Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 38, Chúa Nhật 08.04.2007


MỤC LỤC 

Lời Giới Thiệu Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay  (Gaudium et Spes) 

LINH MỤC VỚI VIỆC MỤC VỤ SAU HÔN NHÂN: GIA ĐÌNH                                          GSVN

CÔ ĐƠN và TĨNH MẠC                                                                            + Gm. GB. Bùi Tuần

CUỘC KHỔ NẠN CHÚA GIÊ-SU                                                                              Bùi Nghiệp

Lời ngỏ của quan Tổng trấn Philatô cùng các tín hữu...                    Lm. Nguyễn Ngọc Long

NHỮNG NGƯỜI XA LẠ                                                                      Hương Vĩnh chuyển ngữ

CÁC NỮ TU DÒNG PHANXICÔ VỚI KHU ĐIỀU TRỊ PHONG QUI HOÀ           LÊ NGỌC BÍCH

Chiếc bình vỡ                                                                                                          Joseph Vũ

CON XIN ĐƯỢC NHƯ BÀ VERONICA                                                  GLV. Phạm Xuân Khôi

Tác phẩm Đào tạo và Tự đào tạo thiêng liêng...           Lm. Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY

Xin đừng quên bữa điểm tâm                                                               Bác sĩ Nguyễn Ý Đức


Lời Giới Thiệu Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay  (Gaudium et Spes)

 

 

Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay có mục đích chính là "trình bày sự hiện diện và sinh hoạt của Giáo Hội trong thế giới" (số 2, đoạn I).

Nhờ Hiến Chế tín lý về Giáo Hội, Công Ðồng đã trình bày mầu nhiệm Giáo Hội: giai đoạn khởi đầu, sứ mệnh, cơ cấu, đời sống nội tại... để canh tân Giáo Hội.

Trong Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay "có lẽ chưa bao giờ Giáo Hội đã nhận thấy cần phải tìm hiểu xã hội loài người chung quanh như hiện nay để tới gần nó, tôn trọng nó một cách chính đáng, nhập vào nó, phục vụ và trao cho nó sứ điệp Phúc Âm. Hơn nữa, dường như Giáo Hội ưa thích và chiều chuộng nó một phần nào đó, trong khi nó vẫn đang thay đổi mau chóng và không ngừng". 1

Công Ðồng cảm thấy rằng đó là việc khẩn cấp trong thời đại chúng ta.

Chủ đề chính

1. Trước hết Công Ðồng đề cập đến con người dưới mọi khía cạnh (số 3, đoạn I). Con người có phẩm giá rất thiêng liêng nhưng bị tội lỗi làm tổn thương, có cùng đích cao siêu nhưng phải vượt qua nhiều ngăn trở, đã nỗ lực để xây dựng văn minh tốt đẹp nhưng một phần lớn vẫn còn chủ trương vô thần. "Giáo Hội một phần nào đó đã tự xưng là tôi tớ của loài người" 2, bởi vì chúng ta "có thể quả quyết rằng chúng ta phải biết con người nếu muốn biết Thiên Chúa" 3.

2. Hiến Chế nói về thế giới, một thế giới phải được con người xây dựng. Thế giới tức là thực tại thế tục có giá trị và những qui luật riêng biệt của nó. Ðàng khác mọi giá trị và qui luật ấy đều phải phục dịch chính con người toàn diện, do đó phải thích hợp với luân lý và tôn giáo. Chính lịch sử do con người tạo nên, nhưng lịch sử hướng về Chúa Kitô là trung tâm điểm và là cùng đích!

3. Hiến Chế cũng trình bày sinh hoạt thế tục theo quan điểm của Giáo Hội.

A) Về việc làm: a) cắt nghĩa việc làm theo thần học, b) giá trị của nó, c) tính cách nhân phẩm, d) công hiệu của việc làm đối với nền văn minh.

B) Về sinh hoạt xã hội phải theo nguyên tắc riêng của từng lãnh vực một (ví dụ: kinh tế, khoa học, văn hóa...) và phải thích hợp với bản tính con người cũng như với đức tin và đức mến.

4. Sau cùng Hiến Chế dạy về hoạt động của Giáo Hội trong thế giới giúp chúng ta hiểu thêm về sứ mệnh và bản tính của Giáo Hội.

Hiến Chế Mục Vụ

Vì danh từ "Hiến Chế" mang ý nghĩa một mệnh lệnh và có vẻ không thích hợp với ý muốn của Công Ðồng là đối thoại với mọi người bất chấp tín ngưỡng, nên một số Nghị Phụ thích danh từ "Tuyên Ngôn" hơn. Nhưng Công Ðồng đã giữ lại danh từ "Hiến Chế" để nhấn mạnh tính cách quan trọng của văn kiện cả về phương diện giáo lý nữa.

Thêm tĩnh từ "Mục Vụ" để nhắc lại tính cách thực tế của giáo lý đó.

Danh từ "Giáo Hội" phải được hiểu như đã được trình bày trong Hiến Chế tín lý về Giáo Hội với sứ mệnh cứu độ.

Còn "Thế Giới" như vừa nói trên, là toàn thể thực tại do Thiên Chúa tạo nên, trong đó nhân loại là trung tâm điểm và có nhiệm vụ phát triển thế giới.

Vài nét lịch sử

Ngày 25-12-1961, khi triệu tập Công Ðồng, Ðức Gioan XXIII đã nói đến những mối lo lắng của Giáo Hội trước những thắc mắc của nhân loại. Giáo Hội có bổn phận phải bàn về các vấn đề đó, vì nó ảnh hưởng đến phần rỗi siêu nhiên 4.

Ngày 11-10-1962, nhân dịp khai mạc Công Ðồng, Ðức Gioan XXIII đã nói vạch rõ tinh thần mới cho Công Ðồng, tinh thần thương xót và thông cảm hơn là lên án 5. Chín ngày sau đó Công Ðồng gởi cho Thế Giới sứ điệp hòa bình và thương yêu cũng như sự quyết tâm phục vụ nhân loại, đặc biệt là người nghèo 6.

Tuy nhiên, trong số 70 lược đồ do các Ủy Ban đã soạn thảo, chưa có tài liệu nào dành riêng cho các vấn đề thế giới. Ðến cuối kỳ họp thứ nhất của Công Ðồng (12-1962) các lược đồ thu gọn lại thành lược đồ 17, có đầu đề: "Về những nguyên tắc và sinh hoạt của Giáo Hội để xúc tiến hạnh phúc của xã hội".

Vào đầu năm 1963 Ủy Ban hỗn hợp, gồm có chuyên viên của hai Ủy Ban về Tín Lý và Tông Ðồ Giáo Dân được bổ nhiệm soạn thảo lược đồ này. Ðầu đề mới là: "Về sự hiện diện của Giáo Hội trong thế giới ngày nay". Cũng có văn kiện khác do Ðức Hồng Y Suenens (Bỉ) đề nghị. Văn kiện này đã được gọi "Lược đồ Malines hay Louvain". Ủy Ban đã lập ra một tiểu ban do Ðức Cha Guano (Ý) làm chủ tịch và Cha Haering CssR (Ðức) làm thư ký để xét lại những đề nghị ấy.

Vào mùa hè năm 1964, các Nghị Phụ mới chấp nhận văn kiện, bấy giờ được gọi là lược đồ 13, cũng được gọi "Lược đồ Zurich", vì tiểu ban đã họp tại đó. Trong kỳ họp thứ ba (tháng 10-11) các ngài đề nghị phải sửa lại nhiều chỗ. Ủy Ban hỗn hợp soạn thảo một lược đồ mới (lược đồ Ariccia-Roma) theo địa danh làm việc.

Trong giai đoạn cuối cùng các Nghị Phụ bỏ phiếu nhiều lần: trước hết đã chấp nhận lược đồ cách đại cương rồi bỏ phiếu từng đoạn một. Sau nhiều sửa đổi theo những đề nghị của các Nghị Phụ, các ngài lại bỏ phiếu từng 12 đoạn và ngày 6-12-1965, 1,860 Nghị Phụ chấp nhận toàn bộ lược đồ, với 251 phiếu chống và 11 phiếu bất hợp lệ. Ngày hôm sau, trước khi Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI công bố Hiến Chế, các Nghị Phụ lại bỏ phiếu một cách long trọng: lúc ấy vẫn còn 75 phiếu chống.

"Không ai có thể quả quyết rằng đạo Công Giáo là vô ích, khi nhận thấy rằng Giáo Hội, nhân dịp tự ý thức về mình nhiều nhất và có hiệu lực lớn nhất, tức là khi tập họp lại trong Công Ðồng, đã biểu thị rõ ràng Giáo Hội chỉ vì con người mà có..." 7.

"Ðối với người Việt Nam chúng ta, nhiều vấn đề có lẽ còn quá mới mẻ. Nhưng hướng đi của Công Ðồng là hướng đi của lịch sử hiện đại. Hiến Chế Mục Vụ nếu được hiểu và áp dụng cho đúng mức sẽ giúp chúng ta tiết kiệm được rất nhiều thì giờ và sức lực" 8.

 


Chú Thích:

1 Phaolô VI, Diễn văn nhân dịp lễ bế mạc Công Ðồng, 8-12-1965: AAS 58 (1966), 54.

2 N.v.t. trg 57.   3 N.v.t. trg 59.

4 Tông hiến Humanae Saluis, 25-12-1961: AAS 54 (1962), 5-13.

5 Diễn văn, AAS 54 (1962), 792.    6 AAS 54 (1962), 822-824.

7 Phaolô VI, Diễn văn nhân dịp lễ bế mạc Công Ðồng, 8-12-1965: AAS 58 (1966), 58.

8 Ðức Hồng Y Phaxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Giáo Hội trong Thế Giới hôm nay, Thanh Lao Công 1969, Lời giới thiệu (không mang số trang).

VỀ MỤC LỤC
LINH MỤC VỚI VIỆC MỤC VỤ SAU HÔN NHÂN : GIA ĐÌNH

 

Nếu đọc lại phần thứ tư của tông huấn “Consortio Familiaris”, chúng ta có thể ghi nhận hai điều mới mẻ về mục vụ gia đình :

1- Đức Thánh Cha mong muốn việc chuẩn bị hôn nhân phải được bắt đầu từ lúc còn tấm bé, chứ không phải chỉ tốc hành qua một vài tháng trước hôn nhân.

2- Hôn nhân không phải được kết thúc sau ngày cưới, nhưng trái lại sau ngày cưới, vợ chồng mới chính thức bước vào cuộc sống hôn nhân, vì thế cần phải nhấn mạnh đến việc mục vụ sau hôn nhân. Phải chăng đây cũng là một kiểu “thường huấn” cho các cặp vợ chồng về cuộc sống gia đình của họ ?

 

1- TÌNH TRẠNG GIA ĐÌNH HIỆN NAY

Trong tông huấn “Familiaris Consortio” về gia đình, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã lên tiếng báo động :

- “Trong giai đoạn lịch sử hiện nay, gia đình đang bị nhiều sức ép tìm cách hủy diệt hay ít ra là muốn làm méo mó no đi” (FC 3).

Thực vậy, gia đình hiện nay đang lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, đang bị lung lay tận gốc rễ. Cuộc khủng hoảng này được biểu lộ bằng những hiện tượng  cụ thể  sau đây :

1- Con số những  gia đình bị đổ vỡ, dẫn đến ly dị ngày càng gia tăng : tại nhiều nước phương tây tỷ lệ này  lên đến trên 50% với những nguyên nhân rất đa dạng :  bất đồng về quan điểm hay về tính tình, hoàn cảnh khó khăn, thiếu hiểu biết và không được chuẩn bị sống đời hôn nhân, hoặc vướng vào những tật xấu như uống rượu chè, cờ bạc, cằn nhằn, không chung thủy…

2- Vì lo sợ cho hôn nhân cũng như cho tương lai, nhiều người đành chấp nhận giải pháp hôn nhân thử, hay sống chung không cần đến hôn nhân. Con số những cặp trai gái “ăn cơm trước kẻng”, có quan hệ tính dục ngoài hôn nhân ngày càng gia tăng, trong đó tỷ lệ của các em còn đi học, của những người vị thành niên khá cao.

3- Con số những người nạo phá thai cũng gia tăng. Theo số liệu thống kê của Bộ Y Tế, tại Việt nam hàng năm ước tính khoảng 1.5 triệu ca nạo phá thai, trong đó có khoảng 20% dưới 20 tuổi. Tại Tp HCM, năm 1994-1995, con số nạo-phá thai dưới 18 tuổi gia tăng từ 538 đến 1.423[1].

4- Sự thất bại trong hôn nhân ngày càng cao, rất nhiều gia đình sống không hạnh phúc.

5- Việc giáo dục trong gia đình cũng bị thất bại. Số trẻ em hư hỏng vì  xì-ke ma túy, hay vướng mắc vào chuyện yêu đương, tình dục quá sớm… cũng gia tăng. Nguyên nhân vì cha mẹ không quan tâm và không dành thì giờ để giáo dục con cái, hoặc không biết cách giáo dục con cái thế nào.

Những cuộc hôn nhân đổ vỡ cũng như những cuộc sống chung không hạnh phúc thường đem lại những tai hại to lớn, không phải chỉ cho các cặp vợ chồng, mà còn cho những đứa con do họ sinh ra.

Nếu trước đây, gia đình là cái nôi phát sinh và dưỡng nuôi sự sống, thì hiện nay, ngay trong môi trường gia đình, những mầm sống mới phát sinh, dù còn là bào thai hay đã sinh thành người, đều bị coi là những tai họa, những mối nguy hiềm gây nên khó khăn và bất lợi cho những người đã từng có mặt trong gia đình. Nhiều gia đình đã trở thành một nơi đề phòng, ngăn ngừa, khủng bố, giết chóc các mầm sống mới phát sinh.

Môi trường gia đình ngày nay, đối với nhiều người, không còn là một mái ấm ngập tràn yêu thương, trong đó mọi thành viên cảm thấy được yên ổn, thoải mái, hạnh phúc, các trẻ em được bảo đảm hưởng một nền giáo dục lành mạnh, giúp chúng thăng tiến. Trái lại, gia đình nhiều khi trở nên một tù ngục trong đó người ta giam hãm nhau, làm khổ nhau mà nhiều khi không làm sao thóat ra được. Thay vì là thiên đàng, gia đình đã trở thành một hỏa ngục.

 

2- NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY NÊN ĐỔ VỠ CHO GIA ĐÌNH : 

Nếu tìm hiểu, chúng ta sẽ thấy tình trạng đen tối kể trên xuất phát bởi  hai nguyên nhân chính :

Những nguyên nhân từ bên trong.

Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã bàn về nguyên nhân này như sau :

- “Nhưng đàng khác, cũng không thiếu những dấu hiệu cho thấy một sự thoái hóa đáng lo ngại về một số giá trị căn bản : một quan niệm sai lầm trên lý thuyết  và thực hành về sự độc lập giữa hai vợ chồng, những mập mờ rát trầm trọng về tương quan uy quyền của cha mẹ đối với con cái, những khó khăn cụ thể trong việc lưu truyền các giá trị như nhiều gia đình  đã cảm nghiệm, con số các vụ ly dị gia tăng, vết thương về sự phá thai, việc dùng các phương pháp tuyệt sản ngày càng nhiều, việc hình thành một não trạng đích thị là não trạng chống thụ thai. Căn nguyên của những hiện tượng tiêu cực ấy thường là sự suy đồi trong quan niệm và trong kinh nghiệm về tự do, người ta không còn coi tự do như khả  năng thực hiện sự thật Thiên Chúa vạch ra cho hôn nhân và gia đình, nhưng coi nó như một năng lục tự lập để tự xác định chính mình, thường là chống lại người khác, và để lo cho sự thoải mái ích kỷ.” (FC 6).

Từ những điều Đức Thánh Cha đã viết, chúng ta thấy sở dĩ gia đình hôm nay ngày càng chìm sâu vào một tình cảnh không mấy sáng sủa  là vì người ta đã hiểu sai và sống không đúng quan niệm đích thực của tự do và uy quyền : tự do trong liên hệ giữa vợ chồng với nhau và uy quyền trong liên hệ giữa cha mẹ  với con cái. 

Những nguyên nhân tư bên ngoài :

Hội Nghị các Giám Mục Á Châu đưa ra những nguyên nhân từ bên ngoài gây nên tình trạng ấy như sau:

- “Vào thời điểm giao thoa này của lịch sử, chúng ta đau lòng chứng kiến sự đổ vỡ của đời sống gia đình tại nhiều nơi trong châu lục chúng ta, nhất là trong những trung tâm đô thị. Rất nhiều sức mạnh đang chống lại sự thánh thiện và tính bền vững của những giá trị trong đời sống gia đình. Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa khóai lạc, chủ nghĩa hưởng thụ, sự can thiệp của nhà nước, một não trạng ngừa thai cũng như lối sống nặng kỹ thuật, tất cả đều tác động chống lại sự bền vững của hôn nhân và đời sống gia đình, gây nguy hiểm cho sự ổn định trong xã hội và những giá trị xã hội”.

Như vậy, Hội Nghị đã kể ra một số những nguyên nhân, những sức mạnh điển hình đang “tác động chống lại sự bền vững của hôn nhân và đời sống gia đình, gây nguy hiểm cho sự ổn định trong xã hội và những giá trị xã hội”. Những sức mạnh, những nguyên nhân ấy chính là :

* Chủ nghĩa cá nhân :

Hoàn cảnh xã hội đã làm cho mỗi người trong cùng một gia đình sống trong một thế giới riêng, với những sinh hoạt riêng, thú vui riêng, lo âu riêng của mình. Do đó, người ta ít cảm thông, ít quan tâm đến nhau, và chỉ còn nghĩ đến mình, lo cho nhu cầu và trách nhiệm riêng của mình. Những sinh hoạt chung trong gia đình càng ngày càng trở nên hiếm hoi, cụ thể nhất là các bữa ăn chung trong gia đình. Điều này rất bất lợi cho sự hiệp nhất và tình gia đình giữa các thành viên.

* Chủ nghĩa khóai lạc :

Nền kinh tế thị trường và sự cạnh tranh kinh tế luôn luôn tìm cách tạo nên những nhu cầu giả tạo, khuyến khích người ta tìm những tiện nghi, hưởng thụ tất cả những gì vật chất và kỹ thuật đem lại. Để thỏa mãn những nhu cầu giả tạo này, người ta phải chạy theo đồng tiền, tìm kiếm và coi trọng nó. Khi đã coi trọng đồng tiền thì người ta sẽ coi nhẹ tình nghĩa, là cái cốt tủy tạo nên tương quan tốt đẹp trong gia đình.

* Chủ nghĩa hưởng thụ :

Trong số những nhu cầu giả tạo do nền kinh tế hưởng thụ tạo ra, những nhu cầu thuộc bản năng con người cũng được khai thác triệt để: các quán ăn nhậu và những tụ điểm giải trí mọc lên khắp nơi, trong đó có cũng có những hình thức giải trí thiếu trong sạch, lành mạnh nhưng lại rất lôi cuốn. Vì thế, rất nhiều người bị cám dỗ tìm kiếm và hưởng thụ những lạc thú xác thịt. Điều này đã gây nên bao tang thương đổ vỡ cho các gia đình.

* Sự can thiệp của nhà nước :

Tại Việt Nam, đường lối của xã hội cũng một phần nào đi ngược với chủ trương của Giáo Hội về sự sống con người, gây ảnh hưởng bất lợi đến lối sống của gia đình Ki-tô giáo. Chẳng hạn những biện pháp buộc mọi gia đình phải hạn chế số con cái dẫn đến việc ngừa thai và phá thai…

* Não trạng ngừa thai :

Do kinh tế khó khăn, do tinh thần hưởng thụ, người ta không muốn sinh nhiều con, nên tìm đủ mọi cách để ngừa thai. Tuy nhiên, tại Việt Nam, vì thiếu hiểu biết về những phương cách ngừa thai, nên khi lỡ có thai, để khỏi sinh con, người ta chỉ còn biết phá thai. Do đó, tại Việt Nam vấn đề phá thai trở nên nghiêm trọng hơn ngừa thai.

* Lối sống nặng về kỹ thuật :

Để tăng năng suất trong công việc, người ta phải coi trọng kỹ thuật. Điều này hẳn nhiên có nhiều lợi ích về kinh tế, nhưng mặt khác lại làm cho con người bị lệ thuộc vào máy móc, và phần nào trở nên máy móc. Tình cảm con người vì thế bị giảm đi.

* Ngoài những nguyên nhân mà Hội Nghị kể ra, chúng ta còn thấy có những nguyên nhân khác ảnh hưởng bất lợi cho gia đình tại Việt Nam, đặc biệt những thành phố lớn  như :

- Sự nghèo đói do thiếu công ăn việc làm : do kinh tế không ổn định: Đây là nguyên nhân chủ yếu đã gây ra khó khăn cho biết bao gia đình, tạo nên bất hòa giữa vợ chồng, đem lại nhiều bất hạnh cho gia đình.

- Thiếu giáo dục và trình độ văn hóa quá thấp : do đời sống khó khăn, cha mẹ phải dành quá nhiều thì giờ vào tìm chén cơm manh áo, không có tiền bạc cho con cái đi học, thậm chí không có thì giờ để quan tâm đến con cái, nên nhiều người bị thiếu giáo dục từ hồi nhỏ. Điều này ảnh hưởng không ít đến hạnh phúc của gia đình họ.

- Tình trạng di dân từ nông thôn ra thành thị : các thành phố lớn, nhất là Sài-gòn, đã tiếp nhận đủ mọi người, đủ mọi gia đình từ nông thôn đến nhập cư…đã gây nên không ít những khó khăn.

- Hoàn cảnh và môi trường xã hội : tại Việt Nam từ 1975 đến 1986 : nền kinh tế chung trở nên khó khăn, khiến nhiều gia đình bị khủng hoảng; lớp người sinh ra và trưởng thành trong thời gian này, tức  là lớp trẻ hiện nay, bị thất học, ít được sự quan tâm chăm sóc vì cha mẹ tất bật lo sinh sống, do đó, họ không đủ hành trang tinh thần cũng như vật chất để tạo lập gia đình hạnh phúc. Sau 1986 : nền kinh tế trở nên dễ thở hơn,  nhất là từ 1990 với nền kinh tế thị trường, sự đô thị hóa, hiện đại hóa và công nghiệp hóa khiến cho con người bị cuốn hút vào cơn lốc xoáy kinh tế và phải gánh chịu những ảnh hưởng tai hại kể trên.

 

3- VIỆC MỤC VỤ GIA ĐÌNH.

Trong cơn khủng hoảng hiện nay, tất cả mọi người cần phải tích cực hoạt động để bảo vệ và củng cố sự bền vững của gia đình, vì tương lai của nhân loại cũng như của xã hội sẽ đến qua gia đình. Vì thế, Đức Thánh Cha đã viết những dòng chữ mang tính cách thật khẩn trương khuyên nhủ mọi người phải cố gắng hết sức để  thăng tiến gia   đình  :

- “Tôi tha thiết kêu gọi tất cả Kitô hữu hãy thật lòng và can đảm cộng tác với tất cả những người thiện chí đang thể hiện trách nhiệm đối với các gia đình.” (FC 86).

Cũng trong chiều hướng ấy, Đức Thánh Cha đã nêu rõ :

- “Những đổi thay dồn dập trong lòng hầu hết các xã hội tân tiến đòi hỏi không những chỉ gia đình mà cả xã hội và Hội Thánh đều phải dấn thân vào nỗi lực chuẩn bị tương xứng để các bạn trẻ có thể cáng đáng các trách nhiệm trong tương lai.” (CF 66).

Và như vậy, trong việc thăng tiến gia đình, chúng ta thấy :

Trước hết đó là trách nhiệm của Giáo hội :

- “Hội Thánh phải cấp bách can thiệp mục vụ để nâng đỡ gia đình. Cần phải cố gắng hết sức để ngành mục vụ gia đình được củng cố và phát triển, trở thành một ngành thật ưu tiên, vì chắc chắn trong tương lại, việc loan báo Tin mừng phần lớn tùy thuộc nơi Hội Thánh tại gia đình.” (CF 65).

Riêng tại các Giáo hội địa phương , thì đó là bổn phận của các Giám mục :

- “Người chịu trách nhiệm đầu tiên về mục vụ gia đình trong giáo phận chính là Giám mục. Như một người cha và chủ chăn, ngài phải đặc biệt lo lắng cho ngành này, chắc chắn là ngành ưu tiên của mục vụ. Ngài phải hiến cho ngành này tất cả sự chú trọng, bận tâm, thời giờ, nhân sựvà tài lực. Nhưng hơn hết, đích thân ngài phải đem lại một điểm tựa cho các gia đình và cho tất cả những người đang giúp ngài trong công việc mục vụ gia đình thuộc những cơ cấu khác nhau của giáo phận.” (FC 73).

Cộng tác với Giám mục là các linh mục và giáo xứ của các ngài :

- “Các ngài có bổn phận nâng đỡ ơn gọi của vợ chồng trong đời sống hôn nhân và gia đình bằng những phương tiện mục vụ khác nhau, như rao giảng Lời Chúa, lễ nghi phụng vụ hay những trợ lực thiêng liêng khác. Các ngài cũng phải nhân hậu và nhẫn nại nâng đỡ họ trong lúc gặp khó khăn, và khích lệ họ trong tình bác ái, tạo nên những gia đình thực gương mẫu rạng ngời.” (GS 52).

- “Mỗi Hội Thánh địa phương và nói rõ hơn, mỗi cộng đồng giáo xứ, phải ý thức mạnh mẽ về ân sủng và trách nhiệm đã nhận được từ Chúa để cổ võ mục vụ gia đình. Mọi chương trình mục vụ được tổ chức, ở mọi cấp độ, không bao giờ được lướt bỏ mục vụ gia đình.

Ở đây chúng ta chỉ bàn đến vai trò của linh mục trong việc  mục vụ gia đình.

 

4- LINH MỤC VỚI VIỆC MỤC VỤ GIA ĐÌNH.

Trong phạm vi giáo xứ, thì linh mục là người nắm giữ vai trò số một trong việc mục vụ gia đình :

- “Các Giám mục được giúp đỡ cách đặc biệt do các linh mục mà trách nhiệm của họ – như Thượng Hội Đồng Giám Mục đã chính thức nhấn mạnh – tạo thành một phần cốt yếu trong tác vụ của Hội Thánh đối với với hôn nhân và gia đình.” (FC 73).

Trong vai trò ấy, linh mục phải sống gần gũi các gia đình như một người cha, một người thày, một người anh và một người chủ chăn :

- “Được chuẩn bị thích đáng và nghiêm chỉnh cho công việc tông đồ này, linh mục và phó tế bao giờ cũng phải xử sụ đối với các gia đình như là người  cha, người anh, chủ chăn và thày dạy bằng cách giúp họ với sự trợ giúp  của ân sủng và soi sáng cho họ với ánh sáng của sự thật”. (FC 73).

Sự giúp đỡ của các linh mục đối với các gia đình không phải chị hạn hẹp trong lãnh vực thiêng liêng, mà còn phải mở rộng tới nhiều lãnh vực khác nữa :

- “Trách nhiệm của các vị ấy không những mở rộng trên các vấn đề luân lý, phụng vụ, nhưng còn cả trên các vấn đề cá nhân và xã hội.” (FC 73).

Chẳng hạn như việc giáo dục con cái :

- “Trong những điều kiện như thế, gia đình cần nhận được những trợ giúp đặc biệt từ phía những vị chăn dắt các linh hồn, và các vị này không thể quên rằng cha mẹ có quyền ký thác con cái họ cho cộng đồng Hội thánh và đây cũng là một quyền không thể chuyển nhượng.” (FC 40).

Để có thể tạo được một bàu khí cảm thông và đem lại những sự giúp đỡ kịp thời, linh mục cần phải :

* Gắp gỡ và tìm hiểu những nguyên nhân : “Các chủ chăn và cộng đồng Hội Thánh phải chuyên tâm tìm cách biết rõ những tình cảnh ấy và các nguyên do của chúng, từng trường hợp một; các vị phải để tâm với sự kín đáo và tôn trọng, tìm cách đến với những người đang chung sống như thế…” (FC 73).

* Đối thoại với họ : “Trong Hội thánh, chủ chăn và giáo dân đều dự phần vào sứ mạng ngôn sứ của Đức Kitô; giáo dân qua lời nói và đời sống Kitô hữu  để làm chứng đức tin; chủ chăn nhận định trong chứng từ ấy điều gì biểu lộ đức tin đích thực và điều gì ít phù hợp với ánh sáng đức tin; gia đình xét như cộng đồng Kitô hữu, tham dự và làm chứng đức tin theo cách thức của nó. Như vậy, có sự đối thoại giữa chủ chăn và các gia đình.” (FC 73).

* Khuyên nhủ và tìm cách hợp thức hóa nếu có thể : “Kiên nhẫn khai sáng họ, đón nhận họ với tình bác ái, đem lại cho họ một chứng tá về gia đình Kitô hữu, nói cách khác là làm tất cả những gì có thể đưa họ tới chỗ hợp thức hóa.” (FC 73)

Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến những gia đình đang gặp phải khó khăn cần được đặc biệt quan tâm :

- “Còn phải quảng đại, thông minh, khôn khéo, theo gương vị Mục tử nhân lành, khi dấn thân làm mục vụ cho các gia đình đang đối đầu với những khó khăn thực sự, thường ngoài ý muốn và do những đòi hỏi đủ loại.” (FC 77).

Đức Thánh Cha đã đưa ra những hoàn cảnh cụ thể như sau :

- Những gia đình di dân. (FC 77).

- Những gia đình bị xâu xé trên bình diện ý thức hệ. (FC 77).

- Những gia đình có con cái bước vào tuổi thiếu niên, có người già cả hay có người qua đời…(FC 77).

- Những cuộc hôn nhân hỗn hợp. (FC 78)

- Những cuộc hôn nhân trái qui tắc : hôn nhân thử (FC 80), chung sống không hôn nhân (FC 81), hôn nhân dân sự (FC 82), ly thân và ly dị không tái hôn (FC 83), ly dị tái hôn (FC 84), những người không gia đình (FC 85).

 

KẾT LUẬN

Vì “gia đình không chỉ đơn thuần là đối tượng chăm sóc mục vụ của Hội Thánh, mà còn là một trong những tác nhân hữu hiệu nhất của công cuộc Phúc âm hóa” (EA 46), Vì thế, mục vụ gia đình đáng được coi là “mục vụ trung tâm”  của giáo phận và   giáo xứ.

Từ xưa đến nay, mục vụ của giáo xứ có lẽ mới chỉ nhắm đến việc giúp các cá nhân nên thánh và tham gia công cuộc rao giảng Tin Mừng mà chưa hay ít nhắm đến việc giúp các gia đình xây dựng chính mình, giúp các gia đình sống hết các đặc tính, các chức năng và vai trò cao cả của mình, giúp các gia đình làm chứng trong môi trường khu xóm và xã hội.

Riêng với chúng ta, những linh mục tại các giáo xứ, chúng ta sẽ làm gì trong năm 2003, năm được dành riêng để “Thánh hóa các gia đình” theo ý hướng của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ?

Dĩ nhiên, anh em có rất nhiều sáng kiến đã và đang được thi hành, nên chỉ xin đưa ra một vài gợi ý mà thôi :

* Trước hết là việc học giáo lý : học giáo lý để hiểu và sống Đạo đầy đủ hơn, chứ không phải chỉ để lãnh các Bí Tích, nhất là Bí Tích Hôn Phối.

- Tổ chức các lớp giáo lý chuẩn bị hôn nhân cho thanh thiếu niên, với một thủ chung, được soạn lại một cách đầy đủ về nội dung, thời gian, nhân sự và phương pháp giảng dậy.

- Tổ chức các lớp giáo lý “sống đời hôn nhân” cho những người đã lập gia đình.

* Trong những dịp đặc biệt như lễ Thánh gia, ngày nhớ ơn cha, nhớ ơn mẹ….nên tổ chức các sinh hoạt chuyên chuyên biệt như trao đổi, cầu nguyện, tĩnh tâm cho các cặp vợ chồng mừng 5, 10, 15, 20 năm đời sống gia đình.

* Tạo hoàn cảnh thuận lợi cho các  gia đình sống liên kết với nhau như đọc kinh gia đình tại các khu xóm, tham dự sinh hoạt của các nhóm  gia đình trong giáo xứ như hội đồng hương, ái hữu cùng lớp…

Tóm lại, chúng ta nên nhớ rằng :

Gia đình được củng cố, thì cá nhân mới có được môi trường thuận lợi để phát triển, Giáo Hội và xã hội cũng sẽ trở nên tốt đẹp hơn.

GSVN

VỀ MỤC LỤC
CÔ ĐƠN và TĨNH MẠC

 

Từ ít lâu nay, trong Hội Thánh Công giáo đã xuất hiện một phong trào tu đức nhằm vào sự cô đơn.

Phong trào này đào tạo nên những con người:

1/ Coi sự cô đơn của Chúa Giêsu là một yếu tố quan trọng của thân phận Đấng cứu thế được sai vào đời.

2/ Quan tâm cách đặc biệt đến những người cô đơn trong xã hội và Giáo Hội.

3/ Biết dùng bất cứ cảnh cô đơn nào xảy đến cho chính mình, để thêm cậy tin và phó thác nơi Chúa giàu lòng thương xót.

4/ Biết phân biệt cảnh cô đơn không cần thiết và cảnh tĩnh mạc cần thiết cho việc đạo đức.

Với mấy nhận thức trên đây, tôi xin kính mời mọi tín hữu nói chung và mọi môn đệ được gọi vào chức thánh nói riêng, hãy nhìn vào Chúa Giêsu của tuần thánh. Hãy ngắm nhìn kỹ và suy nghĩ thực sâu, để chia sẻ đôi chút tâm tình của Người. Bởi vì cô đơn và tĩnh mạc đang và sẽ là vấn đề lớn cho ta và cho cộng đoàn của ta.

1/ Sự cô đơn của Chúa Giêsu

Trong tuần thánh, cảnh nổi bật vây phủ Chúa Giêsu là cảnh cô đơn.

a) Quần chúng trước đây tung hô Người, nay quay lại nguyền rủa Người thậm tệ. Sự thay lòng đổi dạ đó đã gây cho Chúa Giêsu một sự cô đơn đầy sát khí. Nó đổ trên Người những bất hiếu, bất trung, vô ơn, độc ác.

b) Sự cô đơn của Chúa Giêsu do quần chúng gây nên lại càng nặng thêm do thái độ các môn đệ thân tín bỏ rơi Người. Kẻ thì bán Người, kẻ thì bỏ mặc Người bị bắt, kẻ thì chối Người.

c) Sự cô đơn của Chúa Giêsu càng trở nên bi đát, khi Người bị xét xử trước toà đạo, toà đời hồi đó. Những kẻ được nắm quyền do ơn trên, nay lại dùng chính quyền đó để kết án Người với sự hãnh diện của thứ đạo đức giả sành nghề.

d) Sự cô đơn coi như đẩy Chúa Giêsu xuống vực thẳm sâu nhất chính là khi Người cảm thấy như mình bị Chúa Cha từ bỏ. Chính Chúa Giêsu đã thốt lên một lời diễn tả nỗi khổ đó: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Người bỏ rơi con" (Mc  15,34).

2/ Sự tĩnh mạc của Chúa Giêsu

Khi Chúa Giêsu bị các nỗi cô đơn đè nặng trên mình, Người đã đối phó bằng sự đi vào cõi tĩnh mạc.

Trước hết là tĩnh mạc địa lý. Người đi vào vườn Cây Dầu là nơi vắng vẻ. Khi cầu nguyện, thì chỉ đi với ba môn đệ. Nhưng rồi Người cũng không cùng với ba môn đệ cầu nguyện chung. Người cầu nguyện một mình ở một chỗ tĩnh mạc, xa ba môn đệ.

Trong tĩnh mạc địa lý, Chúa Giêsu đi sâu vào tĩnh mạc nội tâm. Sự tĩnh mạc này giúp Người cầu nguyện, thêm sức cho Người được chịu mọi đau khổ về thể xác và tinh thần.

Sự tĩnh mạc nội tâm này đã được nhận thấy ở sự rất ít nói của Chúa Giêsu, khi bị nhục mạ, bị vu khống, bị kết án. Ban đầu, Người còn trả lời vắn tắt những câu tra vấn. Sau đó, Người trả lời bằng sự im lặng. Trên thánh giá, Người chỉ nói mấy lời với nội dung yêu thương đối với loài người, và phó thác đối với Chúa Cha "Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46).

Trong sự cô đơn và tĩnh mạc nội tâm, Chúa Giêsu đã rất quan tâm đến những người khác bằng tình yêu thương.

3/ Sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những cảnh cô đơn

a) Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã an ủi  các môn đệ Người "Thầy không để các con phải mồ côi" (Ga 14,18). "Thầy để lại bình an cho các con. Bình an mà Thầy ban cho các con không giống bình an mà thế gian ban tặng" (Ga 14,27). "Nếu Thầy không đi, Đấng Bảo trợ sẽ không đến với các con. Nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con" (Ga 16,7). Hơn nữa, Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể và bí tích Truyền Chức Thánh, để ở lại với nhân loại một cách gần gũi đầy an ủi.

b) Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã nghĩ tới cảnh cô đơn của mẹ Người. Nên Người đã trối thánh Gioan cho Đức Mẹ, và trối Đức Mẹ cho thánh Gioan và nhân loại.

c) Trên thánh giá, Chúa Giêsu thấy rõ cảnh con người bị tội lỗi xiềng xích là cảnh cô đơn đáng phải sợ nhất, nên Người đã xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ làm khổ Người, đặc biệt là Người nhận lời kẻ trộm chịu đóng đinh bên hữu Người. Ông sẽ được cùng Người vào chốn trường sinh.

Trên đây là vài chia sẻ vắn tắt cho một vấn đề đã xưa, nhưng hiện đang là thời sự chi phối bầu khí đạo đức trong xã hội và trong Giáo Hội.

Thực vậy, theo các nhà khảo sát xã hội và quan sát tình hình tôn giáo, thì hiện nay:

1/ Số người rơi vào cảnh cô đơn càng ngày càng đông.

2/ Số người bị loại trừ cũøng đang có chiều hướng gia tăng.

Cảnh cô đơn và cảnh bị loại trừ diễn ra ngay trong gia đình, trong các cộng đoàn xã hội, cả trong những cộng đoàn tôn giáo.

Động cơ đẩy người ta vào cảnh cô đơn và loại trừ càng ngày càng phức tạp.

Nếu chúng ta không tỉnh thức và cầu nguyện, thì cảnh cô đơn và loại trừ sẽ phát sinh và phát triển mạnh trong Hội Thánh Việt Nam ta. Đang khi đó, cảnh tĩnh mạc sẽ lại bớt đi. Lỗi phần nào là do các phong trào không lành mạnh trong xã hội, nhưng cũng một phần do chính những nhẹ dạ hoặc ác ý của một số thành phần thuộc nội bộ Giáo Hội ta.

Xin nhớ rằng: Ác quỷ Satan rất khôn khéo trong việc phá Hội Thánh Chúa. Phá dưới mọi hình thức. Hiện nay hình thức Satan ưa dùng, là gây nên cảnh cô đơn và loại trừ trong chính nội bộ, đang khi đó chúng lại gây nên cảnh náo động hướng ngoại, thay cho tĩnh mạc cầu nguyện. Nếu đúng như vậy,  thì vấn đề chúng ta nên để tâm nhiều hơn trong tu đức là hãy đón Chúa Giêsu chịu tử nạn vào tâm hồn ta.

Khi Người là sự sống của ta, thì chính Người sẽ đổi mới ta. Nhờ Người, ta sẽ biết khiêm tốn nhìn nhận mình chỉ nắm được một phần nhỏ của các sự thực, để ta sẽ sống bé nhỏ trong việc góp phần xây dựng sự hiệp nhất trong Hội Thánh có nhiều khác biệt, trên đường hành hương nhiều khi cô đơn và tĩnh mạc.

Dù cô đơn, dù tĩnh mạc, chúng ta tuyệt đối phó thác cuộc đời chúng ta nơi Chúa tình yêu. "Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa" (Dt 10,9).

+ Gm. GB. BÙI TUẦN
 

VỀ MỤC LỤC

CUỘC KHỔ NẠN CHÚA GIÊ-SU

 

(Hạn vận: Thương – khó – đức – Ki – Tô)

Dựa theo các Thánh ký: Mt.26,36-75; Mt.27,1-66; Mt.28.1-8,Mc.14,32-72; Mc.15,1-47;

 M.c16,1-8; Lc.22,39-71; Lc.23,1-36; Lc.24,1-7; Ga.18-40; Ga.9.1-42; Ga.20,1-10. 

Đây chiên hiến tế!

Này lễ thủy chung!

Khu vuờn Giệt màn đêm rơi phủ,

Núi Ô-liu bóng tối chùng buông.

Mây khuất che - ánh trăng mờ thổn thức,

Gió im lặng - sương rơi nhẹ canh trường.

 

Gối lẳng lặng quỳ, mình Giê-su hiu quạnh,

Thân cô đơn lẻ, nguyện Thiên Chúa xót thương.

-“Ơi Thiên Chúa! hãy cất cho con: chén này chát đắng,

Hỡi cha ôi! xin vâng thánh ý: giao ước tròn vuông.”

 

Mồ hôi quyện chứa chan tuơm rơi đổ,

Máu đỏ hòa thánh thót ứa tràn tuôn.

Chư môn đệ xác thịt nặng nề: sao ngủ vùi mộng mị?

Cả tùy tùng tâm thần yếu đuối: nào tỉnh thức đêm sương!

Ngày điểm rồi, ngày CON NGƯỜI khổ nạn.

Giờ đã đến, giờ CỨU THẾ bi thương.

 

Ánh đuốc bập bùng!

Quan quân hùng hổ!!

Kẻ Giu-đa trơ trẽn hôn thầy,

Quân Do Thái hung hăng trói độ.

 

-“Nhân sao buổi thanh thiên - ta răn dậy chính đạo hội đường!

Hà cớ đêm khuya khoắt - ngươi mưu toan  tà tâm tố khổ?”

-“Thôi để ứng nghiệm: câu sấm ký lưu truyền,

Ngõ hầu tròn đầy: lời tiên tri sớm tỏ!”

“Đánh chủ chăn sẻ nghé tan đàn!

Cho chiên nhỏ mật kinh gan sợ.”

 

Lối nhà thượng tế, hung đồ đạp đánh đẩy xô,

Đường dinh Cai-pha, quân ác đòn roi báng bổ.

Này  Si-mon  từ giờ tý - lẽo đẽo theo thầy!

Nọ  tỳ nữ  lúc canh hai - lẻo leo chỉ trỏ...

 

      -“Chính ông đây đệ tử phạm nhân!”

-“Người nói gở ta nào đâu có!”

Đã qúa tam - ông thề thốt, bai bải chối quanh,

Đầy ba lượt - gà gáy vang,  cúc cu  nhắc nhở.

Nước mắt trào vong nghĩa  thẹn thùng.

Dòng sám hối bội ân xấu hổ.

 

Chúa Giê-su  cột đá - tay trói chân xiềng.

Quân kỳ mục  gậy roi-  đánh đòn phỉ nhổ.

Kìa vương miện, nhọn sắc đặt trên đầu,

Đây vòng gai,  vuốt đinh đâm thủng sọ.

 

Mới tảng sáng, áp giải thượng hội đồng

Vừa bình minh, lập bè gian  truy tố.

Mặc vu oan cáo vạ - mặc nỏ miệng gìa mồm.

Chỉ  xảo ngữ xảo ngôn  -  Chỉ vô căn vô cớ.

 

Rầm rập  điệu người sang phủ Phi-la-tô.

Ồn ào lũ nó tràn dinh quan trấn thủ .

Lời vấn cung trên dưới chẳng nguyên do.

Cuộc tra xét trước sau không rõ tỏ.

 

“Thì thôi can phạm Ga-li-lê-a.

Nên hãy nộp vua Hê-rô-đe  xử.”

Điện ngọc ngà Hê-rốt ngự tra cung,

Thềm tam cấp Giê-su ngồi đáp đủ.

 

“Chê bai rằng dại rằng ngây!”

“Nhiếc mắng bởi  ương bởi dở!”

Áo bạch bào “Vua giả” khóac châu thân.

Mão gai sắc Chúa Trời mang đỉnh sọ.

 

Hồi dinh Phi-la-tô,

Bọn kỳ hào la ó.

Quan phán hỏi: “Người này chẳng tội tình?”

Lũ la to: “Nó đáng nên xử tử!”

-“Xin tha bổng Ba-ra-ba mà hãy giết Giê-su!

Quyết đóng đinh tên ngạo mạn rồi treo cây thập tự.”

 

Quan rửa tay: “ Mỗ vô can chẳng dính dáng  tội tình!”

Lũ dậm cẳng: “Đây lãnh chịu không rầy rà nhiễu sự !”

-“Huyết người này hãy đổ ngập chúng tôi,

Máu của nó cứ tràn trên con đỏ.”

 

 Tên phản bội Giu-đa Ích-ca-ri-ô,

Bán đứng thầy ba mươi đồng ô trọc.

Quẳng bạc tiền đền thánh, thiên bất dung gian.

Đi thắt cổ đồng hoang, diều tha quạ rúc.

Tiền Xê-da vương vãi đền thờ,

Mua ruộng máu xung vào qũy ước.

 

Thương ôi!

Kết án tử hình Con Đức Chúa Trời.

Đóng đinh chúa cả cha đàng nhân đức.

Đỉnh Gol-gô-tha!

Đường xa dốc ngược.

Nẻo hành trình loang máu đồi khô,

Đường khổ nạn mồ hôi suối ướt.

 

Lưng hằn roi nứt thịt nát da,

Vai thập giá  gò gân khụyu cốt.

Mỗi dấu chân là một trận roi đòn,

Ba lần ngã là ba hồi xô dập.

 

Kìa mẹ người gặp đó Đức Ma-ri-a,

“Này con hỡi tội tình chi ô nhục!”

Thảm thương thay phổi chúa hơi tàn,

Đau đớn lắm lòng bà ruột đứt.

 

Có ông Si-mon lưng vác khỏang chặng đường,

Ơi người dân ngọai vai kề chia hơi sức.

một Ve-ro-ni-ca gan góc: lau mặt Chúa thê lương.

Mươi phụ nữ Giê-ru-sa-lem: khóc than Người thổn thức...

 

Ngỏanh lại mà rằng:

-“Hỡi người đỏan phước!

Chớ xót thương ta lắm  , này người nữ thành đô!

Mà than khóc thị nhiều,  cùng giống dòng hậu tức.”

-“Phúc thay phụ nữ vô sinh!

Mừng cho đàn bà tuyệt tự”

Sẽ đến ngày bẩm cùng gò nổng: Đổ gấp xuống đi!

Rồi tới khắc thưa với núi non: Vùi mau cho khuất”

 

Nơi tử địa  quân ác lột trần truồng,

Chốn hành quyết hung đồ chia y phục.

Áo trong bốc thăm,

Mảnh ngòai chia chác.

 

Xô ngửa thân căng nọc tứ chi,

Đè nghiến xác đóng đinh thủ túc.

Kèm câu niêm yết: Vua xứ Giu-đê-a!

Thêm biển văn bài: Giê-su Na-gia-rét.

Dựng lên cao một chúa lòng lành,

Bên tả hữu hai tên trộm cướp.

 

Mạch huyết châu  đà chảy hết tân cùng,

Khô đắng miệng Chúa kêu rằng khát nước.

Miếng giấm chua tra ngọn sậy dâng mời,

Lưỡi nếm thử tận cùng ơn cứu chuộc.

 

Đứa cướp nọ,

Nghênh râu hậm hực:

-“Đức Ky-tô há chẳng tự cứu mình?

Con Thiên Chúa sao không lo giải thóat?”

Kẻ trộm kia,

Cúi đầu phủ phục:

-“Đấng ngay lành nào chi có tội tình!

Ta gian phỉ thật xứng mang án cực”

-“Thưa Con Chúa, khi nào ngài đến nước Thiên đàng,

Lạy Giê-su, nhớ đến tôi khỏi sa địa ngục.”

 

Ngỏanh mặt ngài rằng:

-“Thực ta bảo thực”

-“Ngay hôm nay hết khổ ải trần gian,

Một chốc nữa được vui vầy Thiên quốc.”

 

Đọan rồi ngước mắt,

Than thở lâm ly:

“Chúa hỡi! Chúa ơi! Cha ơi bỏ con sao nỡ?”

Ê li, Ê li, lê ma sa bác tha ni!

“Chúa Trời hỡi! Thân này xin phó thác!

Linh hồn đây! Đang giây phút sinh thì...”

Gục đầu tắt thở!

Trời đất ai bi!!

 

Mũi giáo nhọn tên các quan đâm ngược,

Thọc trái tim máu cùng nước rỉ xuôi.

Giờ thứ sáu qua giờ thứ chín,

Cả vũ hòan u uất khôn nguôi.

Làn bóng tối phủ vây giờ chính ngọ,

Màn đền thờ rách tọac giữa cung uy.

 

Đất run rẩy núi non chuyển động,

Mộ bật tung trồi dậy cương thi.

Viên đội trưởng thốt lên: ”Hỡi ôi người công chính”

Cả chúng nhân gục xuống: ”Xin đấm ngực phục qùy”

 

Có người A-ri-ma-thê tánh danh Giô-sếp.

Can đảm xin Phi-la-tô thi thể Giê-su.

Hạ thánh giá, tháo đinh, lau dấu máu.

Xức thuốc thơm, tẩm liệm, bọc quan y.

 

Mươi môn đệ táng người trong huyệt đá,

Dăm nữ nhân than vãn trước nhà mồ.

Tảng đá xám lạnh lùng che cửa mộ

Người thân yêu vật vã khóc bơ vơ.

 

Giọt sầu sóng sánh

Mắt lệ thẫn thờ.

Đêm tử thần đắc thắng!

Giờ công lý phai mờ.

 

Qua Sa-bát trời vừa tảng sáng,

Ngày đầu tiên đất rạng kim ô.

Mấy phụ nữ sọan dầu thơm viếng mả,

Chục môn sinh dợm chân bước thăm mồ.

 

Tảng đá lệch ngôi huyệt không... trống hóac.

Khăn liệm đây nhà mồ vắng... ô hô!

Kìa thiên sứ báo tin vui rành rọt,

Này các người sao thắc mắc ngẩn ngơ?

“Con Thiên Chúa phục sinh từ cõi chết!

Đức Giê-su sống lại ra khỏi mồ.”

 

Hòan tất công trình ơn cứu chuộc!

Vẹn tòan đoan hứa thuở ban sơ.

Kính thờ ngôi Thiên Chúa!

Công nghiệp đức Ky-tô!!!...

 

Bùi Nghiệp

 
VỀ MỤC LỤC

Lời ngỏ của quan Tổng trấn Philatô cùng các tín hữu Chúa Giêsu Kyrixitô

  

Xin chào các Bạn và xin được tự giới thiệu: Tôi là quan tổng trấn Philatô.

Lẽ dĩ nhiên các Bạn biết đến tôi không phải qua gặp gỡ, hay đọc những gì do tôi viết. Nhưng kể từ khi Phúc âm viết về Chúa Giêsu của các Bạn, tên tôi được viết trong đó. Và nhất là từ khi Giáo hội Công giáo phổ biến kinh Tin Kính.

Hầu như ít là hằng tuần vào ngày Chúa nhật, khắp nơi trên hoàn vũ đều đọc lên tên tôi khi tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa: Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập gía vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philato!

Tôi được biết đến và trở thành nhân chứng lịch sử trong niềm tin đạo giáo của các Bạn, hay là người bị kết án khinh ghét?

Tôi là người Rôma thuộc dòng tộc quan lại thời đó, được cử làm Tổng trấn đại diện cho hoàng đế Roma, ở vùng miền đất Giudea bên Do Thái trong đế quốc Roma, vào thời gian từ năm 26 đến năm 36 sau Chúa giáng sinh.

Tôi sinh ra thuộc gia đình khá gỉa quyền qúi bên Roma, nên con đường công danh sự nghiệp của tôi rất thênh thang. Từ một sĩ quan trong binh nghiệp tôi được Hoàng đế cất nhắc lên hàng công chức cao cấp. Và được Hoàng đế tin tưởng sai đi làm đại diện cho ngài ở các vùng tỉnh trong đế quốc Roma thời bấy giờ.

Các Bạn tín hữu Công giáo nhận xét thẩm định về tôi rất khác nhau: người thì cho rằng tôi là một người tử tế, có tâm địa hoà nhã.

Người khác lại cho rằng, tôi là một người tham nhũng, bướng bỉnh, có tâm địa xấu sa nham hiểm, chỉ biết đến quyền thế!

Có những người kết luận rằng:  cuộc đời của tôi kết thúc trong cô đơn, sau cùng chết vì tự tử! Nhưng có những người khác lại nghĩ rằng: Tôi được phúc tử vì đạo. Bằng chứng là các tín hữu Chúa Kitô thuộc giáo hội Cốp bên Ai cập mừng kính tôn vinh tôi như một vị Thánh vào ngày 19.06. hằng năm mà!

Nhưng đời sống tôi từ khi tôi không còn là Tổng trấn toàn quyền bên xứ Giudea nước Do Thái, và những gì xảy ra sau này cho cuộc đời tôi, tôi không muốn đề cập đến.

Tôi trở nên quen thuộc. Vâng, thành nổi tiếng được nhiều người từ hơn hai nghìn năm nay biết đến, qua vụ xử án Chúa Giêsu Kyrixitô thành Na-da-réth xứ Do Thái của các Bạn. Ông Giêsu như các Bạn qủa quyết là Ðấng Thiên sai, vị Vua lòng con người, và Vị cứu thế mà các Bạn tôn thờ kính yêu.

Khi suy ngắm 14, hay có nơi 15 chặng đàng Thánh gía Chúa Giêsu Kitô, ngay nơi thứ nhất các Bạn đã đọc: Quan Philatô luận giết Ðức Chúa Giêsu.

Các Bạn cho rằng tôi đã kết án giết Chúa Giêsu của các Bạn. Tôi không cãi chối phủ nhận điều các Bạn qủa quyết. Nhưng bản án giết Chúa Giêsu đã được sắp đặt tuyên án do các nhà chức trách trong đạo Do Thái thời đó muốn như vậy, trước khi họ điệu giao nộp Ông Giêsu đến cho tôi. Họ đưa ra án lệnh và biểu quyết phải hành quyết Ông Giêsu. Tôi chỉ là người thi hành án lệnh đã ra. Vì chỉ người Roma thời lúc đó ở nơi đó mới có quyền thị thực và thi hành lệnh án luật pháp, như tử hình hay giam giữ thôi.

Cá nhân tôi, tôi tin Ông Giêsu của các Bạn là người vô tội. Tôi cố tìm cách để tha bổng Ông Giêsu. Nhưng tôi tự nghĩ, nếu tôi tha bổng Ông Giêsu, có lẽ tôi sẽ bị kiện cáo thưa tới Hoàng đế bên Roma, và tôi sẽ bị thất sủng không được làm quan tổng trấn thay cho Hoàng đế nữa.

Nói tắt, tôi có thể bị cách chức, bị cho về vườn, biết đâu có thể cả mạng sống tôi bị liên lụy tù tội nữa cũng nên chăng!!!

Vì thế, tôi lưỡng lực do dự  không biết phải quyết định thế nào trong trường hợp này! 

Ông Giêsu bị kiện cáo vì chính Ông đã tự nhận  là „ Vua người Do Thái“. Và như thế, có thể gây ra nguy cơ rối loạn về chính trị cho thực dân đế quốc Roma lúc đó.

Nghe luận cứ họ đưa ra tố cáo như thế. Nhưng khi đối diện với Ông Giêsu, tôi nhận thấy, vẻ bên ngoài của Ông ta gợi lên tấm lòng thương cảm. Và đồng thời từ trong tâm hồn Ông ta chiếu tỏa ra một chiều kích to lớn cao cả. Phải, nhân cách của một con người vĩ đại. Chính điều này gây ấn tượng rất mạnh nơi tôi.

Tôi cảm thấy điều gì cao cả nơi Ông Giêsu. Nhưng Ông ta đang đứng trước tôi chỉ là một tội nhân, một người yếu thế bị trói, không có quyền lực gì cả. Ðang khi tôi là một ông quan tổng trấn có đầy đủ mọi quyền hành đang xét xử Ông. Hai hình ảnh này qúa trái ngược tương phản nhau.

Tôi phải thành thật thú nhận, chính sự yếu kém không quyền hành của Ông Giêsu đã cũng cố tăng cường quyền hành sức mạnh của tôi.  Những lời Ông Giêsu đã nói lên điều đó. Ông nói: Ông là Vua, nhưng không phải là một vị Vua ở trần gian để thống trị, và nước của Ông cũng không thuộc về trần gian. Ông chỉ muốn rao giảng làm chứng cho sự thật. Khi nghe Ông nói đến sự thật, tôi đứng phắt dậy và hỏi ngay: Sự thật là gì vậy? Ông muốn nói đến sự thật trong lãnh vực nào vậy?

Ông Giêsu muốn đề cập đến Thiên Chúa, người đã trao cho Ông tòan quyền trên trời dưới đất. Và Ông chỉ muốn làm chứng về Thiên Chúa đó, để mọi người biết nước của Thiên Chúa là nước tình yêu.

Những ý nghĩ suy luận này qúa xa lạ với tôi. Tôi là một chính trị gia thực tế không thiên về tưởng tượng hay ý thức hệ nào.

Nhưng phải chăng những suy nghĩ như thế không thành nguy hiểm cho đế quốc Roma sao?  Và nếu tôi dùng quyền hành tha bổng cho Ông Giêsu, chính tôi cũng đứng về phía Ông ta, cùng công nhận điều mong muốn của Ông. Và như thế, có thể tôi trở thành kẻ tin Ông Giêsu, như các Bạn có thể nói như thế! Không đâu, tôi không làm chuyện đó đâu, quyền lợi của tôi trên hết.

Với tôi hoàng đế là trên hết. Phải chăng hoàng đế không phải là hiện thân của Thần thánh trong hình hài một con người sao?

Thật ra, tôi muốn rảnh tay với vụ việc Ông Giêsu. Nhưng sự sợ hãi càng lúc càng tăng thêm, khi đám đông dân chúng to tiếng tố cáo dữ dội hơn rằng: Ông Giêsu tự nhận mình là con Thiên Chúa.. Rồi thêm vào đó mạnh mẽ hơn, khi Ông Giêsu nói với tôi rằng: quyền hành của tôi, sau cùng cũng do từ Thiên Chúa ban xuống cho.

Ðám đông dân chúng thấy tôi do dự, họ lại càng to tiếng tố cáo ngược lại tôi: Nếu tôi tha cho Ông Giêsu, tôi không phải là bạn của Hoàng đế nữa! Lời cáo buộc này càng làm tôi bối rối sợ hãi, và đã làm tôi đi đến quyết định y án cho hành quyết Ông Giêsu.

Ðám đông thay đổi chiến thuật tố cáo Ông Giêsu lần nữa. Họ nói: Ông Giêsu tự nhận mình là Vua, như thế Ông Giêsu phủ nhận chối bỏ hoàng đế. Và họ chỉ biết hoàng đế bên Roma là vua của họ thôi. Ngoài ra không ai cả!

Với chiến thuật và luận điệu đó, họ đã đạt được mục đích họ mong muốn: họ bắt tôi phải chấp nhận bản án tử hình cho Ông Giêsu, mà họ đã sắp đặt!

Tôi bị thúc thủ và phải chấp nhận thi hành bản án tử hình giết Ông Giêsu của các Bạn, đóng đinh vào thập gía.

Sau khi đã hành quyết đóng đinh Ông Giêsu vào thập gía, những người lãnh đạo dân còn yêu sách với tôi đòi sửa đổi bản án viết trên thập gía của Ông Giêsu. Lần này thì  tôi cứng rắn, không nhượng bộ chấp nhận lời yêu cầu của họ: Ðiều gì ta đã viết, cứ viết như vậy, không được sửa đổi!

Bản viết trên đầu thập gía Ông Giêsu tôi truyền viết dòng chữ:“ INRI - Giêsu Nadaréth, Vua dân Do Thái“.

Những dòng chữ này nói lên lý do tại sao Ông Giêsu lòng tin của các Bạn bị hành quyết đóng đinh vào thập gía. Và những chữ này cũng qủa quyết: Người bị đóng đinh đây rất có ý nghĩa cho mọi người. Ông ta muốn cảm hóa con người tin theo Ông ta, và cùng với Ông ta bước vào sự sống trong nước Thiên Chúa

Một hiệu qủa hay một sự lạ đã xảy ra lúc đó. Số là người lính của tôi có nhiệm vụ canh gác chỗ thập gía Ông Giêsu, là nhân chứng trong suốt thời gian Ông Giêsu bị đóng đinh còn treo trên thập gía, đã đấm ngực ăn năn tin vào Ông Giêsu là con Thiên Chúa, khi anh ta chứng kiến cảnh trời đất lay chuyển vào giờ Ông Giêsu gục đầu tắt thở chết.

Và cũng chính một tên phạm trộm cắp nguy hiểm cùng bị lên án hành quyết đóng đinh vào thập giá bên cạnh với Ông Giêsu, đã ăn năn hối lỗi, tin nhận Ông Giêsu là con Thiên Chúa. Và Ông Giêsu đã ban ân đức cứu độ cho tên này: Hôm nay anh sẽ về thiên đàng với Ta!

Có lẽ các Bạn sẽ hỏi tôi : Còn ông thì sao?

Vâng, tôi có những suy nghĩ lo lắng khác.

Thân nhân, đồ đệ Ông Giêsu đến xin được tháo gỡ xác Ông Giêsu đã chết xuống khỏi thập và đem đi mai táng. Tôi cho phép họ được làm chuyện này. Xác Ông ta được chôn kín trong một ngôi mộ có lính canh gác nơi cửa mồ. Nhưng sau đó, tôi lại nghe nói một sự khác lạ xảy ra: Ông Giêsu, người bị đóng đinh vào thập gía, đã chết cùng được chôn táng trong mồ dưới đất ba ngày đã chỗi dậy sống lại, và hiện ra với các môn sinh đồ đệ của Ông!

Khi nghe thế, tôi chỉ rụt cổ so vai làm thinh... Ðời sống tôi vẫn tiếp tục trôi đi với công việc hằng ngày của một công chức cao cấp làm quan tổng trấn vùng tỉnh lẻ xa thủ đô đế quốc Roma!

Dẫu vậy trong thâm tâm, tôi vẫn hằng nghĩ nhớ lại biến cố vụ án, cái chết của Ông Giêsu: tôi nghĩ tôi đã có liên quan, phải, tôi có trách nhiệm về cái chết của Ông Giêsu...

Nhưng người tín hữu các Bạn lại xưng tụng: Nhờ cái chết của Chúa Giêsu, trần gian được cứu rỗi! Như thế, tôi không phải chỉ là dụng cụ dự phần vào cái chết của Ông Giêsu. Nhưng còn là dụng cụ đóng góp vào công cuộc cứu rỗi cho các Bạn, phải, cho hết mọi người trên trần gian!

Tôi cũng nghe trong đêm thứ bảy tuần thánh vào dịp lễ mừng kỷ niệm Ông Giêsu của các Bạn sống lại, Giáo hội Công giáo các Bạn hát ca tụng:“ O felix culpa, quae talem ac tantum meruit habere Redemptorem! - Ôi! Tội hồng phúc, nhờ tội, chúng con mới có được Ðấng cứu tinh cao cả dường này!“ ( Exultet).

Như vậy, tôi có được phép hy vọng, tình yêu của Ðấng cứu chuộc bao bọc cho tội lỗi của tôi không?

Niềm hy vọng đã vươn lên trong màn đêm u tối của một tâm hồn tội lỗi!

Cám ơn các Bạn đã luôn đọc nhắc nhớ đến tên tôi cách trang trọng trong các Thánh lễ, trong nghi lễ Rửa tội, trong lúc tuyên xưng đức tin qua kinh Tin Kính của Giáo Hội Công giáo các Bạn.

Chúc các Bạn luôn giữ vững niềm tin vào Vua Giêsu đã thắng sự chết và đã sống lại của các Bạn!

Thân ái chào các Bạn.

Pontius Pilatus, Cựu Toàn quyền đế quốc Roma.

Lm. Nguyễn ngọc Long phóng tác

VỀ MỤC LỤC
NHỮNG NGƯỜI XA LẠ 

 

LM Vincent Travers, OP

HƯƠNG VĨNH chuyển ngữ

Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ria. Người tỏ mình ra như thế nầy. Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau.  

Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông: ‘Tôi đi đánh cá đây.’ Các ông đáp: ‘Chúng tôi cùng đi với anh.’ Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả 

Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Người nói với các ông: ‘Nầy các chú, không có gì ăn ư?’ Các ông trả lời: ‘Thưa không.’ Người bảo các ông: ‘Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi thì sẽ bắt được cá.’ Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.

Người môn đệ được Giêsu thương mến nói với ông Phê-rô: ‘Chúa đó!’ Vừa nghe nói ‘Chúa đó!’, ông Si-mon Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước. 

Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông: ‘Đem ít cá mới bắt được tới đây!’ Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà  lưới không bị rách.

Đức Giêsu nói: ‘Anh em đến mà ăn!’ Không ai trong các môn đệ dám hỏi ‘Ông là ai?’, vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết. (Ga 21, 1-14) 

*** 

Đây là đoạn Phúc Âm hết sức súc tích, nói về bất cứ ai đang trải qua những thời kỳ khó khăn trong cuộc sống.

Điểm thứ nhất được ghi nhận là những người đàn ông đang ở trên những chiếc thuyền đánh cá ở ngoài khơi; điều đó không chỉ có tính cách văn chương gợi cảm, nhưng bao hàm cả mặt tâm lý và tâm linh nữa. Dù Chúa Phục Sinh đã hiện ra nhiều lần, các tông đồ vẫn còn chưa được hoàn hồn tiếp theo sau cú “sốc” gây nên bởi điều khủng khiếp xảy ra trên đồi Can-vê. Họ đang còn bị chao đảo do sự mất mát về Chúa và Thầy của họ – một người độc nhất vô nhị.

Ít ra họ đang đương đầu với điều đó. Rõ rệt nhất, họ đang cố gắng trở về với cuộc sống thường nhật, bao gồm những công tác và bổn phận. Họ trở về với những công việc mà họ quen làm. Họ đánh cá trở lại. Nhưng những điều chẳng may xảy tới do những biến cố gần đây cứ ám ảnh họ mãi.

Thêm vào những đau buồn đó, họ lại đang gặp lúc không may mắn khác ở nơi biển hồ. Họ đã đánh cá suốt đêm, đã tận lực nhưng chẳng thu hoạch được gì. Họ không bắt được một con cá nào. Họ trở vô bờ tay không, vừa theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Thật không phải là một cảm giác dễ chịu chút nào! 

Dĩ nhiên, tất cả chúng ta đều có những cảm giác trống trải đó khi nầy hay khi khác. Tuổi tác không dung tha một ai khỏi sự trống rỗng ghê sợ đến từ việc sa sút tinh thần hay bị thất bại chua cay

Tôi còn nhớ một em bé gái nhỏ tuổi ngày kia đã đến với tôi ở trong sân trường tại Lisbon, nơi mà tôi dạy giáo lý trong tám năm. Cha mẹ em đã chia tay nhau và đối với em, đó là cả một thế giới bị sụp đổ. Em nói: “Thưa cha Vincent, sao Chúa không có thể làm cho ba má con yêu nhau mãi mãi.” Có một lỗ hổng to lớn ở trong quả tim non nớt và nhỏ bé của em mà tôi không thể nào khỏa lấp cho đầy được.

Nhặt từng mảnh vụn

Chúng ta nên ghi nhận mẩu đối thoại trong câu chuyện Tin Mừng nầy. Một tiếng nói từ trên bờ vọng xuống: “Nầy các chú, không có gì ăn ư?” Họ trả lời: “Thưa không” (Ga 21, 5).

Chúng ta có thể quảng diễn mẩu đối thoại ngắn ngủi đó như sau. Một người xa lạ đứng trên bờ hỏi xuống: “Nầy các ông, có bắt được con cá nào không?” Những người đó trả lời: “Thưa ông không, chúng tôi đã nhọc nhằn vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào.  

Phải chăng đó là những câu nói thường tình mà chúng ta đã nghe nhiều lần sao? Biết bao lần chúng ta cũng đã buông ra những lời nói tương tự. Có thể chúng ta đã thốt lên những lời nói đó sau khi đã cố gắng một cách vô hiệu, để rồi chỉ phải nhặt lên những mảnh vụn tả tơi ngõ hầu đi vào giai đoạn kế tiếp của cuộc đời 

Đó là những lời nói tiếp theo sau cái chết của người phối ngẫu hay một người thân yêu. Đó là câu nói khi cuộc sống trở lại tiếp theo sau một sự bế tắc hoàn toàn, sau một cuộc ly dị, sau một sự gãy đổ nối tiếp một sự tương giao đầy hứa hẹn, sau một cơn bạo bệnh kéo dài, sau khi bị mất việc…

Hoặc đó là những lời nói buông ra khi bị thất bại trong một cuộc thử thách quan trọng, khi con cái bỏ nhà ra đi vĩnh viễn và tổ ấm gia đình trở nên trống vắng, khi bị gạt ra ngoài lề xã hội và cảm thấy bị mất thể diện…

Sau những biến cố kể trên, chúng ta đã cố gắng mà vẫn thất bại nhưng vẫn phải tiếp tục cuộc sống. Cũng như các tông đồ, chúng ta phải trở lại với cuộc sống thường nhật. Chúng ta đã cố gắng để chu toàn những công việc quen thuộc nhưng không thể thay đổi cảnh ngộ khó khăn. Chúng ta càng cố gắng nhọc nhằn bao nhiêu thì sự việc càng trở nên tồi tệ bấy nhiêu.

Chúng ta đã tận lực, nhưng chỉ mang lại một mẻ lưới không và một lỗ hổng to lớn ở trong bao tử, một khoảng trống không thể khỏa lấp ở trong tâm hồn. Nhưng đó không phải là toàn bộ câu chuyện.

Đánh được một mẻ cá lớn

Rồi một ngày sẽ đến khi chúng ta không một chút mong đợi và chợt nhận ra bóng dáng một người xa lạ đi bên cạnh cuộc đời chúng ta. Ban đầu chúng ta cảm thấy khó chịu để nhận diện họ là ai. Nhưng rồi bất chợt, một ai đó đã có mặt để hỗ trợ chúng ta trong lúc gian truân sầu khổ.

Có thể chúng ta không tức khắc nhận thấy sự liên kết siêu nhiên. Có thể chúng ta chỉ nhận chân được điều đó về sau thôi, khi chúng ta nhìn lui lại quá khứ và lúc bấy giờ chúng ta mới nói với họ: “Bạn là người Chúa gởi tới cho tôi khi tôi bị tất bật. Bạn đã cứu tôi khỏi chốn lầm than.” Và thật đúng họ như thế đó! Chúng ta không nói quá lời. Họ thật đúng như vậy.

Người xa lạ đó có thể là một người bạn đã đi vào trong cuộc sống chúng ta mà chúng ta không chút nhận thức và sự hiện diện quí báu của họ đã nâng đỡ tinh thần ta lên. Có thể người xa lạ là một câu Thánh kinh hoặc một câu thơ mà chúng ta đã đọc cả trăm lần nhưng lần nầy đánh động tâm can chúng ta. Người xa lạ có thể là một câu nói khuyến khích hay một cử chỉ đầy khích lệ từ một người thường ân cần đối với chúng ta nhưng lần nầy đã làm cho cây đàn trỗi lên một khúc nhạc mới.

Hoặc giả có thể chỉ là một cú điện thoại tỏ ra quan tâm đến sự an sinh của chúng ta, hoặc nụ cười của một em bé, nhưng đó là một nụ cười chân tình thiết tha mang lại cho chúng ta một lý do để sống và để hy vọng trở lại.  

Giờ đây chúng ta đã đánh được một mẻ cá lớn. Chúng ta cảm thấy mình đã bắt được nhiều cá và cảm thấy phấn khởi an toàn.

Khi tôi đang viết bài suy niệm nầy, tình cờ tôi đã tìm gặp trong đống thiệp cũ, một tấm thiệp cám ơn. Thông thường, tôi không bao giờ giữ lại những tấm thiệp cám ơn. Nhưng tôi đã giữ lại tấm thiệp cám ơn của một người đàn bà mà tôi đã  gặp gỡ ở sân nhà tù vào một trưa Chúa nhật trống vắng, khi tôi còn làm tuyên úy ở Lao Xá Mountjoy.  

Bà từ phòng thăm viếng đi ra và đang tiến về cổng chính với dáng vẻ âu sầu. Khi tôi hỏi bà có sao không thì bà đã bật khóc thành tiếng. Bà vừa mới thăm con bà ra. Đó là lần đầu tiên bà ở giữa bốn bức tường khám tối và kinh nghiệm đó đã làm cho bà kinh hoàng. Tôi không thể thốt lên lời gì để làm cho bà bớt đau khổ mà chỉ lắng tai nghe, khi bà đã không ngại ngùng thổ lộ hết những nỗi đớn đau trong lòng.  

Tôi hứa hẹn sẽ lưu ý đến con bà để chắc chắn là cậu ta được an toàn và sẽ liên lạc thường xuyên với bà qua điện thoại. Tôi đã tiễn đưa bà ra tận cổng chính. Bà vẫn còn khóc sướt mướt cho tới khi tôi nói lời giã biệt.  

Vài ngày sau, tôi nhận được tấm thiệp cám ơn của bà với những giòng chữ như sau: “Cám ơn cha vì những lời nói dịu ngọt, khi con gặp cha vào trưa Chúa nhật sau khi thăm viếng con trai của con là Michael. Cha đã giúp con khi bị sa sút tinh thần.”

Thiên Chúa bằng xương bằng thịt

Theo đúng Thánh kinh thì tôi chính là người xa lạ đang đứng ở trên bờ hồ đối với người đàn bà đau khổ kia. Vào thời điểm đó, cuộc sống của bà hoàn toàn vô vọng, nhưng sau khi gặp người xa lạ là tôi, bà cảm thấy phấn khởi hơn lên để thoát ra khỏi chỗ sa sút tinh thần. 

Tôi đúng là một người xa lạ đối với bà, bởi vì trong tấm thiệp cám ơn bà chỉ viết “Thưa cha tuyên úy” mà không ghi tên tôi – có lẽ bà không biết tên – và bà đã ký tên là bà Murphy, chứ không phải tên thật là Sara.

Đúng là một trong những điều huyền bí lớn lao của cuộc đời là Chúa đã dùng những dụng cụ nhân linh như chúng ta để hàn gắn những mảnh đời vụn vỡ thay thế cho Ngài. Thường khi đó là cách thức mà Chúa giơ tay ra để chúng ta hành động hữu hiệu, bằng cách quan tâm đến những đường lối mà Chúa đưa dẫn.

Sứ điệp của đoạn Phúc Âm nầy là Chúa đang đứng ở trên bờ hồ mà chúng ta không nhận ra Ngài. Cũng như các tông đồ, có thể chúng ta không nhận ra tức khắc những người xa lạ đó là ai nhưng thật đúng họ là những người đã cứu vớt chúng ta. Họ là Thiên Chúa hiện diện bằng xương bằng thịt. Chúa đã đến dưới thiên hình vạn trạng.

Chúng ta đã ngạc nhiên khi thấy những lần Chúa Phục Sinh hiện ra không kèn không trống. Không có những thiên thần ca hát trên không trung, không có những vị đạo sĩ đến từ phương xa mang theo những lễ vật.

Chúa Giêsu sống lại đã xuất hiện trong những trường hợp quá ư tầm thường, như trong một bữa cơm riêng tư của một nhóm nhỏ, như khi hai môn đệ đi lang thang trên con đường cái quan, như khi một người đàn bà khóc lóc ở trong khu vườn vắng vẻ, như khi những người đàn ông đang đánh cá ở biển hồ, như khi vài người họp nhau picnic ăn uống ở bãi biển Ga-li-lê.

Ngài vẫn còn hiện ra trong những dịp rất tầm thường trong cuộc sống chúng ta bây giờ và ở đây. Những ai có mắt để thấy – thấy bằng con mắt thứ ba, con mắt của linh hồn – thì sẽ nhận chân những bộ mặt Thiên Chúa bằng xương bằng thịt trong những người xa lạ đang đi bên cạnh cuộc đời chúng ta.

VỀ MỤC LỤC
CÁC NỮ TU DÒNG PHANXICÔ VỚI KHU ĐIỀU TRỊ PHONG QUI HOÀ

 

Năm 1929, theo thống kê, tỉnh Bình Định có 360 người mắc bệnh phong. Đó là con số nhân viên kiểm tra y tế chỉ khai báo số bệnh nhân họ gặp lang thang ngoài đường, ngoài chợ. Con số có thể lên đến 1.200 ở mọi giai đoạn của bệnh. Bác sĩ Le Moine, giám đốc bệnh viện Qui Nhơn lúc bấy giờ suy đoán như vậy. Vị bác sĩ này rất quan tâm đến người bệnh phong. Ông xuất bản một cuốn sách nói về bệnh phong và người mắc bệnh, đặc biệt về số phận và cuộc sống lây lất của người phong ở Việt Nam.

Từ năm 1927, vị bác sĩ đầy lòng nhân ái nầy đưa ra đề án: lập một “nông trại hay một làng cho người bệnh phong”.

Đề án của bác sĩ Le Moine khác với nhiều nơi. Từ lâu trên thế giới đã có những trại tập trung người bệnh phong, nhưng chẳng khác gì những “nhà tù trá hình”, bắt nhốt và cướp đi thứ tài sản cuối cùng của họ là sự tự do. Vì vậy, bệnh nhân nghĩ đến chuyện trốn thoát; người ta chống bệnh phong rồi quay ra chống người mắc bệnh.

Đề án lập “nông trại hay một làng” cho người phong có tính nhân bản ưu việt là nơi đây tuy cách ly và không cho bệnh nhân có dịp đi lang thang, ăn xin ăn mày, lây lan bệnh khắp nơi, nhưng bệnh nhân, kể cả người què cụt, già liệt, đều có cuộc sống bình thường, có nhà cho cả gia đình, có công ăn việc làm. Họ không còn mặc cảm bị gạt ra ngoài lề xã hội và luôn luôn nghĩ rằng mình vẫn còn là những con người hữu ích. Một cuộc sống bình thường trong thời gian chữa trị cũng như sau khi đã “sạch”. Phương thức này đưa ra những nguyên tắc rất lý tưởng trong cách nhìn mà cũng rất thực tiễn độc đáo trong thể hiện.

Sau 2 năm gõ cửa hết cơ quan nầy đến cơ quan khác, ai cũng nói lời khích lệ nhưng chỉ cho phép mà không giúp cụ thể gì. Có lần bác sĩ Le Moine được dẫn đi tìm địa điểm nhưng là những nơi toàn đá sỏi, đất cát cằn cỗi hoặc một bãi cát hoang đầy mồ mả.

Bác sĩ Le Moine hầu như thất vọng thì một hôm ông gặp được Đức cha Grangeon (Mẫn), Giám Mục giáo phận Qui Nhơn. Qua cuộc trao đổi về dự án của bác sĩ Le Moine, vị Giám mục còn sống sót trong thời kỳ cấm đạo dưới triều Tự Đức, nói:

- “Thưa bác sĩ, Cha Maheu và toàn giáo phận xin sẵn sàng làm theo lời bác sĩ trong công cuộc dự định này”.

Như vậy, sự hợp tác giữa niềm tin của người có đạo với niềm tin của người có lòng nhân đã bắt đầu từ đây. Đây là sự hợp tác tốt nhất. Và Đức cha Grangeon đề nghị địa điểm Qui Hoà.

 

Địa điểm Qui Hoà:

Qui Hoà, từ xa xưa, dân gian gọi là Xóm Cát, có một họ đạo gọi tên họ Xóm Cát. Trên sườn núi có nền nhà thờ cổ xưa.

Qui Hoà nằm về mạn Nam cách xa thành phố Qui Nhơn 7 cây số, một con đường nhỏ nối liền với Qui Nhơn, qua một con đèo không cao lắm, trên đèo còn thấy di tích thành luỹ cũ có lẽ là các đồn phòng thủ của quân binh Tây Sơn. Qui Hoà nằm giữa một cánh đồng 60 hecta, đất tốt, ba phía có núi hình vòng cung, phía Đông là biển, là vũng Làng Mai, phía Nam có con sông nhỏ uốn khúc quanh co chảy ra biển. Bãi biển màu cát vàng hình vòng cung, biển bao la cộng với trời cao xanh cùng một màu, tạo thành một cảnh trí thiên nhiên đẹp tuyêt vời.

Qui Hoà rất thích hợp để lập một làng phong, có nước, có gió, có biển, đồng bằng trồng lúa, trồng dừa, trồng cau, trồng cây ăn trái. Núi gần đó; trên núi có đá có thể dùng để xây cất nhà cửa. Dân cư thưa thớt.

 

Cha Maheu đến Qui Hoà và bắt đầu xây dựng cơ sở:

Theo lời bác sĩ Le Moine kể lại: “Một buổi sáng đẹp trời chúng tôi thấy một chiếc ghe chèo đến, trên ghe chở một giường gỗ, vài cái ghế; một cái bàn, một cái máy hát đĩa, rất nhiều sách, một nhà ẩn sĩ gầy gò có bộ râu dài, đôi mắt sáng quắc, đó là cha Maheu, đến hiến dâng cuộc đời cho người bệnh phong” (Lm. Antôn Trần Phổ và Nữ tu Mađalêna Nguyễn thị Triệu, biên soạn ”Cộng đoàn thánh Phanxicô Qui-Hoà”, tài liệu đánh máy, trích Lược sử Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ Việt Nam, tr. 5).

Linh mục PAUL ANDRÉ MAHEU sinh ngày 24-1-1869, vào chủng viện Hội Thừa sai Hải ngoại Paris, thụ chức linh mục ngày 30-6-1895, sang Việt Nam phục vụ truyền giáo tại  giáo phận Qui Nhơn, lấy tên Việt Nam là MỸ.

Bác sĩ Le Moine và linh mục Maheu cùng nhau thảo luận, lên phương án, vẽ hoạ đồ và nhất là hai vị đồng quan điểm “xây một cư xá cho những người tự do, tin tưởng và gắn bó với mảnh đất họ sống”.

Chính quyền cũng như giáo quyền khoán trắng công trình cho hai vị. Với hai bàn tay trắng, Cha Maheu đến gõ cửa các nhà giàu, các ông chủ đồn điền, các nhà hảo tâm, các công chức ở miền Nam…

Được một ít tiền, Cha Maheu cất lên mấy căn nhà tranh vách đất, làm nhà thương chẩn bệnh phát thuốc, nhà ở cho bệnh nhân, nhà thờ… Cha qui tụ được 52 người bệnh và bác sĩ Le Moine dốc hết khả năng chữa trị. Theo dự định, nơi này dành riêng cho bệnh nhân phong cùi tỉnh Bình Định, nhưng không lâu sau phải mở rộng cửa đón nhận bệnh nhân từ các tỉnh lân cận tới. Có một lương y Việt Nam, với Đông dược đã chữa lành một người phong. Bác sĩ Le Moine mời lương y ấy đến trại Qui Hoà cộng tác.

Với phương pháp chữa trị dài hơi do bác sĩ Le Moine đề ra, với các dược liệu cổ điển thời bấy giờ, có nhiều người giảm bệnh, lành bệnh về lại với gia đình.

Không rõ về sau bác sĩ Le Moine về Pháp hay đổi đi đâu.

Còn Cha Maheu, người bạn chân tình của bệnh nhân phong cùi, linh hồn của công cuộc thành lập trại phong Qui Hoà từ tháng 5 năm 1929, vì lo lắng, di chuyển nhiều, nhất là lo tìm nguồn tài chính ngân khoản, Cha lâm bệnh nặng phải về Pháp chữa trị năm 1930. Về Pháp được mấy tháng, ngài qua đời tại Paris ngày 27-2-1931, thọ được 62 năm và 6 ngày, 36 năm linh mục phục vụ giáo phận Qui Nhơn trong đó có 3 năm phục vụ bệnh nhân phong cùi xấu số Qui Hoà.

Cha Maheu để lại cho trại phong Qui Hoà gia sản và đất đai gồm: một nhà thờ tạm, một nhà tuyên uý, một nhà cho nữ tu ở tạm, một bệnh xá chẩn bệnh phát thuốc. Tất cả đều là tường gạch lợp ngói nằm gần bờ biển. Trại bệnh nhân phía trong, giữa trại có một khu chợ. Các con đường đều bắt đầu từ chợ, chia trại thành từng khu. Bệnh nhân và gia đình ở từng nhà. Nhà cất tuỳ sở thích, nhà tre, nhà gỗ, vách đất, vách ván, lợp tranh.

Thay thế Cha Maheu, năm 1931 có Cha Alexandre (Trí), rồi đến tháng 8-1931 Cha Nicolas (Cận). Một số nữ tu Mến Thánh giá Gò thị được Đức cha Tardieu (Phú, 1872-1942) điều tới cộng tác với Cha Nicolas. Nhà cửa, bệnh xá, nhà nguyện… tiếp tục dần dần mọc lên.

 

Các nữ tu Phanxicô Thừa sai Đức Mẹ kế tục sự nghiệp và phát triển:

Năm 1930 Đức cha Auguste-Marie Tardieu, tân Giám mục giáo phận Qui Nhơn qua Roma. Ngài đến gặp Mẹ Marie de Saint-Michel, bề trên toàn dòng Phanxicô Thừa Sai Đức Mẹ, yêu cầu Dòng đảm trách trại phong Qui Hoà mới thành hình. Dòng này, theo tinh thần thánh Phanxicô sống phục vụ cho người nghèo bệnh tật bất hạnh. Dòng lại có nhiều nữ tu chuyên môn và đang đảm trách 9 trại phong trên thế giới.

Ngày 23-9-1932, năm nữ tu Phanxicô Thừa Sai Đức Mẹ thuộc tỉnh dòng Thánh tâm Paris: Marie Gisèle (trưởng đoàn), Marie de la Résurrection, Marie de Saint-Yenan, Marie Waberta và Marie Martia du Sacré-Cœur xuống tàu “ Le Général Mesinger” từ Marseille đi Saigòn.

Tàu cập cảng ngày 19-10-1932. Từ Saigòn các nữ tu lên xe lửa ra Nha Trang, rồi đi xe hơi ra đến Qui Nhơn ngày 24-10-1932, đi xe hơi vào Qui Hoà. Đến chân núi, đường hẹp quanh co, các chị đi kiệu do 4 thanh niên lực lưỡng khiêng trên vai. Đoàn người đi như một đám rước, cờ quạt trống chiêng dẫn đầu. Đến cổng trại, bệnh nhân với những khuôn mặt biến dạng xù xì bừng lên niềm phấn khởi đón rước. Hai bệnh nhân đọc diễn văn chúc mừng, một bài bằng tiếng Pháp, một bài bằng tiếng Việt. Thật đau lòng khi nghe họ tự xưng là những kẻ “thân tàn ma dại”.

Bắt đầu từ đây, 25-10-1932, các nữ tu Phanxicô là những chủ nhân mới kế tục lâu dài sự nghiệp của linh mục Maheu. Từ ấy đến nay, Khu Điều trị phong Qui Hoà có những bước phát triển, cầm chừng…, thay đổi danh xưng, thay đổi chủ nhân… qua từng thời kỳ:

 

Từ tháng 10-1932 đến tháng 11-1945:

Bắt tay vào việc, trước tên đặt tên thánh cho trại, gọi là “Trại phong thánh Phanxicô Qui Hoà”. Các nữ tu cũng được gọi là Cộng đoàn thánh Phanxicô.

Mỗi ngày, các chị thăm viếng săn sóc chữa trị bệnh nhân phong cũng như các bệnh khác. Trung bình mỗi ngày băng bó cho từ 160 đến 180 bệnh nhân. Ngoài ra, còn săn sóc hướng dẫn cho người mù, người điếc.

Về cơ sở vật chất, các chị khai quang tăng thêm mặt bằng, cất thêm nhiều nhà tuy vẫn là nhà tranh vách ván.

Một trận bão lớn, có sóng thần ập đến, ngày 1-11-1933, tàn phá bao nhiêu công lao gây dựng của bao nhiêu người từ thời Cha Maheu. Các chị phải bắt đầu lại và đã bắt đầu. Nhà cửa qui mô hơn kiên cố hơn, dự trù cho 500 bệnh nhân.

Số nữ tu Phanxicô ở Qui Hoà vào năm 1935 thêm 3 chị: Marie de Saint-Foulques, Marie Juetta và Marie Kléophasa, vị chi là 8 chị phục vụ cho bệnh nhân có khi lên đến 1.637 người đến từ Thanh Hoá, Nghệ An, Saigòn, Gia Định, Biên Hoà, Bình Dương, Mỹ Tho, Cần Thơ, Sa Đéc, Bến Tre, Gò Công, Tây Ninh, Châu Đốc, An Xuyên, Ba Xuyên, Bạc Liêu…(Tài liệu đã dẫn, tr. 12). Kể từ khi thành lập, tháng 5-1929, cho đến năm 1940, có đến 5.355 bệnh nhân đã đến Qui Hoà. Họ đủ hạng người, mọi địa phương trong nước…

Có một bệnh nhân “đặc biệt”, đó là Phanxicô Nguyễn Trọng Trí, nhà thơ Hàn Mặc Tử. Ông vào điều trị ngày 20-9-1940 và đã từ trần ngày 11-11-1940. Địa danh Qui Hoà bắt đầu gắn liền với đời bệnh của ông và tạo một mảng đời thơ tôn giáo của ông. Địa danh Qui Hoà với những bóng dáng “thiên thần bình an và hoan lạc” được nói đến trong đời bệnh của thi sĩ, từ đó, trong văn học Việt Nam. Bóng dáng “thiên thần” đó là Mẹ MARIE JUETTA đến Qui Hoà năm 1935, là người đã tiếp nhận và săn sóc cho thi sĩ.

Nguyễn văn Xê, người bạn bệnh nhân gần gũi nhất của Hàn Mặc Tử ở Qui Hoà kể lại:

“Buổi sáng mùa thu ngày 20-9-1940…mẹ Juetta lẹ làng chạy ra cửa tiếp hồ sơ nơi tay y tá… Đến giường số 3, mẹ dừng lại, nhìn hồ sơ và nói “Trí, đây là chỗ của con”…

“Mẹ Juetta bưng đến một tách lớn đầy sữa nóng, và múc từng muỗng cho Trí uống. Trí e ngại nói: “Xin mẹ để cho con tự bưng uống được”, mẹ lắc đầu nói “Không được, để mẹ đút cho con uống vì sữa nóng sẽ làm cho con phỏng tay”. Rồi mẹ sung sướng mỉm cười thấy Trí cố gắng uống cạn ly sữa”… (“Hàn Mặc Tử, Thơ và Đời”, NXB Văn Học, Hà Nội 1993, tr.189-190).

Hình bóng thiên thần của mẹ Juetta, của các nữ tu Phanxicô đã giúp tâm hồn thi sĩ vẫn bình an, tuy quằn quại đau đớn vì kịch bệnh. Thi sĩ đã viết lên bài thơ bằng văn xuôi để nói lên ơn lành quí trọng đồng thời để ca ngợi các tu sĩ Phanxicô, bài tiếng Pháp có tựa đề “La Pureté de l’âme”, bài dịch tiếng Việt: “Linh hồn thanh khiết”:

“Hỡi các thiên thần, thiên thần của Chúa, thiên thần bình an và hoan lạc, hãy hoan hô các Mẹ và Chị Dòng Thánh Phanxicô xuống giữa loài người mà an ủi cho chúng tôi, những kẻ trầm luân yếu đuối, bệnh tật, hủi phong.

Tôi muốn trọn đời ngưỡng mộ vẻ trắng trong nguyên vẹn, nguồn tươi, ánh sáng, thơ vì tất cả đây là hình tượng của

“LINH HỒN THANH KHIẾT”   

………

( “Chơi giữa mùa trăng”, NXB An Tiêm, 1969, tr. 69-73)

( Ngày 11-11-1994 Khu Điều trị phong Qui Hoà Khánh thành phòng Lưu niệm Hàn Mặc Tử).

Trong chiến tranh thế giới II, quân đội Nhật chiếm đóng Việt Nam, bao nhiêu biến cố dồn dập xảy ra trên đất nước. Qui Hoà sống trong hoàn cảnh rất khó khăn.

Cho đến ngày 21-11-1945, các nữ tu Phanxicô người Pháp bị bắt buộc phải rời Qui Hoà về Pháp. Lúc này số bệnh nhân có đến 660 người.

 

Từ tháng 11-1945 đến tháng 7-1955:

Đất nước đi vào cuộc chiến tranh chống Pháp. Qui Hoà thuộc tỉnh Bình Định thuộc Liên khu V. Gần 10 năm chiến tranh, Qui Hoà sống lây lất cầm chừng. Thời gian này có các linh mục giáo phận Qui Nhơn:  Cha Phaolô Huỳnh Biên, Giuse Vũ Ngọc Nhã, Phaolô Nguyễn Xuân Bàn lần lượt đến điều hành trại phong về xã hội cũng như về mục vụ. Các nữ tu dòng Mến Thánh giá Gò Thị đến giúp.

Về phần dòng nữ Phanxicô chỉ có 4 nữ tập sinh ở lại phục vụ, đó là: Catarina Trần thị Thêm, Angela Dương thị Lành, Isave Lê thị Tỏ và Maria Hội. Bốn chị can đảm kiên trì phục vụ thiếu nhi và trẻ mồ côi, giữ nhà thờ, giữ tu viện. Các chị kiệt sức, có một chị xin về với gia đình và một chị là Catarina Trần thị Thêm có triệu chứng lây bệnh phong, đang thời kỳ ủ bệnh đã 4 hoặc 5 năm.

 

Từ tháng 7-1995 đến tháng 6-1976:

Ngày 6-7-1955, sau hiệp định Genève, các nữ tu Phanxicô trở lại Qui Hoà, gồm 5 người: Mẹ Charles-Antoine, Ozithe và 3 chị Việt Nam: Magarita Phùng thị Khoá, Hélène Trần thị Mộ, Gioanna Nguyễn thị Nghi.

Số bệnh nhân lúc này chỉ còn 180 người và nhà cửa thì xiêu vẹo đổ nát…

Trong 20 năm sau chiến tranh kháng Pháp, trại phong Qui Hoà phát triển qui mô về cơ sở vật chất: nhà gạch lợp ngói, nhà thờ, tu viện, nhà khách, hai khu vực nhà thương cho bệnh nhân nặng nam nữ riêng biệt vv… Có phòng nha khoa, có phòng xét nghiệm, ngày 25-4-1969 khánh thành trung tâm chỉnh hình nhờ bác sĩ Gingras va nhóm chuyên viên vật lý trị liệu Canada trợ giúp. Thuê thợ chuyên môn bệnh viện Chợ Quán ra giúp làm chân giả, nhờ đó mà khoảng 50 bệnh nhân có thể đi lại được, thậm chí còn đi xe đạp.

Từ nhà nầy sang nhà khác giữa các khu vực, đường sá ngang dọc thẳng tắp rợp mát bóng dừa. Qui Hoà trở thành một làng -làng Qui Hoà- cho bệnh nhân.

Có một cơ sở ngoại vi của làng về mạn Tây và mạn Nam, là xóm nhà 250 căn xây cất cho bệnh nhân và gia đình họ. Nhà gạch lợp ngói, nền lát gạch bông giữa vườn cây.

Ngoài ra, còn có khu tiểu thủ công cho bệnh nhân thợ mộc, thợ rèn, thợ hàn, thợ hồ, thợ làm gạch ngói, thợ dệt vải, dệt chiếu, đan thêu…, thợ đục đá, mài granitô. Bệnh nhân còn làm chài lưới, trồng rau, trồng cây ăn trái, chăn nuôi… Mọi điều hành và quản lý do bệnh nhân và sản phẩm trao đổi trong phạm vi làng phong Qui Hoà.

Để nâng cao đời sống tinh thần cho bệnh nhân, các nữ tu còn tổ chức cac buổi văn nghệ vì bệnh nhân gồm đủ thành phần xã hội: văn sĩ, ca sĩ, nhà báo, sinh viên, học sinh… Có sân tập thể dục, sân bóng chuyền, bóng rổ, có cung thiếu nhi, vườn trẻ, trường học mẫu giáo, cấp I, II. Thầy cô giáo là những bệnh nhân. Học sinh thi Tiểu học kết quả đậu 11/13 em dự thi. Trường Phổ thông Qui Hoà được bộ Giáo dục công nhận.

Các nữ tu còn cất nhà dưỡng lão cho bệnh nhân già cả lành bệnh, phía ngoài Ghềnh Ráng. Có thể nói đây là một làng phục hồi.

Vài nét đơn sơ trên đây, cho thấy sự nỗ lực hiệu quả của các nữ tu Phanxicô cho bệnh nhân phong Qui Hoà to lớn như thế nào. Tính đến cuối năm 1974 số bệnh nhân là 5.422, số nữ tu người Pháp và người Việt là 14. Nếu tính từ lúc đầu -1932- đến năm 1974, tổng số là 47 nữ tu.

Tư tưởng và ước vọng của Cha Maheu và bác sĩ Le Moine từ những ngày đầu sáng lập, nay đã thành hiện thực. Đó là bệnh nhân phong hủi đã được giải phóng. Từ thân phận bị hất hủi “bị nhốt” họ trở thành những con người tự do, từ những con người bị gạt ra ngoài lề xã hội thành những con người được xã hội đùm bọc giữ được nhân phẩm, những con người can đảm trực diện với căn bệnh để tự mình lãnh trách nhiệm chữa trị, từ thất vọng trở thành tin tưởng, u buồn trở thành tươi vui, tưởng rằng tàn phế không ngờ vẫn còn hữu ích, biết chia xẻ đùm bọc nhau như xã hội đã đùm bọc mình. Có một hôm xe chở 200 bệnh nhân từ miền Nam ra, toàn trại đổ ra tay bắt mặt mừng, người cũ dắt díu người mới ổn định nơi ăn chốn ở và ngay sau đó vội vã may áo cho những người bạn mới rách rưới. Có hai ông bà già không con, đã nhận 8 em bé gái mắc bệnh, bị cha mẹ bỏ rơi, làm con nuôi.

 

Từ tháng 6-1976 đến nay:

Sau ngày thống nhất đất nước, tất cả các linh mục tu sĩ ngoại quốc, trong đó có các nữ tu Phanxicô Thừa Sai Đức Mẹ người Pháp ở Qui Hoà, đều bị buộc phải rời khỏi Việt Nam.

Tỉnh dòng Phanxicô Thừa Sai Đức Mẹ đã xin chuyển giao bệnh viện Qui Hoà cho Nhà nước Việt Nam.

Lễ bàn giao và tiếp nhận diễn ra ngày 5-6-1976 tại hội trường bệnh viện Qui Hoà. Về phía Dòng, có nữ tu Madeleine Nguyễn thị Triệu và 5 nữ tu đại diện. Phía Nhà nước có 5 bác sĩ. Trong buổi lễ, bệnh nhân có đệ lên các cấp lãnh đạo Chính quyền một lá thư. Trong thư có đoạn nói về các nữ tu như sau:

“Ở đây, đã ghi được một điểm son: Nhờ có những nữ tu Dòng Phanxicô, những Bà Mẹ, những Bà Chị của chúng tôi, đã tự nguyện dấn thân vào vòng nguy hiểm, dâng hiến trọn cuộc đời, lấy bác ái làm cứu cánh, để cứu vớt những tâm hồn đau khổ, xoa dịu mọi ưu phiền. Với lòng yêu thương dạt dào không bờ bến, các chị phải ngược xuôi, khéo léo vận dụng tài năng, cùng hai bàn tay tinh khiết của mình, nhờ lòng từ thiện của đồng bào, hay ngoại quốc, nuôi dưỡng chúng tôi, nhân thế mà cuộc đời chúng tôi vơi đi những ngày buồn tủi…Thật ra, nếu không có nghĩa cử cao đẹp, qui trọng ấy của các Nữ tu, ân nhân của chúng tôi, thì cuộc đời chúng tôi hầu như tàn tạ kết thúc. Công ơn ấy, chúng tôi nguyện khắc sâu vào lòng”. (Tài liệu đã dẫn, tr.23-24).

Từ sau khi bàn giao, bệnh viện phong Qui Hoà được đổi tên là Khu Điều trị Phong Qui Hoà.

Nhà nước yêu cầu Dòng cho 20 nữ tu tiếp tục giúp phục vụ, nhưng Dòng chỉ đáp ứng được 17 nữ tu có bằng cấp chuyên môn. Các Chị đã phục vụ từ lâu trước đây, nay cũng tiếp tục ở lại như: Chị Trương thị Nghiêm, Magarita Phùng thị Khoá, Nguyễn thị Nghi… và tất cả đều theo chế độ công nhân viên, ăn lương Nhà nước.

Mẹ bề trên tỉnh dòng Marie-Thérèse de Maleissye vẫn tiếp tục ủng hộ Qui Hoà, nói về Qui Hoà, nói về các nữ tu Phanxicô Thừa sai Đức Mẹ phục vụ tại Qui Hoà.

Ông Trọng Giang, trong bài bút ký “Hoa Dạ Hương ở biển Qui Nhơn”, viết tại Qui Nhơn tháng 8-1992, đăng trong Tập san VĂN NGHỆ:

“Điều đáng ghi nhận trước tiên phải nói đến công lao phục vụ của các bà xơ. Là những người tu hành thuộc dòng tu Phơ-răng-xi-ken thâm nhập vào Việt Nam từ năm 1932, họ đã vào Qui Hoà đầu tiên, hành đạo và làm việc thiện ở đây, lấy việc phục vụ người  mắc bệnh phong làm lẽ sống. Nhiều xơ người Pháp đã về nước sau năm 1975, nay lại đang đề xuất xin Chính phủ ta cho trở lại làm việc. Hiện nay ở trại còn 17 xơ người Việt Nam, người trẻ nhất mới 30, người cao tuổi nhất đã ngoài 70 tự nguyện dành tròn cuộc đời cho việc đạo và chăm sóc các bệnh nhân. Họ đến với người bệnh như những ân nhân. Trẻ em con cháu của các gia đình người mắc bệnh phong khi đã học hết cấp I trong trại nếu có nguyện vọng muốn học lên sẽ được các xơ liên hệ gửi ra các trường của thành phố cho học tiếp. Tại Qui Nhơn, các xơ đã mua nhà làm nơi lưu trú cho các cháu và trợ cấp cho các cháu đủ tiền ăn học”.

Ông Mạnh Việt, trong bài phóng sự “Nơi Tình Người Bao La” đăng trong báo Tiền Phong, viết:

“Tôi thực sự cảm thấy bất lực, khi ngòi bút của mình không đủ khả năng lột tả hết lòng tốt tới mức thánh thiện của người đời đối với những người bệnh nơi đây…

Gặp các xơ, thật khó mà “khai thác tài liệu”, bởi họ là những con người hoàn toàn không bao giờ nói về mình. Tất cả cuộc đời của họ là làm dịu đi nỗi đau đớn của người bệnh. Tôi được nghe nói rất nhiều về thời trước, có Mẹ Nhất Charles-Antoine… Bà mới mất cách đây 4 năm. Mấy chục năm trời phục vụ bệnh nhân, chưa một ai nghe thấy bà nói to một tiếng. Có những đêm bà thức suốt đêm bên cạnh người bệnh. Bà sẵn sàng thò tay móc bông băng đầy máu mủ của người bệnh bị mắc trong toa-lét.

Chuyện về các xơ còn nhiều lắm, không kể hết. Riêng tôi chuyến này, được gặp và chuyện trò với hầu hết các xơ như xơ Khoá, xơ T..., xơ Mỗ, đều đã trên 70 tuổi, nay đã “về hưu” theo chế độ song ngày ngày vẫn bên giường bệnh nhân. Trong các xơ tôi để ý có xơ Yến, quê ở Phan Rang, năm nay mới 32 tuổi, với giương mặt đôn hậu và đôi mắt huyền bí thăm thẳm. Mấy anh bạn cùng đi với tôi, khi ra về còn bâng khuâng bởi đôi mắt của xơ Yến tựa như mắt Đức Mẹ Đồng Trinh…

Tôi tò mò định lách vào “cửa sổ tâm hồn” của xơ Yến bằng một câu hỏi “nghề nghiệp” thì xơ mỉm cười… nụ cười La Joconde cách đây hằng thế kỷ của Leonardo da Vinci.

…Tất cả những chuyện đã nghe, đã thấy với những người trần mắt thịt ở trại phong Qui Hoà, mà sao tôi cứ cảm thấy như lạc vào một bầu trời thánh thiện”.  (Báo TIỀN PHONG, Cơ quan ngôn luận của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, số đặc san, cuối tháng 4-1992).

Ông Bùi Lợi, trong bài phóng sự “Ấn tượng Qui Hoà” đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng, viết:

…Các Sœurs trở thành những người mẹ người chị gần gũi nhất của trên 10 ngàn bệnh nhân điều trị ở Qui Hoà từ trước đến nay. Họ là những người trực tiếp chăm sóc từ miếng ăn, giấc ngủ, từng vết thương và xoa dịu nỗi đau đớn của người bệnh… Ngày nay, tất cả 17 Sœurs đang làm việc ở Qui Hoà thật sự là những người mẹ, người chị của trên 1000 bệnh nhân ở đây. Các Sœurs không muốn nói về mình nên chúng tôi cũng không tiện nêu tên. Bác sĩ Ngoạn tâm sự: “Khi đến Qui Hoà, tôi học tập các Sœurs rất nhiều. Họ là những tấm gương sáng phản chiếu lòng nhân ái vô biên”. (Báo SÀI GÒN GIẢI PHÓNG, Số 123, thứ Bảy 22-5-1993).

Ông Phong Linh (Trương Phong Linh), một nhà thơ, một nhạc sĩ, chưa Công giáo, sáng tác bài thơ nhan đề “Về Với Qui Hoà”. Kết bài thơ có những câu:

…           Chính nơi đây có tình người cao đẹp,

   Những mẹ hiền xoa dịu vết thương đau.

   Ngày đêm mưa nắng dãi dầu,

   Bàn tay áo trắng cứu bao mạng người.

   Ôi đẹp quá Qui Hoà ôi đẹp quá

   Đẹp tình người, đẹp trọn những ước mơ.

   Yêu thương, hò hẹn đợi chờ.

   Vì tình nhân loại hy sinh cuộc đời…

              

Với những lời tặng:

               Chiều nơi thung lũng

               Khu Điều trị 09-10-1981

“Kính tặng Sơ Luca và Những Tâm Hồn yêu nhân loại hy sinh cuộc đời nơi Khu Điều trị dưới chân Thánh Phanxicô và Chúa Cứu Thế”.

               TRƯƠNG PHONG LINH

Hình ảnh các nữ tu Phanxicô Qui Hoà cũng được quay thành phim, cuốn phim tài liệu Việt Nam có tựa đề “NHỮNG CHUYỆN TỬ TẾ”. Phim tài liệu nầy đã dẫn kỷ lục, được tham dự nhiều cuộc Liên Hoan Phim Quốc Tế: đoạt giải “Bồ Câu Bạc” LHP Leipzig 1988, LHP Fribourg Thuỵ Sĩ, Cinéma du Réel Paris 1988, Nhật Bản 1988, 1991 và được nhiều nước mua chiếu rộng rãi.

Trong phim, đạo diễn Trần Văn Thuỷ đã đưa những chuyện tử tế của các nữ tu xen vào nhiều chuyện tử tế của nhiều người khác.

Đạo diễn đưa ra một số đông các chị, đưa ra một vài khuôn mặt phúc hậu từ bi của người Nữ tu đối chiếu với những khuôn mặt đáng thương của người bệnh. Đưa ra những cảnh:

Một chị không khẩu trang, không găng tay đang xức thuốc cho một bệnh nhân, một chị khác đang quì gối băng bó và mang chân giả cho một bệnh nhân,

Một chị đang chăm chú xét nghiệm dưới ống kính hiển vi.

Một chị đang thận trọng nhẹ nhàng đẩy chiếc xe lăn trên có người bệnh nặng. Và có tiếng phỏng vấn vì sao các chị hy sinh được như thế,

Có tiếng một chị trả lời: “VÌ CHÚNG TÔI CÓ LÒNG TIN”.

Còn một chuyện tử tế khác, đạo diễn tạo ra cảnh hai chị cầm bó hoa, trèo lên núi đến đặt trước mộ Hàn Mặc Tử.

Hình như nhà làm phim muốn nói rằng các Nữ tu trong lúc tận tuỵ phục vụ người sống vẫn tưởng nhớ đến kẻ đã khuất,

Và rằng Tu sĩ, Thi sĩ là những con người của cõi Tâm linh.

LÊ NGỌC BÍCH

 

Tài liệu tham khảo:

- “Cộng Đoàn Thánh Phanxicô Qui Hoà” (Bệnh viện Phong Qui Hoà) Trích Lược sử Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ VN. của L.m. Antôn Trần Phổ, Dòng Phan Sinh và Nữ tu Ma-đa-lê-na Nguyễn Thị Triệu, Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ, biên soạn. Tài liệu đánh máy.

- Tiểu sử linh mục  Paul André Maheu, Nữ tu Luca, Khu Điều trị Phong Qui Hoà cung cấp.

- Báo Đức Mẹ HCG,1962, số đặc biệt giáo phận Qui Nhơn.

- Hàn Mặc Tử Thơ và Đời, NXB Văn Học, Hà Nội 1993

- Việt Nam Giáo sử, Quyển I, II, Phan Phát Huồn

- GG và DT số 880 ngày 25-10-1992.

VỀ MỤC LỤC
Chiếc bình vỡ
 

Thành phố Greenville, North Carolina, có hai nhà thờ Công Giáo: nhà thờ Saint Paul và nhà thờ San Gabriel. Tôi chọn đi lễ nhà thờ San Gabriel vì gần khách sạn. Hôm nay là Chúa Nhật thứ Hai Mùa Chay, nhà thờ hát bài “Abba! Abba! Father, you are the potter, and we are the clay, the work of your hands…”.

Nghe bài hát, tôi nhớ lại câu truyện mà một người bạn đã gởi cho vào dịp đầu năm Đinh Hợi. Thực ra tôi đã được nghe câu truyện này nhiều lần, nhưng lần này tôi cứ miên man suy nghĩ mãi vì  người gởi tên là Lành. Vâng, anh Lành Nguyễn đã gởi cho tôi câu truyện ‘Chiếc Bình Vỡ’.

Truyện thế này: có người nông gia ngày nào cũng đi gánh nước. Một cái bình lành nguyên thì nước ở trong bình còn đầy khi về đến nhà, còn cái bình vỡ thì nước bị chảy, về đến nhà chẳng còn mấy giọt ở trong. Ngày tháng cứ qua như vậy, chiếc bình vỡ mới than với chủ mình:

-  Thưa Ngài, như vậy thật chẳng công bằng tí nào, chiếc bình lành kia thì vừa đẹp lại vừa mang được nước về nhà cho Ngài. Còn tôi thì thân phận hẩm hiu thế này…Thật buồn quá.

Người nông gia bảo chiếc bình vỡ:

-  Ô, ngươi cũng đừng nên buồn phiền làm gì vì ngươi chưa thấy kỳ công của ngươi đấy thôi, những luống hoa rực rỡ khoe mầu bên đường chính là công trình tốt đẹp của ngươi đấy. Nhờ nước từ chiếc bình vỡ ngươi mà các cây hoa đã mọc lên kìa. Ngươi còn buồn nữa thôi? 

Vậy tôi là chiếc bình lành hay bình vỡ đây?

Ông thánh Phaolô đã viết: “Vì sự phản bội của một người mà tất cả chúng ta sinh ra trong tội lỗi…”. Nếu vậy thì chắc chắn tôi là chiếc bình vỡ rồi. Nhưng tôi không dám bàn đến chiếc bình vỡ trong chiều kích thần học cao siêu với cả một lịch sử cứu độ đâu, chỉ suy tư ở một góc nhỏ của đời thường, đời thường của một người có Đức Tin mà thôi.

Đời thường của tôi thế này: cha mẹ tôi đều nghèo khổ, cả hai đã suýt chết trong trận đói năm 1945. Tôi được sinh ra trong điều kiện rất cơ cực. Chết đi và sống lại nhiều lần khi chưa đầy 6 tháng tuổi. Rồi khi mới hơn 1 năm tuổi thì mẹ vất vào thúng, đội vào Nam, và kế đó là một tuổi thơ vất vả…. rồi hơn mười năm trong chiến tranh, sống giữa những vùng giao tranh nguy hiểm… Cứ bình thường mà xét thì tôi là một chiếc bình vỡ. Không vỡ toang thì cũng nứt to, không nứt to thì cũng đã trầy trụa bầm dập… 

Nhà thờ hôm nay có khoảng 500 người,  đa số là người da trắng. Một số rất ít người da đen nên họ nổi bật giữa đám đông. Ca trưởng là phụ nữ da đen, hai em đi xin tiền là hai cậu bé da đen, và một thừa tác viên thánh thể là da đen. Có lẽ chỉ mình tôi là da vàng…Nhìn bà ca trưởng với đôi môi đen bóng và bộ áo thùng thình sặc sỡ, tôi lại tự hỏi tôi có thật tôi là chiếc bình vỡ không?  Phải xét cho thật kỹ mới được.  

“Chiếc bình lành bao giờ cũng giá trị hơn chiếc bình vỡ”. Chắc chắn là như thế rồi, nhưng đâu là tiêu chuẩn để phân biệt bình lành và bình vỡ đây?

Không biết câu truyện ‘Chiếc Bình Vỡ’ này đến từ đâu, nhưng ta cần phải phân biệt hai loại ‘bình vỡ’.

Một loại khi mới ra đời đã ‘vỡ’, vỡ đây có thể là không đủ tiêu chuẩn chẳng hạn cái miệng bình không được tròn, cái quai bình không được cân, cái chân bình không vững, đáy bình bị rò, đất nung không kỹ hoặc nung quá độ …vân vân. Nói tóm đây là loại bình defect khi mới ra lò.

Loại thứ hai là loại bình khi ra đời thì rất đúng, rất đạt, và rất đẹp, nhưng với thời gian bình bị rạn nứt, bị mất quai, bị rụng chân, bị trầy phía trong, hay bị mẻ phái ngoài…Tạm gọi đây là loại bình broken với thời gian.

Về loại bình defect khi mới ra lò thì:

Trước hết ta phải nhận rằng có những cái bình defect thật, defect ghê gớm, cả về thân xác lẫn tinh thần, defect rõ ràng, không thể chối bỏ, và không thể cắt nghĩa được. Chẳng hạn những người khuyết tật quá nặng như mù từ khi lọt lòng mẹ, điếc từ thuở nhỏ, cả đời bị câm không nói được tiếng nào, không có phần trước hoặc phần sau của đầu… rồi những người song sinh dính đầu, dính bụng, dính lưng vào nhau… Rồi có những người bị ảnh hưởng của ma túy, của bệnh hoạn ngay từ khi còn trong lòng mẹ, vừa sinh ra đã bị bệnh liệt kháng, bị bệnh thần kinh, đau đớn, gào khóc cho đến lúc chết…

Bảo rằng tại vì người đời làm xấu và làm sai nên có những hiện tượng như vậy. Tại cha mẹ, tại ông bà, tại môi trường sống…nhưng cuối cùng thì vấn nạn vẫn là: đương sự có tội gì đâu mà phải chịu những hậu quả  như vậy?  Một người trọc đầu thì cũng được đi, nhưng một người không có đủ hai mắt thì quái dị lắm. Một người có 12 ngón tay thì cũng được đi, nhưng một người có cái miệng bằng nửa khuôn mặt thì dị hình quá. Một người kém thông minh thì cũng được, nhưng một người có bộ óc không làm việc, sống như một loài thực vật thì thật quá tội. Rồi thì chiến tranh, thiên tai, và những dịch bệnh, những nạn đói…Chẳng vị tiến sĩ, chẳng nhà đạo đức, chẳng vị giáo hoàng nào cắt nghĩa được điều này đâu nên tôi cũng chẳng dám bàn thêm. Tôi chỉ xác tín một điều như đã xác tín: Chúa quyền năng và yêu thưong. Quyền năng nên Ngài kiểm soát được sự dữ, và yêu thương nên Ngài chỉ muốn điều tốt cho tạo vật Ngài đã dừng nên. Thế thôi.

Thứ đến là lấy tiêu chuẩn nào để gọi là một chiếc bình defect? Thật rất khó. Nếu lấy da trắng là tiêu chuẩn thì da đen phải là defect. Nếu lấy người Phi Châu da đen làm tiêu chuẩn thì người Á Châu da vàng phải là defect.  

Khó mà phân biệt được đâu là tiêu chuẩn của sắc đẹp? Mắt to, mắt xếch, mắt xanh, hay mắt nâu? Cũng tùy, nhưng chỉ biết ‘Mắt Đại Hàn’ đang ăn khách và đang chiếm hữu thế giới phim ảnh ở nhiều nơi. Đâu là tiêu chuẩn của thông minh? Tóc vàng, tóc đen, hay tóc hoe? Tôi nhớ một anh consultant người Ấn Độ mới nhận việc, anh kể câu truyện rất dummy về một cô gái blonde để làm quà cho đám IT.  Kể xong anh mới nhìn ra xếp mới của anh là một nàng blonde chính hiệu nên anh cố chống chế:’ you are not very blonde, just…’ Da đen hay da đỏ giỏi hơn? Tôi chưa thấy người da đỏ xuất sắc, nhưng một lần đi giao hàng, tôi đã thấy một thanh niên da đen treo trên tường 4 bằng tiến sĩ từ những trường MIT và CAL TECH và đang làm mathematician cho hãng Boeing. Bộ óc to hay bộ óc nhỏ tốt hơn? Cụ Eistein hình như có bộ óc nhỏ hơn tôi và nhiều người, nhưng ông là biến cả và tôi là hạt cát. Đâu là tiêu chuẩn của sức khỏe? chân dài hay chân ngắn? Thường tôi thấy những running back cho các đôi football chuyên nghiệp không phải là những người cao lớn mà là những người trung bình. Và đâu là tiêu chuẩn của hạnh phúc? Người chiếm hữu nhiều hay người có ít? Thường tôi thấy những người hạnh phúc là những người không nhiều tiền của.

Người đời thường bảo ‘hồng nhan bạc mệnh’ hoặc ‘có tật có tài’. Nhưng tôi cũng thấy có nhiều hồng nhan chẳng ‘bạc mệnh’ tí nào mà trái lại còn ‘bạc vạn’ và ‘bạc triệu’ là khác. Ngược lại tôi cũng thấy nhiều người có tật mà chẳng có tài gì cả.

Dù sao thì cũng phải xác tín một điều là Thượng Đế không cho ai tất cả và cũng không để ai thiệt thòi tất cả. Được cái này thì mất cái khác. Thua mặt này thì thắng mặt khác.  Con trai của anh không  chăm học ở trường học, nhưng nó lại rất nhanh nhẹn thoát vát ngoài trường đời. Nó không được điểm A môn vật lý, nhưng nó lại sửa xe giỏi như một thợ chuyên nghiệp. Con gái của chị không đẹp kiêu sa, nhưng nét duyên dáng và tính tình dịu dàng của nó đã là chìa khóa thành công trong đời. Chị không giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp, nhưng nụ cười đẹp chân thành của chị đã nói thay cho mọi ngôn ngữ. 

Nhìn ra được điểm này, ta sẽ thấy mình không defect hoặc ít là không defect như ta tưởng, ta sẽ thấy mình lạc quan hơn, sẽ thấy yêu mình và yêu người hơn, sẽ kính trọng mình và kính trọng người khác hơn. Ta sẽ bớt mặc cảm khi ta yếu và thấy người khác mạnh, ta sẽ bớt kiêu hơn khi thành công và người khác thất bại. Ta  bớt tự ti khi không đẹp, không giỏi bằng người khác. Ta sẽ quân bình hơn trong nhân sinh quan: Je suis quelqu’un, et/mais l’autre est quelqu’un aussi.

Thay đổi cái nhìn cho đúng, ta sẽ thấy mình per-fect hơn là de-fect, và từ đó cũng dễ ef-fect hơn.

Tôi cũng xác tín rằng mỗi người là một tuyệt phẩm duy nhất và đáng trân trọng trước Chúa và con người. Vấn đề là ta có biết đi đúng con đường Chúa đã hướng, có biết khai triển đúng tài năng Chúa đã ban. Ta chưa thành công có lẽ tại ta chưa đi đúng đường. Chưa đạt được ước vọng có lẽ tại ta chưa khai thác đúng tài năng Chúa ban. Ta chưa được như người khác có lẽ tại ta chưa quyết tâm và chưa cố gắng cho đủ. Cho nên chẳng cần quá so sánh ta và người chung quanh ta. Cũng chẳng nên chạy theo điều những người quanh ta đang theo đuổi. Trời ban cho anh tài năng về âm nhạc nghệ thuật thì đừng chạy theo toán học khoa học. Trời ban cho chị tâm hồn dễ rung cảm thì đừng bắt mình phải sắt đá như một tướng quân. Con của chị thích đi tu thì đừng bắt nó làm bác sĩ.   

Hãy mở rộng tầm nhìn. Có nhiều thứ quí hóa trong ta mà ta không biết. Cũng có nhiều thứ tốt đẹp chung quanh ta mà ta chưa khám phá ra. Một trăm năm trước, vùng Trung Đông chỉ là vùng đất khô chồi, chẳng ai biết dưới lòng đất cò nhiều vàng đen quí giá đến thế. Rồi những năm gần đây, rất nhiều người Việt trong nước đã thành công vì biết khai thác môi trường canh tác và chăn nuôi đúng cách. Họ đã bắt đầu, đã cố gằng, đã phấn đấu, và đã thành công…  

Nhìn cho đúng và xử dụng đúng những gì ta là(être) và những gì ta có(avoir) ta sẽ thấy Chúa công bằng hơn với ta và ta cũng công bằng hơn với Chúa. Và từ đó ta cũng thấy chiếc bình chảy nước không hẳn là bình vỡ, bình defect, mà là chiếc bình toàn vẹn như nó phải là, perfect in the way it should be.

Nhìn cho đúng và xử dụng cho đúng những gì ta được ta sẽ bớt than thân trách phận, bớt cằn nhằn, hoặc chất vấn Chúa. Anh than: làm việc văn phòng nhức đầu quá. - Thế thì anh chịu đi cắt cỏ không? Anh than: cắt cỏ mệt quá và không có bảo hiểm. - Vậy làm cảnh sát đi tuần nhá? Đi cảnh sát nguy hiểm lắm? - Vậy lái máy bay thì sao? Cũng không an toan…

Đến đây, tôi xin mở ngoặc để bàn về một điều mà người Công Giáo gọi là Sự Quan Phòng của Chúa. Tôi nghĩ khi sinh ta ra đời, Chúa không có một con đường duy nhất cho ta đi, mà cả hàng trăm, hàng triệu con đường nối nhau bởi hẳng tỉ chọn lựa khác nhau. Chúa không chỉ đưa cho ta một hay hai lén bạc nhất định, một hay hai project nhất định, nhưng Ngài để rất nhiều truớc mắt cho ta chọn. Nói một cách cụ thể thế này: đời ta là một trận túc cầu. Trên sân có 12 cầu thủ bạn và 12 cầu thủ đối phương, mục đích trận cầu là đưa bóng vào gôn của đối phương. Chúa không bảo ta phải tấn công góc traí hay góc phải, không bảo ta đá theo lối tổng lực mới của Hòa Lan hay lối cổ điển cũ củ Pháp. Cho nên một trận đấu 90 phút có cả triệu đường bóng và cả tỉ đường chạy. Chúa là người cho ta biết tài năng của ta, tài năng của đối phương, điểm mạnh của ta và điểm yếu của đối phương…Rồi tùy ta chơi. Tôi có thể là một linh muc, một kỹ sư, một thầy giáo, một y tá… Đàng nào Chúa cũng ở đó và chọn lựa nào Chúa cũng ở bên cạnh để giúp.

Từ đó tôi hiểu sự cầu nguyện dễ hơn. Ngoài việc ca tụng, đền tạ, và cảm tạ Chúa là phần người cầu nguyện tham khảo ý Chúa như một cầu thủ hỏi ý nhà dìu dắt. Ta không phải đổi ý Chúa khi cầu nguyện và Chúa cũng không dẹp ý ta khi ta cầu xin. Con đi tu. OK, Ta sẽ giúp. Con lấy vợ. OK. Ta cũng giúp luôn. Con thất bại. OK. Làm lại đi và đây là lý do sự thất bại của con. Thành công. OK. Ta đưa thêm tài chánh nếu con muốn. Tội lỗi. OK. Thôi dừng đi con, không thì lạc đường. Thánh thiện. Tiếp tục đi con. Dĩ nhiên cầu nguyện tự nó cũng là một yếu tố giúp ta sút bóng chính xác.

Về chiếc bình broken với thời gian thì

Chúa có muôn ngàn lối cho ta đi trong cuộc đời và Ngài không bao giờ đập bể những chiếc bình mà Ngài đã nắn ra. Bình bị bể hay rò là do ta không dùng đúng cách. Bình bị sứt mẻ hay gẫy quai là do ta không chăm sóc. Bình bị mùi hôi hay vẩn đục là do ta không đánh rửa lau chùi. Nói chung là ta chịu trách nhiệm khá nhiều về chính đời ta.

Tôi nghĩ thế đấy. Có lẽ bạn sẽ nói:

-    Ông nói truyện xa vời, không thực tế mấy. Tôi hỏi ông chứ, có những người nghèo suốt đời thì sao?

-         Được, tôi đang sống ở Mỹ. Bạn hãy chỉ cho tôi một người nghèo đi. Người Mỹ hay Việt gì cũng được. Khó mà tìm được một người Việt nghèo ở Mỹ đấy.

-         Những người homeless ngoài đường thiếu gì.

-         Vâng, có người nghèo thật, nhưng có những người xin tiền bên này cầu và hút thuốc bên kia cầu đấy. Còn có những người tự làm mình nghèo nữa vì không bao giờ biết tiết kiệm, để dành. Có những người homeless trước đây làm lương gấp 3 gấp 5, có khi gấp 10 lần bạn và tôi nữa kìa. Cho nên bình bể vì không dùng đúng cách.

-         Vậy những người bệnh tật thì sao?

-         Đúng, có những bệnh tật không do chính mình thì thuộc về điều tôi đã nói ở trên(bình defect mà tôi không hiểu được), nhưng có những bệnh do mình tạo nên như béo phì vì ăn uống vô độ, vì nghiện ngập ma túy, tật nguyền vì lái xe vô kỷ luật và vì ăn chơi trác táng. Cho nên bình bể vì không chăm sóc.

-         Vậy còn những thất bại về công danh, tình yêu, và con cái?

-         Tôi không dám bàn về công danh và tình yêu vì đường công danh nó cong cong và đường tình thì nó vô cùng. Không nói hết được. Nhưng về con cái thì tôi nhận đó là cái khó nhất, gai góc nhất trên đời và cũng tiêu hao nhiều năng lực nhất của tôi. Đúng, tôi lo lằng về con cái cũng nhiều vì đây là chỗ dễ bể nhất. Dễ bể nhất vì chúng thuộc về tôi, nhưng tôi lại không kiểm soát được chúng, tôi có trách nhiệm với chúng, nhưng lại không làm chủ đươc chúng. Tôi sợ nhất cái bình bị bể ‘ở chỗ này’ vì đã không chăm sóc chúng cho đủ và cho đúng cách. Tôi chúc mừng những cha mẹ có con cái ngoan ngoãn hay ‘đã nên người’, còn những cha mẹ đang gặp khó khăn với con cái, xin hãy kiên nhẫn. Chẳng biết cái bình con cái sẽ ra sao, nhưng tôi luôn tâm niệm 3 điều: 1) Cầu cho chúng thành người rất bình thường với đức tin công giáo là được rồi, không cần phải là ông này bà nọ. 2) Chấp nhận tất cả những gì xảy đến khi đã làm hết khả năng của mình. 3) Và nếu chiếc bình có bị bẻ ở chỗ này, tôi sẽ cố hàn gắn lại. 

Nói thì dễ nhưng khi va chạm thực tế thì mới  ‘nhức đầu’, mới ‘vỡ lòng’ ra. Biết là phải giữ bình đấy nhưng cũng không thể tránh hết mọi ‘rủi ro’ khi bình bị bể. Một điều may là Chúa cũng biết đất sét/clay thì không thể không bể. Điều đáng sợ là vỡ mà không biết mình vỡ rồi không sửa chữa. Hoặc biết bình vỡ mà chỉ cố che đậy chứ không hàn trét lại.

Xin đừng nghĩ mình là loại bình defect khi mới ra lò, mà hãy lo giữ cho bình đừng bị vỡ thì tốt hơn.

Joseph Vu 03/21/2007

VỀ MỤC LỤC
CON XIN ĐƯỢC NHƯ BÀ VERONICA

 

Khi còn bé, mỗi lần viếng Đàng Thánh Giá, tôi lại mơ ước được gặp Chúa trên đường Thập Giá để lấy khăn lau mặt Chúa như bà Veronica.  Tôn nghĩ rằng làm như thế thì chắc chắn được lên Thiên Đàng.  Tôi cảm thấy có một chút nào ghen tức với bà Veronica vì bà ấy may mắn hơn tôi. Bà ấy được gặp Chúa, còn tôi thì không được cái may mắn ấy.  Bây giờ muốn được lên Thiên Đàng thì khó quá.  Nào là phải giữ đủ mọi thứ điều răn, nào phải đi thờ, đi lễ, đi xưng tội,…, mà chưa chắc đã được rỗi linh hồn.

Nhưng tôi đâu có ngờ là tôi đã gặp Chúa rất nhiều lần trong đời mà tôi đã quay mặt đi vì Chúa bẩn thỉu quá, hôi thối quá, hèn hạ quá, không đáng cho tôi nhìn, chứ đừng nói là cúi xuống mà lấy khăn lau mặt.

Chúa ở trong những người cùi mà tôi gặp trên bãi biển Qui Hoà mấy chục năm về trước ở Quy Nhơn.  Mỗi lẩn thấy họ lảng vảng đến gần là tôi lượm giọng bỏ đi vì sợ lây bệnh họ.  Chúa ở trong những em bé rên siết trong các trại tỵ nạn năm nào, chỉ mong được miếng bánh thừa tôi vất đi, chỉ mong tôi đưa bàn tay ra chạm đến, nhưng tôi đã sợ bàn tay các em nhơ bẩn.  Chúa ở trong em bé ngày nào thọc tay vào tô phở Hiền Vương nóng hổi của tôi chỉ vì quá đói, mà tôi nỡ la mắng và kêu chủ quán đuổi đi.  Chúa ở nơi người tàn tật ngồi ngay cổng nhà thờ hay ở các góc đường mà mỗi lần thấy họ tôi đều quay mặt đi.  Chúa nằm trong các viện dưỡng lão hay nhà tù đang chờ tôi bỏ chút thì giờ ra thăm hỏi.  Chúa ở trong cô bạn học ngày xưa bị mọi người hắt hủi vì “trời cho không được mấy”. Chúa ở trong những người trẻ đang mất niềm tin và cần tôi giúp đỡ.  Chúa ở trong khuôn mặt nhăn nhó của vợ tôi vì quá lo âu cho gia đình, mà tôi đã từng gắt gỏng, than phiền thay vì ủi an, giúp đỡ.  Chúa ở trong những đứa con co rúm vì sợ hãi khi hai vợ chồng tôi gây gỗ.  Chúa ở trong đứa trẻ lỡ lầm đang cần tôi nâng đỡ hơn là la mắng… Bây giờ đi đâu tôi cũng thấy Chúa quanh quẩn bên tôi, nếu kể hết ra ở đây chắc cả ngày cũng không hết.  Chúa cho tôi quá nhiều dịp để lau mặt cho Người.  Nhưng đã mấy lần tôi thực sự kính cẩn quỳ xuống dưới chân người mà đưa khăn của tôi cho Người lau mặt?

Bây giờ tôi mới thấy muốn làm bà Veronica không phải là dễ.  Tôi phải can đảm lắm.  Tôi phải thắng lướt tính cầu an và ích kỷ của tôi.  Tôi phải đè nén tính kiêu ngạo và phán đoán người khác của tôi.  Tôi phải bỏ đi những thành kiến và kỳ thị của tôi.  Tôi phải cầu xin Chúa cho tôi biết “hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11:29).  Tôi phải ý thức rằng mỗi lần tôi giúp đỡ một trong những anh em bé nhỏ nhất của tôi, là tôi đã giúp đỡ chính Chúa Giêsu“ (Xem Mt 25:40).

Lạy Chúa xin cho con biết mở mắt ra mà nhìn thấy Chúa trong mọi người.  Xin cho con biết mở lòng ra mà ấp ủ mọi người, nhất là những người đang cần con ấp ủ. Xin cho con biết đưa tay ra mà đón tiếp môi người.  Xin cho con biết dấn đôi chân con vào những nơi mà con không muốn đến.  Xin cho lấy tấm khăn yêu thương mà lau những bộ mặt đau khổ thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần quanh con.  Con biết con hèn nhát và yếu đuối.  Xin cho con được can đảm như bà Veronica.  Amen.

Tuần Thánh 2007

GLV Phaolô Phạm Xuân Khôi

VỀ MỤC LỤC
Tác phẩm Đào tạo và Tự đào tạo thiêng liêng...

ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG CỦA CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI

TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM HÔM NAY

Nguyên bản tiếng Anh   Lm. Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY

Bản dịch Việt ngữ  Lm. Vincentê Trần Minh Thực, Lm. GB. Nguyễn văn Hào

 

KẾT LUẬN

Cuối cùng người nghiên cứu muốn kết thúc công việc với một bản tóm lược các khám phá và đề nghị thực hành.

I.   NHỮNG KHÁM PHÁ

A. Bối Cảnh Nền Tảng, Thách Đố và Cơ Hội Khả Dĩ Trong Việc Đào Tạo Thiêng Liêng ở Việt Nam

      1. Bối Cảnh Lịch Sử Thời Phong Kiến 

Những hiểu lầm về việc thờ cúng tổ tiên đã gây ra những phản ứng tiêu cực từ cả phía người dân Việt Nam lẫn các nhà truyền giáo ngoại quốc. Điều này dẫn đến một lời khẳng định “theo Đạo là bỏ Ông Bà,” và hậu quả là Đạo Công giáo bị loại trừ và các Kitô hữu đã bị bách hại dưới thời Phong kiến nhà Nguyễn.

       2. Bối Cảnh Lịch Sử Thời Cộng Sản 

Trước năm 1975, có sự đối đầu đố kỵ giữa Giáo Hội Công Giáo và Chủ nghĩa Cộng sản vì ý thức hệ hữu thần và vô thần. Sau năm 1975, mối tương quan đã chuyển hướng và đi tới hiểu nhau và cộng tác với nhau. Nhưng những hạn chế về tôn giáo, tính phức tạp của tâm thức văn hoá, những ảnh hưởng của toàn cầu hoá với nền văn hóa duy vật và hưởng thụ đã làm cản trở sự phát triển thiêng liêng và việc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh.

 

B. Liên Quan Tới Giáo Huấn của Hội Thánh

      1. Chỉ Dẫn Nổi Bật của Hội Thánh Hoàn Vũ 

Hội thánh coi việc đào tạo linh mục như một nhiệm vụ sống còn của mình và luôn ưu tiên cho việc đào tạo thiêng liêng. Rất nhiều văn kiện đã được ban hành để hướng dẫn, nhằm mục đích giúp cho các linh mục tương lai trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Kitô. Một số những văn kiện nền tảng nhất cần kể đến là: Optatam Totius, Presbyterorum Ordinis, Pastores Dabo Vobis, Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis, Spiritual Formation in Seminaries, và Church in Asia.

      2. Hướng Đi Và Những Chỉ Dẫn Cụ Thể Của Hội Thánh Địa Phương

Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã đưa ra hướng đi và những chỉ dẫn cụ thể để áp dụng Giáo huấn của Hội Thánh hoàn vũ vào hoàn cảnh của từng Giáo Hội địa phương, với mục đích trình bày Đức Giêsu Nadarét trong viễn tượng Kitô học theo chiều từ dưới đi lên: gần gũi, dễ hiểu và dễ chấp nhận bởi người Á Châu. Các Giám Mục mong muốn đào tạo các linh mục tương lai trở thành những thừa tác viên vừa là Công giáo đích thực vừa là người Á Châu đích thực, trong chiều hướng hội nhập văn hoá, sử dụng những gì là chân thực và tốt đẹp trong truyền thống và văn hoá Á Châu vào việc loan báo Tin Mừng và canh tân Hội Thánh .

      3. Hòa Nhập Giáo Huấn của Hội Thánh

Tính hỗ tương và lệ thuộc lẫn nhau giữa thừa tác viên và cộng đoàn được nhấn mạnh: chức linh mục thừa tác là để phục vụ cộng đoàn, và trong cộng đoàn này, linh mục phải đóng vai trò ngôn sứ. Kiểu mẫu linh mục nhằm đào tạo phải là một con người vừa thấm nhuần thiêng liêng vừa thấm nhuần nhân bản, một hình ảnh sống động của Đức Giêsu Nadarét, được cắm rễ sâu trong kinh nghiệm thập giá và tình yêu say đắm cho Chúa và cho nhân loại, kiên quyết dấn thân vào đời sống và chức vụ linh mục, luôn hiệp thông và trung thành gắn bó với Hội Thánh, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Linh mục sẽ được nâng đỡ và nuôi dưỡng bởi cả hai  phương tiện vừa tự nhiên vừa siêu nhiên, bởi sự trung thành với đời sống linh mục của mình và bởi việc  đào tạo thường xuyên hòa quyện với những mối tương quan hài hoà, quân bình và trưởng thành.

      4. Bối Cảnh Hóa Việc Đào Tạo Thiêng Liêng

Việc đào tạo thiêng liêng cho các linh mục tương lai sẽ hữu hiệu và đáp ứng đúng lòng mong đợi của Hội Thánh và thế giới ngày mai, nếu nó được thực hiện trong viễn ảnh của Giáo Hội học của Công Đồng Vatican II, của Truyền giáo, của Cộng tác với Giáo dân, và của Đối Thoại: đối thoại với các nền văn hoá, với các tôn giáo khác, với người nghèo, và cách riêng trong bối cảnh xã hội Việt nam hôm nay, đối thoại với những người cộng sản nữa.

      5. Những Yếu Tố Đặc Biệt Giúp Chủng Sinh Trở Thành Thừa Tác Viên Hữu Hiệu

           1. Đào Tạo Thiêng Liêng Trong Giai Đoạn Tiền Chủng Viện

Việc chuẩn bị các ứng sinh thích hợp là nhiệm vụ hàng đầu của cộng đoàn Giáo phận, trong đó phải kể đến sự dấn thân không thể thiếu của Giám Mục Bản Quyền. Sự chuẩn bị nhắm đến việc tiếp nhận các ứng sinh vào chủng viện, qua việc phân định, nhận xét, đánh giá, tuyển chọn và khai tâm họ đi vào sự cam kết khởi đầu tiến trình tự biến đổi và cam kết với sứ vụ. Việc đào tạo ở chủng viện tùy thuộc vào phẩm chất của các ứng sinh đã được nhận vào.

            2. Giai Đoạn Đào Tạo và Tự Đào Tạo Thiêng Liêng ở Chủng Viện

                    a. Đào Tạo Thiêng Liêng 

Đào tạo thiêng liêng thích hợp và toàn diện phải quyện vào với đào tạo nhân bản, để chủng sinh đạt tới sự trưởng thành cần thiết về nhân bản, về đời sống Kitô và linh mục. Trong tiến trình đào tạo này, việc linh hướng chiếm một chỗ rất quan trọng. Việc linh hướng nhằm giúp chủng sinh kinh nghiệm về Chúa và sự hiện diện của Ngài, khám phá ra đường lối Chúa kêu gọi và  đáp lại với tự do nội tâm, dấn thân đi theo và sống tương quan thân mật với Chúa, nhận rõ trách nhiệm của mình và phát triển nó dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

                  b. Đời Sống Cầu Nguyện và Đời Sống Nội Tâm 

Cầu nguyện là yếu tố quan trọng nhất của đời sống thiêng liêng, được nuôi dưỡng và thăng tiến nhờ sự thinh lặng bên trong cũng như bên ngoài, nhờ Lời Chúa và Thánh Thể. Các chủng sinh được khích lệ áp dụng những cách cầu nguyện theo kiểu Á Châu, chẳng hạn như cầu nguyện tập trung và cầu nguyện thân thể. Họ  cũng được đòi hỏi chủ tọa và hướng dẫn các buổi cầu nguyện chung của cộng đoàn chủng viện. Đây là cách tốt nhất để họ trở thành người hướng dẫn cầu nguyện cho đoàn chiên tương lai.

                  c. Cấu Trúc của Việc Đào Tạo Thiêng Liêng

Tương tác giữa toà trong và toà ngoài bảo đảm tự do nội tâm cho chủng sinh. Trong việc đào tạo thiêng liêng, một công việc vừa nhân loại vừa thần linh, Chúa Thánh Thần luôn giữ vai trò cốt yếu và Đức Giêsu Nadarét là mẫu gương tối cao của mọi nhà đào tạo, vốn là những dụng cụ trong bàn tay Thiên Chúa. Các tác nhân đào tạo khác là hội đồng chủng viện, cộng đoàn giáo dục, môi trường thực tập mục vụ, và nhóm nhỏ các bạn đồng môn. Nhưng tác nhân không thể thay thế được là chính chủng sinh, vì nếu không có tự đào tạo thì việc đào tạo sẽ mất hết hiệu quả mong đợi của nó.

                  d. Đánh Giá và Giới Thiệu Cho Chịu Chức

Việc lượng giá của chủng viện và tự đánh giá của ứng sinh là bắt buộc và phải đi đôi với nhau trong suốt tiến trình đào tạo, đặc biệt là trong thời gian giới thiệu ứng sinh cho chịu chức linh mục.

         3. Năm Năm Đầu Tiên Làm Linh Mục của Thời Kỳ Hậu Chủng Viện 

Việc chịu chức linh mục khép lại giai đoạn đào tạo chủng viện, nhưng lại mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn đào tạo thường xuyên kéo dài suốt đời của linh mục. Các linh mục trẻ tự trắc nghiệm mình giữa cái học có tính cách lý thuyết và sự thực hành trong các thực tại của đời sống sứ vụ của họ. Giai đoạn đào tạo này nhằm mục đích giúp họ chu toàn cách trung thành và vui tươi sứ vụ của họ trong những hoàn cảnh khác nhau, chấp nhận và vượt thắng những chiến đấu và cám dỗ cả bên trong lẫn bên ngoài.

Những mối tương quan tốt lành, hài hoà, quân bình và trưởng thành, được điều chỉnh và thăng tiến mỗi ngày, với chính mình, với thiên nhiên, với tha nhân, đặc biệt với những người khác phái là những phương tiện nhân loại. Tương quan thân mật với Thiên Chúa, sự trung thành với cam kết của mình, với đời sống cầu nguyện và với sứ vụ, lòng tôn sùng kiên trì và nhiệt thành với Chúa Giêsu Thánh Thể và Mẹ Maria là những phương tiện siêu nhiên. Những phương tiện tự nhiên và siêu nhiên này sẽ thực sự là bảo đảm cho sự thành công và lòng trung thành của họ.

      

II. NHỮNG ĐỀ NGHỊ THỰC HÀNH

A. Liên Quan Tới Bối Cảnh và Các Thách Đố

     1. Hiểu đúng đắn về việc thờ kính tổ tiên

Hiểu đúng đắn về việc thờ kính tổ tiên sẽ là cách tiếp cận hay nhất và là con đường tốt nhất để hiệp nhất mọi tầng lớp dân chúng Việt nam. Giáo Hội nên giải thích, hội nhập văn hóa và thực hành việc thờ kính tổ tiên trong đời sống và sứ vụ của mình. Đây sẽ là một đóng góp hợp pháp và hữu hiệu cho sứ vụ Tân Phúc Âm hóa của Giáo Hội;

    2. Đi xa hơn các yếu tố văn hoá và tâm thức

Việc đào tạo thiêng liêng nên giúp các linh mục tương lai đi xa hơn các yếu tố văn hoá và tâm thức, để đào sâu và củng cố nền tảng Thánh Kinh của chức linh mục như là tôi tớ phục vụ, đồng hình đồng dạng với chức linh mục tôi tớ phục vụ của Đức Kitô, qua nếp sống giản dị, nghèo khó, hiệp nhất, đối thoại và cầu nguyện;

    3. Sứ vụ loan báo Tin Mừng

Nhằm sứ vụ loan báo Tin Mừng, các linh mục Việt Nam tương lai nên tiếp tục quan điểm tích cực của các lãnh đạo Giáo Hội của mình: sống hiệp thông mạnh mẻ trong lòng Giáo Hội, vượt qua những khó khăn và hạn chế, đứng về phía người nghèo, đối thoại và cộng tác với tất cả đồng bào để xây dựng và phát triển quốc gia, chuẩn bị đất tốt cho hạt giống Tin Mừng, noi gương Đức Giêsu Nadarét, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

      

B. Liên Quan tới Giáo Huấn của Hội Thánh

    1. Thực Thi Giáo Huấn của Giáo Hội

Công đồng Vatican II, như một lễ Hiện Xuống Mới, đã đưa Hội Thánh tới cuộc đổi mới tuyệt vời và mở  rộng sứ vụ của Hội Thánh cho toàn thế giới. Việc đào tạo linh mục không bao giờ thiếu sự hướng dẫn của Hội Thánh, qua những văn kiện căn bản của Huấn Quyền. Tư tưởng hướng dẫn hành động. Đừng để giáo huấn của Hội Thánh không được biết đến, và cũng đừng để giáo huấn ấy chỉ ở lại nơi những lời hoa mỹ. Nhưng, hãy đọc, đọc đi đọc lại, “nhai đi nhai lại” và đem giáo huấn ấy đi vào thực hành.

    2. Hướng đi và những chỉ dẫn cụ thể

 Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trình bày những hướng đi và những chỉ dẫn cụ thể, áp dụng giáo huấn của Hội Thánh hoàn vũ vào bối cảnh địa phương của mình. Chúng ta phải nghiêm túc đưa chúng vào hành động, nếu muốn việc đào tạo linh mục được thích đáng và các linh mục tương lai đáp ứng cách hữu hiệu các thực tại khác nhau của Giáo Hội và của Xã Hội, hầu xây dựng Nước Thiên Chúa.

 

C. Bối Cảnh Hóa Việc Đào Tạo Thiêng Liêng

Việc đào tạo thiêng liêng cho các linh mục tương lai sẽ hữu hiệu và đáp ứng đúng lòng mong đợi của Hội Thánh và thế giới ngày mai, nếu việc đào tạo này được thực hiện trong viễn ảnh của Giáo Hội học của Công Đồng Vatican II, của viễn ảnh Truyền Giáo, của Cộng Tác với Giáo Dân, và của Đối Thoại: đối thoại với các nền văn hoá, với các tôn giáo khác, với người nghèo, và cách riêng trong bối cảnh xã hội Việt nam hôm nay, đối thoại với những người cộng sản.

 

D. Những Yếu Tố Đặc Biệt Giúp Chủng Sinh Trở Thành Những Thừa Tác Viên Hiệu Năng

     1. Chuẩn Bị Những Ứng Viên Có Phẩm Chất

Vì việc đào tạo thiêng liêng toàn diện trong chủng viện tùy thuộc vào phẩm chất của các ứng sinh được nhận vào chủng viện và việc đào tạo linh mục là bổn phận của toàn thể Hội Thánh, Cộng đồng Giáo phận nên dành một sự cộng tác lớn hơn trong việc chuẩn bị của mình trước khi gửi họ vào chủng viện.

     2.  Nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện và nội tâm

Đời sống cầu nguyện và đời sống nội tâm làm phong phú và nuôi dưỡng đời sống và sứ vụ linh mục. Do đó, các ứng sinh không chỉ học triết học, thần học, các khoa học xã hội và nhân văn, nhưng họ cũng nên có gắng cầu nguyện và chiêm ngắm trong và qua các đòi hỏi học đường này.

     3.  Phải đáp ứng với thực tại đổi thay

Các linh mục tương lai sẽ thi hành sứ vụ trong một thế giới đang thay đổi của nền văn minh khoa học kỹ thuật, của chủ nghĩa tục hoá, của thần học giải phóng, của việc đề cao phẩm giá phụ nữ. Vì thế, việc tự đào tạo phải được nhấn mạnh và thực hành nhiều hơn; nó sẽ giúp họ được trưởng thành trong suy nghĩ, trong việc tự mình quyết định và hành động, cũng như trong mọi lãnh vực đời sống;

    4. Thăng Tiến Các Tương Quan và Hợp Tác

Các linh mục tương lai phải làm việc trong sự  hợp tác với mọi người trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội. Vì thế, họ cần được đào tạo thích hợp và phải tự mình điều chỉnh và thăng tiến các mối tương quan hài hoà, quân bình và trưởng thành với Thiên Chúa, với chính mình, với thiên nhiên và với người khác, nam cũng như nữ, giáo dân hay tu sĩ. Như một dấu chỉ của Chúa Thánh Thần, mô hình đào tạo trong môi trường hổn hợp của Học Viện Đời Sống Thánh Hiến tại Á Châu có thể là một khuôn mẫu rất tốt và thích hợp. Hãy đến mà xem. Hãy cố gắng hoàn thiện nó và áp dụng.

 

VỀ MỤC LỤC
 Xin đừng quên bữa điểm tâm

 

Người mình vẫn có thói quen “cơm ngày ba bữa” và coi cả ba bữa cơm đều quan trọng như nhau.

Tuy nhiên, với nhà nông, bữa sáng là bữa ăn chính. Sáng sớm, trước khi ra đồng làm việc, mọi người được ăn uống đầy đủ để có sức cầy bừa, canh tác tới trưa. Buổi trưa thường là ăn nhẹ, uống nước chè tươi, ăn miếng bánh chưng, vài cục kẹo lạc, nghỉ ngơi một lúc rồi làm tiếp cho tới chạng vạng tối mới về nhà. Bữa ăn tối thường là rất trễ, cho nên phong dao ta có câu:

Ngày ăn hai bữa cơm đèn

Còn đâu má phấn răng đen hỡi chàng

để nói lên sự vất vả của dân quê, làm lụng cực nhọc từ sáng tinh sương tới tối mịt, gà bắt đầu lên chuồng.

Một số dân thầy nơi thành phố thì thoải mái hơn với “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”.

Ngày nay, với sự thay đổi của nếp sống, nhiều người đã không còn theo thói quen cơm ngày ba bữa này. Một số người không ăn sáng vì sợ ăn nhiều sẽ bị mập phì hoặc không có thì giờ ăn sáng. Một số người khác không ăn vì không nắm vững được sự quan trọng của bữa ăn sáng.

Theo ý kiến chung của các nhà dinh dưỡng cũng như y khoa học, bữa ăn sáng là bữa ăn rất quan trọng và mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.

Theo các quan điểm này, điểm tâm phải được coi như một trong ba bữa ăn chính để cung cấp năng lượng cho cơ thể trong suốt ngày, đồng thời cũng cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, sinh tố, khoáng chất, phytochemical để suốt đời có sức khỏe tốt.

Sau một đêm ngủ nghỉ, bụng trống, cơ thể cần bổ sung một số năng lượng để khởi động các sinh hoạt trong ngày. Ði làm, đi học mà không ăn sáng thì chẳng khác chi dùng một cái khoan không dây mà bình điện không được tái nạp điện. Nếu không tái cung cấp năng lượng vào buổi sáng, cơ thể sẽ tận dụng kho dự trữ cho tới bữa ăn trưa. Các hormon cần để động viên năng lượng dự trữ sẽ làm ta cảm thấy mệt mỏi, khó chịu và không đủ bình tâm để làm việc.

Chúng ta đều nhớ rằng, để điều khiển các chức năng của cơ thể, não bộ cần có các hóa chất dẫn truyền thần kinh. Thực phẩm có ảnh hưởng tới sự tác động của các hóa chất này. Do đó, với bữa ăn sáng cân bằng, não bộ sẽ hoạt động hữu hiệu. Chẳng hạn chất đạm tyroxine cần thiết cho chất dẫn truyền hưng phấn dopamine, norepinephrine, chất đạm tryptophan lại làm dịu thần kinh.   

Theo nghiên cứu tại Đại Học Iwoa, dù ăn một chút nhẹ vào buổi sáng cũng khiến cho tinh thần sảng khoái, đáp ứng mau lẹ, làm việc hoặc học hành có hiệu năng hơn.

Nghiên cứu tại Đại Học California – Los Angeles kết luận ăn điểm tâm đều đặn giúp con người sống lâu hơn. Bác sĩ Raymond Pearl, thuộc Đại Học John Hopkins cho hay những người sống lâu tới 80- 90 tuổi đều nói là họ ăn no nê vào mỗi buổi sáng.

Tại Hội thảo về Dịch tễ và Phòng tránh bệnh Tim mạch do American Heart Association tổ chức ngày 6 tháng 3 năm 2003, tiến sĩ Mark A. Pereira, giáo sư tại Ðại học Y khoa Harvard, nói là “Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho rằng bữa ăn sáng là bữa ăn quan trọng nhất, vì ăn sáng dường như có vai trò lớn để giảm rủi ro cùa bệnh tiểu đường loại 2 và bệnh tim mạch”  

Theo ông, ăn sáng có thể giúp kiểm soát cảm giác đói trong ngày, nên sẽ ăn ít hơn vào bữa trưa. Ngoài ra, theo kết quả nghiên cứu, tác dụng của insulin cũng tùy thuộc vào sự đói nhiều hoặc ít và vào sự hoạt động của cơ thể. Theo báo cáo nghiên cứu của hội Tim Mạch Hoa Kỳ ngày 6 tháng 3 năm 2003, ăn sáng với các loại hạt còn vỏ (whole grain cereal) mỗi ngày giảm rủi ro đề kháng với insulin của cơ thể.

Kết quả nghiên cứu đăng trên báo cáo Obesity Research số tháng 2 năm 2002 cho thấy 78% phụ nữ ăn sáng đều đặn đều duy trì được sự giảm 15 kg trong suốt một năm.

Trong khi đó, nghiên cứu của Ðại học Massachusetts đăng trong số tháng 6 năm 2003 của American Journal of Epidemiology cho hay có sự liên hệ giữa không ăn sáng với lên cân.

Không ăn sáng có thể đưa tới bệnh tim và lên cân. Ðó là kết luận nghiên cứu được công bố trong tạp chí American Journal of Clinical Nuitrition, số tháng 2 năm 2005.

Theo các nhà nghiên cứu, phụ nữ không ăn sáng trong hai tuần lễ sẽ ăn nhiều hơn trong ngày, sẽ có lượng cholesterol LDL cao hơn và kém đáp ứng với insulin hơn là phụ nữ ăn sáng mỗi ngày. Cholesterol cao và giảm mẫn cảm với insulin là rủi ro đưa tới bệnh tim và lên cân.

Trong những năm vừa qua, nhiều người đã bỏ ăn sáng vì sợ lên cân và không có thì giờ để ăn. Và trong thời gian đó số người bị mập phì hoặc quá ký đều gia tăng.

Nhịn ăn sáng  có thể gây ra một số phản ứng bất lợi như cơ thể run rẩy, chóng mặt, kém tập trung, tính tình bất thường, mệt mỏi trong khi làm việc. Lý do là cơ thể phải đợi tới trưa mới có thực phẩm, mà vẫn cần năng lượng cho mọi sinh hoạt.

Kết quả quan sát của các nhà nghiên cứu tại Memorial University ở  St John, Newfoundland cho hay tử vong vì tai biến não, cơn suy tim rất cao từ 8 giờ sáng tới 10 giờ sáng. Lý do là vì tiểu cầu hay tụ dính với cholesterol ở thành động mạch, tạo ra máu cục, làm tắc nghẽn mạch máu. Theo các nhà nghiên cứu, ăn sáng, dù rất nhẹ, tránh được tình trạng kết tụ tiểu cầu này.

Coi vậy thì giữ thói quen “Ăn ngày ba bữa, tắm rửa ba lần” là điều cần làm.

Nhưng ăn sáng như thế nào để không đưa đến những khó khăn cho cơ thể lại cũng là điều nên cân nhắc.

Chúng ta có thói quen ăn sáng với món ăn có nhiều đạm động vật, đường tinh chế hoặc các món ăn nhiều cholesterol.

Mỗi buổi sáng là phải rủ nhau qua tiệm phở làm một tô xe lửa nạm gầu giòn nước béo hoặc gà da đùi kèm hai quả trứng non để dằn bụng. Chán phở thì hủ tíu thập cẩm với đủ thứ từ tôm, gan heo, thịt heo thái mỏng có chút mỡ trăng trắng. Ăn như vậy là mang vào cơ thể quá nhiều calories và chất béo bão hòa. Chẳng trách tỷ lệ mập phì, tai biến não, cơn suy tim ngày một gia tăng.

Thói quen kế tiếp là một đĩa thịt nguội, hai quả trứng ốp la, một miếng pa tê gan béo ngậy và ly cà phê đen đường. Coi bộ thật là hấp dẫn, thỏa mãn khẩu vị. Nhưng lại hơi nhiều chất béo bão hòa động vật. Hậu quả lại là cholesterol lên cao, động mạch tắc nghẽn, tai biến não, cơn suy tim, quá ký, các bệnh kinh niên, kể cả ung thư.

 Một thói quen nữa là cà phê với bánh cam vòng (doughnut & cooffee). Ghé qua tiệm, mua vội một ly cà phê và dăm chiếc doughnut, thật là tiện, vừa lái xe vừa ăn. Nhưng xin thưa, bánh đó là do chế biến với bột nhào đường tinh chế rán với transfatty acid. Chúng nâng cao đường huyết rất nhanh nhưng sau vài phút là đường huyết phi mã giảm, ta cảm thấy hơi mệt và bụng cũng hơi đói. Thế là lại phải kiếm chút thức ăn nào đó cho lửng bụng để còn làm việc tới bữa ăn trưa. Hơn nữa, đường không cho chất dinh dưỡng mà chỉ cho nhiều calori. Ăn hoặc uống nhiều đường cho cảm giác nhiều năng lực ngay nhưng cũng hết mau và ta cảm thấy đói, thế là lại phải đi kiếm đồ ăn.

Một nhà dinh dưỡng lão thành của Việt Nam, giáo sư Từ Giấy, đã có nhận xét “đường để vị ngọt ở miệng trong vài phút, ở dạ dày trong vài giờ và ở bụng, ở đùi trong nhiều năm”

Cho nên cũng cần ăn sáng khác đi.

Chúng ta nên đưa rau, trái cây, ngũ cốc còn một phần vỏ (whole grain) vào giữa đĩa ăn điểm tâm và đầy đạm động vật sang cạnh đĩa. Rau trái cây cũng có nhiều chất đạm thực vật dễ tiêu hóa và nhiều chất xơ. Ăn như vậy giúp ta ăn bữa cơm tối ở nhà với vợ con ngon hơn.

Khi chọn món ăn lành mạnh, chậm đốt cháy như vậy, ta có đủ năng lượng làm việc cho tới trưa và cũng kiểm soát được cảm giác đói. Do đó tránh được ăn quá nhiều trong ngày. Nghiên cứu cho hay, khi bỏ điểm tâm, ta thường  ăn bù nhiều hơn trong ngày.

 Vậy thì chẳng nên mỗi sáng mỗi phở gà nước béo, tái nạm gầu gân sách. Cuối tuần đưa người bạn đường và con cái thưởng thức một lần vừa vui vừa lành mạnh

Có nhiều người viện lý do “tôi không thấy đói vào sáng sớm thì cần gì ăn”!

Ðúng vậy, nhưng theo lý luận sinh hóa học, cơ thể cũng cần một chút năng lượng để lái xe tới sở. Không đói thì cũng nên chiêu một ly nước trái cây, một chén nho khô. Sau đó vài giờ, thấy kiến bò bụng thì làm một ly sữa tươi hoặc một quả táo nhỏ. Chẳng nên chèn ép, bóc lột sức lao động của cơ thể.

Nhiều người vì công việc bận rộn, nại cớ: “Sáng dậy bận trang điểm sửa soạn đi làm, thì giờ đâu mà làm món ăn, nói chi đến việc mất nửa giờ ngồi ăn sáng”

Cũng có người không ăn sáng vì thói quen, vì sợ lên ký hoặc vì không có thì giờ. Họ chỉ chiêu một cốc cà phê rồi đi làm

Thực ra, thì giờ là của mình. Khéo tiêu dùng, khéo sắp xếp thì vẫn có thì giờ làm các công việc cần thiết, trong đó có điểm tâm.

Ta có thể mua sẵn mấy hộp hạt ngũ cốc khô, một bình sữa ít cholesterol, dăm lọ yogurt ít béo để dành dùng dần mỗi sáng. Chỉ việc rót sữa vào cereals rồi ăn.

Hoặc tối hôm trước cắt sẵn một quả táo, một trái chuối kèm theo miếng bánh phủ bơ đậu phọng, Ðể trong hộp nhựa, sáng ra chỉ việc lấy ra ăn.

 Hoặc nấu sẵn nồi xôi, chia làm nhiều phần cất trong tủ lạnh. Sáng ra,  bỏ vào hâm nóng trong microwave, rắc thìa muối vừng, ít thịt chà bông,  rồi vừa lái vừa ăn. Vừa lành mạnh, vừa ngon, vừa tiết kiệm thời gian và tiền bạc.

Hoặc một cốc mỳ ăn liền, cho thêm vài nhánh rau cải luộc sẵn, chỉ việc châm nước sôi vào là có bát mì nóng hổi, vừa ăn vừa thổi.  Một bát cháo nóng, đập thêm quả trứng gà cũng là món điểm tâm lý tưởng. Nhưng chỉ nên trúng gà tuần vài lần thôi, kẻo cholesterol có thể lên cao.

Hoặc tối hôm trước còn dư vài miếng cá kho, thịt rim, ta làm bát cơm nguội với món ăn còn lại này hoặc cơm nguội muối vừng, vừa thơm vừa lành mạnh.

Thực ra thì có nhiều cách ăn sáng hợp lý. Quý bà chị tề gia nội trợ giỏi thiếu gì sáng kiến phục vụ chồng con.

Nói tới con thì cũng nên lo ăn sáng cho bầy trẻ chu đáo, vì ăn sáng đưa tới nhiều lợi ích cho các cháu:

-Ăn sáng giúp các cháu có thể tập trung nhiều hơn, làm bài mau hơn, nhiều sáng tạo, ít phạm lỗi và có điểm cao ở các bài trắc nghiệm.

-Ăn sáng làm các cháu cảm thấy thoải mái. Nhiều cháu than phiền hơi cồn cào dạ dày vào buổi sáng nếu không ăn. Các cơn khó chịu này đều do đói mà ra.

-Bữa sáng cung cấp cho các cháu đầy đủ năng lượng cho sinh hoạt, chơi đùa vào buổi sáng, học hành, chơi thể dục thể thao

-Ăn sáng, các cháu sẽ có nhiều triển vọng cung cấp cho cơ thể nhiều chất dinh dưỡng mà các cháu không có ở các bữa ăn khác

-Ăn sáng, các cháu sẽ có đủ số lượng chất đạm cần mỗi ngày và có nhiều sinh tố C, calcium, sắt và chất xơ

-Dù ở nhà, ở trường, bữa ăn sáng giúp các cháu sẵn sàng để học. Theo các giới chức y tế Hoa Kỳ, sau khi ăn sáng, các cháu không những học mau hơn mà còn làm việc được nhiều hơn

-Bữa ăn sáng giúp các cháu có sức nặng cơ thể hợp lý vì các cháu sẽ không ăn vặt hoặc ăn quá no vào bữa ăn trưa.

Ðể các cháu vui vẻ ăn sáng:

-Yêu cầu các cháu tiếp tay để soạn bữa ăn sáng. Làm như vậy chúng sẽ hãnh diện hơn và hăng hái ăn

-Dự trữ nhiều món ăn sáng làm sẵn, sữa, trái cây

-Có thể làm sẵn món ăn sáng từ tối hôm trước, như là cắt sẵn trái cây, luộc sẵn trứng, Buổi sáng ai cũng đi làm nên ít thì giờ soạn bữa ăn

-Dành cho các cháu một khoảng thời gian giữa ngủ dậy và ăn sáng. Khi mới thức dậy, các cháu chưa thấy đói bụng. Vội vàng khiến cho các em không muốn ăn. Vì vậy, ngủ sớm rồi kêu các em dậy sớm một chút, để có thì giờ ăn

-Dọn vài món ăn để các cháu thích thú lựa chọn, sẵn sàng ăn.           

Kết luận

“Ai bảo ăn sáng là dở. Ăn sáng tốt lắm chứ !!!’’ 

Vâng, ăn sáng rất có ích cho cơ thể, chẳng nên bỏ qua.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức   Texas-Hoa Kỳ

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Được chọn giữa loài người và cho loài người; GÍAO SĨ: Xuất phát từ gíao dân, hiện diện vì gíao dân và cậy dựa vào gíao dân, để cùng làm VINH DANH THIÊN CHÚA

*************