Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong
Thế Giới Ngày Nay - Gaudium Et
Spes |
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Khóa IX
Ngày 7 tháng 12 Năm 1965
Phaolô
Giám Mục
Tôi Tớ
Các Tôi Tớ Thiên Chúa
Hiệp
Nhất Với Các Nghị Phụ Của Thánh Công Ðồng
Ðể Muôn
Ðời Ghi Nhớ
Hiến Chế Mục Vụ
1
Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Lời Mở Ðầu
1. Liên quan mật thiết giữa Giáo
Hội và toàn thể gia đình các dân tộc.
Vui mừng và
hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là
của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy
vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không
có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng
trong lòng họ. Thực vậy, cộng đoàn của họ được cấu tạo bằng
những con người đã được qui tụ trong Chúa Kitô, được Chúa
Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc lữ hành về Nước Cha và đã
đón nhận tin mừng cứu rỗi đem tới cho mọi người. Vì thế,
cộng đoàn ấy mới nhận thấy mình thực sự liên hệ mật thiết
với loài người và lịch sử nhân loại
1*.
2. Công Ðồng muốn ngỏ lời với ai.
Vậy, sau khi đã tìm hiểu tường tận hơn về mầu nhiệm Giáo Hội
2*, Công Ðồng Vaticanô II không còn chỉ ngỏ lời
riêng với những người con của Giáo Hội và tất cả những ai
kêu danh Chúa Kitô, nhưng không ngần ngại nói với tất cả mọi
người. Công Ðồng ước ao trình bày cho mọi người biết mình
quan niệm thế nào về sự hiện diện và hành động của Giáo Hội
trong thế giới ngày nay.
Vậy thế
giới trình bày ở đây là thế giới của con người, tức là toàn
thể gia đình nhân loại với mọi sự thuộc môi trường sinh sống
của gia đình này. Thế giới ấy là sân khấu của lịch sử nhân
loại và là thế giới mang dấu tích những cố gắng, thất bại và
thắng lợi của nhân loại; thế giới ấy, người Kitô hữu tin là
đã được tình yêu của Ðấng Tạo Hóa tác thành và bảo trì; thế
giới ấy đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi, nhưng, nhờ Chúa Kitô
chịu đóng đinh và sống lại mà bẻ gãy uy quyền Thần Dữ, đã
được giải thoát để thay hình đổi dạng theo dự định của Thiên
Chúa mà tiến tới sự viên mãn
3*.
Phục vụ con
người. Ngày nay, tuy đã cảm phục trước những khám phá và
quyền lực của mình, nhân loại vẫn thấy lo lắng thắc mắc về
sự tiến hóa hiện nay của thế giới, về chỗ đứng và phận vụ
con người trong vũ trụ, về ý nghĩa của những cố gắng cá nhân
cũng như tập thể, và sau hết về cùng đích của con người và
muôn loài. Vì thế, khi minh chứng và trình bày Ðức Tin của
toàn thể dân Chúa đã được Chúa Kitô đoàn tụ, để diễn tả thật
hùng hồn mối tình liên đới, sự tôn trọng và quí mến của dân
Chúa đối với gia đình nhân loại mà mình là một thành phần,
Công Ðồng thấy hay hơn hết là phải thiết lập cuộc đối thoại
về những vấn đề ấy, phải lấy ánh sáng Phúc Âm mà soi dẫn, và
phải cho nhân loại những năng lực cứu rỗi mà chính Giáo Hội
đã nhận được nơi Ðấng Sáng Lập, nhờ Chúa Thánh Thần hướng
dẫn. Thực vậy, việc phải làm là cứu rỗi nhân vị con người và
xây dựng xã hội loài người. Do đó, con người - dĩ nhiên là
con người duy nhất và toàn diện với thể xác và linh hồn,
tình cảm và lương tri, trí khôn và ý chí - sẽ là then chốt
tất cả phần trình bày của chúng tôi.
Vậy, khi
công bố thiên chức cao cả của con người và xác nhận con
người mang trong mình một mầm mống thần linh, Thánh Công
Ðồng muốn đề nghị với nhân loại sự cộng tác thành thực của
Giáo Hội hầu thiết lập một tình huynh đệ đại đồng phù hợp
với thiên chức ấy. Không bị một tham vọng trần thế nào thúc
đẩy, Giáo Hội chỉ nhắm một điều là dưới sự hướng dẫn của
Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tiếp tục công cuộc của chính Chúa
Kitô, Ðấng đã đến thế gian để làm chứng cho chân lý
2, để cứu rỗi chứ không luận phạt, để phục vụ chứ
không để được phục vụ
3.
Chú
Thích:
1 Hiến chế Mục Vụ về
"Giáo Hội trong thế giới ngày nay" tuy có hai phần rõ rệt
nhưng làm thành một khối duy nhất.
Hiến Chế
mệnh danh là "Mục Vụ" vì, dựa trên những nguyên tắc giáo lý,
Hiến Chế nhằm trình bày thái độ của Giáo Hội với thế giới và
con người ngày nay. Do đó, không phải là thiếu chủ đích mục
vụ trong phần I, cũng như không thiếu chủ đích giáo lý trong
phần II.
Trong phần
I, Giáo Hội trình bày giáo lý của mình về con người, về thế
giới con người đang sống và về thái độ của Giáo Hội đối với
con người và thế giới. Trong phần II, Giáo Hội khảo sát
tường tận hơn những khía cạnh khác nhau trong cuộc sống hiện
nay và trong xã hội nhân loại, nhất là những thắc mắc, những
vấn đề xét ra có vẻ khẩn thiết hơn trong thời đại chúng ta.
Do đó, trong phần sau này, dựa trên những nguyên tắc giáo
lý, nội dung không những bao hàm những yếu tố vĩnh cửu mà
còn cả những yếu tố nhất thời nữa.
Vậy, phải
giải thích Hiến Chế theo những nguyên tắc tổng quát của khoa
chú giải thần học và đặc biệt phải lưu ý tới những hoàn cảnh
thay đổi là những hoàn cảnh tự bản chất gắn liền với những
vấn đề được bàn tới, nhất là trong phần thứ hai này.
1* Kitô hữu là người
"bị lưu đày xa Chúa" (2 Cor 5,6) và người "không có thành
trì kiên cố" ở đất này (Dth 13,14), nhưng vẫn còn thuộc về
gia đình nhân loại. Mọi vấn đề của nhân loại phải làm rung
động tâm hồn Kitô hữu. Chính Giáo Hội được thiết lập để đến
cùng con người chứ không phải để chỉ sống cho mình mà thôi,
Giáo Hội phải đối thoại với con người, đưa cho con người ánh
sáng đức tin đã được trao phó cho Giáo Hội. Như thế Giáo Hội
góp phần vào công việc chung nhằm cứu độ con người và cải
thiện xã hội. Sứ mệnh của Giáo Hội không nhằm những tham
vọng thế tục (số 3). Hiến Chế khai triển những tư tưởng này
trong chương IV.
2* Trong Hiến Chế tín
lý về Giáo Hội.
3* Theo thần học ta có
thể quan niệm "thế giới" 1) là vũ trụ đã được Thiên Chúa tạo
nên (x. Stk 1,1; Gio 1,3; Col 1,15-20); 2) Thiên Chúa đã
trao phó hoàn vũ cho con người (x. Mt26,13; Gio 17,18); 3)
nhân loại sa ngã chán ghét và chống đối Thiên Chúa (x. Gio
1,10; 7,7; 15,18t; 17,9; 1Gio 2,15); 4) Thiên Chúa yêu mến
nhân loại đã được cứu chuộc (x. Gio 1,29; 3,13; 4,42; 2Cor
5,19). (ÐGM. Charue, phó chủ tịch Ủy Ban về tín lý, ngỏ lời
trong thánh đường thánh Phêrô, ngày 24.9.1965: xem
Documentation Catholique 62 (1965), 1863).
Hiến Chế
Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay hiểu thế giới
theo nghĩa nhân chủng học (gia đình nhân loại), vũ trụ luận
(tất cả thực tại chung quanh), lịch sử học (nơi diễn tiến
của lịch sử), và thần học (được Thiên Chúa tạo nên vì tình
yêu, v.v...).
2 Xem Gio 18,37.
3
Xem Gio 3,17; Mt 20,28; Mc 10,45.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC
VỚI VIỆC THÁNH HÓA GIA ĐÌNH |
Khi bàn về cuộc sống tu trì, người Việt
Nam thường cho rằng : Không phải cứ xuống tóc, quy y nơi cửa
Phật mới là tu, bởi vì ngoài ra còn có những cách sống khác,
thể hiện đạo làm người, cũng được gọi là tu. Vì thế, chữ tu
kia cũng có đôi ba đường :
- Thứ nhất thì tu tại gia, thứ hai tu
chợ, thứ ba tu chùa.
Hay như :
- Tu đâu cho bằng tu
nhà,
Thờ cha kính mẹ, mới
là chân tu.
ƠN
GỌI NÊN THÁNH
Chúng ta cũng có thể
quan niệm như vậy về việc nên thánh. Thực vậy, trước đây
người ta cho rằng nên thánh là một ơn gọi được dành riêng
cho những người sống trong bậc tu trì. Sở dĩ như vậy vì
người ta nghĩ rằng : thế gian thì ô trọc và xấu xa, nên sống
trong thế gian, không nhiều thì ít, cũng sẽ bị hoen ố bùn
nhơ tội lỗi. Bởi đó, muốn nên thánh, phải sống tách biệt
khỏi thế gian trong những nhà dòng kín cổng cao tường, hay
nơi rừng sâu núi thẳm…
Thế nhưng, kể từ sau
Công Đồng Vaticanô II, việc nên thánh đã trở nên một ơn gọi
chung cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Bởi vì bất
cứ người tín hữu nào cũng có bổn phận phải nên thánh, khi
thực thi lời kêu mời của Chúa Giêsu :
- Các con hãy trở nên
trọn lành như Cha các con ở trên trời. (Mt 5,48).
Trở nên trọn lành tức
là trở nên thánh. Điều đó cũng có nghĩa là thể hiện ơn gọi
làm người. Tất cả mọi người đều được kêu gọi. Không ai có
thể nói mình được Thiên Chúa chọn hoặc bị Thiên Chúa đặt vào
trong một điều kiện kém may mắn hơn hay nhiều ưu đãi hơn.
Không ai sinh ra dưới một ngôi sao xấu hay tốt hơn người
khác. Và cũng không có địa vị hay bậc sống nào cao trọng hơn
địa vị hay bậc sống khác. Trong bài huấn đức nhân một buổi
tiếp kiến chung năm 1982, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã
khẳng định như sau:
“Những lời dạy của Chúa
Giê-su không đưa ra bất cứ một luận cứ nào về sự thấp hèn
của bậc hôn nhân hay về sự trổi vượt của bậc đồng trinh hay
độc thân”.
Đúng thế, Công Đồng đã
nhắc đi nhắc lại điều ấy rất nhiều lần. Trong hiến chế Lumen
Gentium, bàn về Giáo hội, Công đồng viết :
- “Tất cả mọi người
trong Giáo hội – hoặc thuộc hàng giáo phẩm, hoặc được hàng
giáo phẩm dìu dắt – đều được kêu gọi nên thánh, như lời
thánh Tông đồ dạy : Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh
hóa.” (LG 39).
- “Vì thế, mọi người
đều thấy rõ ràng tất cả các Kitô hữu, bất cứ theo bậc sống
hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của
đời sống Kitô giáo và đến sự trọn lành của Đức Ái.” (LG 40).
- “Mọi Kitô hữu đều
được kêu mời và có bổn phận phải nên thánh và nên trọn lành
theo bậc sống của mình.” (LG 42).
Như vậy chúng ta thấy
mọi người tín hữu đều phải nên thánh, nhưng để thực thi lý
tưởng ấy, chúng ta có những cách thức khác nhau. Ơn gọi nên
thánh chỉ là một, nhưng con đường nên thánh thì lại có
nhiều.
Chẳng hạn : trong Giáo
hội có rất nhiều dòng tu, nhất là các dòng nữ, và chúng ta
có thể nói : có bao nhiêu dòng tu thì cũng có bấy nhiêu nền
tu đức, hay bấy nhiêu con đường nên thánh. Cũng như trong
một khu vườn có nhiều bông hoa và mỗi bông hoa đều phô diễn
một vẻ đẹp nào đó của Đấng Tạo hóa.
Công đồng viết :
- “Vì thế, tuy trong
Giáo hội, tất cả không cùng đi một đường, nhưng tất cả vẫn
cùng được mời gọi nên thánh và đồng thừa hưởng đức tin trong
sự công chính của Thiên Chúa.” (LG 32).
Con đường nên thánh của
các linh mục và tu sĩ khác với con đường nên thánh của người
giáo dân, bởi vì người giáo dân sống giữa đời, nên “tính
cách trần thế là tính cách riêng biệt và đặc thù của người
giáo dân”. (LG 31).
- “Vì ơn gọi riêng,
giáo dân có bổn phận tìm kiếm nước Thiên Chúa bằng cách làm
các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ
sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công
việc và bổn phận trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày
trong gia đình và ngoài xã hội : tất cả những điều đó như
dệt thành cuộc sống của họ.” (LG 32).
- “Trong và nhờ cảnh
huống, bổn phận và hoàn cảnh sống của gia đình, tất cả mọi
Ki-tô hữu ngày càng được thánh thiện hơn nếu họ biết tin
tưởng lãnh nhận mọi sự từ tay Cha trên trời, và biết cộng
tác với ý Thiên Chúa bằng cách tỏ lộ cho mọi người biết tình
yêu của Thiên Chúa đối với thế giới trong chính việc họ phục
vụ trần thế”. (LG 41).
Và như vậy, chắc chắn
cũng phải có một con đường nên thánh dành cho những người
đang sống đời sống gia đình, những người đang thực hiện
thiên chức làm vợ làm chồng, cũng như làm cha làm mẹ.
Đức Thánh Cha
Gioan-Phaolô II đã khẳng định như sau:
- “Ơn gọi nên thánh
chung của mọi người cũng nhắm đôi bạn và cha mẹ Kitô hữu :
đối với họ, ơn gọi ngày được nêu rõ bởi sự cử hành bí tích
Hôn phối và được phô diễn cách cụ thể trong thực tế riêng
của cuộc sống hôn nhân và gia đình.” (CF 56).
2-
THÁNH HÓA GIA ĐÌNH
Trong một quyển Phúc Âm Ngụy Thư, tức
là sách không được Giáo Hội nhìn nhận là do linh ứng, kể lại
rằng ngày kia có người đến hỏi Chúa Giêsu :
- Khi nào Nước Thiên Chúa đến.
Ngài trả lời :
- Khi nào hai người nên một.
Quả thực, sự nên một
của hai người nam nữ tức là tình yêu vợ chồng là dấu chỉ của
Nước Chúa. Khi hai vợ chồng yêu thương nhau bằng một tình
yêu quảng đại, hy sinh và chung thủy, khi họ cố gắng xây
dựng và vun trồng tình yêu lứa đôi, thì chính là lúc họ làm
chứng cho tình yêu của chúa và tham dự vào sự thánh thiện
của Ngài
Dĩ nhiên đây chỉ là một câu chuyện
tưởng tượng, nhưng cũng đã giúp cho chúng ta nhìn thấy được
nét căn bản của đời sống hôn nhân, đó là tình yêu thương.
Hội nghị Liên Hội Đồng
Giám Mục Á Châu đã đề cao vai trò, đặc tính và chức năng của
gia đình như sau:
- “Gia đình mang lấy
chính mầu nhiệm Tình Yêu Ba Ngôi giữa
lòng thế giới. Có thể gọi gia đình là “Bí Tích” của Tình Yêu
Thiên Chúa và là Hội Thánh tại gia. Gia đình là trường học
và cung thánh của tình yêu, nơi đó con người có được kinh
nghiệm đầu tiên về tình yêu và học được nghệ thuật yêu
thương, nghệ thuật cầu nguyện”.
Thánh Gioan đã định nghĩa : Thiên Chúa
là tình yêu. Cũng vì tình yêu ấy, Ngài đã dựng nên con người
và muốn con người được sống trong tình yêu. Do đó, Thiên
Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ, để họ yêu thương và
giúp đỡ lẫn nhau, đồng thời sinh sản con cái, để kéo dài sự
hiện diện của con người trên mặt đất này. Tình yêu gia đình
chính là một phản ảnh cho tình yêu Thiên Chúa đối với con
người. Và hơn thế nữa, mối liên kết vợ chồng là một hình ảnh
tượng trưng cho sự liên kết giữa Đức Kitô và Giáo hội.
Thực vậy, tình yêu vợ chồng là dấu
chứng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Với lời thề
hứa trong Bí Tích Hôn Phối, hai người phối ngẫu cam kết sẽ
sống yêu thương nhau, chung thủy với nhau đến độ trở thành
một dấu chứng, một bằng cớ của tình yêu Thiên Chúa đối với
loài người. Yêu nhau, thủy chung với nhau, xây dựng tình yêu
lứa đôi chính là bổn phận tiên quyết của tình yêu vợ chồng.
Tình yêu ấy dẫn đến tình yêu và sự
dưỡng dục con cái. Tình yêu ấy cũng thúc đẩy hai người hăng
say hoạt động bên ngoài gia đình. Không có tình yêu ấy thì
tất cả những hoạt động bên ngoài gia đình chỉ là những lẩn
tránh thiếu trách nhiệm.
Đức Thánh Cha cũng xác quyết :
- “Theo ý định của Thiên Chúa, gia đình
kết thành “công đoàn thân mật của sự sống và tình yêu”, nên
gia đình có sứ mạng mỗi lúc một trở nên cái nói là, nghĩa là
một cộng đoàn của sự sống và tình yêu đang vươn lên và sẽ
hoàn tất trong Nước Thiên Chúa, như một thực tại được sáng
tạo và cứu chuộc.” (FC 17).
Vì thế, con đường nên thánh của những
người sống bậc vợ chồng cũng phải được đặt nền tảng trên
tình yêu thương ấy : Yêu thương đối với nhau và yêu thương
đối với con cái. Công đồng viết như sau :
- “Các bậc vợ chồng và cha mẹ Kitô
giáo, khi theo đuổi lối sống riêng của mình, nhờ ơn Chúa, họ
phải suốt đời nâng đỡ và trung thành yêu thương nhau; đối
với con cái mà trong yêu thương họ đã nhận từ Thiên Chúa, họ
phải làm cho chúng hấp thụ những học thuyết Kitô giáo và
những nhân đức của Phúc âm.” (LG 41).
Đức Thánh Cha cũng đã
nói đến việc xây dựng cộng đồng tình yêu trong gia đình như
sau:
- “Tất cả mọi phần tử
của gia đình, mọi người tùy theo năng khiếu riêng của mình
đều nhận lãnh ân sủng và trách nhiệm để ngày qua ngày xây
dựng sự thông hiệp giữa nhau. Nhờ thế họ biến gia đình thành
một trường dạy về nhân bản đầy đủ và phong phú nhất. Điều đó
được thể hiện bằng sự săn sóc hay tình thương yêu đối với
những người bé mọn, những người bệnh tật và người già cả,
bằng việc phục vụ nhau mỗi ngày, bằng sự chia sẻ cho nhau
của cải, niềm vui cũng như nỗi buồn. Một sự thông hiệp như
thế chỉ có thể duy trì và thêm hoàn hảo nhờ tinh thần hy
sinh mà thôi”. (FC 21).
Thực vậy, để có sự
thông hiệp giữa các phần tử trong gia đình, cần phải có sự
khiêm nhường và quảng đại để sẵn sàng cảm thông, tha thứ và
hòa giải với nhau.
Các tu sĩ thường nói :
- Việc đền tội nặng nề
nhất đối với tôi là đời sống chung.
Thiết tưởng châm ngôn
này cần phải được áp dụng cho đời sống gia đình. Việc đền
tội nặng nề nhất chính là đời sống chung trong gia đình.
Không cần phải có một đặc sủng phi thường, không cần phải có
một cuộc sống khắc khổ như các vị ẩn tu trong sa mạc, cũng
không cần phải là một tu sĩ mới có thể sống những nhân đức
anh hùng. Đời sống hôn nhân và gia đình cũng có đủ những yếu
tố để con người luyện tập những nhân đức anh hùng ấy.
Hơn thế nữa, như chúng ta đã biết, hôn
nhân Kitô giáo có hai mục đích, đó là sinh sản con cái và
giúp đỡ lẫn nhau. Từ hai mục đích này, chúng ta thấy được
hai trách nhiệm chính của cuộc sống lứa đôi, đó là trách
nhiệm của cha mẹ và trách nhiệm của vợ chồng. Cha mẹ có bổn
phận phải sinh sản, nuôi dưỡng và nhất là phải giáo dục con
cái. Vợ chồng có bổn phận phải yêu thương, hòa thuận, trung
thành và giúp đỡ lẫn nhau. Muốn được như vậy, cần phải chấp
nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau. Khi chu toàn những
bổn phận của mình trong đời sống gia đình là chúng ta đang
tiến bước trên con đường thánh thiện.
Đức Thánh Cha cũng xác định về những
trách nhiệm của gia đình như sau :
- “Gia đình nhận lãnh trách nhiệm bảo
toàn, nâng cao và thông truyền tình yêu là một phản ảnh sống
động và thông dự thực sự vào tình yêu của Thiên Chúa đối với
nhân loại”. (CF 17).
Một cách cụ thể gia đình đảm nhận bốn
trách vụ như sau :
- “ Trong cái nhìn ấy, khởi sự từ tình
yêu và không ngừng qui chiếu về đó, THĐGM kỳ này đã đưa ra
ánh sáng bốn bổn phận chính của gia đình :
1- Đào tạo một cộng đồng các ngôi vị.
2- Phục vụ sự sống.
3- Tham dự vào việc
phát triển xã hội.
4- Tham dự vào đời sống
và sứ mệnh của Giáo Hội.” (CF 17).
Tuy nhiên, căn bản và quan trọng nhất
trong bốn trách vụ trên chính là xây dựng một cộng đồng các
ngôi vị, tức là một cộng đồng tình yêu. Tông Hiến giải thích
như sau :
- “Gia đình được thiết lập do tình yêu
và được sinh động cũng do tình yêu là một cộng đồng các ngôi
vị : đôi bạn là nam và nữ, cha mẹ và con cái, họ hàng.” (CF
18).
Chu toàn được những bổn
phận và trách nhiệm trên không phải là điều dễ, bởi vì nó
đòi hỏi phải hy sinh, phải cố gắng nhiều lắm. Cũng trong
chiều hướng ấy, Công đồng cũng đã khích lệ :
- “Để có thể kiên trì
chu toàn nghĩa vụ ơn gọi làm người Kitô hữu như thế, tức là
sống đời vợ chồng, cần phải có một nhân đức phi thường.
Chính vì thế mà vợ chồng được ơn Chúa củng cố để sống thánh
thiện sẽ ân cần nuôi dưỡng và cầu xin cho được một tình yêu
kiên vững, một tâm hồn đại lượng và tinh thần hy sinh”. (GS
49).
Các tu sĩ được phong
thánh không phải vì những hành động phi thường của họ, mà vì
đức ái họ thực thi trong đời sống chung hoặc cho người khác.
Tương tự như thế, các đôi vợ chồng cũng đạt được sự trọn
lành trong bậc sống của họ nhờ những cố gắng thực thi tình
yêu thương đối với nhau và đối với mọi người trong gia đình.
Cũng vì thế, trong những thập niên gần đây Giáo Hội đã tôn
phong chân phước hoặc hiển thánh cho rất nhiều người sống
bậc vợ chồng. Bởi vì gia đình là một con đường dẫn chúng ta
và những người chung quanh đến cùng Chúa, đồng thời cũng là
một con đường giúp chúng ta thực hiện ơn gọi nên thánh trong
lòng cuộc đời.
3-
LINH MỤC VÀ VIỆC THÁNH HÓA GIA ĐÌNH.
Như trên chúng ta đã
xác quyết : nên thánh là một ơn gọi chung cho mọi người tín
hữu, ở mọi nơi và trong mọi lúc, nhưng con đường nên thánh
thì lại có nhiều. Vì thế, con đường nên thánh trong bậc vợ
chồng là một con đường dành riêng cho những người đang sống
cuộc sống lứa đôi. Tuy nhiên, con đường nên thánh không phải
là con đường cô tịch, nhưng là con đường rộng mở, để mọi
người cùng nắm tay nhau và tiến bước, bởi vì không ai nên
thánh hay lên thiên đàng một mình và cũng chẳng ai xuống hỏa
ngục một mình.
Dĩ nhiên, nên thánh
trước hết phải là những cố gắng của bản thân. Thực vậy, để
trở thành những bậc cha mẹ tốt, trước tiên phải là những đôi
vợ chồng tốt. Để trở thành những đôi vợ chồng tốt thì mỗi
người phối ngẫu cần phải là một tín hữu tốt. Hai người tín
hữu không sống Đức Tin sẽ không thể hợp thành một đôi vợ
chồng tốt.
Không hẳn đã là vợ
chồng thì đương nhiên trở nên “một xương một thịt”. Không
hẳn đã làm phép cưới trong nhà thờ thì đương nhiên trở thành
Bí Tích của Tình Yêu Thiên Chúa. Nếu mỗi người phối ngẫu
không quan tâm đến sự trưởng thành trong nhân cách và đức
tin của mình thì mãi mãi cuộc sống lứa đôi có thể chỉ là
một cuộc sống chung mà chưa phải là “một xương một thịt” và
một bí tích đích thực của Tình Yêu Thiên Chúa. Vì thế, mỗi
người phải quan tâm đến sự trưởng thành của mình. Đó là điều
kiện tiên quyết để sống cuộc sống lứa đôi.
Tiếp đến, chúng ta còn
phải giúp đỡ lẫn nhau trong ơn gọi nên thánh. Sự giúp đỡ này
là một bổn phận của người Kitô hữu. Bổn phận này càng bó
buộc hơn nữa đối với những người sống bậc vợ chồng. Yêu
nhau, tận hiến cho nhau chính là muốn mang lại điều tốt đẹp
nhất cho nhau. Và điều tốt đẹp nhất cho một Kitô hữu không
gì khác hơn là được lớn lên trong sự thánh thiện.
Nên Thánh là một đáp
trả của từng cá nhân đối với tiếng gọi của Chúa. Thế nhưng,
chỉ qua cửa ngõ Phép Rửa mà con người lắng nghe được tiếng
gọi ấy. Vì thế, chỉ trong Giáo Hội chúng ta mới đón nhận
được ơn gọi nên thánh và chỉ nhờ Giáo hội chúng ta mới thực
hiện được ơn gọi ấy mà thôi.
Chúng ta cần có sự
hướng dẫn của Giáo Hội. Và Giáo hội có bổn phận phải trợ
giúp chúng ta. Sự trợ giúp đến từ Giáo hội chính là lời cầu
nguyện, bởi vì nên thánh không phải chỉ là những cố gắng
của bản thân, mà trước tiên chính là một tham dự vào sự
thánh thiện của Thiên Chúa. Để trở nên thánh, chúng ta cần
phải được Thiên Chúa nâng đỡ bằng ơn sủng của Ngài, vì :
- Không có Thày, các
con không thể làm gì được. (Gio 15,5).
Ơn sủng ấy Chúa ban
xuống cho chúng ta nhờ vào lời cầu nguyện của Giáo hội.
Ngoài ra, Giáo hội còn trao ban cho chúng ta những phương
tiện để nên thánh. Trong phạm vi này, linh mục phải nắm vai
trò chính yếu, cung cấp những phương tiện, giúp thánh hóa
gia đình.
Công đồng đã xác quyết
như sau :
- “Các linh mục có bổn
phận phải nâng đỡ gơn gọi của vợ chồng trong đời sống hôn
nhân và gia đình bằng những phương tiện mục vụ khác nhau,
như rao giảng lời Chúa, lễ nghi phụng vụ hay những trợ lực
thiêng liêng khác.” (GS 52).
Từ đó, chúng ta ghi
nhận được những phương tiện linh mục phải sẵn sàng trao ban
hầu giúp đỡ các gia đình trong phạm vi thánh hóa :
* Rao giảng lời Chúa
để các gia đình tìm thấy được những tiêu
chuẩn hướng dẫn cho cuộc sống của mình.
* Trao ban các bí
tích, đặc biệt là :
- Bí tích Hôn
phối : “Các đôi vợ chồng Ki-tô hữu được củng cố
và như thế được thánh hiến bằng một Bí Tích riêng để lãnh
nhận các bổn phận và phẩm giá của bậc sống họ. Nhờ sức mạnh
của Bí Tích này họ được thấm nhuần tinh thần Chúa Ki-tô, để
chu toàn bổn phận hôn nhân và gia đình của họ. Do đó tất cả
đời sống của họ được thấm nhuần đức Tin Cậy Mến và càng ngày
họ càng tiến gần đến sự trọn lành riêng biệt của họ cũng như
thánh hoá lẫn nhau và nhờ đó tôn vinh Thiên Chúa”. (GS 48).
- Bí tích Thánh
thể : “Bổn phận nên thánh dành cho gia đình
Kitô hữu bắt nguồn sâu xa từ bí tích Rửa tội và được diễn tả
cách trọn vẹn nhất trong bí tích Thánh thể là bí tích mà hôn
nhân Kitô giáo gắn liền một cách mật thiết…Bí tích Thánh thể
chính là nguồn mạch của hôn nhân Kitô giáo. Quả thế, hy lễ
Thánh thể diễn lại giao ước tình yêu giữa Đức Kitô và Hội
Thánh vì giao ước ấy được ký kết bằng máu của Người trên
thập giá.” (CF 57).
- Bí tích Hòa
giải : “Sự hối hận và tha thứ thường xuyên cho
nhau trong gia đình Kitô hữu đưa đến khoảng khắc đặc biệt
nơi bí tích thống hối Kitô giáo. Khi nói về các đôi bạn, Đức
Phaolô VI đã viết trong thông điệp sự sống Con người : nếu
tội lỗi vẫn còn đè nặng trên họ, ước gì họ đừng nản lòng,
nhưng với một sự bền đỗ khiêm tốn ước gì họ hãy chạy đến với
lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn luôn luôn tuôn đổ dồi dào
trong bí tích thống hối.” (CF 58)
* Giúp các gia đình
biết cách cầu nguyện, bởi vì :
- “Kinh nguyện gia đình
có những đặc tính riêng. Đó là kinh nguyện chung : vợ chồng
cùng cầu nguyện với nhau, cha mẹ và con cái cùng cầu nguyện
với nhau. Sự hiệp thông trong kinh nguyện vừa là hoa quả vừa
là đòi hỏi của sự hiệp thông mà các bí tích Rửa tội và Hôn
phối đem lại.” (CF 59).
* Giúp các bậc cha
mẹ biết cách giáo dục con cái. Trong
tuyên ngôn “Gravissimum Educationis” về giáo dục Kitô giáo,
Công đồng viết :
- “Ngay từ nhỏ, con cái
phải được để nhận biết và kính thờ Thiên Chúa cùng yêu mến
tha nhân, theo như đức tin chúng đã lãnh nhận khi chịu phép
Rửa tội.” (GE 3).
* Cử hành phụng vụ :
- “Do đó, cần phải làm
sao để tất cả mọi thành phần trong gia đình Kitô hữu đều dần
dần tham dự vào bí tích Thánh thể, nhất là ngày Chúa nhật và
các ngày lễ trọng, cũng như tham dự vào các bí tích, cách
riêng là bí tích khai tâm Kitô giáo cho trẻ em.” (CF 61).
KẾT
LUẬN
Nhờ việc nên thánh của
mình, vợ chồng Kitô hữu sẽ làm chứng cho vẻ cao quí của sự
bất khả phân ly trong hôn nhân giữa cơn khủng hoảng gia đình
hiện nay (CF 20). Đồng thời qua lời nói và đời sống của
mình, họ làm chứng cho đức tin giữa thời buổi tôn giáo đang
mất dần chỗ đứng trong xã hội (CF 73).
Như vậy, gia đình Kitô
hữu được mời gọi tự thánh hóa mình và nhờ đó sẽ thánh hóa
Giáo hội và xã hội (CF 55). Hay nói cách khác, muốn đổi mới
xã hội và Giáo hội, thì trước hết phải đổi mới từ gia đình.
Xin mượn lời của Đức
Thánh Cha Piô XII sau đây như một kết luận :
- “Tôi sẽ phong thánh tức khắc cho
người đàn bà nào mà ông chồng
không bao giờ trách móc và ngược lại, tôi sẽ phong thánh tức
khắc cho người đàn ông nào mà bà vợ không bao giờ cằn nhằn.”
GSVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
GIÁO HỘI CẦN LOẠI
LINH MỤC NÀO ? |
BERNARD HARING, C.SS.R.
Lm Giuse Lê Công Đức
chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD IMPERILED,
A Critical Examination Of The Ministry
In The Catholic
Church
lời tựa
Cả đời linh mục của mình, tôi đã suy
tư, giảng dạy và viết về câu hỏi: Giáo Hội cần đến loại luân
lý và loại thần học luân lý nào? Quan điểm của tôi về vấn đề
luân lý đã luôn luôn nhận ảnh hưởng từ – và luôn luôn được
hiểu trong – bối cảnh rộng lớn hơn của một câu hỏi căn bản
khác: Thế giới của chúng ta hiện tại và tương lai cần đến
loại Giáo Hội nào? Gắn không rời hai câu hỏi nền tảng ấy là
một câu hỏi thứ ba: Giáo Hội và thế giới của chúng ta cần
đến loại sứ vụ nào?
Bởi vì tôi đã làm linh mục một cách vui
vẻ và tận tình trong 56 năm qua và bởi vì trong phần lớn
thời gian ấy, tôi đã đảm nhận công việc giảng dạy cho các
linh mục và các chủng sinh, nên tôi được thúc đẩy – như một
bổn phận – phải suy tư về loại linh mục mà tôi tin rằng Đức
Giêsu đã mường tượng cho Giáo Hội trong sứ mạng thể hiện và
loan báo sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới chúng
ta.
Trong thực tế và một cách cốt yếu, tôi
đã phải đương đầu và trải qua những thay đổi rất quan trọng
trong việc đào tạo linh mục qua ngần ấy tháng năm – đồng
thời tôi cũng đã giúp bao người khác đương đầu và trải qua
như vậy. Trong tiến trình đó, tôi không thể không suy nghĩ
lại hình ảnh của chức linh mục cho thời đại chúng ta. Vì
thế, khi tuổi đời mình đã xế chiều, có lẽ là thích hợp việc
tôi cố gắng – qua tập sách nhỏ này – đưa ra lời chứng và
chia sẻ kinh nghiệm của mình cho các anh em linh mục hôm nay
và tương lai, cũng như cho tất cả các Kitôhữu là những người
thi hành sứ vụ của mình trong Giáo Hội và trong thế giới.
Hơn nữa, tôi vuốt ve hy vọng rằng các
Kitôhữu trưởng thành dấn thân trong sứ mạng và trong các sứ
vụ của Giáo Hội - và tất cả những ai quan tâm sâu sắc đến
chức linh mục - cũng sẽ đọc tập sách này. Tôi nói lên điều
đó vì hai lý do. Thứ nhất, tập sách này sẽ tập chú vào ơn
gọi linh mục chủ yếu từ nhãn quan ơn gọi căn bản của mọi
Kitôhữu đã lãnh nhận Phép Rửa. Thứ hai, người linh mục không
thể thực sự nhận hiểu ơn gọi chuyên biệt của mình nếu không
có một nhận thức đúng mức và một lòng kính trọng sâu sắc đối
với ơn gọi vừa cao cả vừa đầy thách đố của mọi Kitôhữu; cũng
vậy, một điều rõ ràng không kém là tất cả các Kitôhữu dấn
thân đích thực cần phải nhận hiểu sâu hơn, toàn triệt hơn về
ý nghĩa của sứ vụ – để họ có thể sống triệt để và trân trọng
đúng mức ơn gọi vừa phổ quát vừa độc đáo của họ.
Thần học luân lý thiết yếu phải suy tư
về tất cả các nguồn thần học chính yếu, thì cũng vậy, quả là
thiết thực việc chúng ta suy tư về chức linh mục Kitô giáo
với cùng một cách thế tương tự. Tất nhiên, công việc suy tư
này sẽ tùy thuộc vào một nhãn quan về nhân loại học, về
những hình ảnh của Thiên Chúa và con người tương hợp cho
thời đại chúng ta, về bản chất và sứ mạng của Giáo Hội...
Đành rằng các suy tư thần học và cuộc hành trình không ngừng
kiếm tìm sự thật của tôi có hàm chứa các kinh nghiệm bản
thân mà tôi đã sống trong các bối cảnh khác nhau qua ngần ấy
tháng năm, thì kỳ thực chúng vẫn được khơi lên bởi - và được
cắm rễ trong - điều mà tôi cho là một khởi điểm tất yếu, đó
là nhãn quan của Đức Giêsu như chúng ta khám phá thấy trong
Thánh Kinh và trong truyền thống sống động của chúng ta, một
truyền thống vừa lâu dài vừa phức tạp. Hai nguồn tri thức và
khôn ngoan ấy phục vụ như một xúc tác giúp chúng ta biện
phân:
1/ Thiên Chúa đòi hỏi những gì đối với
con người linh mục? – và,
2/ Bằng cách nào chúng ta sẽ nhận diện
được sự đòi hỏi đó cho hôm nay và tương lai?
Tôi không phủ nhận rằng mình cũng hơi
sợ và âu lo khi dám chia sẻ những hy vọng, những cố gắng,
những ước mơ và những xác tín riêng của mình với bạn. Thế
nhưng, dù lo sợ, tôi vẫn tin rằng mình có lý do chính đáng
để chia sẻ. Những giấc mơ của tôi, nếu chỉ được một mình tôi
ôm ấp, sẽ vẫn cứ là những giấc mơ suông, nhưng nếu được chia
sẻ bởi hàng triệu con người có khả năng hiện thực hóa chúng,
thì chúng có thể xác lập một mức đáng kể tương lai của đời
sống và sứ vụ linh mục. Thật vậy, các suy tư của tôi - được
chia sẻ cho người ta thuộc nhiều ngôn ngữ và văn hóa khác
nhau - đã trở thành một phương tiện giúp tôi tinh lọc các tư
tưởng của mình, cũng như giúp tôi nhận định rõ và đo lường
những chọn lựa dấn thân của mình. Tiến trình đó đã dẫn tôi
đến chỗ tin tưởng sâu xa hơn rằng Giáo Hội và thế giới của
chúng ta đang khẩn thiết cần biết hy vọng và biết nhìn một
cách can đảm. Nói chung, Giáo Hội trong thế giới hôm nay
cũng cần một công luận lành mạnh, không bị bưng bít và có
sức chữa trị nữa.
Hồi tôi bước vào đời linh mục, mối quan
hệ giữa linh mục và giáo dân có thể được đúc kết trong những
dấu hỏi như sau: Các linh mục săn sóc dân Thiên Chúa như thế
nào? Và bằng cách nào các ngài có thể vận động để các tín
hữu hợp tác với các ngài? Tuy nhiên, ngày nay, mẫu thức làm
việc là một mẫu thức mang tính hỗ tương và cộng tác, nó khơi
lên một câu hỏi khác hẳn: Các linh mục cộng tác như thế nào
cả với giám mục của mình lẫn với anh chị em giáo dân? Từ
lăng kính này tôi đã mường tượng một chức linh mục cũng rất
khác! Tôi thấy tất cả chúng ta cùng tìm kiếm với nhau trong
một tinh thần tra vấn nhau để nhận hiểu hơn về quyền năng và
ân sủng cứu độ của Thiên Chúa đối với Giáo Hội và thế giới.
Cuối cùng, xin chân thành cám ơn Joyce
Gadoua, CSJ, đã tích cực cộng tác trong việc thực hiện bản
dịch tiếng Anh của tập sách này.
BERNARD HARING,
C.SS.R.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
LỊCH SỬ TÌNH YÊU |
(Ga 20:19-31)
Phúc Âm
Nhật Ký Chúa Nhật 15.04.2007
Nhân loại đang chóng mặt
vì những tiến bộ ngoạn mục của khoa học kỹ thuật. Trong
cơn chóng mặt đó, người ta vẽ nên những nét lịch sử nguệch
ngoạc. Đó là những nét vòng hay đường thẳng ? Có lẽ khó
kiếm được những đường thẳng trong muôn vàn nét nguệch ngoạc
đó. Tình yêu cũng có nét lịch sử riêng. Đó là những nét
vòng chung quanh cuộc đời mỗi người và cộng đoàn.
NHỮNG NÉT NGUỆCH NGOẠC
Cộng đoàn ban đầu của Đức
Giêsu thật nhỏ bé, nhưng cũng đủ tạo nên bao sóng gió và để
lại những âm ba lớn lao trong lịch sử Giáo hội. Các môn đệ
vẫn chưa hết bàng hoàng trước cơn biến động quá lớn : Thày
vừa bị giết. Mối đe dọa Thày cũng đe dọa các môn đệ. Quả
thực, cho tới khi Thày chưa hiện ra trấn an, “nơi các môn đệ
ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái.” (Ga
20:19) Tâm hồn và con người các ông rúng động. Các sợi
dây chằng chịt Thày trò đều bứt tung. Tương lai chỉ còn là
tai ương. Niềm mong đợi duy nhất chi phối tất cả các môn
đệ là sự bình an.
Bởi vậy, ngay khi sống
lại, Đức Giêsu đã tìm mọi cách trấn an các môn đệ : “Bình an
cho anh em !” (Ga 20:19, 21, 26) Sau khi đã ổn định tinh
thần các môn đệ, Đức Giêsu thấy phải củng cố niềm tin các
ông bằng những dấu chỉ cụ thể. “Người cho các ông xem tay
và cạnh sườn.” (Ga 20:20) Mạc khải đó thật trọn vẹn. Các
ông đã thoát khỏi sự ngờ vực và sợ hãi. Đó là lý do tại
sao “các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.” (Ga 20:20)
Oâng Thomas chỉ nhận ra
Chúa khi đụng chạm tới các vết thương của Chúa. Người môn
đệ cũng chỉ có thể chứng ngộ thực tại Phục sinh khi săn sóc
tới những phần chi thể đau thương của Nhiệm thể Chúa Kitô.
Phần chi thể đó là những người nghèo khổ, bất hạnh v.v. Bao
lâu chưa quan tầm và cúi mình xuống với những phần Nhiệm thể
xấu số đó, Kitô hữu vẫn chưa đích thực sống trong mầu nhiệm
Phục sinh.
Người ta cứ tưởng chỉ có
ông Thomas là người cứng lòng tin nhất trong hàng ngũ các
tông đồ. Chỉ mình ông gây rắc rối, đòi những bằng chứng cụ
thể vì nặng đầu óc duy nghiệm. Thực ra, chẳng phải một
mình ông Thomas. Các môn đệ khác đã từng không tin lời loan
báo Phục sinh của bà Maria Mácđala (Ga 20:18). “Chỉ khi
Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ (c.19) và cho họ xem tay và
cạnh sường Người (c.20), các ông mới nhận ra Chúa và vui
mừng. Oâng Thomas đã không hành động khác với các môn đệ
khác.” (NIB: 849, vol.9)
Nhưng một khi đã thấy
Chúa, họ đều tràn ngập niềm vui. Bình an Chúa hứa trong
Ga16:20-22 đã nên trọn vẹn khi Chúa hiện ra với các môn
đệ. Đức Giêsu hiện diện như một bảo đảm hạnh phúc hiện tại
và tương lai cho các môn đệ. Nói đúng hơn, Người là niềm
vui và bình an của toàn thể nhân loại. Chính trong sự bình
an lớn lao đó, Đức Giêsu muốn phóng cái nhìn của các môn đệ
về một tương lai rực rỡ với sứ mệnh cao cả. Người nói rõ :
“Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga
20:21) Họ cũng có một sứ mệnh cứu độ như chính Đức Giêsu.
Sứ mệnh đó chỉ được thi hành với sức mạnh Thánh Linh. Bởi
đấy, Người nói : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em
tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai,
thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20:23) Đây không phải là một
sự tha thứ bình thường. Đó là một sự tha thứ trong quyền
lực Thánh Linh. Không phải bất cứ sự tha thứ nào cũng do
Thánh linh. Tha thứ đồng nghĩa với cứu độ. Chính Thánh
Linh đã là sức mạnh khiến Đức Giêsu có thể hoàn thành công
cuộc cứu độ đó. Nhất là sự tha thứ tội lỗi xúc phạm đến
Thiên Chúa và tha nhân càng cần tới quyền lực Thánh Linh.
Hơn nữa, không nhờ cái
chết và phục sinh của Con Chúa, không thể có ơn cứu độ. Nói
khác, đây là cuộc tạo dựng lần thứ hai. Nếu Thánh linh đã
đóng vai chính trong việc tạo dựng lần thứ nhất. Người
cũng đóng vai cực kỳ quan trọng trong việc tạo dựng lần thứ
hai. Bởi vậy, khi bắt đầu cuộc tạo thành mới, Đức Giêsu
“thổi hơi vào các ông” (Ga 20:22) như Thiên Chúa đã từng
thổi sinh khí vào Adam. Đức Giêsu làm chủ và tạo dựng một
vũ trụ mới, trong đó mọi người sẽ lột xác thành tạo vật
mới. Một nền văn minh tình yêu sẽ chan hòa mặt đất. Mọi
người sẽ là anh em với nhau và cùng đều tôn xưng Đức Giêsu
là Anh Cả vì cùng chung một Cha duy nhất là Thiên Chúa. Một
nền văn minh sự sống sẽ xây dựng lại tất cả từ đầu trong sức
mạnh Phục sinh. Bởi đó niềm vui sẽ chan hòa mặt đất.
Niềm vui đó đã đến với
các môn đệ khi Đức Giêsu “cho các ông xem tay và cạnh sườn.”
(Ga 20:20) và khi “Người bảo ông Thomas: ‘đặt ngón tay vào
đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh
sườn Thầy.’” (Ga 20:27) Niềm vui đã đến vì các ông đã thấy
tất cả sự thật, một sự thật đã giải thoát các ông khỏi mọi
sợ hãi vàlàm cho các ông xác tín vào những điều Thầy đã
hứa. Bừng tỉnh trước sự thật đó, “ông Thomas thưa Người :
‘Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !’” (Ga 20:28)
Muốn có được sự bình an sau khi đã qua những cơn sóng gió,
các môn đệ cần phải gặp Đức Giêsu trong niềm vui Phục sinh.
Niềm vui đó chính là dấu chỉ của hồng ân cứu độ.
Giả sử không bao giờ Đức
giêsu hiện ra với ông Thomas, cái gì sẽ xảy ra ? Chắc chắn,
ông sẽ giữ vững lập trường. Như thế là có sự chia rẽ giữa
hàng môn đệ. Thomas không còn thuộc về tông đồ đoàn nữa, vì
không chia sẻ cùng một niềm tin. Chỉ niềm tin mới có sức
mạnh hiệp nhất con người với nhau và với Thiên chúa. Cũng
chính niềm tin sẽ thúc đẩy Kitô hữu dấn thân. Nếu không có
niềm tin Phục sinh, họ không thể đón nhận sứ mệnh đem ơn cứu
độ đến muôn dân. Không có niềm tin, cũng chẳng có ơn cứu
độ. Sứ mệnh cứu độ chính là sứ mệnh đem bình an đến cho
muôn dân. Kitô hữu phải là sứ giả hòa bình.
Tất cả những hồng ân cao
cả đó chỉ đến khi con người đã chứng quả chân lý Phục sinh.
Chân lý đã khuất phục Thomas cũng sẽ giải thoát chúng ta.
Chân lý đó xuất hiện qua những dấu lạ. Những dấu lạ đó chỉ
dành cho một số ít chứng nhân Phục sinh. Không phải ai thấy
dấu lạ đều có thể đọc được sự thật. Ngược lại cũng có thể
thấy sự thật mà chẳng cần dấu lạ. Đó là một hồng ân dành
cho những người Chúa đã tuyển chọn. Bởi đấy, Đức Giêsu
mới nói : “Phúc thay những người không thấy mà tin !” (Ga
20:29) Không thấy, nhưng nghe có đủ làm cho chúng ta tin
Chúa Phục sinh chăng ? Niềm tin không phải là kết quả của
những đụng chạm, ngắm nhìn hay ăn uống với Chúa. Tất cả
chỉ là những dấu chỉ mà thôi. Tin hoàn toàn là một nhân đức
siêu nhiên, nghĩa là phải do ân sủng Thiên Chúa, chứ không
do nỗ lực giác quan. Tất cả những lần Chúa hiện ra đều nhằm
giúp “anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên
Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga
20:31) Nói khác, sự hiện diện thể lý đó chỉ là một sự trợ
lực, chứ không thể thay thế động lực chính tạo nên niềm tin
vào Chúa Phục sinh. Động lực chính đó là Thánh Linh, tác
giả tạo dựng cả thiên nhiên và siêu nhiên, cả vật chất lẫn
tinh thần. Ngay cả thân xác Chúa, từ khi được tạo thành
trong lòng Trinh Nữ Maria đến lúc phục sinh khỏi lòng đất,
cũng đều do một tay Chúa Thánh linh tạo nên. Chính vì thế,
niềm vui và bình an mới tràn ngập tâm hồn và con người các
môn đệ. Nói khác, nơi nào có Thánh linh, nơi đó có bình an
và vui mừng.
NIỀM VUI HÔM NAY.
Đúng hơn, bình an và niềm
vui đó được chính Đức Giêsu bảo đảm. Giữa cơn thử thách
trần gian, Người vẫn lên tiếng : “Đừng sợ ! Ta là Đầu và là
Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến
muôn thuở muôn đời ; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Aâm
phủ.” (Kh 1:17-18) Người là chính niềm vui và an bình của
chúng ta. Người không bị khuất phục. Trái lại, Người nắm
quyền kiểm soát cả thời gian lẫn không gian. Ai tin tưởng
vào Người sẽ không bao giờ thất vọng. Ngày nay thất vọng
đang lan tràn mặt đất. Hôm nay vẫn có người tin vào sức
mạnh bạo lực trong việc giải quyết những tranh chấp giữa
người và người. Bằng chứng Tuần Thánh vừa qua, cánh hữu
bán-võ-trang tại Colombia đã vi phạm lệnh ngưng bắn, khiến
cả trăm người chết, hầu hết là thường dân vô tội. Nhưng Đức
Hông Y Rubiano tại Bogota nói : “Những tổ chức đó hoàn toàn
sai lầm nếu họ tưởng rằng với võ lực họ có thể làm được một
cái gì giá trị. Bất cứ phe nhóm nào dính líu vào cuộc tranh
chấp này tưởng rằng hòa bình có thể thực hiện bằng vũ lực,
họ hoàn toàn sai lầm.” (CWNews 18/4/2001) Chính Đức Giêsu,
nạn nhân của bạo lực, đã phục sinh để minh chứng tình yêu
mạnh hơn sự chết. Ngày nay vẫn có những tín hữu sẵn sàng
hi sinh mạng sống để chứng minh Đức Giêsu Kitô đã chiến
thắng tử thần. Ngay tại một nước Hồi giáo như Malesia, một
nữ tín hữu đã mạnh dạn kiện chính phủ để được chuyển đạo từ
Hồi giáo sang Kitô giáo trên thẻ căn cước, mặc dù biết trước
những nguy hiểm đe dọa tính mạng (CWNews 18/4/2001).
đỗ lực |
VỀ MỤC LỤC |
|
NGÀY CẪU NGUYỆN ĐẶC BIỆT CHO CÁC CHỦ CHĂN TRONG GÍAO HỘI. |
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN
NHÂN LÀNH
NGÀY CẪU NGUYỆN ĐẶC
BIỆT CHO CÁC CHỦ CHĂN TRONG GÍAO HỘI.
NGÀY CẦU NGUYỆN CHO
ƠN GỌI (World Day of Prayer for Vocation).
KINH CẦU NGUYỆN CHO
CÁC LINH MỤC ĐỤƠC ƠN THÁNH HÓA.
KINH
CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI (Vocation Prayer).
Chúa Nhật IV Mùa Phục
Sinh, thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Câu
xướng trước Phúc Âm cuả các năm A, B và C đều trích trong
Phúc Âm Thánh Gioan (10,14): “Ta là Mục tử nhân lành, Ta
biết chiên của Ta, và chiên của Ta biết Ta!” Các bài Phúc
Âm năm A, B và C đều trích trong Phúc Âm của Thánh Gioan:10,
1-10 (Năm A); 10,11-18 (Năm B); 10, 27-30 (Năm C).
Trong các bài Tin Mừng
trên đây, Chúa Giêsu xác định Ngừoi chính là cửa của đoàn
chiên, và cũng chính là người chăn chiên nhân lành. Chỉ
những chủ chiên nào đi theo cửa của Ngừơi (theo đường lối
của Người) mới là chủ chiên thật (Gioan 10,2).
Suy nghĩ về Chúa Nhật
Chúa Chiên Lành, Cha M. D. Phillippe, O.P. viết những lời
suy niệm sau đây:
“Mọi công việc trong
cuộc đời truyền giáo của Chúa Kitô, vị Chủ Chăn Nhân Lành,
đều đơn giản là những công việc của tình thương xót đối với
đoàn chiên, đối với mọi người. Tuy nhiên, chính nơi cơn “hấp
hối” tại vườn “Cây Dầu” và trên Thánh Giá mà chúng ta cảm
nghiệm được trọn vẹn Lòng Thương Xót của Chúa.
“Mọi khổ đau của những
người tội lỗi, mọi hậu quả của tội lỗi, Chúa Kitô đều vui
lòng mang lấy vào mình. Không một khổ đau nào của nhân loại
xa lạ với Chúa Kitô. Người thấu suốt tất cả và mang lấy tất
cả vào trong thâm sâu của trái tim Người. Người đã sống
những giây phút thật căng thẳng mà không ai có thể cảm
nghiệm được. Người mang lấy tất cả vì tình yêu vô biên đối
với mọi người chúng ta. Tình thương xót của Chúa thật huyền
diệu và đi đến tuyệt đỉnh!
“Là vị Mục Tử nhân
lành, Chúa Kitô biết những điều Người phải làm. Người biết
từng con chiên với những yếu đuối và những nhu cầu của từng
con chiên. Người biết rằng để trở nên một Mục Tử nhân lành
theo đúng ý nghĩa, người chủ chăn phải yêu mạng sống của con
chiên hơn mạng sống của mình; phải muốn đặt mình vào hạng
những người tội lỗi, vào hạng những người bị ruồng bỏ để có
thể cứu vớt mọi người; phải dám ‘tự hủy ra không’ để có thể
chấp nhận mọi bất hạnh, khinh chê, và bị coi như tầm thường
hơn hết mọi người!
Khổ hình Thập Giá với ý
nghĩa đặc biệt trọn vẹn của khổ đau để cứu chuộc, đã tỏ cho
chúng ta thấy rõ tình thương xót vô biên của Chúa. Không từ
chối gì cả, Người đã chấp nhận mọi khổ đau, mọi nhục nhã,
mọi gánh nặng tới mức không còn có thể chịu đựng hơn được
nữa. Như vậy, lòng Thương Xót của Chúa không phải chỉ ở chỗ
tìm đến để giúp đỡ những người yếu đuối , mà còn ở chỗ, như
một người mẹ, cúi mình xuống tận những kẻ đã sa ngã và cúi
xuống sâu hơn họ để cứu vớt họ và nâng họ lên (chứ không
phải kéo họ lên ; Người đã vác con chiên lạc lên vai
và đưa về đoàn, đưa về lại cuộc sống).
Tự hạ mình xuống sâu
thẳm, Chúa Kitô đã muốn bị coi như kẻ đáng tội hơn cả
Babara (Mat-theu 27,16...), như một kẻ tội phạm công khai,
như một kẻ nói phạm thượng, như một kẻ thù của lề luật
Moise, kẻ không chịu giữ ngày Sabat, một kẻ nguy hiểm quấy
phá dân chúng. Hơn nữa, Chúa Kitô còn muốn trở nên như một
đồ vật mà người ta che mắt không dám nhìn, đến nỗi khi đã
chết rồi còn bị người ta đâm vào cạnh sườn thấu tới trái
tim.
“Như vậy, Tình thương
xót của Chúa là một thực thể bao quát tất cả con người ,
không một chi thể nào trong thân thể của Người không bị
thương tích, và linh hồn Người cảm thấy buồn sầu đến chết đi
trong cơn hấp hối (Mat-thêu 26,38).
Hy lễ thập giá thật là
một sự tôn thờ tuyệt đỉnh và cũng biểu lộ tình Chúa thương
xót đến tuyệt đỉnh. Nơi trái tim của Chúa Giêsu chịu treo
trên thập giá vừa mang sự Thờ Phượng (Chúa Cha), vừa mang
tình thương xót nhân loại như anh em để giúp đỡ họ, an ủi
họ, chuộc lấy mọi tội lỗi của họ và đem lại cho họ nguồn
sống mới.” (Dịch theo bản tiếng Anh, trong
Magnificat, April 2005, Fourth Sunday of Easter; những chữ ở
ngoặc đơn là chú thích của người dịch).
Ðọc những dòng trên đây, chúng ta càng
hiểu biết sâu xa hơn tình thương xót cuả Chúa Giêsu, Ðấng
Chăn chiên nhân lành, đối với đoàn chiên như thế nào, đến
nỗi đã chấp nhận mọi khổ đau đến cùng cực và đổ đến giọt máu
cuối cùng cho đoàn chiên của Chúa! Và khi không còn sống ở
trần gian nữa, Người vẫn tiếp tục “nuôi sống đoàn con” bằng
chính Mình và Máu Thánh Người hiện diện thật sự trong Hình
Bánh và Hình Rượu (Bí tích Thánh Thể), và thánh hóa đoàn
chiên bằng các “phép Bí tích nhiệm mầu.”
Thực sự, qua hoạt động của Chúa Thánh
Thần, Chúa Giêsu vẫn ở với Giáo Hội “ mọi ngày cho đến tận
thế!”( Mattheu 28,20) Chúa Giêsu vẫn là vị Chủ Chăn chính
điều hành Giáo Hội và qua các thời đại Chúa luôn luôn dẫn
dắt đoàn chiên Chúa nhờ sự lãnh đạo của các vị chủ chăn Chúa
chọn. Chúa đã chọn Thánh Phêrô và các Thánh Tông đồ và thành
lập Giáo Hội Chúa kể từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên
các Ngài và thánh hóa các Ngài. Từ đó, qua từng thế kỷ, Chúa
vẫn tiếp tục gọi và chọn một số người để làm Chủ chiên chăn
dắt Ðoàn chiên Chúa.
Chúa chọn ai?
“Chúa chọn những người mà Chúa muốn
(Matco 3,13 ) và trao cho những nhiệm vụ theo Thánh ý Chúa:
Người thì làm Tông đồ, người thì làm Ngôn sứ, người thì
chuyên rao giảng Tin mừng, người chuyên lo việc quản trị và
giảng dạy... (Thơ Epheso 4,11). Không ai có quyền đặt mình
vào địa vị trong Giáo Hội, nhưng tất cả đều do Chúa chọn và
cắt đặt .
“Nhưng tại sao Chúa chọn con?”
Vào những ngày sắp chịu chức Linh Mục,
theo sự hướng dẫn của Cha Linh hướng và Cha Giảng Phòng
(giảng tĩnh tâm để chuẩn bị chịu chức Linh mục) tôi thường
cầu nguyện và nói thầm với Chúa: “Tại sao Chúa chọn con?”...
Rồi vào ngày Lễ Truyền Chức cũng như dịp Lễ “Mở Tay” (Lễ Tạ
Ơn) tôi thật cảm động khi nghe ca đoàn hát: “Không phải vì
con Chúa chọn con! Nhưng vì bí nhiệm tình yêu Chúa!.
Vâng, “không phải vì con Chúa chọn con”
nhưng Chúa chọn “những ai mà Chúa muốn” (Matcô 3,13), sau
khi Chúa đã lên núi một mình để cầu nguyện suốt đêm ( Luca
6,12 ). Ðó thật là một sự kỳ diệu của Ơn Gọi theo Thánh Ý
Chúa. Chúa gọi Phêrô dù Ông đã “chối Chúa tới ba lần dù Chúa
đã cảnh cáo Ông trước!” và lại còn đặt Ông làm Giáo Hoàng
đầu tiên của Giáo Hội. Chúa đã chọn Phaolô ngay trên con
đường Ông đi tìm bắt và bách hại đoàn chiên non trẻ của
Chúa! Và suốt đời Ông vẫn phải mang những “yếu đuối” của
mình ‘Ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối!’... (2 Cor. 11,29 )
Mọi người được Chúa gọi và chọn đều cảm thấy mình bất xứng
và thật lo lắng trước trách nhiệm được trao phó” như Ðức
Ðương Kim Giáo Hoàng Benedicto XVI, khi được bầu chọn lên
ngôi Giáo Hoàng, trong “Lời Tâm Tình Ðầu Tiên của Ngài” cũng
chia sẻ kinh nghiệm đó: “Tôi cảm thấy bất xứng và... thật lo
lắng trước trách nhiệm được trao phó...” nhưng “Ơn Chúa đủ
cho tôi!” (2Cor. 12,9…); nên Ðức Giáo Hoàng cũng nói tiếp:
“Tôi cảm thấy như bàn tay quyền năng của Thiên Chúa nắm chặt
lấy tay tôi. Tôi như nhìn thấy ánh mắt tươi cười của Chúa và
lắng nghe Chúa nói với tôi đặc biệt vào lúc này: “Con đừng
sợ!”. Với tâm tình đó, những người được chọn đều khiêm tốn
như Mẹ Maria để thưa lời “Xin Vâng!”.
Như vậy, chúng ta mới hiểu tại sao Chúa
Giêsu đã “lên núi thức suốt đêm để cầu nguyện” (Luca 6,12)
trước khi chọn các Tông đồ. Hơn nữa trong đêm trước khi tự
trao mình để chịu cuộc khổ nạn để cứu chuộc nhân loại, trong
Bữa Tiệc Ly, Chúa đã cúi mình xuống để rửa chân cho các
Tông đồ để dạy cho các Ông bài hoc phục vụ trong khiêm tốn
và Chúa đã tâm tình và căn dặn các tông đồ nhiều điều mà
Phúc Âm theo Thánh Gioan đã ghi lại suốt các đoạn 13, 14,
15; còn toàn đoạn 17 ghi lại những lời Chúa Giêsu cầu nguyện
thiết tha với Ðức Chúa Cha cho các Tông đồ đang hiện diện,
cũng như cho các Chủ chăn qua mọi thời đại; đặc biệt trong
câu “Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian; nhưng xin
gìn giữ họ khỏi mọi sự dữ!” (Gioan, 17,15).
Trong thời gian giúp các giáo xứ Hoa
Kỳ, khi gặp gỡ Giáo dân, thường có những người sau khi chào
hỏi đã nói với tôi một cách thân tình “Thank you Father for
being a priest!” (Cám ơn Cha đã là một Linh Mục!”. Chúng ta
thường có lòng yêu mến và hằng cầu nguyện cho các chủ chăn
trong Giáo hội; nhưng đặc biệt trong ngày Chúa Nhật Chúa
Chiên Lành, chúng ta hãy dâng nhiều hy sinh và lời cầu
nguyện cho Ðức Giáo Hoàng cũng như cho các chủ chăn trong
toàn thể Giáo Hội, cách riêng các chủ chăn Chúa sai đến làm
việc giữa chúng ta.
Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh cũng là Ngày
Thế Giới đặc biệt cầu nguyện cho Ơn Gọi (World Day of Prayer
for Vocations): Trong Thánh lễ cũng như trong các kinh
nguyện, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho có nhiều người
được Chúa gọi và chọn để trở nên các nhà Truyền giáo và Chủ
Chăn để rao giảng và chăn dắt Ðoàn chiên Chúa.Chúng ta cũng
cầu xin với Mẹ Maria, Mẹ Hàng Gíao Sĩ, chuyển cầu cho chúng
ta.
Lm. Anphong Trần Ðức
Phương
KINH CẦU
CHO CÁC LINH MỤC.
Lạy Chúa Giêsu/ là linh mục cao trọng,
là Đấng tế lễ đời đời. Bởi lòng quá yêu dấu loài người là
anh em của Chúa, nên Chúa đã mở kho tàng Trái Tin cực thánh
Chúa, mà lập ra chức vị linh mục, thì nay chúng tôi cũng xin
Chúa khấn đổ vào lòng các linh mục / nhửng dòng nước trường
sinh / bởi lòng thương yêu vô cùng Trái Tim Chúa.
Xin Chúa sống trong mình các
linh mục/ và dùng các Ngài, mà ban phát ơn lành của lòng
thương xót Chúa. Xin Chúa hành động với các linh mục, và
dùng các Ngài/ mà hành động trong thế gian.
Lại xin Chúa làm cho các linh mục được
hoàn toàn giống Chúa, mà trung thành bắt chước các nhân đức
cao trọng của Chúa, để nhân danh Chúa/ và nhờ quyền phép
Chúa Thánh Thần, các Đấng ấy nhiệt thành/ làm những việc xưa
Chúa đã làm/ mà cứu người ta cho được rỗi.
Lạy Đấng Cứu Chuộc loài người! Xin
Chúa nhìn xem biết bao nhiêu kẻ /đang nằm trong bóng tối tăm
lầm lạc. Xin Chúa xem đến vô số giáo hữu theo đường tội lỗi/
hòng sa xuống vực sâu.
Xin Chúa trông đến biết bao người bần
cùng đói khát, những người dốt nát mê muội, và nhửng kẻ yếu
đuối nhát hèn/ đang rên rỉ than khóc/ vì không có linh mục
coi sóc, giữ gìn.
Xin Chúa dùng các linh mục mà ở lại
với chúng con. Xin Chúa sống trong mình các linh mục, và
dùng các Ngài mà hành động, và trở lại dưới thế gian này/ mà
dạy dỗ, tha thứ, yên ủi, tế lễ/ và kết hợp mối tình yêu mến,
ràng buộc lòng Chúa với loài người chúng con cho đến trọn
đời. Amen
KINH CẦU
NGUYỆN CHO ƠN GỌI
Lạy Thiên Chúa chí ái, Giáo Hội Chúa đã
được Chúa thương ban cho những linh mục, phó tế, tu sĩ nam
nữ, các thành viên tu hội đời, các tông đồ giáo dân / luôn
tận hiến để hằng ngày đem Chúa đến cho mọi ngừơi trên khắp
thế giới . Xin Chúa giúp các vị đó luôn kiên cường trong
sứ vụ. Xin Chúa cũng kêu gọi thêm nhiều người cùng tham gia
trong công cuộc phục vụ dân Chúa . Amen.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MỤC TỬ NHÂN HẬU |
Nguyên Tác
IN STEP
WITH GOD
- LM Vincent
Travers, OP
HƯƠNG VĨNH
chuyển ngữ
“Các người thu thuế và các người tội
lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe người giảng. Người
Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông nầy
đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.’ Đức Giêsu
mới kể cho họ dụ ngôn nầy:
Người nào trong các ông có một trăm
con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con
kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị
mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà,
người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: ‘Xin chung vui
với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị
mất đó.’
Vậy tôi nói cho các ông hay: trên
trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mầng vì một người tội lỗi ăn
năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không
cần phải sám hối ăn năn.” (Lc 15, 1-7)
***
Trong Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu
phán: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết
chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27). Đó là một câu
nói rất đầy ý nghĩa. Nhưng câu nói đó không có vẻ tâng bốc
chút nào.
Chiên không phải là loài
súc vật thông minh nhất. Chúng ta không nghĩ chính chúng ta
là những con chiên. Có người nói rằng việc so sánh con người
với con chiên khiến ông ta cảm thấy phẩm giá bị hạ thấp. Ông
thắc mắc đúng. Con chiên không thể suy nghĩ về chính mình.
Theo bản tính và bản năng, loài chiên chỉ biết đi theo
mà thôi.
Lần kia một nữ giáo viên yêu cầu đám
học sinh trẻ tuổi giải đáp bài tính về mười một con chiên ở
trong đồng cỏ. Sáu con nhảy băng rào qua đồng cỏ khác. Bao
nhiêu con còn lại?
Hết thảy học sinh – chỉ trừ một em – đã
trả lời: “Còn lại năm con”. Em bé khác thường kia
đáp: “Không còn con nào hết”. Cô giáo viên nói: “Em
không nhận ra mười một con, trừ đi sáu con, còn lại năm con
sao?” Em bé đáp lại: “Thưa cô, có thể cô rất rành về
toán học nhưng cô không biết rõ giống chiên!!!”
Em bé khác thường đó nhận xét đúng.
Loài chiên không phải là những súc vật xuất chúng nhất.
Khi một con nhảy, cả đám nhảy theo. Đó là bản năng sống
thành bầy. Chúng không thể làm khác đi được. Đó là bản chất
của thú vật.
Cứ theo sách vở mà nói, Chúa Giêsu
không đáng được ca tụng khi so sánh chúng ta với đoàn chiên.
Vậy tại sao lại có sự so sánh như thế? Có hai lý do. Một là
Chúa nói theo ngôn ngữ thời bấy giờ và hai là Ngài có tâm
hồn thi sĩ.
Từ ngữ “chiên” và “người chăn
chiên”, “chủ chăn” hay “mục tử” trong ngữ
cảnh Thánh kinh là những thành ngữ có tính cách thi
phú. Những thành ngữ đó không thể hiểu theo nghĩa
đen được. Thánh kinh đầy dẫy những thành ngữ có tính cách
thi phú như thế. Cụm từ “Chiên Thiên Chúa” có tính
cách thi ca.
Chiên dễ bị tổn thương và cừu
thì không có tính cách đe dọa. Chúa Giêsu khi ám chỉ mình là
“chiên và cừu” là muốn cho chúng ta thấy Thiên Chúa
giống như thế nào. Thiên Chúa thì dịu dàng, ai
cũng có thể đến được và ai cũng có thể lại gần được. Đó là
những thuộc tính của Thiên Chúa mà chúng ta chú trọng ở
trong Phúc Âm. Chúng ta không chú trọng đến quyền năng,
quyền uy và vinh danh của Ngài.
Thánh vịnh và người chăn chiên
Một vị diễn giả rất hùng biện, ưa trích
dẫn Thánh vịnh 22 (câu 1): “Chúa là mục tử chăn dắt
tôi”. Lần kia sau khi đọc câu Thánh vịnh đó ở trong
một đại sảnh, toàn thể cử tọa đứng lên vỗ tay tán thưởng
nhiệt liệt.
Một cụ già bước tới trước mặt diễn giả
và nói lớn cho biết là cụ có thể diễn thuyết hay hơn. Vị
diễn giả kia đã mời cụ lên bệ giảng và cụ bắt đầu đọc hết
bài Thánh vịnh nổi tiếng đó. Một sự im lặng sâu lắng tràn
ngập trên cử tọa. Họ lắng tai nghe, thích thú. Niềm tin và
sự chân thành của cụ đã khiến nhiều người rơi lệ.
Khi cụ chấm dứt, vị diễn giả thấy mình
đã bị lép vế. Ông hỏi cụ làm thế nào mà cụ có thể để hết tâm
hồn vào đó khi ngâm nga bài Thánh vịnh. Cụ già trả lời: “Thưa
ngài, sự khác biệt giữa ngài và tôi là ngài biết bài Thánh
vịnh đó; còn tôi, tôi biết người chăn chiên.”
Chính xác biết bao! Tất cả hoàn toàn
tùy thuộc về Thiên Chúa mà chúng ta biết và đặt trọn vẹn
niềm tin.
Biết mấy người trong chúng ta nhớ lại
bức tranh cảm động về Thiên Chúa là người mục tử vác con
chiên trên vai? Ngài đang vác con chiên nào? Đó là con
chiên bị lạc mất, con chiên què quặt, con chiên bị đau
yếu, con chiên bị lạc lối. Đó là con chiên cần được mang vác
lên vai nhiều nhất.
Ngạc nhiên thay, đối với Tin Mừng,
tất cả chúng ta đều là những con chiên đi lạc. Nếu chúng
ta đánh mất điều đó, chúng ta đánh mất tâm điểm của dụ ngôn
nầy. Có phải chính Thiên Chúa là Đấng mà chúng ta đặt trọn
vẹn niềm tin không?
Hình ảnh mẹ con
Nếu Chúa Kitô còn sống bằng xương bằng
thịt ở trên đời ngày hôm nay, chúng ta tự hỏi không biết
Chúa còn dùng hình ảnh con chiên và người mục tử không? Có
lẽ Chúa sẽ dùng hình ảnh “mẹ và con” hơn.
Thật tình tứ biết bao hình ảnh mẹ và
con sánh bước bên nhau, tay trong tay. Rồi thì em bé chợt
buông tay mẹ ra và bị bỏ rơi đằng sau, đang lơ đểnh nhìn cái
nầy cái khác. Người mẹ dừng lại và chờ đợi. Mẹ ra hiệu cho
con chạy tới trước. Em bé chạy tới và mẹ con lại sánh bước
bên nhau nhưng chẳng bao lâu, em bé lại buông tay ra và lần
nầy chạy tuôn về phía trước.
Mẹ gọi em đợi, coi chừng nguy hiểm. Đến
ngã tư đường, đèn xanh đèn đỏ, xe cộ như mắc cửi. Em bé nghe
tiếng mẹ gọi, đứng dừng lại đợi. Mẹ nắm tay em, ngó trước
ngó sau rồi băng qua đường an toàn và tiếp tục cuộc hành
trình. Chẳng bao lâu em bé trở nên nhọc mệt, rã rời và gục
xuống. Người mẹ đỡ em lên và ẵm em trong tay trên đoạn đường
còn lại để đi về nhà.
Đó đúng là một sự mô tả đầy thi vị cuộc
hành trình của Kitô hữu. Giống như một người mẹ âu yếm con,
Chúa Giêsu – người Mục Tử Nhân Hậu – luôn để mắt đến chúng
ta. Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta. Ngài không bao giờ rời
mắt khỏi chúng ta. Niềm tin thâm sâu của chúng ta là, nhờ
vào sự hiện diện âu yếm của Ngài, chúng ta sẽ đạt tới đích
của cuộc hành trình chúng ta bình an vô sự.
Đúng là đúng và sai là sai
Qua dụ ngôn nầy, phải chăng chúng ta có
cảm tưởng Thiên Chúa dịu hiền như con chiên nên Ngài không
quan tâm gì đến những gì ta làm, những tội ta phạm. Chúa
Giêsu hoàn toàn nhu nhược, dễ bị mê hoặc. Nếu thế, chúng ta
đã tỏ ra vô cùng bất công đối với Lời Hằng Sống của Chúa.
Chúa Giêsu đã tỏ ra minh bạch và dứt
khoát khi đòi hỏi chúng ta hãy nghe tiếng Ngài và đừng nghe
những tiếng xa lạ, không quen biết. Đối với Chúa Giêsu –
người Mục Tử Nhân Hậu – sai là sai ngay cả khi mọi
người đều làm như thế, và đúng là đúng, ngay cả khi
không ai làm điều đó hết. Albert Einstein –
một đại toán học gia – đã làm nổi bật điều đó khi nói: “Thiên
Chúa thì tinh tế nhưng không si mê”.
Lần kia một chàng trai trẻ rảo bước
trong công viên vào một ngày nắng hạ đẹp trời và tình cờ
thấy một thiếu nữ xinh đẹp, tức thì bước theo sau nàng.
Người đàn bà nhận biết có người đang đi theo mình, quay lại
và đối diện với anh ta mà nói: “Tại sao anh đi theo tôi?”
Chàng thanh niên trả lời: “Bởi vì cô rất xinh đẹp và tôi
đã si tình với cô.”
Chị ta trả lời: “Nếu anh quay nhìn
đằng sau, anh sẽ thấy em gái tôi còn xinh đẹp hơn tôi nhiều.”
Chàng thanh niên quay nhìn lại phía sau nhưng không thấy ai
hết. Rồi quay mặt lại đằng trước, anh ta nói: “Cô đã chế
giễu tôi.” Thiếu nữ đáp: “Nếu anh đã yêu tôi tha
thiết, tại sao anh còn quay lui, nhìn ở đằng sau?” Chị
ta đã bỏ đi và để lại đằng sau chàng thanh niên đứng lặng
người nhìn theo.
Chúa Giêsu phán: “Chiên Ta nghe
tiếng Ta và chúng theo Ta.” Oscar Wilde cũng
có tư tưởng rất giống như thế, khi nói: “Chúng ta đều ở
dưới cống rãnh, nhưng vài người trong chúng ta đã nhìn thấy
những tinh tú trên trời.”
Chúa Giêsu – vị Mục Tử Nhân Lành – là
ngôi sao sáng chói của chúng ta, là Minh Tinh của chúng ta,
là Thần Tượng của chúng ta. Ngài là Đấng duy nhất để mắt
nhìn xem chúng ta và nếu chúng ta khôn ngoan, chúng ta nhất
quyết sẽ không bao giờ rời mắt khỏi Ngài. |
VỀ MỤC LỤC |
|
VÀI Ý KIẾN VỀ CÁCH
NÓI NĂNG |
Hãy canh giữ miệng con, lạy Chúa, và trông chừng
lưỡi con (Tv 141, 3)
Một người tham dự buổi họp nọ, gặp một diễn giả nói
thật dài dòng. Khi thính giả này không chịu nổi được nữa,
liền đứng lên lẻn ra cửa hông. Trong hành lang, anh gặp một
ngưòi bạn hỏi: “Ông ta nói xong chưa vậy?”
Anh đáp: “Rồi, ông ta nói xong từ lâu rồi !
Ông ta cứ nói mãi !”
Cần thấu triệt vấn đề và nói điều đáng
nói, là một lời khuyên rất hay cho tôi khi mình nói chuyện
với người khác mỗi ngày. Nếu thành thật với chính mình, tôi
phải công nhận rằng vài đối thoại của tôi không gì khác hơn
là nói nhảm.
* Tự kiểm điểm để Sống:
Đức Giêsu cảnh cáo: “Tôi nói cho các người hay : đến
ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều vô ích
mình đã nói.” (Mt 12, 36). Bạn hãy dừng lại trong giây
lát và nghĩ đến đối thoại hàng ngày của bạn ra sao? Đề tài
trong hầu hết của bạn là gì? Bạn có nói quá nhiều và không
cho người khác có cơ hội nói không? Lời nói của bạn có lợi
ích cho người khác không? Và quan trọng nhất: lời nói của
bạn có làm vinh danh Chúa không?
Về phương diện tích cực, để đổi mới và
sống lại với Đức Kitô là tập nết tốt, bỏ tật xấu, có Chúa
chiếm đoạt hoàn toàn tư tưởng và hành động của bạn. Thí dụ:
bạn có tính nói nhiều chiếm đoạt, hễ gặp ai là nói như cái
máy. Nếu muốn Phục sinh với Chúa Kitô và lớn lên trong Thần
Khí của Ngài, bạn phải bỏ tật nói nhiều đi!
Thánh Thần Chúa có thể giúp bạn nói những
lời gây dựng người khác, chứ không chỉ để lấp đầy khoảng
không. Hôm nay tôi hãy biến lời của Vua Đavít thành lời cầu
nguyện của tôi:
“Hãy canh giữ miệng con, lạy Chúa !
và trông chừng lưỡi con.”
(Thánh vịnh 141, 3)
Danh Ngôn:
Nếu trí bạn
trống rỗng, đừng quên tắt âm thanh đi !
(If your mind goes
blank, don’t forget to turn off the sound)
Phó tế GB Nguyễn Văn Định
*johndvn@yahoo.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Nền
Tảng của Tình Bạn |
TÌNH YÊU VÀ TRÁCH
NHIỆM
Bài 1:
Nền Tảng của Tình Bạn
Làm sao một linh mục độc thân có thể
dạy về tình yêu, phái tính, và sự liên hệ nam nữ?
Đó là câu hỏi mà một linh mục người Ba
Lan, Cha Karol Wojtyla, đã đưa ra trong lời mở đầu của cuốn
sách “Tình Yêu và Trách Nhiệm” mà Cha cho xuất bản
năm 1960. Đây là một cuốn sách bàn về luân lý phái tính, và
là kết quả của nhiều năm sinh hoạt với giới trẻ của Cha ở
đại học Krakow, 18 năm trước khi Cha trở thành Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II. Trong thời gian làm linh hướng cho nhiều
thanh niên thiếu nữ và các cặp vợ chồng trẻ và giúp họ đương
đầu với những thách đố về tình yêu và tính dục, Cha Wojtyla
đã có thể nhờ đó mà rút tỉa được nhiều kinh nghiệm về cá
tính, quan hệ, và hôn nhân mà một giáo hữu trung bình không
thể có được. Sách Tình Yêu và Trách Nhiệm là
kết quả của các kinh nghiệm mục vụ cũng như những suy tư
thần học về tình yêu, phái tính và hôn nhân của Cha. Chúng
tôi sẽ lần lượt trình bày những đề tài quan trọng trong sách
này cùng các bạn trẻ Việt Nam. Các bài viết này dựa theo
bản dịch Anh ngữ của sách “Love and Resposnsiblilty” do
Ignatius Press xuất bản, và các bài bình luận của Giáo Sư
Edward P. Sri đăng trên nguyệt san Lay Witness
trong những năm 2005 và 2006.
Một Đại Tác Phẩm
Sách Tình Yêu và Trách Nhiệm
cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về các liên hệ
nam nữ thật sự có khả năng thay đổi cuộc đời, và rất cần
thiết cho thời nay. Lớn lên trong thời Hậu Cách Mạng Tính
Dục, giới trẻ ngày nay đói khát những tư tưởng khôn ngoan có
thể hướng dẫn các em trong những quan hệ nam nữ. Dù là độc
thân, đang hứa hôn hay đã lập gia đình, chúng ta không những
sẽ tìm thấy trong sách Tình Yêu và Trách Nhiệm một
cái nhìn hoàn toàn khác hẳn với cái nhìn của thế gian, nhưng
cũng là một cái nhìn có ảnh hưởng tích cực đến cách chúng ta
liên hệ với nhau.
Trong những bài ngắn này, chúng tôi có
một mục đích khiêm tốn là làm cho những kiến thức trong tác
phẩm triết học phức tạp này trở nên dễ hiểu đối với bạn đọc,
và thêm vào đó những suy tư của riêng chúng tôi, với hy vọng
giúp ích cho độc giả trong khi đọc về quan điểm của Đức
Thánh Cha về tình yêu và phái tính, cùng áp dụng nó vào đời
sống cá nhân của mình.
Nguyên Tắc Cá Nhân
Công tác chính của Đức Thánh Cha trong
Tình Yêu và Trách Nhiệm là trình bày cái mà ngài gọi
là “Nguyên Tắc Cá Nhân”. Nguyên tắc căn bản về các liên hệ
giữa người với người là “một người không thể chỉ là
phương tiện để người khác sử dụng để đạt được mục đích của
họ” (trang 26). Nói cách khác, chúng ta đừng bao giờ
đối xử với người khác như những dụng cụ để chúng ta đạt được
mục đích của mình.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giải
thích rằng con người có khả năng tự định đoạt chứ không chỉ
hành động theo bản năng và nhu cầu như súc vật. Nhờ lý trí,
con người biết tự mình suy nghĩ và chọn lựa cách hành động
của mình, và xác định cho thế giới bên ngoài biết “nội tâm
của mình” qua những chọn lựa của mình. Đối xử với người
khác như một dụng cụ để đạt được mục đích riêng là xúc phạm
đến nhân phẩm của người ấy như một người có quyền tự quyết
(xem trang 26-27).
Yêu Thương hay Sử Dụng?
Điều làm cho chúng ta khó mà sống được
theo nguyên tắc này là tinh thần của chủ nghĩa sử dụng
đang làn tràn khắp nơi trong xã hội hiện đại. Theo quan
điểm của chủ nghĩa này thì việc tốt nhất cho một người là
làm điều gì có lợi nhất cho mình. Và điều có lợi nhất cho
tôi là làm cho tôi được sung sướng cùng thoải mái càng nhiều
càng tốt bằng một nào cách đỡ khổ cực nhất. Người ta thừa
nhận và nhấn mạnh rằng con người được hạnh phúc là nhờ khoái
cảm. Cho nên tôi phải luôn theo đuổi những gì đem lại cho
tôi sự thoải mái, lợi ích, bổng lộc, và tránh những gì làm
tôi đau khổ, bất lợi hay thua thiệt.
Quan điểm lợi dụng này ảnh hưởng đến
cách chúng ta liên hệ với nhau. Nếu mục đích chính của đời
tôi là theo đuổi thú vui, thì tôi sẽ cân nhắc những chọn lựa
dựa theo tiêu chuẩn là chúng làm cho tôi vui nhiều hay ít.
Cho nên nhiều người thời nay, kể cả nhiều Kitô hữu tốt, đánh
giá một mối liên hệ dựa theo tiêu chuẩn là người kia ích lợi
cho tôi thế nào trong việc đạt được mục đích của tôi, hoặc
tôi được “vui thú” bao nhiêu khi gần người ấy. Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II nói rằng một khi chúng ta đồng ý với
những thái độ lợi dụng này, chúng ta bắt đầu coi người khác
trong cuộc đời chúng ta như những vật dụng được dùng để làm
ta vui thích (trang 37).
Điều này giúp chúng ta hiểu tại sao
ngày nay nhiều liên hệ bạn bè, “bồ bịch”, và ngay cả hôn
nhân, quá mỏng dòn và rất dễ đổ vỡ. Nếu tôi đánh giá một
người phụ nữ chỉ dựa theo việc nàng có lợi cho tôi hoặc tôi
có tìm được những khoái cảm khi gần nàng hay không, thì liên
hệ này không có nền tảng. Khi nào tôi cảm thấy không còn
vui thú hay không còn có lợi khi gần nàng, hoặc tôi thấy một
người phụ nữ khác có lợi cho tôi hay làm cho tôi thích thú
hơn, thì nàng không còn giá trị gì đối với tôi nữa. Quan
niệm này quá khác biệt với nguyên tắc cá nhân và còn khác
hẳn với sự liên hệ của tình yêu chung thủy.
Tình Yêu và Tình Bạn
Trong khi bàn về tình yêu, Đức Thánh
Cha đã nói đến ba loại tình bạn. Theo Aristotle thì có ba
loại tình bạn dựa theo ba thứ tình cảm nối kết con người với
nhau.
Trước hết là tình bạn vị lợi, là tình
cảm dựa vào ích lợi hay việc dùng bạn bè trong sự liên hệ
này. Mỗi người đều được một vài ích lợi nào đó từ tình bạn
này, và mối lợi mà cả hai bên có đuợc từ liên hệ này là mối
dây nối kết hai người. Thí dụ ông Công có một hãng xây cất
ở Houston. Ông làm bạn với ông Đinh ở San Francisco vì ông
Đinh bán cho ông Công một loại đinh đặc biệt với giá rẻ để
xây nhà. Vì chuyện làm ăn, hai người thăm viếng nhau một
năm hai ba lần, nói chuyện trên điện thoại và gửi điện thư
cho nhau thường xuyên. Sau nhiều năm làm ăn với nhau, họ
biết rõ gia đình cùng hoàn cảnh của nhau, và trở nên bạn
thân. Nhưng điều làm hai người gắn bó với nhau chính là mối
lợi mà họ nhận được từ tình bạn này.
Thứ hai là tình bạn dựa theo những niềm
vui mà hai bên nhận được từ nhau. Một người coi bạn mình
như người làm cho mình vui thích. Có thể hai người cùng
thích một môn thể thao, một loại món ăn, một thứ âm nhạc, đi
chơi cùng một nơi, hay thích đến cùng một hộp đêm…. Hai
người có thể thật sự lo lắng và quan tâm cho nhau, nhưng
điều nối kết hai người lại với nhau chính là niềm vui mà hai
người nhận được khi gần gũi nhau.
Nền Tảng Mong Manh
Aristotle ghi nhận rằng tình bạn dựa
trên ích lợi hay niềm vui là những tình bằng hữu căn bản,
nhưng chưa hoàn toàn. Những tình bằng hữu ấy chưa hẳn đã là
xấu, nhưng chúng rất mong manh và khó bền lâu được. Với
thời gian, một người có thể đổi nghề và tình bạn không còn
mang lại lợi ích cho nhau nữa. Thí dụ ông khi Công bỏ nghề
xây cất, không còn mua đinh của ông Đinh nữa thì hai người
sẽ bớt liên lạc với nhau, và tình bạn sẽ từ từ phai nhạt.
Cũng thế, trong tình bạn vui chơi, nếu một người đổi sở
thích hoặc di chuyển đi một nơi khác, hai người sẽ không còn
gặp nhau thường xuyên, họ phải tìm bạn khác, và dần dần tình
bạn cũng lạt đi. Đó là lý do tại sao tình bạn của giới trẻ
thay đổi thường xuyên vì hoàn cảnh và sở thích của họ thay
đồi.
Tình Bạn Đoan Chính
Theo Aristotle, loại tình bạn thứ ba là
tình bạn hoàn toàn nhất. Có thể được gọi là tình bạn đoan
chính vì hai người kết bạn với nhau không phải vì tư lợi hay
thú vui mà vì cùng theo đuổi một mục đích: “Một đời sống tốt
lành”, một đời sống đạo hạnh trong nhân đức. Trong hai loại
tình bạn kia, người nào cũng tìm một lợi ích nào đó cho
mình, còn trong tình bạn đoan chính, hai người theo đuổi một
điều gì ngoài mình, vượt trên những tư lợi. Chính lợi ích
cao thượng này nối kết họ lại với nhau trong tình bạn của
họ. Cùng nhau cố gắng sống một cuộc đời tốt đẹp và khuyến
khích nhau trên đường nhân đức, người bạn thật không để tâm
đến việc mình được ích lợi gì qua tình bạn, mà chỉ để tâm
đến điều gì tốt nhất cho bạn mình và cho việc cùng bạn theo
đuổi một đời sống nhân đức.
Điều Gì Củng Cố hay Làm Hỏng Mối
Tình Bằng Hữu
Từ những nền tảng trên, Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II chỉ cho chúng ta một phương thức để giúp cho
tình bạn của chúng ta khỏi rơi vào chủ thuyết sử dụng. Ngài
nói rằng chỉ có một cách duy nhất để con người không lợi
dụng nhau là cùng nhau theo đuổi công ích, như trong tình
bạn đoan chính. Khi một người thấy điều gì tốt cho tôi, và
người ấy coi như điều ấy cũng tốt cho mình, “một mối liên
hệ đặc biệt được thiết lập giữa tôi và người ấy: mối dây
liên hệ về công ích và mục đích chung” (tr. 28). Mục
đích chung này liên kết con người lại với nhau tận đáy
lòng. Khi chúng ta không để ý đến công ích trong liên hệ
với người khác, chúng ta không thể tránh được việc dùng
người khác như phương tiện phục vụ mục đích riêng của mình.
Đặc biệt là trong hôn nhân, thường
chúng ta dễ theo ý riêng, bắt chồng (hay vợ) và con cái làm
theo chương trình, ý muốn và dự tính của mình. Nhưng theo
Đức Thánh Cha, thì tình bạn chân chính, đặc biệt là trong
hôn nhân, phải đặt một mục đích chung lên trên, và mục đích
chung bao gồm sự kết hợp giữa hai vợ chồng, việc vợ chồng
phục vụ lẫn nhau và giúp nhau nên thánh, sinh sản và dạy dỗ
con cái.
Sở thích và dự tính riêng của mỗi người
phải lệ thuộc vào lợi ích chung này. Hai vợ chồng phải tùng
phục và nhường nhịn nhau vì ích lợi của con cái. Phải cố
gắng đừng để cho chủ nghĩa cá nhân ích kỷ xâm nhập vào hôn
nhân. Hai vợ chồng phải cùng nhau hành động nhắm đến mục
đích chung này, và phải tìm cách dùng thì giờ, năng lực, và
tài nguyên để đạt được các mục đích chung của hôn nhân.
Đức Thánh Cha giải thích rằng việc hai
vợ chồng kết hợp với nhau trong công ích này sẽ bảo đảm việc
người này không bị người kia sử dụng hay bỏ rơi. “Khi
hai người khác nhau cùng chọn một mục đích chung cách ý
thức, đìều này đặt họ ngang hàng với nhau, và tránh được
việc một người phải phục tùng người kia. Cả hai… đều lệ
thuộc vào điều tốt lành mà họ chọn làm mục tiêu chung”
(tr. 28-29).
Không có mục tiêu chung này, mối dây
liên hệ của chúng ta sẽ rơi vào tình trạng một người sẽ lợi
dụng người khác để thủ lợi hoặc tìm thú vui. Trong những
bài kế tiếp, chúng tôi sẽ trình bày tầm quan trọng của những
điểm nền tảng này trong việc phải xử sự ra sao với những
quyến rũ về tình cảm và thể lý mà chúng ta thường gặp phải
khi đương đầu với những người khác phái.
GLV. Phaolô Phạm
Xuân Khôi
Viết theo bài
Getting It Right: The Foundation of Friendship,
Edward P.Sri, nguyệt san Lay Witness, Jan/Feb 2005. |
VỀ MỤC LỤC |
|
BÍ TÍCH THÁNH TẨY
và ƠN CỨU ĐỘ |
Hỏi: Xin Cha giải thích : bí tích rưả tội đã đủ cho
ta được phần rỗi chưa ? Nếu chưa, còn phải làm gì thêm nữa
để được cứu độ ?
Trả lời: Trong Tin Mừng các Thánh Mác cô và
Gioan, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh sự quan trọng và cần thiết
của Phép Rửa như sau :
“
Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; ai không tin sẽ bị
kết án.” (Mc 16:16)
“ ..Không ai
có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và
Thần Khí.”
(Ga 3:5)
Như thế đủ cho thấy Phép
Rửa (Baptism) quan trọng và cần thiết như thế nào cho phần
rỗi của con người. Sở dĩ thế vì tất cả những ai sinh ra
trong trần thế này đều vướng mắc không những tội tổ tông
(original sin) do Nguyên Tổ để lại hậu quả nặng nề mà còn
phạm thêm những tội cá nhân khác vì bản chất yếu đuối của
mình nữa. Nhưng nhờ phép Rửa , con người được thanh tẩy khỏi
mọi vết nhơ của tội nguyên tổ và mọi tội cá nhân khác và
nhất là được tái sinh trong sự sống mới để được hy vọng
sống hạnh phúc muôn đời trong Nước Thiên Chúa.(x. SGLGHCG,số
1263).
Thánh Phaolô cũng dạy
rằng : qua phép rửa, chúng ta được mai táng trong sự chết
của Chúa Kitô để rồi “ cũng như Người
đã được sống lại từ cõi
chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha thì chúng ta cũng
được sống đời sống mới.” (Rm 6:3-4).
Đó là tất cả những lợi
ích thiêng liêng và sự cần thiết của Phép Rửa cho phần rỗi
của mọi người chúng ta.
Tuy nhiên, câu hỏi
được đặt ra là rửa tội rồi, như thế đã đủ chưa, đã bảo đảm
chắc chắn được ơn cứu độ chưa hay còn phải làm gì nữa thì
mới được phần rỗi ?
Để trả lời cho câu hỏi
này, trước hết chúng ta cần đọc lại lời dạy sau đây trong
Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo :
“Nhờ phép Rửa tội, tất cả
mọi tội đều được tha, từ tội nguyên tổ đến mọi tội cá nhân,
cũng như tất cả mọi hình phạt của tội…….. .Tuy nhiên, nơi
người đã được rửa tội, một số những hậu quả của tội lỗi vẫn
tồn tại, như những đau khổ, bệnh tật, sự chết, hoặc những sự
yếu đuối gắn liền với sự sống như những yếu đuối trong tính
tình,v.v cũng như sự hướng chiều về tội lỗi mà Truyền Thống
gọi là nhục dục (concupiscence) hay còn gọi cách ẩn dụ là
“lò phát sinh tội lỗi=fomes peccati) còn để lại cho con
người phải vật lộn với nó. Nó không thể làm hại những người
không chiều theo nó mà còn can đảm chống lại nó với sức của
mình nhờ ơn sủng của Chúa Kitô. Quả vậy, “ người lực sĩ điền
kinh sẽ không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ” (2
Tm 2:5)” ( x. Sđd, số 1263-1264).
Câu giáo lý trên đây có
nghĩa thế nào ?
Trước hết, Giáo Hội nói
rõ cho chúng ta biết là phép rửa, tuy rửa sạch mọi tội lỗi,
từ tội nguyên tổ cho đến tội cá nhân, nhưng không đổi mới
hoàn toàn bản chất của con người đã bị băng hoại vì hậu quả
của tội nguyên tổ (original sin). Nói khác đi, phép rửa
không trả lại cho con người “tình trạng công chính hay
ngây thơ ban đầu”( original innocence or justice), một tình
trạng ơn phúc đặc biệt mà Adam và Eva đã sống trước
khi phạm tội. Ở tình trạng này, hai ông bà không thể sa
ngã được vì yếu đuối như con người ngày nay. Nhưng họ đã
phạm tội vì đã sử dụng ý chí tự do (free will) mà Thiên Chúa
đã ban và hoàn toàn tôn trọng. Nghiã là Chúa đã không ngăn
cản họ phạm tội vì Ngài muốn tôn trọng quyền tự do lựa chọn
của họ. Ngài cũng vẫn tiếp tục tôn trọng như vậy đối với
con người ngày nay.Vì thế mới có vấn để thưởng phạt được đặt
ra cho con người về mọi việc mình làm trong cuộc sống trên
đời này.
Mặt khác, như giáo lý đã
dạy trên đây, tội được tha, được rửa sạch nhờ phép rửa nhưng
hậu quả của tội còn tồn tại trong bản tính yếu đuối của con
người.Nghĩa là, sau khi được rửa tội, người ta vẫn bị chi
phối bởi khuynh hướng nghiêng chiều về tội lỗi, về sự dữ,
sự xấu. Ngoài ra, con người vẫn có ý chí tự do mà Thiên Chúa
luôn tôn trọng khi người ta muốn sử dụng. Cho nên, cơ hội
phạm tội vẫn còn đầy rẫy và đeo đuổi con người mãi cho đến
giờ phút cuối cùng trong cuộc sống trên đời này.
Thêm vào đó, ma quỉ
“ thù địch của anh em như sư tử gầm
thét, rảo quanh tìm mồi cắn
xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì
biết rằng toàn thể anh em trên trên trần gian này đều trải
qua cùng một loại thống khổ như thế.” ( 1 Pr 5:8-9)
Đó là tất cả tình trạng
của con người ngày nay sau khi đã được tái sinh trong sự
sống mới nhờ phép rửa. Được tái sinh và tha thứ mọi tội lỗi
một lần qua phép Rửa rồi, nhưng sau đó người ta vẫn có thể
phạm lại những tội cũ và nhiều khi còn tệ hại hơn trước nữa
vì những lý do nêu trên.
Cụ thể, đó là trường hợp
những người đang sống theo “văn hoá sự chết”, đang lường
đảo, gian ác, sống vô luân, lỗi công bình và bác ái ở khắp
mọi nơi trên thế giới ngày nay. Trong số họ, chắc chắn có
những người đã được rửa tội khi còn bé hay mới gia nhập Giáo
Hội sau này. Đặc biệt đang có rất nhiều người Công Giáo ở Mỹ
đãly dị hay bỏ vợ già để về ViệtNam cưới những cô gái trẻ,
đáng tuổi con cháu mình để mua vui đốn mạt, bất chấp liêm sỉ
và đạo đức ! Như thế phép Rửa đâu có ích gì và bảo đảm chút
nào cho phần rỗi của những loại người này, nếu họ cứ tiếp
tục con đường phi luân, vô Đạo đó.
Vậy, rửa tội phải đi kèm
với đời sống đức tin, đức cậy và đức mến để
“ trở
nên những con người vẹn
toàn của Thiên Chúa giữa một thế hệ gian tà, sa đọa” ( Pl 2:
15) như Thánh Phaolô đã dạy.
Nghĩa là phải có quyết
tâm chừa bỏ tội lỗi và sống theo đường lối của Chúa.
Bao lâu chúng ta còn sống
trong thân xác có ngày phải chết này thì bấy lâu ta còn phải
đương đầu với những thử thách, cám dỗ của ma quỉ, thế gian
và xác thịt.
Chỉ trong viễn ảnh chiến
thắng mọi nguy cơ của tội lỗi và quyết tâm sống đời
sống mới mà phép rửa đã mở ra, người ta mới có hy vọng được
cứu rỗi mà thôi.
Tóm lại, rửa tội rồi cũng
ví như vận động viên đựợc ghi tên tranh tài ở Thế Vân Hội
Olympic. Được ghi tên đi dự không có nghĩa là chắc chắn sẽ
đoạt giải, chiếm huy chương vàng mang về. Đây chỉ là ước mơ
của mọi lực sĩ mà thôi. Muốn đoạt giải, phải vận dụng mọi
khả năng kỹ thuật và thi đấu đúng luật chơi thì mới mong
đoạt giải vinh thắng (x 1Tm 2:5).
Cũng vậy, muốn được cứu
rỗi thì điều kiện tiên quyết là phải có đức tin và được rửa
tội. Nhưng sau đó, phải lớn lên trong những đòi hỏi của
phép rửa ở mọi chiều kích.
Cụ thể, phải thực hành
tốt những cam kết khi lãnh bí tích quan trọng này. Đó là tin
và yêu mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự, xa tránh tội lỗi,
quyết tâm từ bỏ ma qủi và mọi việc thuộc về chúng. Nếu
không, phép Rửa sẽ trở thành vô ích cùng với Công nghiệp Cưú
chuộc vô giá của ChúaGiêsu- Kitô. Nói khác đi, phép Rửa và
Công nghiệp Cưú chuộc của Chúa Kitô chỉ có ích cho những ai
thành tâm thiện chí sống đời sống mới được tái sinh nhờ phép
rửa và tích cực cộng tác với ơn Chúa cho đến chung cuộc mà
thôi, vì “ ai bền chí
đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 24:13)
Lm.
Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Tác phẩm 13
khuôn mặt của Tình yêu |
Dominique AUZENET
Lm Micae-Phaolô Trần Minh Huy chuyển
ngữ
Lời Nói đầu
Những bước
đường Tình Yêu
Tình yêu là cái "tất yếu" của trái tim con người. Tình yêu
là một nhu cầu tự nhiên, một nhu cầu kép của con tim rất
thiếu lại rất thừa : thừa vì muốn cho, nhưng thiếu vì muốn
nhận, thừa vì muốn yêu người khác và thiếu vì muốn được
người khác yêu mình. Hầu như có một sức mạnh lạ lùng vừa
hướng tới một ai khác vừa kéo "một ai khác đó" về với mình,
để rồi đẩy đưa con người đi tới gặp gỡ và kết nối, cần nhau
và không thể thiếu nhau, lại luôn bổ túc cho nhau. Phải
chăng đó là trật tự và quân bình sáng tạo của Thiên Chúa
dựng nên con người có nam có nữ, có âm có dương, có ngày có
đêm, có nóng có lạnh, có cứng có mềm... Và mãi mãi con người
vẫn đi tìm cái thế quân bình đó, như chiếc kim của la-bàn dù
được đặt ở bất cứ phương vị nào cũng hướng về Cực Bắc ?
Nhưng càng lớn lên trong cuộc đời, con người càng cảm nhận
được cái nghịch lý của tình yêu : Tình yêu là cái dễ hiểu
nhất, mà cũng là cái khó hiểu nhất ; là cái thú vị đáng mơ
ước nhất, nhưng cũng là cái mạo hiểm phiêu lưu nhất, với
thành công ngọt ngào hay thất bại đắng cay ... vì thế quân
bình mất điểm tựa, điểm tựa tự nhiên và nền tảng.
Nhưng điểm tựa đó là gì ? Người thường, không ai định nghĩa
đúng được tình yêu, bởi vì như Blaise Pascal nói : "Con tim
có những lý lẽ mà lý trí không biết được". Chỉ có một vị
thánh, thánh Gioan, "người môn đệ mà Chúa Giêsu yêu",
định nghĩa đúng được tình yêu :"THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU".
Thiên Chúa yêu thương con người trước. Ngài yêu cho đến
cùng, bất chấp tất cả. Và ta thế nào thì Ngài yêu ta thế ấy.
Ngài lại trao cho ta luật mới tình yêu của Ngài : Yêu Chúa
trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình : "Thương như
Chúa thương" và cũng "Chỉ vì lòng Chúa thương". Chính
Thiên Chúa là điểm tựa đó.
Còn tình yêu của ta đối với Chúa và tha nhân thế nào ? Ai
cũng có tình yêu, và không ai có thể sống mà không có tình
yêu. Cái quan trọng là bản chất và đối tượng, cũng như cách
biểu lộ và thực hiện của tình yêu đó. Thường người ta nhấn
mạnh và giản lược tình yêu vào tình yêu nam nữ - vợ chồng,
là thứ tình yêu tự nhiên, hấp dẫn, cần thiết, quân bình và
sâu xa nhất mà con người có thể lãnh hội dễ dàng, đến đổi
Thánh Kinh cũng lấy tình yêu vợ chồng để diễn tả mối tương
quan giữa Thiên Chúa với Dân Người, với Giáo Hội và với mỗi
một tâm hồn.
Bạn đã biết yêu và đã yêu chưa ? Tình yêu không có giờ hẹn :
Tình yêu đến nhiều khi rất bất ngờ. Tình yêu thật không có
tuổi tác, hay những cách biệt xã hội... Nếu định nghĩa tình
yêu đã là khó, thì nêu lên lý do tại sao yêu lại càng khó
hơn. Nhưng tình yêu là một quá trình : Tình yêu kêu gọi tình
yêu, tình yêu "xin" tình yêu. Và tình yêu được tình yêu đáp
trả mới thật là tình yêu. Tình yêu sẽ triển nở trọn vẹn khi
được trao tặng đúng đối tượng. Tình yêu mạnh hơn tất cả,
tình yêu mạnh hơn sự chết khi tình yêu "có được" đúng đối
tượng của mình ... Đối tượng đó có thể là một con người, một
lý tưởng, một tôn giáo, và trên hết là chính Thiên Chúa,
"đối tượng duy nhất" như các tu sĩ hằng tuyên khấn.
Không ai có thể sống mà không cần đến người khác, vì vậy
chúng ta cần phải hiểu biết nhau hơn, để sống tốt hơn trong
tình huynh đệ với tư cách là người kitô hữu. Cách sống đó
khiến chúng ta trở nên chứng nhân đích thực của Tin Mừng
Chúa Kitô : "Kìa xem họ yêu thương nhau là dường nào !" Và
chính thèm sống cuộc sống yêu thương nhau của các kitô hữu
đầu tiên đó mà người ta gia nhập Đạo. Vì thế mà Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II nhấn mạnh luôn rằng thế giới ngày nay
cần nhiều chứng tá hơn.
Mỗi người, dù lớn dù nhỏ và dù ở bất cứ địa vị nào, bậc sống
nào, cũng đều có một hoàn cảnh riêng, những ưu tư lo lắng
riêng, những vui buồn, hạnh phúc và đau khổ riêng, những
thành công và thất bại, khôn ngoan và dại khờ, mạnh mẽ và
yếu đuối, nhân đức và tội lụy riêng, không ai thật sự giống
ai... Nhưng tất cả đều có lời giải thích, và lời giải thích
nào cũng có lý của nó. Chỉ có sự tôn trọng, nhẫn nại lắng
nghe và yêu thương chia sẽ trong sự khiêm tốn đặt mình vào
hoàn cảnh của kẻ khác, với ý nghĩ rằng nếu Chúa không thương
gìn giữ thì ta chắc gì đã hơn họ, mà có khi còn tệ hơn gấp
bội, lại để cho lòng nhân từ của Chúa đoán xét, ta mới có
thể hiểu được họ, cảm thông với họ và họ mới cảm thấy được
an ủi nâng đỡ.
Người ta dễ bị xếp loại và kết án, loại trừ và xa lánh quá
đi rồi, khiến lòng họ trở nên cay đắng, khô cứng, tự vệ và
đóng kín, buông xuôi tuyệt vọng, hoặc có khi nổi loạn, tàn
bạo tấn công, phơi trần vạch mặt lỗi lầm của những kẻ mà họ
cho là giả hình. Cuộc đời đang cần những môn đệ của Chúa
Giêsu giống Thầy mình : đi tìm chiên lạc, lắng nghe, không
kết án, không xua đuổi hay xa tránh ... Tình yêu thương và
bác ái mục vụ đó mở ra và hướng dẫn con đường về, về với
Chúa là Cha đang nhẫn nại chờ đợi và giang tay đón mời : Tôi
sẽ chổi dậy và đi về cùng cha tôi. Lạy Chúa, xin thương
con theo lòng nhân hậu của Chúa, xin đừng đuổi con xa nhan
thánh Ngài, xin lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con, con sẽ
dạy cho người tội lỗi biết đường lối Chúa và những ai lạc
bước sẽ trở về với Ngài. Ai dám nói mình là vô tội để ném
viên đá đầu tiên ?! Cùng là con, cùng là tội nhân, hãy cùng
dìu nhau trở lại Nhà Cha là Đấng cứu độ.
Nhưng, tình yêu luôn cần được nuôi dưỡng, huấn luyện và
hướng dẫn, thử thách và thanh luyện, ... theo một mẫu mực.
Nhưng mẫu mực nào ? Trải qua kinh nghiệm bản thân và kinh
nghiệm chia sẽ của bao nhiêu người : Bao nhiêu hạnh phúc,
bao nhiêu đau khổ, bao nhiêu tiếng cười, bao nhiêu nước mắt,
bao nhiêu ngọt ngào, bao nhiêu cay đắng, bao nhiêu chịu
đựng, bao nhiêu quảng đại tha thứ, bao nhiêu ghen tuông, oán
hận và tiếc nuối, bao nhiêu sum họp, bao nhiêu ly tan, bao
nhiêu hàn gắn, bao nhiêu đổ vở... tới nay, tôi có thể nói :
Chỉ có một mẫu mực thực sự, là chính Đức Giêsu Kitô - Thiên
Chúa làm người và Tình Yêu của Ngài.
Trong chiều hướng nầy, Thánh Kinh là một chuyện tình, một
giao ước tình yêu, mà Thiên Chúa là phía luôn luôn trung
thành : Dù Phêrô chối Ngài, Chúa Giêsu không loại trừ Phêrô
; và khi trao quyền chăn đàn chiên của Ngài cho ông, Chúa
Giêsu đã chỉ đòi Phêrô "tuyên xưng tình yêu". Thánh Phaolô,
người đã bắt bớ tín hữu, quyết loại trừ Danh Giêsu, nhưng
Chúa Giêsu đã yêu Phaolô, bất chấp tất cả những gì Phaolô đã
làm ... Và một khi đáp trả lại tình yêu Giêsu, Phaolô không
còn muốn biết ai hay gì khác nữa ngoài Giêsu, và Giêsu chịu
đóng đinh trên thập giá.
Rồi qua kinh nghiệm của mình, trong thư gởi tín hữu Corintô,
Phaolô chỉ dẫn cho chúng ta hành trình tình yêu đó, mà tôi
muốn chia sẻ với bạn qua cuốn sách L'AMOUR EN TREIZE ÉTAPES
của Cha Dominique AUZENET do Éditions des Béatitudes ấn hành
năm 1998 mà tôi xin phép chuyển ngữ, - và có phần chỉ chuyển
ý : "mười ba NÉt mặt tình yêu "[1].
Trên những bước đường tình yêu, ta có thể gặp đủ thứ : Bình
an xuôi thuận hay gian nan vất vả, nắng ấm trăng thanh hay
mưa sa bảo tố, bạn hiền và tín trung, hay phản bội trộm
cướp, lưu manh và sở khanh, có khi dừng lại vì vấp ngã và
thương tích, có khi phải thối lui hay đổi hướng ... Thánh
Augustinô cầu nguyện : "Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa,
xin cho con biết con". Còn Tôn Vũ thì nói : "Biết người biết
ta, trăm trận trăm thắng". Biết mình đã là khó, huống chi
biết người ! Đến đỗi tiền nhân phải thốt lên :"Vi nhân
nan" (làm người khó) ! Khó không có nghĩa là bỏ không làm,
dù có khi thành công có khi thất bại, như vị văn hào nổi
tiếng của Việt Nam đã nói : "Ai từng chiến thắng mà không hề
chiến bại, ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần, nhưng đây
chưa phải trận sau cùng chiến đấu". Chớ gì trong mọi cuộc
chiến đấu, trước hết ta được "thành nhân", rồi mới mong
thành "thánh nhân".
Như thế giá trị đích thực của con người không phải được đo
lường đánh giá bằng những kỳ công hay kiệt tác đã thực hiện,
cũng không phải bằng những chiến thắng đè bẹp người khác, về
uy quyền, về tiền bạc, về tài trí, về thủ đoạn bè phái,
v.v... mà chính là bởi sự "thành nhân" của mình. Đó là cái
mà thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Corintô gọi là Đức Ái.
Đức Ái đó phải là động lực của tất cả, như cha ông chúng ta
căn dặn : "Làm chi thì cũng phải để lại một chút tình, để
sau nầy còn có thể nhìn lại cho sửa mặt nhau".
Thiếu chút tình đó, Cain đã không thể nhìn sửa mặt em ruột
mình là Abel, để rồi đi đến chỗ giết chết em. Lòng ghen ghét
đã có từ buổi đầu trong mối tương quan giữa người với người
! Bằng chính sức lao động của mình, Cain trồng trọt và Abel
chăn nuôi. Cả hai đều dâng lên Chúa hoa màu ruộng đất và lao
công của con người mình, có khác là khác ở phẩm chất lễ vật
biểu lộ tấm lòng. Và Thiên Chúa, Đấng muốn tình thương hơn
của lễ, đã đón nhận của lễ của người có chút tình.
Hãy bỏ chút tình đó vào trong cuộc sống và trong các mối
tương giao của ta. Đừng lấy làm lạ khi bị ghen ghét, dèm
pha... và nhất là đừng thèm dèm pha ghen ghét, phá đổ kẻ
khác. Hãy nghĩ tới tổng lượng của đại cuộc, hãy cố gắng theo
kịp người, và khi cần thì cứ vượt hơn người, đừng buồn khi
thấy người theo kịp mình và vượt trổi hơn mình, đừng ngăn
cản song hãy giúp họ tiến, niềm vui về thành công của đại
cuộc sẽ là phần thưởng cao quí và lớn lao vô cùng. Đó cũng
chính là ý nghĩa và nổ lực của chương trình mà chúng tôi vẫn
cố theo đuổi, hầu làm được một cái gì cho những người kém
may mắn hơn mà Chúa Quan Phòng gởi đến cho mình, cho dù có
phải trả giá đắt.
Tuy có nhiều bước, nhiều chặng, nhưng Đường Tình Yêu đã có
mục đích : Phải luôn chổi dậy, phải luôn đi tới, vì vẫn luôn
có một bạn đồng hành trung tín : "Đường trần không bước một
mình, nhưng mà có Chúa Vô Hình cùng đi". Tôi mời bạn cùng
tiến bước theo Chúa Giêsu. Không chỉ mời gọi ta theo
Ngài, Chúa Giêsu còn mở đường cho ta. Dù đôi khi mọi cánh
cửa xem ra đóng chặt, Ngài vẫn chừa cho ta một lối nhỏ ...
Trên đường dài mệt mỏi, gánh nặng, vấp ngã,...Ngài còn nâng
đỡ và làm lại sức cho ta nữa. Song quả thật Ngài chính là
Con Đường, và đường của Ngài sẽ dẫn ta đến Sự Thật, Sự Thật
giải thoát chúng ta và cho chúng ta Sự Sống Đời Đời, như
Ngài đã nói : "Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống".
"Trong các ân huệ Thiên Chúa ban, anh em cứ tha thiết tìm
những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây, tôi xin chỉ cho anh em
Con Đường Trổi Vượt hơn cả :
Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người, và
của các thiên thần đi nữa, mà tôi không có Đức Ái, thì tôi
cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, hay chuõm choẹ
xoang xoảng!
Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi bí
nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả Đức Tin đến
chuyển núi dời non, mà không có Đức Ái, thì tôi cũng chẳng
là gì !
Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay
nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có Đức Ái,
thì cũng chẳng ích gì cho tôi !
Đức Ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không
vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm
tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi
thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.
Đức Ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả,
chịu đựng tất cả.
Đức Ái không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư ? - Cũng
chỉ nhất thời ! Ơn nói các tiếng lạ chăng ? - Có
ngày sẽ hết ! Ơn hiểu biết ư ? - Rồi
cũng chẳng còn !
Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn
nói tiên tri cũng có hạn, khi cái Hoàn Hảo tới, thì cái có
ngần có hạn sẽ biến đi. Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi
nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như
trẻ con ; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất
cả những gì là trẻ con. Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ, như
trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ
tôi chỉ biết có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết,
như Thiên Chúa biết tôi. Hiện nay, Đức Tin, Đức Cậy, Đức Ái,
cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là Đức Ái".
(I Cor.12, 31 - 13, 13)
Micae-Phaolô
Trần Minh Huy pss
"Trong thư gửi tín hữu Côrintô, khi thánh
Tông đồ trình bày cho người nhận hình ảnh nầy của đức ái
Phúc âm, chắc chắn trí óc và tâm hồn ngài hoàn toàn ngập
tràn tư tưởng về tình yêu của Chúa Kitô mà ngài muốn hướng
cộng đoàn tín hữu đến, đến đỗi chúng ta có thể coi bài ca
đức ái của ngài như một bản chú giải luật dạy chúng ta yêu
thương nhau theo gương mẫu Chúa Kitô Tình Yêu"
ĐTC Gioan Phaolô
II
Bài Giáo lý ngày Thứ Tư 31.8.1988
"Thánh Phaolô không bận tâm đánh giá tình
yêu, cũng chẳng bận tâm giải thích cho chúng ta tình yêu
là gì và tình yêu không là chi. Một cách đơn sơ nhưng có
tính cách giáo dục nhiều hơn, ngài nói cho chúng ta cái tình
yêu làm hay không làm : 16 động từ, 16 hành động, tốt hay
xấu. Trước hết, hai hành động tích cực và bổ sung, rồi bảy
lối ứng xử để tránh ; tiếp đến, cách song đối, bốn nhân đức
được diễn tả trong bốn công thức loại suy ; sau cùng là tột
đỉnh, vì có sự vươn lên với ba nhân đức đối thần".
P. Scheffer
La Parole notre amie, Christ
Source de Vie 1984, p.58 |
VỀ MỤC LỤC |
|
Miễn
Dịch Với Bệnh |
Câu
Chuyện Thầy Lang
Bác sĩ
Nguyễn Ý Ðức
Cơ thể con người là mảnh
đất phì nhiêu mầu mỡ mà các tác nhân gây bệnh trong môi
trường xung quanh luôn luôn muốn xâm nhập. Xâm nhập để có
chất dinh dưỡng cũng như xâm nhập để phá hoại, gây bệnh. Nào
là vi sinh vật độc hại, hóa chất nguy hiểm, thời tiết ác
liệt đầy dẫy trong không gian.
May mắn là tạo hóa tiên
liệu được chuyện này, nên đã cho con người một số cơ cấu để
phòng ngừa, bảo vệ.
Làn da lành lặn ngăn chặn
sự xâm nhập của biết bao nhiêu vi khuẩn, hóa chất, phong
sương ám khí.
Chất nhờn, mao thể của
khí quản hô hấp loại trừ nhiều vật lạ lẫnlộn trong không
khí manh tâm bay vào phổi;
Chất chua trong bao tử
tiêu diệt vi sinh vật có hại cho bộ máy tiêu hóa.
Hệ thống lọc máu của hai
trái thận loại ra khỏi cơ thể biết bao nhiêu cặn bã hóa
chất, mà khi nồng độ quá cao trong máu sẽ đưa tới tổn thương
cho nhiều cơ quan.
Những giọt nước mắt mang
đi vô vàn hạt bụi, vi sinh vật vô tình hay cố ý ghé vào hai
cửa sổ của tâm hồn.
Nước miếng làm miệng bớt
khô đồng thời cũng loại bỏ vi sinh lẩn quẩn trong kẽ răng,
góc miệng;
Tinh dịch, dịch âm hộ với
nồng độ acid vừa phải cũng hóa giải nhiều vi sinh vật ẩn náu
nơi đây;
Và hiện tượng viêm sưng
tế bào do binh đoàn thiện chiến thực bào, bạch cầu đơn nhân
phụ trách để ngăn sự xâm nhập và lan rộng của vi khuẩn,
virus trong cơ thể.
Ðó là hàng rào bảo vệ
không chuyên biệt có sẵn trong cơ thể chống lại bệnh và loại
bỏ các chất không tinh khiết khỏi cơ thể.
Nhưng một hệ thống chống
ngừa bệnh chuyên biệt, thần diệu, tuyệt hảo hơn cả có lẽ vẫn
là sự Miễn Dịch của cả động vật lẫn thực vật.
Lịch sử
Manh nha hiểu biết về
Miễn Dịch bắt đầu với phát minh ra kính hiển vào thế kỷ thứ
16. Trước đó các nhà y học vẫn cho bệnh nhiễm là do sơn lam
chướng khí, thần linh ma quái gây ra. Với kính hiển vi tác
nhân gây bệnh nhiễm được chứng minh là do các vi sinh vật có
hại.
Miễn dịch đã được dùng
một cách thô sơ ở Trung Hoa, Ấn Độ, Hy Lạp từ ngàn năm trước
khi họ tìm cách ngừa bệnh đậu mùa bằng chất liệu lấy từ
người bệnh đưa vào người lành. Sau đó, nhiều y khoa học gia
cũng lưu tâm khảo cứu thêm về vấn đề này.
Nhưng phải đợi tới năm
1796, sự việc mới được cụ thể hóa.
Y sĩ người Anh, Edward
Jenner, nhận thấy là người vắt sữa ở những con bò có bệnh
đậu mùa sẽ bị lây bệnh. Từ đó về sau họ không bao giờ mắc
bệnh này. Ông ta bèn chủng chất nước trong mụn đậu bò cho
con người với hy vọng bảo vệ không bị bệnh đậu mùa trong
những dịp tiếp cận với mầm bệnh sau này. Và ông ta đã thành
công. Jenner chứng minh là cơ thể họ đã tạo ra các chất có
thể chống lại sự xâm nhiễm virus bò trong dịch vụ vắt sữa bò
kế tiếp.
Để chinh phục y giới về
kết quả việc khảo cứu, ông ta chủng cho chính con trai của
mình và đứa bé không bao giờ mắc bệnh. Bác sĩ Jenner đã
thành công và đặt nền móng cho việc chế tạo thuốc chủng an
toàn chống bệnh nhiễm khuẩn ở các quốc gia Tây Âu.
Từ nước Anh, thuốc ngừa
Đậu Mùa nhập cảng vào Hoa Kỳ. Được thông báo sự công hiệu
của thuốc chủng, Tổng Thống Thomas Jefferson bèn áp dụng cho
thân nhân, gia đình, và cả bà con lối xóm nữa.
Rồi bác học Louis Pasteur
và Robert Koch mở đường cho các hiểu biết về miễn dịch do tế
bào và thể dịch..
Sau đó nhiều khoa học gia
khác tiếp tục nghiên cứu khả năng quý báu này của cơ thể,
đặc biệt là Elie Metchinoff và Paul Ehrlich. Hai vị này là
những người đã đóng góp nhiều công trình cho Miễn dịch học
và điều trị bằng huyết thanh và đã được trao giải thưởng
Nobel về Sinh học.
Ngày nay Miễn Dịch đang
có vai trò rất quan trong trong việc điều trị cũng như phòng
ngừa bệnh cho loài nguời và các động vật khác.
Miễn
Dịch là gì?
Miễn Dịch là khả năng cơ
thể chống trả được sự nhiễm bệnh qua trung gian của kháng
thể và bạch huyết cầu trong máu.
Có hai
hình thức Miễn dịch chính:
1- Miễn dịch bẩm sinh, tồn tại ở người
hoặc đông vật từ lúc mới sinh ra, giống như là được thừa
hưởng các gene di truyền.
Chẳng hạn loài người
không bao giờ mắc một vài bệnh mà thú vật mắc phải; rất
nhiều người dễ bị một số bệnh (như dị ứng) mà người khác
không bao giờ có; dân Á châu thường bị bệnh sởi nhiều hơn
dân Âu Mỹ...
2- Miễn dịch Tiếp Thu acquired thành hình
sau khi sanh và liên tục trong suốt cuộc đời mỗi khi con
người tiếp cận với tác nhân gây bệnh.
Miễn Dịch Tiếp Nhận có
thể là:
a- Tự
Nhiên với:
* Tự Nhiên Chủ động tạo
ra khi tiếp xúc với tác nhân gây nhiễm.Tác nhân xâm nhập cơ
thể; cơ thể tạo ra kháng thể để chống lại. Mỗi lần tiếp xúc
là mô bào lại tạo ra chất chống lại.
Sự miễn dịch tồn tại
nhiều năm, đôi khi suốt đời với các tác nhân gây bệnh chuyên
biệt.
** Tự Nhiên Thụ động lãnh
hội từ máu, sữa của mẹ hiền.
Vì là món quà thừa hưởng
của mẹ, nên miễn dịch này kéo dài khoảng nửa năm mà thôi.
Sau đó thì bé dần dần tự tạo ra sức miễn dịch cho mình.
Nếu mẹ tiếp tục cho con
bú sữa mẹ, thì con vẫn tiếp nhận được kháng thể các loại từ
mẹ. Ðây là một trong nhiều lợi điểm khi mẹ cho con bú nguồn
sữa ấm áp của mình, nhất là những giọt sữa non chan hòa
huyết thanh, bạch cầu và kháng thể.
b- Nhân
Tạo với:
* Nhân Tạo Chủ động.
Khi con người chưa tiếp
cận với một tác nhân gây bệnh thì đương sự không có kháng
thể với tác nhân đó. Khi tác nhân tấn công thì con người
đành bó tay chịu bệnh.
Các nhà khoa học đã nghĩ
ra phương cách để con người có thể tạo ra kháng thể với mầm
gây bệnh bằng cách đưa một chút mầm vào cơ thể. Tất nhiên là
mầm đã được chế biến trong phòng thí nghiệm, làm giảm độc
tính để không gây bệnh mà vẫn tạo ra kháng thể. Ðó là dung
dịch vaccine.
Ðây là nguyên lý của sự
chủng ngừa hoặc tiêm phòng vắc xin. Ðáp ứng với vắc xin,
kháng thể được tạo ra dần dần sau mấy tuần lễ nhưng tác dụng
bảo vệ kéo dài tới vài năm hoặc vĩnh viễn và nhắm vào tác
nhân chuyên biệt với thuốc chủng ngừa.
Chủng ngừa thường được
dùng khi có đe dọa một dịch bệnh sắp xẩy ra hoặc để loại trừ
bệnh đó.
** Nhân Tạo Thụ động.
Như đã trình bầy ở trên,
sau khi chủng ngừa phải cần mấy tuần thì kháng thể mới được
sản xuất. Trong khi đó, nếu cơ thể bị một loại vi khuẩn độc
hại xâm nhập thì phải đối phó cách nào.
Chúng ta cứ yên tâm. Y
khoa học đã có giải đáp. Ðó là sự miễn dịch nhân tạo nhưng
thụ động.
Nhân tạo vì khi đó y giới
sẽ can thiệp cứu bệnh nhân.
Thụ động vì lương y sẽ
chích cho bệnh nhân kháng thể đã được điều chế sẵn, để dành
khi cần. Kháng thể chuyên biệt này được tức tốc truyền cho
bệnh nhân trong khi chờ đợi đương sự tự tạo ra tính miễn
dịch.
Cái đặc biệt của hệ Miễn
Dịch là một loạt những lưỡng cực. Quan trọng nhất là tính
cách nhận diện mình và người; chung và riêng; bẩm sinh và
tiếp nhận; qua tế bào hoặc thể dịch; chủ động với thụ động;
nguyên phát và thứ phát.
Nghĩa là Miễn dịch vừa
phân biệt “cái gì của mình” và cái gì “không phải của mình”,
nhận ra bạn để hỗ trợ, phát hiện ra địch để tiêu diệt.
Ghi nhớ và tấn công địch
khi tái xâm nhập.
Vừa có ảnh hưởng tổng
quát khắp cơ thể, vừa cục bộ nơi bị nhiễm độc. Do tự nhiên
mà có hoặc nhờ tiếp nhận mà thành.
Bảo vệ dưới hình thức tế
bào và dịch thể.
Tự lực cánh sinh tạo ra
hoặc được tặng dữ.
Miễn dịch không nhận diện
và đối phó các kim loại có hại trong cơ thể như thủy ngân,
chì.
Miễn dịch nhớ được cả
triệu vi khuẩn khác nhau. Mỗi lần có một vi khuẩn mới xâm
nhập là cơ chế tế bào lại tạo ra kháng thể riêng cho vi
khuẩn đó. Thành ra với thời gian, cơ thể có cả một binh đoàn
kháng thể chống lại những kháng nguyên muốn nhăm nhe tái xâm
nhập.
Nói như vậy thì người cao
tuổi sẽ có hệ thống miễn dịch hữu hiệu hơn người trẻ hay
sao. Vì suốt cuộc đời, họ đã bị vô số những tác nhân gây
bệnh xâm nhập và đã có vô số kháng thể được tạo ra. Sự thực
là hệ miễn dịch ở lớp tuổi này lại yếu đi theo với thời gian
vì nhiều lý do khác nhau
Miễn Dịch có rất nhiều
cái hay mà cũng có một vài cái dở. Nhân còn vô thập toàn
huống chi một phương tiện. Ðó là đôi khi chẳng hiểu tại sao
“quân mình lại bắn quân ta” và đưa tới một số bệnh Tự Miễn.
Trong trường hợp này, tế
bào B nhầm lẫn trong việc nhận diện kháng nguyên, trông gà
hóa quốc, bạn thành thù, rồi tạo ra kháng thể chống lại
chính tế bào mình (tự kháng thể). Kết quả là gây ra các rối
loạn tự miễn như các bệnh sốt thấp khớp, viêm khớp dạng
thấp, viêm thận tiểu cầu, thiếu máu tan huyết, thiếu máu ác
tính, rối loạn chức năng giáp trạng.
Lý do tại sao lại có sự
mất khả năng phân biệt những gì của mình và những gì không
phải của mình chưa được biết rõ.
Các thành phần cũa hệ
Miễn Dịch.
Miễn dịch là một hệ thống
có cấu trúc và chức năng khá phức tạp với sự tham gia của
nhiều thành phần khác nhau.
1-Tế bào
Các tế bào liện hệ trực
tiếp tới Miễn Dịch Tiếp Nhận có tên là lymphô bào. Ðây là
một loại bạch cầu thấy trong các hạch bạch dịch, thành ruột,
lá lách, tuyến ức và tủy xương.
Có hai loại lymphô bào
chính: Tế bào B và tế bào T, đều được sản xuất từ tủy xương
như các tế bào máu khác. Chúng phải trưởng thành mới có khả
năng miễn dịch. Tế bào B lớn lên tại tủy xương, còn tế bào T
theo máu vào tuyến ức để tăng trưởng.
a- Tế
bào T.
Tế bào này có trách nhiệm
bảo vệ cơ thể với các tế bào ung thư, một số virus và các
tác nhân gây bệnh sống ký sinh trong tế bào cũng như sự bất
dung tế bào ghép từ người này sang người khác.
Có nhiều loại tế bào T:
tế bào sát thủ trực tiếp tiêu diệt tế bào đã bị tác
nhân lạ xâm nhập, ngăn cản lan truyền bệnh; tế bào phụ
trợ khích lệ tế bào B sản xuất kháng thể, giúp tế bào
sát thủ tăng trưởng.
b- Tế
bào B.
Tế bào này sản xuất kháng
thể để chống lại sự xâm nhậpcủa vi khuẩn, virus. Mỗi loại
kháng thể chỉ có tác dụng với một tác nhân.
Từ khi vi sinh vật mới lạ
xâm nhập cho tới khi có kháng thể, phải cần ít nhất từ 10
đến 14 ngày.
2- Kháng thể.
Kháng thể là một loại
protein máu với nhiều đơn vị acid amine do tế bào B sản xuất
để đáp ứng lại với sự có mặt của một kháng nguyên đặc biệt.
Mỗi loại kháng thể có
tính cách độc nhất và bảo vệ cơ thể với một loại tác nhân
gây bệnh mà thôi. Globulin miễn dịch ( Ig=immuno globulins)
cũng là kháng thể với nhiều loại khác nhau như IgA, IgD,
IgE, IgM.
Kháng nguyên có thể là
vi khuẩn, virus, bào tử thực vật, độc tố vi sinh vật hoặc
những thứ xa lạ có thể gây hại cho cơ thể.
Xin đan cử một thí dụ:
Siêu vi viêm gan A vào
cơ thể qua thực phẩm nhiễm vi sinh này.Vi sinh gây ra sự
kích thích hệ miễn nhiễm mà B cell là nhân vật chính. B cell
đáp ứng đặc biệt với siêu vi A, sản xuất kháng thể chuyên
biệt với kháng nhân đó.
Kháng thể sẽ bám vào kẻ
gian A để tê liệt hóa chúng, tạo điều kiện cho đại thực bào
“sơi tái” chúng.
Hoặc kháng thể cũng bao
kín kháng nguyên A không cho chúng quan hệ mật thiết với tế
bào cơ thể. Nhờ đó các “ khách lạ không mời mà đến”do “bệnh
tùng nhập khẩu” gây bệnh không hoành hành tự tung tự đại
trong thân thể ta
Kháng thể lưu hành trong
huyết tương sẵn sàng thi hành nhiệm vụ.
Thử nghiệm máu có thể đo
mức độ nhiều ít của kháng thể để coi sự miễn nhiễm với một
bệnh mạnh yếu ra sao; có cần chích ngừa tăng cường hay
không; có một bệnh nhiễm tự nhiên nào đó trong quá khứ hoặc
cần chủng ngừa bệnh nào.
Như vậy thì sau khi
chủng ngừa hoặc sau khi mắc bệnh nhiễm nào đó, thì cơ thể đã
có rất nhiều thực bào, kháng thể có khả năng đối phó với tác
nhân bệnh nhiễm đó trong tương lai. Cơ chế miễn dịch của ta
ngày một mạnh mẽ, đa năng. Chẳng khác chi binh hùng tướng
mạnh của tiền nhân Lý Thường Kiệt khi xưa kia, chiến trận
bách chiến bách thắng với quân Nguyên, nhờ tập luyện thường
xuyên, trở nên tinh nhuệ.
Ðôi
điều về chủng ngừa
Chủng ngừa là tạo ra sự
miễn dịch chủ động với một bệnh gây ra do vi sinh vật có hại
bằng thuốc chủng vắc xin..
Nhắc lại là để có thể gây
ra bệnh truyền nhiễm, vi sinh vật cần giữ được tăng gia sinh
sản và gây tổn thương cho các cơ quan, bộ phận của cơ thể.
Trong thuốc chủng, mầm
gây bệnh được chế biến để không có khả năng sinh sản hoặc
sinh sản rất ít, không đủ mạnh để gây ra bệnh nhưng có khả
năng tạo ra kháng thể chống lại với mầm bệnh về sau này.
Có loại thuốc chủng trong
đó:
a- Gene của mầm độc đã
được thay đổi khiến sự sinh sản tuy còn nhưng rất yếu
(bệnh sởi, quai bị, trái
dạ, tê liệt loại uống).
b- Gene bị tiêu diệt hoàn
toàn không còn sinh sản (thuốc chủng tê liệt loại chích).
c- Thuốc chủng chỉ dùng
một phần của mầm độc, không có gene nên vô sinh (chủng ngừa
viêm gan B, ho gà).
đ- Thuốc chủng mà độc tố
của mầm độc đã bị vô hiệu hóa ( bệnh yết hầu, phong đòn
gánh).
Có người lý luận là cứ để
tự nhiên có tính miễn dịch sau khi mắc bệnh hơn là chủng
ngừa, vì chủng ngừa đôi khi làm suy yếu tính miễn dịch tự
nhiên của trẻ em.
Thực tế cho hay không có
thuốc ngừa nào hoàn hảo 100%. Hơn nữa, khi kiểm điểm kết quả
sự chủng ngừa với các bệnh trên thế giới ta thấy sự ích lợi
quá to lớn so sánh với một số tác dụng phụ nhẹ nhàng, không
nguy hiểm. Thuốc chủng ngừa bệnh đã là một trong mười kỳ
công trong phạm vi y tế công cộng của thế kỷ 20.
Giáo sư Nhi khoa Samuel
Katz của Trung Tâm Y Khoa Duke University bên Mỹ, người có
nhiều kinh nghiệm về chủng ngừa, đã quả quyết: ”Sự tạo ra
tính miễn dịch là phương tiện hữu hiệu duy nhất để làm giảm
số bệnh tật và số tử vong ở trẻ em”.
Để thấy sự công hiệu của
thuốc chủng, xin hãy coi qua vài thống kê sau đây về một số
bệnh:
a- Bệnh tê liệt: Trước
khi có thuốc chủng bệnh này vào thập niên 50, có cả ngàn trẻ
em bị bệnh, làm tê liệt hạ chi phải mang nạng, ngồi xe lăn;
nhiều bệnh nhân bị liệt hô hấp phải nằm trong lồng phổi sắt
để thở.
Từ năm 1997, không còn
trường hợp tê liệt nào được báo cáo ở nước Mỹ và các nước ở
Tây bán cầu. Năm 1994, một dịch tê liệt từ Ấn Độ xâm nhập
Gia Nã Đại nhưng nhờ chích ngừa ráo riết nên đã chặn đứng
được dịch này.
b- Bệnh sởi: Còn nhớ khi
xưa ở bên nhà hầu hết trẻ con bị ban sởi với số tử vong cao
vì các biến chứng như sưng phổi, viêm não, tổn thương não
bộ. Đó là do không có chích ngừa đầy đủ. Cho nên các cụ ta
khi đó thường nói là đừng tính có bao nhiêu con cho tới khi
chúng sống sót sau bệnh ban sởi.
Ngày nay con cháu ta bên
Mỹ này năm thì mười họa mới có em mắc bệnh sởi, nhờ chương
trình chủng ngừa sởi ở đây rất chu đáo, hầu như bắt buộc
ngay từ khi các em vào học lớp mẫu giáo. Trong nước thì việc
chủng ngừa bệnh này cũng được khuyến khích mạnh mẽ.
Năm 1941, chưa có chủng
ngừa, có gần 900.000 trường hợp bệnh sởi. Thuốc chủng được
bào chế năm 1962 và năm 1997, chỉ còn trên 100 trường hợp.
c- Bệnh đậu mùa một thời
đã làm thiệt mạng nhiều người trên thế giới, nay coi như đã
bị xóa sổ; bệnh ho gà, bệnh yết hầu, bệnh phong chẩn đã giảm
rất nhiều nhờ chủng ngừa.
Nếu ngưng chương trình
chủng các bệnh có thể ngừa được thì chắc ta sẽ thấy bột phát
trở lại những dịch chết người kinh khủng như vào đầu thế kỷ
vừa qua.
Kết
luận.
Tạo hóa thật tài ba,
nhiệm mầu khi sáng tạo ra con người với đủ các chức năng, bộ
phận tinh vi, hữu hiệu. Ðời sống con người nhờ đó được bảo
toàn cho suốt hành trình từ khi sinh ra cho tới ngày về cõi
bên kia. Cơ chế Miễn Dịch là một trong những chức năng quý
báu đó.
Vậy mà nhiều khi con
người cũng vô tình hay hữu ý làm cho chức năng này giảm tác
dụng bằng chuyện chẳng đâu vào đâu. Chẳng hạn những căng
thẳng hàng ngày của nếp sống.
Khi để cho các “vẩn vơ
lỉnh kỉnh ” này dầy vò tâm- thân thì một số chất liệu được
tiết ra hơi nhiều. Các “hơi nhiều” này làm suy yếu sức mạnh
của kháng thể và đại thực bào. Con người trở thành môi
trường ngon cho siêu vi, vi khuẩn. Bệnh hoạn xẩy ra.
Thực là điều đáng tiếc
vậy.
Bác sĩ
Nguyễn Ý Ðức
Texas-Hoa Kỳ.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|