Năm 1929, theo thống kê, tỉnh Bình Định
có 360 người mắc bệnh phong. Đó là con số nhân viên kiểm tra
y tế chỉ khai báo số bệnh nhân họ gặp lang thang ngoài
đường, ngoài chợ. Con số có thể lên đến 1.200 ở mọi giai
đoạn của bệnh. Bác sĩ Le Moine, giám đốc bệnh viện Qui Nhơn
lúc bấy giờ suy đoán như vậy. Vị bác sĩ này rất quan tâm đến
người bệnh phong. Ông xuất bản một cuốn sách nói về bệnh
phong và người mắc bệnh, đặc biệt về số phận và cuộc sống
lây lất của người phong ở Việt Nam.
Từ năm 1927, vị bác sĩ đầy lòng nhân ái
nầy đưa ra đề án: lập một “nông trại hay một làng cho người
bệnh phong”.
Đề án của bác sĩ Le Moine khác với
nhiều nơi. Từ lâu trên thế giới đã có những trại tập trung
người bệnh phong, nhưng chẳng khác gì những “nhà tù trá
hình”, bắt nhốt và cướp đi thứ tài sản cuối cùng của họ là
sự tự do. Vì vậy, bệnh nhân nghĩ đến chuyện trốn thoát;
người ta chống bệnh phong rồi quay ra chống người mắc bệnh.
Đề án lập “nông trại hay một làng” cho
người phong có tính nhân bản ưu việt là nơi đây tuy cách ly
và không cho bệnh nhân có dịp đi lang thang, ăn xin ăn mày,
lây lan bệnh khắp nơi, nhưng bệnh nhân, kể cả người què cụt,
già liệt, đều có cuộc sống bình thường, có nhà cho cả gia
đình, có công ăn việc làm. Họ không còn mặc cảm bị gạt ra
ngoài lề xã hội và luôn luôn nghĩ rằng mình vẫn còn là những
con người hữu ích. Một cuộc sống bình thường trong thời gian
chữa trị cũng như sau khi đã “sạch”. Phương thức này đưa ra
những nguyên tắc rất lý tưởng trong cách nhìn mà cũng rất
thực tiễn độc đáo trong thể hiện.
Sau 2 năm gõ cửa hết cơ quan nầy đến cơ
quan khác, ai cũng nói lời khích lệ nhưng chỉ cho phép mà
không giúp cụ thể gì. Có lần bác sĩ Le Moine được dẫn đi tìm
địa điểm nhưng là những nơi toàn đá sỏi, đất cát cằn cỗi
hoặc một bãi cát hoang đầy mồ mả.
Bác sĩ Le Moine hầu như thất vọng thì
một hôm ông gặp được Đức cha Grangeon (Mẫn), Giám Mục giáo
phận Qui Nhơn. Qua cuộc trao đổi về dự án của bác sĩ Le
Moine, vị Giám mục còn sống sót trong thời kỳ cấm đạo dưới
triều Tự Đức, nói:
- “Thưa bác sĩ, Cha Maheu và toàn giáo
phận xin sẵn sàng làm theo lời bác sĩ trong công cuộc dự
định này”.
Như vậy, sự hợp tác giữa niềm tin của
người có đạo với niềm tin của người có lòng nhân đã bắt đầu
từ đây. Đây là sự hợp tác tốt nhất. Và Đức cha Grangeon đề
nghị địa điểm Qui Hoà.
Địa điểm Qui Hoà:
Qui Hoà, từ xa xưa, dân gian gọi là Xóm
Cát, có một họ đạo gọi tên họ Xóm Cát. Trên sườn núi có nền
nhà thờ cổ xưa.
Qui Hoà nằm về mạn Nam cách xa thành
phố Qui Nhơn 7 cây số, một con đường nhỏ nối liền với Qui
Nhơn, qua một con đèo không cao lắm, trên đèo còn thấy di
tích thành luỹ cũ có lẽ là các đồn phòng thủ của quân binh
Tây Sơn. Qui Hoà nằm giữa một cánh đồng 60 hecta, đất tốt,
ba phía có núi hình vòng cung, phía Đông là biển, là vũng
Làng Mai, phía Nam có con sông nhỏ uốn khúc quanh co chảy ra
biển. Bãi biển màu cát vàng hình vòng cung, biển bao la cộng
với trời cao xanh cùng một màu, tạo thành một cảnh trí thiên
nhiên đẹp tuyêt vời.
Qui Hoà rất thích hợp để lập một làng
phong, có nước, có gió, có biển, đồng bằng trồng lúa, trồng
dừa, trồng cau, trồng cây ăn trái. Núi gần đó; trên núi có
đá có thể dùng để xây cất nhà cửa. Dân cư thưa thớt.
Cha Maheu đến Qui Hoà và bắt đầu xây
dựng cơ sở:
Theo lời bác sĩ Le Moine kể lại: “Một
buổi sáng đẹp trời chúng tôi thấy một chiếc ghe chèo đến,
trên ghe chở một giường gỗ, vài cái ghế; một cái bàn, một
cái máy hát đĩa, rất nhiều sách, một nhà ẩn sĩ gầy gò có bộ
râu dài, đôi mắt sáng quắc, đó là cha Maheu, đến hiến dâng
cuộc đời cho người bệnh phong” (Lm. Antôn Trần Phổ và Nữ tu
Mađalêna Nguyễn thị Triệu, biên soạn ”Cộng đoàn thánh
Phanxicô Qui-Hoà”, tài liệu đánh máy, trích Lược sử Dòng
Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ Việt Nam, tr. 5).
Linh mục PAUL ANDRÉ MAHEU sinh ngày
24-1-1869, vào chủng viện Hội Thừa sai Hải ngoại Paris, thụ
chức linh mục ngày 30-6-1895, sang Việt Nam phục vụ truyền
giáo tại giáo phận Qui Nhơn, lấy tên Việt Nam là MỸ.
Bác sĩ Le Moine và linh mục Maheu cùng
nhau thảo luận, lên phương án, vẽ hoạ đồ và nhất là hai vị
đồng quan điểm “xây một cư xá cho những người tự do, tin
tưởng và gắn bó với mảnh đất họ sống”.
Chính quyền cũng như giáo quyền khoán
trắng công trình cho hai vị. Với hai bàn tay trắng, Cha
Maheu đến gõ cửa các nhà giàu, các ông chủ đồn điền, các nhà
hảo tâm, các công chức ở miền Nam…
Được một ít tiền, Cha Maheu cất lên mấy
căn nhà tranh vách đất, làm nhà thương chẩn bệnh phát thuốc,
nhà ở cho bệnh nhân, nhà thờ… Cha qui tụ được 52 người bệnh
và bác sĩ Le Moine dốc hết khả năng chữa trị. Theo dự định,
nơi này dành riêng cho bệnh nhân phong cùi tỉnh Bình Định,
nhưng không lâu sau phải mở rộng cửa đón nhận bệnh nhân từ
các tỉnh lân cận tới. Có một lương y Việt Nam, với Đông dược
đã chữa lành một người phong. Bác sĩ Le Moine mời lương y ấy
đến trại Qui Hoà cộng tác.
Với phương pháp chữa trị dài hơi do bác
sĩ Le Moine đề ra, với các dược liệu cổ điển thời bấy giờ,
có nhiều người giảm bệnh, lành bệnh về lại với gia đình.
Không rõ về sau bác sĩ Le Moine về Pháp
hay đổi đi đâu.
Còn Cha Maheu, người bạn chân tình của
bệnh nhân phong cùi, linh hồn của công cuộc thành lập trại
phong Qui Hoà từ tháng 5 năm 1929, vì lo lắng, di chuyển
nhiều, nhất là lo tìm nguồn tài chính ngân khoản, Cha lâm
bệnh nặng phải về Pháp chữa trị năm 1930. Về Pháp được mấy
tháng, ngài qua đời tại Paris ngày 27-2-1931, thọ được 62
năm và 6 ngày, 36 năm linh mục phục vụ giáo phận Qui Nhơn
trong đó có 3 năm phục vụ bệnh nhân phong cùi xấu số Qui
Hoà.
Cha Maheu để lại cho trại phong Qui Hoà
gia sản và đất đai gồm: một nhà thờ tạm, một nhà tuyên uý,
một nhà cho nữ tu ở tạm, một bệnh xá chẩn bệnh phát thuốc.
Tất cả đều là tường gạch lợp ngói nằm gần bờ biển. Trại bệnh
nhân phía trong, giữa trại có một khu chợ. Các con đường đều
bắt đầu từ chợ, chia trại thành từng khu. Bệnh nhân và gia
đình ở từng nhà. Nhà cất tuỳ sở thích, nhà tre, nhà gỗ, vách
đất, vách ván, lợp tranh.
Thay thế Cha Maheu, năm 1931 có Cha
Alexandre (Trí), rồi đến tháng 8-1931 Cha Nicolas (Cận). Một
số nữ tu Mến Thánh giá Gò thị được Đức cha Tardieu (Phú,
1872-1942) điều tới cộng tác với Cha Nicolas. Nhà cửa, bệnh
xá, nhà nguyện… tiếp tục dần dần mọc lên.
Các nữ tu Phanxicô Thừa sai Đức Mẹ
kế tục sự nghiệp và phát triển:
Năm 1930 Đức cha
Auguste-Marie Tardieu, tân Giám mục giáo phận Qui Nhơn qua
Roma. Ngài đến gặp Mẹ Marie de Saint-Michel, bề trên toàn
dòng Phanxicô Thừa Sai Đức Mẹ, yêu cầu Dòng đảm trách trại
phong Qui Hoà mới thành hình. Dòng này, theo tinh thần thánh
Phanxicô sống phục vụ cho người nghèo bệnh tật bất hạnh.
Dòng lại có nhiều nữ tu chuyên môn và đang đảm trách 9 trại
phong trên thế giới.
Ngày 23-9-1932, năm nữ
tu Phanxicô Thừa Sai Đức Mẹ thuộc tỉnh dòng Thánh tâm Paris:
Marie Gisèle (trưởng đoàn), Marie de la Résurrection, Marie
de Saint-Yenan, Marie Waberta và Marie Martia du Sacré-Cœur
xuống tàu “ Le Général Mesinger” từ Marseille đi Saigòn.
Tàu cập cảng ngày
19-10-1932. Từ Saigòn các nữ tu lên xe lửa ra Nha Trang, rồi
đi xe hơi ra đến Qui Nhơn ngày 24-10-1932, đi xe hơi vào Qui
Hoà. Đến chân núi, đường hẹp quanh co, các chị đi kiệu do 4
thanh niên lực lưỡng khiêng trên vai. Đoàn người đi như một
đám rước, cờ quạt trống chiêng dẫn đầu. Đến cổng trại, bệnh
nhân với những khuôn mặt biến dạng xù xì bừng lên niềm phấn
khởi đón rước. Hai bệnh nhân đọc diễn văn chúc mừng, một bài
bằng tiếng Pháp, một bài bằng tiếng Việt. Thật đau lòng khi
nghe họ tự xưng là những kẻ “thân tàn ma dại”.
Bắt đầu từ đây,
25-10-1932, các nữ tu Phanxicô là những chủ nhân mới kế tục
lâu dài sự nghiệp của linh mục Maheu. Từ ấy đến nay, Khu
Điều trị phong Qui Hoà có những bước phát triển, cầm chừng…,
thay đổi danh xưng, thay đổi chủ nhân… qua từng thời kỳ:
Từ tháng 10-1932 đến
tháng 11-1945:
Bắt tay vào việc, trước
tên đặt tên thánh cho trại, gọi là “Trại phong thánh
Phanxicô Qui Hoà”. Các nữ tu cũng được gọi là Cộng đoàn
thánh Phanxicô.
Mỗi ngày, các chị thăm
viếng săn sóc chữa trị bệnh nhân phong cũng như các bệnh
khác. Trung bình mỗi ngày băng bó cho từ 160 đến 180 bệnh
nhân. Ngoài ra, còn săn sóc hướng dẫn cho người mù, người
điếc.
Về cơ sở vật chất, các
chị khai quang tăng thêm mặt bằng, cất thêm nhiều nhà tuy
vẫn là nhà tranh vách ván.
Một trận bão lớn, có
sóng thần ập đến, ngày 1-11-1933, tàn phá bao nhiêu công lao
gây dựng của bao nhiêu người từ thời Cha Maheu. Các chị phải
bắt đầu lại và đã bắt đầu. Nhà cửa qui mô hơn kiên cố hơn,
dự trù cho 500 bệnh nhân.
Số nữ tu Phanxicô ở Qui
Hoà vào năm 1935 thêm 3 chị: Marie de Saint-Foulques, Marie
Juetta và Marie Kléophasa, vị chi là 8 chị phục vụ cho bệnh
nhân có khi lên đến 1.637 người đến từ Thanh Hoá, Nghệ An,
Saigòn, Gia Định, Biên Hoà, Bình Dương, Mỹ Tho, Cần Thơ, Sa
Đéc, Bến Tre, Gò Công, Tây Ninh, Châu Đốc, An Xuyên, Ba
Xuyên, Bạc Liêu…(Tài liệu đã dẫn, tr. 12). Kể từ khi thành
lập, tháng 5-1929, cho đến năm 1940, có đến 5.355 bệnh nhân
đã đến Qui Hoà. Họ đủ hạng người, mọi địa phương trong nước…
Có một bệnh nhân “đặc
biệt”, đó là Phanxicô Nguyễn Trọng Trí, nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Ông vào điều trị ngày 20-9-1940 và đã từ trần ngày
11-11-1940. Địa danh Qui Hoà bắt đầu gắn liền với đời bệnh
của ông và tạo một mảng đời thơ tôn giáo của ông. Địa danh
Qui Hoà với những bóng dáng “thiên thần bình an và hoan lạc”
được nói đến trong đời bệnh của thi sĩ, từ đó, trong văn học
Việt Nam. Bóng dáng “thiên thần” đó là Mẹ MARIE JUETTA đến
Qui Hoà năm 1935, là người đã tiếp nhận và săn sóc cho thi
sĩ.
Nguyễn văn Xê, người
bạn bệnh nhân gần gũi nhất của Hàn Mặc Tử ở Qui Hoà kể lại:
“Buổi sáng mùa thu ngày
20-9-1940…mẹ Juetta lẹ làng chạy ra cửa tiếp hồ sơ nơi tay y
tá… Đến giường số 3, mẹ dừng lại, nhìn hồ sơ và nói “Trí,
đây là chỗ của con”…
“Mẹ Juetta bưng đến một
tách lớn đầy sữa nóng, và múc từng muỗng cho Trí uống. Trí e
ngại nói: “Xin mẹ để cho con tự bưng uống được”, mẹ lắc đầu
nói “Không được, để mẹ đút cho con uống vì sữa nóng sẽ làm
cho con phỏng tay”. Rồi mẹ sung sướng mỉm cười thấy Trí cố
gắng uống cạn ly sữa”… (“Hàn Mặc Tử, Thơ và Đời”, NXB Văn
Học, Hà Nội 1993, tr.189-190).
Hình bóng thiên thần
của mẹ Juetta, của các nữ tu Phanxicô đã giúp tâm hồn thi sĩ
vẫn bình an, tuy quằn quại đau đớn vì kịch bệnh. Thi sĩ đã
viết lên bài thơ bằng văn xuôi để nói lên ơn lành quí trọng
đồng thời để ca ngợi các tu sĩ Phanxicô, bài tiếng Pháp có
tựa đề “La Pureté de l’âme”, bài dịch tiếng Việt: “Linh hồn
thanh khiết”:
“Hỡi các thiên thần,
thiên thần của Chúa, thiên thần bình an và hoan lạc, hãy
hoan hô các Mẹ và Chị Dòng Thánh Phanxicô xuống giữa loài
người mà an ủi cho chúng tôi, những kẻ trầm luân yếu đuối,
bệnh tật, hủi phong.
Tôi muốn trọn đời
ngưỡng mộ vẻ trắng trong nguyên vẹn, nguồn tươi, ánh sáng,
thơ vì tất cả đây là hình tượng của
“LINH HỒN THANH KHIẾT”
………
( “Chơi giữa mùa
trăng”, NXB An Tiêm, 1969, tr. 69-73)
( Ngày 11-11-1994 Khu
Điều trị phong Qui Hoà Khánh thành phòng Lưu niệm Hàn Mặc
Tử).
Trong chiến tranh thế
giới II, quân đội Nhật chiếm đóng Việt Nam, bao nhiêu biến
cố dồn dập xảy ra trên đất nước. Qui Hoà sống trong hoàn
cảnh rất khó khăn.
Cho đến ngày
21-11-1945, các nữ tu Phanxicô người Pháp bị bắt buộc phải
rời Qui Hoà về Pháp. Lúc này số bệnh nhân có đến 660 người.
Từ tháng 11-1945 đến
tháng 7-1955:
Đất nước đi vào cuộc
chiến tranh chống Pháp. Qui Hoà thuộc tỉnh Bình Định thuộc
Liên khu V. Gần 10 năm chiến tranh, Qui Hoà sống lây lất cầm
chừng. Thời gian này có các linh mục giáo phận Qui Nhơn:
Cha Phaolô Huỳnh Biên, Giuse Vũ Ngọc Nhã, Phaolô Nguyễn Xuân
Bàn lần lượt đến điều hành trại phong về xã hội cũng như về
mục vụ. Các nữ tu dòng Mến Thánh giá Gò Thị đến giúp.
Về phần dòng nữ
Phanxicô chỉ có 4 nữ tập sinh ở lại phục vụ, đó là: Catarina
Trần thị Thêm, Angela Dương thị Lành, Isave Lê thị Tỏ và
Maria Hội. Bốn chị can đảm kiên trì phục vụ thiếu nhi và trẻ
mồ côi, giữ nhà thờ, giữ tu viện. Các chị kiệt sức, có một
chị xin về với gia đình và một chị là Catarina Trần thị Thêm
có triệu chứng lây bệnh phong, đang thời kỳ ủ bệnh đã 4 hoặc
5 năm.
Từ tháng 7-1995 đến
tháng 6-1976:
Ngày 6-7-1955, sau hiệp
định Genève, các nữ tu Phanxicô trở lại Qui Hoà, gồm 5
người: Mẹ Charles-Antoine, Ozithe và 3 chị Việt Nam:
Magarita Phùng thị Khoá, Hélène Trần thị Mộ, Gioanna Nguyễn
thị Nghi.
Số bệnh nhân lúc này
chỉ còn 180 người và nhà cửa thì xiêu vẹo đổ nát…
Trong 20 năm sau chiến
tranh kháng Pháp, trại phong Qui Hoà phát triển qui mô về cơ
sở vật chất: nhà gạch lợp ngói, nhà thờ, tu viện, nhà khách,
hai khu vực nhà thương cho bệnh nhân nặng nam nữ riêng biệt
vv… Có phòng nha khoa, có phòng xét nghiệm, ngày 25-4-1969
khánh thành trung tâm chỉnh hình nhờ bác sĩ Gingras va nhóm
chuyên viên vật lý trị liệu Canada trợ giúp. Thuê thợ chuyên
môn bệnh viện Chợ Quán ra giúp làm chân giả, nhờ đó mà
khoảng 50 bệnh nhân có thể đi lại được, thậm chí còn đi xe
đạp.
Từ nhà nầy sang nhà
khác giữa các khu vực, đường sá ngang dọc thẳng tắp rợp mát
bóng dừa. Qui Hoà trở thành một làng -làng Qui Hoà- cho bệnh
nhân.
Có một cơ sở ngoại vi
của làng về mạn Tây và mạn Nam, là xóm nhà 250 căn xây cất
cho bệnh nhân và gia đình họ. Nhà gạch lợp ngói, nền lát
gạch bông giữa vườn cây.
Ngoài ra, còn có khu
tiểu thủ công cho bệnh nhân thợ mộc, thợ rèn, thợ hàn, thợ
hồ, thợ làm gạch ngói, thợ dệt vải, dệt chiếu, đan thêu…,
thợ đục đá, mài granitô. Bệnh nhân còn làm chài lưới, trồng
rau, trồng cây ăn trái, chăn nuôi… Mọi điều hành và quản lý
do bệnh nhân và sản phẩm trao đổi trong phạm vi làng phong
Qui Hoà.
Để nâng cao đời sống
tinh thần cho bệnh nhân, các nữ tu còn tổ chức cac buổi văn
nghệ vì bệnh nhân gồm đủ thành phần xã hội: văn sĩ, ca sĩ,
nhà báo, sinh viên, học sinh… Có sân tập thể dục, sân bóng
chuyền, bóng rổ, có cung thiếu nhi, vườn trẻ, trường học mẫu
giáo, cấp I, II. Thầy cô giáo là những bệnh nhân. Học sinh
thi Tiểu học kết quả đậu 11/13 em dự thi. Trường Phổ thông
Qui Hoà được bộ Giáo dục công nhận.
Các nữ tu còn cất nhà
dưỡng lão cho bệnh nhân già cả lành bệnh, phía ngoài Ghềnh
Ráng. Có thể nói đây là một làng phục hồi.
Vài nét đơn sơ trên
đây, cho thấy sự nỗ lực hiệu quả của các nữ tu Phanxicô cho
bệnh nhân phong Qui Hoà to lớn như thế nào. Tính đến cuối
năm 1974 số bệnh nhân là 5.422, số nữ tu người Pháp và người
Việt là 14. Nếu tính từ lúc đầu -1932- đến năm 1974, tổng số
là 47 nữ tu.
Tư tưởng và ước vọng
của Cha Maheu và bác sĩ Le Moine từ những ngày đầu sáng lập,
nay đã thành hiện thực. Đó là bệnh nhân phong hủi đã được
giải phóng. Từ thân phận bị hất hủi “bị nhốt” họ trở thành
những con người tự do, từ những con người bị gạt ra ngoài lề
xã hội thành những con người được xã hội đùm bọc giữ được
nhân phẩm, những con người can đảm trực diện với căn bệnh để
tự mình lãnh trách nhiệm chữa trị, từ thất vọng trở thành
tin tưởng, u buồn trở thành tươi vui, tưởng rằng tàn phế
không ngờ vẫn còn hữu ích, biết chia xẻ đùm bọc nhau như xã
hội đã đùm bọc mình. Có một hôm xe chở 200 bệnh nhân từ miền
Nam ra, toàn trại đổ ra tay bắt mặt mừng, người cũ dắt díu
người mới ổn định nơi ăn chốn ở và ngay sau đó vội vã may áo
cho những người bạn mới rách rưới. Có hai ông bà già không
con, đã nhận 8 em bé gái mắc bệnh, bị cha mẹ bỏ rơi, làm con
nuôi.
Từ tháng 6-1976 đến
nay:
Sau ngày thống nhất đất
nước, tất cả các linh mục tu sĩ ngoại quốc, trong đó có các
nữ tu Phanxicô Thừa Sai Đức Mẹ người Pháp ở Qui Hoà, đều bị
buộc phải rời khỏi Việt Nam.
Tỉnh dòng Phanxicô Thừa
Sai Đức Mẹ đã xin chuyển giao bệnh viện Qui Hoà cho Nhà nước
Việt Nam.
Lễ bàn giao và tiếp
nhận diễn ra ngày 5-6-1976 tại hội trường bệnh viện Qui Hoà.
Về phía Dòng, có nữ tu Madeleine Nguyễn thị Triệu và 5 nữ tu
đại diện. Phía Nhà nước có 5 bác sĩ. Trong buổi lễ, bệnh
nhân có đệ lên các cấp lãnh đạo Chính quyền một lá thư.
Trong thư có đoạn nói về các nữ tu như sau:
“Ở đây, đã ghi được một
điểm son: Nhờ có những nữ tu Dòng Phanxicô, những Bà Mẹ,
những Bà Chị của chúng tôi, đã tự nguyện dấn thân vào vòng
nguy hiểm, dâng hiến trọn cuộc đời, lấy bác ái làm cứu cánh,
để cứu vớt những tâm hồn đau khổ, xoa dịu mọi ưu phiền. Với
lòng yêu thương dạt dào không bờ bến, các chị phải ngược
xuôi, khéo léo vận dụng tài năng, cùng hai bàn tay tinh
khiết của mình, nhờ lòng từ thiện của đồng bào, hay ngoại
quốc, nuôi dưỡng chúng tôi, nhân thế mà cuộc đời chúng tôi
vơi đi những ngày buồn tủi…Thật ra, nếu không có nghĩa cử
cao đẹp, qui trọng ấy của các Nữ tu, ân nhân của chúng tôi,
thì cuộc đời chúng tôi hầu như tàn tạ kết thúc. Công ơn ấy,
chúng tôi nguyện khắc sâu vào lòng”. (Tài liệu đã dẫn,
tr.23-24).
Từ sau khi bàn giao,
bệnh viện phong Qui Hoà được đổi tên là Khu Điều trị Phong
Qui Hoà.
Nhà nước yêu cầu Dòng
cho 20 nữ tu tiếp tục giúp phục vụ, nhưng Dòng chỉ đáp ứng
được 17 nữ tu có bằng cấp chuyên môn. Các Chị đã phục vụ từ
lâu trước đây, nay cũng tiếp tục ở lại như: Chị Trương thị
Nghiêm, Magarita Phùng thị Khoá, Nguyễn thị Nghi… và tất cả
đều theo chế độ công nhân viên, ăn lương Nhà nước.
Mẹ bề trên tỉnh dòng
Marie-Thérèse de Maleissye vẫn tiếp tục ủng hộ Qui Hoà, nói
về Qui Hoà, nói về các nữ tu Phanxicô Thừa sai Đức Mẹ phục
vụ tại Qui Hoà.
Ông Trọng Giang, trong
bài bút ký “Hoa Dạ Hương ở biển Qui Nhơn”, viết tại
Qui Nhơn tháng 8-1992, đăng trong Tập san VĂN NGHỆ:
“Điều đáng ghi nhận
trước tiên phải nói đến công lao phục vụ của các bà xơ. Là
những người tu hành thuộc dòng tu Phơ-răng-xi-ken thâm nhập
vào Việt Nam từ năm 1932, họ đã vào Qui Hoà đầu tiên, hành
đạo và làm việc thiện ở đây, lấy việc phục vụ người mắc
bệnh phong làm lẽ sống. Nhiều xơ người Pháp đã về nước sau
năm 1975, nay lại đang đề xuất xin Chính phủ ta cho trở lại
làm việc. Hiện nay ở trại còn 17 xơ người Việt Nam, người
trẻ nhất mới 30, người cao tuổi nhất đã ngoài 70 tự nguyện
dành tròn cuộc đời cho việc đạo và chăm sóc các bệnh nhân.
Họ đến với người bệnh như những ân nhân. Trẻ em con cháu của
các gia đình người mắc bệnh phong khi đã học hết cấp I trong
trại nếu có nguyện vọng muốn học lên sẽ được các xơ liên hệ
gửi ra các trường của thành phố cho học tiếp. Tại Qui Nhơn,
các xơ đã mua nhà làm nơi lưu trú cho các cháu và trợ cấp
cho các cháu đủ tiền ăn học”.
Ông Mạnh Việt, trong
bài phóng sự “Nơi Tình Người Bao La” đăng trong báo
Tiền Phong, viết:
“Tôi thực sự cảm thấy
bất lực, khi ngòi bút của mình không đủ khả năng lột tả hết
lòng tốt tới mức thánh thiện của người đời đối với những
người bệnh nơi đây…
Gặp các xơ, thật khó mà
“khai thác tài liệu”, bởi họ là những con người hoàn toàn
không bao giờ nói về mình. Tất cả cuộc đời của họ là làm dịu
đi nỗi đau đớn của người bệnh. Tôi được nghe nói rất nhiều
về thời trước, có Mẹ Nhất Charles-Antoine… Bà mới mất cách
đây 4 năm. Mấy chục năm trời phục vụ bệnh nhân, chưa một ai
nghe thấy bà nói to một tiếng. Có những đêm bà thức suốt đêm
bên cạnh người bệnh. Bà sẵn sàng thò tay móc bông băng đầy
máu mủ của người bệnh bị mắc trong toa-lét.
Chuyện về các xơ còn
nhiều lắm, không kể hết. Riêng tôi chuyến này, được gặp và
chuyện trò với hầu hết các xơ như xơ Khoá, xơ T..., xơ Mỗ,
đều đã trên 70 tuổi, nay đã “về hưu” theo chế độ song ngày
ngày vẫn bên giường bệnh nhân. Trong các xơ tôi để ý có xơ
Yến, quê ở Phan Rang, năm nay mới 32 tuổi, với giương mặt
đôn hậu và đôi mắt huyền bí thăm thẳm. Mấy anh bạn cùng đi
với tôi, khi ra về còn bâng khuâng bởi đôi mắt của xơ Yến
tựa như mắt Đức Mẹ Đồng Trinh…
Tôi tò mò định lách vào
“cửa sổ tâm hồn” của xơ Yến bằng một câu hỏi “nghề nghiệp”
thì xơ mỉm cười… nụ cười La Joconde cách đây hằng thế kỷ của
Leonardo da Vinci.
…Tất cả những chuyện đã
nghe, đã thấy với những người trần mắt thịt ở trại phong Qui
Hoà, mà sao tôi cứ cảm thấy như lạc vào một bầu trời thánh
thiện”. (Báo TIỀN PHONG, Cơ quan ngôn luận của Đoàn Thanh
Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, số đặc san, cuối tháng 4-1992).
Ông Bùi Lợi, trong bài
phóng sự “Ấn tượng Qui Hoà” đăng trên báo Sài Gòn
Giải Phóng, viết:
…Các Sœurs trở thành
những người mẹ người chị gần gũi nhất của trên 10 ngàn bệnh
nhân điều trị ở Qui Hoà từ trước đến nay. Họ là những người
trực tiếp chăm sóc từ miếng ăn, giấc ngủ, từng vết thương và
xoa dịu nỗi đau đớn của người bệnh… Ngày nay, tất cả 17
Sœurs đang làm việc ở Qui Hoà thật sự là những người mẹ,
người chị của trên 1000 bệnh nhân ở đây. Các Sœurs không
muốn nói về mình nên chúng tôi cũng không tiện nêu tên. Bác
sĩ Ngoạn tâm sự: “Khi đến Qui Hoà, tôi học tập các Sœurs rất
nhiều. Họ là những tấm gương sáng phản chiếu lòng nhân ái vô
biên”. (Báo SÀI GÒN GIẢI PHÓNG, Số 123, thứ Bảy 22-5-1993).
Ông Phong Linh (Trương
Phong Linh), một nhà thơ, một nhạc sĩ, chưa Công giáo, sáng
tác bài thơ nhan đề “Về Với Qui Hoà”. Kết bài thơ có
những câu:
… Chính nơi
đây có tình người cao đẹp,
Những mẹ hiền xoa
dịu vết thương đau.
Ngày đêm mưa nắng
dãi dầu,
Bàn tay áo trắng cứu
bao mạng người.
Ôi đẹp quá Qui Hoà
ôi đẹp quá
Đẹp tình người, đẹp
trọn những ước mơ.
Yêu thương, hò hẹn
đợi chờ.
Vì tình nhân loại hy
sinh cuộc đời…
Với những lời tặng:
Chiều
nơi thung lũng
Khu Điều
trị 09-10-1981
“Kính tặng Sơ Luca và
Những Tâm Hồn yêu nhân loại hy sinh cuộc đời nơi Khu Điều
trị dưới chân Thánh Phanxicô và Chúa Cứu Thế”.
TRƯƠNG
PHONG LINH
Hình ảnh các nữ tu
Phanxicô Qui Hoà cũng được quay thành phim, cuốn phim tài
liệu Việt Nam có tựa đề “NHỮNG CHUYỆN TỬ TẾ”. Phim tài liệu
nầy đã dẫn kỷ lục, được tham dự nhiều cuộc Liên Hoan Phim
Quốc Tế: đoạt giải “Bồ Câu Bạc” LHP Leipzig 1988, LHP
Fribourg Thuỵ Sĩ, Cinéma du Réel Paris 1988, Nhật Bản 1988,
1991 và được nhiều nước mua chiếu rộng rãi.
Trong phim, đạo diễn
Trần Văn Thuỷ đã đưa những chuyện tử tế của các nữ tu xen
vào nhiều chuyện tử tế của nhiều người khác.
Đạo diễn đưa ra một số
đông các chị, đưa ra một vài khuôn mặt phúc hậu từ bi của
người Nữ tu đối chiếu với những khuôn mặt đáng thương của
người bệnh. Đưa ra những cảnh:
Một chị không khẩu
trang, không găng tay đang xức thuốc cho một bệnh nhân, một
chị khác đang quì gối băng bó và mang chân giả cho một bệnh
nhân,
Một chị đang chăm chú
xét nghiệm dưới ống kính hiển vi.
Một chị đang thận trọng
nhẹ nhàng đẩy chiếc xe lăn trên có người bệnh nặng. Và có
tiếng phỏng vấn vì sao các chị hy sinh được như thế,
Có tiếng một chị trả
lời: “VÌ CHÚNG TÔI CÓ LÒNG TIN”.
Còn một chuyện tử tế
khác, đạo diễn tạo ra cảnh hai chị cầm bó hoa, trèo lên núi
đến đặt trước mộ Hàn Mặc Tử.
Hình như nhà làm phim
muốn nói rằng các Nữ tu trong lúc tận tuỵ phục vụ người sống
vẫn tưởng nhớ đến kẻ đã khuất,
Và rằng Tu sĩ, Thi sĩ
là những con người của cõi Tâm linh.
LÊ NGỌC BÍCH
Tài liệu tham
khảo:
- “Cộng Đoàn Thánh
Phanxicô Qui Hoà” (Bệnh viện Phong Qui Hoà) Trích Lược sử
Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ VN. của L.m. Antôn Trần Phổ,
Dòng Phan Sinh và Nữ tu Ma-đa-lê-na Nguyễn Thị Triệu, Dòng
Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ, biên soạn. Tài liệu đánh máy.
- Tiểu sử linh mục
Paul André Maheu, Nữ tu Luca, Khu Điều trị Phong Qui Hoà
cung cấp.
- Báo Đức Mẹ HCG,1962,
số đặc biệt giáo phận Qui Nhơn.
- Hàn Mặc Tử Thơ và
Đời, NXB Văn Học, Hà Nội 1993
- Việt Nam Giáo sử, Quyển I, II, Phan
Phát Huồn
- GG và DT số 880 ngày 25-10-1992. |