Thân Phận Con Người Trong Thế Giới Ngày Nay |
Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội
Trong Thế Giới Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo
Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Nhập Ðề
Thân Phận Con Người
Trong Thế Giới Ngày Nay
4*
4. Hy vọng và lo âu.
Ðể chu toàn phận vụ ấy, lúc nào Giáo Hội cũng có bổn phận
tìm hiểu tường tận những dấu chỉ của thời đại
5* và giải thích dưới ánh sáng Phúc Âm; như vậy
mới có thể giải đáp một cách thích ứng với từng thế hệ những
thắc mắc muôn thuở của con người về ý nghĩa cuộc sống hiện
tại và mai hậu cũng như về mối tương quan giữa hai cuộc sống
ấy. Do đó, cần phải biết và hiểu thế giới chúng ta đang sống
với những chờ đợi, mong ước và cả tính chất thường là bi
thảm của nó. Có thể phác họa một vài nét chính yếu của thế
giới ngày nay như sau:
Nhân loại
ngày nay đang sống vào một giai đoạn mới trong lịch sử của
mình
6*. Ðó là giai đoạn chất chứa những đổi thay sâu
xa và mau chóng đang dần dần lan rộng tới toàn thể hoàn cầu.
Những thay đổi do óc thông minh và nổ lực sáng tạo của con
người khơi dậy, đang trở lại ảnh hưởng trên chính con người,
trên những phán đoán và ước vọng cá nhân hay tập thể con
người, trên cách suy tư và hành động đối với sự vật cũng như
con người. Như vậy, chúng ta có thể nói đến sự biến đổi đích
thực về mặt xã hội cũng như văn hóa, sự biến đổi này đang
lan tràn tới cả đời sống tôn giáo.
Cũng như
trong bất cứ cơn khủng hoảng tăng trưởng nào, sự biến đổi
này kéo theo những khó khăn không nhỏ. Chẳng hạn như đang
khi bành trướng quá rộng quyền lực của mình, không phải lúc
nào con người cũng có thể bắt nó phục vụ mình. Cố gắng đi
sâu hơn vào thâm tâm mình, con người nhiều khi lại tỏ ra
hoang mang hơn về chính mình. Dò dẫm tìm hiểu rõ hơn những
luật lệ của đời sống xã hội, con người lại do dự không dám
định đoạt hướng đi cho mình.
Chưa bao
giờ nhân loại dồi dào của cải, khả năng và quyền lực kinh tế
như ngày nay, vậy mà tới nay, một phần rất lớn nhân loại
trên thế giới đang quằn quại vì đói ăn và thiếu thốn, rồi
không biết bao nhiêu người đang chịu cảnh mù chữ. Chưa bao
giờ con người ý thức mãnh liệt được sự tự do như ngày nay,
đang khi đó, lại thấy sống dậy những hình thức nô lệ mới mẻ
về mặt xã hội cũng như tâm lý. Trong lúc đang mãnh liệt cảm
thấy sự duy nhất cũng như sự kiện tất cả lệ thuộc nhau trong
sự liên đới cần thiết, thì thế giới lại bị lôi kéo kịch liệt
theo những chiều hướng tương phản do những lực lượng chống
đối nhau; thực vậy vẫn còn kéo dài mãi tới ngày nay những
bất đồng trầm trọng về chính trị, xã hội, kinh tế, chủng tộc
và ý thức hệ, và một cuộc chiến diệt vong vẫn còn đe dọa.
Ðang khi sự trao đổi tư tưởng phát triển, thì những ngôn ngữ
dùng để diễn tả những quan niệm có tầm mức quan trọng lại
mang ý nghĩa khác nhau tùy từng ý thức hệ riêng biệt. Sau
hết, người ta nỗ lực đi tìm một tổ chức trần thế hoàn hảo
hơn, nhưng lại không lo tiến tới sự phát triển tinh thần
tương xứng.
Do những
hoàn cảnh phức tạp như thế chi phối, rất nhiều người đương
thời thấy khó lòng có thể nhận chân được những giá trị
trường cửu và đồng thời cũng khó mà hòa hợp những giá trị ấy
cho đúng với những phát minh gần đây. Do đó, bị lay động
giữa hy vọng và lo âu, băn khoăn về sự xoay chuyển hiện tại
của thế giới, họ cảm thấy một nỗi ưu tư. Sự xoay chuyển của
thế giới đang thách đố và thúc bách con người tìm câu giải
đáp.
5. Những hoàn cảnh biến đổi sâu
rộng. Sự giao động tâm hồn hiện nay và sự
thay đổi cảnh sống gắn liền với một biến chuyển rộng lớn
hơn. Trong phạm vi trí dục, sự biến chuyển này làm cho toán
học, vạn vật học và các khoa học nhân văn càng ngày càng
thêm quan trọng, còn trong phạm vi hoạt động, thì kỹ thuật,
con đẻ của khoa học, lại mỗi ngày một thêm uy thế. Tinh thần
khoa học này đang tạo ra một nền văn hóa và những lối suy tư
khác với trước kia. Kỹ thuật phát hiện đến độ thay đổi cả
cục diện địa cầu và còn đang cố gắng chinh phục không gian.
Tâm trí con
người như đang nới rộng phạm vi chế ngự trên cả thời gian:
chế ngự dĩ vãng nhờ sử học, và chế ngự tương lai nhờ dự liệu
và tổ chức các kế hoạch. Những khoa học đang tiến bộ như
sinh vật học, tâm lý, xã hội, không những giúp con người
hiểu biết chính mình hơn, mà còn giúp con người biết lợi
dụng những phương pháp kỹ thuật để trực tiếp ảnh hưởng tới
đời sống các xã hội. Ðồng thời nhân loại mỗi ngày mỗi lưu
tâm hơn để tìm cách tiên liệu và giải quyết vấn đề gia tăng
dân số.
Chính lịch
sử đang tiến bước quá nhanh đến nỗi từng cá nhân riêng rẽ
khó lòng theo kịp. Vận mạng cộng đoàn nhân loại trở thành
một mà thôi và không còn bị phân tán thành nhiều dòng lịch
sử khác nhau nữa. Như vậy từ một quan niệm tĩnh về vũ trụ,
nhân loại đã bước sang một quan niệm động và tiến hóa hơn
7*, do đó phát sinh những vấn đề hết sức phức tạp
mới mẻ đòi phải có những phân tích và tổng hợp mới.
6. Những biến đổi trong phạm vi xã
hội. Cũng vì vậy, các cộng đoàn cổ truyền địa
phương, như gia tộc, "thị tộc", bộ lạc, xóm làng, các tập
thể khác và các liên hệ trong cộng đoàn xã hội đều thay đổi
mỗi ngày mỗi sâu xa hơn.
Tổ chức xã
hội theo khuôn mẫu kỹ nghệ dần dần bành trướng, đưa một số
quốc gia tới mức thịnh vượng kinh tế và thay đổi tận gốc rễ
những quan niệm và hoàn cảnh đời sống xã hội đã cố định từ
lâu đời. Sự ham chuộng theo đuổi đời sống thị thành cũng gia
tăng, vì các thành phố càng ngày càng mọc lên nhiều, dân cư
càng ngày càng đông, và vì cách sống thị thành đang lan rộng
tới cả thôn quê.
Những
phương tiện truyền thông mới mẻ và mỗi ngày một thuận tiện
hơn giúp con người theo dõi được các biến cố cũng như phổ
biến hết sức mau lẹ và rộng rãi những cách cảm nghĩ và suy
tư, do đó chúng gây nên nhiều âm hưởng vang dội có liên quan
với nhau.
Một hiện
tượng không kém quan trọng khác: biết bao người bởi nhiều lý
do phải di cư, và vì di cư đã thay đổi cả cách sống.
Do vậy mà
những liên hệ của con người với đồng loại không ngừng tăng
thêm mãi, đồng thời chính sự "xã hội hóa"
8* lại tạo thêm những liên hệ mới, tuy nhiên,
những liên hệ mới ấy không phải lúc nào cũng giúp nhân vị
trưởng thành một cách thích hợp, hoặc cổ võ những liên hệ
thực sự người (nhân vị hóa).
Thực vậy,
sự tiến hóa ấy phát hiện rõ rệt hơn tại những quốc gia hưởng
thụ những tiện nghi kinh tế và kỹ thuật, nhưng sự tiến hóa
ấy cũng thúc đẩy các dân tộc còn đang cố gắng tiến lên, vì
họ là những người mong mỏi cho xứ sở mình được hưởng ích lợi
của nền kỹ nghệ và đô thị hóa. Các dân tộc ấy, nhất là các
dân tộc đã bám víu vào những truyền thống cổ kính, đồng thời
cảm thấy bị thúc đẩy muốn tự mình xử dụng tự do một cách
trưởng thành và hợp nhân vị hơn.
7. Những biến đổi về tâm lý,
luân lý và tôn giáo. Sự thay đổi tâm thức và cơ cấu thường
làm cho con người bất đồng ý kiến về những giá trị đã được
chấp nhận, nhất là nơi những người trẻ là lứa tuổi đôi khi
thiếu nhẫn nại; hơn nữa vì lo âu, nên họ mới nổi loạn, và vì
ý thức tầm quan trọng của riêng mình trong đời sống xã hội,
nên họ mong muốn sớm được dự phần vào đời sống xã hội hơn.
Do đó, nhiều khi cha mẹ và các nhà giáo dục càng ngày càng
gặp nhiều khó khăn trong việc chu toàn bổn phận.
Các định
chế, luật pháp, những lối suy tư và cảm nghĩ của người xưa
truyền lại, hình như không phải lúc nào cũng phù hợp với
tình thế hiện tại, do đó, có sự xáo trộn trầm trọng trong
phương thức và trong cả các tiêu chuẩn hành động.
Sau hết,
những hoàn cảnh mới cũng ảnh hưởng tới đời sống tôn giáo.
Một phần vì khả năng phán đoán sâu sắc hơn đã thanh lọc khỏi
đời sống tôn giáo quan niệm ma thuật về thế giới
9* và những mê tín vẫn còn lan tràn tới ngày nay.
Khả năng sâu sắc ấy đòi hỏi đức tin phải được chấp nhận mỗi
ngày một thêm cá biệt và linh hoạt; bởi đó, nhiều người đạt
được một ý thức sống động hơn về Thiên Chúa. Phần khác, số
người lìa xa Thiên Chúa trong cách sống thực tế càng ngày
càng đông. Khác với thời xưa, sự từ chối hoặc tránh né đề
cập tới Thiên Chúa hay tôn giáo không còn là một hành vi dị
thường và có tính cách cá nhân nữa, vì ngày nay, biết bao
người coi đó như một đòi hòi của tiến bộ khoa học
10* hay của nền nhân bản mới
11*. Tại nhiều nơi, quan niệm này không những được
diễn tả trong các trường phái triết học, mà còn ảnh hưởng
rất nhiều tới văn chương, nghệ thuật, các giải thích của các
khoa học nhân văn và sử học, cũng như ảnh hưởng tới cả dân
luật khiến cho nhiều người hoang mang.
8. Những chênh lệch trong thế giới
ngày nay. Sự biến chuyển quá mau chóng và
thường thiếu trật tự, hơn nữa, sự ý thức càng ngày càng bén
nhạy hơn về những sự khác biệt hiện có trong thế giới, đó là
những yếu tố làm phát sinh hoặc gia tăng nhiều mâu thuẫn và
chênh lệch.
Chính nơi
con người thường phát sinh sự thiếu quân bình giữa óc thực
tế hiện thời và lối suy tư thuyết lý. Lối suy tư này không
còn khả năng làm chủ và tổng hợp gọn gàng toàn thể mọi tri
thức. Cũng vậy, sự thiếu quân bình hiển hiện giữa những lo
âu đạt được hiệu quả cụ thể và những đòi hỏi của lương tâm,
và nhiều lúc giữa những cảnh sống tập thể và những điều khẩn
thiết cho suy tư cá nhân và nhất là cho sự chiêm niệm. Sau
hết là sự chênh lệch giữa sự chuyên biệt hóa các sinh hoạt
nhân loại và cái nhìn phổ quát về muôn vật.
Trong gia
đình cũng xuất hiện nhiều mâu thuẫn, hoặc do những hoàn cảnh
ngột ngạt về dân số, kinh tế, xã hội, hoặc do những khó khăn
phát xuất giữa những thế hệ tiếp nối nhau, hoặc do những xã
giao mới giữa người nam và nữ.
Ngoài ra
còn có những sự khác biệt lớn lao giữa các chủng tộc và kể
cả giữa những giai cấp xã hội khác nhau, giữa những quốc gia
cường thịnh và những quốc gia nghèo nàn yếu kém, sau hết
giữa những tổ chức quốc tế đã được thiết lập vì sự mong mỏi
hòa bình của các dân tộc và tham vọng gieo rắc ý thức hệ
riêng cùng những ham hố tập thể hiện hữu trong các quốc gia
hoặc các tập thể khác.
Từ đó, phát
sinh ngờ vực và thù nghịch nhau, xung đột và thống khổ mà
chính con người là nguyên nhân và nạn nhân.
9. Những khát vọng phổ quát hơn
của nhân loại. Trong khi đó, người ta thêm
xác tín rằng nhân loại không những có thể và phải mỗi ngày
mỗi củng cố thêm sự thống trị của mình trên tạo vật mà còn
phải thiết lập một trật tự chính trị, xã hội và kinh tế để
phục vụ con người ngày đắc lực hơn, giúp mỗi cá nhân, mỗi
tập thể khẳng định và trau dồi phẩm giá riêng của mình.
Bởi đó, rất
nhiều người đòi hỏi gắt gao những của cải mà họ ý thức mãnh
liệt rằng họ bị cướp mất vì bất công hay vì phân chia không
đồng đều. Các quốc gia đang trên đường phát triển cũng như
các quốc gia mới giành được chủ quyền mong muốn dự phần vào
những lợi ích của nền văn minh hiện nay không những trong
phạm vi chính trị mà cả trong phạm vi kinh tế nữa, và mong
muốn tự do chu toàn vai trò của mình trong thế giới. Tuy
nhiên, trong khi ấy, càng ngày càng gia tăng sự cách biệt
giữa các quốc gia này, cũng như thường thấy gia tăng sự lệ
thuộc cả về phạm vi kinh tế đối với những quốc gia khác giàu
mạnh và tiến bộ nhanh hơn. Các dân tộc bị đói khổ hoành hành
đang kêu gọi các dân tộc phồn thịnh hơn. Ở đâu nữ giới chưa
được bình quyền với nam giới đều đứng lên đòi hỏi cho mình
được bình đẳng trước pháp lý và trên thực tế. Các công nhân
và nông gia cũng muốn rằng họ làm việc không những để mưu
sống nhưng còn để phát huy những tài năng của con người họ,
hơn nữa họ còn muốn tham gia vào việc tổ chức đời sống kinh
tế, xã hội, chính trị và văn hóa. Ðây là lần đầu tiên trong
lịch sử nhân loại, toàn thể các dân tộc đã xác tín mình có
thể và phải thực sự phổ biến những thành quả của văn hóa tới
hết mọi dân tộc.
Dưới tất cả
những đòi hỏi đó tàng ẩn một ước vọng sâu xa và đại đồng
hơn: mọi cá nhân và tập thể đều khao khát một cuộc sống đầy
đủ và tự do xứng với con người; để phục vụ cho chính mình,
họ muốn chế ngự tất cả những gì thế giới ngày nay có thể
cung ứng hết sức dồi dào cho họ. Hơn nữa, các quốc gia vẫn
ngày một cố gắng hơn để đạt tới một thứ cộng đoàn đại đồng.
Như vậy,
thế giới ngày nay tỏ ra vừa mạnh vừa yếu, có khả năng thực
hiện những điều tốt đẹp nhất hoặc xấu xa nhất, đang khi ấy
trước mặt nó là con đường dẫn tới tự do hoặc nô lệ, tiến bộ
hoặc thoái hóa, huynh đệ hoặc đố kỵ. Lại nữa, con người đã ý
thức được chính họ phải điều khiển cho đúng những năng lực
do chính mình tạo nên và đó là những năng lực có thể đè bẹp
họ hoặc phục vụ cho họ. Do đó họ phân vân.
10. Những vấn nạn sâu xa hơn của
nhân loại. Thực vậy, những chênh lệch dày vò
thế giới ngày nay được nối liền với một chênh lệch căn bản
hơn phát xuất từ đáy lòng con người. Bởi vì, ngay chính
trong con người có nhiều yếu tố xung khắc nhau. Vì một đàng,
là tạo vật, con người nhận thấy mình bị giới hạn trong nhiều
phương tiện, nhưng đàng khác, lại cảm thấy mình có những
khát vọng vô biên và còn cảm thấy được mời gọi tới một cuộc
sống cao cả hơn. Bị lôi kéo giữa nhiều quyến rũ, con người
luôn bị bó buộc phải lựa chọn một số hoặc loại bỏ một số
khác. Hơn nữa, vì yếu đuối và tội lỗi, nhiều khi con người
làm điều mình không muốn và không làm được điều mình muốn
làm
4. Bởi vậy, có sự phân rẽ trong chính con người,
từ đó, sinh ra bao nhiêu là bất hòa lớn lao trong xã hội.
Thực vậy rất nhiều người vì đời sống thấm nhiễm chủ nghĩa
duy vật thực hành nên đã không nhìn nhận rõ ràng thảm trạng
ấy, hay ít ra vì lối sống cơ cực đè nặng không cho phép họ
nghĩ tới nữa. Ðàng khác, dựa vào mớ lý thuyết mà họ đã tìm
ra để giải thích vũ trụ, nhiều người tưởng như thế là đủ an
tâm. Còn có những người chỉ trông vào nỗ lực của con người
mới đem lại cho nhân loại sự giải phóng đích thực và trọn
vẹn, và họ xác tín rằng sự thống trị mai hậu của con người
trên trái đất sẽ làm mãn nguyện mọi ước vọng của con tim
nhân loại. Cũng không thiếu những người thất vọng về ý nghĩa
cuộc sống tán dương những kẻ táo bạo nghĩ rằng sự hiện hữu
của con người tự nó không mang một ý nghĩa nào nên họ cố
gắng dùng nguyên tài năng của mình để tạo nên tất cả ý nghĩa
cho sự hiện hữu ấy. Tuy nhiên, trước sự tiến hóa hiện nay
của thế giới, càng ngày càng có nhiều người hoặc đặt vấn đề
hoặc nhận thức một cách sâu sắc mới mẻ về những vấn đề hết
sức căn bản như: con người là gì? Ðâu là ý nghĩa của đau
khổ, sự dữ, cái chết? Sao chúng còn tiếp tục tồn tại mặc dù
đã có bao nhiêu tiến bộ? Bao chiến thắng đạt được với một
giá đắt ấy có ích gì? Con người có thể đem lại gì cho xã hội
và có thể trông đợi gì ở xã hội? Cái gì sẽ tiếp theo sau
cuộc sống trần gian này?
Giáo Hội
tin rằng Chúa Kitô đã chết và đã sống lại cho mọi người
5. Vì thế qua Thánh Thần của Người, Người ban cho
con người ánh sáng và sức mạnh để con người có thể đáp lại
thiên chức cao cả của mình. Giáo Hội cũng tin rằng dưới bầu
trời này chẳng còn danh hiệu nào khác được ban cho loài
người để loài người phải nhờ đó mà được cứu rỗi
6. Cũng thế, Giáo Hội tin rằng đầu mối, trung tâm
và cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại đều ở trong Ðức
Kitô là Chúa và là Thầy của Giáo Hội. Hơn nữa, Giáo Hội còn
xác nhận rằng qua mọi thay đổi, có nhiều điều vẫn không đổi
thay vì nền tảng cuối cùng của những điều không thay đổi này
là Chúa Kitô, Ðấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi
7. Vậy dưới ánh sáng Chúa Kitô, Hình Ảnh của Thiên
Chúa vô hình, Trưởng Tử giữa mọi thụ sinh
8, Công Ðồng muốn nói với mọi người để làm sáng tỏ
mầu nhiệm về con người và để cùng nhau tìm giải đáp cho
những vấn đề chính yếu của thời đại chúng ta.
Chú
Thích:
4* Công Ðồng mời gọi ta
cùng tìm hiểu thế giới hiện đại (số 4a) để ta có thể đối
thoại với nó và đem ánh sáng Chúa Kitô chiếu dọi các vấn đề
của nó (số 10b). Vì thế Công Ðồng:
1) Kể lại
những sự kiện tương phản với nhau: trạng thái thừa thãi và
đói khát; tiến bộ và mù chữ; khát vọng tự do và nhiều thứ nô
lệ; khát vọng hiệp nhất và vô số chia rẽ cũng như tư tưởng
hỗn độn; tiến bộ kỹ thuật, văn hóa và tinh thần không tương
hợp với nhau (số 4).
2) Những
thay đổi thuộc về:
a) Cơ cấu
về trí óc: vì ảnh hưởng do khoa học và kỹ thuật gây nên; vì
được biết lịch sử rộng hơn, cũng như vì phép dự liệu và
thuật kế hoạch; vì nhận thấy con người bắt đầu có quyền trên
đời mình cũng như trên lịch sử. Quan niệm tĩnh ngày xưa
chuyển thành quan niệm động (số 5).
b) Cơ cấu
xã hội: nếp sống cổ điển biến mất; có những hiện tượng mới
như kỹ nghệ hóa, thành thị hóa, các phương tiện truyền thông
xã hội, những cuộc di cư, sự xã hội hóa (số 6).
3) Bởi đó
đặt vấn đề theo cách mới:
a) Về tôn
giáo: Giới thanh niên phản đối, lạc hướng; tinh thần phê
bình; lối sống bỏ đạo thực hành; tuyên xưng vô thần (số 7).
b) Về cá
nhân: vì những phán đoán thiếu quân bình, vì những xung đột
giữa lương tâm và trí óc trong việc đi tìm kết quả thực tiễn
giữa nhu cầu chuyên môn và một quan niệm tổng quát về vũ
trụ.
c) Về gia
đình: vì vấn đề dân số, khó khăn kinh tế xã hội, những khác
biệt giữa các thế hệ, những liên quan mới giữa nam giới và
nữ giới.
d) Về quốc
gia: vì những sự khác nhau giữa các chủng tộc, các giai cấp;
giàu có và nghèo khổ; vì những lý thuyết ảnh hưởng các phong
trào hòa bình (số 8).
4) Nguyện
vọng mới: vì con người ý thức về quyền thế mình, nhận thấy
rằng có thể đòi hỏi tham gia vào những thành quả của văn
minh và cảm thấy có quyền sống đầy đủ và xứng hợp với bản
tính con người.
5* Ðức Gioan XXIII, đã
dựa theo Mt 16,4 và Lc 21,7 để dùng câu này trong thông điệp
Pacem in Terris, và sau đó câu này trở thành một biểu ngữ
cho việc canh tân Giáo Hội. Trong số 11a Công Ðồng lại diễn
tả thái độ dò xét thời điểm này.
6* Ta phải chú ý rất kỹ
đến câu quả quyết quan trọng này (xem lại trong số 54a). Ðặc
biệt tất cả những ai có trách nhiệm giáo dục lớp trẻ phải
suy xét lại rằng: cố gắng tiếp tục sống theo nếp cũ trong
"giai đoạn mới của lịch sử" tất nhiên là lỗi thời.
7* Công Ðồng muốn nói
rằng, thời xưa (và gần đây) người ta coi những thực tại nhân
loại là vững bền và ít thay đổi. Ví dụ các luật trong lãnh
vực pháp lý, những tổ chức gia đình, làng xóm, đô thị trong
lãnh vực xã hội; những nhu cầu của dân chúng trong lãnh vực
kinh tế, v.v... Qua bốn thế kỷ vừa qua chưa có những thay
đổi trong phụng vụ Thánh Lễ!... Nhưng ngày nay thì khác hẳn.
Người ta không còn thích coi lãnh vực nào là bất di dịch
nữa. Ngày nay con người dễ tỏ lòng nghi ngờ khi người ta nại
vào những nguyên tắc bất biến hay là dựa trên quan niệm cổ
điển để giải thích các vấn đề. Hiện nay người ta không còn
tin như xưa rằng lịch sử là "thầy dạy cho cuộc sống", hay ít
ra cũng không phải theo cùng một quan niệm như xưa.
8* Thông điệp Mater et
Magister của Ðức Gioan XXIII diễn tả hiện tượng "đời sống xã
hội" này và Công Ðồng (số 25b) trích lại lời đó. Dĩ nhiên đó
là hiện tượng mới trong xã hội kỹ nghệ Âu Mỹ. Trong xã hội
nông thôn Á Ðông, nó đã có từ nghìn xưa (dù dưới hình thức
khác), đến nỗi nhiều khi gây ra nguy hại cho quyền tự do cá
nhân (xem Phaolô VI, Populorum progressio, số 36). Hiện
tượng này không phải đồng hóa với xã hội chủ nghĩa đã bị
Giáo Hội lên án nhiều lần (đặc biệt trong Tđ. Quadragesimo
Anno của Ðức Piô XI, năm 1931). Sau đó chính xã hội chủ
nghĩa đã biến đổi không ít. Sự kiện xã hội hóa có thể sa vào
những chỗ nguy hại như Công Ðồng nhắc lại trong đoạn này,
nhưng cũng có thể đem lại kết quả tốt đẹp: ngoài sự phát
triển vật chất, có thể giúp để thỏa mãn nhiều quyền lợi căn
bản của con người như về giáo dục, đào tạo nghề nghiệp, sự
cứu trợ xã hội, cứu trợ y khoa, về hoàn cảnh làm việc, nhà
ở, v.v... (Xem MV 25a và 42c).
9* Vì thiếu óc khoa
học, giới bình dân tin tưởng vào những sức lực vô hình do
những quỉ thần nào đó gây nên để giải thích hiện tượng thiên
nhiên. Nhờ những nghi lễ lạ lùng vàhuyền bí cố định từ ngàn
xưa truyền lại, họ tìm cách gây ảnh hưởng trên những ma lực
đó (x.33a).
Tin tưởng
vào số tử vi cũng phải được coi như một hành thức biểu thị
quan niệm phù phép.
Ðây là quan
niệm rất tai hại cho đức tin, vì quyền tự do, lòng yêu mến
Thiên Chúa là Ðấng hiểu biết và âu yếm điều khiển đời ta,
chẳng chiếm chỗ nào trong quan niệm đó.
10* Những quốc gia tân
tiến hơn (Hoa Kỳ, Nga Sô, Thụy Ðiển...) lại chẳng phải là
những nước bỏ đạo nhiều hơn sao! Giới trí thức, không kể
giới bác học cũng không phải như thế sao! Nhiều khi người ta
nghe nói như vậy. Thực sự nhiều khi người trí thức học sâu
về khoa học trong khi lại quên phát triển những điều học hỏi
về tôn giáo lúc còn bé. Trường hợp như thế dễ mất đức tin,
nhưng không được nói rằng đó là đòi hỏi của khoa học!
11* Trong số 9c và 10a,
Công Ðồng tóm tắt ý nghĩa đại khái của những hình thức nhân
bản chủ nghĩa khác nhau: nhân bản dân chủ mong ước giải
thoát con người khỏi mọi trạng thái hỗn độn nhờ giáo dục, kỹ
thuật, quyền tự do... không cần đến Thiên Chúa, tôn giáo, và
chủ trương tự sức mình, con người sẽ đạt tới hạnh phúc...
Nhân bản khoa học, một cách tương tự, chủ trương con người
tìm được tất cả các câu trả lời nơi khoa học và không cần
biết đến thực tại về tội lỗi và nguồn gốc tội lỗi nơi con
người, thực tại về công cuộc cứu chuộc của Ðấng Cứu Thế,
v.v... Nhân bản Mác xít đánh giá việc làm như giá trị duy
nhất của con người. Nhờ đảng điều khiển, con người sẽ xây
dựng thế giới và xã hội mới, loại trừ mọi bất công. Tôn giáo
là một dụng cụ của các chế độ tư bản dĩ nhiên sẽ biến mất.
Nhân bản Quốc gia: đã chiếm được độc lập thì phải tự trị để
phát triển đầy đủ không chấp nhận bất cứ hình thức đế quốc
nào nữa, mà tôn giáo chẳng phải là một thứ đế quốc văn hóa
sao? Nhân bản hiện sinh chủ trương rằng đời sống là phi lý.
Từ con số không, con người đang đi tới con số không nữa. Chỉ
cần lòng can đảm để tự tạo ý nghĩa cho đời mình, và tạo nên
một thế giới tiện nghi hơn cho con cháu (xem số 10a).
4 Xem Rm 7,14tt.
5
Xem 2Cor 5,15.
6
Xem CvTđ 4,12.
7
Xem Dth 13,8.
8
Xem Col 1,15.
(còn tiếp) |
VỀ MỤC LỤC |
|
MẸ MARIA MẪU
GƯƠNG CÁC GIA ĐÌNH |
Chiêm ngắm khuôn mặt Mẹ Maria, chúng ta
sẽ khám phá được những đường nét tuyệt vời, đáng cho chúng
ta, dù ở đấng bậc nào, cũng có thể noi theo và bắt chước.
Thực vậy :
* Mẹ là khuôn mẫu cho mọi người : “Như
thế, nhờ lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria rất dịu hiền, mẹ
Thiên Chúa, mà cuộc đời của Mẹ là khuôn mẫu cho mọi người.”
(PC 25).
* Mẹ là khuôn mẫu cho các người phụ nữ
: “Rồi Thiên Chúa lại bày tỏ phẩm giá của người nữ cách cao
cả hết sức có thể khi chính Ngài mặc lấy xác thịt từ Đức
Trinh Nữ Maria, mà Hội Thánh tôn kính như Mẹ Thiên Chúa, gọi
Mẹ là Evà mới và giới thiệu Mẹ như là kiểu mẫu của người nữ
đã được cứu chuộc.” (CF 22).
* Mẹ là khuôn mẫu của các linh mục :
“Các ngài luôn tìm thấy gương mẫu lạ lùng về sự dễ vâng phục
đó nơi Đức Trinh Nữ Maria, người được Chúa Thánh Thần dẫn
dắt đã hiến toàn thân cho mầu nhiệm cứu chuộc loài người;
các linh mục phải lấy lòng con thảo thành kính tôn sùng và
mến yêu Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ của Linh Mục Thượng Phẩm
vĩnh viễn, là Nữ Vương các Tông đồ và là Đấng bảo trợ thừa
tác vụ linh mục.” (PO 18).
* Mẹ là khuôn mẫu của người tông đồ :
“Gương mẫu hoàn hảo của đời sống thiêng liêng và đời sống
tông đồ ấy chính là Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương các Tông đồ
: khi sống ở trần gian, Người đã sống cuộc đời như mọi
người, vất vả lo lắng cho gia đình, nhưng luôn kết hiệp mật
thiết với Con mình và đã cộng tác vào công việc của Đấng Cứu
Thế một cách riêng biệt.”(AA 4).
* Mẹ là khuôn mẫu của các gia đình. Đây
chính là đề tài chúng ta cùng nhau tìm hiểu để kết thúc cho
tuần tĩnh tâm năm nay. Trong việc trình bày đề tài này,
chúng ta có thể lần theo những sự kiện xảy đến trong cuộc
đời của Mẹ, từ khi thiên thần truyền tin cho tới ngày Chúa
Thánh Thần hiện xuống, dừng lại trước mỗi sự kiện, suy gẫm
và rút ra những bài học cụ thể, áp dụng vào lãnh vực gia
đình Kitô hữu. Tuy nhiên cách trình bày này xem ra có vẻ rời
rạc, dài dòng và sẽ không đủ thời gian, bởi vì mỗi sự kiện
phải là một bài riêng biệt, nếu muốn tìm hiểu tương đối cặn
kẽ.
Vì thế, tôi xin mượn những ý tưởng của
Đức Thánh Cha Phaolô VI trong tông huấn “Marials Cultus” để
trình bày. Thực vậy, trong chương I, tiết 2 của tông huấn,
chúng ta tìm thấy nơi Mẹ mẫu gương cho Giáo hội về cách tôn
thờ Chúa. Tông huấn viết :
- “Đức Maria làm gương cho Giáo hội về
thái độ tinh thần phải có, khi cử hành và sống các mầu
nhiệm. Trong lãnh vực này, Đức Maria phải được coi là mẫu
gương cao đẹp nhất của Giáo hội trong vấn đề đức tin, đức ái
và hoàn toàn kết hợp với Chúa Kitô, tức gương mẫu của một
nội tâm hướng dẫn Giáo hội.” (MC 16).
Tông huấn đã đưa ra bốn nét đặc sắc về
Mẹ. Bốn nét đặc sắc này, cũng có thể được áp dụng vào lãnh
vực gia đình, để thấy được rằng Mẹ chính là mẫu gương cho
gia đình các tín hữu.
1- MẸ LÀ TRINH NỮ
LẮNG NGHE, “VIRGO AUDIENS”
Tông huấn viết :
- “Thực vậy, sau khi nghe sứ thần giải
đáp thắc mắc (Lc 1,34-37), tin tưởng hoàn toàn, Mẹ đã thưa :
Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền
(Lc 1,38), Mẹ đã hoài thai Chúa Giêsu trong tâm hồn trước
khi mang Ngài trong dạ. Đối với Mẹ, đức tin sinh hạnh phúc
và nguồn bảo đảm cho lời hứa được thể hiện “Phúc cho Bà vì
đã tin lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện (Lc 1,45). Và
cũng với đức tin khi Mẹ đóng vai chính làm nhân chứng đặc
biệt của việc Nhập thể, Mẹ hồi tưởng những biến cố xảy ra
lúc Chúa còn bé và để hết tâm suy nghỉ (Lc 2,19.51).” (MC
17).
Đọc lại Phúc âm chúng ta có cảm tưởng
như Mẹ luôn thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa :
- Qua Kinh thánh : Chắc hẳn Mẹ luôn đọc
và suy gẫn lời Chúa trong các sách Cựu ước trong thời gian
sống tại đền thờ cũng như trong suốt cả cuộc đời, vì thế mỗi
lời Mẹ nói đều phảng phất tinh thần của Kinh thánh.
- Qua các biến cố xảy đến trong cuộc
sống như : biến cố truyền tin, thăm viếng, dâng Chúa trong
đền thờ, tiệc cưới Cana, dưới chân cây thập giá….
- Cũng như qua những sứ giả được Chúa
sai đến như : sứ thần Gabriel, các mục đồng, ba nhà đạo sĩ
phương đông, ông già Simêon…
Thái độ thinh lặng và lắng nghe tiếng
Chúa cũng là một thái độ cần thiết cho cuộc sống gia đình
Kitô hữu.
Trước hết, chúng ta cần phải lắng nghe tiếng Chúa qua Kinh
thánh.
Trong đời
sống, chúng ta thấy có những cuốn sách được coi như là tiêu
chuẩn hướng dẫn cho hành động. Chẳng hạn Tứ thư, Ngũ kinh
của Khổng Tử. Ngày xưa các cụ đồ hễ mở miệng ra là nói :
Khổng viết… Đức Thánh dạy rằng... Các cậu học trò, từ khi
nhập môn đã ê a : Nhân chi sơ tính bản thiện. Lớn lên, khi
bước xuống cuộc đời họ đều giải quyết mọi vấn đề theo tinh
thần Khổng Mạnh : nào nhập thế, nào tri thiên mệnh, nào xuất
thế…
Đối với
người Kitô hữu, chúng ta cũng có một cuốn sách gối đầu
giường, qua đó tìm thấy những khuôn vàng thước ngọc, những
tiêu chuẩn hướng dẫn đời sống của chúng ta. Vậy cuốn sách ấy
là gì ? Tôi xin thưa : Đó là cuốn Kinh Thánh, một cuốn sách
bởi trời, một cuốn sách của Thiên Chúa. Đúng thế, Kinh Thánh
là cuốn sách bởi trời, nói cách khác là chúc thư của Thiên
Chúa, qua đó Ngài hé mở cho chúng ta những chân lý siêu
nhiên, Ngài tỏ lộ cho chúng ta những tiêu chuẩn của đời sống
luân lý và đạo đức.
Thế
nhưng, cho tới ngày hôm nay, Kinh thánh vốn còn rất xa lạ
đối với nhiều gia đình Việt Nam. Vì thế, đức tin của họ có
phần ấu trĩ, nông cạn, hời hợt và nặng phần tình cảm. Vậy
đối với lời Chúa, chúng ta phải có thái độ nào ? Xin thưa,
chúng ta phải lắng nghe, suy gẫm và thực thi lời Chúa trong
cuộc sống của mình như Mẹ Maria ngày xưa.
Trong một
cuộc hội thảo về Kinh thánh, người ta đã đưa ra những ưu
điểm và khuyết điểm của những bản dịch, giữa lúc ấy, một
chàng sinh viên giơ tay xin phát biểu :
- Tôi xin
góp một bản.
Mọi người
đều ngơ ngác nhìn, vì anh ta không phải một chuyên viên. Thế
nhưng, anh ta đã mỉm cười và trả lời :
-Bản dịch
Kinh Thánh tuyệt hảo nhất mà hiện giờ tôi đang có, chính là
mẹ tôi. Vì qua đời sống của bà, tôi thấy được từng câu, từng
chữ của Kinh Thánh.
Điều quan trọng là mỗi người trong gia
đình cần phải lắng nghe, suy gẫm và tìm lấy trong Kinh thánh
những tiêu chuẩn hướng dẫn cho cuộc sống của mình.
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô cũng nhắn
nhủ :
- “Ngoài kinh nguyện sáng tối, các gia
đình cũng được tha thiết khuyên bảo và cũng là điều phù hợp
với những chỉ dẫn của các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục,
nên đọc và suy niệm lời Chúa…” (CF 61).
Tiếp đến, chúng ta cần phải lắng
nghe tiếng Chúa qua những biến cố xảy đến.
Thiên Chúa không phải chỉ nói với chúng
ta qua lời Ngài trong Kinh thánh, mà còn nói với chúng ta
qua các biến cố xảy ra trên thế giới cũng như trong cuộc
sống của mỗi người, chính vì thế, Công đồng muốn chúng ta :
- “Phải tìm hiểu tường tận những dấu
chỉ thời đại và giải thích dưới ánh sáng Phúc âm.” (GS 4).
Bởi vậy, đứng trước mỗi biến cố, chúng
ta phải tự hỏi :
- Chúa muốn nói gì với tôi, Chúa muốn
tôi phải làm gì ?
Nhờ đó chúng ta sẽ nhận ra thánh ý Chúa
và cố gắng chu toàn, để luôn bước đi trên đường nẻo của
Chúa.
Sau cùng, chúng ta cần phải lắng
nghe tiếng Chúa qua những người chung quanh, nhất là những
người cùng sống với chúng ta dưới mái ấm gia đình.
Một trong những nguyên nhân gây nên bất
hòa và đổ vỡ trong gia đình, đó là chúng ta không biết lắng
nghe. Ai cũng muốn cho mình là đúng và bắt người khác phải
chấp nhận những phán quyết vừa độc tài, vừa độc đoán của
mình theo kiểu “cả vú lấp miệng em”. Vì thế, tức nước vỡ bờ,
sự chịu đựng nào cũng có giới hạn của nó, tới một lúc nào đó
“chiến tranh” sẽ bùng nổ và hủy hoại bầu khí yêu thương
trong gia đình.
Bởi vậy, cần phải biết bình tĩnh lắng
nghe, ghi nhận những ý kiến của người khác, rồi sau đó tìm
phương cách hòa giải, để gia đình lúc nào cũng được hòa
thuận và êm ấm.
2- MẸ LÀ TRINH NỮ
NGUYỆN CẦU, “VIRGO ORANS”
Tông huấn viết :
- “Khi thăm viếng bà Elisabeth, Mẹ đã
tỏ lòng tri ân Thiên Chúa, tác phẩm “Magnifcat” diễn tả sự
hạ mình, tin cậy của Mẹ (Lc 1,46-55), lời kinh hay nhất của
Mẹ, tiếng hát của thời đại mong chờ Đấng Cứu Thế bao gồm sự
phấn khởi của Israel…Trinh nữ nguyện cầu là hình ảnh của Mẹ
ở tiệc cưới Cana, trình bày cho Chúa Con sự kiện nhà thiếu
rượu, tế nhị van xin Ngài, Mẹ đã nhận được kết quả của trật
tự ân sủng, nghĩa là : Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên để
các môn đệ vững tin nơi Ngài. Đoạn cuối viết về Mẹ, ta thấy
Mẹ cầu nguyện. Các Tông đồ hợp ý chuyên cần cầu nguyện với
các anh em và vài phụ nữ, trong đó có Maria, Mẹ Chúa Giêsu
(TĐCV 1,14)…” (MC 18).
Qua Tin mừng, chúng ta nhận thấy dường
như Mẹ sống tinh thần cầu nguyện ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Thật vậy, Mẹï luôn kết hiệp với Chúa qua từng chặng đường,
qua từng biến cố của cuộc đời và dâng lên Ngài những tâm
tình cầu nguyện của mình.
Sống tinh thần cầu nguyện cũng là điều
cần thiết cho mỗi gia đình.
Thực vậy, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II
đã xác quyết như sau :
- “Kinh nguyện gia đình có những đặc
tính riêng. Đó là kinh nguyện chung : vợ chồng cùng cầu
nguyện với nhau, cha mẹ và con cái cùng cầu nguyện với nhau.
Sự hiệp thông trong kinh nguyện vừa là hoa quả vừa là đòi
hỏi của sự hiệp thông mà các bí tích Rửa tội và Hôn phối đã
đem lại. Các gia đình Kitô hữu có thể áp dụng được cho mình
một cách đạc biệt những lời hứa hẹn của Chúa Giêsu : Quả
thật Ta bảo các con : nếu dưới đất hai người trong các con
đồng thanh xin về bất cứ việc gì, thì Cha Ta, Đấng ngự trên
trời, sẽ ban cho. Vì đâu có hai, ba người họp lại nhân danh
Ta, thì có Ta ở đó, giữa họ.” (CF 58).
Hơn thế nữa, kinh nguyện trong gia đình
còn là những lời kinh nguyện xuất phát từ lòng cuộc đời :
- “Kinh nguyện đang có nội dung độc đáo
là chính cuộc sống gia đình. Qua những cảnh huống khác nhau,
cuộc sống này được diễn giải như một ơn gọi từ Thiên Chúa mà
đến và được thực hiện như một câu trả lời hiếu thảo cho
tiếng gọi ấy : vui mừng và cực nhọc, hy vọng và u buồn, ngày
kinh và ngày kỷ niệm chu niên, kỷ niệm ngày cưới của cha mẹ,
những chuyến xa nhà trở về, những lựa chọn quan trọng và
quyết liệt, cái chết của người thân yêu… đều là những dấu
hiệu ưu ái của Thiên Chúa trong cuộc sống gia đình; những
biến cố ấy cũng phải trở thành những lúc thuận tiện cho lời
tạ ơn, khẩn nguyện, cho sự tin tưởng phó thác của gia đình
trong bàn tay Cha chung trên trời.” (CF 59).
Nhờ sự cầu nguyện, chúng ta sẽ kín múc
được nguồn sinh lực giúp chúng ta chu toàn được những bổn
phận của mình :
- “Không bao giờ được quên rằng kinh
nguyện là phần thiết yếu của đời sống Kitô hữu…Kinh nguyện
không hề biểu hiện một sự chạy trốn các trách nhiệm thường
ngày, nhưng chính là sức đẩy mãnh liệt đưa gia đình Kitô hữu
đến chỗ đảm nhận trách việc trở nên tế bào đầu tiên và căn
bản của xã hội nhân loại.” (CF 62).
Để sống tinh thần một cách cụ thể,
thiết tưởng mỗi gia đình nên tổ chức giờ kinh tối của mình
sao cho sống động, bởi vì như Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã
viết :
- Đó là những giây phút linh thiêng,
trong đó cha mẹ, vợ chồng, con cái cùng quây quần bên nhau
và cùng nhau quây quần bên Chúa, sẽ là một liều thuốc thần
diệu, hàn gắn những đổ vỡ có thể xảy ra.
Trong những giây phút linh thiêng ấy,
như Mẹ với lời kinh Magnificat, gia đình chúng ta hãy cảm tạ
và ngợi khen Chúa. Như Mẹ với lời van xin tại tiệc cưới
Cana, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban những ơn lành hồn xác
xuống cho những người thân yêu…Và cũng như Mẹ, hãy sống tinh
thần cầu nguyện trong từng biến cố vui buồn xảy đến cho gia
đình chúng ta.
3- MẸ LÀ TRINH NỮ
SINH CON, “VIRGO PARIENS”
Tông huấn viết :
- “Vì tin và vâng phucï, Mẹ đã hạ sinh
Con Chúa Cha, bởi phép Chúa Thánh Thần.” (MC 19).
Nhìn vào Mẹ, chúng ta tìm thấy một mẫu
gương lý tưởng cho người Kitô hữu. Vậy người Kitô hữu là gì
nếu không phải là người có Đức Kitô trong tâm hồn và đem Đức
Kitô đến cho những người chung quanh. Với lời xin vâng trong
hoạt cảnh truyền tin, Mẹ là người đầu tiên được diễm phúc
cưu mang Chúa trong cõi lòng . Mẹ là người đầu tiên thực sự
có Chúa trong tâm hồn của mình. Sau đó, bằng hành động thăm
viếng, Mẹ đã đem Chúa đến cho gia đình bà Elisabeth, cũng
như tại Bêlem, Mẹ đã sinh Chúa cho nhân loại.
Là người Kitô hữu, chúng ta cũng phải
có Chúa trong tâm hồn bằng một cuộc sống đạo đức và thánh
thiện, ra sức khử trừ tội lỗi. Đồng thời cũng phải đem Chúa
đến cho những người chung quanh bằng một cuộc sống ngập tràn
tình bác ái yêu thương.
Riêng trong phạm vi gia đình, chúng ta
hãy noi gương bắt chước Mẹ, là Trinh Nữ sinh con “Virgo
Pariens”. Như chúng ta cũng đã biết : một trong hai mục đích
chính của hôn nhân đó là sinh sản con cái như lời Chúa đã
phán :
- “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho
đầy mặt đất, và thống trị mặt đất.” (St 1,28).
Ngày nay, với não trạng sợ hãi về sự
bùng nổ dân số, với nỗi âu lo về một tương lai bấp bênh,
người ta không muốn sinh con, thậm chí còn coi con cái như
một gánh nặng cần phải loại trừ. Vì thế không lạ gì khi thấy
con số những trường hợp phá thai tại Việt Nam không ngừng
gia tăng, phỏng đoán khoảng một triệu rưỡi mỗi năm!
Trong khi đó, tình mẫu tử nhân loại của
Mẹ đạt đến thành tựu vĩ đại nhất khi cưu mang và sinh hạ
Chúa Giêsu. Từ giây phút được truyền tin, Mẹ đã là chén
thánh sống động chứa đựng Con Thiên Chúa làm người. Theo
truyền thống dân tộc mình, Mẹ tin nhận chính Thiên Chúa là
Đấng ban sự sống và chăm sóc sự phát triển : “Cũng như
ngươi không biết hướng đi của gió hay các sự bí nhiệm nơi
một bà mẹ mang thai, ngươi càng không biết việc của Thiên
Chúa, Đấng làm nên mọi sự.” (Gv 11,5, Thiên Chúa 139,13,
2Mcb 7,22).
Thái độ tôn trọng sự sống con người
ngay từ trong trứng nước đi liền với sự hiểu biết và sử dụng
tình dục đứng đắn. Các tín hữu, theo gương Mẹ, sẽ coi hành
vi phá thai cũng đáng ghê tởm như hành vi tàn sát các hài
nhi vô tội trong Phúc âm thánh Matthêu. Đồng thời, họ sẽ
nhận ra lời bà Elisabeth nói với Mẹ : Người con em đang cưu
mang cũng được chúc phúc (Lc 1,43), vẫn luôn xác thực đối
với từng bào thai. (Từ Điển Đức Mẹ).
Tuy nhiên, là cha mẹ, chúng ta không
phải chỉ sinh ra con cái trong đời sống thể xác, mà còn phải
sinh ra con cái trong đời sống ơn sủng, trong đời sống
thiêng liêng, đời sống người con cái Chúa, nhờ các bí tích
của Giáo hội, cũng như nhờ việc giáo dục của mình như Công
đồng trong sắc lệnh “Gravissimum Educationis” về giáo dục
Kitô giáo đã viết :
- “Vì là người truyền sự sống cho con
cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng là giáo dục
chúng và vì thế họ được coi là những nhà giáo dục đầu tiên
và chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến
nỗi nếu thiếu sót thì khó lòng bổ khuyết được…Nhưng đặc biệt
trong gia đình Kitô giáo, vì đã lãnh nhận ân sủng cũng như
bổn phận của bí tích Hôn phối, nên cha mẹ phải dạy dỗ con
cái ngay từ nhỏ, để chúng nhận biết và kính thờ Thiên Chúa
cùng yêu mến tha nhân theo đức tin chúng đã lãnh nhận khi
chịu phép Rửa tội…” (GE 3)
Và phương thế hữu hiệu nhất để giáo dục
con cái chính là đời sống gương mẫu của cha mẹ, bởi vì :
- Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
Đức Thánh Cha cũng đã khẳng định :
- “Gương sống cụ thể, chứng tá sống
động của cha mẹ, là yếu tố căn bản và không thể thay thế
được trong việc giáo dục…” (CF 60).
Kinh nghiệm cho thấy chính đời sống
gương mẫu của cha mẹ mới là một bài giảng hùng hồn nhất, có
sức lôi cuốn con cái đến cùng Chúa.
MẸ LÀ TRINH NỮ HIẾN
DÂNG, “VIRGO OFFERANS”
Tông huấn viết :
- “Qua việc dâng Chúa Giêsu vào đền
thánh (Lc 2,23-35), Giáo hội do Thánh Linh dẫn dắt, đã gặp
mầu nhiệm cứu rỗi liên hệ đến lịch sử cứu rỗi qua việc Mẹ
tuân giữ luật dâng con trai đầu lòng (Xã hội 13,11-16) và
nghi thức thanh tẩy cho người mẹ (Lv 12,6-8)...Giáo hội
chứng kiến ơn cứu chuộc cho mọi người được công bố, khi cụ
Simêon kính chào ánh sáng để soi muôn dân và vinh quang cho
Israel ở nơi con trẻ (Lc 2,32)….Sự hợp tác giữa Mẹ và Con
trong công cuộc cứu rỗi đã đạt tới tuyệt đỉnh trên đồi
Canvê, nơi Đức Kitô đã tự hiến tế như của lễ tinh tuyền cho
Thiên Chúa, và cũng tại đây Mẹ đứng kề Thánh giá đau đớn dữ
dằn với Con Một, lấy tình mẹ mà hợp tác sự hiến tế của Con,
yêu thương chấp nhận sự hiến tế hy lễ được hạ sinh do thân
xác Mẹ và Mẹ cũng hiến dâng chính mình cho Chúa Cha hằng
hữu.” (MC 20).
Dựa vào Tin mừng cũng nhau dựa vào
Truyền thống, chúng ta thấy Mẹ đã sống tinh thần hiến dâng
qua nhiều biến cố cuộc đời. Thực vậy, theo Truyền thống, thì
năm lên ba, Mẹ đã được dâng hiến vào đền thờ và ở lại đó một
thời gian để học hỏi Kinh thánh và cũng chính trong thời
gian ấy, Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh, một nhân đức rất ít
người bấy giờ tuân giữ.
Tâm tình dâng hiến này được biểu lộ một
cách rõ rệt nhất qua lời xin vâng của Mẹ trong hoạt cảnh
truyền tin. Mẹ đã dâng hiến cõi lòng mình cho Ngôi Lời nhập
thể. Mẹ đã cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mình và cứu độ
nhân loại. Đây là một hành vi dâng hiến tuyệt vời, đầy đủ và
trọn vẹn nhất, Vì thế chúng ta cũng có thể gọi Mẹ là Trinh
Nữ xin vâng, “Virgo Obediens”. Lời xin vâng này đã đưa Mẹ
vào một khúc quanh mới và chi phối toàn bộ cuộc đời Mẹ, để
rồi ở mọi nơi và trong mọi lúc, Mẹ đều xin vâng hầu chu toàn
thánh ý Thiên Chúa : Xin vâng trước sự khó nghèo của máng cỏ
Bêlem, xin vâng trong cảnh vất vưởng nơi đất khách quê người
bên Ai cập, xin vâng với cuộc sống âm thầm và lam lũ tại
xưởng thợ Nagiarét…
Tin mừng cũng kể lại : Khi đã đến ngày
lễ thanh tẩy, Mẹ cùng với Thánh Giu-se đem hài nhi Giêsu lên
Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật
Chúa rằng : "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của
thánh, dành cho Chúa", và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa
truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non…(Lc
2:22-28). Và cũng tại đây, Mẹ đã đón nhận lời tiên báo của
ông già Simêon về một tương lai không mấy sáng sủa đang chờ
đón Mẹ.
Thế nhưng, cao điểm của tâm tình hiến
dâng cũng như của lời xin vâng, đó là khi Mẹ đứng dưới chân
thập giá, kết hiệp những khổ đau của mình với những đau khổ
của Chúa Giêsu, đề lập nên kho tàng ơn cứu độ cho nhân loại
và chúng ta cũng có thể nói được rằng : Mẹ đã cưu mang chúng
ta bằng lời xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin và Mẹ đã
sinh chúng ta ra trong những đau khổ của thập giá.
Mẹ là Trinh nữ hiến dâng, bởi vì Mẹ đã
hoàn toàn để cho Chúa được hoạt động nơi bản thân và trong
cuộc đời của Mẹ.
Với chúng ta cũng vậy. Đau khổ dường
như là một cái gì gắn liền với thân phận con người :
- Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe,
Đời có vui sao chẳng cười khì.
Giáo lý nhà Phật đã diễn tả :
- Đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta
là như một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Và trong kinh Lạy Nữ Vương chúng ta vốn
thường đọc :
- Chúng con ở nơi khóc lóc than thở…
Hay như một câu danh ngôn cũng đã nói :
- Bông hồng nào mà chẳng có gai, cuộc
đời nào mà chẳng có những đắng cay chua xót của nó.
Và cuộc sống gia đình cũng không thoát
khỏi cái định luật chung ấy. Làm sao chúng ta có thể kể hết
những khổ đau trong nếp sống lứa đôi, xuất phát từ việc
chúng ta chu toàn bổn phận làm vợ làm chồng, cũng như bổn
phận làm cha làm mẹ. Thật đúng như lời Công đồng đã xác
quyết :
- “Để có thể kiên trì chu toàn nghĩa vụ
ơn gọi làm người Kitô hữu như thế, tức là sống đời vợ chồng,
cần phải có một nhân đức phi thường. Chính vì thế mà vợ
chồng được ơn Chúa củng cố để sống thánh thiện sẽ ân cần
nuôi dưỡng và cầu xin cho được một tình yêu kiên vững, một
tâm hồn đại lượng và tinh thần hy sinh”. (GS 49).
Vì thế, chúng ta cần phải noi gương Mẹ
sống tâm tình hiến dâng bằng cách :
* Cộng tác với Chúa trong công cuộc
cứu rỗi bản thân và những người thân yêu.
Thánh Augustinô đã nói :
- Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không
cần hỏi ý kiến chúng ta. Nhưng để cứu rỗi chúng ta, Chúa cần
chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Sự cộng tác của chúng ta tuy nhỏ bé
nhưng lại rất cần thiết bởi vì Ngài sẽ không thể cứu rỗi
chúng ta, nếu như chúng ta không muốn. Như Mẹ, chúng ta hãy
để cho Chúa hoạt động nơi bản thân và trong cuộc đời chúng
ta.
* Xin vâng theo thánh ý Chúa trong
mọi hoàn cảnh, chấp nhận
những hy sinh gian khổ của cuộc sống lứa đôi, bởi vì chính
những hy sinh gian khổ này sẽ kết thành cây thập giá đời
thường Chúa muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
Hơn thế nữa, hãy chấp nhận vì lòng yêu
mến Chúa, bởi vì lòng yêu mến sẽ là như một cây đũa thần,
biến những hy sinh gian khổ của chúng ta trở thành những sợi
chỉ vàng, dệt thành tấm vải cuộc đời và làm cho cuộc đời
chúng ta thực sự có một giá trị to lớn trước mặt Chúa.
KẾT LUẬN
Để kết luận, tôi xin mượn lời sau đây
của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trong tông huấn “Consortio
Familiaris” :
- “Ước gì Đức Trinh Nữ Maria, là Mẹ Hội
Thánh, cũng nên Mẹ của “Hội Thánh tại gia”! Ước gì nhờ sự
trợ giúp từ mẫu của Mẹ, mọi gia đình Kitô hữu đều có thể
thực sự trở nên một “Hội Thánh nhỏ” trong đó mầu nhiệm của
Hội Thánh Đức Kitô được phản ảnh và sống lại! Mẹ là nữ tỳ
của Chúa, ước gì Mẹ là gương mẫu cho mọi gia đình biết khiêm
tốn và quảng đại đón nhận thánh ý của Thiên Chúa! Mẹ là
Người Mẹ đau khổ dưới chân thập giá, ước gì Mẹ cũng ở đó để
xoa dịu những đau khổ và lau sạch nước mắt của những ai đang
ưu phiền vì những khó khăn gia đình họ đang gặp phải!” (CF
86).
Lạy Nữ vương gia đình,
Xin cầu cho chúng con.
GSVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
|
Lm Giuse Lê Công Đức
chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD IMPERILED,
BERNARD HARING, C.SS.R.
Mới đây, tôi tình cờ bắt gặp một bài
viết với cái tựa đề giựt gân: ĐỨC GIÊSU ĐÂU CÓ CẦN CÁC LINH
MỤC! Là một linh mục cao niên, đã bỏ ra gần cả đời mình để
giúp người ta xây dựng một tinh thần an hòa, vui tươi và bản
lĩnh, song phải thú nhận rằng thoạt đầu tôi đã khó chịu với
cái tiêu đề ấy. Thế nhưng, khi lần đọc qua bài viết, tôi
khám phá rằng tác giả của nó, một nhà thần học Công Giáo,
không hề có ý định chống đối chức linh mục. Đúng hơn, bằng
những luận cứ chặt chẽ, ông thách đố bạn đọc suy ngẫm một
câu hỏi thâm trầm hơn, đó là: “Đức Giêsu đã thực sự có ý
định gì khi Ngài chọn và sai các Tông Đồ và các môn đệ đi
rao giảng Tin Mừng cho mọi người?”
Được gợi hứng từ bài viết đó, tôi đã
đặt cho một số người Công Giáo tích cực câu hỏi rằng Đức
Giêsu thực sự muốn hay không muốn chức linh mục. Họ trả lời
câu hỏi của tôi bằng cách đặt ra câu hỏi của chính họ: “Hình
ảnh nào về chức linh mục, theo cha, phù hợp với ý định của
Đức Giêsu?” Trong khi câu hỏi của họ ít nhất biểu lộ một
cách mặc nhiên niềm tin rằng Đức Giêsu đã có một cái nhìn về
chức linh mục, thì họ đẩy lại cho tôi công việc phác họa cái
nhìn đó.
Nhằm yêu cầu những con người trưởng
thành ấy cùng tham gia vào cuộc suy tư này, tôi đặt lại câu
hỏi nguyên thủy của mình một cách cụ thể hơn và hỏi họ: “Các
bạn coi ai là mẫu linh mục lý tưởng mà Đức Giêsu đã phác
họa?” Người thứ nhất trả lời: “Thưa cha, con nghĩ đến những
người như Giám mục Jacques Gaillot, một vị tông đồ trung
thực, thẳng thắn của hòa bình, một con người hoàn toàn dấn
thân cho những kẻ bị loại ra bên lề cuộc sống.”
Mới đây, sau một bài nói chuyện với một
nhóm vài trăm nhà hoạt động cho hòa bình, tôi thẳng thắn
tuyên bố rằng một Kitôhữu, nhất là một linh mục, nếu không
tỏa ra tinh thần hòa bình và không giúp thăng tiến hòa bình,
nếu không cổ võ cho con đường phi bạo lực và cho một nền
công lý phổ cập, thì Kitôhữu ấy chẳng có giá trị gì. Lập
tức, từ trong thính giả có ý kiến: “Vậy phải nghĩ sao về
việc cách chức Giám mục Gaillot, vị giám mục duy nhất ở Pháp
nêu rõ lập trường chống vũ khí hạt nhân và kiên quyết đứng
về phía những người tội lỗi và những kẻ bị khinh thường?”
Hơi ngập ngừng, tôi nói: “Dường như một Kitôhữu, hoàn toàn
dấn thân cho tinh thần phi bạo lực theo Tin Mừng, đương
nhiên sẽ gặp rủi ro.” Tôi tin rằng đó là một rủi ro cùng
loại với rủi ro của các ngôn sứ thời xưa, nhất là của Đức
Giêsu, vị Ngôn Sứ và Người Mẫu của mọi thời đại.
Bạn đọc thân mến, vì thế, tôi mời bạn
cùng bước vào cuộc tìm hiểu này để nhận hiểu sâu xa hơn về
điều Đức Giêsu nhắm đến khi Ngài kêu gọi những kẻ tin Ngài
thể hiện sự sống Phục Sinh của Ngài và loan báo chiến thắng
cuối cùng của hòa bình trong và xuyên qua cuộc Phục Sinh ấy.
Trong quá trình tìm hiểu, chúng ta sẽ tham chiếu đến Thánh
Kinh và lịch sử – bởi vì Đức Giêsu, Đấng đã có, đang có và
sẽ đến, dạy chúng ta trong nhãn giới của toàn lịch sử cứu
độ.
Thật vậy, một lý do chính để khảo sát
Thánh Kinh - (ngoài công việc rất quan trọng là vãn hồi ý
nghĩa nguyên thủy trong những bối cảnh lịch sử khác nhau của
nó) - là nhằm để khám phá theo một khoa chú giải mới những
gì mà Tin Mừng muốn nói hôm nay, và những nhận hiểu này có
thể ảnh hưởng như thế nào đến ý nghĩa của sứ vụ linh mục hôm
nay và ngày mai. Như vậy, khoa chú giải này đòi hỏi chúng ta
phải nhận hiểu và vận dụng các dấu chỉ của thời đại như một
phần cốt yếu của cuộc thảo luận, nếu chúng ta muốn biện phân
đúng đắn loại chức linh mục nào mà Đức Giêsu đã hình
dung. Điều này đặc biệt quan trọng, vì với chủ điểm
“linh mục”, chúng ta hầu như không tìm thấy gì liên quan
trong Kinh Thánh Kitô giáo – chính bởi vì từ ngữ này chưa
tồn tại vào thời mà Kinh Thánh được viết ra hay được sưu
tập. Cuối cùng, điều quan trọng không phải là chính bản thân
hạn từ chuyên biệt ấy mà đúng hơn là hiện tượng chức linh
mục, theo một ý nghĩa chuyên biệt Kitô giáo, được ghi nhận
trong lịch sử và qui hướng về cuộc đời và sứ vụ của chính
Đức Giêsu.
(còn tiếp) |
VỀ MỤC LỤC |
|
XỨC DẦU THÁNH |
Đức Cha Giuse yêu cầu tôi
giảng thánh lễ hôm nay, ngày 30/4/2007, vì lễ hôm nay là kỷ
niệm 32 năm tôi thụ phong giám mục.
Tôi xin vâng. Nhưng những gì
tôi nói trong thánh lễ này sẽ là bài chia sẻ hơn là bài
giảng. Nội dung chia sẻ gồm 3 phần vắn tắt:
1- Ấn tượng sâu đậm nhất của
tôi trong lễ thụ phong giám mục.
2- Cảm nghiệm sâu sắc nhất
của tôi trong suốt đời giám mục.
3- Thao thức sâu lắng nhất
của tôi trong sứ mạng giám mục.
Trước hết về ấn tượng sâu đậm
nhất tôi nhận được trong lễ thụ phong giám mục
Ấn tượng
Ấn tượng đó xảy ra khi được
Đức Cha Micae xức dầu thánh cho tôi.
Lúc đó, tôi nhớ đến lời Kinh
Thánh xưa: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã xức
dầu cho tôi" (Lc 4,18).
Theo các nhà chú giải Kinh
Thánh, thì dầu thánh nói đây ám chỉ một ơn riêng làm toả
hương thơm tình yêu Chúa.
Lúc ấy sự hiểu biết đó chỉ
thoáng qua đầu óc tôi, nhưng đủ gây trong tôi ấn tượng này:
Tôi được sai vào một hoàn cảnh rất mới, rất khó, để toả
hương thơm tình yêu Chúa.
Tôi biết sứ mạng thiêng liêng
đó vượt quá sức tôi, vì tôi quá yếu đuối, nên tôi phó thác
tương lai tôi cho Chúa. Phó thác đơn sơ, phó thác tuyệt đối.
Phó thác không có nghĩa là sẽ không làm gì, nhưng sẽ là cố
gắng hết sức mình để đón nhận ơn Chúa.
Đón nhận bằng cầu nguyện,
bằng tỉnh thức lắng nghe những tín hiệu trong các diễn biến
lịch sử, bằng sự đồng cảm với Hội Thánh và Quê Hương. Khổ
cái khổ của địa phận, đau cái đau của đồng bào, lo cái lo
của Đất Nước.
Trong suốt đời giám mục, tôi
ý thức sâu sắc mình được xức dầu để làm chứng cho "điều răn
mới" (Ga 13,34). Cuộc sống làm chứng đã cho tôi nhiều cảm
nghiệm. Những cảm nghiệm đó là thế nào?
2/ Cảm nghiệm
Cảm nghiệm đầu tiên của
tôi là tôi phải luôn chiến đấu với chính mình, để vâng theo
ý Chúa. Nếu cuộc chiến đó có một
chiến lược, thì chiến lược đó đã được diễn tả trong kinh Hoà
Bình của thánh Phanxicô.
Một đoạn nhỏ sau đây có thể
cho thấy hình ảnh chiến lược đó: "Lạy Chúa, xin hãy dùng
con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào
nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào
nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm".
Tôi vui mừng nhận thấy chiến
lược kinh Hoà bình đã được mọi thành phần của giáo phận thực
hiện.
Khi thực hiện, chúng ta đã
phải vượt qua bao khó khăn và đau khổ. Nói chung là chúng ta
cảm nghiệm thấy: Hương thơm tình yêu Chúa được ban cho ta,
khi ta biết cộng tác với chính Đức Kitô, với trái tim của
Người, với thánh giá của Người, với lễ tế chính bản thân
Người.
Suốt những năm qua, chúng ta
đã sống như thế với Người, đã làm chứng như thế cho Người,
đã rao giảng như thế về Người.
Hiệu quả được chúng ta cảm
nghiệm là âm thầm, nhưng lớn lao, cao quý. Bởi vì đã có vô
số sự trở về đàng lành. Xã hội đó đây trở về. Nhiều đồng bào
trở về. Chính chúng ta là những người tội lỗi được Chúa đưa
trở về. Do đó, điều tôi cảm nghiệm sâu sắc nhất, đó là
Thiên Chúa đúng là tình yêu thương xót, rất gần gũi và giản
dị.
Nhưng chúng ta không dừng lại
ở những cảm nghiệm đó. Bởi vì chúng tôi cũng như anh chị em
vẫn phải lên đường. Và đây chính là điều gây cho tôi
nhiều thao thức.
3/ Thao thức
Xưa, Chúa Giêsu đã phán: "Hôm
nay, ngày mai, ngày mốt, Thầy phải tiếp tục đi" (Lc
13,33). Chúng ta là môn đệ Chúa cũng tiếp tục đi. Con
đường ta đi là lịch sử Đất Nước, lịch sử Hội Thánh, lịch sử
riêng ta. Những lịch sử đó có nhiều chuyển biến và bất ngờ.
Vì thế, thao thức lớn của tôi
là chia sẻ tâm tình của Chúa Giêsu, khi Người cầu nguyện xưa
trong bữa tiệc ly: "Xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần" (Ga
17,15). Ác thần là những động lực của xác thịt, thế gian
và quỷ dữ tìm cách đẩy con người xuống hoả ngục.
Những ác thần đó cũng mang
những thứ dầu thơm của riêng chúng. Thường thì những dầu
thơm đó, dù có chút mùi đạo đức, nhưng vẫn huỷ hoại lương
tâm bằng nhiều nham hiểm.
Vì thế, nếu nghĩ rằng đời
sống đạo hôm nay là an toàn, không bị những ác thần mưu mô
phá hoại, thì quả là quá ngây thơ. Điều đó càng làm tôi thêm
thao thức, nhất là tôi linh cảm, những gì Đức Mẹ cảnh báo ở
Fatima sẽ xảy ra rất ghê gớm, nếu nhân loại không trở về
đàng lành.
Để kết bài chia sẻ này, tôi
xin nói với anh chị em một niềm vui âm thầm của tôi. Đó
là tôi thấy "Đức Mẹ Thăm viếng" (x. Lc 1,39-56) đã đến giáo
phận ta từ lâu rồi. Mẹ đã ở lại với chúng ta, đã luôn
che chở chúng ta là những con cái yếu hèn bé nhỏ của Mẹ.
Biết bao người đã nhận được dầu thiêng "Đức Mẹ Thăm viếng"
ban cho. Dầu thiêng đó đã giúp chúng ta đổi mới cuộc đời,
chữa lành nhiều vết thương, để ta an tâm đi về với Thiên
Chúa giàu lòng thương xót.
Cùng với "Đức Mẹ Thăm viếng", chúng ta khiêm tốn cảm tạ Chúa
và tuyệt đối phó thác, xin vâng ý Chúa đến muôn đời.
+ GM. GB. BÙI TUẦN |
VỀ MỤC LỤC |
|
EM BIẾT TIN AI BÂY GIỜ
?! |
Phúc Âm Nhật Ký ngày 29.04.2007
(Ga 10:27-30)
Sau khi thoát khỏi chiến tranh lạnh kéo
dài hàng bao thập niên, nhân loại tưởng sẽ bước vào một thế
kỷ mới đầy hạnh phúc. Nhưng rõ ràng thế giới không bao giờ
hòa bình. Cuộc xung đột ý thức hệ chưa chấm dứt, thì cuộc
đối đầu về tôn giáo diễn ra ác liệt. Tình hình thế giới hôm
nay khó tìm một giải đáp. Con người tự hào về sự hiểu biết
quá nhiều và một chiều về tôn giáo của mình. Niềm tin quá
mạnh đến độ cuồng tín đã đẩy cả xã hội và con người vào lò
lửa chiến tranh như tại Trung Ðông hiện nay.
Ðang khác, nhân loại đang trải qua cuộc
khủng hoảng về gia đình, xã hội, luân lý, đạo đức v.v.
Con người đang mất hướng chỉ vì quá chú tâm vào những phương
tiện sống hơn là chính sự sống. Nguyên do vì càng ngày
con người càng ít biết về tôn giáo, nguồn cung cấp lẽ sống.
Theo thống kê, ngay tại nước nổi tiếng Công giáo một thời
như Ái Nhĩ Lan, có tới 95 phần trăm người lớn không hề biết
về Ðiều Răn Thứ Nhất trong Mười Ðiều Răn.[1]
Kiến thức một chiều hay không có kiến thức về tôn giáo
đều dẫn nhân loại đến chỗ chết. Nhiều người như bị lạc
hướng hay bị xé rách giữa những giằng co của bao chủ thuyết
và niềm tin.
“Em biết tin ai bây giờ ?”
Giữa cảnh hoang mang đó, Ðức Giêsu lên
tiếng mạnh mẽ : “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục tử nhân
lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10:11)
Thực tế, Chúa có xứng đáng với danh hiệu đó không ? Người
có đủ khả năng dẫn con người ra khỏi vòng luẩn quẩn của kiếp
người không ?
Ngoài Ðức Kitô, con người không thể
kiếm được con đường cứu thoát nào khác. Thực vậy, muốn đạt
đến ơn cứu độ, con người cần phải biết Thiên Chúa và Thánh ý
Người như đã mạc khải trong thánh sử. Bởi đấy, trước hết,
Chúa Giêsu phải bày tỏ cụ thể thánh ý Thiên Chúa, tức những
huấn chỉ và lời hứa, cho con người (x. Ga 17:3; Dt 1:1-5).
Chỉ mình Người mới có thể biết và làm cho người khác biết
thánh ý huyền nhiệm của Thiên Chúa Cha vĩnh hằng (x. Mt
1:27). Ðức Kitô đầy quyền năng trong lời giảng dạy. Người
cho nhân loại biết muốn được cứu rỗi, cần phải tin và nhận
biết Người là Ngôi Lời Thiên Chúa.
Ngôi Lời đến trần gian để rao giảng
Nước Thiên Chúa và kêu gọi mọi người sám hối. Không sám
hối, không thể nhận biết Người là vua. Người sinh xuống
trần gian để đem sức mạnh sự thật giải thoát nhân loại (x.
Ga 18:37). Như thế, Người xứng đáng là một Mục Tử đầy uy
quyền, khôn ngoan và quả cảm. Bởi thế, trước cuộc đời đầy
thách đố và hiểm nguy, Người không tìm an nhàn thư thái hay
yên ổn cho bản thân. Người cũng không hy sinh đoàn chiên để
đạt mục tiêu riêng. Trái lại, Người sẵn sàng liều mạng để
cứu sống đoàn chiên. Người không thể ngồi yên khoanh tay
nhìn sói dữ cắn xé đoàn chiên. Sự hy sinh bất vụ lợi đó là
tiêu chuẩn đánh giá người mục tử đích thực. Người không thể
sống theo nước đôi. Vừa muốn danh dự và uy quyền của một
mục tử vừa muốn toàn mạng, chứ không phải đối đầu với đàn
sói, làm sao có thể có một thứ mục tử dễ dàng đến thế !
Không ! Người dứt khoát đem tất cả sức mạnh bảo vệ đoàn
chiên, dù phải trả bất cứ giá nào ! Chính vì thế, Người trở
thành trung tâm thu hút và sức mạnh quy tụ đoàn chiên. Tình
yêu đã khiến Người hy sinh tất cả cho hạnh phúc và sự sống
đoàn chiên.
Sở dĩ dám hy sinh tất cả cho đoàn
chiên, vì Người ý thức rất rõ về trọng trách Chúa Cha giao
phó đoàn chiên cho mình. Nếu con người chẳng có một giá trị
nào, tại sao Chúa Cha lại giao phó cho Chúa Con ? Tại sao
Chúa Con lại đón nhận như một tặng phẩm quý giá hay như một
bửu bối ? Người hiểu biết rất rõ về giá trị của từng con
chiên và của cả đoàn chiên : “Tôi biết chúng.” (Ga 10:27)
Sự hiểu biết đó không phải là một kiến
thức khô cứng hay một lý thuyết vô hồn. Trái lại, đó là sự
hiểu biết toàn vẹn bao hàm tình yêu và đưa đến sự hy sinh
hoàn toàn.
Chỉ có Mục Tử như thế mới làm cho đoàn
chiên cảm phục và quây quần chung quanh để lắng nghe và đi
theo (x. Ga 10:27) mà thôi. Không sống chết với đoàn chiên,
dĩ nhiên không thể được mến chuộng đến như thế. Mục tử
không biết hy sinh đến quên mình, đoàn chiên không thể gắn
bó. Bởi đấy, khi không can đảm bảo vệ đoàn chiên, mục tử sẽ
mở đường cho chó sói cắn xé và phân tán đoàn chiên. Vị Mục
Tử tối cao luôn đi sát đoàn chiên để hướng dẫn và chỉ bảo
đoàn chiên giữa những ồn ào và nanh vuốt của bầy sói. Ðó là
lý do tại sao Chúa dám cả quyết: “Không bao giờ chúng phải
diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.” (Ga
10:28)
Làm cách nào Chúa có thể bảo đảm như
thế ? Chúa đã dùng phương thế gì? Chúa đã bảo vệ đoàn
chiên “bằng lời chân lý, bằng sức mạnh của Thiên Chúa, (và)
lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và tự vệ.” (2 Cr 6:7)
Như thế, nếu Chúa cứ im lặng, đoàn chiên sẽ lắng nghe cái
gì và làm sao đi theo Người ? Trước những bất công là vũ
khí của loài sói dữ, chỉ có Lời Chúa và sự công chính mới
đương đầu nổi. Thánh Linh chính là sức mạnh Thiên Chúa giúp
Người chiến đấu chống lại kẻ thù. Nhờ chiến đấu can trường,
không những Người có thể cứu đoàn chiên, mà còn làm cho “sự
sống đời đời” (Ga 10:28) như mạch suối chảy dào dạt trong
con chiên nữa.
Càng chiến đấu chống lang sói để bảo vệ
đoàn chiên, Người càng mạc khải rõ căn tính và sứ mệnh của
mình. Không phải vô tình Người đứng ra lấy thân cản trở sói
lang để cứu đoàn chiên. Nếu không được Chúa Cha ủy thác và
sai phái, Người không bao giờ đảm lãnh trách vụ đó. Có thể
nói Chúa Cha đang ôm trọn đoàn chiên trong vòng tay của
Người là Ðức Giêsu. Còn thành trì nào vững chắc hơn ?
Trong vòng tay đầy yêu thương đó, Chúa
Cha quy tụ muôn tín hữu “thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi
nước và mọi ngôn ngữ.” (Kh 7:9) Chỉ đức tin mới có sức mạnh
vượt qua mọi giới hạn tự nhiên mà thôi. “Có đức tin là nhờ
nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Ðức Kitô.” (Rm
10:17) Chính vì thế, lời Chúa có sức mạnh quy tụ muôn dân
và lôi cuốn họ theo Người . Nếu không có Lời, Chúa sẽ trở
thành xa lạ đối với đoàn chiên và đoàn chiên cũng không biết
nhau nữa. Nói khác, chính Lời khiến đoàn chiên thuộc về
Chúa và thuộc lẫn nhau. Theo thánh Augustinô, “tâm hồn
thuộc về Chúa Giêsu Kitô, thì nghe tiếng Chúa, hiểu Lời Chúa
: người lạ không nghe thấy gì cả.”
Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần nghe tiếng Chúa để biết
cách hành xử kịp thời và thích hợp.
Vậy đứng trước nhiều sự kiện của GHVN
hôm nay, chúng ta nên có thái độ nào ? Gần đây, mọi người
đều thấy nhiều vị lãnh đạo GHVN không còn giữ im lặng trước
một vài trách nhiệm tế nhị của mình nữa; Tuy nhiên, có vị
lại cho biết phải đợi tới tháng 10.2007 mới có thể biết ý
kiến của HÐGMVN...
Trước vụ thảm sát tại đại học Virgina
Tech vừa qua, HÐGM Nam Hàn đã không phải đợi đến kỳ họp
thường niên...! Không, ngay lập tức, ÐHY Nicholas Cheong
Jin-suk, TGM thủ đô Seoul Nam Hàn, đã lên tiếng và phân ưu
với các gia đình nạn nhân. Cả Hội Ðồng Liên Tôn Nam Hàn
cũng có một thái độ tương tự.
Trong mọi trường hợp, nhất là khi đã
có những tranh luận khác biệt trong cộng đoàn, ý kiến của
người lãnh đạo luôn là cần thiết và tối quan trọng, ý kiến
đó cần phải rõ ràng minh bạch. Sự im lặng của lãnh đạo (hoặc
lập trường nước đôi), có thể sẽ là một thảm kịch cho đoàn
chiên!
(...)
“Đừng hiểu
chính trị theo nghĩa hẹp ! Giáo Hội có bổn phận phải rao
giảng Tin Mừng, mà trong Tin Mừng có con người, tức là có
nhân quyền, nhân phẩm, tự do và lương tâm cùng tất cả những
gì thuộc về con người. Nếu tất cả những cái đó có một giá
trị chính trị thì tôi làm chính trị, vì tôi bênh vực con
người.”[3]
ÐGH Gioan Phaolô II đã phải lấy cả cuộc đời để chứng minh
nhận định sâu sắc đó. Nhân loại cần phải biết ơn và không
bao giờ có thể quên tấm gương cao cả và dũng đảm của vị
giáo hoàng khả kính này!
Hội Ðồng Giám Mục Á Châu minh định:
“Trước hết chính trị phải trở thành một hoạt động chung,
toàn thể dân Chúa được mời gọi dấn thân vào hoạt động chính
trị ấy, vì Phúc Âm đòi hỏi Kitô hữu đưa Phúc Âm và những giá
trị Nước Trời- là tình thương và công bình- xâm nhập vào
những lãnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, và xã hội của
Châu Á. Ai tuyệt đối khước từ đòi hỏi thay đổi chính trị ở
Châu Á, ắt là một cách nào đó, cũng phủ nhận căn tính Kitô
của mình.”[4]
Vì nhiều hoàn cảnh khó khăn, không được
hiểu biết nhiều về giáo lý và giáo luật, cũng không được
tiếp cận đầy đủ thông tin, người giáo dân tại Việt nam không
thể dễ dàng trở thành những công dân có ảnh hưởng và hoạt
động hữu hiệu cho chính quê hương và giáo hội của mình.
Sự thiếu hiểu biết về giáo lý nguy hiểm hơn các hình thức vô
tri khác, vì tôn giáo có một vai trò quan trọng trong văn
hóa và như là một sức mạnh trên thế giới.[5]
Nhưng mấy ai dám nhận mình thiếu hiểu biết như thế ? !
Phản ứng theo sự thiếu hiểu biết... lại
càng thiệt thòi hơn cho Giáo hội.
Lạy Chúa, xin thương đến quê
hương và GHVN chúng con! Xin cho tất cả chúng con, dù là
giáo dân hay giáo sĩ, đều có thể trở thành những mục tử can
đảm bênh vực và hướng dẫn đoàn chiên mà Chúa đã trao phó cho
từng người... theo đúng Thánh Ý Chúa. Amen.
Lm đỗ lực
29.04.2007
[3]
Nhật báo La Stampa, Ý, tháng 0 3.1991.
[4]
FABC 4, 3.1.2, Tokyo, 16-25 tháng 09.1986.
[5]
Prothero, Zenit 23.04.2007.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NHÂN LOẠI VẪN CẦN… |
SUY NIỆM NHÂN LỄ
CHÚA CHIÊN LÀNH
Ngày ấy, khi lớp chúng tôi có gần một
nửa lớp chịu chức linh mục, linh mục Nguyễn Duy, (lúc đó
cũng đang là chủng sinh, dù thuộc lớp đàn anh, nhưng được
phân bổ vào lớp chúng tôi để hợp thức hóa và bổ túc chương
trình học), đã cảm tác bài hát “Nhân loại vẫn cần” để tặng
cả lớp.
Bài hát ấy, tôi vẫn nhớ, vẫn hát. Mỗi
lúc nhớ thầy, nhớ trường, nhớ bạn, hoặc mệt mỏi vì rong ruổi
trong suốt dọc dài con đường phục vụ, tôi đã nhiều lần hát
đi hát lại, để vừa cầu nguyện cho mình, cho thầy, cho anh
em, cho sứ vụ của từng người trong lớp chúng tôi, cho cả
những gương mặt thân yêu của cộng đoàn mà mình sống và làm
việc hôm nay, vừa tìm cách củng cố sức lực do năm tháng đã
không ít hao mòn.
Đối với riêng tôi, bài hát ấy hay, nó
gợi lại trong tôi cả khung trời kỷ niệm, đồng thời giúp tôi
hiên ngang nhìn về phía trước mà thực hiện chính sứ mạng của
Chúa Kitô, được Chúa Kitô trao cho mình… Cứ thế, mà tôi hát:
“Nhân loại vẫn cần người biết sống ơn gọi của Chúa. Nhân
loại vẫn cần người làm chứng tình Chúa yêu thương. Nhân loại
vẫn cần người mục tử dẫn đường chỉ lối, cùng đoàn chiên đêm
ngày đi tới, về nhà Cha mến yêu muôn đời…Nhân loại vẫn cần
người đi tiếp con đường của Chúa. Nhân loại vẫn cần người
dám sống cuộc sống Giêsu. Nhân loại vẫn cần người nhiệt tâm
trong đời ngôn sứ, chỉ truyền rao những lời của Chúa để trần
gian sống trong sự thật…Nên Chúa đã sai từng người chúng
con, những linh mục bước đến cùng thế giới. để đáp ứng những
khát vọng khắp nơi. Để tô thắm những ước mơ con người. Nghe
tiếng Chúa nay từng người chúng con quyết lên đường loan Tin
Mừng Cứu Rỗi. Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng con được
nên thánh trong cuộc đời chứng nhân…”.
Trong những ngày này, chuẩn bị mừng lễ
Chúa Chiên lành, ngày Hội Thánh cầu nguyện và cổ võ cách đặt
biệt đối với ơn gọi tận hiến, tôi càng ý thức hơn vai trò và
trách nhiệm mục tử của mình. Sau mỗi thánh lễ sáng xong, tôi
đóng cửa phòng rồi cứ thế mà cất lên cung điệu Nhân loại vẫn
cần… để cầu nguyện, để tạ ơn Chúa, để đánh thức mình hãy nên
mục tử nhân lành.
Sau bài hát, tôi lại đọc đi đọc lại bài
Tin Mừng theo thánh Gioan để nguyện gẫm: “Chúa Giêsu
nói với người Dothái rằng: ‘Chiên của tôi thì nghe tiếng
tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự
sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai
cướp chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi,
thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay
Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 27-30).
Ước mong một điều chính đáng rằng, ngày nào tôi còn thi hành
chức vụ mục tử, và Hội Thánh còn tiếp tục tin tưởng trao cho
tôi sứ mạng mục tử, ngày ấy, tôi vẫn cứ xông vào trận chiến
với thế gian, với tội lỗi và với mọi cơn cám dỗ trong đời
một cách không mệt mỏi để làm cho từng con chiên của Chúa
Kitô thực sự yêu mến Chúa Kitô, nghe Lời Chúa Kitô. Nhờ đó
họ không bị diệt vong, không bị bất cứ thế lực nào của sự dữ
cướp khỏi ơn cứu chuộc của Chúa Kitô và lãnh nhận sự sống
đời đời mà Chúa Kitô ban cho họ.
Để hoàn thành xuất sắc vai trò mục tử
như Mục Tử Giêsu, một hình ảnh mục tử mà mãi mãi nhân loại
vẫn cần, vẫn tha thiết trông chờ, vẫn hoài hy vọng, tôi
nghiệm ra rằng, trước hết mình phải là chiên xuất sắc của
Mục Tử Giêsu. Một khi đã là chiên tốt, chắc chắn, tôi cũng
sẽ là mục tử tốt như Chúa Giêsu.
1. Cùng anh chị em, linh mục là
thành phần của đoàn chiên Chúa.
Trước khi là mục tử, người linh mục đã
thuộc về đàn chiên. Biết mình là chiên, cũng mang thân phận
con người đầy khiếm khuyết, có khi đã nhiều lần, do chủ
quan, do mải ngụp lặn trong biển đời nhiều sóng dữ, đã để
xảy ra nhiều thương tật cho đời sống tâm linh của bản thân.
Biết mình là chiên như mọi con chiên
trong đoàn chiên của Chúa, người linh mục luôn luôn học lấy
lòng khiêm nhường, hiền từ như Mục Tử Giêsu. Cùng là người
như mọi anh chị em của mình, người linh mục không bao giờ
được phép coi thường những điều kiện căn bản để vươn lên
trong ơn thánh Chúa như: cầu nguyện, nguyện gẫm, xét mình,
đọc Lời Chúa, viếng Thánh Thể, thường xuyên lãnh bí tích hòa
giải…
Người linh mục càng phải ra sức cộng
tác với ơn Chúa để sống một đời sống gương mẫu, mực thước,
tự chủ, biết sống lành mạnh, không xa hoa, không tìm danh
lợi, không mưu cầu cách ích kỷ sự giàu có cho bản thân…
nhưng luôn biết từ chối tất cả mọi nguy hiểm có thể đánh đổi
ơn gọi của mình là thứ quý giá trên hết mọi thứ quý giá.
Ngoài ra, dù là mục tử, người linh mục
sẽ không ít lần bắt gặp những mẫu gương rất tốt nơi anh chị
em mà mình có thể học lấy. Chẳng hạn, nhiều anh chị em quyết
không bước vào con đường gian tham, tội lỗi, dù rất nghèo.
Hoặc nhiều người đau khổ đến cùng cực, nhưng đức tin vẫn
lung linh cháy sáng. Nhiều anh chị em tham gia phục vụ người
nghèo, phụ vụ nhà thờ, phục vụ cộng đoàn hết sức miệt mài,
nhiệt tâm y như việc họ làm là làm cho chính gia đình, cho
chính bản thân của họ vậy… Tất cả những hình ảnh ấy, càng
làm cho người linh mục khám phá ra một chân lý rất bình
thường, nhưng rất đỗi quang trọng: Dù là mục tử, người linh
mục vẫn là thành phần của đoàn chiên Chúa. Nhận ra mình cũng
là chiên như anh chị em, người linh mục sẽ không bao giờ dám
coi chức linh mục của mình là quan chức, là hướng nhắm của
sự thành công, để khi đạt được rồi, sẽ hưởng thụ, tệ hơn, vơ
vét mọi thứ cho cá nhân mình…
Tắt một lời, khi biết rèn giũa cho hình
ảnh “chiên” nơi mình càng đẹp, càng sáng, thì khi làm mục
tử, người linh mục cũng sẽ là mục tử tốt lành mang lấy và
phản chiếu hình ảnh tốt lành của Mục Tử Giêsu.
2. Là mục tử của đoàn chiên Chúa.
Rất nhiều lần, và ngay chính lúc này,
tôi cảm nhận rõ ràng, thánh chức linh mục mà Chúa ban cho
mình quý giá vô cùng. Bởi nó là danh dự, là sự điểm tô lộng
lẫy cho chính người linh mục đã vậy, quan trọng hơn, nó
chính là sự cần thiết của đời sống tâm linh con người. Chức
linh mục vẽ thêm vào cuộc đời, vốn vàng thao lẫn lộn, những
nét tươi mới của tin yêu, của niềm an úi, của hy vọng. Bởi
không có ai khác nhưng linh mục, đã gắn bó với từng anh chị
em mà Hội Thánh trao cho mình, gắn bó suốt đời mình để phục
vụ, để hiến thân.
Chính linh mục mới là người biết rõ,
biết nhiều về tâm tư con người. Cả trong tòa giải tội, lẫn
ngoài đời thường, không biết bao nhiêu lần người linh mục
chia sẻ những tâm tư, những bức xúc, những bí mật rất thật
về chính bản thân của anh chị em. Dường như chỉ có linh mục
mới có thể giải tỏa nhiều chông chênh, ngang trái mà anh chị
em gặp phải trong một lòng thương mến thật, thông cảm thật.
Anh chị em đến với linh mục bằng một niềm tin tưởng thật, vì
thế họ cũng sẽ nhận được từ người linh mục một trái tim rung
cảm thật, nhằm tiếp thêm ngọn lửa của sức mạnh chịu đựng,
tiếp thêm sức nóng xóa tan băng giá của cả một đời đầy dông
bão.
Vì trót cả cuộc đời của những người
mang lấy đức tin, là cả cuộc đời mang dấu ấn của thánh chức
linh mục. Bởi không ai khác, nhưng là chính bàn tay linh
mục, trong bí tích rửa tội, đã đưa một con người từ thưở bé
thơ vào cộng đoàn Hội Thánh để làm Con Thiên Chúa. Dù trong
anh chị em, có người không nhìn nhận, thậm chí chống đối cá
nhân linh mục này, linh mục khác, thì anh chị em cũng không
thể chối từ ảnh hưởng của thánh chức linh mục trên cuộc đời
mình. Chỉ nhờ linh mục, anh chị em được lãnh nhận ân sủng từ
kho tàng bí tích mà Chúa trao cho Hội Thánh. Những khi anh
chị em muốn tìm lại bình an nội tâm sau những lần ngã quỵ vì
cám dỗ, vì tội lỗi, cũng chính linh mục nhân danh Chúa ban
ơn Thánh Thần tha thứ cho anh chị em. Đến tuổi trưởng thành,
cũng nhờ chính bàn tay linh mục, mà mỗi một người chính thức
bước vào đời sống gia đình cách hợp pháp. Có thể nói, trong
bí tích hôn phối, người linh mục đã liên tục sinh ra các gia
đình mới cho Hội Thánh. Hay suốt cả một đời làm Kitô hữu của
mình, từng anh chi em đã không thể đếm hết bao nhiêu lần đã
cậy nhờ thánh chức linh mục, và chính bản thân người linh
mục mà lãnh nhận hết hồng ân này đến hồng ân khác, hết hy tế
thánh lễ này đến hy tế thánh lễ khác, hết lời giảng dạy này
đến lời giảng dạy khác… Và giây phút quan trọng nhất, nhưng
cũng kinh hoàng nhất, đáng sợ nhất của đời người là giây
phút sắp lìa đời, thì sự hiện diện lần cuối cùng của linh
mục lại ấm áp, thiêng liêng, ý nghĩa vô cùng. Nó mang lại
niềm an ủi, mang lại sự xoa dịu nỗi sợ hãi, xoa dịu cơn đau
đớn không thể tả để anh chị em thanh thản lìa đời. Và cuối
cùng, cũng chính bàn tay linh mục đưa lên ban phép lành lần
cuối thay lời từ biệt trao gởi anh chị em về với Đấng Hằng
Hữu, Đấng mà từ đó, đã làm phát sinh sự sống của không biết
bao nhiêu sinh linh trong cõi đời này.
Như vậy, linh mục rất cần vai trò làm
chiên cùng với đoàn chiên của Chúa. Làm con chiên như anh
chị em, người linh mục sẽ hiểu nhiều hơn, sẽ dễ thông cảm
hơn với từng mảnh đời, từng hoàn cảnh của anh chị em. Là
chiên của Chúa, thấu hiểu nỗi lòng của đoàn chiên, để khi
đứng trong vai trò mục tử, người linh mục sẽ dẫn đưa anh chị
em của mình đến sự sống, một sự sống hoàn thiện, sự sống dồi
dào…
Đúng là nhân loại vẫn cần, mãi mãi cần
những mục tử của Chúa, những mục tử thay thế Chúa săng sóc
đoàn chiên Chúa. Nhân loại vẫn cần những con người dám hiến
thân vì người khác giữa cuộc đời mênh mông và biến động.
Nhân loại cần lắm những bàn tay nâng đỡ lòng người, cần lắm
những con người luôn luôn thao thức vì hạnh phúc của loài
người, cần lắm những bóng mát làm dịu cơn khát tình yêu, xua
đi nỗi buồn chán, lấp đầy những khoảng trống cô đơn của con
người. Nhân loại vẫn cần vô cùng những tấm lòng từ ái, những
con người của ơn hòa bình, những dấu chỉ của niềm hy vọng,
những hiện thân của hạnh phúc trường cửu, mà chính người mục
tử ghi dấu, để mỗi anh chị em luôn cảm nhận tình yêu, luôn
tìm ra một chỗ dựa mỗi khi cần, luôn thấy mình được an ủi vỗ
về khi đau đớn…
Nhân loại vẫn cần, cần lắm những linh
mục thánh thiện, những linh mục nhân lành. Bởi họ chính là
những mục tử như lòng mong ước…
Lm. VŨ XUÂN HẠNH
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỒNG CỎ NHÂN
ÁI VÀ SUỐI MÁT BÌNH AN |
Quý độc giả Ephata và Giáo
Sĩ Việt Nam thân mến,
Gần
đây báo chí lại đang xôn xao khá nhiều vụ tai tiếng liên
quan đến hai ngành Giáo Dục và Y Tế. Thầy giáo áp
giải một em học trò bé xíu lên đồn Công An như một tên tội
phạm để người ta tra vấn ép cung, đến nỗi con bé đáng thương
rơi vào hoảng loạn tâm thần. Một thầy giáo khác nắm đuôi tóc
một cô bé học sinh giựt ngược giữa sân trường khiến em ngã
ngửa, chấn thương sọ não... Trước đây người ta vẫn báo động
chuyện sai lầm trong nghề giáo sẽ để lại những hậu quả tinh
thần lâu dài trong một hai thế hệ con người. Bây giờ thì
không chỉ di chứng tinh thần, các em học sinh còn phải trả
giá bằng sinh mạng nữa. Còn nhiều, còn nhiều chuyện thương
tâm của ngành Giáo Dục gây phẫn nộ trong xã hội nhưng pháp
luật thì lại chỉ cảnh cáo phất phơ như... đuổi ruồi !
Thầy
giáo
thì như
thế, thầy thuốc cũng “sát sinh” không kém. Thai ngoài
tử cung lại bảo là đau dạ dầy đến nỗi phải tử vong oan ức !
Có quá nhiều những người mẹ chưa kịp vui mừng được mang thai
đã rơi vào khủng hoảng tuyệt vọng khi các bác sĩ lạnh lùng
tuyên án tử cho đứa con của mình với những lý do y khoa rất
tầm phào, với những căn cứ chỉ dựa vào các xét nghiệm hoặc
siêu âm hoàn toàn thiếu chính xác. Không ít các bác sĩ đã
khẳng định can thiệp sớm vào thai kỳ, xử lý kịp thời như vậy
là nhân đạo, là giúp cho gia đình và xã hội đỡ phải gánh
nặng, bản thân đứa bé khỏi sinh ra thì cũng khỏi phải chịu
khổ ! Lan man sang đến chuyện phá thai thì phải nói thẳng là
ngày càng có nhiều sinh viên ngành Y học hành chẳng đến đâu,
ra trường đầu quân vào đội ngũ y bác sĩ phá thai là cách thu
lợi hoàn vốn nhanh nhất, ít đòi hỏi chuyên môn và kinh
nghiệm nhất...
Chúng
ta không có ý bới móc, nói hùa và đánh hôi theo dư luận xã
hội. Chúng ta cũng hết sức trân trọng và biết ơn các thầy
giáo và các thầy thuốc vừa nhân hậu vừa tài giỏi. Thế nhưng
vẫn phải một lần nữa và nhiều lần nữa, lên tiếng cảnh báo
một cách mạnh mẽ không sợ bóng sợ vía ai cả, để hy vọng đánh
động được lương tri mọi người. Nói như cha Vũ Xuân Hạnh
trong một bài đăng trên số báo lần này là: “Hãy gào đến
khi nào tiếng gào
ấy thấu lương tâm nhân loại, thấu lương tâm từng người”.
Đã có
những phân tích nhận định, cho rằng tại Việt Nam chúng ta
hiện nay đang theo đuổi một thứ gọi là “kinh tế thị
trường”, khiến cho chuyện giảng dạy giáo dục ở nhà
trường và chuyện chạy chữa chăm sóc ở nhà thương, tàn nhẫn
thay, đã trở thành một thứ “hàng hóa”, một bên cung một bên
cầu, gói ghém trong khái niệm mua và bán, tiêu thụ và đáp
ứng, thuần túy vật chất, không tính đến lễ nghĩa tình cảm,
nên cũng đương nhiên chẳng bận tâm đến đạo đức làm gì cho
nó... rách việc !
Nhìn ở
chiều kích tâm linh, nghĩa là vượt lên trên cả bình diện đạo
đức con người, chúng ta nhìn được thật rõ thái độ dửng dưng
và ứng xử ơ hờ lạnh nhạt của con người thời nay đối với
Thiên Chúa, với Thượng Đế. Đã qua rồi cái thời mà người ta
đua theo Nietzsche để quát tháo rằng: “Thiên Chúa đã bị giết
chết !” Bây giờ người ta đâu có cần phải... giết Thượng Đế,
ám sát Phật và tử hình Chúa làm gì cho mang tội ? Cứ để
nguyên đấy ! Xin các đấng thiêng liêng thần thánh cứ việc an
cư an vị trong các loại Nhà Thờ, Đền Chùa, Miếu Mạo, rồi đến
hẹn người ta sẽ về, dâng của lễ hẳn hoi, kinh kệ râm ran,
rước xách hoành tráng, ca hát nhịp nhàng, trống đàn rộn rã.
Lại xây dựng các công trình tôn giáo thật nguy nga hùng vĩ,
mười mấy hai ba chục tỷ là chuyện nhỏ. Hẳn Thượng Đế và các
thần thánh phải biết rõ hơn ai hết “phú quý sinh lễ nghĩa”,
có ăn nên làm ra, có trúng quả buôn lậu, có hối lộ tham
nhũng thì mới có điều kiện dâng cúng xum xuê như thế được
chứ !?!
Của
đáng tội, đạo đức đã không chú trọng vun bồi, tâm linh chỉ
còn là chuyện dịch vụ tín ngưỡng, danh xưng “Thượng Đế” được
dành để nịnh những khách hàng nào chịu chi tiền mua sắm
thoải mái nhất... thì khi ấy nhà trường sẽ thành nơi kinh
doanh kiến thức và bằng cấp, còn nhà thương sẽ chẳng còn
thấy dấu vết gì của tình thương, của lòng thương xót. Tình
xuống giá, tiền lên ngôi. Không có tiền thì con nhà nghèo
làm sao chạy vào những trường chọn lớp chuyên, làm sao có
thể theo được các lớp kèm, lớp năng khiếu, lớp luyện thi ?
Còn bệnh nhân thì người nhà mà không đóng được đầy đủ các
khoản tiền bệnh viện yêu cầu, thì cứ việc nằm chèo queo,
không cấp cứu, không nghe mạch, không xét nghiệm, không một
lời hỏi han bệnh tình !
Thôi,
nói mãi về những thứ bóng tối như thế cũng chẳng sáng sủa
hơn được gì, lại làm nản lòng những người thiện chí và xúc
phạm đến những người còn giữ được thiện tâm. Chúng ta hãy
bắt đầu ngay từ chính mình, lại càng khẩn thiết hơn n?u
chúng ta là người có Đức Tin, là bạn hữu của Chúa Giê-su
nữa. Vâng, xin hãy khởi hành lộ trình từ lòng ta, từ đời
ta mà đi. Mùa Chay đã qua, đang là Mùa Phục Sinh rồi,
thế nhưng chúng ta vẫn cứ phải sám hối dài dài. Metanoia
đâu có dễ dàng nhanh chóng như xoay cái vô-lăng xe hơi và
bánh lái con tầu. Phải xoay chuyển đời mình từng tý
một, mỗi ngày và không được dừng lại chủ quan.
Nhân
Lễ Chúa Chiên Nhân Lành, một mặt chúng ta cầu nguyện cho
ơn gọi Giáo Sĩ và Tu Sĩ, nhưng mặt khác chúng ta đừng quên
chính anh chị em Giáo Dân cũng được kêu mời sống ơn gọi
làm một anh một chị mục tử chăn dắt đàn chiên nhỏ bé của
mình trong gia đình, ngoài xã hội.
Nếu ở
trên đã nêu những bất toàn bất xứng hiện nay liên quan đến
hai ngành nghề đáng quý là thầy giáo và thầy thuốc thì lúc
này, xin được mời gọi mỗi thầy cô giáo hãy chịu khó chăm sóc
dạy dỗ hết lòng đối với mấy chục con chiên trong lớp học của
mình ít là trong thời gian một năm học mình phụ trách; mỗi y
bác sĩ hãy tận tụy cúi xuống trên từng con chiên đang đau
đớn, sợ hãi, cô dơn trong phòng bệnh do mình đảm nhiệm. Chả
trách người xưa vẫn bảo hai nghề này là hai thiên chức,
Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh bảo đó là chức vụ thiên
nhiên của loài người – mission naturelle, với một chữ
Thiên là Trời rõ ràng !
Lạy
Chúa Giê-su, Đấng chăn chiên nhân lành, xin cho chúng con
vừa được làm chiên của Chúa, lại vừa được cùng Chúa, phụ
với Chúa chăn dắt những con chiên bé nhỏ khác. Nhờ vậy
xã hội chúng con hôm nay sẽ bớt đi cơn đói cơn khát mà gặp
được đồng cỏ Nhân Ái và suối mát Bình An !
Lm. QUANG UY, DCCT,
27.4.2007
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Nguồn Ơn Thác Ðổ
|
(Ga 20:19-31)
Thày đi mang cả bầu
trời,
để thương để nhớ để đời
ủ ê,
thời gian một chuỗi lê
thê,
xót xa nỗi nhớ, ê chề
niềm đau,
cuộc đời biết hướng về
đâu,
bao nhiêu mộng ước tan
mau tháng ngày,
phập phồng lo sợ từng
giây,
đoàn chiên nhỏ bé giữa
bầy sói lang,
trong đêm tối vẫn mơ
màng,
mong ngày bừng sáng cho
tàn đêm đen.
Màu đêm từng đợt trào
lên,
Lâng lâng trăm nỗi đớn
hèn trong ta,
hồn ta
hay bãi tha ma,
đêm
khuya giá lạnh xót xa nghìn trùng
trong cơn địa chấn dập
dồn,
bên nhau cám cảnh phòng
không lạnh lùng,
xa Thày sương khói mông
lung,
Bao nhiêu hy vọng nổ
tung gầm trời,
Từ nay chỉ có mình tôi,
Lang thang giữa một
biển trời hoang mang,
Tình duyên nay đã lỡ
làng,
Nghe trong vũ trụ bẽ
bàng đắng cay !
Trần gian choáng váng
mặt mày,
khi nhìn đêm tối rạng
ngời bình minh
đón chào Con Chúa phục
sinh,
một hơi Chúa thở, Thánh
Linh tuôn tràn.
Thày ban muôn phúc bình
an,
trao nguyên sứ mệnh
giải oan muôn loài,
Dù đường đời vẫn còn
dài,
Thày khuyên “đừng sợ !”
chông gai sá gì !
Trong Thần Khí, hãy ra
đi !
Thày luôn hiện diện độ
trì ngày đêm.
theo Thày từng bước đi
lên,
cứu dân thoát khỏi xích
xiềng Satan.
Con người thoát cảnh
lầm than,
trả xong một chuỗi nợ
nần bể dâu.
Niềm tin thắp sáng năm
châu,
chiếu lên muôn vẻ nhiệm
mầu tình yêu,
mạnh hơn muôn ngọn thủy
triều,
quyền năng xoay chuyển
trăm chiều khổ đau,
lung linh ánh nến
nguyện cầu,
nguồn ơn thác đổ khơi
sâu tình hồng,
phá tan cảnh sắc hư
không,
muôn chim tung cánh
khắp vùng tự do,
từ nay trong Ðức Kitô,
vút cao tiếng gọi thiên
thu ân tình.
Ôi quyền lực Chúa Thánh
Linh ! …
vân
thanh 15.04.2007 |
VỀ MỤC LỤC |
|
GIUSE –
THÁNH QUAN THÀY ĐÁNG KÍNH CỦA TÔI |
Giuse là tên thánh được đặt cho không
riêng gì tôi mà là cho tất cả những người nam trong cả làng
tôi. Đấy là một thông lệ không biết có từ bao giờ và kéo dài
cho đến tận ngày nay. Hễ cháu bé trai nào chào đời là y như
rằng tên thánh phải là Giuse. Chỉ Giuse thôi và không có tên
thánh nào khác!
Tôi quê ngoài Bắc, di cư vào Nam năm
1954. Hầu như làng tôi di cư hết cả làng, chỉ còn sót lại
có 5 gia đình Công giáo ở lại. Mà thực ra cũng không phải 5
mà là 3 vì 2 gia đình Công giáo từ nơi khác đến sau này. Chỉ
năm gia đình còn lại mà phải coi sóc một nhà thờ họ cổ kính
được xây dựng vào năm 1900. Nhà thờ này hầu như không thay
đồi gì từ khi xây dựng đến nay đã trên 100 năm! Khi di cư,
thì thánh Giuse cũng “di cư” vào Nam với làng tôi! Nói cho
vui thế thôi chứ thực ra thì Thánh Giuse vẫn được dân làng
thờ kính cả ngoài Bắc lẫn trong Nam. Các cháu sinh ra cho dù
trong Nam hay ngoài Bắc đều được đặt tên thánh là Giuse.
Khi vào Nam, cha xứ có sáng kiến là đặt
tên thánh cho các giáo họ ở trại định cư mới thành lập.
Không còn giống như ngoài Bắc “một mình một làng” mà là dân
di cư từ nhiều làng khác nhau tập trung về đây nên tên gọi
cho các giáo họ phải khác nhau. Giáo họ tôi vẫn lại được
mang tên như xưa: Giáo họ Giuse.
Chính vì lẽ ai cũng tên thánh là Giuse
nên đến ngày mừng lễ quan thày thật là vui. Đúng là “niềm
vui không của riêng ai”! Ngày lễ kính theo tập tục xưa là
ngày 1.5, tức là ngày lễ kính Thánh Giuse Lao động (không
phải ngày thánh Giuse bạn Đức Trinh Nữ 19.3). Lễ mừng luôn
luôn được tổ chức trọng thể. Dân làng ai cũng dọn mình xưng
tội rước lễ. đọc kinh sáng tối. Nhiều gia đình còn tổ chức
đọc kinh theo xóm rất sốt sắng. Đến ngày lễ thì niềm vui mới
đạt tời đỉnh cao. Trong thánh lễ, cha xứ nhắc lại ý nghĩa
của ngày lễ, về công đức của Thánh Cả Giuse, về tấm gương
cần cù lao động… Bởi lẽ thế, Giuse được coi là quan thày
không riêng gì cho làng tôi, mà là còn cho cả giáo phận,
thậm chí cả Giáo hội toàn cầu. Nghe như thế trong tôi trào
dâng một niềm vui sướng và tự hào. Thật vinh dự cho những ai
mang tên thánh là Giuse, dĩ nhiên trong đó có tôi!
Việc tôn kínhThánh Giuse thì hầu như
nhà thờ nào cũng có. Tôi đã có dịp đi đến nhiều nhà thờ và
đều nhận thấy chắc hẳn đây là một nét đặc trưng của Giáo hội
Việt Nam. Ở Sài Gòn ngày nay có có hẳn một “Đền Thánh
Giuse”, nơi mà không ngày nào không có người đến cầu xin
trong suốt nhiều năm qua.
Còn nhớ khi tôi còn bé, sau khi học
xong tiểu học là phải đi thi. Cách đây trên 40 năm, khi mà
giáo dục chưa phát triển như ngày nay, thì đi thi tiểu học
là một kỳ thi hết sức trọng đại cho các cậu bé. Không đứa
nào trong lớp của tôi không tỏ ra hồi hộp và lo lắng cho kỳ
thi sắp đến, cho dù trong lớp có giòi tới đâu! Mà khó khăn
nữa là phải thi xa nhà. Làng định cư của tôi không phải là
nơi tổ chức thi, phải lên quận. Quận lỵ cách xã chỉ 10 cây
số thôi, nhưng vì lúc đó chỉ mới 11-12 tuổi đầu, đi thi như
thế là xa lắm rồi, cho nên lại càng hồi hộp hơn. Làm thế nào
để khỏi lo nhỉ? Không đứa nào trong số trên 40 đứa trong lớp
tôi nghĩ ra. Mẹ tôi khuyên tôi cầu xin Thánh Giuse. Chà! Một
lời khuyên đúng lúc. Tôi đề nghị các bạn cầu xin Thánh Giuse
như lới khuyên của mẹ tôi thì liền được các bạn hưởng ứng
nhiệt liệt! Thế rồi đứa nào cũng thì thầm”Lạy ơn Ông Thánh
Giuse, chúng con chay đến cùng Người, trong cơn gian nan …”
Tuy nhiên, kinh Thánh Giuse lạ vừa dài, vừa khó nhớ nên
không đứa nào thuộc hết! Thôi thì có lòng là được rồi! Cuối
cùng, việc gì phải đến, sẽ đến. Trong số hơn 40 đứa chúng
tôi đi thi tiểu học năm ấy, không có đứa nào hỏng cả. Thật
vui mừng không kể xiết. Chúng tôi lại bàn tán, chắc là “Nhờ
ơn Ông Thánh Giuse!”
Và thời gian trôi qua. Trong số hơn 40
học sinh nhỏ tuổi năm ấy thì chỉ có ít đứa được tiếp tục học
lên. Tôi may mắn được cha mẹ cho lên tình học, rồi thi tú
tài, rồi tốt nghiệp đại học. Như một thói quen hình thành từ
tấm bé, hễ khi nào tôi phải thi cử. tôi lại cầu xin cùng
Thánh Giuse quan thày của tôi. Sau này ra đời, tôi tiếp tục
cầu xin cùng Thánh Giuse trong những dịp trọng đại hơn. Tôi
cầu xin cùng Thánh Giuse trước khi tôi lập gia đình, tôi cầu
xin cùng Thánh Giuse được bình an trong cuộc “tháo chạy tán
loạn” năm 1975, lúc mà mạng sống con người bị đặt trong tình
trạng hết sức mong manh, giữa lúc tên bay đạn lạc và “vô
chính phủ”, lúc chính quyền cũ đang tan rã và sụp đổ, trong
lúc mà gia đình tôi không còn biết trông cậy vào đâu… Song
tất cả đều được như ý. Thói quen cầu xin cùng Thánh Giuse
khi gặp khó khăn, hoạn nạn vẫn hiện diện trong tôi trong
nhiều năm qua.
Con trai tôi, tôi cũng đặt tên thánh là
Giuse theo tập tục của làng tôi. Tuy nhiên, tên thánh của
cháu bé khi đi rửa tội ngày nay người ta thường đặt theo tên
thánh của cha đỡ đầu. Song năm ngoái tôi vẫn đặt tên thánh
cho cháu nội của tôi là Giuse, nhưng có thay đổi đôi chút:
ghép tên Giuse với tên thánh của người cha đỡ đầu của cháu
và trở thành một tên mới: Giuse-Phêrô …
Lạy Thánh Giuse, Thánh Cả của sức cần
lao, quan thày của con. Con vinh dự và tự hào cũng như yên
tâm khi được mang tên của Người.
Giuse Nguyễn
Thụ Nhân Gia Lai.
27.4.2007 |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU LÀ KIÊN NHẪN |
Tác phẩm 13
Nét mặt của Tình yêu
Chương Một
TÌNH YÊU LÀ KIÊN NHẪN
Dominique AUZENET
Lm Micae-Phaolô Trần Minh Huy chuyển
ngữ
Khởi đầu bài ca đức ái,
thánh Phaolô bắt đầu nói cho chúng ta Tình yêu là gì: Tình
yêu là kiên nhẫn... Dịch sát động từ Hy lạp có nghĩa là tình
yêu có tấm lòng cao thượng... Đó là cả một chương trình cho
đời sống hằng ngày của chúng ta, và chỉ có Chúa Thánh Thần
mới có thể kiện toàn chương trình đó nơi chúng ta...
1. Thiên Chúa nhẫn nại.
Toàn bộ Kinh Thánh minh
chứng rằng Thiên Chúa nhẫn nại. Suốt dòng lịch sử của mình,
dân Dothái càng ngày càng ý thức sâu xa về sự nhẫn nại của
Thiên Chúa. Khi mạc khải cho Maisen, Giavê tuyên bố Ngài là
Thiên Chúa nhân từ và thương xót, chậm bất bình, giàu ân
sủng và trung tín (Xh, 34,6...). Các mạc khải kế tiếp sẽ
càng lúc càng nhấn mạnh về lòng nhẫn nại và tình yêu nhân từ
của Chúa Cha, Đấng biết chúng ta được dựng nên bằng gì,
chậm nổi giận và tràn đầy tình thương, không đối xử với
chúng ta theo lỗi lầm của chúng ta (Tv 103,8).
Bởi thái độ đối với những
người tội lỗi và giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu nhập thể
lòng nhẫn nại của Thiên Chúa. Các dụ ngôn về cây vả không
sinh trái (Lc 13,6-9), đứa con hoang đàng (Lc 15), người
tôi tớ bất nhân (Mt 18,23-35) đều là những mạc khải về
lòng nhẫn nại của Thiên Chúa và là những bài học về nhẫn nại
và yêu thương cho các môn đệ, vì Chúa muốn cứu những người
tội lỗi. Trong dụ ngôn vị thẩm phán và người đàn bà góa,
Chúa Giêsu mời gọi cầu nguyện không ngừng để cho công lý
được ngự trị, nhưng vẫn luôn ý thức Thiên Chúa nhẫn nại :
"Lẽ nào Thiên Chúa lại
không xử công minh cho các người được tuyển chọn hằng kêu
cứu với Ngài đêm ngày, mà khoan giản với họ mãi sao ! Thầy
bảo anh em rằng Ngài sẽ xử mau cho họ. Nhưng liệu khi Con
Người sẽ đến thì có còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa
chăng ?" (Lc 18,1-8).
Các tông đồ nhìn thấy
lòng nhẫn nại của Thiên Chúa biểu lộ trong sự chậm trễ bên
ngoài của việc Chúa Giêsu đến trong vinh quang :
"Thiên Chúa không trì
hoãn thực hiện điều Ngài đã hứa, nhưng Ngài nhẫn nại với
anh em đó, vì muốn cho đừng ai phải hư đi, song mọi người
đều được ăn năn trở lại" (2P. 3,9...).
Dù ngày nay sự nhẫn nại
và lời kêu gọi của Thiên Chúa có kéo dài, những người được
tuyển chọn phải lắng nghe Lời Chúa và cố gắng đi vào nơi
nghỉ ngơi của Chúa (x.Hb 3,7-4,11). Thánh Phaolô khi nói về
mình đã ý thức mạnh về sự nhẫn nại của Chúa đối với ngài :
"Nếu cha được xót thương
thì chính là để Chúa Giêsu bày tỏ tất cả lòng nhẫn nại
của Ngài đối với cha trước hết, khiến cha nên gương mẫu cho
tất cả những ai tin vào Ngài để được sống muôn đời" (I Tm
1,16).
2. Kiên nhẫn và không kiên nhẫn, một phong vũ biểu ?
Sự kiên nhẫn nầy của
Thiên Chúa, Thánh Thần truyền vào lòng chúng ta và chúng ta
phải làm chứng tá về điều đó bằng cuộc sống của mình :
"Với tất cả lòng khiêm
tốn, dịu dàng và kiên nhẫn, anh em hãy chịu đựng lẫn nhau
với lòng yêu mến" (Ep 4,2 ; x.Col 3,12).
Lòng kiên nhẫn nầy phải
được thực thi đối với hết mọi người :
"Chúng tôi khuyên nhủ anh
em sửa bảo những người sống vô trật tự, khích lệ những
người non gan, nâng đỡ những người yếu đuối và kiên nhẫn với
hết mọi người" (I Th 5,14).
a) Lòng kiên nhẫn là
dấu chỉ trưởng thành trong tình yêu.
Lòng kiên nhẫn là dấu chỉ
chúng ta thoát ra được khỏi cái tôi của mình. Người kiên
nhẫn phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa. Trong mọi lúc, dù bất
cứ cái gì xảy đến, người kiên nhẫn đều hướng về Chúa với đức
tin, cậy trông và yêu mến. Nhờ Thánh Thần Tình Yêu, Ngài làm
phát sinh trong chúng ta hoa trái rất tốt đẹp của lòng nhẫn
nại, góp phần cho sự thanh thản và bình an.
"Tình yêu không bao giờ
đi một mình mà không có đoàn tùy tùng là những nhân đức
đích thực đã kín múc nguồn sống của mình trong tổ ấm của đức
ái. Tuy nhiên các nhân đức của Chúa Kitô không có cùng mức
độ như nhân đức của chúng ta. Giữa các nhân đức nầy, lòng
kiên nhẫn là chính yếu, và là cốt lõi của tình yêu. Chính
lòng kiên nhẫn là dấu chỉ không sai lầm rằng linh hồn đang ở
trong ơn nghĩa với Chúa và đang yêu thương thực sự. Chính vì
thế mẹ nó là đức ái đã ban nó cho nhân đức vâng lời như
người chị em. Chúng liên kết mật thiết với nhau đến đỗi hễ
mất nhân đức nầy thì kéo theo cái chết của nhân đức kia.
Chúng ta có cả hai, hoặc chẳng có nhân đức nào hết"[1]
b) Sự không kiên nhẫn
là lời diễn tả sự gắn bó với ý riêng của mình.
Sự không kiên nhẫn nói
lên ý nghĩa của một gắn bó với các dự tính, ý tưởng, ước
muốn riêng của mình đến độ muốn làm tất cả mọi sự để thực
hiện chúng. Nhưng không chỉ đơn giản như thế thôi đâu, lòng
không kiên nhẫn thường được bộc lộ qua những thái độ giận
dữ, thô bạo, xét đoán, những lời nói gây tổn thương, tranh
chấp, dối trá...
Sự không kiên nhẫn rõ rệt
là một biểu lộ của tính ích kỷ lấy mình làm tâm điểm : tôi
bắt mọi thứ phải vầy quanh tôi và không chấp nhận bị ngăn
trở trong các dự tính hay thực hiện của mình. Chính vì thế
sự không kiên nhẫn là một đèn hiệu báo động là tôi không
ở trong tình yêu. Tôi phải dừng lại, mở lòng ra với Chúa
đang hiện diện, phó thác cho Ngài, chấp nhận thực tế như
Ngài đã trao ban, kêu xin sức mạnh Thánh Thần, rồi lại ra đi
trong bình an. Đây là vài tia sáng rút ra từ những bút tích
của thánh Catarina Siêna.
"Lòng kiên nhẫn chỉ được
minh chứng trong lúc gặp phải nghịch cảnh, vì không có
thử thách thì nhân đức không hiện hữu ; người không phải đau
khổ chẳng cần đến lòng nhẫn nại, bởi vì không ai làm điều
bất công với nó. Tôi nói rằng lòng nhẫn nại chứng minh là
các nhân đức có hay không có ở trong tâm hồn. Làm sao chúng
ta thấy được là nhân đức không có trong tâm hồn ? Đó là nhờ
sự không kiên nhẫn.
Bạn có muốn thấy là
các nhân đức còn bất toàn và gốc rễ của tự ái còn sống trong
tâm hồn không ? Bạn hãy khảo sát hoa trái sinh ra vào lúc
buồn phiền : nếu là hoa trái của lòng nhẫn nại thì đó là dấu
hiệu gốc rễ của ý riêng đã chết và các nhân đức đang sống,
còn nếu là hoa trái của sự không kiên nhẫn thì hiển nhiên là
gốc rễ của ý riêng vẫn còn sống và nhân đức không có ở trong
tâm hồn ấy.
... Ai có thể nói được
những bất lợi từ đó phát sinh ra ? Tôi nghĩ rằng chẳng có
ai, nhưng ba bất lợi chính mà người có ý riêng không chết
cảm nhận được. Trước hết là người đó không trung thành với
ánh sáng của đức tin sống động. Nó đã đặt mây mù vào con mắt
trí khôn, vốn là con ngươi của ánh sáng đức tin. Ngay khi
đặt mây mù của tự ái trên nhãn quan và làm tối tăm ánh sáng
đức tin như vậy, nó lập tức vấp ngã lần thứ hai và thứ ba
bằng cách rơi vào sự không vâng lời làm phát sinh lòng mất
kiên nhẫn dẫn tới càm ràm, than vãn. Suy nghĩ một chút, bạn
sẽ thấy rằng ba khuyết điểm nầy bao giờ cũng kèm theo nhau.
Vậy không nên nghi ngờ rằng nếu căn để của tự ái không chết
đi trong chúng ta thì cái nhìn của chúng ta sẽ ra tối tăm và
mọi hoa trái của nhân đức sẽ bất toàn, bởi vì sự hoàn hảo hệ
tại việc làm cho ý muốn giác quan của chúng ta phải chết đi,
đồng thời làm cho lý trí của chúng ta được sống trong thánh
ý dịu ngọt của Chúa"[1]
3. Tôi có nhẫn nại không ?
Tôi có nhẫn nại với chính
mình không ? Do ảnh hưởng của tội lỗi, chúng ta thường có
khuynh hướng dễ ngã lòng khi nhận thấy mình lại luôn luôn
vấp ngã trong cùng những lầm lỗi ấy, hoặc là tỏ ra chẳng
tiến bộ chút nào trên đường hối cải, hoặc trong sự biến đổi
thiêng liêng của nhân cách mình. Nhẫn nại đối với chính mình
không phải là lòng bao dung dẫn đến sự dễ dàng và phóng
túng. Nó là một biểu lộ đích thực của tình yêu đến từ Thiên
Chúa, là một cái nhìn về mình và tiếp tục cậy trông, bởi vì
Thiên Chúa yêu thương tôi và hy vọng tôi hoán cải...
Tiếp đến, cái nhìn nhẫn
nại và bao dung nầy hướng về tha nhân, hướng về tất cả những
người chung quanh tôi. Lòng tốt mang dấu ấn nhẫn nại nầy
cũng trải ra với những hoàn cảnh cuộc sống hằng ngày của
tôi, chính xác là với những hoàn cảnh mà tôi đã không hề
chọn lựa... Nhờ đó tôi kiểm chứng về tự do nội tâm của mình.
a) Lòng nhẫn nại mang
tính chất xây dựng
Lòng nhẫn nại, là hoa
trái của tình yêu, xây dựng tình yêu ở trong gia đình, trong
các mối quan hệ, trong công việc, trong chính hữu thể của
chúng ta. Nhờ lòng nhẫn nại, chúng ta làm cho những người
chung quanh lớn lên trong tình yêu, chúng ta giúp họ tiến
lên trên đường tình yêu...
Lòng kiên nhẫn đâm rễ sâu
niềm hy vọng. Biết bao nhiêu lần vì thiếu nhẫn nại, chúng ta
đã đóng chặt cửa và cõi lòng mình lại với niềm hy vọng, bằng
cách "tống khứ đi" người cần được yêu thương hoặc việc phải
làm... Nhờ nhẫn nại, chúng ta dành thời gian cho những con
người và những vật được có mặt ở đó và hướng họ vào kế hoạch
của Chúa...
Lòng nhẫn nại truyền
thông sự bình an của tâm hồn. Nó tháo ngòi nổ của bạo lực
nơi tha nhân và nơi tôi, nó thiết lập một trạng thái ổn định
vốn là dấu hiệu của lòng tín thác vào Thiên Chúa. Nhờ nhẫn
nại, chúng ta học bước đi theo từng bước chân của Chúa,
trong những việc nhỏ mọn cũng như trong những việc trọng
đại.
b) Lòng nhẫn nại đón
tiếp Thiên Chúa trong đời sống thực tại.
Tình yêu là kiên nhẫn.
Nếu tôi sống trong tình yêu của Thiên Chúa thì tình yêu nầy
sẽ làm phát sinh trong tôi hoa trái nầy của lòng nhẫn nại và
sẽ góp phần cho sự tăng triển của tôi trong tình yêu :
-
Mọi người thế nào thì tôi tiếp đón họ thế ấy, không
đòi họ phải thế khác...
-
Tôi tiếp nhận các biến cố gây xáo trộn cho tôi với
tâm hồn thanh thản, dù chúng đảo lộn những kế hoạch tốt nhất
của tôi...
-
Tôi tiếp nhận cái bất ngờ xảy đến trong bình an, nhận
rằng nó có thể có một ý nghĩa cho cuộc đời tôi, trong lòng
Chúa...
Trái lại, sự thiếu kiên
nhẫn hoàn toàn ném tôi khỏi những chân trời yêu thích của
tôi và góp phần co cụm tôi lại. Tôi bỏ qua ân sủng tình yêu
của Chúa vốn là nội dung của những gì đang trình diện cho
tôi.
c) Lòng nhẫn nại chờ
đợi giờ của Chúa.
Bởi lòng ước muốn biết
mình ở trong thánh ý Chúa, lòng nhẫn nại biết chờ đợi giờ
của Chúa, mà không ngã lòng hay "thọc gậy bánh xe" bởi cách
thức chúng ta muốn hối thúc các sự việc...
Đối với Chúa, "một ngày
như thể ngàn năm và ngàn năm cũng tựa một ngày" (2 P 3,8
; Tv 90,4). Vậy hãy bền tâm chờ đợi điều Chúa đã hứa và
sự chín muồi của những gì Chúa đã cho nẩy mầm. Trong việc
nầy, sự thiếu kiên nhẫn tỏ ra hoàn toàn có hại : lo âu đối
với công trình của Chúa, cũng như với mọi việc, rõ ràng
chẳng thay đổi được gì trong thực tế cả.
Có thể có những nỗi ray
rứt lớn lao tàn phá xuyên trải cả một cuộc đời, lấy cớ vì
một tình yêu lớn lao hơn, hay vì một việc phụng sự lớn lao
hơn đối với Thiên Chúa... bởi vì chúng ta đã không thấy được
rằng chúng ta được mời gọi từ bỏ chính mình trong suốt cơn
thử thách nầy...
d) Lòng kiên nhẫn mang
tính chất giải thoát.
Lòng kiên nhẫn giải thoát
chúng ta khỏi những nỗi ray rứt và lo âu mà nguyên nhân có
thể được biện minh... Khi mọi việc không ở trong tầm khả
năng của chúng ta, hãy giao phó chúng cho Thiên Chúa và sống
bình an, đó là điều thích hợp nhất. Chúa sẽ lo đến chúng...
Lòng kiên nhẫn giải thoát chúng ta khỏi thất vọng. Chán nãn
còn là dấu vết của dính bén với lo nghĩ và tính toán. Tình
yêu đích thực được triển nở trong nhẫn nại và cậy trông. Như
thế, nó giải thoát ta khỏi nỗi phiền muộn cay đắùng...
"Ngay cả khi tôi không
hiểu gì về các biến cố xảy ra, tôi vẫn mĩm cười, vẫn nói
lời cám ơn, tôi luôn tỏ ra hài lòng trước mặt Chúa nhân
lành. Không được nghi ngờ Ngài, như vậy là thiếu tế nhị.
Không, không bao giờ được "nguyền rủa" sự quan phòng của
Chúa, trái lại luôn luôn tỏ lòng biết ơn"[1]
Lòng nhẫn nại giải thoát
chúng ta khỏi bực tức. Lúc nào cũng bực tức thì đó là dấu
chỉ nhân cách của chúng ta đang cần phải được trưởng thành
về mặt thiêng liêng. Trong những trường hợp thái quá, chắc
chắn bực tức sẽ biến thành giận dữ mang tính chất phá
hoại... Bực tức chứng tỏ rằng thập giá làm chúng ta khó
chịu. Thập giá là tất cả những gì nghịch lại ý riêng của
chúng ta trong lúc đó. Dần dần được trưởng thành, chúng ta
tập đón nhận thánh ý Chúa xuyên qua những gì xảy đến, bằng
cách bỏ ý riêng của mình. Càng ít bực dọc, chúng ta càng
được bình an... Lòng nhẫn nại giải thoát chúng ta khỏi bạo
lực cuối cùng cũng đến, dưới hình thức nầy hay hình thức
khác, khi chúng ta từ chối cái đang trình diện với chúng
ta...
Lòng nhẫn nại cũng góp
phần giải phóng khỏi chủ nghĩa cầu toàn luân lý. Sự cầu toàn
nầy là một trở ngại thực sự khi chúng ta lẫn lộn nó với lời
mời gọi nên thánh. Việc muốn làm tất cả mọi sự đến hoàn hảo
có thể tạo nên những phức tạp không ngừng vì đã lẫn lộn
người không thể chê vào đâu được với người ở trong tình yêu
của Thiên Chúa. Thiên Chúa đòi chúng ta để được yêu thương
ngay trong chính những yếu đuối của chúng ta. Quá gắn bó với
sự hoàn hảo trước hết mọi sự có thể lôi chúng ta ra khỏi mục
tiêu duy nhất mà chúng ta phải đeo đuổi là không ngừng mở
rộng trái tim chúng ta ra với tình yêu của Chúa...
"Con yêu qúi của mẹ ơi,
đức nhẫn nại nầy là nữ hoàng. Ngồi trên tảng đá sức mạnh,
nó luôn luôn chiến thắng, không bao giờ bị chiến bại. Đức
nhẫn nại không ở một mình, nó luôn có sự bền đỗ làm bạn đồng
hành. Nó là cốt tủy của đức ái. Chính nó bộc lộ ra bên ngoài
sự có mặt của đức ái. Chính nó chứng tỏ linh hồn được mặc áo
cưới tinh tuyền. Chiếc áo nầy mang một vết rách, một thiếu
hoàn hảo nào thì lòng thiếu nhẫn nại lập tức khám phá ra
ngay.
Thật dễ dàng bị lừa
dối về các nhân đức khác. Ta tưởng chúng trọn hảo trong khi
chúng không được như thế, bao lâu chúng không chịu thử thách
của đức nhẫn nại. Nhưng nếu sự nhẫn nại dịu dàng nầy là cốt
tủy đức ái của tâm hồn thì nhờ đó nó sẽ cho thấy rằng các
nhân đức là hoàn hảo và sống động. Nếu chúng không cung cấp
bằng chứng nầy, ấy là chúng còn ở trạng thái không hoàn hảo
và chưa đạt tới bàn thập giá rất thánh, ở đó lòng nhẫn nại
được ý thức trong sự nhận biết chính mình và hiểu biết Lòng
Tốt của Chúa, ở đó nó được sinh ra bởi lòng thù hận thánh
thiện đối với tội lỗi và nhận được dầu của lòng khiêm tốn
đích thực. Lòng nhẫn nại nầy không bao giờ từ chối lương
thực đã được dọn ra cho nó trên bàn thập giá nầy, nó là vinh
hiển của Chúa và là phần rỗi của các linh hồn"[1]
e) Làm sao thủ đắc được lòng nhẫn nại ?
"Chúng ta phải dùng những
phương thế nào để có được lòng nhẫn nại nầy ? Bởi vì tôi
có thể và phải có nó, nên nếu tôi không nhẫn nại là tôi sẽ
xúc phạm đến Chúa. Có bốn việc chính yếu phải tìm kiếm và
thủ đắc.
Trước hết là phải có
ánh sáng đức tin, bởi vì nhờ ánh sáng đức tin mà chúng ta
thủ đắc được mọi nhân đức; không có ánh sáng nầy, chúng ta
sẽ bước đi trong tối tăm như người mù, vì đối với người mù
thì ngày cũng như đêm. Cũng thế đối với linh hồn không có
ánh sáng đức tin : Điều Thiên Chúa vì yêu thương mà làm như
ngày rạng rỡ hơn cả ánh sáng thì nó lại coi như bóng tối thù
hận bằng cách tưởng tượng ra rằng Chúa vì thù hận mà cho
phép xảy ra những gian truân và mệt mỏi nó cảm nhận. Vì thế,
chúng ta thấy cần phải có ánh sáng của đức tin rất thánh
thiện.
Phương thế thứ nhì để
có lòng kiên nhẫn được thủ đắc với ánh sáng đức tin nầy,
nghĩa là phải tin thực sự, chứ không chỉ tin suông; phải
chắc chắn rằng tất cả những gì hiện hữu đều bởi Chúa mà ra,
trừ tội lỗi... Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu bảo rằng không có
một cái gì mà Chúa không an bài; Ngài cũng nói rằng mọi sợi
tóc trên đầu chúng ta đều đã được đếm tất cả và không một
sợi nào rơi xuống mà Ngài không biết... Cũng thế, tất cả
những gì sự quan phòng của Chúa ban và cho phép đều được ban
và cho phép với một mục đích nhiệm mầu, bởi yêu thương chứ
không phải bởi thù hận.
Việc thứ ba phải thấy
và biết dưới ánh sáng đức tin, chính là Thiên Chúa là lòng
Nhân Lành vĩnh cửu và tối thượng, và Ngài không muốn gì
khác ngoài thiện ích của chúng ta. Ý muốn của Chúa là
chúng ta được thánh hóa ở trong Ngài. Tất cả những gì Ngài
ban và cho phép đều nhằm mục đích nầy.
Việc thứ tư phải có để
có thể đi đến lòng nhẫn nại đích thực là nhìn nhận rằng các
tội lỗi và tật xấu của chúng ta đã xúc phạm biết bao đến
Chúa, vốn là sự thiện tối cao và vô cùng...và chúng ta
phải hiểu rõ rằng chúng ta thật khốn nạn vì đã xúc phạm đến
Đấng Tạo Hóa như thế"[1]
Suy niệm
để lần hạt Mân Côi
1.
Tình Yêu là nhẫn nại. Khi mạc khải cho Môsê, Chúa
tuyên bố là "Thiên Chúa dịu dàng và hay thương xót, chậm
bất bình, giàu ân sủng và thành tín ..." (Xh 34,6). Chúc
tụng Chúa đã mạc khải cho chúng con lòng nhân hậu của
Chúa, xin cho chúng con luôn khám phá được lòng nhẫn nại của
Chúa ngày một hơn.
2.
Tình Yêu là nhẫn nại. "Chúa không trì hoãn thực hiện
những gì đã hứa, nhưng Ngài hằng nhẫn nại đối với anh em,
Ngài không muốn một ai phải hư mất, song mọi người đều đi
đến hối cải" (2 P 3,9). Xin Chúa cho chúng con được nên
chứng tá lòng nhẫn nại của Chúa bằng cách thi thố lòng nhẫn
nhục nầy với những người chung quanh.
3.
Tình Yêu là nhẫn nại. Thánh Phaolô viết cho tín hữu
Thessalonica : "Chúng tôi khuyến khích anh em hãy khuyên
bảo những người sống vô kỹ luật, khích lệ những người nhát
đảm, nâng đỡ những người yếu đuối và kiên nhẫn với tất cả
mọi người" (1 Th 5,14). Xin Chúa giải thoát chúng con
khỏi mọi đầu óc đoán xét và ban cho chúng con sự khiêm
nhượng thật trong lòng.
4.
Tình Yêu là nhẫn nại. "Với tất cả lòng khiêm nhường,
dịu dàng và nhẫn nại, anh em hãy lấy tình bác ái mà chịu
đựng lẫn nhau" (Ep 4,2; x.Col. 3,12). Lạy Chúa, tha nhân
thế nào xin giúp con tiếp đón họ thế ấy. Xin Chúa giúp con
tiếp nhận các biến cố quấy rầy con với lòng thanh thản và
tiếp nhận cái bất ngờ với lòng bình an...
5.
Tình Yêu là nhẫn nại. "Về sức chịu đựng và lòng kiên
nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những người nói
nhân danh Chúa. Chúng tôi tuyên bố : phúc thay những kẻ có
lòng kiên trì ! Anh em đã nghe nói đến lòng kiên trì của ông
Gióp và đã thấy ý định của Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng từ bi
nhân hậu" (Jc 5,10-11). Lạy Chúa, xin ban cho chúng con
ơn kiên trì để phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em chúng
con.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Bệnh Cột Sống |
Xương sống
trẻ sơ sinh có có 33 đốt: 7 đốt cổ, 12 đốt ngực, 5 đốt thắt
lưng, 5 đốt hông và 4 đốt cụt.
Tới khi
trưởng thành, các đốt hông và cụt dính lại với nhau, chỉ còn
lại hai xương cùng và xương cụt. Vì thế người trưởng thành
chỉ có 26 đốt xương sống.
Xương sống
nâng đỡ sức nặng các phần ở bên trên của cơ thể là đầu,
mình, hai tay.
Cột sống
chạy từ đáy hộp sọ xuống tới cuối lưng, bao bọc và bảo vệ
dây cột sống (spinal cord). Dây cột sống gồm có các tế bào
thần kinh, các bó sợi thần kinh kết nối tất cả các bộ phận
của cơ thể với não bộ. Từ cột sống, phát xuất 32 đôi dây
thần kinh tủy sống.
Xương sống
khớp với hộp xương sọ, xương sườn, đai hông và là nơi bám
của các cơ lưng.
Cột sống
không đứng ngay thẳng mà có nhiều đoạn hơi cong để chịu sức
nặng cơ thể hữu hiệu hơn trong các thế đứng khác nhau.
Các đốt
xương sống được dây chằng và hơn 400 cơ bắp nho nhỏ neo
giằng hỗ trợ.
Dây chằng
(ligament) là một băng mô liên kết xơ cứng, mầu trắng, nối
hai xương với nhau ở vùng khớp. Các dây này không đàn hồi
nhưng có thể uốn cong, giữ cho khớp mạnh hơn và giới hạn sự
chuyển động của khớp về một phía nào đó.
Nằm giữa
các đốt xương là một cấu trúc dẹp (đĩa liên sống) cấu tạo
bằng chất collagen rất bền chắc dùng làm chất đệm cho đốt
xương, chống đỡ với sức mạnh va chạm. Khi mới sanh, nước
chiếm 80% thành phần cấu tạo đĩa và đĩa mềm sốp.Tới tuổi gia
tăng, nước trong đĩa khô dần. Vì đĩa không có mạch máu nuôi
dưỡng, cho nên khi bị tổn thương thì không tự lành được.
Khi đĩa bị
chấn thương, dây thần kinh bị đè kẹp và gây ra đau đớn vô
cùng cho chân. Đốt ở phía cuối cột sống là nơi gây ra nhiều
đau hơn cả.
Khi các
thành phần cấu tạo xương sống bị tổn thương, siêu vẹo, co
kéo thì đau lưng xảy ra.
Mấy bệnh
thông thường của cột sống:
Thoái hóa
đĩa đệm
(Degenerative Disc Disease)
Ðĩa đệm là
một cấu trúc sụn-xơ nằm giữa hai đốt sống.
Toàn bộ
đĩa đệm chiếm ¼ chiều dài cột sống và hoạt động như một bộ
phận giàm sốc để bảo vệ não và dây thần kinh não tủy khi cơ
thể vận động mạnh, như chạy nhẩy, uốn mình.
Một số tác
giả coi thoái hóa đĩa đệm như một diễn biến của sự hóa già.
Ðĩa giảm đàn hồi, dẻo dai và giảm sốc. Lớp dây chằng bao bọc
đĩa trở nên giòn, dễ gẫy. Ðồng thời phần chất mềm ở giữa đĩa
bắt đầu khô và teo lại, mấu xương (spur) mọc nhô ra ở cạnh
đốt xương sống vá mặt khớp đốt xương.
Ðĩa đệm
sẹp và mấu xương nhô ra sẽ làm thu hẹp khoảng trống dành cho
dây cột sống, do đó rễ dây thần kinh bị đè ép.
Không phải
ai bị thoái hóa đĩa đệm cũng bị đau lưng.
Cơn đau
thường xảy ra khi bệnh nhân ngồi vì lúc này phần dưới cột
sống chịu sức nặng gấp ba lần khi đứng. Cơn đau tăng khi
bệnh nhân cúi xuống, nâng vật nặng hoặc vặn mình. Ði lại
hoặc chạy chậm đôi khi làm cơn đau giảm đi. Khi nằm, áp lực
lên đĩa đệm giảm và làm bớt đau.
Ngoài đau
lưng, bệnh nhân còn cảm thấy đau nhói nhói, tê tê ở dưới
chân và bàn chân vì dây thần kinh có thể bị kẹp hoặc đè ép.
Chụp
X-quang MRI hoặc CT scan là hai phương tiện rất hữu hiệu để
xác định bệnh. MRI cho biết mức độ thoái hóa và thoái vị của
đĩa đệm.
Có
nhiều biện pháp trị liệu khác nhau:
a- Không giải phẫu
- Trước
hết, bệnh nhân cần kiểm soát cơn đau: chườm lạnh để làm giảm
đau, chườm nóng để cơ bắp thư giãn,
- Dùng
thuốc chống đau như acetaminophen, thuốc chống đau không có
steroids (NSAIDS), thuốc có chất á phiện, thuốc thư giãn bắp
thịt.
- Ðôi khi,
bác sĩ cũng có thể chích cortisone vào màng tủy xương.
Ngoài ra,
châm cứu, thủ thuật chỉnh xương, thoa nắn, siêu âm... cũng
có nhiều công hiệu.
Ðôi khi
người bệnh phải phối hợp nhiều phương thức khác nhau, chứ
không có một phương thức chung cho mọi người bệnh.
b- Tập luyện, vật lý trị liệu
Khi cơn
đau đã giảm, bệnh nhân cần tích cực tập luyện các thành thần
cấu tạo cột sống.Tập luyện mang lại một số lợi ích như sau:
-Giúp các
thành phần cấu tạo xương sống duy trì sự bền bỉ và sức mạnh,
giảm áp lực xuống đĩa đệm. Nhờ đó, cơn đau giảm bớt.
-Vận động
mang chất dinh dưỡng tới cho đĩa đang bị thoái hóa, tổn
thương. Tập vươn giãn theo thể điệu để tăng cường sức mạnh
của bắp thịt dọc theo xương sống, nhờ đó cơn đau cũng giảm.
c- Thay đổi lối sống, thói quen
Bệnh nhân
cũng nên tránh các động tác gây ảnh hưởng cho đĩa đệm, như
là nâng vật quá nặng, vặn lưng quá cong và nên sử dụng ghế
đệm đỡ lưng.
Nếu hút
thuốc là thì nên ngưng, vì thuốc lá làm giảm máu tới nuôi
dưỡng đĩa. Nếu quá mập phì cũng cần giảm cân.
d-
Sau sáu tháng phối hợp điều trị như trên mà cơn đau không
những không giảm, mà còn gia tăng, gây trở ngại cho cuộc
sống, cho công việc hàng ngày thì có thể nghĩ tới giải phẫu.
Có hai
phương thức giải phẫu thường được dùng:
- Nối tiếp
đốt sống (Fusion lumbar spine):
Ðĩa thoái
hóa được lấy ra và thay thế bằng xương của người bệnh hoặc
xương tổng hợp. Xương sẽ mọc ra trên xương ghép và hai đốt
xương sẽ dính với nhau. Bệnh nhân sẽ không còn cảm thấy đau
vì đĩa thoái hóa không còn nữa.
Phương
thức này có vài khuyết điểm: vết mổ đau, mất thời gian lâu
để đốt sống dính với nhau, sự dính đưa tới thay đổi chuyển
động của các đốt sống lân cận
- Thay thế
bằng đĩa nhân tạo
Ðĩa nhân
tạo được thay thế vào vị trí của đĩa thoái hóa. Thay thế này
mới được cho phép dùng ở Hoa Kỳ vào năm 2004, cho nên còn
cần nhiều nghiên cứu bổ túc để hoàn thiện.
Giải phẫu
chữa thoái hóa đĩa đệm là một phẫu thuật phức tạp, cần một
thời gian lâu sau giải phẫu để phục hồi và có thể gây ra một
số khó khăn. Do đó, bệnh nhân cần cân nhắc suy nghĩ kỹ càng
và cần thảo luận lợi hại với bác sĩ điều trị trước khi quyết
định.
Sa đĩa liên
sống
(Herniated
Disc)
Còn gọi là
thoát vị đĩa đệm, trợt đĩa (slipped disc), vỡ (ruptured)
hoặc rách (torn) đĩa.
Trường
hợp này xẩy ra khi nhân của đĩa nhô ra qua màng xơ bao chung
quanh đĩa và ép lên các rễ thần kinh, dây chằng kế cận.
Ða số các
trường hợp thoát vị đĩa đệm đều thường thấy ở tuổi 30-40,
khi mà nhân đĩa còn dẻo như gelatin. Thoát vị xẩy ra bất
chợt khi vặn hoặc cong cột sống quá mức. Phần đĩa đệm lòi ra
sẽ đè lên dây thần kinh cột sống.
Sa đĩa đệm
có thể thấy ở bất cứ phần nào của cột sống, nhưng 98% trường
hợp ở giữa hai cột sống lưng số 4- số 5 và cột sống lưng số
5 - xương cùng.
Bệnh nhân
có những cơn đau sắc bén, mạnh như xé thịt ở lưng, chạy
xuống vùng chân mà dây thần kinh tủy có ảnh hưởng. Dáng đi
tập tễnh, co chân đau để tránh mang sức nặng của cơ thể.
Ðiều trị
với nghỉ ngơi, chườm nóng lạnh, dùng thuốc chống đau, vật lý
trị liệu, giải phẫu nếu cần.
Vẹo cột sống
(Scoliosis)
Vẹo cột
sống là một hình dạng bất bình thường về độ cong của xương
sống.
Ở một
người bình thường và khi nhìn từ phía sau, cột sống là một
đường thằng đứng từ phần chót của gáy xuống tới xương cụt.
Nếu nhìn
nghiêng, xương sống có hình chữ S, cong ra phía trước ở phần
lưng trên và cong về phía sau ở phần lưng dưới.
Khi bị
vẹo, nhìn từ phía sau sẽ thấy cột sống có một vài độ cong
không bình thường.
Các dấu
hiệu thường thấy của vẹo cột sống gồm có:
- Hai vai cao thấp không đều nhau
- Một xương bả vai nhô cao hơn phía bên đối diện
- Eo bên cao bên thấp
- Một bên hông cao hơn bên kia
- Khi đứng hoặc đi lại, người nghiêng về một
phía.
Khi cột
sống vẹo nhiều, xương sườn và lòng ngực nhô về phía trước,
gây khó khăn cho sự thở và cũng gây ra đau lưng.
Nguyên
nhân gây ra vẹo cột sống chưa được biết rõ. Có nhiều trường
hợp do bẩm sinh, do chân dài chân ngắn.Vẹo cột sống thường
thấy ở nhiều người trong một gia đình.
Vẹo cột
sống không phải là hậu quả của dáng điệu không ngay ngắn,
vận động cơ thể quá mạnh hoặc đeo vật nặng trên lưng.
Cứ 1000
trẻ em thì có từ 3-5 em bị vẹo cột sống và trẻ gái vẹo nhiều
hơn trai.
Vẹo trầm
trọng hơn khi xảy ra ở tuổi trẻ, khi cột nghiêng nhiều nhất
là nghiêng ở phần trên cột sống.
Bất thường
này ít khi xảy ra ở tuổi trưởng thành, đôi khi vì cột đã bị
vẹo từ nhỏ mà không chữa hoạc vẹo do thoái hóa cột sống.
Bình
thường, vẹo cột sống không gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe.
Tuy nhiên, khi cột vẹo nhiều sẽ gây tổn thương cho tim,
phổi, đau lưng. Lồng ngực sẽ đè vào tim phổi gây khó khăn
cho sự hô hấp và sự bơm máu từ tim.
Vẹo cột
sống gây ra đau lưng kinh niên, đôi khi viêm xương khớp cột
sống.
Thường
thường, bác sĩ gia đình cũng như trường học đều khám để coi
trẻ em có bị vẹo cột sống không.
Trẻ bị vẹo
cột sống được điều chỉnh bằng:
- Ðeo nẹp
lưng (brace) để vẹo không trầm trọng hơn. Khi cởi bỏ nẹp,
cột sống vẹo trở lại.
- Giải
phẫu nối đốt sống ở chỗ vẹo với nhau, nhờ đó cột sống thẳng
trở lại.Phẫu thuật này rất phức tạp, cần được bác sĩ và bệnh
nhân cân nhắc lợi hại trước khi thực hiện.
Thoái hóa đốt sống
(spondylosis, osteoarthritis of the spine)
Trong
thoái hóa đốt sống, lớp sụn lót giữa hai mặt đốt xương và
đĩa liên hợp bị tổn thương gây ra thay đổi cấu trúc và suy
giảm chức năng của cột sống. Tuổi cao là rủi ro chính của sự
thoái hóa nhưng mức độ thoái hóa nhanh chậm tùy theo từng
người. Thoái hóa có thể xảy ra ở cột sống cổ, ngực, lưng.
1- Thoái hóa đĩa đệm: Với tuổi cao, vành bao bọc đĩa đệm
bị rách mòn, phần keo trong đĩa khô nước, giảm khả năng
chống sốc và giảm chiều cao của cơ thể. Chất keo có thề lòi
ra khỏi vành, đè lên rễ dây thần kinh não tủy.
2- Viêm khớp đốt sống
Mỗi đốt
sống có 4 mặt khớp có nhiệm vụ như cái bản lề để cột sống có
thể cử động nghiêng ngả về phía trước sau và hai bên. Một
lớp sụn bao phủ mặt khớp để sự chuyển động khớp được chơn
tru. Khi bị thoái hóa, sụn hao mòn, gai xương
(osteophyte=bone spurs) mọc ra.
Thoái hóa
đốt sống cổ gây ra đau ở cổ, vai và cánh tay. Gai xương có
thể đè lên rễ dây thần kinh, làm cho các bắp thịt ở tay yếu.
Viêm khớp
đốt sống ngực gây ra đau khi cúi xuống hoặc ngửa người ra
phía sau.
Ðốt sống
lưng chịu đựng hầu hết sức nặng của cơ thể. Khi thoái hóa,
thường có đau lưng nhất là khi ngồi lâu hoặc nâng nhấc vật
nặng.
Chụp hình
cột sống (X-quang,MRI, CT Scan) đều thấy rõ các thay đổi của
cột sống.
Ðiều trị
Nhiều
người cứ cho rằng khi bị thoái hóa cột sống là sẽ bị đau
lưng suốt đời hoặc phải ngồi xe lăn. Thực ra, bệnh không đưa
tới tình trạng bi quan như vậy, vì với các phương tiện trị
liệu hiện có, 75% bệnh nhân có thể phục hồi.
Trị liệu căn bản gồm có:
- Nằm nghỉ
không quá 3 ngày, để tránh máu cục ở tĩnh mạch nằm sâu dưới
da
- Dùng
dược phẩm chống viêm đau, thuốc thư giãn cơ bắp trong thời
gian ngắn
- Vùng
xương bị viêm được giữ cố định để tạm thời giới hạn cử động
khớp và giảm đau
- Chườm
nóng, kích thích điện
- Tập các
cử động tăng sức mạnh bắp thịt ở bụng, dọc theo cột sống để
giúp cột sống mạnh hơn
- Thay đổi
nếp sống, việc làm, bỏ thuốc lá, giảm cân nếu mập phì...
Giải phẫu
ít khi cần đến trong trường hợp thoái hóa đốt sống.
Ðau dây thần
kinh tọa.
Dây thần
kinh tọa (sciatic nerve) là dây thần kinh chính ở chân.
Ðây là
dây thần kinh lớn nhất, chạy dài từ phần dưới cột sống xuống
phía sau đùi. Tới khớp gối, dây chia ra làm hai nhánh phân
bố cho các cơ và da của chân.
Ðau dây
thần kinh tọa thường xảy ra ở lớp tuổi từ 30- 50 và thường
là do một đĩa đệm ở phần dưới lưng lòi ra, đè lên rễ của dây
thần kinh.
Triệu
chứng chính của rối loạn này là cảm giác đau ở một phía cơ
thể, chạy dài từ dưới lưng xuống mặt sau của bắp đùi và bắp
chân, đôi khi tới bàn chân, ngón chân. Cảm giác đau có thể
là:
- Ðau ở
phía sau chân nhất là khi ngồi
- Cảm giác
nóng và nhoi nhói dưới da
- Yếu, tê
tê và không cử động được chân và bàn chân
- Ðau liên
tục khiến cho đứng lên khó khăn
- Thường
thường đau ở dưới chân nhiều hơn là ở lưng
Cảm giác
đau thường hết sau thời gian từ hai tuần lễ tới vài tháng.
It khi dây thần kinh tọa bị tổn thương vĩnh viễn.
Nếu thấy
chân mỗi ngày mỗi yếu hoặc có rối loạn đại tiểu tiện, thì
cần gặp bác sĩ ngay để khám nghiệm, điều trị vì có thể là
dây thần kinh tọa bị tổn thương trầm trọng.
Ðiều trị
tập trung ở giải quyết nguyên nhân (kẹp dây thần kinh tọa)
giảm đau với thuốc chống viêm đau, vật lý trị liệu, tập
luyện tăng sức mạnh bắp thịt.
Giải phẫu
cũng được áp dụng khi bệnh không thuyên giảm với các trị
liệu kể trên. Mục đích của giải phẫu là để giải tỏa đè kẹp
rễ dây thần kinh tọa.
Viêm cứng khớp cột sống
(ankylosing spondylitis)
Như tên
gọi, viêm cứng cột sống là trường hợp viêm của đốt xương
sống. Trong trường hợp trầm trọng, các đốt xương có thể dính
lại với nhau và gây ra giới hạn cử động của bộ phận này.
Viêm dây chằng, gân kết nối các đốt sống với nhau cũng có
thể xảy ra.
Các đốt
sống cùng-chậu là nơi thường hay bị viêm
Bệnh này
xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng thường thấy ờ tuồi từ 15 tới 30
và ở đàn ông nhiều hơn đàn bà.
Triệu
chứng gồm có:
- Ðau lưng
kinh niên, kéo dài từ nhiều tháng tới nhiều năm
- Cơn đau
thường xẩy ra vào ban đêm
- Cảm giác
cứng nhắc ở lưng sau khi ngủ dậy và kéo dài suốt ngày
- Ðau ở
vùng xương sườn, bả vai, hông, đùi, gót chân
- Viêm
mống mắt (iritis) với cảm giác cồm cộm như có cát trong mắt.
- Trong
một vài trường hợp, viêm phần cuối của động mạch chủ.
Nguyên
nhân gây ra viêm cứng khớp cột sống chưa được biết rõ, nhưng
bệnh mang tính cách di truyền cho nhiều người trong gia
đình.
Bệnh không
chữa hết được, nhưng có nhiều phương thức giúp bệnh nhân cảm
thấy thoải mái, bớt đau và duy trì sinh hoạt hàng ngày.
Các loại
thuốc chống viêm đau không có steroid giúp bệnh nhân bớt đau
và cứng khớp. Thuốc có steroid đôi khi cũng được dùng.
Tập luyện,
vận động cơ thể có vai trò quan trọng trong bệnh viêm cứng
này. Tập luyện để giúp khớp xương chuyển động, giảm đau
nhức, giữ dáng điệu và lồng ngực bình thường và không gây
trở ngại hô hấp.
Kết luận
Cột xương
sống là một cấu trúc tuyệt hảo để:
- nâng đỡ
đầu và phần trên của cơ thể
- chứa
đựng và bảo vệ cột tủy sống, nơi dẫn truyền cả triệu tín
hiệu sinh tử giữa não bộ và các cơ quan, bộ phận của cơ thể.
- giúp cơ
thể uyển chuyển thân hình, thích nghi với các hoạt động khác
nhau.
Do đó, cột
sống cần được sự lưu tâm chăm sóc và nuôi dưỡng đầy đủ.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức
Texas-Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|