Giáo Hội Và
Thiên Chức Con Người |
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong
Thế Giới Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Phần Thứ Nhất
Giáo Hội Và Thiên Chức Con Người
12*
11. Ðáp ứng những thúc bách của
Chúa Thánh Thần. Dân Thiên Chúa, nhờ đức tin
mà tin rằng mình được Thánh Thần Thiên Chúa là Ðấng bao phủ
mặt đất hướng dẫn, cố gắng nhận định đâu là những dấu chỉ
thực về sự hiện diện hoặc ý định của Thiên Chúa trong mọi
biến cố, mọi yêu sách và ước vọng mà họ dự phần với những
người đương thời. Thực vậy, đức tin lấy ánh sáng mới
13* mà chiếu soi mọi sự và biểu lộ ý định của
Thiên Chúa về thiên chức toàn vẹn của con người và do đó
hướng dẫn lý trí tới những giải quyết hoàn toàn nhân bản.
Trước hết
dưới ánh sáng này, Công Ðồng muốn thẩm định những giá trị
ngày này rất được đề cao và đưa chúng về tới nguồn phát sinh
là Thiên Chúa. Thực vậy, những giá trị này, vì phát sinh do
tài năng của con người được Thiên Chúa ban cho, nên rất tốt
đẹp. Nhưng vì lòng người đã hư hỏng nên nhiêൠkhi những giá
trị ấy đã bị sai lệch ngoài trật tự phải có, bởi vậy chúng
cần được thanh lọc
14*.
Vậy Giáo
Hội nghĩ gì về con người? Phải đưa ra những điểm nào để xây
dựng xã hội ngày nay? Ðâu là ý nghĩa cuối cùng của hoạt động
con người trong vũ trụ? Người ta đang chờ một giải đáp cho
những câu hỏi trên đây. Như thế sẽ tỏ rõ rằng dân Chúa và
nhân loại, trong đó dân Chúa là một thành phần, phục vụ lẫn
nhau đến nỗi sứ mệnh của Giáo Hội biểu lộ được tính cách tôn
giáo và chính vì thế biểu lộ được cả tính cách hoàn toàn
nhân loại.
Chương I
Phẩm Giá Con Người
15*
12. Con người theo hình ảnh Thiên
Chúa. Những kẻ tin cũng như những kẻ không
tin dường như đồng quan điểm là mọi vật trên địa cầu phải
được hướng về con người như là trung tâm và tột điểm của
chúng.
Vậy con
người là gì? Con người đã và còn đang đưa ra nhiều quan niệm
về chính mình, những quan niệm khác nhau và đôi khi trái
ngược nhau. Theo những quan niệm đó, thường con người tán
dương mình như một mẫu mực tuyệt đối hay lại chê bai đến độ
tuyệt vọng, từ đó con người hoài nghi và lo lắng. Thông cảm
sâu xa được những khó khăn này, Giáo Hội, vì được Thiên Chúa
là Ðấng mạc khải dạy dỗ, có thể đem lại câu giải đáp cho
những khó khăn ấy, nhờ đó diễn tả được thân phận đích thực
của con người, giải bày những yếu hèn, đồng thời có thể nhìn
nhận xác đáng phẩm giá và thiên chức của con người.
Thực vậy,
Thánh Kinh dạy rằng con người đã được tạo dựng "theo hình
ảnh của Thiên Chúa" có khả năng nhận biết và yêu mến Ðấng
Tạo Dựng mình, được Ngài đặt làm chủ mọi tạo vật trên trái
đất
1 để cai trị và xử dụng chúng mà ngợi khen Thiên
Chúa
2. Vì "thế nhân là chi để Ngài nhớ đến? hay con
người là gì để Ngài phải bận tâm? So với thiên thần Ngài có
để cho thua mấy tí. Vinh dự huy hoàng là triều thiên Ngài
ban tặng. Ngài cho thống trị các kiệt tác tay Ngài làm, muôn
sự Ngài đã đặt dưới chân" (Tv 8,5-7).
Nhưng Thiên
Chúa đã không dựng nên con người cô độc: bởi vì từ khởi thủy
"Ngài đã tạo dựng có nam và có nữ" (Stk 1,2-7). Sự liên kết
giữa họ đã tạo nên một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người với
người. Thực vậy, tự bản tính thâm sâu của mình, con người là
một hữu thể có xã hội tính và nếu không liên lạc với những
người khác con người sẽ không sống và phát triển tài năng
mình.
Vì thế như
ta lại đọc thấy ngay trang đầu của Thánh Kinh: "Thiên Chúa
đã thấy tất cả những gì Ngài đã làm đều rất tốt đẹp" (Stk
1,31).
13. Tội lỗi. Ðược
Thiên Chúa thiết lập trong sự công chính, tuy nhiên ngay từ
đầu lịch sử, con người nghe theo Thần Dữ nên đã lạm dụng tự
do của mình khi nổi dậy chống lại Thiên Chúa và muốn đạt tới
cứu cánh của mình ngoài Thiên Chúa. Dù họ đã nhận biết Thiên
Chúa nhưng họ đã chẳng tôn vinh Ngài như Thiên Chúa, trái
lại tâm hồn mê muội của họ đã ra tối tăm và họ đã phụng sự
tạo vật hơn là phụng sự Ðấng Tạo Hóa
3. Ðiều Thiên Chúa mạc khải cho ta biết cũng phù
hợp với kinh nghiệm của ta. Bởi vì nếu nhìn sâu tận đáy lòng
mình, con người cũng khám phá ra rằng mình đã hướng về sự dữ
và đã ngụp lặn trong muôn vàn sự dữ là những điều không thể
xuất phát từ Ðấng Tạo Hóa tốt lành của mình. Nhiều khi từ
chối không nhìn nhận Thiên Chúa như nguyên ủy của mình, con
người cũng phá đổ trật tự phải có để đạt tới cùng đích của
mình và đồng thời phá vỡ mọi hòa hợp nơi chính bản thân cũng
như đối với những người khác và với mọi loài thụ tạo.
Vậy trong
chính con người đã có sự chia rẽ
16*. Vì thế tất cả cuộc sống của con người, hoặc
riêng rẽ, hoặc tập thể, đều biểu hiện như một cuộc chiến, dĩ
nhiên là bi thảm, giữa tốt và xấu, giữa ánh sáng và tối tăm.
Hơn nữa, con người thấy mình không đủ sức khi phải tự mình
chiến thắng hữu hiệu những tấn công của sự dữ đến nỗi mỗi
người cảm thấy dường như bị xiềng xích trói buộc. Nhưng
chính Chúa đã đến để giải phóng con người và làm cho con
người trở nên mạnh mẽ khi Ngài đổi mới tự nội tâm họ và loại
ra ngoài thủ lãnh của thế gian này (xem Gio 12,31) là kẻ đã
kìm giữ họ trong vòng nô lệ tội lỗi
4. Tội lỗi làm suy giảm chính con người và ngăn
cản không cho con người đạt tới sự viên mãn
17*.
Dưới ánh
sáng mạc khải này, thiên chức cao cả và nỗi thống khổ sâu xa
mà con người nghiệm thấy đều tìm được ý nghĩa cuối cùng của
chúng.
14. Sự cấu tạo của con người.
Con người duy nhất với xác hồn. Xét về thể xác, con người là
một tổng hợp những yếu tố thuộc thế giới vật chất. Vì thế
nhờ con người mà những yếu tố ấy đạt tới tuyệt đỉnh của
chúng và tự do dâng lời ca tụng Ðấng Tạo Hóa
5. Vậy con người không được khinh miệt đời sống
thể xác. Nhưng trái lại con người phải coi thân xác mình là
tốt đẹp và đáng tôn trọng vì thân xác ấy do Chúa tạo dựng và
phải được sống lại ngày sau hết. Tuy nhiên, mang thương tích
do tội lỗi gây nên, con người cảm nghiệm nơi chính mình
những nổi loạn của thân xác. Vậy chính phẩm giá con người
đòi hỏi con người ca tụng Thiên Chúa nơi thân xác của mình
6 chứ đừng để thân xác ấy nô lệ cho những xu hướng
xấu xa của lòng mình
18*.
Thực vậy,
con người không lầm lẫn khi họ nhận biết mình cao cả hơn vũ
trụ vật chất và không coi mình chỉ như một mảnh vụn của
thiên nhiên hay như một phần tử vô danh trong xã hội loài
người. Bởi vì nhờ có nội giới
19*, con người vượt trên mọi vật. Khi con người
quay về với lòng mình tức là họ trở về với nội giới thâm sâu
này, ở đó Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt tâm hồn, đang chờ đợi
họ
7, và cũng nơi đó chính con người tự định đoạt về
vận mệnh riêng của mình dưới con mắt của Thiên Chúa. Như
vậy, khi nhìn nhận mình có một linh hồn thiêng liêng, bất
tử, con người không phải là bị mê hoặc bởi một thứ ảo tưởng
phát sinh do những điều kiện vật lý và xã hội. Trái lại,
nhìn nhận như thế là con người đã đạt tới chính chân lý sâu
xa.
15. Phẩm giá của trí tuệ, chân lý
và sự hiểu biết. Dự phần vào ánh sáng của trí
tuệ Thiên Chúa, con người có lý để nhận định rằng nhờ trí
tuệ họ vượt trên mọi tạo vật. Qua các thời đại, nhờ chuyên
cần trau dồi tài năng của mình, chính con người đã thực sự
tiến bộ trong những khoa học thực nghiệm, những khoa kỹ
thuật và nghệ thuật. Trong thời đại chúng ta, con người đã
đạt được những thành công phi thường, nhất là trong việc
khám phá và chế ngự thế giới vật chất. Tuy nhiên con người
đã luôn luôn tìm kiếm và đã khám phá ra chân lý sâu xa hơn.
Thực vậy, trí khôn con người không hẳn chỉ giới hạn trong
những hiện tượng mà thôi, nhưng còn có thể thấu triệt thực
tại siêu hình một cách thực sự chắc chắn, cho dù trí tuệ
phần nào đã bị mờ tối và suy nhược do hậu quả của tội lỗi.
Cuối cùng
bản chất tri thức của nhân vị được kiện toàn và phải được
kiện toàn nhờ sự "hiểu biết"
20*. Chính sự hiểu biết lôi kéo một cách dịu dàng
tâm trí con người tìm kiếm và ái mộ những gì là chân, là
thiện. Rồi nhờ thấm nhuần sự hiểu biết mà con người được đưa
từ thế giới hữu hình tới thế giới vô hình.
Hơn hẳn
những thế kỷ trước, thời đại chúng ta càng cần đến sự hiểu
biết để tất cả những khám phá mới của con người mang tính
chất nhân bản hơn. Bởi vì vận mệnh tương lai của thế giới sẽ
lâm nguy, nếu thế giới không phát sinh ra những bậc thông
thái lỗi lạc. Hơn nữa, phải lưu ý rằng, nhiều quốc gia tuy
nghèo nàn về kinh tế, nhưng lại giàu có về phần hiểu biết,
nên vẫn có thể trợ giúp những quốc gia khác rất đắc lực.
Nhờ hồng ân
của Chúa Thánh Thần, con người, qua đức tin, tiến tới sự
chiêm ngưỡng và nếm hưởng mầu nhiệm Thánh ý Thiên Chúa
8.
16. Phẩm giá của lương tâm
21*. Con người khám phá ra tận đáy lương tâm một
lề luật mà chính con người không đặt ra cho mình, nhưng vẫn
phải tuân theo, và tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi
con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh
điều ác. Tiếng nói ấy âm vang đúng lúc trong tâm hồn của
chính con người: hãy làm điều này, hãy tránh điều kia. Quả
thật con người có lề luật được Chúa khắc ghi trong tâm hồn.
Tuân theo lề luật ấy chính là phẩm giá của con người và
chính con người cũng sẽ bị xét xử theo lề luật ấy nữa
9. Lương tâm là tâm điểm sâu kín nhất và là cung
thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một
mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong
thâm tâm họ
10. Nhờ lương tâm, lề luật được thực hiện trong sự
yêu mến Thiên Chúa và anh em, và được biểu lộ cách kỳ diệu
11. Trung thành với lương tâm, người Kitô giáo
liên kết với những người khác để tìm kiếm chân lý và giải
quyết trong chân lý biết bao vấn đề luân lý được đặt ra
trong đời sống cá nhân cũng như trong giao tiếp xã hội. Bởi
vậy lương tâm ngay thẳng càng thắng thế thì những cá nhân và
cộng đoàn càng tránh được độc đoán mù quáng và càng nỗ lực
tuân phục những tiêu chuẩn khách quan của luân lý. Tuy
nhiên, lương tâm nhiều khi lầm lạc vì vô tri bất khả thắng,
nhưng cũng không vì thế mà mất hết phẩm giá. Nhưng không thể
nói như vậy khi con người ít lo lắng tìm kiếm điều chân và
điều thiện cũng như khi vì thói quen phạm tội mà lương tâm
dần dần trở nên mù quáng.
17. Sự cao cả của tự do
22*. Nhưng con người chỉ có thể quay về với sự
thiện một cách tự do. Sự tự do ấy những người đương thời với
chúng ta rất ngưỡng mộ và hăng say theo đuổi, và họ thực có
lý. Tuy nhiên, lắm lúc họ cổ võ tự do một cách lệch lạc như
có thể làm bất cứ điều gì mình thích, cả điều xấu. Nhưng tự
do đích thực là dấu chỉ cao cả nhất của hình ảnh Thiên Chúa
trong con người. Bởi vì Thiên Chúa đã muốn để con người tự
định liệu
12, hầu con người tự mình đi tìm Ðấng Tạo Dựng và
nhờ kết hợp với Ngài con người tiến tới sự hoàn thiện trọn
vẹn và hạnh phúc. Vậy phẩm giá của con người đòi họ phải
hành động theo sự chọn lựa ý thức và tự do, nghĩa là chính
con người được thúc đẩy và hướng dẫn tự bên trong, chứ không
do bản năng mù quáng hay cưỡng chế hoàn toàn bên ngoài. Con
người sẽ đạt tới phẩm giá ấy một khi nhờ tự giải thoát khỏi
mọi kiềm tỏa của đam mê, con người theo đuổi cùng đích của
mình trong sự tự do chọn lấy điều thiện và khôn khéo cũng
như thực sự tạo cho mình những phương tiện thích ứng. Tự do
của con người vì bị tội lỗi làm tổn thương nên chỉ nhờ ơn
Chúa trợ lực mới có thể thực hiện việc hướng về Thiên Chúa
cách hoàn toàn sống động. Vậy trước tòa án Thiên Chúa, mỗi
người sẽ phải trả lẽ về đời sống của mình tùy theo chính họ
đã làm điều thiện hay điều ác
13.
18. Mầu nhiệm sự chết.
Trước cái chết, bí ẩn về thân phận con người lên cao tới tột
độ. Con người không những bị hành hạ bởi đau khổ và sự tiến
dần đến tan rã của thân xác, mà hơn thế nữa, còn bị dày vò
bởi nỗi lo sợ bị tiêu diệt đời đời. Theo bản năng của lòng
mình, con người có lý để ghê sợ cũng như từ chối sự hủy hoại
hoàn toàn và sự tiêu diệt vĩnh viễn của bản thân. Mầm sống
vĩnh cửu mà con người mang trong mình không thể giản lược
vào nguyên vật chất, nên nó nổi lên chống lại sự chết. Mọi
cố gắng của kỹ thuật, dù rất hữu ích, cũng không thể làm
nguôi được nỗi lo âu của con người: bởi vì đời sống sinh
vật, dù có được kéo dài thêm đi nữa, cũng không thể thỏa mãn
được khát vọng một cuộc sống mai hậu đã được in sâu trong
lòng con người.
Trước cái
chết, óc tưởng tượng của con người đành bất lực. Nhưng Giáo
Hội, được Mạc Khải của Thiên Chúa dạy bảo, quả quyết rằng
con người được Chúa dựng nên để đạt tới cứu cánh hạnh phúc
sau những khổ cực trần thế này. Hơn nữa, đức tin Kitô giáo
còn dạy rằng giả như con người không phạm tội, thì đã không
phải chết
14; sự chết này sẽ bị đánh bại khi Ðấng Cứu Thế
toàn năng và nhân ái mang lại cho con người sự cứu rỗi mà vì
tội lỗi, họ đã đánh mất. Bởi vì Thiên Chúa đã và đang kêu
gọi con người đem toàn thân kết hợp với Ngài trong sự thông
hiệp vĩnh viễn vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa. Chúa
Kitô đã đem lại chiến thắng ấy khi Người sống lại và nhờ cái
chết của Người, Người đã giải phóng con người khỏi sự chết
15. Vậy đức tin với những lý chứng vững chắc đem
lại giải đáp cho bất cứ ai khắc khoải ưu tư về số phận tương
lai của mình. Ðồng thời đức tin còn cho con người khả năng
hiệp thông với những anh em thân yêu đã chết trong Chúa
Kitô, và làm cho họ hy vọng rằng những người ấy đã được sống
thực sự nơi Thiên Chúa.
Chú
Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo
trước)
12* Trong phần thứ nhất
này Công Ðồng tìm hiểu về con người dưới ánh sáng đức tin để
rồi trong phần thứ hai có thể đề cập tới một số vấn đề cụ
thể. Chương I nói về con người trong thế giới: phẩm giá của
con người. Chương II: về con người theo tính cách xã hội.
Chương III: về ý nghĩa và giá trị sinh hoạt của con người.
Chương IV: con người và Giáo Hội.
13* Sống theo đức tin
không phải là quay lưng tránh né trước các vấn đề nhân loại.
Trái lại, chỉ nhờ đức tin chúng ta mới có được quan điểm
toàn diện về con người (không biết ơn kêu gọi siêu nhiên của
con người làm sao có thể biết chính con người được!). Nên,
chỉ nhờ đức tin chúng ta mới có thể tìm thấy những giải đáp
thực sự có tính cách nhân loại bởi vì đức tin giúp ta coi
trọng con người về mọi phương diện. Dĩ nhiên ở đây không nói
tới một đức tin trong lý thuyết, chẳng ảnh hưởng gì đến các
việc thường nhật.
14* Các giá trị nhân
bản, các nhân bản chủ nghĩa (xem chú thích về số 7) đều mang
ý nghĩa mơ hồ. Cả về khía cạnh tốt đẹp nhất của chúng, chúng
vẫn chưa hoàn toàn và không đủ để "cứu rỗi" con người - theo
như ý muốn của Thiên Chúa!
15* Phẩm giá con người
rất cao cả vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa (số 12) -
dầu bị tội lỗi làm mất vẻ trong sáng (số 13) -, vì giá trị
bản tính thể xác lẫn linh hồn của mình (số 14), đặc biệt của
lý trí (số 15), của lương tâm luân lý (số 16) của quyền tự
do (số 17) và của tính bất diệt (số 18). Phẩm giá đó bị hiện
tượng vô thần làm thiệt hại không ít: Công Ðồng mô tả hiện
tượng và nguyên nhân của nó rồi nêu rõ thái độ của Giáo Hội
(số 19-21). Phẩm giá của con người được biểu lộ một cách
hoàn toàn nơi Chúa Kitô (số 22).
16* Ðây là một trong
những kinh nghiệm đau đớn nhất của con người.
Con người không phải chỉ là khán giả cũng
không phải chỉ có vai trò tác động trong cuộc tranh đấu giữa
sự thiện và sự ác. Cuộc tranh đấu ấy ngay ở giữa tâm hồn con
người. Những sự dữ vật chất (vô tri, yếu đuối, bệnh tật...)
đều đặt giới hạn bi thảm cho lòng khát khao sự hoàn hảo và
toàn vẹn. Nhất là tội ác lôi cuốn con người từ bên trong đi
ngược với nguyện vọng sâu xa về sự thiện (xem trên, số 10).
17*
Tội lỗi không chỉ có nghĩa là từ chối làm con Thiên Chúa và
do đó ngăn cản không cho con người phát triển trọn vẹn, nó
còn làm tổn thương chính bản tính tự nhiên của con người:
trái ngược với lý trí, đe dọa ý chí, làm cho sự tự do bị sai
lạc... hình ảnh của Thiên Chúa là con người tất nhiên bị hư
hỏng rất nhiều.
18*
Ở đây Công Ðồng nhắc lại một số nhận xét về thân xác theo
thần học công giáo:
1) Thân xác là phần bản thể của thực tại duy
nhất là con người. Con người không gồm có hai phần: xác và
hồn, nhưng con người là xác và hồn. Ta còn có thể nói con
người là thân xác này: bởi vì nếu chưa có hồn thì cũng chưa
phải là thân xác này, mà chỉ là một đống vật chất chưa thành
thể.
2) Thân thể vật chất kết tụ các yếu tố tốt
của giới vô cơ, của giới thực vật và động vật. Nơi con
người, tất cả các nguyên tố đó được thêm ý thức và khả năng
để ngợi khen Ðấng Tạo Hóa.
3) Ðược Thiên Chúa tạo nên, không chỉ vì
Chúa đã tạo nên vật chất sơ khai mà còn do việc cộng tác cần
thiết và hệ trọng nhất của Thiên Chúa với đôi cha mẹ (x.
2Mac 7,22-23).
4) Thân thể hay chết cuối cùng sẽ sống lại.
Sống lại vẻ vang theo ý muốn của Chúa, giống như thân thể
của Chúa Kitô Anh Cả của loài người (đặc biệt của tín hữu)
(x. 1Cor 15,20-22.42-49).
5) Do đó ta phải kính trọng thân thể.
6) Ðàng khác tội lỗi - không chỉ nguyên tội
mà còn các tội lỗi khác, nhất là tội lỗi của riêng từng
người - đã làm tổn thương nó. Các dục vọng (sự sợ hãi, sự
nổi giận, tính lười biếng, sự dâm dục, v.v...) dễ dàng thúc
đẩy ngũ quan và tâm hồn tìm kiếm những đối tượng bất chấp
tính cách luân lý, hơn nữa trái ngược với lý trí. Như thế
con người cảm thấy thân xác đè nặng mình, giới hạn mình và
trở nên chướng ngại vật giữa chính mình và tha nhân... (x.
Rm 7,24).
7) Việc làm sáng danh Thiên Chúa nơi thân
thể (x. 1Cor 6,20) đòi hỏi ta phải gắng sức tranh đấu với
những xu hướng xấu nơi thân xác. Phẩm giá của con người cũng
đòi hỏi như vậy. "Nhờ thân xác, con người liên lạc với vũ
trụ để cải thiện nó; với tha nhân, để cảm thông (nơi hôn
nhân, thân xác đạt tới tột đỉnh của nó như khí cụ để biểu lộ
và phục vụ tình yêu); với Thiên Chúa, để trung thành phục vụ
Chúa hết lòng..." (Vatican II, Gaudium et Spes, x.b.
l'Action populaire, ghi chú 28).
19*
Câu này muốn nói rằng con người cao vượt hơn và có giá trị
hơn cả vũ trụ vì con người có lý trí. Nhờ lý trí con người
có thể suy luận, như quay về nội tại của mình để tìm trong
đó ý nghĩa của mọi sự và tìm cách chỉ huy không những chính
đời mình mà còn các thực tại khác nữa.
20*
Sapientia bởi Sapere tức là nếm mùi có nghĩa rộng hơn và sâu
xa hơn danh từ hiểu biết. Ðó là một thứ hiểu biết của người
sáng suốt, của người không phải chỉ hiểu biết chân lý mà còn
thưởng thức ý nghĩa thâm sâu của chân lý, dù chân lý đó là
những nhận xét về thiên nhiên, về bản tính con người hay về
thế giới vô hình. Người học thức chưa chắc đã có thứ hiểu
biết này, trái lại kẻ vô học, mù chữ, rất có thể lại được
thứ hiểu biết đó. Ðầu óc khoa học và kỹ thuật của thời đại
ít giúp ta chiếm được thứ hiểu biết ấy.
21*
Công Ðồng đã xác nhận chiều hướng hiện nay đang đề cao giá
trị và vai trò của lương tâm. Không lập nên một thuyết nào,
nhưng Công Ðồng nhắc lại những điểm chính trong thần học
Công Giáo. Số này diễn tả lương tâm luân lý theo phương pháp
hiện tượng thuyết: 1) lương tâm như tiếng nói trong nội tâm
từng người, 2) chỉ dẫn về điều lành điều dữ, 3) và đòi hỏi
phải tránh điều ác, làm điều thiện, 4) đòi hỏi như ra lệnh,
5) giống như một lề luật đã được khắc ghi vào thâm tâm, 6)
không phải do chính mình lập ra.
Hiện tượng đó đầy ý nghĩa. Theo Công Ðồng:
7) Phẩm giá con người hệ tại việc vâng theo tiếng nói đó, 8)
bởi vì đó là lề luật cuối cùng đối với từng người: theo đó
con người sẽ bị xét xử, 9) do đấy lương tâm cũng là nơi sâu
kín nhất trong đó con người gặp Chúa một mình, 10) và ở đó
con người tìm thấy luật sinh hoạt là luật được thực hiện
trong giới răn mến Chúa yêu người, 11) vì mọi người đều có
lương tâm nên tín hữu và mọi người khác có thể gặp nhau và
hiểu nhau trong khi tìm chân lý.
Công Ðồng nói, 12) về lương tâm ngay thẳng
(của người cố gắng trung thành với tiếng nói đó) giúp ta
hoạt động theo qui tắc khách quan chứ không tự ý mù quáng.
13) Sự sai lầm không làm cho lương tâm ấy hết giá trị: thực
sự vì ngay thẳng nghĩ rằng hoạt động như thế hợp với ý Chúa,
được Chúa bằng lòng. 14) Chỉ khi nào cố ý từ bỏ chân lý và ý
muốn của Chúa, hay là khi lương tâm trở nên lu mờ vì tội
lỗi, lúc ấy giá trị của nó mới bị tổn thương.
22*
Quyền tự do là một thứ quyền đáng sợ, nhưng đồng thời là
nguyên nhân khiến con người nên cao quí thật sự. Do đó con
người có thể lấy tình yêu đáp ứng lại tình yêu Thiên Chúa,
nhưng cũng có thể phản nghịch. Con người cao cả không phải
vì có thể theo sở thích, vì có thể phản nghịch hay vì có thể
chiều theo những xu hướng mù quáng của dục vọng trái với lý
trí và đức tin, nhưng chính là vì có thể tự ý đón nhận ý
muốn của Thiên Chúa. Ðược tạo nên giống như hình ảnh của
Thiên Chúa, con người thật cao trọng khi tự ý cố gắng tới
gần và giống như Thiên Chúa hơn.
Ðiều đó không phải là dễ dàng. Quyền tự do
bị ảnh hưởng bởi nhiều sức lực thúc đẩy, không những sức lực
bên ngoài (như giáo dục - hay là việc thiếu giáo dục - khung
cảnh sống, dư luận, hoàn cảnh xã hội v.v...) mà còn cả sức
lực bên trong (như tính tình, sức khỏe, dục vọng, mặc cảm và
xu hướng tiềm thức).
Nếu con người không được đào tạo và giáo dục
để biết xử dụng quyền tự do thì con người có thể sống lâu mà
ít khi hoạt động tự do thật sự, nghĩa là ít khi đạt tới mức
độ cao cả của mình theo như ý Chúa.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
Hiệp Thông Để Truyền Giáo |
GIAÓ HỘI Là HIỆP
THÔNG
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy dường
như sự chia rẽ đã len lỏi vào mọi lãnh vực, từ gia đình, xã
hội cho đến tôn giáo. Thực vậy, trong gia đình hố ngăn cách
giữa già và trẻ mỗi ngày một khơi sâu, ngoài xã hội sự phân
biệt giữa giàu và nghèo, giữa nam và nữ cùng với óc bè phái
và địa phương mỗi ngày một đậm nét. Ngay cả trong lòng Giáo
hội, chúng ta cũng ghi nhận những rạn nứt với những giáo
phái mỗi ngày một gia tăng.
Vì thế, để gia đình được ấm cúng, để xã
hội được ổn định, chúng ta cần phải ra sức xây dựng sự hiệp
thông. Vậy hiệp thông là gì ? Trong ngôn ngữ bình thường :
hiệp là hợp cùng nhau, còn thông là thấu suốt, hiểu rõ. Và
như vậy, hiệp thông chính là hiểu biết nhau để đi tới hòa
hợp cùng nhau.
Hơn thế nữa, là những người con của
Giáo hội, chúng ta lại càng phải ra sức xây dựng sự hiệp
thông, bởi vì tự bản chất Giáo hội là bí tích, nghĩa là vừa
là dấu chỉ, vừa là phương thế hiệp nhất với Thiên Chúa và
với nhân loại, như Công đồng Vaticanô trong hiến chế về Giáo
hội “Lumen gentium” đã xác quyết :
“Vì Giáo hội ở trong Chúa Kitô như bí
tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hiệp mật thiết và sự
hiệp nhất của toàn thể nhân loại”. (GH số 1).
“ Thiên Chúa triệu tập tất cả những
người tin kính và mong đợi Đức Kitô, Đấng ban ơn cứu độ và
hiệp nhất, nguyên lý của sự hòa bình. Ngài thiết lập họ
thành Giáo hội để Giáo hội trở nên bí tích hữu hình của sự
hiệp nhất cứu độ ấy cho toàn thể và cho mỗi người”. (GH số
9)
“Mọi người được mời gọi gia nhập dân
tộc mới của Thiên Chúa. Vì thế, dân mới này, một dân duy
nhất và hiệp nhất, có bổn phận phải lan rộng khắp thế
giới,trải qua mọi thế hệ…” (GH số 13).
- Sở dĩ như vậy vì những người sống
trong Giáo hội vì được cùng liên kết với một Đầu duy nhất
(Đức Kitô), cùng sống bằng một sự sống duy nhất (Thánh
linh), cùng một đức tin, một niềm hy vọng và một đức ái.
Theo sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 815, thì những
sợi dây của sự hiệp nhất như sau :
* Trên hết, đó là đức ái, sợi dây của
sự trọn lành.
* Những sợi dây hữu hình của niềm hiệp
thông:
+ Sự tuyên xưng một đức tin duy
nhất, nhận được từ các Tông đồ.
+ Cử hành chung việc phụng tự, nhất
là các bí tích.
+ Sự kế vị Tông đồ nhờ bí tích
Truyền Chức thánh, duy trì sự hòa hợp anh em trong gia đình
của Thiên Chúa.
Ngoài ra, Hội nghị bất thường của
Thượng Hội đồng Giám mục năm 1985 đã nói đến Giáo hội học về
sự hiệp thông như là khái niệm trung tâm của mọi tài liệu
Công đồng và là sức mạnh động viên mọi canh tân sau Công
đồng. Tài liệu sau cùng của Thượng Hội đồng tóm kết những
điểm chính yếu cho một nền Giáo hội học như sau:
* Giáo hội học về sự hiệp thông được
đặt nền tảng trên sự hiệp thông của Chúa Ba Ngôi.
* Giáo hội là dấu chỉ và sức mạnh liên
kết sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại.
* Giáo hội chủ yếu là sự hiệp thông của
môn đệ Đức Giêsu, trong Ngài và giữa họ với nhau.
* Giáo hội là nơi và là biểu tượng cho
sự hiệp thông của mọi dân tộc.
Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu nền tảng
của sự hiệp thông trong Tân ước và trong truyền thống, những
phương thế xây dựng sự hiệp thông và hậu quả của sự hiệp
thông trong lãnh vực truyền giáo.
1. THEO THÁNH
MATTHÊU
Có thể nói toàn bộ chương 18 của Phúc
âm theo thánh Matthêu cho thấy Giáo hội là một thực thể xã
hội, cách tổ chức sinh hoạt được xây dựng trên chính Thiên
Chúa, Đấng kêu gọi mọi người trở thành công dân nước trời.
Để xây dựng cộng đoàn hiệp thông, thánh Matthêu đưa ra những
tiêu chuẩn sau đây :
- Sống tinh thần trẻ thơ : có nghĩa là
phải có tinh thần khiêm tốn, đơn sơ, chân thành. Sự cao
trọng đích thực của Ki tô hữu chính là biết vâng phục, tín
thác vào Chúa như trẻ nhỏ đối với cha mẹ nó.
- Đón tiếp, yêu thương, qúi trọng những
kẻ bé mọn, không làm cớ vấp phạm khiến họ xa rời hay mất
lòng tin tưởng vào Thiên Chúa. Những kẻ bé mọn ở đây là
những kẻ nghèo hèn, đói khổ (11, 25- 26), những người tội
lỗi, bị khinh khi (6, 21), những kẻ bệnh hoạn và tật nguyền
(9, 12- 13).
- Chăm sóc những người lạc đường, dấn
thân tìm kiếm những người xa lìa Thiên Chúa để đem họ về với
cộng đoàn Giáo hội. Mỗi phần tử của cộng đoàn đều có trách
nhiệm đối với người khác : không một cử chỉ, một lời nói hay
cách sống nào mà lại không có âm hưởng trên cộng đoàn dân
Chúa. Dù ý thức hay không ý thức, một Ki tô hữu thánh thiện,
đạo đức, sẽ lôi kéo cả cộng đoàn tiến tới; trái lại, một Ki
tô hữu bê tha, tội lỗi, cũng sẽ kéo cộng đoàn đi xuống. Bởi
vì không ai có thể được cứu rỗi một mình, cũng không ai bị
hư mất một mình. Một chi thể lành mạnh, cả toàn thân cảm
thấy khỏe mạnh, một chi thể yếu nhược, cả toàn thân cũng bị
ảnh hưởng đau đớn. Con sâu làm rầu nồi canh. Một con ngựa
đau, cả tàu không ăn cỏ...
- Sửa lỗi cho nhau : Đây là bổn phận
của tình yêu thương liên đới, nhằm khuyến khích nhau trong
cuộc sống đức tin, mưu cầu sự toàn thiện và ơn cứu rỗi cho
nhau.
- Sinh hoạt chung, sống liên hệ mật
thiết với Thiên Chúa và hiệp thông với Giáo hội qua kinh
nguyện và phụng vụ.
- Tha thứ cho nhau: có thể nói đây là
nét đặc trưng của Ki tô giáo. Sự tha thứ không có giới hạn,
vì ai được Thiên Chúa tha thứ cũng phải tha thứ luôn luôn.
Sự tha thứ sẽ chẳng thành thật nếu tâm hồn còn nuôi giận
hờn, cay đắng vì những bất công đã phải hứng chịu.
Như thế, qua đó chúng ta nhận thấy một
cộng đoàn đang trả lời về chính mình, về cuộc sống cụ thể
của mình, và cũng đang đi tìm nền móng cho sự hiệp thông của
mình nữa. Nền móng ấy là chính Đức Kitô, hiện thân của Thiên
Chúa, giữa cộng đoàn. Ngài hiện diện khi cộng đoàn họp nhau
cầu nguyện, Ngài hiện diện nơi mỗi người anh em, đặc biệt
nơi những kẻ bé mọn, bị khinh khi, bị đối xử bất công, khắt
khe. Và một khi đã nhận ra chính mình được Thiên Chúa tha
thứ, cộng đoàn chỉ còn giữ lại lòng nhân từ và sự tha thứ
như là luật sống, như là cách hành xử duy nhất của mình.
Trong cộng đoàn , Phêrô giữ một địa vị
quan trọng, được Đức Giêsu đặt làm nền tảng của Giáo hội
(Mt 16, 18). Chính Đức Kitô là trung tâm điểm của sự hiệp
nhất họ lại với nhau, Ngài là “viên đá góc” (Mt 21, 42).
Giáo hội là hiệp thông, vì đó là dấu
chỉ để thế gian tin. Chúa đã nói rằng nước nào chia rẽ sẽ bị
tiêu diệt, và thành hay nhà nào chia rẽ sẽ không tồn tại (Mt
12, 25).
2- THEO THÁNH GIOAN
Thánh Gioan trình bày cộng đoàn Giáo
hội như đoàn chiên của Đức Kitô, Vị Mục tử tốt lành qui tụ
tất cả trong một cộng đoàn là gia đình, dân riêng mới của
Thiên Chúa (Ga 10, 1- 18).
Giáo hội còn được sánh với cây nho mà
Đức Kitô là thân nho, các Kitô hữu là cành, nhận được sự
sống thần linh nơi Đức Kitô. Hình ảnh cây nho là hình ảnh
tuyệt diệu và sinh động của tình yêu nối kết mọi thành phần
dân Chúa: sự sống nơi Đức Kitô thông truyền cho họ và mọi
phần tử được liên kết với nhau.
Vì Giáo hội cũng là một thực thể hữu
hình, nên cũng có tổ chức, cơ cấu, trong đó, Phêrô đã được
Đức Kitô Phục sinh trao cho nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên (Ga
21, 16). Quyền chăn dắt đó được xây trên tình yêu và lòng
tin vững mạnh vào Đức Kitô. Bởi đó, Giáo hội luôn phải hướng
về đích điểm là Đức Kitô, Đấng hướng dẫn cộng đoàn Giáo hội
đến cùng Chúa Cha, vì Ngài là chủ chăn duy nhất của cộng
đoàn Giáo hội.
Các môn đệ ở trong Chúa Kitô và Chúa
Kitô ở trong các ngài (Ga 14, 20), như cành nho gắn liền với
thân cây, nhờ đó mà được liên kết, được nuôi dưỡng bởi cùng
một nhựa sống (cf. Ga 15, 1- 17). Chính vì yêu mến Chúa mà
các môn đệ có thể yêu thương và hiệp nhất với nhau. Không
phải yêu thương nhau vì Chúa bắt buộc hay vì yêu mến Chúa,
nhưng là vì yêu người là yêu Chúa.
“Con không chỉ cầu nguyện cho những
người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con,
để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở
trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ
tin rằng Cha đã sai Con. Con ở trong họ và Cha ở trong Con,
để họ được hoàn toàn nên một” (Ga 17, 20- 23).
Nguyên nhân của hiệp thông là chính
Thiên Chúa (Ga 17, 20- 21). Đức tin là tiêu chuẩn của hiệp
nhất. Sự hiệp nhất mà Đức Giêsu nguyện xin trong bữa tiệc
ly, chính là sự hiệp nhất của “những kẻ sẽ tin nhờ lời” của
các môn đệ (Ga 17, 20).
3- THEO THÁNH PHAOLÔ
Giáo hội là Thân Thể Đức Kitô (Ep; 1Cr;
Rm; Cl), được Đức Kitô yêu thương như một người bạn trăm năm
(Ep 5, 25- 28).
“Vì tất cả chúng ta đã được tái sinh
trong một Thần khí duy nhất, để trở nên một Thân Thể duy
nhất” (1Cr 12, 13). Thân thể duy nhất đó là Giáo hội, mà Đức
Kitô là đầu (Cl 1, 15- 18). Nhờ đầu mà “toàn thân được nuôi
dưỡng, được kết cấu chặt chẽ nhờ mọi thứ gân mạch và dây
chằng, và được lớn lên nhờ sức mạnh Thiên Chúa ban” (Cl 2,
19). Bởi đó, “tất cả chúng ta, dù là Do Thái hay Hy Lạp, nô
lệ hay tự do, đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần khí
để trở nên một Thân Thể”.
Do vậy, dù là bộ phận nào trong Thân
Thể đó, chúng ta cũng thuộc về Thân Thể duy nhất và liên hệ
hiện hữu với nhau. Mỗi bộ phận, tuy khác nhau, nhưng cùng
phục vụ cho một Thân Thể, do đó cũng là phục vụ lẫn cho
nhau. “Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân
thể như ý Ngài muốn. Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận,
thì làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy
nhiều mà thân thể chỉ có một. Vậy mắt không thể bảo tay:
“Tao không cần đến mày”, đầu cũng không thể bảo hai chân:
“Tao không cần đến chúng mày” (1Cr 12, 18- 21).
Nhiệm vụ căn bản của Giáo hội chính là
mọi người sống hiệp thông trong mọi sự, hay hợp nhất với
nhau mà chia sẻ mọi sự với nhau (cf. 1Cr 12, 26).
Thiên Chúa là nền tảng vừa hữu hình,
vừa siêu việt của hiệp nhất (Rm 14, 7; Ep 2, 15; 2Cr 5, 14-
15). Nguyên lý hiệp nhất là đức tin. Các tín hữu được kết
hợp với nhau vì có cùng một đức tin. Nguồn mạch sự hiệp
nhất của Giáo hội được diễn tả trong thư gởi tín hữu
Ê-phê-xô: “Chỉ có một Thân Thể, một Thần khí, cũng như anh
em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có
một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa,
Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và
trong mọi người (Ep 4, 4- 6).
Giáo hội là công trình của Chúa Thánh
Thần, là mầu nhiệm hiệp thông trong quyền năng của Thần khí
hiệp thông. Giáo hội này tiếp tục được hình thành mãi nhờ
lời rao giảng, nhờ các bí tích, các đặc sủng và sứ vụ, nhưng
trên hết nhờ đức ái.
4- THEO SÁCH CÔNG VỤ
TÔNG ĐỒ
Sách CVTĐ mô tả Giáo hội như là một
cộng đoàn những người tin vào Đức Kitô và sống trong hiệp
thông, dưới quyền cai quản của các Tông đồ, là các chứng
nhân của Đức Kitô Phục sinh, được Ngài trao quyền giáo huấn
và lãnh đạo cộng đoàn (Cv 2). Sau này, khi có nhiều cộng
đoàn được thiết lập, các tín hữu trong các cộng đoàn địa
phương vâng phục quyền giáo huấn và sự hướng dẫn của các
niên trưởng (cf. Cv 11; 14; 21).
Trong cộng đoàn Tông đồ, Phêrô là người
có uy tín và chiếm địa vị đặc biệt. Thực vậy, trong 12
chương đầu, Phêrô hầu như là nhân vật chính của các trình
thuật và các bài thuyết giáo. Phêrô cũng là người nói thay
cho các Tông đồ. Và còn hơn thế nữa, Phêrô nổi bật vì làm
được rất nhiều phép lạ, đến nỗi khi Phêrô đi đến đâu, dân
chúng đem bệnh nhân đặt bên lề đường để ít là bóng của ngài
rợp trên họ (cf. Cv 2; 3; 4; 5). Trong các vụ bách hại Giáo
hội, Phêrô bị hàng lãnh đạo Do Thái để ý và sách nhiễu nhiều
hơn các Tông đồ khác, nên đã phải vào tù ra khám nhiều lần
và phải đối chất với giới lãnh đạo Do Thái. Phêrô còn là
nhân vật chính trong các cuộc tranh luận liên quan đến việc
đón nhận dân ngoại gia nhập Kitô giáo. Ngài nhận ra dấu chỉ
Thiên Chúa muốn ngài gặp gỡ anh em ngoài Do Thái giáo và mở
rộng cửa đón nhận những ai tin vào Đức Kitô và Tin mừng (Cv
10).
Trong cuộc sống cộng đoàn, các tín hữu
thường xuyên học hỏi Lời Chúa, tham dự lễ Bẻ bánh, cầu
nguyện và giúp đỡ lẫn nhau. Chính vì vậy mà họ được kết hiệp
với Chúa và hiệp thông với nhau. Sự hiệp thông ở đây bao
hàm ba ý nghĩa chính:
- Cộng đoàn : nơi một nhóm người cùng ý
hợp tâm đồng với nhau : tuy nhiều người nhưng chỉ một lòng
một ý.
- Thông dự : thông phần, tham gia vào
một cái gì chung.
- Chia sẻ : Đóng góp.
Ý nghĩa thứ hai và ba bổ túc cho ý
nghĩa thứ nhất, như là nguyên nhân và hậu quả. Sở dĩ các
phần tử trong cộng đoàn hợp nhất với nhau là vì họ cùng chia
sẻ với nhau những yếu tố chung. Và vì cảm thấy đoàn kết hợp
nhất với nhau như vậy cho nên họ muốn xiết chặt mối dây liên
kết bằng việc chia sẻ cho nhau những tài sản của mình. Đây
là bức tranh lý tưởng mà sách Tông đồ Công vụ đã vạch ra
(cf. Cv 2, 42- 47; 4, 32- 35).
Sách CVTĐ thường nói đến những tình
trạng khác nhau của cộng đoàn như sự lớn mạnh, trưởng thành
trong lòng tin, bị bách hại, phân tán, sống yêu thương, vui
tươi, liên đới, hiệp thông trong cộng đoàn. Bên cạnh đó là
tinh thần tiếp đón niềm nở, can đảm trong gian nan thử thách
và mở rộng tâm trí cho những chân trời mới, những vấn đề
mới. Qua đó, sách CVTĐ đã trình bày một bức tranh vô cùng
phong phú về cuộc sống tín hữu trong cộng đoàn tiên khởi, là
kiểu mẫu cho mọi cộng đoàn Giáo hội ngày nay.
Giáo hội là hiệp thông vì cùng chia sẻ
một niềm tin, cậy, mến, dựa trên Lời Chúa và Thánh Thể, cũng
như họa theo sự hiệp thông, yêu mến, liên kết của một Thiên
Chúa Ba Ngôi, tuy không xóa bỏ những nét cá biệt của mỗi
Ngôi vị.
Ta không thể chấp nhận sự hiệp thông
của Giáo hội vô hình và sự chia rẽ của Giáo hội hữu hình.
Không có hai Giáo hội. Giáo hội là một cộng đoàn hữu hình và
một cộng đoàn thiêng liêng (LG, số 8). Đức Giêsu đã muốn
rằng sự hiệp nhất của các môn đệ phải là dấu chỉ khả tín cho
thế gian (Gio 17, 23). Vì thế, người khác phải có thể nhìn
thấy sự hiệp nhất đó. Nền tảng của Giáo hội là vô hình:
Thánh linh, ân sủng, các bí tích, … Nhưng mặt kia là hữu
hình và còn đòi hỏi phải có yếu tố hữu hình: không có ấn
tích Rửa tội nếu không có lễ nghi đổ nước. Lời cầu nguyện
của Đức Kitô hướng về sự hiệp nhất giữa các môn đệ sống
trong trần thế; những lời kêu gọi của thánh Phaolô trong 1Cr
nhắm vào một cộng đoàn cụ thể; việc thánh Phaolô đề phòng
những người Rôma (Rm 16, 17), người Corintô (2Cr 12, 20)
khỏi “những chia rẽ và gương xấu”, mà ngài coi như là “công
việc của xác thịt” (Gl 5, 19-20), đó là những cái cụ thể có
thể thấy được.
Do đó, sự hiệp nhất Giáo hội phải hữu
hình, nếu không thì không còn là hiệp nhất nữa.
GSVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
|
Tháng Tư Saigòn độ nầy nóng bức. Theo kinh nghiệm cá nhân
trong quá khứ hoặc hiện tại, người nầy gọi là tháng Tư đen,
người kia gọi là tháng Tư đỏ, người khác gọi là tháng tăng
nhiệt. Trong tháng đen đỏ và tăng nhiệt nầy, những gì tôi
đọc được từ những tiếng nói khác nhau qua thư tín hoặc qua
phương tiện truyền thông, mở đường cho tôi chia sẻ mấy suy
nghĩ về công cuộc bảo vệ tự do và xây dựng hoà bình trong
thế giới hôm nay.
Cao quý thay lẽ sống vì tự do và hoà bình cho nhân loại, vì
sự sống và hạnh phúc của mọi người anh em đồng bào và đồng
loại! Xem ra trong thế giới toàn cầu hoá ngày nay, mọi người
thiện tâm, tư bản hay cộng sản, ai ai cũng ước mơ và chọn lý
tưởng đó. Nếu lý tưởng đã được thống nhất, thì điều còn lại
là phân định tình hình, chọn đường lối thích hợp, và kiên
trì thực hiện.
1.Tình hình thế giới hôm nay
Điều nghịch lý là trong thế giới hôm nay gọi là văn minh
tiến bộ lại thường xuyên phát sinh khá nhiều bạo lực khủng
bố và chiến tranh! Bạo lực từ trong gia đình đến trường học
và công sở, từ trên màn hình đến trên mạng internet, từ
Trung tâm thương mại thế giới trên đất nước của nữ thần Tự
Do đến Tiểu Á và các châu lục. Bạo lực đối kháng nhỏ, gọi là
bạo hành trong gia đình, phá thai, ly dị, “bịt miệng”, “cạy
răng”, vu khống, đe dọa, đấu đá, bắn tẻ, bất công, áp bức,
ép cung, tra tấn, quản chế, tù đày… Bạo lực đối kháng lớn
gọi là chuyên chế đàn áp, chiến tranh xâm lược hoặc tự vệ,
chiến tranh vũ khí, chiến tranh kinh tế, cá lớn nuốt cá bé…
Dưới bất cứ hình thức nào, bạo lực đối kháng vẫn là con
đường hủy diệt lẫn nhau. Tại sao trong thế giới gọi là văn
minh tiến bộ lại có nhiều người, nhiều tổ chức lớn nhỏ, lựa
chọn con đường đó? Và đâu là nguyên nhân của lựa chọn? Tâm
lý học cho rằng hành vi của con người được hình thành trên
cơ sở di truyền và tính khí, ý thức và tự do, văn hoá và môi
trường.
Với kinh nghiệm lâu dài của mình, người Israel mà ta thường
gọi là Do Thái, nhận thấy rằng nguyên nhân của bạo lực khủng
bố và chiến tranh giữa những sắc tộc khác nhau, song cùng
thờ một Chúa, một lý tưởng, không phải là niềm tin vào một
Chúa, một lý tưởng, song là do thiếu nhận thức, thiếu tìm
hiểu học hỏi, thiếu nghiên cứu thấu đáo, nên phe nầy cho
rằng Chúa mình, lý tưởng mình đúng hơn Chúa, lý tưởng của
nhóm kia. Thiếu giáo dục, thiếu rèn luyện đạo đức, tính đối
kháng cố hữu trong con người điều khiển hành vi của họ và
dẫn họ đi đến con đường bạo lực đấu đá, rồi loại trừ nhau.
Như thế, nguyên nhân sâu xa của bạo lực khủng bố và chiến
tranh là vì con người thiếu ý thức và tự do trong trách
nhiệm giáo dục bản thân và niềm tin của mình. Sự phân rẽ và
bất ổn trong gia đình thờ một Chúa, trong tổ chức hay sắc
tộc theo một lý tưởng, xem ra cũng do cùng một nguyên nhân.
Những người có kinh nghiệm nuôi gà chỉ ra một nguyên nhân
khác xem ra khá phổ biến trong xã hội công nghiệp hoá và cơ
giới hoá ngày nay. Gà ta được thả đi ăn ngoài vườn, thì kiếm
ăn vui vẻ, thịt lại ngon. Gà công nghiệp bị nhốt dày đặc
trong một ô chuồng chật hẹp, lâu ngày sanh ra bực bội, phát
điên lên và mổ nhau liên tục. Tạm gọi đó là bệnh gà công
nghiệp, một thứ dịch cúm gia cầm rất dễ lây lan. Như thế,
nguyên nhân của lựa chọn bạo lực và khủng bố có phải vì
nhiều nơi trên thế giới ngày nay đã trở thành chuồng gà công
nghiệp?
Nếu tất cả nguyên nhân trên định hình cho hành vi lựa chọn
của con người, thì đâu là vai trò giáo dục trong gia đình và
trong cộng đoàn, trong học đường và trong xã hội? Phải chăng
cần xét lại chủ trương, đường lối giáo dục ở những nơi đó?
Dân tộc Nhật Bản có nhiều kinh nghiệm trong công cuộc đổi
mới giáo dục nầy. Họ có kinh nghiệm xây thêm nhà trường để
giảm bớt nhà tù.
2. Con đường Đức Giêsu chọn cho
mình
Khi linh cảm Thầy mình trở thành đối tượng của bạo lực, nhóm
môn đệ của Chúa đã làm gì?
-
Người thì theo chủ nghĩa thực dụng và thời cơ, như
Giuđa, trở mặt phản Thầy, bán Thầy.
-
Người thì theo tập quán dùng bạo lực chống lại khủng bố,
như Phêrô, lúc đầu sắm gươm tự vệ, sau nghe theo lời
Thầy bỏ gươm, cảm thấy không an toàn, rồi chối Thầy.
-
Những vị khác, cảm thấy niềm tin không còn chỗ dựa, nên
hoảng sợ, tháo chạy, bỏ rơi Thầy.
-
Chỉ có Gioan đồng hành với Đức Maria là theo Thầy từ xa
đến tận dưới chân thập giá.
Còn Đức Giêsu, khi bị xử oan sai và bị hành hình cách bất
công, trước sau vẫn một mực bao dung đối với bạo lực, cho dù
Ngài có đủ lực lượng thiên binh để “bịt miệng”, để loại trừ
những kẻ phản bội, những kẻ vu khống và bất công kết án
Ngài. Và sau khi Phục Sinh, Ngài cũng vẫn bao dung quy tụ
các môn đệ lại, trao ban bình an và Thánh Thần là nguồn lực
tình yêu cho các ông, các ông đón nhận rồi dần dần mới hoàng
hồn và được Tình Yêu đổi mới thành chứng nhân can trường của
Tin Mừng Chúa Phục Sinh.
Có đủ lực lượng thiên binh để khoá miệng những kẻ vu khống,
để loại trừ những kẻ bất công kết án và hành hình mình, tại
sao Đức Giêsu không chọn con đường bạo lực để tiêu diệt họ?
Phải chăng vì sứ mạng của Ngài là đến để mọi người được sống
và sống dồi dào? Phải chăng vì Ngài đã chọn con đường khác,
là đường Tình Yêu có sức vạn năng hoán cải và đổi mới con
người? Phải chăng vì chọn con đường bạo lực đối kháng là lọt
vào vòng lẫn quẫn không có lối ra như những kẻ giết hại
Ngài? Lịch sử xác minh rằng những kẻ độc tài, bạo chúa và
hận thù không tồn tại lâu dài, còn Ngài và Tình Yêu thì tồn
tại không chỉ cho đến tận cùng thời gian, song mãi mãi. Hình
như nhiều người thiện tâm, vì vẫn bị kẹt trong thế đối kháng
và trong quán tính sử dụng bạo lực, nên không thể ý thức và
tự do lựa chọn con đường tình yêu hoán cải và đổi mới của
Ngài!
3. Một bài học lịch sử hôm nay
Giống như Việt Nam, và còn hơn Việt Nam, dân tộc Do Thái
trãi qua nhiều thời kỳ chiến tranh hủy diệt, gần nhất là thế
chiến II và cuộc chiến dai dẳng hiện nay. Bí quyết nào, sức
mạnh nào giúp họ tồn tại? Người Do Thái xác tín rằng bí
quyết và sức mạnh giúp họ không những tồn tại mà còn phát
triển vững bền, không phải là súng đạn, bạo lực và khủng bố,
song là niềm tin vào Thiên Chúa của Abraham, Isaác và
Giacóp. Và họ xác quyết rằng bí quyết bảo vệ tự do và sức
mạnh xây dựng hoà bình vững bền, đó là giáo dục con người và
củng cố niềm tin trong gia đình cũng như trong cộng đồng xã
hội. Giáo dục toàn diện mọi mặt, trí dục, thể dục, kỹ dục,
đức dục.
4. Thực hành
Với niềm tin Ngôi Cha là Tình Yêu, Ngôi Con là hiện thân của
Tình Yêu, Ngôi Thánh Thần là nguồn lực Tình Yêu, Giáo Hội
công giáo trên khắp hoàn cầu, trong nước tư bản cũng như
cộng sản, đã chọn cho mình con đường Tình Yêu đổi mới, con
đường bao dung, đối thoại thẳng thắn và hợp tác lành mạnh
với mọi người thiện tâm nhằm xây dựng một cộng đồng nhân
loại mới sống những giá trị Tin Mừng, sống và làm chứng cho
sự thật và công bằng, sống và làm men thánh thiện và hiệp
nhất, sống và làm ánh sáng chiếu toả yêu thương và bình an
của Chúa.
Nếu thấy rằng không có con đường nào khác có hiệu quả hơn
cho công cuộc bảo vệ tự do và xây dựng hoà bình lâu dài
trong ngôi nhà toàn cầu hoá hôm nay, người thiện tâm cảm
thấy có trách nhiệm gì trong công cuộc giáo dục đổi mới con
người và củng cố niềm tin đối với con em và thế hệ hậu sinh,
đối với đồng đạo, đồng bào và đồng loại? Có thể làm gì, để
có đủ sức chu toàn sứ mạng vừa cao cả vừa khó khăn nầy?
(Chúa Nhật Người Mục Tử nhân lành, 29.4.2007)
+ HY GB. Phạm Minh Mẫn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
KINH NGHIỆM GÓP NHẶT
TRÊN ĐƯỜNG ĐỜI TÔI |
Tác phẩm "Giáo hội
cần loại Linh mục nào"?
Lm Giuse Lê Công Đức
chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD IMPERILED,
Tác giả:
BERNARD HARING, C.SS.R.
Dù được ý thức hay không, các kinh
nghiệm sống của chúng ta sẽ ảnh hưởng trên cách nghĩ và
cách cảm nhận của chúng ta về thực tại. Suy tư về những kinh
nghiệm – cả tích cực lẫn tiêu cực - có thể là một công việc
đầy bổ ích để hiểu sâu xa hơn cách thức Thiên Chúa hiện diện
và hướng dẫn chúng ta trên hành trình đức tin của mình. Mang
hoài bão ấy, khi kết thúc 56 năm linh mục của mình, tôi muốn
suy tư ở đây về các kinh nghiệm của chính tôi - cũng như về
cách mà những kinh nghiệm đó đã giúp tôi khám phá và tiếp
tục thăng tiến ơn gọi linh mục của mình.
Khám phá ơn gọi của
tôi
Đầu tiên, một điều thật chắc chắn:
Những kinh nghiệm ấu thời của tôi với cha sở, một con người
trung bình về mọi tiêu chuẩn, không gợi ra nơi tôi ý tưởng
nào hay niềm khát khao nào muốn bắt chước ngài. Tuy nhiên,
vào thời ấy, với chức thánh, vị mục tử được đoàn chiên nhìn
nhận như một con người cao cả trỗi vượt, một thứ ông chủ, và
là một trong những người được kính trọng nhất trong thị xã,
cha sở là con người đưa ra phán quyết cuối cùng về mọi sự –
dù phán quyết đó đúng hay sai.
Ngay từ hồi còn bé tẻo teo, tôi đã có
một kinh nghiệm hãi hùng về con chó của cha sở. Không biết
vì lý do gì, nó ghét cay ghét đắng tôi. Không giống như các
thiếu nhi được cha sở đưa vào khuôn khổ răm rắp trong lớp
học, con chó dữ tợn ấy được cho phép đi lang thang tùy
thích. Không may, con đường từ nhà tôi đến trường phải đi
ngang nhà xứ! Những lúc đi một mình, tôi tự võ trang bằng
vài cục đá để tự vệ, phòng chống khả năng con chó có thể tấn
công bất cứ lúc nào.
Vào một ngày như thế, con chó của cha
sở chứng tỏ thế “thượng phong” của nó và tấn công tôi. Nó
cắn đúng vào chỗ kín của tôi. Hoảng sợ, tôi chạy về nhà với
mẹ, khóc bù lu bù loa suốt con đường. Sau khi săn sóc vết
thương cho tôi, mẹ dẫn tôi đến nhà xứ và xin gặp cha sở để
ngài tận mắt chứng kiến những gì con chó hung dữ của ngài đã
gây ra cho tôi. Người giúp việc của ngài lạnh lùng trả lời:
“Con Ki không vô cớ tấn công ai bao giờ!”
Thế đấy! Bạn thử
tưởng tượng đi.
Tuy nhiên, tôi rất mừng để nói rằng khi
cha sở thấy tôi trong tình trạng thê thảm như vậy, ngài tỏ
vẻ cảm thông. Ngài cố an ủi tôi, rồi trao cho mẹ tôi một món
tiền để mua cho tôi một cái quần mới. Nhiều năm sau, khi
giảng tĩnh tâm cho các linh mục, tôi đã chia sẻ một bài suy
niệm với đề tài “Con Chó Của Cha Sở” - dựa vào câu chuyện
thời thơ ấu ấy của mình.
Họa vô đơn chí, đó không phải là kinh
nghiệm cuối cùng của tôi với con chó kia. Vào giai đoạn đói
kém ở Đức thời hậu chiến, tôi là một linh mục trẻ, phờ phạc
dấu vết chiến tranh, trở về vùng quê ấy để giúp Mùa Chay.
Vừa nhác trông thấy con chó ác ôn ngày trước - bấy giờ đã to
mập hơn và hỗn láo hơn! - tôi cảm thấy sôi sục trong lòng.
Dù tôi không tỏ ra một dấu hiệu gì ác cảm với nó, con chó
vẫn gầm gừ khiêu khích. Rồi sau đó – vào khoảng nửa đêm, khi
tôi giải tội về muộn - nó đã ra tay! Số là, trong bóng đêm
tối mịt, tôi đứng đợi ở cửa nhà xứ, phía gần với khu vườn
chỗ con chó hay đi qua và sủa la inh ỏi; tôi hy vọng sẽ có
ai đó nghe tiếng nó và can thiệp. Vì chẳng ai chú ý, tôi
đánh liều mở cửa và lập tức bị con chó độp một phát vào cổ.
Hoảng hồn, tôi kêu thét lên. Nhưng một lần nữa, tôi hết sức
ngạc nhiên và không thể tin vào tai mình khi nghe có tiếng
nói vọng ra: “Con Ki không bao giờ vô cớ bắt nạt ai.” Sau
này, có nhiều dịp lui tới rất nhiều nhà xứ, tôi ghi nhận
rằng mình đã gặp rất nhiều con chó thân thiện, phản ảnh đúng
những cha sở thân thiện - giống như con Ki phản ảnh rất đúng
chủ của mình.
Kinh nghiệm thực tế đầu tiên của tôi
với cha sở quê mình – xét trong tư cách là thầy dạy - đã xảy
ra khi tôi tham dự lớp giáo lý của ngài. Là một con người
rất nghiêm khắc, ngài thường giận dữ đến độ bất nhẫn, sử
dụng đòn roi để kiểm soát và quản lý đám học sinh – không
khác mấy với nhiều nhà giáo thời ấy. Đó là một trong những
lý do khiến tôi không bao giờ gần gũi ngài, cũng không nhận
được ấn tượng gì từ cung cách ngài giảng dạy đức tin Công
Giáo.
Năm lên chín tuổi, tôi và các bạn cùng
lớp được giúp sửa soạn rước lễ lần đầu, và biến cố này trở
thành một kinh nghiệm không vui gì đối với tôi. Để đảm bảo
rằng bọn nhóc sẽ xưng tội cách trọn vẹn, cha sở kể câu
chuyện kinh khủng sau đây – câu chuyện làm tôi sợ điếng
người:
Thầy tu già nọ qua đời một cách rất
thánh thiện. Sau bài kinh “Requiem”, vị tu viện trưởng bắt
đầu bài điếu văn ca ngợi người quá cố. Bỗng dưng, có một
tiếng thét lớn từ trong quan tài:
-“Ngừng! Ngừng! Xin hãy ngừng những
lời nói vô nghĩa ấy! Tôi đang ở trong hỏa ngục.”
-“Ủa, sao lạ kỳ thế?”, tu viện
trưởng hỏi.
Người chết trả lời: “Dạ, lúc con
xưng tội lần đầu, vì xấu hổ, con đã giấu đi một tội!”
Quá run sợ, tôi đã lấy giấy bút, ghi ra
một bảng liệt kê dài ngoằng các tội – tội thực và tội tưởng
tượng – và bắt đầu xưng thú với hy vọng ‘vuốt giận’ được
Thiên Chúa, vị Thiên Chúa mà tôi hình dung là rất khắc
nghiệt và sẵn sàng tống cổ tôi xuống hỏa ngục bất cứ lúc
nào. Niềm háo hức trước đó của tôi đối với bí tích này chợt
tắt ngúm ... cho tới khi một cha giải tội khôn ngoan của một
tu viện gần đó đã cứu tôi.
Đối lập lại với kinh nghiệm nói trên,
tôi có những ký ức dễ thương về người mẹ rất khôn ngoan của
mình. Mỗi buổi tối mùa đông, mẹ đọc cho tôi nghe những đoạn
Tân Ước đầy cảm kích, những câu chuyện về cuộc đời các
thánh, và nhất là những mẩu chuyện về các nhà truyền giáo
được viết phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi. Thật vậy, bố mẹ
tôi đặc biệt quan tâm đến những tin tức về hoạt động truyền
giáo ở nước ngoài. Tình yêu và lòng quan tâm của bố mẹ đối
với công cuộc truyền giáo là hạt giống nuôi dưỡng nơi tuổi
trẻ của tôi một khát vọng trở thành nhà thừa sai rao giảng
Tin Mừng tại Phi Châu hay Á Châu. Đó là niềm cảm hứng pha
trộn giữa chất lãng mạn của tuổi trẻ và một nhận thức nghiêm
túc về ý nghĩa của việc rao giảng Tin Mừng.
Khi tôi lên mười tuổi, việc chuẩn bị
rước lễ lần đầu đã được cha sở làm một cách khá hơn. Sau mẹ
tôi, chính chị Constantine là người đã giúp tôi nhiều nhất.
Mẹ tôi ủy thác tôi cho sự ân cần hướng dẫn của chị
Constantine – và vào hôm Rước Lễ lần đầu, tôi cảm thấy rất
tự tin để nói với chị: “Em muốn trở thành một vị thánh.”
Không chút tham vọng nào, nhưng vốn có tấm lòng và sự khôn
ngoan của một giảng viên giáo lý đích thực, chị tôi đã trả
lời một cách đơn sơ: “Nên lắm chứ!” Theo cách nghĩ của tôi,
tôi thấy chị Constantine vượt xa cha sở nhiều năm ánh sáng
về việc rao giảng cho tôi Tin Mừng ơn cứu độ. Và rõ ràng,
chị đã bước đi trên con đường của Đức Kitô; rồi ở tuổi 51,
chị qua đời một cách thánh thiện trong tư cách là một nữ tu
Phan Sinh.
Gần 12 tuổi, có lần trong một khoảnh
khắc lắng đọng, tôi sà lại chỗ mẹ tôi và hỏi: “Mẹ ơi, mẹ
nghĩ gì nếu con trở thành một nhà truyền giáo – dù con biết
mình phải cố gắng rất nhiều để đạt được điều đó?” Âu yếm
nhìn tôi, mẹ khích lệ: “Bernard con, không có vị thánh nào
từ trên trời rơi xuống cả. Điều mà những người khác làm được
thì – với sự trợ giúp của ơn Chúa - con cũng sẽ làm được.”
Kể từ giây phút đó, tôi quyết tâm hiện thực hóa giấc mơ thừa
sai của mình. Tuy vậy, ở lứa tuổi đó, ý niệm làm ‘linh mục ‘
còn quá xa vời đối với tôi. Hình ảnh linh mục bằng xương
bằng thịt của cha sở địa phương đã không hấp dẫn tôi chút
nào, nhưng ý niệm về một nhà thừa sai rao giảng Tin Mừng thì
ngập tràn trong đầu óc non trẻ của tôi, với bao hình dung
tuyệt vời. Đằng sau niềm hy vọng ấy, dấu hỏi căn bản vẫn còn
nguyên đó với tôi: “Trở thành một vị thánh! Tại sao không?”
Ít lâu sau, niềm hy vọng truyền giáo
của tôi được củng cố mãnh liệt bởi các cha Dòng Chúa Cứu Thế
khi các ngài đến giảng tuần đại phúc tại giáo xứ. Tôi có ấn
tượng đặc biệt với Cha Leonard Eckl, người về sau đã trở
thành một nhà truyền giáo và được bầu làm Bề Trên Giám Tỉnh
Dòng Chúa Cứu Thế ở Brazil. Ngài có đặc sủng đặc biệt về
việc khơi gợi và nâng đỡ các ơn gọi trong thanh thiếu niên.
Các câu chuyện của ngài về những chuyến đi truyền giáo trên
lưng ngựa để cử hành các bí tích và rao giảng về một Thiên
Chúa tình yêu tại một số vùng của đất nước ấy đã thu hút sự
chú ý của tôi cách mãnh liệt và đã củng cố nhiệt tâm nơi
tôi.
Nhiều năm sau, khi sắp hoàn thành học
trình tú tài, tôi đã manh nha nghĩ đến việc trở thành một
nhà truyền giáo Dòng Tên. Số là, tôi rất ngưỡng mộ nhiệt
huyết truyền giáo của các vị ấy: trở thành mọi sự cho mọi
người tại các vùng đất Aù Châu. Tìm hiểu chương trình huấn
luyện của dòng này, tôi được biết rằng sau giai đoạn tập, có
hai hướng được mở ra: các sinh viên có năng lực được khuyến
khích trở thành giáo sư, còn những sinh viên trung bình thì
được mời gọi đi truyền giáo. Biết được điều này, niềm thích
thú của tôi đối với Dòng Tên chợt tan biến – vì tôi muốn
(song đã không đạt được) sự bảo đảm rằng mình sẽ trở thành
một nhà truyền giáo chứ không phải là một giáo sư.
Bỏ cuộc với Dòng Tên, tôi tìm đến tham
vấn vị Bề Trên Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế và dọ ý xem ngài
có thể bảo trợ cho tôi trở thành một nhà truyền giáo hay
không. Hết sức nghiêm túc, ngài nói rằng ngài có thể cung
cấp cho tôi 90 phần trăm cơ hội để tôi hiện thực hóa giấc mơ
của mình. Với đầy lòng xác tín, tôi gia nhập và hoàn thành
giai đoạn tập của mình, rồi không lâu sau đó tôi được chỉ
thị học tiếng Bồ Đào Nha và nghiên cứu văn hóa Brazil. Cho
tới lúc được truyền chức linh mục, tôi đã được chuẩn bị sẵn
sàng để sống cuộc đời thừa sai và tôi hân hoan xác tín rằng
đó là con đường cụ thể để tôi sống đời linh mục của mình.
Thánh
lễ mở tay
Cùng với John Flad – là bạn và là anh
họ của tôi - tôi thụ phong linh mục vào tháng 5, 1939. Còn
nhớ, hồi tôi bắt đầu học thần học, mẹ của John (cũng là vú
đỡ đầu của tôi) nói với anh ta: “Nếu Bernard, bạn con, dám
học thần học, tại sao con không dám hở?” Ở đây có thể nói
thêm rằng tôi vốn luôn được coi là kẻ dám liều hơn John;
chắc hẳn cũng vì vậy mà tôi không được kể là một anh chàng
ngoan ngoãn lắm. Điều thú vị là khá lâu trước những cải cách
của Công Đồng Vatican II, John và tôi đã hăng hái bênh vực
cho việc canh tân phụng vụ. Vì thế, xét rằng cả hai cùng
đồng hành với nhau trong suốt những năm chủng viện, chúng
tôi không thể hình dung mình không được phép dâng thánh lễ
mở tay đồng tế với nhau. Tuy nhiên, không phải là những kẻ
phản loạn, chúng tôi chỉ phê phán các qui định đó một cách
ôn hòa mà thôi. Thật tiếc, mỗi chúng tôi phải làm lễ riêng,
người này sau người khác, tại giáo xứ nhà quê của mình.
Hôm ấy trời trút mưa tầm tã, chúng tôi
tự hỏi đó là điềm gì vậy. Vì John và tôi đều là những con
người lạc quan, nên chúng tôi giải thích rằng cơn mưa ấy là
một dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa tuôn tràn trên chúng tôi
- để chúng tôi có thể trổ sinh dồi dào hoa trái.
Ít lâu sau, lúc tôi chuẩn bị mua vé tàu
đi Brazil, Bề Trên Giám Tỉnh bất ngờ gõ cửa phòng tôi – và
tôi hết sức ngạc nhiên về vinh dự này. Đây chính là vị giám
tỉnh sáu năm trước đã bảo rằng tôi không cần phải sợ trở
thành một giáo sư – và ngài cũng là người thầy đã hướng dẫn
tôi học tiếng Bồ Đào Nha và nghiên cứu văn hóa Brazil sau
khi tôi khấn lần đầu. Té ra, cơn mưa hồng phúc dịp tôi thụ
phong linh mục trở thành một gáo nước lạnh dội lên đầu tôi,
khi tôi nghe vị giám tỉnh chậm rãi nhấn từng tiếng: “Khi các
giáo sư của anh nghe biết anh được chỉ định đi Brazil, họ tỏ
ra rất bức xúc với tôi. Họ muốn anh tiếp tục học để lấy học
vị tiến sĩ thần học luân lý.” Giật mình, tôi trả lời: “Thưa
Bề Trên, một yêu cầu như thế chỉ có thể là sự chọn lựa cuối
cùng của con thôi.” Tôi cũng thẳng thắn trình bày thêm rằng
tôi không ‘kỵ’ gì hơn việc phải học đào sâu loại thần học
luân lý mà mình đã được dạy cho trong chương trình đào tạo.
Giám Tỉnh lập tức trả lời: “Vì thế, chúng tôi muốn có sự
thay đổi. Vả lại, anh không phải đi học ở Rôma đâu! Anh có
thể chọn giữa Tubingen và Munich.”
Dù rất trân trọng sự tín nhiệm lớn lao
mà các giáo sư dành cho khả năng trí thức của mình, tôi vẫn
rất thất vọng vì các mơ ước và dự định của mình xem như đã
hoàn toàn sụp đổ. Chỉ sau này khá lâu tôi mới nhận ra rằng
lúc đó bề trên đã trao cho mình một sứ mạng thật quan trọng:
tôi phải cố gắng hết sức mình để làm cho việc giảng dạy thần
học luân lý thực sự trở thành một phần cốt yếu trong công
cuộc rao giảng cho mọi người Tin Mừng về quyền năng và sự
hiện diện cứu độ của Thiên Chúa. Vả chăng, lúc đó tôi không
thể nào thấy trước rằng việc học và những kinh nghiệm của
mình sau này trong chiến tranh sẽ giúp tôi có nhiều cơ hội
để thực sự trở thành một nhà truyền giáo như mình vẫn ước
mơ.
Trong
ngành y tế
Được phép chọn lựa, tôi đã chọn học ở
Đại Học Munich dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Theodore
Steinbuckel; đây chính là một nhà tiên phong trong công cuộc
canh tân thần học luân lý. Đề tài tôi được giao để làm luận
văn tiến sĩ là: “Thánh và Thiện - hay mối Quan Hệ giữa
Tôn Giáo và Luân Lý.” Tuy nhiên, chưa kịp bắt tay vào
luận văn này thì tôi đã trở thành một trong những linh mục
đầu tiên được gọi nhập ngũ vào quân đội Đức. Theo qui định
của Bản Thỏa Ước giữa nhà nước với Rôma, các linh mục có thể
được gọi nhập ngũ nhưng chỉ để phục vụ trong tư cách là
những nhân viên y tế mà thôi. Đơn vị huấn luyện mà tôi được
bố trí vào hầu như gồm toàn là các linh mục, bác sĩ và sinh
viên y khoa. Tất cả chúng tôi sống với nhau trong bầu khí ấm
tình huynh đệ – và tất cả đều chia sẻ nỗi căm ghét đối với
cuộc chiến tranh phi nghĩa này.
Có một anh hạ sĩ nọ trong đơn vị tôi,
tính tình rất chất phác, nhưng đồng thời cũng có nhiều mặc
cảm tự tôn. Lần nọ, anh ta ra lệnh cho một linh mục phải vừa
chạy dọc suốt chiều dài sân vừa la lớn: “Tôi là một thằng
ngốc!” Chấp hành mệnh lệnh, anh linh mục ấy cắm cổ chạy và
lém lỉnh la thật to: “Thưa hạ sĩ! Đúng, đúng! Hạ sĩ là một
thằng ngốc!” Sự táo bạo ấy của anh bạn linh mục đã đem lại
cho chúng tôi một trận cười nghiêng ngả – và nó cũng giúp
đào sâu tình đồng đội của chúng tôi. Hơn nữa, câu chuyện ấy
cũng cho thấy rằng các linh mục không ngu đần cũng không
nhát đảm. Họ cũng không hề nghèo khiếu hài hước!
Là lính cứu thương, chúng tôi được qui
định không bao giờ được phép làm bất cứ gì thuộc sứ vụ linh
mục, trong bất luận trường hợp nào. Ai vi phạm điều lệnh ấy
có thể phải nhận hình phạt tới chín năm tù. Tôi tự nhủ mình
sẽ vi phạm điều lệnh ấy bất cứ khi nào có dịp cho mình vi
phạm – tôi vốn đã chẳng từng mang tiếng là một anh chàng
‘bướng bỉnh’ đó sao! Trong cuộc chiến tranh kéo dài với Nga,
tôi phục vụ trong bộ binh với tư cách là một trung sĩ cứu
thương. Rất nhiều trường hợp, tôi mang về tuyến sau những
người lính bị thương ở mặt trận, và tôi luôn luôn sẵn sàng
phục vụ cho bất cứ ai cần đến sự săn sóc y tế. Qua thái độ
sẵn sàng ấy của tôi, người ta nhận thấy rằng tôi thực sự là
“một người trong họ” – và cũng nhờ đó, tôi nhận được sự tín
nhiệm của họ ngày càng hơn.
Đàng khác, cũng có nhiều người quá
khích luôn luôn tỏ thái độ khinh miệt các linh mục. Một hôm,
một đại úy đã lăng nhục tôi trước mặt nhiều người lính. Tôi
điềm tĩnh nói với anh ta: “Nếu một ngày nào đó anh cần sự
giúp đỡ, tôi sẽ sẵn sàng. Xin anh đừng quên nhé!” Vài tuần
sau, chuyện xảy ra là tôi mang chính viên đại úy ấy từ mặt
trận về tuyến sau trong một cuộc tải thương ‘thập tử nhất
sinh’ cho chính bản thân tôi – tôi chăm sóc vết thương cho
anh ta một cách tận tình. Nước mắt ràn rụa, viên đại úy xin
tôi tha thứ về sự xúc phạm của anh đối với tôi. Kinh nghiệm
này đã giúp tôi thấy rõ hơn ý nghĩa của mấy tiếng “một người
trong chúng ta”, một ý nghĩa được đào sâu thấm thía trong
suốt cuộc chiến tranh ấy.
Đức Kitô, Con Người, là “một người
trong chúng ta” cho hết mọi người không trừ ai. Cũng vậy,
với tất cả niềm xác tín của mình, tôi đã chọn lựa vượt qua
mọi biên giới quốc gia. Mùa đông 1940-41, đơn vị tôi đóng
quân ở Normandy, nơi mà ban đầu rất nhiều gia đình Pháp và
các linh mục địa phương đã coi tôi như một người bạn của họ.
Bất chấp luật cấm của chế độ Đức Quốc xã, Chúa Nhật nào tôi
cũng cử hành Thánh Lễ trọng thể trong Nhà Thờ Chính Tòa
Bayeux, cho các quân nhân của chúng tôi và cho cả dân chúng
địa phương của vùng đó. Vốn bị đói khát về tâm linh do hoàn
cảnh chiến tranh, người ta đến tham dự thánh lễ mỗi tuần mỗi
đông hơn. Chắc hẳn nhiều người trong họ không thể lường hết
được sự liều lĩnh của tôi khi thi hành sứ vụ của mình như
thế!
Một ngày Chúa Nhật, tôi cưỡi xe đạp vào
thị xã và, trên đường, tôi gặp viên sĩ quan chỉ huy ở
Bayeux, ông gọi tôi lại. Tôi bồn chồn tự hỏi có phải ông ta
muốn hạch tội mình về sự vi phạm của mình không. Và tôi sung
sướng thở phào khi ông nồng nhiệt chào tôi và nói rằng ông
cũng sẽ giúp tôi trong chuyện làm lễ ấy. Thêm nữa, ông còn
ngỏ ý gửi đội quân nhạc tới để giúp cho Thánh Lễ thêm phần
long trọng. Thế là từ đó ông cho người đưa tôi đến Nhà Thờ
Chính Tòa bằng xe hơi! Rõ ràng, do nhận hiểu sự bất công của
luật, viên chỉ huy này đã thể hiện một tinh thần cương trực
và can đảm khi dám gạt luật qua một bên – ví ích lợi của mọi
người.
Trong những tháng tiếp theo sau, các
đường ranh giáo phái sụp đổ rất ngoạn mục. Một hôm, một nhóm
quân nhân Tin Lành đến gặp tôi và ngỏ ý xin tôi tổ chức một
buổi tối học hỏi Thánh Kinh với họ. Suốt thời gian ở đơn vị
này, tôi đã gặp họ đều đặn và tình thân của chúng tôi ngày
càng được đào sâu. Vào thời gian trước khi bùng nổ cuộc
chiến tranh với Nga, tôi đảm nhận việc cử hành Thánh Thể và
giải tội chung cho các quân nhân thuộc các Giáo Hội khác
nhau, và đa số trong họ đã tham dự. Trong tình hình khẩn
trương lúc ấy, và với cảm nghiệm sâu sắc rằng tất cả chúng
tôi là một trong Đức Giêsu Kitô, tôi nhận thấy quả là điều
hết sức kỳ quái và tởm gớm việc kiên quyết duy trì sự phân
biệt giữa người Tin Lành và người Công Giáo. Mọi người chúng
tôi, bất kể thuộc niềm tin nào, đều cảm thấy được mời gọi
chia sẻ trong mối hiệp thông. Vào một dịp khác, tôi nói với
các người bạn Tin Lành của tôi rằng vị mục tử chính thức của
họ chắc chắn sẽ đến để săn sóc họ, nhưng câu trả lời của họ
là: “Thưa cha, thực sự chẳng có lý do nào để tạo ra bất cứ
sự thay đổi nào cho chúng tôi cả, vì cha là ‘một người trong
chúng tôi!’” Vâng, trở thành một người giữa những người
khác – đó là một niềm vui và là đặc ân lớn lao hơn bất
cứ cảm nghiệm nào khác mà tôi có được trong thời chiến, và
tôi đã có nhiều dịp để kinh nghiệm lại điều này.
Tôi đã có những cơ hội tuyệt vời để
cung ứng sự trợ giúp – cả về y tế lẫn về tâm linh - cho
nhiều anh em Chính Thống Nga cũng như Ucraina. Chúng tôi đã
cùng nhau chia sẻ một cảm nghiệm đầy cảm kích qua một nghi
lễ rửa tội cho một nhóm đông đảo các thiếu nhi và thiếu
niên. Ít lâu sau đó, khi tôi nói với một số phụ nữ rằng tôi
sẽ đến dâng Thánh Lễ vào Chúa Nhật tuần tới - tin tức này đã
lan ra rất nhanh, và rất nhiều người, khao khát niềm vui của
bí tích này, đã đến tham dự.
Gần cuối cuộc chiến bi thảm ấy, tôi là
một tù nhân chiến tranh, được giam giữ tại một căn cứ ở
Ba-lan. Giáo dân của một giáo xứ Ba-lan gần đó – mà tôi đã
từng săn sóc cho một số bệnh nhân trong họ và rửa tội cho
các em bé của họ – đã quyết định cứu tôi và vận động để tôi
trở thành cha sở của họ. Một lần nữa, tôi cảm nghiệm được ý
nghĩa thâm sâu thế nào là “một người trong chúng ta”. Đó là
một biến cố giúp tôi thực sự nhìn thấy - bằng con mắt đức
tin – ánh sáng của Đức Kitô, Đấng nhìn nhận chính Ngài là
“Con Người”, là “một người trong chúng ta”.
“Chúa Có Thể
Gửi
Một Linh Mục Đến Với Tôi Sao?”
Vào một trong những ngày khốc liệt nhất
ở mặt trận Nga, tôi hoàn toàn kiệt sức do phải làm việc với
quá nhiều quân nhân bị thương và tử trận. Hy vọng tranh thủ
được một chút nghỉ ngơi để hồi sức, tôi bắt đầu đào một hố
cá nhân ngay trong tầm quan sát của ‘đối phương’. Vừa khi
bắt đầu đào, tôi nghe một tiếng rên ở gần đó: “Cứu thương,
cứu tôi với!” Xét theo tự nhiên con người và xét trong bối
cảnh nhà binh, lúc ấy tôi có thể cho phép mình làm ngơ. Thứ
nhất, vì tôi cảm thấy mình hoàn toàn kiệt sức; và thứ hai,
con người đang kêu rên kia không phải là người của đơn vị
tôi, không phải là “một người trong chúng tôi”. Tuy nhiên,
bất chợt tôi nhận thấy rõ rằng anh ta là “một người trong
chúng tôi”, một người – như mọi người chúng ta – đang cần
tôi trong tư cách là một linh mục. Tôi tập trung hết sức lực
còn lại của mình, bò ra kiếm người lính ấy. Mười phút sau,
tôi tìm thấy anh ta giữa khoảng đồng trống, ngay trong tầm
nhìn của lính Nga. Giờ đây nhớ lại, tôi vẫn còn ngạc nhiên
không biết tại sao hôm ấy phía Nga đã không bắn tôi. Có lẽ
họ nhận ra tôi là một lính cứu thương, và vì họ tôn trọng
luật quốc tế nên tha mạng cho tôi. Đối với tôi, không bao
giờ có chuyện phân biệt đối xử bên ta bên địch. Người linh
mục không biết đến các vành đai phân cách; và người nhân
viên cứu thương - do đặc tính công việc của mình - là người
phục vụ kẻ khác không cần biết kẻ đó là ai.
Khi tôi tới chỗ người lính bị thương,
tôi cố gắng giúp anh ta nhưng lập tức nhận ra rằng mình
không thể làm gì để cứu sống anh ta được. Trong tâm trạng ân
hận, tôi nói với anh: “Là một nhân viên cứu thương, tôi đã
đến quá trễ, nhưng trong tư cách là một linh mục, tôi đang
có mặt ở đây kịp thời cho anh.” Đôi mắt mở rộng với ánh nhìn
ngạc nhiên, người lính hỏi: “Chúa có thể gửi một linh mục
đến với một tội nhân như tôi sao?” Anh càng sửng sốt hơn
nữa khi tôi cho biết rằng tôi có đem theo Mình Thánh Chúa
cho anh làm của ăn đàng.[1] Về sau, khi tôi báo tin cho gia
đình người lính ấy về cái chết của anh, một linh mục – là
anh em họ của người quá cố – đã cho biết: “Thật là một phép
lạ! Anh ấy đã bỏ không lui tới nhà thờ kể từ khi xảy ra một
vụ trong đó anh bị cha sở cư xử bất công một cách thậm tệ.
Anh ấy đã không bao giờ trở lại – dù mẹ anh ấy vẫn không
ngừng cầu nguyện đêm ngày cho anh được ơn trở lại.”
Một linh mục, nếu không phải là người
cho người khác, thì linh mục ấy đang đi ngược lại ơn gọi của
mình. Chỉ khi nào linh mục đáp ứng cho nhu cầu của con người
trong bất cứ hoàn cảnh nào mình được mời gọi đáp ứng, thì
linh mục mới khám phá ra căn tính đích thực của mình nơi Đức
Kitô, Đấng là “Con Người”, Đấng mãi mãi là “một người trong
chúng ta.”
Riêng cá nhân tôi, thật là phấn khởi
được nghe những người Nga, Ucraina, Ba-lan nói: “Cha Haring
là ‘một người trong chúng tôi.’” Đành rằng nói cho cùng, đó
không phải là cái gì phi thường lắm, song đó là một xác nhận
quan trọng về căn tính của tôi – và là một thách đố tôi tiếp
tục đào sâu và phát triển căn tính linh mục của mình suốt
cuộc đời mình.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHỨC TƯ TẾ
CỦA GIÁO DÂN LÀ CHỨC GÌ ? |
Hỏi: Xin Cha giải thích rõ chức vụ tư tế của người đã
chịu Phép Rửa Tội.
Trả lời: Theo giáo lý của Giáo Hội Công Giáo thì
khi chịu phép rửa tội (baptism) người được rửa tội cũng được
xức dầu thánh (Chrism) để lãnh nhận ơn riêng của Chúa Thánh
Thần, nhờ đó “ trở thành một Kitôhữu”, nghĩa là được xức
dầu, gia nhập vào Thân Thể Chúa Kitô là Đấng đã được xức dầu
để làm tư tế, ngôn sứ và vương đế.” (x. SGLGHCG, số 1241).
Nói khác đi, qua bí tích
Rửa Tội, người tín hữu được tái sinh trong sự sống mới và
được “mặc lấy Chúa Kitô” như Thánh Phaolô dạy. ( x.Gl 3,27).
Cũng qua Phép Rửa, người tín hữu được tham dự vào chức tư
tế, ngôn sứ và địa vị vương đế của Chúa Kitô như Giáo Hội
dạy trên đây. Chính vì vinh phúc lớn lao này mà xưa kia
các Thánh Giáo Phụ ( Church Fathers) đã gọi các tín hữu Chúa
Kitô, tức những người đã được tái sinh nhờ Phép Rửa là
những “Đức Kitô thứ hai = Alter Christus”. Từ ngữ này
về sau cũng được dùng để chỉ
các tư tế có chức thánh như Giám Mục và Linh Mục.
Khi nói đến người tín hữu
giáo dân ( Laity) là nói đến một thành phần Dân Chúa đông
đảo nhất trong Giáo Hội không thuộc về hàng giáo sĩ (Clergy)
hay tu sĩ (Religious) như Thánh Công Đồng Vaticanô II đã
định nghĩa trong Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium. ( LG.
no.31). Sự phân chia ra ba thành phần này không nhằm nói
lên phẩm giá của ai cao hơn ai, hay vai trò nào quan trọng
hơn vai trò nào mà chỉ muốn nói lên đặc tính hay chức năng
của mỗi ơn gọi ( vocation) mà thôi. Thánh Phaolô đã cắt
nghĩa sự khác biệt trong ơn gọi và vai trò của các thành
phần Dân Chúa như sau : “ cũng như trong một thân thể, chúng
ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức
năng, thì chúng ta cũng vậy : tuy nhiều nhưng chỉ là một
thân thể trong Chúa Kitô, mỗi người liên đới với người khác
như những bộ phận của một thân thể.” ( Rm 12: 4-5).
Nghĩa là giáo sĩ, tu sĩ
hay giáo dân chỉ là những bộ phận khác nhau của cùng một
Nhiệm thể Chúa Kitô là Giáo Hội mà thôi. Khác nhau về chức
năng nhưng đều quan trọng và cần thiết cho sự hoạt động và
sống còn của Nhiệm thể.
Khi nói đến chức tư tế là
nói đến Chức Linh Mục duy nhất của Chúa Kitô, Vị Thượng Tế
theo phẩm trật Men-ki-xê-đê ( Dt 5: 10 ). Nghĩa là chỉ có
Chúa Kitô là Thầy Cả hay Linh Mục Thượng Phẩm duy nhất đã
dâng Hy Tế ( Sacrifice ) đền tội thay cho nhân loại một lần
xưa trên thập giá. Khi đó, Người vừa là Bàn Thờ, vừa là Của
Lễ và là Linh Mục.
Chúa Kitô vẫn tiếp tục
dâng Hy Tế này cách bí nhiệm (sacramentally) qua tác vụ của
Giáo Hội, cụ thể qua thừa tác vụ (Ministerium) của các giáo
sĩ có chức thánh như Giám mục và Linh Mục, là những người
nhờ Bí tích truyền chức thánh (Holy Orders) mà được phép
nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi) để “làm
vịệc này mà nhớ đến Thầy” tức cử hành Thánh lễ Tạ Ơn (The
Eucharist) hàng ngày ở khắp mọi nơi trong Giáo Hội.
Đây là chức tư tế của
hàng giáo sĩ phẩm trật hay thừa tác (ministerial or
hierachial priesthood) xuất phát từ bí tích truyền chức
thánh. Ngược lại, chức tư tế chung (common priesthood) của
mọi Kitôhữu hay giáo dân là chức phát sinh từ bí tích Rửa
tội và Thêm sức, chứ không từ bí tích truyền chức thánh. Vì
thế, giáo dân không được phép cử hành các bí tích, nhất là
bí tích Thánh Thể. Chỉ trừ trường hợp nguy tử, khi không tìm
được các thừa tác viên có chức thánh (Giám mục, Linh mục,
Phó tế = Ordained Ministers) giáo dân mới được phép cử hành
bí tích Rửa tội mà thôi.
Sự khác biệt giữa hai
chức tư tế của giáo sĩ và giáo dân được Giáo Hội nói rõ
như sau :
“Chức tư tế chung của các
tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật, tuy
khác nhau không chỉ về cấp bậc mà còn cả về yếu tính (degree
and essence), song cả hai bổ túc cho nhau. Thực vậy, cả hai
đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô theo cách
thức riêng của mình. Tư tế thừa tác, nhờ có quyền do chức
thánh đào tạo và cai quản dân tộc tư tế, đóng vai trò Chúa
Kitô cử hành Hy tế tạ ơn (the Eucharist) và dâng của lễ ấy
lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể dân chúng. Phần tín hữu,
nhờ chức tư tế vương giả, cộng tác dâng thánh lễ và thi hành
chức vụ đó trong việc lãnh nhận các bí tích, khi cầu nguyện
và tạ ơn, bằng đời sống chứng tá thánh thiện, bằng sự từ bỏ
và bác ái tích cực.” ( x. LG, số 10).
Nói rõ hơn, các tư tế
thừa tác hay phẩm trật, cụ thể là các Giám Mục và Linh mục,
thay mặt Chúa Kitô là Đầu (in persona Chirsti Capitis) để
giảng dạy và cử hành các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể
để diễn lại Hy Tế thập giá trên bàn thờ ngày nay, nhờ đó “
Chúa Kitô, chiên vượt qua của chúng ta chịu
hiến tế ( x. 1 Cor 10,17) thì công trình cứu chuộc
chúng ta được thực hiện.” ( Sđd, số 3). Nghĩa là, công cuộc
cứu chuộc nhân loại của Chúa Kitô đã hoàn tất một lần xưa
qua Hy Tế của Người trên thập giá, được lập lại ngày nay mỗi
khi Thánh lễ Tạ Ơn được cử hành. Và chỉ có Giám Muc hay
Linh mục được làm việc này nhờ quyền thánh (sacra potestas)
đã lãnh nhận qua bí tích truyền chức mà thôi.
Chức tư tế chung của
người tín hữu chỉ cho phép mọi giáo hữu được hiệp thông với
các tư tế thừa tác trong việc dâng đời sống của mình với mọi
vui buồn, sướng khổ để kết hợp với Hy tế của Chúa Kitô dâng
lên Thiên Chúa để xin ơn cứu chuộc cho mình và cho người
khác trong Thánh lễ.
Ngoài ra, chức tư tế và
ngôn sứ của người tín hữu cũng đòi hỏi mọi giáo hữu sống
nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người đời để góp phần mở
mang Nước của Chúa Kitô là “ Nước của của chân lý và sự
sống, của ân sủng và thánh thiện, của công lý, tình yêu và
hòa bình.” (Sđd, số 36). Đây chính là địa vị vương giả
mà người tín hữu được chia sẻ với Chúa Kitô nhờ Phép Rửa.
Tóm lại, chức tư tế của
người tín hữu hay giáo dân hoàn toàn khác với chức tư tế của
hàng giáo sĩ thừa tác (Giám mục, Linh mục) như đã nói ở
trên. Tuy nhiên sự khác biệt này không có nghĩa là ai cao
trọng hơn ai, mà chỉ nói lên sự khác nhau về chức năng
(competence) để chu toàn các nhiệm vụ theo ơn gọi riêng của
mỗi bậc sống mà thôi.
Điều quan trọng là mọi
thành phần dân Chúa trong Giáo Hội, -giáo sĩ, tu sĩ và giáo
dân - tất cả đều được mời gọi để nên thánh và có trách
nhiệm loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho mọi người,
mọi dân tộc trên toàn thế giới . Vai trò khác nhau chỉ nói
lên bổn phận khác nhau phải chu toàn mà thôi.
“ Vậy
đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào, vì tất cả đều thuộc về
anh em mà anh em thuộc về Chúa Kitô và Chúa Kitô thuộc về
Thiên Chúa.” ( 1 Cor 3: 21,23).
LM. PX.
Ngô Tôn Huấn. |
VỀ MỤC LỤC |
|
LỄ THĂNG THIÊN |
“Sau đó, Người dẫn các ông tới gần
Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi
chúc lành thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời.
Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi
trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỉ và hằng ở trong Đền
Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.” (Lc 24, 50-53)
***
Chúa Giêsu Thăng Thiên là một biến cố
mà các Tông Đồ không bao giờ quên được. Họ sẽ không bao giờ
gặp lại Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt. Đó là lúc giã biệt.
Lời nói giã biệt cuối cùng bao giờ cũng đau đớn nhất. Cứ
theo bản tính con người mà nói, có lẽ họ đã trở về lại kinh
thành Giêrusalem với một tâm trạng sầu muộn. Nhưng thay vì
trở lại kinh thành, than khóc buồn bã, thật ra họ rất vui
mầng, như Thánh Luca đã viết trên đây. Một điều đầy ý
nghĩa đã xảy ra nơi đỉnh đồi nhìn xuống kinh thành tráng lệ
đã biến đổi họ từ trạng thái sa sút tinh thần đến một tình
trạng mầng vui.
Cuộc sống đáng sống
Một thiếu nữ sau khi sinh bé gái đầu
lòng đã cho biết chị rất ngạc nhiên đến sững sờ khi nhận
thấy chị có thể yêu thương con chị một cách đậm đà đến thế.
Chị ở bên cạnh con, lòng tràn đầy niềm vui. Sự sinh đẻ đã
biến đổi con người của chị. Kinh nghiệm thật đáng giá, đầy ý
nghĩa.
Giống như khi chúng ta ngắm nhìn vũ trụ
bao la với muôn vàn vì sao lấp lánh khiến chúng ta phải thốt
lên: “Ôi lạy Chúa! Thật tuyệt diệu biết bao!” Và dĩ
nhiên Thiên Chúa rất hài lòng khi nghe chúng ta xưng tụng kỳ
công tuyệt hảo của Ngài. Đó là chúng ta nói theo ngôn ngữ
loài người. Thiên Chúa rất ngạc nhiên khi thấy ai đó ở nơi
chân trời xa lạ đã khâm sùng tán thưởng kỳ công do bàn tay
Ngài tạo dựng. Rồi Thiên Chúa thấy chúng ta đến với Ngài và
la lên: “Thật tuyệt diệu!” Và Thiên Chúa cảm thấy
thích thú vì chúng ta đã mở mắt ra để chiêm ngắm những kỳ
quan của Ngài.
Đó là kinh nghiệm mà các Tông Đồ đã
trải qua trong ngày Thăng Thiên của Chúa. Họ đã bừng sáng
mắt ra khi chiêm ngắm sự hiện diện của Chúa. Điều nầy cắt
nghĩa tại sao họ đã trở lại Giêrusalem mà hồn còn ở trên
mây. Và “Linh đạo” có nghĩa là thức giác
đối với những thực tại cao cả đang bao quanh chúng ta.
Sống là thay đổi
Gerard Manley Hopkins là
một thi sĩ người Ái-Nhĩ-Lan. Hồi còn trẻ, ông là một giáo sư
dạy học tại một học đường của các cha dòng Tên ở Wales. Ngày
kia ông đang trên đường trở về nhà ở trong cư xá dòng Tên.
Lúc bấy giờ là mùa thu. Hopkins đang ở trong một trạng thái
rầu rĩ vì mùa hè đã qua, mùa đông sắp tới và thời tiết bắt
đầu đổi thay. Nếu ai đã trải qua mùa đông ở Wales thì sẽ rõ
tại sao thi sĩ bị sa sút tinh thần. Tại đây rất nhiều ngày
chỉ thỉnh thoảng sương mù hơi mỏng một chút, nhưng phần
nhiều trong ngày là một màn sương dày đặc ẩm ướt bao trùm và
nhìn đâu đâu cũng chỉ thấy mờ mịt.
Đang khi ông trên đường trở về nhà, bất
chợt Hopkins tự nói với mình: “Hãy thư thả một chút. Mùa hè
không còn đây nữa. Hè đã qua rồi. Mùa đông chưa có ở đây.
Mùa đông chưa đến. Vậy thì mùa gì đây? Đó là mùa thu, mùa
của lá rụng và cũng là mùa gặt hái hoa quả. Hãy mở mắt ra mà
xem. Xem vẻ đẹp của hoa lá. Xem mây trôi lơ lững trên
nền trời. Hãy thưởng thức gió mát từ bờ biển Ái-Nhĩ-Lan thổi
vào. Đừng bận tâm về điều gì không còn ở nơi đây nữa. Đừng
bận tâm về điều gì chưa xảy tới nơi đây. Hãy ngắm xem cái gì
đang xảy ra bây giờ đây. Hãy trân trọng giây phút hiện
tại. Hãy trân trọng vẻ đẹp rạng rỡ đang phô bày trước
mắt!”
Điều mà Hopkins đang ngắm nhìn vẫn luôn
hiện diện ở đó. Điều thiếu sót là không có ai nhìn ngắm và
chiêm ngưỡng vẻ đẹp tráng lệ ấy mà thôi. Thiên nhiên không
thay đổi. Mùa gặt hoa quả cũng chưa bắt đầu lúc bấy giờ. Lá
cây cũng chưa đổi màu vào lúc đó. Vậy cái gì đã thay đổi?
Chính Hopkins đã thay đổi và vì thi sĩ đã thay đổi nên ông
lần bước trở về nhà mà tâm hồn ông đã biến đổi theo mùa xuân
đang dò dẫm theo những bước chân âm thầm của ông, với nụ
cười tươi nở trên khuôn mặt và một bài hoan ca sảng khoái ở
trong tâm hồn mà giờ đây đang trỗi dậy khi ông đối diện với
vẻ đẹp thần tiên của một buổi chiều vào thu ở xứ Wales đầy
trìu mến.
Trở nên hoàn thiện
là năng thay đổi
Vào ngày Thăng Thiên, Chúa Giêsu không
thay đổi. Ngài cũng vẫn là một Chúa Giêsu. Dĩ nhiên Ngài đã
trở về với Chúa Cha. Ở một giai tầng nào đó, Chúa không còn
ở với các tông đồ nữa, nhưng ở một giai tầng cao hơn, Chúa
vẫn ở với họ một cách nào đó mà trước kia họ không bao giờ
chứng nghiệm được.
Vậy thì ai đã thay đổi? Chính các
Tông Đồ đã thay đổi. Đó là điều bất chợt đã chiếu tỏa
trên họ, ở trên đỉnh đồi đó, điều mà Chúa đã hứa hẹn là sẽ ở
với họ luôn mãi. Sự kinh ngạc về điều đó đã thay đổi họ. Họ
đã được biến đổi. Vì vậy tại sao họ đã trở về lại kinh thành
Giêrusalem, không phải với những giòng lệ tuôn tràn trong
đôi mắt mà với một bài hoan ca ở trong con tim. Giờ đây họ
đã có một nhãn quan mới mang lại nhiều nghị lực cho họ và
làm cho cuộc đời của họ mang nhiều ý nghĩa. Đó là nhãn
quan về Chúa Phục Sinh sẽ ở với họ luôn mãi và họ sát
cánh bên nhau trong niềm hoan lạc.
Tại sao chúng ta ngày nay mầng kỷ niệm
mầu nhiệm cao cả về biến cố Thăng Thiên? Chúng ta không chủ
ý tụ họp lại cho đông đảo, để nêu gương tốt cho đám trẻ em,
hoặc để làm vui lòng người lớn. Chúng ta hội nhau lại để mở
mắt ra như Hopkins đã làm, vào một ngày mùa thu ảm đạm ở xứ
Wales và chiêm ngưỡng sự vinh quang của Chúa trong giây phút
hiện tại để rồi la lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa cao
cả biết bao!”
Thiên Chúa luôn ở với chúng ta. Điều
thiếu sót là chúng ta chưa nhận ra Ngài. Thăng Thiên
làm cho chúng ta có khả năng rời khỏi nơi gọi là Núi Chúa để
trở về nhà chúng ta với lòng mừng vui. Một thứ mừng vui làm
cho chúng ta muốn biết điều gì sẽ xảy ra? Điều gì đã đến với
chúng ta? Điều gì đã vượt lên trên chúng ta? Các Tông Đồ đã
cảm nghiệm một sự khác biệt. Một đức tin mà không có gì khác
biệt thì không còn là một đức tin nữa. Một người thấy đường
đi thì sẽ bước đi khác với một người mù mắt.
Đức Hồng Y Newman có lần
đã nói: “Sống là thay đổi. Trở nên hoàn hảo là năng thay
đổi.” Chúng ta thay đổi hay không thay đổi? Đó là vấn
đề! Những ai thay đổi và năng thay đổi là những người sống
thật. Những ai không thay đổi và giữ nguyên cách sống của họ
là những kẻ chỉ sống mà không sống thật. Sự lựa chọn trước
mắt là ở giữa sự sống và sống thật.
Mỏm nhô của tảng
băng trôi
Sự Thăng Thiên của Chúa Giêsu là mầu
nhiệm của đức tin. Chúng ta phải là những con người có niềm
tin mới đi vào mầu nhiệm nầy được. Câu chuyện về Thăng Thiên
chẳng khác nào một tảng băng trôi. Bảy phần tám của tảng
băng chìm dưới mặt nước. Chỉ mỏm tảng băng – tức một phần
tám – mới nhô lên trên mặt biển. Sự ngạc nhiên thích thú là
điều gì cơ bản thì không thấy được.
Ở trên đỉnh đồi trông xuống kinh thành
Giê-ru-sa-lem, các tông đồ chỉ thấy một phần tám của mầu
nhiệm Thăng Thiên. Phần còn lại được che giấu. Họ biết câu
chuyện về Chúa Giêsu chưa kết thúc. Chương cuối chưa viết
xong. Phần hấp dẫn nhất còn đang diễn tiến, nhưng họ đã có
đủ dữ kiện để tiến tới. Một phần tám của mầu nhiệm Thăng
Thiên cũng đủ để đưa họ xuống núi, trở lại kinh thành
Giê-ru-sa-lem và sau đó sẽ vượt ra khỏi biên giới của
Giê-ru-sa-lem để tiến qua biên vực đang chia cắt
Giê-ru-sa-lem với thế giới bên ngoài.
Ý nghĩa của mầu
nhiệm
Thăng Thiên là một mầu nhiệm sáng chói.
Không có bảy phần tám kia thì sẽ không có mầu nhiệm. Cuộc
sống chỉ viết bằng văn xuôi, chứ không phải bằng văn vần.
Cuộc sống được xây cất trên gạch ngói và vôi hồ, chỉ là trần
tục, bình thản và vô vị. Không có bảy phần tám kia thì sẽ
không có câu chuyện về Chúa Giêsu, không có Kitô giáo, không
có biến cố Thăng Thiên. Cũng sẽ không có đời sống linh
thiêng, không có bí tích, không có Thánh Thể, không có Thánh
Lễ Chúa Nhật.
Jeanne Guyon đã viết:
“Nếu biết tìm ra đáp số cho vấn nạn cuộc sống là điều tuyệt
đối cần thiết cho bạn, vậy thì bạn hãy quên đi hành trình
của mình. Bạn sẽ không bao giờ thực hiện được hành trình đó,
bởi vì đó là một hành trình vô định, hành trình của những
vấn nạn không có đáp số, hành trình của những bí ẩn,
của những điều không thể hiểu nổi và nhất là của những sự
bất công.”
Chúng ta được sinh ra và sống cho Thiên
Chúa vô biên. Ở trên trần thế nầy, không thể có bản nhạc
giao hưởng trọn vẹn như thế được. Thiên Chúa đã tạo dựng
chúng ta cho sự vinh quang của Ngài, để được chiêm ngắm Ngài
“mặt giáp mặt”. Giờ đây, chúng ta chỉ thầy Ngài một
cách lờ mờ, khiếm khuyết. Nhưng rồi đây, chúng ta sẽ xem
thấy Ngài một cách tuyệt hảo như Ngài hiện có và nỗi mầng
vui của chúng ta sẽ được trọn vẹn.
Trong khi chờ đợi, Thăng Thiên mang lại
cho chúng ta một viễn tượng mới để nhận thấy rằng đời sống
cá nhân chúng ta đang góp phần một cách nào đó vào một câu
chuyện lớn lao hơn. Một câu chuyện lớn hơn là chính cuộc
sống chúng ta và một câu chuyện kỳ diệu hơn bất cứ điều gì
hết mà chúng ta sẽ chưa lúc nào thấy hết hay biết hết ở
trong cuộc sống nầy.
LM
Vincent Travers OP
Hương
Vĩnh chuyển ngữ |
VỀ MỤC LỤC |
|
CỨ ĐỂ NHỮNG HẬU
QUẢ CỦA NÓ XẢY RA |
Vì hình phạt và phần thưởng nhiều lúc không mang lại kết quả
trong vấn đề giáo dục, vậy chúng ta phải làm gì để sửa dạy
con cái khi chúng làm những điều sai trái?
Chúng ta thử nghĩ cái gì sẽ xảy ra khi bà mẹ bỏ quên cái
bánh ngọt trong lò nướng? Tất nhiên, chiếc bánh ngọt sẽ bị
cháy. Và đó là hậu quả đương nhiên của sự quên lãng. Cũng
vậy, nếu chúng ta cho phép con trẻ chúng ta nếm thử những
hậu quả của những hành động chúng làm, chúng ta cung cấp cho
chúng một hoàn cảnh trung thực để chúng tự rút lấy cho mình
những bài học quí giá mà chúng ta không cần phải hao hơi tổn
sức nhiều.
Cu Minh 10 tuổi thường quên mang thức ăn trưa đến trường.
Khi bà mẹ khám phá ra điều đó, bà lập tức mang thức ăn đến
trường cho nó. Mỗi lần nó quên, bà lại quở rầy và bảo nó lần
sau không được quên nữa. Nhưng rồi, những lời rầy la của mẹ
nó không mang lại kết quả. Cậu bé vẫn cứ quên dài dài, và bà
mẹ vẫn cứ phải tiếp tục mang thức ăn đến trường cho nó.
Cái gì là hậu quả tất nhiên của việc quên mang thức ăn trưa
đến trường? Sự đói. Nếu không có gì ăn trưa, chắc chắn cậu
bé sẽ bị đói. Bà mẹ nên nói với cậu bé rằng bà sẽ không có
trách nhiệm cho bữa ăn trưa của nó nữa. Bấy giờ, khi nó quên
bà không cần biết đến những lời phàn nàn của nó. Cuối cùng,
điều đó không còn là vấn đề của bà nữa. Cậu bé sẽ bị đói, đó
là điều chắc vì nó nghĩ đó là bổn phận của mẹ nó. Nhưng bà
mẹ có thể trả lời trong thinh lặng rằng: “Mẹ rất tiếc là con
đã quên nó.” Và nếu cần, bà cũng nên mách với các bà giáo ở
trường học về vấn đề nầy để họ đừng cho nó tiền mua thức ăn
trưa. Tuy nhiên, nếu bà mẹ thêm vào: “ Có lẽ đây sẽ là một
bài học cho con” bà sẽ tức khắc biến hậu quả thành hình
phạt. Điều quan trọng ở đây chính là việc chúng ta dùng ngôn
từ làm sao để chuyển đạt đến đứa trẻ rằng hậu quả đó nằm
trong quyền tự do xếp đặt vấn đề của nó, chứ không phải là:
nó phải làm điều mà chúng ta quyết định.
Tuy nhiên, cái ý tưởng để đứa trẻ đi học đói xem ra là một
cái gì khủng khiếp đối với nhiều bố mẹ. Thật ra, đói chỉ là
một điều không vui. Thỉnh thoảng, người ta thiếu một bữa ăn
trưa thì không hẳn có hại cho thể xác, và việc cảm thấy một
chút khó chịu trong người có thể có kết quả trong việc kích
thích cậu bé nhớ mang theo thức ăn trưa với nó. Điều đó sẽ
giúp cậu bé loại bỏ óc tưởng tượng và việc thiếu sự hài hòa
giữa bà mẹ và cậu bé là điều xem ra có hại hơn là việc đói.
Chúng ta không có quyền gánh hết tất cả những trách nhiệm
của con cái chúng ta, cũng không có quyền gánh lấy tất cả
những hậu quả của những hành động của chúng. Những điều đó
thuộc về chúng và hãy dạy cho chúng biết nhận lấy trách
nhiệm do những hành động của mình làm.
Bé Hồng 4 tuổi thiếu ký nên thường hay cảm lạnh. Cả hai bố
mẹ được thuyết phục để tin rằng sức khoẻ của cô bé sẽ tốt
đẹp nếu có được dinh dưỡng đầy đủ hơn. Cô bé thường ngồi ăn
uống rất chậm rải. Bé uống một ít sữa. Khi bố mẹ bắt đầu nói
chuyện, cô bé cũng mất đi sự thích thú ăn uống. Bé chống
khuỷ tay lên bàn và dựa đầu vào tay. Một cách không mấy hứng
thú, cô bé đẩy thức ăn vòng quanh đĩa. Ông bố khuyến khích:
“Cưng ơi, ăn đi con! Ăn bữa cơm tối của con đi!” Ông nói một
cách nhẹ nhàng và dễ thương. Bé Hồng mỉm cười bỏ một ít thức
ăn vào miệng và giữ ở đó. Ông bố lại nói chuyện với mẹ. Hàm
răng cô bé nhúc nhích một vài lần. Bà mẹ cắt ngang cuộc nói
chuyện: “Cưng ơi, con nhai và nuốt đi con. Con có muốn là
đứa bé gái khoẻ đẹp không?” Cô bé nhai một cách đầy sinh
lực. Ông bố khích lệ: “Cô gái cưng của ba, con ngoan nhé!”
Nhưng khi ba mẹ nó tiếp tục nói chuyện, cô bé lại ngưng ăn.
Cả bữa ăn là một sự vỗ về liên tục để cô bé ăn.
Mục đích của việc biếng ăn là làm bố mẹ nó bận rộn với nó.
Điều đó dễ dàng khám phá nếu chúng ta biết cách quan sát. Ăn
uống thì cần thiết để nuôi dưỡng sự sống. Đó là một công
việc bình thường. Nhiều bố mẹ đã hành xử một cách sai lệch
khi thấy con trẻ khó khăn trong vấn đề ăn uống. Hãy nhớ rằng
đây là vấn đề của nó. Bố mẹ nên để ý đến công việc của mình
hơn là để ý đến công việc của đứa trẻ. Cách đơn giản nhất để
dạy con trẻ ăn uống một cách thích hợp là để nó tự ăn. Nếu
nó từ chối, không chịu ăn, bấy giờ bố mẹ nên giữ thái độ
thân thiện, không cần phải nhắc nhở gì cả. Hãy thu dọn tất
cả thức ăn còn lại từ bàn ăn khi mọi người ăn xong và cho
phép đứa trẻ cảm thấy cái gì đó sẽ xảy ra. Dĩ nhiên, nếu
chúng ta không ăn, chúng ta sẽ đói. Và bữa ăn tới, thức ăn
cũng được dọn ra. Nếu cô bé vẫn còn giữ thái độ như thế, bố
mẹ không cần nói gì cả. Nơi bàn ăn, bố mẹ vẫn cứ giữ thái độ
thân thiện. Mục đích là muốn nói: “Nếu con muốn ăn, đây thức
ăn của con. Còn nếu con không muốn ăn, bố mẹ phải nghĩ rằng
con không đói.” Thức ăn được thu dọn nếu cô bé đùa chơi với
thức ăn. Tuyệt đối không nên dọa nạt cũng không nên hối lộ
bằng cách hứa cho phần thưởng. Cô bé có thể kêu đói trong
vài giờ sau và sẽ chạy đến xin sữa cùng với bánh kẹo. Bấy
giờ, bà mẹ phải làm thế nào? Bà mẹ nên đáp lại rằng: “Mẹ xin
lỗi nhé! Mẹ biết con đói, nhưng cũng đến gần giờ ăn rồi. Rất
tiếc, con phải chờ hơi lâu.” Không kể vẻ mặt của cô bé xem
ra đáng thương thế nào, người mẹ phải cho phép cô bé đói vì
đó là sự tất nhiên của việc không ăn. Sự đau khổ đến bỡi sự
đánh đập như phết đít là một hình phạt, còn cảm giác hơi khó
chịu vì đói chỉ là kết quả của sự nhõng nhẽo lười biếng
không ăn mà thôi.
Tại sao bố mẹ không cảm thấy cắn rứt về việc phết đít làm
đau đứa bé mà lại hãi hùng với cảm giác khó chịu vì đói do
chính đứa bé tạo ra cho nó? Xem ra là bố mẹ cảm thấy có
trách nhiệm cung cấp thức ăn và mang mặc cảm sẽ bị tố cáo là
xấu nếu bố mẹ thấy con cái mình đói mà không làm gì cho nó.
Tuy nhiên, sự quan tâm của chúng ta quá nhiều về việc ăn
uống và sự lo lắng thái quá về sức khỏe thường chỉ là một
mặt nạ. Bố mẹ có thể tin tưởng hoàn toàn vào cảm giác trách
nhiệm của họ, trong khi thật ra họ che giấu ý hướng thống
trị: “ Tôi có ý bảo đứa trẻ của tôi ăn uống theo như cách
tôi muốn nó làm.” Chính ước muốn điều khiển đó đang điều
hành nhiều bố mẹ. Và đây chính là điều mà cô bé đang kháng
cự. Không có gì lợi trong việc không ăn và vì thế nó sẽ ăn.
Có thể cần chút thời gian và cần có sự kiên nhẫn.
Nhưng nếu cái hậu quả xem ra có lý đó được dùng như một đe
dọa hoặc được đặt trong lúc giận dữ thì đó không còn là hậu
quả mà trở thành hình phạt. Con trẻ rất nhanh chóng thấy
được sự khác biệt đó. Chúng sẽ đáp lại những hậu quả xem ra
có lý, nhưng cũng sẽ chống lại nếu chúng cảm thấy điều đó
biến thành một hình phạt.
Bố mẹ của bé Hồng quyết định dùng phương pháp: “cứ để cái
hậu quả tất nhiên đó xảy đến.” Cô bé vẫn lười biếng ăn. Bà
mẹ chán nản nhưng không nói gì. Bố mẹ nói chuyện nhưng không
có gì hấp dẫn. Vấn đề của họ còn đó, ngay trước mắt họ: cô
bé kéo dài thời gian, đẩy thức ăn vòng quanh đĩa. Khi bố mẹ
ăn gần xong bữa ăn trưa, bấy giờ ông bố quay sang cô bé với
sự nhẫn nại và đầy yêu thương nói: “Cưng ơi, ăn đi con. Nếu
con không ăn, con sẽ đói trước bữa cơm tối và con không có
gì để ăn giữa các bữa ăn. Con có muốn bị đói không? Bé Hồng
đáp lại: “Con không muốn ăn trưa nữa.” “Được rồi, con sẽ đói
và hãy nhớ rằng không có gì ăn cho tới khi ăn tối!” Đến đây,
giọng điệu của ông bố đã thay đổi khác. Đây không còn phải
là hậu quả tất nhiên nữa, mà nó đã biến thành một sự đe dọa,
một hình phạt đối với cô bé.
Nếu để ý, chúng ta có thể thấy được bố mẹ của bé Hồng rất
quan tâm đến việc cô bé ăn uống. Họ muốn cô bé ăn. Cô bé
thông minh cảm thấy được điều đó và biết rằng bố mẹ sẽ cảm
thấy không an tâm nếu cô bé đói. Vì thế, cô bé đã từ chối
bữa ăn trưa, đành chịu đói để phạt lại bố mẹ chỉ vì bố mẹ đã
đe dọa để nó đói. Chỉ có một lối thoát để ra khỏi tình trạng
bế tắc đó là không cần phải quan tâm đến việc nhõng nhẽo,
không chịu ăn uống của cô bé. Đó là vấn đề nhỏ, vấn đề của
cô bé. Nó có thể giải quyết việc đó. Nó có thể ăn hay không.
Nó có thể cảm thấy đói hoặc không. Nó có thể tự do chọn lấy.
Hãy để nó nhận lấy hậu quả của hành động của nó, không có gì
đáng phải quan tâm.
Khi chúng ta dùng danh từ hậu quả tất nhiên, cha mẹ thường
cắt nghĩa nó cách sai lệch như một hình thức để áp đặt những
đòi hỏi của họ trên con trẻ. Con trẻ nhận thấy điều đó như
một hình phạt cải dạng nên dễ có phản chứng. Vì thế, bí
quyết nằm ở cách mình áp dụng, nhất là sử dụng những ngôn từ
một cách khéo léo để chuyển đạt tư tưởng của mình đến cho
đứa trẻ. Nó bao gồm việc bố mẹ phải chuẩn bị sẵn sàng chấp
nhận những điều tất nhiên phải đến sẽ đến, chẳng hạn kết quả
đương nhiên của việc cô bé không ăn là sẽ cảm thấy khó chịu
vì đói, đó là một chuyện bình thường không có gì đáng phải
lo lắng quá.
(còn tiếp)
lm.lêvănquảng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HIẾU THẢO VỚI MẸ CHA |
Nuôi con lệ nhỏ hai hàng
Nuôi con càng lớn mẹ càng thêm lo
Mẹ thân gầy guộc ốm o
Cả đời chắt bóp lo cho con mình
Suốt đời chỉ biết hy sinh
Không than, chẳng trách, lặng thinh, hay cười
Khi con khoẻ, mẹ vui cười
Con đau thì mẹ tơi bời ruột gan
Sanh con mẹ khổ muôn vàn
Nuôi con mẹ khổ gấp ngàn lần sanh
Công lao của đấng sinh thành
Làm con phải nhớ, chớ đành lòng quên!
Lễ phép là việc đầu tiên
Phận con phải nhớ chớ quên việc này
Tránh những lời nói chua cay,
Gắt gỏng với mẹ, tội này khó tha.
Nếu còn ở với mẹ cha
Đừng quên phụ giúp tiền nhà, tiền ga..
Nếu lập gia đình ở xa
Bạn nên chịu khó về nhà thăm bu
Tặng quà, gửi thiệp, viết thư
Hoặc phone cho mẹ: “Bu ơi, how’r dù?”
Còn nếu bạn đã đi tu
Thì tu cho trọn, kẻo bu đau đầu
Lễ lạy, sớm tối nguyện cầu
Xin cho mẹ khỏi bạc đầu vì con!
Rể, dâu, cũng những đứa con
Đừng quên ghi nhớ công ơn bu thầy
Nếu cha mẹ chẳng đắp xây
Làm sao con có cái ngày cưới xin.
Dù cho lú lẫn hay quên
Rể dâu vẫn phải đáp đền công ơn
Đứa nào mà sống vô ơn
Bất hiếu với mẹ, liệu hồn nha con!
Điều răn thứ bốn: “Hỡi con,
Phải hiếu thảo với mẹ con suốt đời!”*
Chúa xưa sinh xuống cõi đời
Nêu gương hiếu thảo, mọi người noi theo
Cuối đời khi bị chết treo
Ngài lo mẹ sống đơn neo một mình
Nên dùng hết sức bình sinh
Trối trăn giao phó mẹ mình cho John:
“John ơi, đây chính mẹ con
Còn đây, John chính là con của bà”**
Mỗi người trong số chúng ta
Cũng phải hiếu thảo như là Giê-su.
Lo lắng, chăm sóc cho bu
Để cho người sống an vui tuổi già.
Chớ nên giận mắng hay la
Mẹ sẽ tủi hổ, khóc là tiêu ngay!
Công cha, ơn mẹ, cao dầy
Phận con phải nhớ, ơn này đừng quên!
Lm Ansgar Phạm
Tĩnh, SDD
* (Mt 19:19)
** (Ga 19:26-27)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
“MẸ ƠI, CON CÁM ƠN
MẸ...” |
Quý độc
giả Ephata và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,
Chỉ nội
trong một ngày, chúng tôi gặp ba người mẹ ở ba góc độ khác
nhau. Tiếc thay dư vị của cả ba cuộc trò chuyện ấy đều xót
xa, đều đắng chát !
Buổi
sáng, một người mẹ đi một mình, đến khóc với chúng tôi trong
cái ngộp thở của căn bệnh tim, cứ nói được mấy câu lại phải
hít vội như cố gắng hớp lấy từng hớp không khí. Chị lo đến
phát khóc bởi vì đã sắp đến ngày phải nhập viện mổ tim.
Không phải lo chuyện tiền viện phí năm sáu chục triệu, bởi
vì gia đình chị làm ăn khá giả, không đến nỗi nào. Nhưng là
cái lo khác thắt ruột thắt gan, đứa con gái mới 14 tuổi, học
lớp 8. Hiệu trưởng của cháu mới gọi chị đến trường báo tin
một cách hết sức tế nhị mà cũng hết sức vô trách nhiệm, rằng
“cần phải cho cháu nghỉ học” để cách ly cháu khỏi cái “băng
con gái tuổi teen” có khuynh hướng “chơi với nhau theo
kiểu... đồng tính” ngay trong trường của ông !
Trời
ơi, chị là mẹ sao chị lại không nhận ra hiện tượng kinh
khủng ấy nhỉ ? Chị thương con lắm nhưng chị lại cứ ngỡ cái
kiểu để tóc tém, ăn mặc ngổ ngáo như con trai ấy chỉ là một
thứ mốt nhất thời của bọn trẻ mới lớn. Có ngờ đâu những
chuyến đi picnic, những buổi học theo nhóm, những buổi sinh
hoạt đột xuất của nhà trường, những đêm tiệc mừng sinh nhật
bạn bè lại chỉ là cái vỏ ngụy trang cho những trò chơi thác
loạn mà “trẻ con” đua đòi theo “người lớn”...
Buổi
chiều, một người mẹ khác dắt theo cô con gái 15 tuổi, thai
đã hơn 4 tháng, may mà ngăn lại kịp, không thì vào Từ Dũ phá
mất. Cái thằng bé mặt non choẹt, búng ra sữa, 17 tuổi, cũng
ngoan lắm, lễ phép lắm, vẫn hay đến nhà chở con cưng của chị
đi học thêm Anh Văn ở Hội Việt Mỹ, ai ngờ lại là... bố đứa
cháu ngoại tương lai của gia đình ?!? Bây giờ chuyện vỡ lở,
thằng bé ngơ ngác được mấy ngày rồi tự nhiên biệt tăm, nghe
đâu ông bố bên ấy cho một trận đòn nên thân rồi lo liệu cấp
kỳ để cậu ấm đi du học bên Úc, coi như phủi tay, không biết
gì đến con bé nạn nhân.
Người
mẹ khóc nhưng bé gái thì thản nhiên như không, hai chân đung
đưa trên ghế ngồi, trong túi áo gió còn thấy thòi ra cuốn
truyện tranh trẻ em. Cái thai mới mấy tháng, bụng còn nhỏ,
chúng tôi hẹn cứ cố gắng để cho cháu được tiếp tục ở với mẹ,
để mẹ con hú hí hướng dẫn cho nhau kinh nghiệm mang nặng đẻ
đau trước đi. Rồi một hai tháng nữa, nếu như sợ bị lộ, ông
bố nổi điên lên, thì khi ấy hẵng đưa trở lại để chúng tôi
gửi vào Nhà Tình Thương Giê-ra-đô nuôi nấng cho đến khi mẹ
tròn con vuông...
Buổi
tối, có cuộc họp thường kỳ của anh em chúng tôi với các bác
sĩ, cùng nhau thảo luận để biên tập cuốn cẩm nang giáo dục
giới tính và sinh sản có trách nhiệm theo tinh thần của Hội
Thánh Công Giáo. Trước khi ra về, các bác sĩ tiết lộ cho
biết một chuyện kinh hoàng, đại để thế này:
Năm nay
là năm Đinh Hợi, tục truyền là ai sinh trong năm này thì sẽ
là...”Con Heo Vàng” sung sướng cả đời. Do vậy, người ta đổ
xô nhau thành phong trào, có thai từ đầu năm để giữa năm và
cuối năm sẽ sinh con, con gái con trai đều tốt ! Vì thế, ở
tầm vĩ mô, để có thể kiểm soát và giữ vững được mức cân bằng
dân số, người ta chỉ thị cứ hễ thai phụ nào đã sinh được hai
con trở lên, đến siêu âm hoặc xét nghiệm bào thai đứa kế
tiếp, thì bất chấp thực tế, thai phụ ấy sẽ được tư vấn là
nên... phá thai ngay, lý do nhân đạo, đỡ khổ cho bản thân
nó, lại đỡ gánh nặng cho gia đình, cho xã hội. Tại sao ?
Thưa, bởi nó sẽ bị dị tật, bởi nó bị khối u trong não, bởi
nó không có hộp sọ, bởi nó dư nhiễm sắc thể, bởi nó chắc
chắn sẽ đần độn, chậm phát triển tâm thần, thậm chí bởi nó
là thai... chết lưu, cần xử lý ngay kẻo nguy cho người mẹ !
Chúng
tôi nghe mà rùng mình. Trời ơi, đúng là “cứu cánh biện minh
cho phương tiện”, người ta bất chấp đạo lý và lương tri để
có thể làm mọi cách để kềm hãm đà tăng dân số. Chúng tôi nhớ
lại, thì thấy nghiệm đúng: từ dạo sau Tết đến nay, con số
bào thai chúng tôi xin được của các nơi đem về lo hậu sự
không hiểu sao tăng vọt thành gấp đôi. Rồi gần đây, các bạn
trong Nhóm Bảo Vệ Sự Sống vào “tác nghiệp” ở các bệnh viện
Phụ Sản khi về đều báo cho chúng tôi biết những dấu hiệu bất
thường: rất nhiều trường hợp thai chết lưu, thai phụ vào
ngồi chờ đến phiên, người cứ rũ ra vì đau xót. Lại có trường
hợp bước ra từ phòng Kế Hoạch, òa khóc nức nở vì bác sĩ phẫu
thuật lấy thai chết lưu cho biết em bé 6 tháng vẫn còn sống
thêm được 15 phút mới chết, chết oan rõ ràng chứ có phải
chết lưu đâu !
Thế
đấy, một ngày trôi qua, ba câu chuyện đều là chuyện xót xa,
có mẹ và có con. Đến khuya, khi rảo bước lần chuỗi một mình
trong sân Tu Viện, chúng tôi chỉ biết cầu nguyện và tự nhủ
lòng: phải mạnh dạn lên tiếng thôi, không được phép sợ hãi,
ít ra cũng là đánh động cảnh báo đến cho các gia đình, các
thai phụ. Phải hết sức thận trọng, bởi đây là Sự Sống con
người, là chuyện sinh tử cả cuộc đời, là chuyện luân lý,
lương tâm xã hội và nhân loại. Người ta có thể xôn xao nhộn
nhạo tìm mọi cách để bảo vệ những đàn voi, những con cọp,
con khỉ, con tê giác, con sếu trước nguy cơ tuyệt chủng,
nhưng còn với con người thì lại cư xử bất nhân và vô đạo như
vậy nhỉ ? Cứ thế này thì rồi ra chúng ta sẽ đi về đâu ?
Sắp
tới, Chúa Nhật 13 tháng 5, Ngày của Mẹ, biết có ai sẽ dành
cho mẹ của mình một món quà đặc biệt và bất ngờ, là chạy đến
ôm lấy dáng mẹ gầy gò, hôn lên khuôn má xạm nắng của mẹ, rồi
thì thầm vào tai mẹ: “Mẹ ơi, con cám ơn mẹ, vì mẹ đã mang
thai con và sinh ra con làm người...”
Lm. LÊ QUANG UY,
DCCT,
11.5.2007
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH
YÊU LÀ PHỤC VỤ |
Tác phẩm 13 Nét mặt
của Tình yêu
Dominique AUZENET
Lm Micae-Phaolô Trần Minh Huy chuyển
ngữ
TÌNH YÊU LÀ PHỤC VỤ
1. Sống một
tình yêu chăm chú và đoán trước...
... Ai trong
chúng ta dám bảo rằng giáo dục kitô giáo không bao hàm việc
tập luyện giúp đỡ tha nhân ? Giúp đỡ những người chung
quanh, sẵn sàng phục vụ... sự chú ý đến người khác được thức
tỉnh và phát triển cho phép nhân cách bớt ích kỷ, song cởi
mở hơn... Tất cả những sự giúp đỡ chúng ta làm cho nhau mỗi
ngày đều là những biểu lộ hổ tương về Tình yêu của Thiên
Chúa...
Như thế, chúng
ta quen chiều theo các nhu cầu tức thời, quan tâm đến những
nhu cầu của người sống chung quanh mình... Mối quan tâm
triển nở thành ân cần đoán trước, hiểu trước, và sự tế nhị
nầy nuôi dưỡng và duy trì tình yêu, bất cứ thứ tình yêu nào
: vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em, bạn hữu... Phải
chăng đó là một tìm kiếm thường xuyên, được diễn tả bằng
những từ ngữ tiêu cực : "chẳng bao giờ bạn nói rằng bạn yêu
thương tôi, bạn đi qua bên cạnh tôi mà chẳng hề thấy tôi" ?
2. Dưới sự
hướng dẫn của Thần Khí Chúa.
... Một số
người có tính khí ích kỷ hơn, co rút vào mình hơn và việc
giúp đỡ tha nhân đòi hỏi họ phải nổ lực thường xuyên mới
mong ra khỏi mình được. Nếu họ cứ theo khuynh hướng tự nhiên
của mình thì rốt cuộc cũng chỉ bo bo lấy mình. Một số người
khác, với bản tính tự nhiên rất quảng đại, có khuynh hướng
tự cảm nhận được mời gọi đáp ứng bất cứ sự nhờ vả nào. Dĩ
nhiên mối nguy hiểm vì quảng đại thái quá là rơi vào tính
náo động, và kết cục là họ "làm thái quá" đến múa may quay
cuồng...
... Là những
tín hữu đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta
là những người nam và những người nữ được Chúa Thánh Thần
đổi mới. Chúng ta cố gắng sống lắng nghe Chúa Thánh Thần ở
trong chúng ta. Điều đó luôn luôn giả thiết một cuộc trở lại
và một khoảng cách đối với những chuyển động đầu tiên của
bản tính chúng ta, nghĩa là chúng ta phải sống trong sự cầu
nguyện. Càng cầu nguyện, chúng ta càng hiến mình cho sự hiện
diện của Chúa Thánh Thần. Chúng ta càng trở nên ngoan ngùy
đối với những tác động của Chúa Thánh Thần. Tùy theo tính
khí của chúng ta, Ngài sẽ thúc đẩy chúng ta phục vụ nhiều
hơn, hoặc ngược lại, Ngài sẽ hãm phanh để ngăn cản chúng ta
chiếm lấy chỗ của các kẻ khác...
3. Tránh những
cạm bẩy của sự quảng đại thái quá.
"Trong khi đi
đường, Chúa Giêsu vào một làng kia và một người phụ nữ tên
là Matta đã đón tiếp Ngài vào nhà mình. Bà nầy có một người
em gái tên là Maria đang ngồi dưới chân Chúa Giêsu mà lắng
nghe lời Ngài. Matta bận rộn nhiều thứ trong việc phục vụ..
Bà nói với Chúa Giêsu : Em con để con hầu hạ một mình mà
Thầy không quan tâm sao ? Xin Thầy bảo em con giúp con với.
Nhưng Chúa Giêsu trả lời bà : Matta, Matta, con lo lắng và
ôm đồm nhiều việc quá, cần bận tâm ít hơn, ngay cả một việc
thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy đi"
(Lc 10,38-42).
Ở đây chúng ta
thấy rõ Matta lẫn lộn thế nào việc phục vụ Chúa với sự phô
trương hoạt động do ý muốn ngay lành của bà. Matta lo lắng,
lăng xăng hối hả... Ngày nay chúng ta nhận ra cái đó trong
các công cuộc của Giáo Hội. Vậy Chúa đòi hỏi cái gì ? Chúa
yêu cầu chúng ta trước hết lắng nghe Ngài, như Maria đã làm.
Chính Chúa sẽ chỉ cho chúng ta phải làm gì. Vậy chúng ta
đừng coi đây là một sự đối nghịch giữa chiêm niệm và hoạt
động, nhưng là qui tắc làm phong phú hoạt động : Chúa không
đòi chúng ta làm điều thiện, nhưng là thực hiện thánh ý
Chúa... Nói khác đi, không phải vì đó là việc tốt mà chúng
ta phải làm việc đó. Điều cần thiết trước khi hành động là
phải biện phân lời mời gọi của Chúa.
"Vậy đó là tất
cả những gì Chúa Giêsu đòi hỏi ở chúng ta : Ngài không
cần những công trình của chúng ta, nhưng Ngài chỉ cần tình
yêu của chúng ta thôi"[1]. "Công nghiệp không hệ tại
chỗ làm hay cống hiến nhiều cho bằng đón nhận và yêu thương
nhiều"[1]
4. Tránh những cạm bẩy của việc tìm kiếm tiện nghi bản thân
:
"Nhưng để biện
minh cho mình, ông nói với Chúa Giêsu : Ai là cận nhân
của tôi ? Chúa Giêsu nói tiếp : Một người đi từ Giêrusalem
xuống Giêricô bị rơi vào tay bọn cướp, sau khi đập đánh và
bóc lột hết của cải, chúng bỏ đi, để người ấy dở sống dở
chết. Một tư tế đi xuống đường ấy, trông thấy nạn nhân rồi
bỏ đi qua. Cũng thế, một trợ tế cũng đi qua chỗ ấy, trông
thấy nạn nhân rồi cũng bỏ mà đi. Nhưng một người Samaritanô
đi ngang qua đó đến gần, trông thấy nạn nhân và động lòng
thương xót y. Ông tiến lại, băng bó các vết thương, đổ dầu
và rượi, rồi vực người ấy lên ngựa của mình, đưa đến quán
trọ và săn sóc y... Theo ý ông, ai trong ba người đó đã tỏ
ra là cận nhân của người bị rơi vào tay bọn cướp ? Ông ta
trả lời : Kẻ đã tỏ lòng thương xót người ấy. Và Chúa Giêsu
nói với ông : Ông cũng hãy đi và làm như vậy" (Lc 10,29-37).
... Mọi lý do
đưa ra đều tốt để nhắm mắt lại trước những như cầu của những
người bên cạnh gần hay xa khởi đi từ lúc chúng ta không muốn
bị quấy rầy rắc rối. Chúng ta đặt lên hàng đầu cái tiện nghi
nhỏ bé của mình trước mọi đánh giá khác, bất chấp những gì
còn lại... Phục vụ ? Dấn thân giúp đỡ kẻ khác ? Vâng, nhưng
đúng theo liều lượng. Không được vượt quá liều lượng đã được
chỉ định, lạm dụng là nguy hiểm ! Chúng ta xoay xở đặt một
giới hạn cụ thể và chọn lựa (Ai là cận nhân của tôi ?) ở
nơi mà Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta một tấm lòng phổ quát
làm cho chúng ta trở thành cận nhân của tất cả những ai cần
đến...
... Sự cứng
lòng nầy dần dần đâm rễ sâu trong chúng ta và có thể vận
hành như một bản năng sinh tồn... Thật là kinh khủng tình
trạng thường xuyên điềm nhiên quay lưng lại với người anh em
đang cần giúp đỡ... Đó là tính hà tiện và sự cằn cỗi của
tình yêu...
5. Chúa Giêsu
tôi tớ của mọi người.
Chính khi chiêm
ngắm Chúa Giêsu trong cuộc Thương Khó của Ngài mà chúng ta
hiểu được phục vụ là gì. Để giải thoát chúng ta khỏi ách tội
lỗi và sự chết, Chúa Giêsu đã trải cuộc sống của Ngài trong
phục vụ cứu chuộc :
"Trước lễ Vượt
Qua, Chúa Giêsu biết giờ của Người đã đến để từ bỏ thế
gian nầy mà về cùng Chúa Cha, Người yêu thương các môn đệ
còn ở trần gian và Người đã yêu thương họ cho đến cùng.
Trong một bữa ăn tối, khi ma quỉ đã gieo vào lòng Giuđa
Iscariôt con ông Simon ý định nộp Người, vì biết rằng Chúa
Cha đã trao phó mọi sự trong tay Người, và Người bởi Thiên
Chúa mà đến và Người phải ra đi trở về cùng Thiên Chúa, Chúa
Giêsu đứng dậy khỏi bàn ăn, cởi áo và lấy giải vải mà thắt
lưng. Đoạn Người đổ nước vào một cái chậu và bắt đầu rửa
chân cho các môn đệ và lấy giải thắt lưng mà lau.
Vậy Người
đến với ông Simon-Phêrô. Ông thưa Người : Thưa Thầy, Thầy mà
rửa chân cho con sao ? Chúa Giêsu trả lời ông : Điều Thầy
làm, bây giờ con chưa hiểu được, sau nầy con sẽ hiểu. Phêrô
thưa với Người : Không, Thầy sẽ không rửa chân cho con,
không đời nào ! Chúa Giêsu trả lời ông : Nếu Thầy không rửa
chân cho con thì con sẽ không có phần với Thầy" (Jn 13,1-8).
Chúa Giêsu dạy
cho Phêrô hiểu rằng để trở nên một môn đệ đích thực và trước
khi có thể phục vụ Ngài thì ông phải để được Ngài phục vụ
cho. Không ai có thể là dụng cụ giải thoát nếu trước đó
chính mình đã không kinh nghiệm được sự giải thoát là gì.
Chúa Giêsu đã chết trên thập giá để phục vụ mỗi người trong
chúng ta. Trong buổi canh thức, Ngài đã cho một dấu hiệu
mạnh về việc phục vụ qua việc rửa chân. "Con Người không đến
để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống hầu
cứu chuộc nhiều người" (Mc 10,45). Tình yêu phục vụ...
Hãy để Chúa Giêsu phục vụ chúng ta, bằng việc đón nhận ơn
tha thứ của Chúa Cha trong bí tích hòa giải chẳng hạn.
"Tình yêu phục
vụ. Tình yêu mà Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta là
khiêm tốn và có đặc tính phục vụ... Ai trong các con muốn
làm lớn thì hãy trở nên tôi tớ của các ngươi, và ai muốn làm
lớn nhất trong các ngươi sẽ là tôi tớ của mọi người " (Mc
10,43-44). Dưới ánh sáng của gương mẫu khiêm tốn sẵn
sàng đi đến sự phục vụ dứt khoát của thập giá, Chúa Giêsu có
thể mời gọi các môn đệ : "Hãy mang lấy ách của Thầy và hãy
học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhượng thật trong
lòng" (Mt 11,29)[1].
6. Phục vụ anh em theo gương Chúa Giêsu.
"...Khi rửa
chân cho các ông xong, Chúa Giêsu mặc áo lại, ngồi vào
bàn và nói với các môn đệ : Các con có hiểu điều Thầy vừa
làm cho các con không ? Các con gọi Thầy là Thầy và là Chúa,
các con nói đúng vì Thầy là như thế. Vậy Thầy là Thầy và là
Chúa mà đã rửa chân cho các con thì các con cũng hãy rửa
chân cho nhau. Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng
làm cho nhau như Thầy đã làm cho các con. Quả thật, quả
thật, Thầy nói điều đó với các con, tôi tớ không trọng hơn
chủ, kẻ được sai đi không lớn hơn người đã sai mình. Biết
điều đó, hạnh phúc cho các con, nếu các con làm như vậy"
(Jn 13,12-17).
Với tư cách là
tín hữu, chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi đi vào trong chiều
kích hiến tế chiều dọc của thập giá và phục vụ của Ngài. Như
Mẹ Maria (dĩ nhiên ở mức độ khác nhau), Mẹ của Chúa Giêsu và
là môn đệ đầu tiên của Ngài, Mẹ đã được hội nhập vào Mầu
nhiệm Cứu độ bằng cách nhận lấy trong trái tim Mẹ đau khổ
của Chúa Giêsu trên thập giá, sự đồng thương khó nầy đã được
Siméon tiên báo : "Một lưỡi gươm sẽ đâu thâu lòng bà" (Lc
1,35).
Ở vào mức độ
đó, đối với mỗi người chúng ta, sự phục vụ tha nhân hệ tại
việc, hiệp nhất với Chúa Giêsu, nhận lấy trách nhiệm về phần
rỗi đời đời của họ :
·
Cầu nguyện bền bỉ cho họ,
·
Dâng chay tịnh nầy nọ hay hy sinh cố ý cho họ,
·
Chấp nhận những đau khổ hoặc thử thách trong cuộc sống liên
kết với thập giá Chúa Giêsu cho họ,
·
Thiêu đốt và tiêu hao đời sống trong sự hiến mình liên lĩ
xuyên qua tất cả những gì làm nên tấm thảm cuộc sống thường
ngày của chúng ta.
·
Và nếu được kêu gọi, hiến dâng mạng sống cho những kẻ bách
hại mình. Sách Khải Huyền gọi tử đạo, tột đỉnh của việc làm
chứng cho Chúa Giêsu, là "phục vụ". Các vị tử đạo tương lai
là những "bạn đồng hành phục vụ" của những ai đã hiến
dâng mạng sống mình.
7. Và phục vụ Chúa Giêsu trong anh em.
"Ai yêu mạng sống mình thì sẽ phải mất nó, ai ghét sự
sống mình ở đời nầy thì sẽ giữ được nó trong cuộc sống đời
đời. Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu thì kẻ
phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy thì Cha Thầy sẽ
tôn vinh người đó"
(Jn 12,25-26).
Có thể người ta nghĩ rằng chúng ta ở xa việc phục vụ tha
nhân trong cuộc sống mỗi ngày. Không, Chúa Giêsu đã nói rõ
rằng chiều kích hiến tế chiều ngang của thập giá và phục vụ
mà tất cả chúng ta được mời gọi tới hệ tại việc hiến mình
cho những người bé nhỏ nhất, bị bóc lột nhất, nghèo khổ
nhất.
Tinh thần phục vụ quan trọng đến đỗi Chúa Giêsu lấy làm tiêu
chuẩn tối hậu cho cuộc phán xét các dân tộc vào ngày thế
mạt, cho tất cả mọi người dù là tín hữu hay không. Chúa
Giêsu tự đặt mình làm người rốt hết (Mc 9,35), và chúng ta
yêu Chúa Giêsu trong mức độ chúng ta phục vụ tất cả những
người rốt hết gặp trên đường chúng ta đ :
"Ta đói và các ngươi đã cho ăn, Ta khát và các ngươi đã
cho uống, Ta là khách lạ và các ngươi đã tiếp rước, Ta mình
trần và các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu và các ngươi đã
thăm viếng, Ta bị tù đày và các ngươi đã đến giúp đỡ...
Trong mức độ mà các ngươi đã làm cho một trong những kẻ bé
mọn nhất trong các anh em của Ta là các ngươi đã làm cho
chính Ta"
(Mt 25,35-40).
8. Các Phó Tế là dấu hiệu của Chúa Giêsu tôi tớ.
Đây là lúc nhắc lại cho chúng ta rằng có một tác vụ được tấn
phong là dấu hiệu bí tích của Giáo Hội phục vụ, đó là tác vụ
Phó Tế. Nếu linh mục đại diện Chúa Kitô Mục tử thì nhờ ân
sủng riêng biệt của mình, phó tế nói lên một khuôn mặt thiết
yếu khác của Chúa Giêsu : Đức Kitô Tôi Tớ. Phó tế được thụ
phong cho việc phục vụ đức ái. Bởi đời sống và sứ mệnh của
mình, phó tế phải là dấu hiệu thường trực của một Giáo Hội
muốn nên nghèo khó, gần gủi với những người bị thua thiệt
nhất, những người bệnh hoạn, những người khuyết tật, những
người nghèo khổ nhất trong cuộc đời.
Trong tất cả những gì họ làm, các phó tế muốn nói lên một
điều mà Chúa Kitô nắm giữ trên hết mọi sự : tôi tớ mọi
người... "Con Người đến không phải để được hầu hạ,
nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống...". Cần
phải được nhắc lại không ngừng rằng sự phục vụ mà Chúa Kitô
muốn và đã sống không gì khác hơn là sự trao ban chính
mình... cho đến chết... và chết trên thập giá ! Theo gương
Chúa Giêsu, tất cả mọi người trong Giáo Hội đều là tôi tớ.
Đó là điều hết sức căn bản mà một tác vụ đặc biệt nhắc lại
cho chúng ta tất cả : tác vụ phó tế, dấu hiệu của Chúa Kitô
Tôi Tớ.
9. Phúc cho những người có lòng thương xót.
Làm sao không nghĩ đến lời nầy của Chúa Giêsu "phúc
cho những người có lòng thương xót, vì họ sẽ được xót
thương" mà có lẽ sự phục vụ được gồm tóm lại
trong lời nầy ? Có lòng thương xót chính là giữ con tim mình
rộng mở với sự khốn cùng của tất cả những ai ở chung quanh
chúng ta. Và còn hơn thế nữa :
"Ý nghĩa đích thực và độc đáo của lòng thương xót
không chỉ hệ tại cái nhìn, dù là xuyên thấu và trắc ẩn nhất,
hướng về sự dữ luân lý, thể lý hoặc vật chất : lòng thương
xót được biểu lộ trong phương diện riêng biệt và đích thực
của nó khi nó khôi phục giá trị, khi nó thăng tiến và khi nó
rút ra điều thiện từ mọi hình thức của điều ác đang có mặt
trong trần gian và trong con người"[1]
Suy niệm
để lần hạt Mân Côi
1.
Tình yêu phục vụ. Vậy Người đến với ông Simon-Phêrô.
Ông thưa Người : Thưa Thầy, Thầy mà rửa chân cho con sao ?
Chúa Giêsu trả lời ông : Điều Thầy làm, bây giờ con chưa
hiểu được, sau nầy con sẽ hiểu. Phêrô thưa với Người :
Không, Thầy sẽ không rửa chân cho con, không đời nào ! Chúa
Giêsu trả lời ông : Nếu Thầy không rửa chân cho con thì con
sẽ không có phần với Thầy" (Jn 13,1-8. Chúc tụng Chúa vì sự
phục vụ Cứu độ mà Chúa đã thực hiện cho mỗi người chúng con.
Xin ban cho chúng con đón nhận trọn vẹn thập giá của Chúa
trong cuộc đời của chúng con.
2.
Tình yêu phục vụ. "Ai muốn làm lớn giữa các con
sẽ làm tôi tớ các con, và ai muốn làm đầu các con sẽ làm
tôi tớ mọi người" (Mc 10,43-44). Lạy Chúa, Chúa kêu gọi
chúng con phục vụ, xin giải thoát chúng con khỏi mọi tinh
thần thống trị và kiêu ngạo.
3.
Tình yêu phục vụ. "Matta, Matta, con lo lắng và
ôm đồm nhiều việc quá, cần bận tâm ít hơn, ngay cả một
việc thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy
đi" (Lc 10,38-42). Lạy Chúa, Chúa mời gọi chúng con phục
vụ, xin giúp chúng con biện phân cái gì Chúa đòi hỏi, và để
được như vậy, xin cho chúng con trước hết biết lắng nghe
Chúa.
4.
Tình
yêu phục vụ. "Theo ý ông, ai trong ba người đó đã tỏ ra
là cận nhân của người bị rơi vào tay bọn cướp ? Ông ta trả
lời : Kẻ đã tỏ lòng thương xót người ấy. Và Chúa Giêsu nói
với ông : Ông cũng hãy đi và làm như vậy" (Lc 10,29-37). Lạy
Chúa, Chúa kêu gọi chúng con phục vụ, xin ban cho chúng con
quả tim phổ quát để làm cho chúng con trở nên cận nhân của
tất cả những ai đang cần giúp đỡ...
5.
Tình yêu phục vụ. "Trong mức độ mà các ngươi đã
làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất trong các anh em của
Ta là các ngươi đã làm cho chính Ta" (Mt 25,35-40). Lạy
Chúa, Chúa kêu gọi chúng con phục vụ, xin ban cho chúng
con được nhìn thấy Chúa hiện diện trong mỗi người anh em của
chúng con, đặc biệt trong những người bé nhỏ trên đường đời
chúng con.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Thực Phẩm Bổ Dưỡng Trí Não |
Câu
Chuyện Thầy Lang
Bác sĩ
Nguyễn Ý-Ðức
Não là trung tâm điều
khiển tất cả các chức năng của cơ thể, từ những hoạt động
nhìn thấy được như sự chớp mắt, hắt hơi, đi đứng chạy nhẩy,
ăn uống...tới những sinh hoạt vô hình như mơ màng,
mộng mị, suy nghĩ, buồn
rầu, chán nản...
Ðể hoàn tất các công việc
này, trí não cần năng lượng cung cấp từ thực phẩm và dưỡng
khí có sẵn trong không gian thiên nhiên.
Với trọng lượng bằng 1/50
sức nặng của cơ thể, nhưng mỗi ngày não cần tới 400 Calori,
tương đương với 1/5 tổng số năng lượng mà người bình thường
cần trong một ngày.
Coi vậy thì sự dinh dưỡng
có vai trò quan trọng đối
với cấu trúc và các chức năng của não.
Về phương diện cấu trúc,
tế bào não gồm có chất đạm, nước và nhiều hóa chất khác.
Với chất đạm thực phẩm,
tế bào não sản xuất cả trăm hóa chất dẫn truyền thần kinh.
Các chất dinh dưỡng khác như chất béo, carbohydrat, sinh tố,
khoáng chất và nước cũng đều quan trọng.
Não không tích trữ oxy
nên cần có sự liên tục cung cấp từ mạch máu. Chỉ cần gián
đoạn oxy khoảng mười giây là con người đã bất tỉnh.
Mỗi phút, gần một lít máu
có oxy và các chất dinh dưỡng được đưa lên não.
Ăn uống lành mạnh, đầy đủ
chất dinh dưỡng sẽ bảo vệ và tăng cường sức mạnh trí não.
Chất dinh dưỡng nào cũng
tốt, cũng cần thiết. Tuy nhiên, như cổ nhân ta thường nói
“ăn gì bổ nấy”, có một số chất dinh đưỡng đặc biệt bổ dưỡng
cho trí não, nhất là về
phương diện tinh thần.
Các nhà dinh dưỡng đề
nghị ba nguyên tắc để nuôi dưỡng não hợp lý:
-Giảm thiểu hoặc loại bỏ
những chất có hại cho não như transfatty acid, rượu, nicotin
-Tăng cường tiêu thụ các
chất dinh dưỡng thiết yếu cho não bằng cách ăn chung với
nhau các thực phẩm mà não cần.
-Cân bằng giữa ba chất
dinh dưỡng chính là carbohydrat, chất béo và chất đạm để não
có thể làm việc hữu hiệu ban ngày và nghỉ ngơi thoải mái ban
đêm.
1- Chất
béo Omega-3.
Não bộ có 60% chất béo,
đặc biệt là các acid béo cần thiết. Trong số này, DHA là
chất quan trọng nhất cho sự học và cho trí nhớ.
Cá vẫn được coi như “thực
phẩm của trí não” từ nhiều ngàn năm. Cá có chất béo omega-3
với thành phần chính yếu cho sự phát triển não bộ thai nhi
là chất docosahexaenoic acid (DHA). Chất này có trong máu
của người mẹ và được nhau (placenta) chuyển tới thai nhi.
Theo bác sĩ Russel L.
Blaylock, tác giả sách dinh dưỡng Health and Nuitrition
Secrets, khi thai nhi nhận được nhiều chất béo này thì hoạt
động của não tốt hơn và khi lớn lên, các em có chỉ số IQ cao
hơn. Trong khi đó, các em nhận được ít DHA có khó khăn trong
sự học và khả nặng nhìn của mắt cũng kém.
Bác sĩ Ray Sahelia, tác
giả sách Mind Boosters, cho biết omega-3 có giá trị cao vì
chúng cung cấp độ lỏng cho màng tế bào và tăng sự liên lạc
giữa các tế bào thần kinh. Omega-3 cũng giảm sự kết tụ của
tiểu cầu, do đó giảm rủi ro cơn suy tim và tai biến não.
Theo Jean Carper, tác giả
sách Miracle Cures: “Không cung cấp đầy đủ chất béo đặc biệt
mà màng tế bào não cần sẽ đưa tới rối loạn về tâm tính, trí
nhớ, sự tập trung và hành vi”
Kết quả nghiên cứu công
bố trong Archives of Neurology tháng 11 năm 2006 cho hay
người có lượng DHA cao trong máu đều ít
bị rối loạn nhận thức vì tuổi già tới 47%, so với
người có ít DHA.
Nghiên cứu mới nhất công
bố trong Journal of Neuroscience số tháng 4, 2007 cho hay ăn
nhiều omega-3 có thể giảm thiểu rủi ro bệnh Alzheimer ở tuổi
già. Các nhà khoa học của Ðại học California-Irvine nghiên
cứu ba nhóm chuột. Nhóm được nuôi dưỡng với omega-3 có ít
một loại chất đạm được coi như gây ra tổn thương cho tế bào
não và đưa tới bệnh sa sút trí tuệ.
Dùng bao nhiêu cho vừa.
Chất béo omega- 3 có tự
nhiên ở nhiều loại cá nước lạnh như cá thu, cá hồi, cá
trích, cá cơm, cá ngừ và trong một số thực vật như dầu
canola, đậu nành, hạt lành (flax seed)...
Để được hưởng những ích
lợi của dầu mỡ cá Omega 3, ta không cần phải tiêu thụ một
lượng cá lớn như người Eskimo.
Theo các cuộc nghiên cứu
kéo dài 20 năm ở Hòa Lan thì chỉ cần ăn cá 2 lần trong một
tuần lễ là đã giảm đến phân nửa các vụ tai biến về tim mạch
so với người không ăn một chút cá nào.
Theo Giáo sư William E.
Connor của Viện Khoa học Sức Khỏe ở tiểu bang Oregon, mỗi
tuần chỉ cần ăn chừng 180 gr cá đã đủ để có được tác dụng
phòng bệnh của Omega 3.
Tổ Chức Sức Khỏe ở Canada
và Cơ quan Dinh Dưỡng ở Anh khuyên mọi người nên ăn khoảng
0, 5% tổng số nhu cầu năng lượng mỗi ngày dưới hình thức
chất béo omega- 3.
Với những người không
thích ăn cá thì omega-3 cũng có trong một vài thực phẩm gốc
thực vật, như hạt lanh (flaxseed), quả óc chó (walnut), hạt
cây bồ đào (butternut), dầu mầm lúa mì, rong biển, nhưng
không được tốt bằng trong cá.
Omega-3 cũng được bán
trên thị trường dưới dạng viên. Theo kinh nghiệm của người
đã dùng, chỉ cần một hoặc hai viên mỗi ngày là đủ.
Ngoài ra, cần được sự
hướng dẫn của bác sĩ để phòng ngừa tác dụng phụ, dùng quá
nhiều cũng như tương tác với các dược phẩm khác. Sự an toàn,
công hiệu, phân lượng của viên dầu cá chưa được kiểm chứng,
xác định và các nhà nghiên cứu đều khuyên là không nên thay
thế cá trong thực phẩm bằng dầu cá.
Dùng quá nhiều dầu cá,
nhất là loại viên dầu, có nguy cơ băng huyết trầm trọng vì
tác dụng loãng máu của dầu; nguy cơ khó chịu cơ quan tiêu
hóa, thiếu hồng huyết cầu hoặc tai biến động mạch não.
Những ai đang uống thuốc
aspirin hoặc thuốc chống đau nhức cũng nên cẩn thận khi dùng
dầu cá vì thuốc và dầu cá đều làm máu loãng. Bệnh nhân dùng
thuốc suy tim nhóm Digitalis cũng phải cẩn thận vì dầu cá có
thể làm tăng tác dụng của các thuốc này.
Cá càng lớn, lượng
omega-3 càng nhiều. Nhưng cẩn thận với cá sông lạch vì sợ bị
ô nhiễm. Cá biển tương đối an toàn hơn. Hóa chất độc thường
tích tụ trong mỡ, nên dầu cá cô đọng có thể nhiễm nhiều hóa
chất này.
Cũng cần phân biệt dầu
mỡ cá với dầu gan cá như Dầu gan cá thu Cod-Liver oil, dầu
gan cá mập. Các dầu này được dùng trong việc trị bệnh từ
thuở xa xưa, khi sinh tố D chưa được khám phá.
2- Ðường
trái cây
Thực phẩm có nhiều loại
đường như glucose, dextrose, sucrose, fructose. Các đường
này có tác động khác nhau lên tế bào nói chung và não, nói
riêng.
Ðường glucose là nguồn
cung cấp năng lượng chính của não.
Mức độ chuyển vào máu
nhanh hoặc chậm của đường trong một loại thực phẩm nào đó
gọi là chỉ số đường huyết (glycemic index).
Thực phẩm có đường huyết
cao sẽ kích thích tụy tạng tiết ra nhiều insulin. Hậu quả là
đường glucose trong máu lên xuống rất nhanh và ảnh hưởng tới
hành vi của con người.
Thực phẩm có chỉ số đường
huyết thấp không thúc đẩy tụy tạng sản xuất nhiều insulin,
cho nên đường huyết ổn định hơn, giúp cho trí óc làm việc
đều hòa.
Ðường fructose trong trái
cây như trái táo, bưởi chua (grapefruit), anh đào
(cherries), cam, nho có chỉ số đường huyết thấp đều tốt cho
não. Trái cây còn có chất xơ có tác dụng làm sự chuyển đường
vào máu và các tế bào chậm hơn, do đó không gây thay đổi đột
ngột của đường huyết. Vì thế ăn nguyên trái có nhiều lợi
điểm hơn là uống nước vắt trái cây không còn bã tép.
Rau như các loại đậu
nành, đậu lentil...có chỉ số đường huyết thấp trong khi đó
khoai tây, cà rốt lại có chỉ số đường huyết cao hơn.
Kết quả nghiên cứu công
bố trong American Journal of Medicine số tháng 11 năm 2006
cho biết các tham dự viên uống nước rau, trái cây vài lần
trong một tuần lễ sẽ có ít rủi ro bị sa sút trí tuệ tới 76%
, so với những người chỉ uống dưới một ly mỗi ngày.
Ngoài đường fructose,
trong vỏ, da của rau trái cây còn có chất tự nhiên
polyphenol là chất rất tốt cho não để bảo vệ trí tuệ.
3- Amino acid
Acid amin là
đơn vị cấu tạo của chất đạm thực phẩm,
Não bộ cần acid
amin để chế tạo các chất dẫn truyền thần kinh và cung cấp
năng lượng.
Các chất dẫn
truyền mang tín hiệu từ tế bào thần kinh này sang tế bào
thần kinh khác, giống như người giao liên, truyền tin tức
qua nhiều nhà kế tiếp. Nếu được nuôi dưỡng kỹ càng, người
giao liên sẽ làm việc hữu hiệu hơn.
Hai loại acid
amin quan trọng cho trí não là tryptophan và tyrosine.
Tryptophan là
tiền thân của chất làm dịu thần kinh serotonin. Cơ thể không
tạo ra tryptophan được nên cần thực phẩm cung cấp
Tyroxine cần để
sản xuất các chất dẫn truyền hưng phấn trí não là dopamine,
epinephrine và norepinephrine. Cơ thể tạo ra được tyroxine
nếu trong thực phẩm không có đầy đủ.
Chất đạm có
trong thịt động vật và trong các thực phẩm thực vật. Nhu cầu
của cơ thể với chất đạm thay đổi tùy theo tuổi tác, giai
đoạn tăng trưởng và hiện trạng cơ thể. Theo các nhà dinh
đưỡng, mỗi ngày cơ thể cần từ 45-50 gr chất đạm trong các
loại thực phẩm khác nhau.
4- Chọn
lựa chất béo tốt cho não
Chất béo cần
thiết cho não bộ từ khi mới sanh cho tới tuổi già.
Não tăng trưởng
mạnh nhất trong năm đầu của đời sống với kích thước gấp đôi
vào lúc sinh nhật một năm tuổi. Chất béo là thành phần quan
trọng của màng tế bào não và các màng bao bọc quanh sợi thần
kinh. Do đó, cơ thể em bé cần nhiều chất béo trong giai đoạn
này. Và Tạo hóa đã đáp ứng nhu cầu đó bằng sữa người mẹ có
rất nhiều chất béo.
Khi lớn lên,
não vẫn tiếp tục cần chất béo, nhưng phải là loại không gây
ảnh hưởng xấu cho cơ thể.
Chất béo có cả
trong thực phẩm gốc động vật lẫn thực vật và đều tốt cho
não, nếu dùng ở mức độ vừa phải. Chất béo gốc thực vật có
lợi điểm là hầu như không có cholesterol, một loại chất béo
cần thiết nhưng nhiều quá sẽ gây ra ảnh hưởng xấu.
5- Sinh tố, khoáng chất
Não cần hầu hết
các loại sinh tố khoáng chất để có thể hoàn thành các chức
năng của mình.
-Sinh tố nhóm B
có vai trò quan trọng để tránh sự thoái hóa chức năng não bộ
do tuổi già.
Kết quả nghiên
cứu của đại học Harvard vào năm 2004 cho biết, phụ nữ ở tuổi
trung niên ăn nhiều rau có lá mầu xanh đều duy trì khả năng
suy nghĩ tốt hơn cho tới tuổi thất tuần, so với những người
không ăn rau xanh. Rau lá xanh có nhiều sinh tố B.
-Sinh tố B6 cần
cho sự duy trì các chức năng bình thường của não bộ, điều
hòa sự sản xuất chất dẫn truyền thần kinh kiểm soát sự ngủ
nghỉ, cảm xúc. Sinh tố này có nhiều trong thịt, cá, gan, quả
hạch, đậu, chuối, trái bơ, lúa mì.
-Sinh tố B12
duy trì sự hoạt động của tế bào thần kinh, cần thiết cho vỏ
bọc các sợi thần kinh. B12 có nhiều trong thịt bò, thịt gà,
cá, lòng đỏ trứng, pho mát.
-Sinh tố C giúp
não sản xuất chất dẫn truyền thần kinh. Não cũng có một cơ
chế để rút sinh tố C về não nhiều hơn khi có nhu cầu.
-Folic acid
dường như có ảnh hưởng tới chúc năng dẫn truyền tín hiệu
thần kinh, và khi thiếu làm tâm tình buồn chán.
Folic có nhiều
trong các loại rau lá mầu lục, hạt đậu, cám lúa mì, thịt
heo, thịt gà, tôm cá cua, sò hến.
-Calci cần
thiết cho sự tiếp nhận, dẫn truyền các tín hiệu thần kinh.
Calci có nhiều
trong sữa, sữa chua, pho mát, cá, tôm trứng, đậu nành, hạt
ngũ cốc.
-Potassium cần
cho sự dẫn truyền tín hiệu thần kinh và có nhiều trong cam,
chuối, khoai tây, trái cây khô, sữa.
-Sắt cần thiết
cho sự lành mạnh của các tế bào thần kinh và cho sự dẫn
truyền tín hiệu. Thiếu sắt, con người trở nên bẳn tính, kém
linh lợi.
Sắt có nhiều
trong gan, thận, thịt heo, thị bò, gà, cá, rau cải có lá mầu
lục.
-Selen là một
chất chống oxy hóa giúp cơ thể ngăn chặn ung thư, trì hoãn
tiến trình lão hóa. Nhiều nghiên cứu cho thấy thiếu selen có
thể là rủi ro đưa tới hội chứng chậm phát triển trí não
(Down Syndrome).
Selen có nhiều
trong cá, sò, hến, thịt động vật, ngũ cốc, trứng, tỏi, gan
động vật. Rau và trái cây có rất ít selen
6-Nước rất cần
thiết cho cơ thể nói chung và não bộ nói riêng. Mỗi ngày nên
tiêu thụ ít nhất năm ly nước.
7- Thời
gian ăn
Nhiều nghiên
cứu cho hay, khi nào ăn cũng có ảnh hưởng tới trí não.
Bỏ một bữa ăn
hoặc ăn uống thất thường có thể có ảnh hưởng ngắn hạn tới
các chức năng của não. Khi não thiếu các chất dinh dưỡng và
năng lượng trong một thời gian ngắn, các chức năng như trí
nhớ, sự tập trung và ngay cả tính tình cũng thay đổi. Kinh
nghiệm cá nhân nhiều người cũng thấy như vậy. Khi bụng đói
thì khó mà tập trung làm việc, đầu óc mung lung choáng váng.
Do đó, để não
làm việc tối đa, nên ăn đều đặn vào cùng thời điểm mỗi ngày.
Ðồng thời, giữa
các bữa ăn chính, nên ăn xen kẽ một chút thực phẩm nhẹ như
một miếng trái cây, một nắm hạt ngũ cốc để liên tục cung cấp
năng lượng cho trí não.
Nói tới đây,
cũng xin nhấn mạnh ở bữa ăn sáng. Có nhiều bằng chứng cho
thấy điểm tâm có thể là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày
cho não bộ. Nghiên cứu cho thấy, các sinh viên học sinh ăn
uống đầy đủ buổi sáng đều tập trung học hành tốt, có điểm
cao khi thi trắc nghiệm, có nhiều sáng kiến, nhớ lâu và đi
học đều đặn hơn.
Bữa ăn sáng
khởi động sự chuyển hóa căn bản và các chức năng của não để
bắt đầu cho một ngày mới.
Nên điểm tâm
với thực phẩm mang nhiều sức mạnh cho trí não như thực phẩm
có nhiều chất dinh dưỡng và chất xơ như trái cây, các loại
hạt còn vỏ và một ít chất đạm cần thiết.
8- Sức nặng của cơ thề
Kết quả nghiên
cứu của đại học Thomas Jefferson ở Philadelphia cho hay, mập
phì có thể là rủi ro đưa tới sa sút trí tuệ và bệnh
Alzheimer.
Các nghiên cứu
gần đây cho thấy, chế độ dinh dưỡng của dân chúng vùng Ðịa
Trung Hải có thể phòng tránh được bệnh sa sút trí tuệ tới
65%. Kết quả nghiên cứu đã được phổ biến trên Archives of
Neurology số tháng 12 năm 2006.
Chế độ dinh
dưỡng này có nhiều rau, các loại hạt, cá, trái cây, dầu ô
liu, rất ít thịt động vật.
Dinh dưỡng như
vậy cũng giảm thiểu rủi ro mắc các bệnh tim mạch và vài loại
ung thư.
Kết luận
Dinh dưỡng lành
mạnh đều bảo vệ cơ thể không những với các bệnh tim mạch,
ung thư, tiểu đường mà còn bảo vệ và tăng cường sức khỏe trí
não.
Ăn uống với các
chất dinh dưỡng cần thiết cho não bộ có thể gia tăng các
chức năng của trí não như sự suy nghĩ, sự tập trung đồng
thời cũng phòng tránh được sự suy sụp về nhận thức gây ra do
sự hóa già.
Nên tránh các
thực phẩm không tốt cho não bộ như rượu, các chất nhuộm mầu
thực phẩm nhân tạo, nước uống quá nhiều đường tinh chế, chất
béo transfatty, nicotine thuốc lá, hạt ngũ cốc không còn
cám.
Ngoài ra, cũng
nên thường xuyên dùng đến trí não để tránh rủi ro bị sa sút
trí tuệ.
Như là:
-
Kích thích tế
bào não bằng các trò chơi trí óc như tài bàn tổ tôm, mà
chược, cờ tướng, ô chữ, domino...
-
Luôn luôn giữ
liên lạc giao tế với bạn bè thân thuộc để tăng sự rung động
tri thức, dồi dào tình cảm
-
Vận động cơ thể
đều đặn mỗi ngày để tăng máu huyết lưu thông lên não.
Và đừng để cơ
thể quá mập phì.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|