảm, trong khi
sự thích hợp đòi hỏi phẩm chất và khả năng. Một thanh niên
có thể rất muốn trở thành linh mục, nhưng anh lại không đủ
phẩm chất và khả năng khiến anh có thể làm một linh mục xứng
đáng. Vì thế, toà ngoài phải phán đoán tính thích hợp này,
ngõ hầu đón nhận hay từ chối một ứng sinh. Còn ở toà trong,
lòng ước muốn phải được xét xem có phù hợp với ước muốn của
Chúa Thánh Thần không. Việc này giao phó ứng sinh cho hoạt
động của Chúa Thánh Thần và sự tiếp nhận lắng nghe những gì
được nói với anh ở toà ngoài. Toà ngoài cũng phải tìm biết
những dấu chỉ của hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời
sống của ứng sinh.
Ứng sinh nào bị phát hiện là không
thích hợp, vì khiếm khuyết thể lý, quân bình tâm lý hay luân
lý, thì nên nhanh chóng đưa anh ra khỏi con đường theo đuổi
ơn gọi linh mục. Cả hai phía, các nhà đào tạo và ứng sinh,
không được phép nuôi dưỡng những hy vọng hảo huyền và những
ảo tưởng nguy hiểm. Cũng không ai được tự phụ rằng ơn thánh
sẽ thay thế cho những khiếm khuyết tự nhiên.
Tuy nhiên, người ta sẽ cho ứng sinh
không thích hợp ra đi một cách tôn trọng, bằng cách nhấn
mạnh về sự không thích hợp với chức linh mục hơn là những
khiếm khuyết hay lỗi lầm. Không phải tất cả những ai vào
chủng viện đều nhất thiết trở thành linh mục: “Nhiều người
được gọi, nhưng ít người được chọn thôi.”
Người ta phải gợi ý cho anh một thực
hiện mới, trong niềm tin tưởng rằng Chúa sẽ dùng anh cách
tốt đẹp cho lợi ích của Giáo Hội, đền đáp những gì anh đã
lãnh nhận từ Chúa và Giáo Hội của Ngài, qua những năm tháng
được đào tạo trong chủng viện. Các cựu chủng sinh nầy cũng
là kho tàng của Giáo Hội, họ sẽ cộng tác vào công cuộc đào
tạo các bạn đồng môn của họ cách này hay cách khác. Họ cũng
góp phần cách tích cực và hữu hiệu vào đời sống và sứ mệnh
của Giáo Hội. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Loạn Nhịp
Tim |
Trong một phút, trái tim
của người trưởng thành, khỏe mạnh, đập khoảng 70 lần, mỗi
lần đẩy ra 150ml máu. Một ngày tim đập 105,000 lần và bơm
hơn 6000 lít máu vào 96,000 cây số mạch máu. Trong suốt đời
người, tim lần lượt đâp cả gần ba tỷ nhịp, bơm ra cả triệu
thùng máu.
Tim làm việc liên tục
ngày đêm, không mệt mỏi, mặc dù tim chỉ to bằng nắm tay em
bé và nặng trên 300 gram. Khả năng và cấu tạo của tim vẫn
tương đối toàn vẹn cho tới khi con người đi vào tử biệt, nếu
không xảy ra những biến cố, khó khăn. Một trong những khó
khăn đó là sự rối loạn trong nhịp đập của tim.
Trái
tim
Tim được ví như hai cái
bơm nằm song song giữa lồng ngực. Mỗi bơm có nhiệm vụ khác
nhau nhưng hoạt động nhịp nhàng, phối hợp vì được cùng một
trung tâm điều khiển.
Hai ngăn trên để tiếp
nhận máu có tên là tâm nhĩ, hai ngăn dưới, tâm thất đẩy máu
ra ngoài tim. Tâm nhĩ nhỏ, không cần mạnh lắm vì chỉ cần bơm
máu xuống tâm thất, rất gần. Tâm thất lớn hơn, mạnh hơn, đặc
biệt là thất trái, bơm máu xa tới cả chục ngàn cây số động
mạch lớn nhỏ khắp cơ thể.
Bốn van một chiều nằm ở
cửa vào (van nhĩ thất) và cửa ra (van bán nguyệt) của mỗi
tâm thất.
Van nhĩ-thất phải, còn
gọi là van -ba- lá, mở ra để máu chẩy từ nhĩ phải xuống thất
phải. Van khép lại khi thất phải co bóp, đẩy máu lên động
mạch phổi, ngăn không cho máu dội ngược lên trên.
Van nhĩ-thất trái hoặc
van- hai -lá mở khi máu từ nhĩ trái xuống thất trái; khép
kín khi máu từ thất phải được đưa vào động mạch chủ.
Các van này có thể bị hở
hoặc trai cứng, gây trở ngại cho sự lưu thông của máu.
Hai van động mạch phổi và
động mạch chủ nằm ở gốc các động mạch này, ngăn không cho
máu trở lại tim, sau khi đã được bơm ra.
Nhịp
tim
Tim co bóp do một nhóm tế
bào đặc biệt nằm ở vách sau của tâm nhĩ phải khởi xướng và
quyết định số nhịp đập của tim. Ðó là nút- xoang- nhĩ
(sino-atrial node), một máy điều hòa nhịp tim (pacemaker) tự
nhiên.
Nút phát ra những xung
lực điện, được những sợi cơ tim đặc biệt dẫn truyền tới kích
thích các ngăn của tim co bóp. Âm thanh co bóp được diễn tả
bằng hai âm tiết “lubb” và “dupp” , nghe được khi ta đặt tai
vào ngực để nghe. Âm “lubb” trầm, dài hơn, khi tâm thất bắt
đầu bóp và các van nhĩ thất khép lại. Âm “dupp” thanh nhưng
ngắn hơn khi tâm thất bắt đầu thư giãn và các van bán nguyệt
khép lại. .
Mạch (pulse) là do sóng
áp suất chuyển tới động mạch mỗi khi trái tim co bóp, đẩy
máu ra ngoài. Mạch được nhận ra dễ dàng trên các động mạch
nổi gần mặt da như động mạch quay (radial artery) ở cổ tay
động mạch cảnh (carotid artery) ở cổ, động mạch ở cổ chân, ở
bẹn, ở thái dương....
Mạch được tính theo số
lần tim đập trong một phút và có thể đếm dễ dàng bằng cách
đặt đầu ngón tay giữa và chỏ lên một động mạch nổi trên da.
Ngón tay sẽ cảm thấy tiếng chuyển động nhè nhẹ của sóng áp
lực trên mạch máu đó. Mỗi sóng tương ứng với một lần tim
bóp.
Khi bắt mạch, nên thoải
mái, thư giãn, vì nếu hồi hộp, lo lắng, nhịp tim thường
nhanh hơn một chút. Ðếm mạch trong 1 phút hoặc trong 30 giây
rồi nhân đôi để có số nhịp tim.
Nhịp tim bình thường tùy
thuộc tuổi tác, tình trạng sức khỏe, thời gian trong
ngày...Buổi sáng trước khi thức giấc, nhịp thấp nhất. Khi
hít thở vào, nhịp hơi nhanh hơn và khi thở ra, nhịp hơi
chậm. Nhịp phải đều đặn, có nghĩa là thời gian giữa hai nhịp
phải bằng nhau.
Sau đây là số nhịp trung
bình trong 1 phút:
-
Trẻ em dưới 1 tuổi: 100 tới 160 nhịp/ 1phút
-
Trẻ từ 1 tới 10 tuổi: 70 tới 120 nhịp/1phút
-
Người từ 10 trở lên: 60 tới 120 nhịp/ 1phút
-
Vận động viên thể thao: 40 tới 60 nhịp/1 phút.
Phụ nữ có nhịp tim nhanh
hơn nam giới khoảng 5 lần tim đập và được giải thích là tim
quý bà hơi nhẹ hơn tim quý ông, mà nhẹ thì co bóp hơi nhanh
hơn, nhiều hơn.
Mặc dù tim đập là do
chính trái tim điều khiển, nhưng nhịp tim có thể bị chi phối
bởi hệ thần kinh và nhiều yếu tố khác. Ðó là:
a- Hệ thần
kinh tự chủ có thể thay đổi nhịp tim tùy theo nhu cầu tuần
hoàn của cơ thể. Các kích thích từ hệ thần kinh này làm nhịp
tim nhanh hơn và tăng lượng máu do tim đẩy ra ngoài.
b- Kích thích
từ hệ thần kinh phó giao cảm làm chậm nhịp tim.
c- Các hóa
chất lưu hành trong máu như hormon, sắt, dược phẩm... cũng
có thể thay đổi nhịp tim.
d- Tập luyên
cơ thể đều đặn làm cơ tim mạnh hơn và tăng lượng máu đẩy ra
mỗi lần tim đâp. Khi nghỉ ngơi, nhu cầu máu được thỏa mãn
với nhịp tim chậm. Do đó nhịp tim ở các vận động viên thể
dục, thể thao đều chậm.
Nhịp tim có thể cho biết
nhiều chi tiết về tình trạng khỏe mạnh hoặc đau yếu của cơ
thể. Các vị thầy thuốc y học cổ truyền chỉ cần bắt mạch mà
chẩn đoán được nhiều bệnh của lục phủ ngữ tạng.
Trong y khoa hiện đại,
mạch là một trong bồn dấu hiệu chính cần được kiểm soát mỗi
khi đi khám bác sĩ. Ðó là Mạch, Nhịp Thở, Thân Nhiệt và
Huyết áp.
Ngoài ra, sinh hoạt điện
của tim có thể được ghi bằng tâm-điện-đồ (EKG).
Loạn
nhịp tim
Nhịp tim không bình
thường là dấu hiệu có rối loạn nào đó trong việc khởi xướng
các xung lực điện năng từ trung tâm tự động tim hoặc trong
việc dẫn truyền các xung lực này tới tế bào tim. Trung tâm
tự động tự nhiên của tim (pacemaker) nằm ở vách sau tâm nhĩ
phải. Trung tâm này điều hòa nhịp tim đập.
Loạn nhịp tim có thể là
tim co bóp quá nhanh, quá chậm hoặc không đều nhau.
Thực ra, ở người bình
thường đôi khi cũng có vài thay đổi thoảng qua, vô hại của
nhịp tim. Ðang lim dim suy nghĩ, mà có tiếng động mạnh là
giật mình hoảng hốt. Gặp người tình lần đầu hò hẹn, chắc là
nhiều người cũng đỏ mặt hồi hộp. Và trong cả hai trường hợp,
tim đều rộn rã đập nhanh trong vài giây.
Nhưng nếu loạn nhịp kéo
dài, khó thở, đau ngực, buồn nôn, chóng mặt, bất tỉnh...thì
nên cẩn thận, thông báo cho bác sĩ gia đình. Ðây có thể là
dấu hiệu một bệnh nào đó ở bệnh tim hoặc của cơ thể.
a- Mạch
chậm khi tim đập dưới 60 nhịp một phút.
Mạch chậm có thể là bình
thường đối với các lực sĩ, các vận động viên thể dục, thể
thao hoặc trong khi đang ngủ. Qua tập kuyện cơ thể, trái tim
của họ đã trở nên mạnh mẽ, khả năng bơm rất tốt sau mỗi lần
co bóp, nên tim không cần đập nhiều mà vẫn đủ máu nuôi dưỡng
mọi cơ quan, bộ phận. Ban đêm, cơ thể không cần nhiều máu,
tim cũng nghỉ ngơi đôi chút, để ngày hôm sau làm việc.
Với nhiều người khác,
nhịp tim chậm có thể là do rối loạn ở nút xoang nhĩ, nơi
phát xuất tìn hiệu điện để tim co bóp hoặc do gián đoạn sự
dẫn truyền tín hiệu tới tế bào tim.
Bệnh tim, thương tích
tim, tác dụng phụ của một vài dược phẩm (atenolol, ditiazem
chữa cao huyết áp), bẩm sinh, suy nhược tuyến giáp... có thể
là những nguyên nhân đưa tới chậm nhịp tim, và tim sẽ không
bơm đủ máu nuôi cơ thể.
b- Nhịp
tim nhanh khi tim đập trên 100 lần trong một phút.
Tim đập tạm thời nhanh
hơn bình thường có thể xẩy ra khi vận động cơ thể mạnh mẽ,
nóng sốt, sợ hãi, tác dụng phụ vài loại dược phẩm, kích
thích tố...và không có ảnh hưởng nhiều lắm tới khả năng bơm
máu của tim.
Nhưng khi nhịp tim liên
tục thật nhanh và kéo dài thì có thể là do rối loạn ở nút
xoang nhĩ và hệ thống dẫn truyền xung lực điện ở tim. Ngoài
ra, các tế bào tim cũng có thể tự mình phát ra xung lực
điện, tạo ra những nhịp tim riêng và gây rối loạn cho nhịp
bình thường.
Sau đây là mấy trường
hợp đáng lưu ý:
- Rung tâm nhĩ và tâm
thất là những trường hợp tim đập nhanh và hỗn loạn, khiến
cho tim không duy trì được sự co bóp đồng đều và giảm khả
năng bơm máu.
- Rung tâm nhĩ có thể là
hậu quả của cao huyết áp, vữa xơ động mạch, thấp khớp tim,
cường tuyến giáp...Vì tâm nhĩ rung giựt, máu không bơm hết
xuống tâm thất, nên máu sót lại, đưa tới một hậu quả nghiêm
trọng là tạo ra khối huyết. Huyết cục có thể di chuyển lên
não gây ra tai biến não, tới động mạch tim gây ra nhồi máu
cơ tim...
- Rung tâm thất thường
gây ra do nhồi máu cơ tim và tim có thể ngưng đập.Tâm thất
có nhiệm vụ bơm máu ra ngoài tim qua mỗi lần tim đập. Khi cơ
của tâm thất rung liên hồi thay vì co bóp, máu sẽ không được
đẩy ra để nuôi dưỡng các cơ quan bộ phận và hậu quả trầm
trọng sẽ xẩy ra.
- Tế bào ở một điểm nào
đó của tâm thất cũng có thể khởi xướng một nhịp tim đập rất
nhanh, có khi tới gần 300 nhịp một phút. Người bệnh thấy
chóng mặt, đau ngực, hồi hộp, khó thở và có thể đưa tới bất
tỉnh, nguy hiểm cho tính mạng. Rối loạn này thường thấy
trong trường hợp động mạch tim bị nghẹt, bệnh của các van
tim, cơ tim hư hao...
c- Nhịp đập lạc vị (extrasystole) do một xung lực
điện phát ra từ một nơi nào đó của tim, bên ngoài nút
xoang-nhĩ. Nhịp tim không thay đổi, nhưng giữa những lần tim
đập bình thường thì xuất hiện những tim đâp thêm. Loạn nhịp
này không nguy hiểm lắm và có thề gây ra do bất cứ một bệnh
nào của tim, do sử dụng cafeine quá độ, do nicotine trong
thuốc lá, do vài hoạt chất trong thuốc chữa cảm lạnh, thuốc
trị bệnh hen suyễn... đôi khi cũng thấy ở người bình thường.
Ðiều
chỉnh loạn nhịp tim
Loạn nhịp tim cần được
bác sĩ chuyên khoa tim mạch xem xét kỹ càng về các dấu hiệu
biểu lộ hoặc tìm thấy cũng như những hậu quả mà loạn nhịp có
thể gây ra. Khi đã biết rõ nguyên nhân gây ra loạn nhịp,
việc điều trị đều có thể thực hiện được với dược phẩm, các
dụng cụ y khoa, giải phẫu tim...
Có nhiều loại dược phẩm
rất công hiệu nhưng tác dụng phụ cũng không phải là ít, cho
nên việc sử dụng cần được sự chỉ định và theo dõi của các
thầy thuốc chuyên khoa. Mỗi loại loạn nhịp có dược phẩm
riêng để làm tăng hoặc làm dịu nhịp. .
Bệnh nhân cần tuân thủ
các hướng dẫn về cách dùng, về liều lượng, về khó khăn có
thể xẩy ra khi dùng thuốc. Ðôi khi, chỉ “sai một li là đi
một dặm”, loạn nhịp trở nên ngưng nhịp, tim đứng yên...
Hiện nay, có nhiều phương
thức, máy móc “chiêu hồi” loạn nhịp trở lại đều đặn, bình
thường: phá rung bằng dòng điện, gài máy chuyển nhịp phá
rung tự động (AICD), shock điện, tác động vào nhánh phó giao
cảm dây thần kinh phế vị...
Máy điều hòa nhịp tim
nhân tạo (artificial pacemaker), là thiết bị mà nhiều người
có loạn nhịp tim đang dùng..Máy rất giản dị và nguyên tắc
điều hành cũng dễ hiểu.
Bộ phận chính là một cái
hộp lớn bằng nửa chiếc bánh bèo, gắn kín, chứa bình phát
điện và bộ máy điện tử. Hai dây điện nối máy với tim. Bình
điện dùng được mươi năm và thay thế dễ dàng.
Máy được gắn dưới lớp tế
bào mỡ ở phần trên ngực, thường là phía bên phải. Dây dẫn
điện được luồn vào tĩnh mạch dưới xương đòn gánh, vào tim.
Máy có nhiệm vụ canh
chừng, nghe nhịp đập tự nhiên của tim. Khi không thấy nhịp
xuất hiện sau một thời gian nào đó thì máy nhẹ nhàng nhắc
nhở kích thích tim, “đập đi chứ!”.
Thời gian giải phẫu đặt
máy rất mau, khoảng vài giờ và bệnh nhân có thể về nhà sau
giải phẫu, nhưng đừng lái xe hơi.
Người mang máy có thể
được sắp đặt theo dõi tự động qua hệ thống viễn liên.
Rồi sau đó, cần được bác
sĩ kiểm soát lại tùy theo tình trạng bệnh và tùy theo loại
pacemaker. Nên giữ đúng hẹn để được tái khám.
An toàn
pacemaker
Các máy điều hòa nhịp tim
hiện nay đều được cải thiện về khả năng và an toàn cho người
sử dụng. Tuy nhiên cũng cần lưu ý tới mấy điều như sau:
- Tránh những hoạt động
quá mạnh trong thời gian 8 tuần lễ sau khi gắn máy.
- Sử dụng hết sức nương
nhẹ cánh tay ở phía ngực mang máy.
- Tránh tiếp xúc với các
máy móc quá cũ, không được bao che kín; tránh tắt, mở công
tắc điện thường xuyên.
- Tránh đi qua cửa kiểm
soát an ninh tại phi trường, máy dò kim khí có thể thay đổi
khả năng của pacemaker và cục pin. Cho nhân viên kiểm soát
coi thẻ chứng nhận mang máy điều hòa nhịp tim và yêu cầu
kiểm soát cơ thể bằng tay.
- Không nên đứng gần các
máy dò kim khí, các động cơ đang vận hành, cục nam châm
- Không làm thử nghiệm
MRI, vì từ trường của MRI rất mạnh, có thể di chuyển kim khí
trong pacemaker, gây ra thương tích...
- Nên thông báo cho nhân
viên y tế, nha sĩ là mình mang pacemaker, để tránh rủi ro có
thể xảy cho máy khi tiếp xúc với các dụng cụ y khoa khác.
Khi máy bị hư hao, người
bệnh sẽ thấy những dấu hiệu như bắp thịt gần máy co soắn,
nhịp tim bất bình thường, khó thở, nặng ngực, chóng mặt, vết
mổ sưng... Trong trường hợp này, cần tham khảo ý kiến bác sĩ
ngay.
Phòng
ngừa loạn nhịp tim
Ða số các nguyên nhân đưa
tới loạn nhịp tim là do một bệnh nào đó của trái tim. Do đó,
các phương thức phòng ngừa bệnh tim cũng áp dụng cho phòng
ngừa loạn nhịp. Dinh dưỡng hợp lý, giảm chất béo; giữ cân
nặng cơ thể trung bình; vận động cơ thể đều đặn, giới hạn
rượu, không hút thuốc lá, giảm căng thẳng tinh thần...
Bác sĩ
Nguyễn Ý Ðức
Texas-Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|