Giáo
Hội Và Thiên Chức Con Người (tiếp theo) |
Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong
Thế Giới Ngày Nay Gaudium Et
Spes
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Phần Thứ Nhất
Giáo Hội Và Thiên Chức Con Người
12*
19. Những hình thức và nguyên nhân
vô thần
23*. Ý nghĩa cao cả nhất của phẩm giá con người là
con người được kêu gọi tớì kết hiệp với Thiên Chúa. Ngay từ
lúc mới sinh ra, con người đã được mời gọi đối thoại với
Thiên Chúa: thực thế, con người hiện hữu chỉ là do Thiên
Chúa đã vì yêu thương nên tạo dựng nên con người, và cũng vì
yêu thương mà luôn luôn bảo tồn con người; hơn nữa con người
chỉ sống hoàn toàn theo chân lý một khi tự ý nhìn nhận tình
yêu ấy và phó thác cho Ðấng tạo dựng mình. Tuy nhiên có
nhiều người đương thời với chúng ta không nhận ra hoặc công
khai gạt bỏ sự liên kết mật thiết và sống động giữa con
người với Thiên Chúa. Vì thế thuyết vô thần phải được kể là
một trong những sự kiện quan trọng nhất trong thời đại này
và cần phải được nghiên cứu kỹ càng hơn.
Danh từ vô
thần chỉ những hiện tượng rất khác nhau. Thực vậy, có người
phủ nhận Thiên Chúa cách tỏ tường, có người lại nghĩ rằng
con người hoàn toàn không thể quả quyết gì về Thiên Chúa cả.
Có người muốn cứu xét vấn đề về Thiên Chúa theo một phương
pháp làm cho vấn đề đó xem ra thiếu hẳn ý nghĩa. Vượt quá
phạm vi khoa học thực nghiệm một cách vô lý, nhiều người
hoặc chủ trương giải thích mọi sự chỉ bằng khoa học này,
hoặc trái lại, hoàn toàn không chấp nhận một chân lý nào là
tuyệt đối. Có người lại quá đề cao con người đến nỗi sự tin
tưởng vào Thiên Chúa trở nên vô nghĩa; những người này xem
ra muốn đề cao con người hơn là muốn chối bỏ Thiên Chúa. Có
người hình dung ra cho mình một Thiên Chúa theo kiểu họ
tưởng đến nỗi biểu tượng mà họ bài xích không còn điểm nào
là Thiên Chúa của Phúc Âm cả. Cả vấn đề về Thiên Chúa cũng
không hề được đặt ra bởi vì xem ra họ không cảm thấy áy náy
gì về tôn giáo cũng như không thấy tại sao lại phải bận tâm
về vấn đề đó. Ngoài ra, chủ nghĩa vô thần nhiều lúc phát
sinh hoặc do sự phản kháng mãnh liệt chống lại sự dữ trong
thế gian hoặc do nhận định sai lầm cho một số giá trị của
con người là tuyệt đối đến nỗi lấy chúng thay thế cho chính
Thiên Chúa. Ngay cả nền văn minh hiện đại nhiều lúc có thể
làm cho khó đến với Thiên Chúa hơn, không phải tự nó, nhưng
vì nó quá bám víu vào những thực tại trần gian.
Quả thực,
những người không nghe theo tiếng nói của lương tâm, cố tình
loại trừ Thiên Chúa ra khỏi lòng mình và tránh né những vấn
đề tôn giáo, chắc chắn họ mắc lỗi. Song chính những tín hữu
nhiều lúc cũng có một phần trách nhiệm về vấn đề này. Bởi vì
chủ nghĩa vô thần nói chung không phải do một nguyên nhân
duy nhất, nhưng trái lại nó phát sinh do nhiều nguyên nhân.
Trong những nguyên nhân ấy còn phải kể tới phản ứng chỉ
trích chống lại các tôn giáo, hơn nữa ở một vài nơi, còn
chống lại cả Kitô giáo. Tín hữu có thể chịu phần trách nhiệm
không phải là nhỏ trong việc khai sinh vô thần, hoặc bởi xao
lãng việc giáo dục đức tin, hoặc trình bày sai lạc về giáo
lý, hoặc do những thiếu sót trong đời sống tôn giáo, luân lý
và xã hội. Phải nói rằng họ che giấu hơn là bày tỏ bộ mặt
đích thực của Thiên Chúa và tôn giáo.
20. Vô thần có hệ thống.
Vô thần hiện nay nhiều khi cũng được trình bày như một hệ
thống; không kể tới những nguyên nhân khác, hệ thống này quá
nhấn mạnh đến khát vọng được tự lập của con người đến độ làm
cho nó khó chấp nhận bất cứ sự lệ thuộc nào vào Thiên Chúa.
Những người chủ trương thuyết vô thần như vậy cho rằng tự do
hệ tại ở con người là chính cùng đích cho mình, là người tạo
nên và điều khiển
24* lịch sử riêng của mình. Họ tưởng rằng quan
niệm trên không thể đi đôi với sự nhìn nhận Thiên Chúa là
Ðấng tác thành và là cùng đích của mọi sự, hay ít ra quan
niệm như thế thì quả quyết có Thiên Chúa cũng bằng thừa. Chủ
thuyết này có thể được cổ võ thêm vì sự tiến triển về kỹ
thuật hiện nay đem lại cho con người cảm tưởng mình đầy thế
lực.
Trong số
những hình thức vô thần hiện nay, không thể bỏ qua một hình
thức vô thần mong giải phóng con người, nhất là giải phóng
con người về phương diện kinh tế và xã hội. Hình thức vô
thần này cho rằng tự bản chất, tôn giáo vẫn ngăn cản sự giải
phóng trên, vì khi gây cho con người niềm hy vọng vào cuộc
sống mai hậu và hão huyền, tôn giáo đã làm cho họ xao lãng
việc xây dựng xã hội dương thế này. Bởi vậy, những người chủ
trương lý thuyết ấy, một khi lên nắm chính quyền, họ kịch
liệt chống lại tôn giáo, dùng cả những biện pháp cưỡng bách
của chính quyền để truyền bá thuyết vô thần nhất là trong
phạm vi giáo dục thanh thiếu niên.
21. Thái độ của Giáo Hội đối với
chủ nghĩa vô thần. Trung thành với Thiên Chúa
cũng như với con người, Giáo Hội không thể không tiếp tục
lên án với nỗi đau buồn và với tất cả sự cương quyết, như đã
từng lên án
16, những chủ thuyết vô thần và những hành động
nguy hại đi ngược lại lý trí và kinh nghiệm chung của con
người cũng như làm cho con người mất đi sự cao cả bẩm sinh
của mình.
Tuy nhiên
Giáo Hội vẫn cố gắng tìm hiểu những nguyên nhân chối từ
Thiên Chúa tiềm ẩn trong tâm trí những người vô thần và ý
thức được tầm quan trọng của những vấn đề do vô thần khơi
lên và vì yêu thương mọi người, nên Giáo Hội thấy cần phải
cứu xét những nguyên nhân ấy kỹ lưỡng và sâu xa hơn.
Giáo Hội
cho rằng nhìn nhận Thiên Chúa không có gì nghịch lại với
phẩm giá con người, vì phẩm giá ấy đặt nền tảng và nên hoàn
hảo trong chính Thiên Chúa: bởi vì con người có trí tuệ và
tự do được Thiên Chúa, Ðấng tạo dựng đặt để trong xã hội,
nhưng nhất là vì con người được gọi đến thông hiệp với chính
Thiên Chúa và tham dự vào hạnh phúc của Ngài như con cái.
Ngoài ra, Giáo Hội còn dạy rằng hy vọng vào đời sống mai sau
không làm giảm tầm quan trọng những bổn phận ở trần gian này
mà trái lại còn thêm những động lực mới giúp hoàn tất những
bổn phận ấy. Vả lại, nếu thiếu căn bản là Thiên Chúa và
thiếu niềm hy vọng vào đời sống trường cửu thì phẩm giá con
người sẽ bị tổn thương cách trầm trọng như thường thấy ngày
nay, và những bí ẩn về sự sống, sự chết, về tội lỗi và đau
khổ vẫn không giải đáp được, như thế con người nhiều khi rơi
vào tuyệt vọng.
Trong khi
đó, mỗi người vẫn còn là một câu hỏi chưa giải đáp cho chính
mình, một câu hỏi chỉ thấy lờ mờ. Bởi vì có những lúc, nhất
là trong những biến cố lớn lao của cuộc sống, không ai có
thể hoàn toàn tránh được câu hỏi nói trên. Chỉ một mình
Thiên Chúa là Ðấng kêu gọi con người suy nghĩ sâu xa hơn và
tìm hiểu khiêm tốn hơn mới đem lại được câu giải đáp hoàn
toàn và hết sức chắc chắn.
Ðể đem lại
phương thuốc chữa trị vô thần, người ta phải cậy nhờ vào
giáo lý được trình bày một cách thích hợp và nhờ đó vào đời
sống thanh khiết của Giáo Hội cũng như của các chi thể của
Giáo Hội. Bởi vì nhiệm vụ của Giáo Hội là làm sao cho Thiên
Chúa Cha và Chúa Con nhập thể trở nên hiện diện và như thể
thấy được bằng cách chính Giáo Hội tự đổi mới và không ngừng
tinh luyện chính mình
17 dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ðiều đó
trước hết nhờ chứng tá của một đức tin sống động và trưởng
thành, nghĩa là một đức tin đã được huấn luyện để có thể
sáng suốt nhận định và thắng vượt những khó khăn ấy. Rất
nhiều vị tử đạo đã và còn đang hùng hồn làm chứng cho đức
tin ấy. Ðức tin đó phải biểu lộ sự phong phú của mình bằng
cách thấm nhập vào toàn thể đời sống của các tín hữu, kể cả
đời sống thế tục, và thúc đẩy họ sống công bằng, bác ái nhất
là đối với người nghèo khổ. Sau hết, điều có thể làm chứng
về sự hiện diện của Thiên Chúa hơn cả là đức ái huynh đệ của
các tín hữu như họ đồng tâm nhất trí cộng tác cho đức tin
Phúc Âm
18 và tỏ ra họ là dấu chỉ hiệp nhất.
Thực vậy,
Giáo Hội dù hoàn toàn bác bỏ thuyết vô thần, nhưng vẫn thành
thực tuyên bố rằng mọi người, dù tin hay không tin, cũng đều
phải trợ lực cho việc xây dựng thế giới này được hợp lý, là
nơi họ đang chung sống: điều ấy chắc chắn không thể có được
nếu thiếu cuộc đối thoại thành thực và khôn ngoan. Bởi vậy
Giáo Hội phàn nàn về sự kỳ thị giữa những người tin và không
tin do một số nhà lãnh đạo quốc gia gây ra một cách bất công
khi không nhìn nhận những quyền lợi căn bản của con người.
Riêng đối với các tín hữu, Giáo Hội đòi cho họ phải được tự
do đích thực để họ có thể xây dựng đền thờ Thiên Chúa ngay
tại trần gian này. Ðối với những người vô thần, Giáo Hội
nhân ái mời gọi họ hãy nghiên cứu Phúc Âm Chúa Kitô với một
tâm hồn cởi mở.
Bởi vậy,
Giáo Hội đã biết rõ sứ điệp của mình phù hợp với những khát
vọng thầm kín nhất của lòng người, khi Giáo Hội bênh vực
thiên chức con người và do đó đem lại niềm hy vọng cho những
ai đã thất vọng về vận mạng cao cả của mình. Sứ điệp của
Giáo Hội chẳng những không làm suy giảm con người mà trái
lại còn đổ tràn ánh sáng, sự sống và tự do để giúp con người
tiến bộ. Ngoài sứ điệp đó không còn gì khác có thể thỏa mãn
được lòng người. "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con để
chúng con đến với Chúa, và tâm hồn chúng con còn thao thức
cho tới khi được an nghỉ trong Chúa"
19.
22. Chúa Kitô, Con Người Mới.
Thực vậy, mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ
trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Bởi vì Adam con người đầu
tiên đã là hình bóng của Adam sẽ đến
20, là Chúa Kitô. Chúa Kitô, Adam mới, trong khi
mạc khải về Chúa Cha và tình yêu của Ngài, đã cho con người
biết rõ về chính con người và tỏ cho họ biết thiên chức rất
cao cả của họ. Bởi vậy không lạ gì khi những chân lý đã nói
ở trên đều tìm thấy nguồn gốc của chúng và đạt tới tột điểm
nơi Người.
Là "hình
ảnh của Thiên Chúa vô hình" (Col 1,15)
21, chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại
cho con cháu của Adam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên
tổ làm sai lệch. Bởi vì nơi Người bản tính nhân loại đã được
mặc lấy chứ không bị tiêu diệt
22, do đó chính nơi chúng ta nữa bản tính ấy cũng
được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt. Bởi vì, chính Con
Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất
cả mọi người. Người đã làm việc với bàn tay con người, đã
suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con
người
23, đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi
trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa
chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi
24.
Là Chiên vô
tội Người tự ý đổ máu ra để cho chúng ta được sống, và chính
trong Người Thiên Chúa đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa
và hòa giải giữa chúng ta với nhau
25 cũng như đem chúng ta ra khỏi ách nô lệ của ma
quỉ và tội lỗi, do đó mỗi người chúng ta đều có thể nói như
Thánh Tông Ðồ rằng: Con Thiên Chúa "đã yêu thương tôi, lại
hiến thân cho tôi nữa" (Gal 2,20). Chịu đau khổ cho chúng
ta, không những Người nêu gương để chúng ta theo vết chân
Người
26, nhưng Người còn mở ra con đường mới để nếu
chúng ta theo Người thì sự sống và cái chết sẽ được thánh
hóa và có một ý nghĩa mới.
Con người
Kitô hữu khi trở nên giống hình ảnh Chúa Con là Trưởng Tử
trong đoàn anh em đông đúc
27, họ nhận được "những hoa trái đầu mùa của Thánh
Thần" (Rm 8,23), nhờ đó họ có thể chu toàn lề luật yêu
thương mới
28. Nhờ Thánh Thần làm "bảo chứng cho quyền thừa
tự" (Eph 1,14), toàn thể con người được canh tân từ nội tâm
cho tới khi "thân xác được cứu rỗi" (Rm 8,23): "Nếu Thánh
Thần Chúa là Ðấng đã khiến Chúa Giêsu từ kẻ chết sống lại cư
ngụ trong anh em, chính Ðấng đã khiến Chúa Giêsu Kitô từ kẻ
chết sống lại đó cũng sẽ làm sống động thân thể hay hư nát
của anh em nhờ Thánh Thần Ngài ở cùng anh em", (Rm8,11)
29. Người Kitô hữu chắc chắn cần thiết và có bổn
phận chiến đấu chống sự dữ khi phải trải qua nhiều gian nan
cũng như phải chết nữa. Nhưng vì được dự phần vào mầu nhiệm
phục sinh,
25* được đồng hóa với cái chết của Chúa Kitô, được
mạnh mẽ nhờ đức cậy, họ sẽ được sống lại
30.
Ðiều nói
trên không phải chỉ có giá trị cho các tín hữu nhưng cho tất
cả những ai có thiện chí được ơn thánh hoạt động một cách vô
hình trong tâm hồn
31. Thực vậy, vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người
32 và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực ra là
duy nhất, nghĩa là do Thiên Chúa, cho nên ta phải tin chắc
rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào
mầu nhiệm Phục Sinh ấy, cách nào đó chỉ có Chúa biết thôi.
Ðó là tính
chất và sự cao cả của mầu nhiệm con người, mầu nhiệm được
Mạc Khải Kitô giáo soi sáng cho các tín hữu. Vậy nhờ Chúa
Kitô và trong Chúa Kitô bí ẩn về đau khổ và sự chết được
sáng tỏ, bí ẩn đó đè bẹp chúng ta nếu chúng ta không biết
đến Phúc Âm. Chúa Kitô đã sống lại nhờ sự chết của mình.
Người đã hủy diệt sự chết và Người đã ban cho ta dồi dào sự
sống
33 để là con cái trong Chúa Con chúng ta kêu lên
trong Thánh Thần: Abba, lạy Cha!
34.
Chú
Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo
trước)
23*
Công Ðồng nhắc lại rất vắn tắt nhiều khía cạnh của hiện
tượng đi ngược lại với phẩm giá của con người hơn cả: đó là
vô thần. Nhiều Nghị Phụ đã muốn lên án vô thần một lần nữa,
nhất là vô thần cộng sản. Nhưng tinh thần mới (x. lời giới
thiệu) đã thắng thế.
1) Hình thức (số 19b): Công Ðồng nhắc lại
nhiều hình thức khác nhau do một số lý do: a) vì triết
thuyết (phủ nhận Thiên Chúa; quả quyết con người không thể
biết gì về Chúa; đặt vấn đề về Thiên Chúa một cách lệch lạc
vô nghĩa); b) vì đầu óc khoa học (muốn áp dụng khoa học vào
phạm vi ở ngoài phạm vi của nó; do đó không nhận chân lý
tuyệt đối); c) vì chủ nghĩa nhân bản (quá đề cao con người;
Thiên Chúa không quan trọng; coi giá trị nhân bản như tuyệt
đối; hai hình thức trong số 20 cũng có tính cách nhân bản:
con người phải hoàn toàn tự trị không cần đến Chúa; hay là
phải hoàn toàn tự lập về kinh tế xã hội không bị tôn giáo
ràng buộc); d) vì quan niệm sai lầm về Chúa (từ chối một
Thiên Chúa không phải là do Phúc Âm cho biết; tin nơi Thiên
Chúa để làm gì?); e) vì vấn nạn về sự dữ; f) vì đầu óc phàm
trần (do văn minh hiện đại dễ gây nên).
2) Nguyên nhân: Ngoài lý do vừa kể, vô thần
có thể có: a) do tội của cá nhân; b) nhưng một phần cũng có
thể vì các tín hữu chưa được đức tin đào tạo, vì nhiều khi
trình bày đức tin cách khờ khạo, vì đời sống không hợp với
đức tin, đặc biệt là sinh hoạt xã hội (số 19c).
3) Thực tại của Giáo Hội: Vô thần là trái
với lý trí, với kinh nghiệm chung của nhân loại, với phẩm
giá của con người, a) thì Giáo Hội không thể không lên án
nó; b) nhưng đàng khác Giáo Hội muốn đối thoại với người vô
thần, trình bày với họ rằng vô thần thiếu nền tảng vững chắc
(phẩm giá con người đòi hỏi phải tùng phục Thiên Chúa, và
lòng tin nơi Thiên Chúa không ngăn cản con người lo cho công
việc phải làm để xây dựng thế giới, các thắc mắc căn bản,
trước hết về ý nghĩa chính con người, không giải thích được;
c) Giáo Hội muốn các tín hữu dấn thân vào công việc chung
đó; d) mong đợi người vô thần sẽ tôn trọng quyền tự do của
họ và hơn nữa sẽ thành thật tìm hiểu tinh thần Phúc Âm; e)
còn tính hữu không những phải biết trình bày đức tin, mà
nhất là phải sống với đức tin sống động và với đức mến nồng
nàn để mọi người có thể nhận thấy Chúa qua Giáo Hội.
Về vô thần cộng sản, Công Ðồng chỉ nhắc lại
hai tính cách, dù chưa đủ để diễn tả nó hoàn toàn, nhưng
cũng quan trọng: a) tính cách nhân bản nhằm giải thoát con
người trong lãnh vực kinh tế, xã hội; b) tính cách độc tài
và không chịu điều đình khi chiếm quyền chính trị.
Mác xít chủ nghĩa là một khái niệm cho rằng
thế giới tự nó là hoàn toàn và mang đầy đủ ý nghĩa, vì thế
nó loại trừ mọi tín ngưỡng tôn giáo. Lịch sử, con người, xã
hội v.v... đều có ý nghĩa và phát triển theo đòi hỏi biện
chứng pháp. Nó mang tính cách tín ngưỡng hơn là khoa học vì
mục đích cuối cùng là giải thoát (cứu chuộc) con người khỏi
các sự mất nhân cách, cũng như vì đem lại một niềm hy vọng
(thay thế đức cậy) vào sự giải thoát đó trong tương lai.
Cũng như Giáo Hội, các tín hữu phải loại bỏ
thái độ thù hằn, tranh đấu, nghi ngờ... mà trong khi lên án
vô thần (hơn nữa chính vì thế) phải tìm hiểu tâm trạng của
người vô thần để cùng nhau xây dựng thế giới, và nếu có thể
được, để đối thoại với họ. Ðối thoại một cách thành thực và
khôn ngoan, không giấu giếm đức tin mình mà trái lại, vì
không thể đối thoại thực sự khi không biết minh chứng bằng
đời sống mình trước hết và bằng việc trình bày giáo lý một
cách đầy đủ và thích hợp (x. thêm số 28b).
Ðối thoại như vậy phải chăng là mới lạ?
Nhưng Công Ðồng đã nhắc cho chúng ta rằng chúng ta đang sống
giai đoạn mới (x. số 4b).
24*
Công Ðồng dùng danh từ Hy Lạp demiurgus. Một số triết gia
xưa gọi demiurgus là một thần tạo dựng vũ trụ mặc dầu không
phải là Ðấng Tối Cao.
25
Xem 2Cor 5,18-19; Col 1,20-22.
26
Xem 1P 2,21; Mt 16,24; Lc 14,27.
27
Xem Rm 8,29; Col 1,18.
28
Xem Rm 8,1-11.
29
Xem 2Cor 4,14.
30
Xem Ph 3,10; Rm 8,17.
31
Xem CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium,
ch.II, số 16: A AS 57(1965), trg 20.
32
Xem Rm 8,32.
33
Xem Liturgia Paschalis Byzantina.
34 Xem Rm 8,15; Gal
4,6; Gio 1, 12 và 1Gio 3,1.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HIỆP THÔNG THEO
TRUYỀN THỐNG |
1- CÁC GIÁO PHỤ
Thánh Irenée :
Hiệp thông vì cùng một đức tin duy nhất.
“Nhiều dân tộc, nhiều ngôn ngữ khác
nhau, nhưng cùng một đức tin duy nhất Giáo hội, mặc dầu tản
mác trên toàn thế giới cho đến mút cùng trái đất, nhưng đã
lãnh nhận từ các tông đồ và từ môn đệ của các ngài, niềm tin
vào chỉ một Thiên Chúa là Cha toàn năng… và một Đức Giêsu
Kitô, Con Thiên Chúa … và tin vào Thánh Thần…Giáo hội, dầu
tản mác khắp nơi trên thế gian, đã ân cần gìn giữ những điều
đó, như thể chỉ ở trong một nhà. Giáo hội tin vào đó theo
cùng một cách thức, như thể chỉ có một tâm hồn, một trái tim
và Giáo hội đồng thanh rao giảng, giáo huấn, truyền đạt
những điều đó như thể chỉ có một miệng lưỡi” (Saint Irenee
de Lyon. Contre
les hérésies, 1. 10. 1- 2. Traduction A. Rousseau. Le Cerf.
Paris. 1984. P. 65- 66).
Như thế, sự hiệp nhất
trong đức tin đòi hỏi phải hiệp nhất trong nội dung đức tin,
nghĩa là mọi người ở mọi nơi đều tin những điều giống nhau,
và điều đó có thể kiểm chứng được.
Thánh Ignace d’ Antioche : Hiệp thông được đặt nền tảng trên
Thiên Chúa và Đức Kitô.
Thánh nhân quan tâm đặc
biệt tới vấn đề hiệp nhất các Kitô hữu. Theo ngài, Giáo hội
là sự kết hợp, hiệp nhất, đồng tâm, một Agape. Đó là điều
Thiên Chúa và Đức Kitô muốn, và tất cả đều đặt nền tảng trên
Thiên Chúa và Đức Kitô. Giáo hội là Công giáo, nghĩa là phổ
quát, do sự hiệp thông giữa các Giáo hội với nhau, một sự
kết hợp vừa thần bí, vừa luân lý, được ban trong Đức Kitô và
trong Thần khí, đồng thời là đối tượng của một nỗ lực không
ngừng.
Trong thư gởi tín hữu
Ephêsô, ngài viết: “Anh em, mọi người và từng người, hãy làm
nên một ban hợp xướng, để trong sự hòa điệu các thanh âm của
anh em, khi bắt theo cung giọng của Thiên Chúa trong hiệp
nhất, nhờ Đức Giêsu Kitô, anh em cất lên, bằng cùng một
tiếng hát, một thánh thi dâng lên Cha, ngõ hầu Người lắng
nghe anh em và nhìn nhận anh em, nhờ những việc lành anh em
làm như là chi thể Con của Người. Vì thế, thật ích lợi cho
anh em, nếu anh em ở trong sự hiệp nhất vô phương trách cứ,
hầu mãi mãi được thông dự vào Thiên Chúa”.
Trong thư gởi tín hữu
Magnésie, ngài khuyên nhủ họ: “Chớ gì giữa anh em, không một
điều gì có thể phân rẽ anh em… cũng như Chúa đã không làm
điều gì, dù là tự mình hay qua các Tông đồ mà lại không có
Cha, vì Ngài hằng hiệp nhất với Cha. Cũng vậy, cả anh em
nữa, anh em đừng làm bất cứ điều gì mà lại không có Giám mục
và các Trưởng lão (Prebytres): điều gì anh em làm theo riêng
mình thì đừng cố coi đó là hợp lý, mà phải là những gì anh
em làm chung với nhau: một kinh nghiệm duy nhất, một lời
khẩn cầu duy nhất, một Thần khí duy nhất, một niềm hy vọng
duy nhất trong đức ái, trong niềm vui vô phương trách cứ, đó
chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng đáng yêu mến hơn tất cả. Tất
cả anh em hãy nhanh chân chạy như thể về một Đền thờ duy
nhất của Thiên Chúa, như thể quanh một bàn thờ duy nhất, về
Đức Giêsu Kitô duy nhất, Đấng đã xuất tự Cha duy nhất, Đấng
đã ở trong Duy nhất và đã trở về với Người” (Sources
Chrétiennes, số 10 bis, tr. 61. 81- 87).
Maxime le Confesseur : Hiệp thông vì cùng thuộc về Đức Kitô.
Tất cả mọi người, dù
khác biệt nhau, đều sinh thành trong Hội thánh và nhờ hoạt
động của Hội thánh mà được tái sinh và tái tạo nhờ Thánh
Thần. Với mọi người, Hội thánh đã trao ban và đang trao ban
cách đồng đều một hình thái và một danh hiệu thần linh duy
nhất, đó là thuộc về Đức Kitô và được mang danh Ngài. Hội
thánh cũng trao ban cho mọi người, thể theo đức tin, một
cách thế hiện hữu duy nhất, thuần nhất và bất khả phân chia…
Chính vì mọi người mà tuyệt đối không ai bị tách ra khỏi
cộng đoàn, bởi vì tất cả cùng quy tụ và được hiệp nhất với
nhau nhờ hoạt động của ân sủng đức tin. Các tín hữu, dù khác
biệt nhau, nhưng họ được kết hợp lại với nhau trong Hội
thánh nhờ đức tin (cf. Maxime.
Mystagogie I, PG 91, 665C- 668C).
Thánh Augustinô :
Nhờ Thánh Linh.
“Hãy nhìn xem các chi thể chúng ta;
thân thể do nhiều chi thể họp thành; nhưng chỉ có một tâm
linh sinh trưởng trong mọi chi thể … Tâm linh chúng ta như
thế nào, nghĩa là linh hồn chúng ta đối với các chi thể mình
thế nào thì Thánh linh cũng đối với các chi thể Chúa Kitô,
với Thân Thể Chúa Kitô là Giáo hội như thế” (Sermo 268, 2;
PL 38, 1232).
Thánh Gioan
Chrysostome : Nhờ Thánh Linh.
“Sự duy nhất của Thánh linh là gì? Cũng
như trong thân thể chỉ có một tâm linh ở trong tất cả và tạo
thành sự hiệp nhất cho tất cả, vì nó ở trong mọi chi thể;
Thánh linh cũng ở trong Giáo hội như vậy. Ngài đã được ban
để kết hợp mọi dị biệt do chủng tộc và phong hóa: kẻ già với
người trẻ, giàu với nghèo, trẻ nhỏ với người lớn, đàn ông
với đàn bà, mọi người trong Giáo hội trở nên một điều thôi,
được kết hợp chặt chẽ hơn là trong một thân thể duy nhất
(Hem. 9, 3; PG 62, 72).
Thánh Cyrille :
Giáo hội duy nhất nhờ bí tích Thánh Thể.
“Tuy chúng ta khác nhau do sự khác biệt
của mỗi người, và vì chúng ta có linh hồn và thể xác riêng,
nhưng người Con một đã đưa ra phương thế để chúng ta được đi
vào trong sự duy nhất với Thiên Chúa và duy nhất với nhau:
khi hiến thánh trong cùng một thân thể duy nhất, thân thể
của Ngài, Ngài làm cho họ được trở nên đồng thân thể với
chính Ngài và đồng thân thể với nhau. Nếu tất cả chúng ta
tham dự vào cùng một bánh, thì chúng ta tất cả trở nên cùng
một thân thể. Đức Kitô không hề bị bất cứ sự phân chia nào.
Chúng ta tất cả được hiệp nhất với cùng một Đức Kitô nhờ
Thánh Thể của Ngài, vì chúng ta đón nhận Ngài như là Đấng
duy nhất và bất khả phân chia, vào trong chính thân thể của
chúng ta…Nếu tất cả chúng ta cùng đồng thân thể với nhau, và
cả với Ngài nữa, bởi lẽ Ngài đến trong chúng ta bằng chính
xác thịt Ngài, thì rõ ràng lẽ nào chúng ta lại không là một
với nhau và là một trong Đức Kitô? Đức Kitô quả thực là mối
dây duy nhất” - Comm. Sur Jean XI, 11 (Jean 17, 20- 21) PG
74, 560 AD).
Thánh Hiêrônimô :
Phêrô và các tông đồ.
Thánh nhân viết : “Giáo hội được thiết
lập trên Phêrô; dù một chỗ khác nói rằng Giáo hội cũng được
xây trên tất cả các sứ đồ khác, … và sự bền vững của Giáo
hội cũng dựa vào họ, nhưng lý do tuyển chọn một vị duy nhất
giữa nhóm 12 là một khi đã có đầu, thì sẽ tránh được cớ ly
khai” (Adv Iovin. 1, 126).
Thánh Cyprien :
Sự hiệp thông trên bình diện hữu hình dựa trên sự kết hợp
chặt chẽ của hàng Giám mục.
Theo thánh nhân, sự duy nhất của Giáo
hội không chỉ thuộc bình diện thiêng liêng, nó còn thuộc
bình diện hữu hình, dựa trên sự kết hợp chặt chẽ của hàng
Giám mục. Hàng Giám mục này tạo nên một “đoàn thể”, mà các
thành viên phải gìn giữ sự hiệp nhất với nhau. Giám mục chỉ
có quyền với tư cách là thành viên của đoàn thể này. Ngài là
dấu chỉ và là trung tâm hiệp nhất của mỗi Giáo hội địa
phương.
Sự hiệp nhất của Giáo hội có nguồn gốc
duy nhất được cụ thể hóa nơi con người Phêrô, rồi nơi Giáo
hội do ngài “thiết lập” và nơi vị thủ lãnh Giáo hội. Như
vậy, Giáo hội ở Rôma là nguồn hiệp nhất cho mọi Giáo hội:
“Giáo hội đứng đầu mà từ đó phát xuất sự hiệp nhất tư tế
(hiệp nhất của hàng Giám mục )”. “Chúa nói với Phêrô: và Ta,
Ta bảo ngươi: ngươi là Đá và trên Đá ấy Ta sẽ xây Hội thánh
của Ta. Sau khi Phục sinh, cũng chính với Phêrô, Ngài nói:
Hãy chăn dắt chiên của Ta. Ngài xây Giáo hội chỉ trên một
người và Ngài trao phó các chiên của Ngài cho ông chăn dắt.
Và mặc dầu Chúa trao cho mọi Tông đồ quyền bính ngang nhau,
song lại chỉ lập một ngai tòa duy nhất và bằng uy quyền của
Ngài, Ngài đã sắp đặt nguồn gốc và hình thái của sự duy
nhất. Thánh Cyprien còn định nghĩa Giáo hội là “một dân được
hiệp nhất lại nhờ sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần” (Kinh Lạy Cha, số 23; cf. LG, số 4).
2- CÔNG ĐỒNG
VATICANÔ II
Công đồng Vaticanô trong hiến chế
“Lumen gentium” đã xác quyết tự bản chất Giáo hội là bí
tích, nghĩa là vừa là dấu chỉ, vừa là phương thế hiệp nhất
với Thiên Chúa và với nhân loại :
“Vì Giáo hội ở trong Chúa Kitô như bí
tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kiết hiệp mật thiết và sự
hiệp nhất của toàn thể nhân loại”. (GH số 1).
“ Thiên Chúa triệu tập tất cả những
người tin kính và mong đợi Đức Kitô, Đấng ban ơn cứu độ và
hiệp nhất, nguyên lý của sự hòa bình. Ngài thiết lập họ
thành Giáo hội để Giáo hội trở nên bí tích hữu hình của sự
hiệp nhất cứu độ ấy cho toàn thể và cho mỗi người”. (GH số
9)
Sự hiệp nhất ấy cần phải được phát
triển không ngừng :
“Mọi người được mời gọi gia nhập dân
tộc mới của Thiên Chúa. Vì thế, dân mới này, một dân duy
nhất và hiệp nhất, có bổn phận phải lan rộng khắp thế
giới,trải qua mọi thế hệ…” (GH số 13).
Vì thế, mỗi người chúng ta có bổn phận
phải góp phần nhỏ bé của mình vào sự hiệp nhất ấy bằng sự
thông hiểu và kính trọng lẫn nhau :
“ Mọi người đều được mời gọi vào sự
hiệp nhất công giáo này của Dân Thiên Chúa, sự hiệp nhất ấy
tiên báo và cổ võ nền hòa bình phổ quát. Họ thuộc về hoặc
hướng về sự hiệp nhất đó dưới nhiều thể cách khác nhau, được
sắp xếp hoặc họ là tín hữu công giáo, hay là những người
tin Chúa Kitô, hoặc sau cùng tất cả mọi người không trừ ai
đều được ơn Thiên Chúa kêu mời lãnh nhận phần rỗi.” (GH số
13)
Trong sắc lệnh về Hiệp nhất, Công đồng
cũng kêu gọi :
“Sự hoán cải tâm hồn và đời sống thánh
thiện làm một với những lời cầu khẩn chung hay riêng cho sự
hiệp nhất các Kitô hữu phải được coi như là linh hồn của
tất cả phong trào hiệp nhất và xứng đáng mệnh danh là sự
hiệp nhất thiêng liêng.” (HN số 8)
Đặc biệt, Công đồng nhắc nhở chúng ta
hãy cầu nguyện cho sự hiệp nhất ấy :
“Người công giáo thường có thói quen
hội nhau để cầu nguyện cho Giáo hội được hiệp nhất, lời cầu
nguyện mà chính Đấng Cứu Thế trước ngày tử nạn đã khẩn khoản
dâng lên Chúa Cha : Xin cho tất cả nên một (Gio 17,21).
Trong vài trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như những dịp được
chính thức tổ chức cầu nguyện cho hiệp nhất và trong các
buổi hội thảo về hiệp nhất, chẳng những người công giáo được
phép mà còn phải được khuyến khích hiệp nhau cầu nguyện với
các anh em ly khai. Những kinh nguyện chung như thế là
phương tiện rất hữu hiệu để xin ơn hiệp nhất và tiêu biểu
thực sự mối dây còn đang liên kết người công giáo với các
anh em ly khai: Vì đâu có hai ba người nhân danh Thày mà hội
họp lại, Thày sẽ ở giữa họ (Mt 18,20)”. (HN số 8)
3- ĐỨC THÁNH CHA
GIOAN PHAOLÔ II
Được chuẩn bị trong Cựu ước, được Đức
Kitô thành lập và được Chúa Thánh Thần giới thiệu cho thế
giới trong ngày lễ Ngũ tuần :
- Giáo hội là Dân Thiên Chúa, là Thân
Thể Chúa Kitô, là Đền thờ Chúa Thánh Thần (Ecclesia in Asia
số 24).
- Giáo hội là chương trình tình yêu
Thiên Chúa dành cho nhân loại : “Giáo hội trong thế giới này
chính là kế hoạch yêu thương nhân loại của Thiên Chúa mà con
người có thể trông thấy chính là bí tích của sự cứu độ”.
(Ecclesia in Asia số 24). Nói cách khác, Giáo hội phải là
dấu chỉ hữu hình của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại,
thấy Giáo hội là cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa.
- Giáo hội là bí tích của sự hiệp thông
giữa Thiên Chúa với con người : “ Dù cưu mang trong mình
nhiều con người tội lỗi chăng nữa, Giáo hội cũng phải được
chúng ta coi là nơi ưu tiên cho Thiên Chúa và con người gặp
gỡ nhau, là nơi Thiên Chúa quyết định mặc khải đời sống nội
tâm nhiệm màu của mìnhvà thực hiện chương trình cứu độ thế
giới.” (Ecclesia in Asia số 24).
- Đồng thời, Giáo hội còn là bí tích
của sự hiệp thông giữa con người với nhau : “Một khi kết hợp
với Chúa Con trong mối dây yêu thương của Chúa Thánh Thần,
các Kitô hữu cũng kết hợp với Chúa Cha và từ sự hiệp thông
này mà các Kitô hữu được hiệp thông với nhau qua Đức Kitô
trong Chúa Thánh Thần.” (Ecclesia in Asia số 24).
Sự hiệp thông trước hết phải được thể
hiện trong nội bộ của Giáo hội :
Đối với Giáo hội toàn cầu : Các Giáo
hội địa phương phải hiệp thông cùng đấng kế vị thánh Phêrô :
“Mỗi Giáo hội địa phương phải được xây dựng vững vàng bằng
cách minh chứng tinh thần hiệp thông với Giáo hội, vì đây
chính là bản chất làm cho các cộng đoàn ấy là Giáo hội.”
(Ecclesia in Asia số 25)
Đối với các Giáo hội địa phương : Các
cộng đoàn phải hiệp thông với vị Giám mục của mình: “Giáo
phận là sự hiệp thông của các cộng đoàn chung quanh vị mục
tử, trong đó giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân tham gia cuộc đối
thoại bằng đời sống và bằng tâm hồn, cuộc đối thoại được
Chúa Thánh Thần nâng đỡ.” (Ecclesia in Asia số 25).
Mỗi Giáo hội địa phương phải trở thành
“một Giáo hội tham gia”, nghĩa là mọi người cùng cộng tác
với nhau trong bổn phận của mình : “Giáo hội tham gia là
Giáo hội trong đó mọi người đều sống đúng ơn gọi riêng của
mình và thi hành đúng vai trò riêng của mình.” (Ecclesia in
Asia số 25). Giáo hội làm phát triển cách phong phú các đặc
sủng của mỗi thành phần trong Giáo hội, nhất là của giáo
dân, tu sĩ trong việc lập các kế hoạch mục vụ thông qua Hội
đồng mục vu và Hội nghị giáo xứ (Ecclesia in Asia, số 25).
Giáo hội hiệp thông là Giáo hội mà mỗi thành phần đều có
trách nhiệm và không ai nắm độc quyền Thánh Thần. Tông huấn
nhắc nhở ta phải quan tâm đến các thành phần nghèo khổ, giới
trẻ trong giáo xứ, thiết lập những cộng đoàn Giáo hội cơ bản
và gầy dựng các phong trào canh tân.
Tóm lại, sự hiệp thông được diễn tả qua
việc liên kết với Giáo hội toàn cầu qua Đấng kế vị thánh
Phêrô, với giáo phận qua Đức Giám mục và với giáo xứ qua
những vị chủ chăn của mình.
GSVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
Tác phẩm "Giáo hội cần loại Linh mục nào"? (tiếp theo) |
Lm Giuse Lê Công Đức
chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD IMPERILED,
Tác giả:
BERNARD HARING, C.SS.R.
KINH NGHIỆM GÓP NHẶT
TRÊN ĐƯỜNG ĐỜI TÔI (tiếp theo
kỳ trước)
Giữa đám dân tị nạn
Ít lâu sau chiến tranh, niềm hy vọng
thừa sai của tôi được hiện thực hóa giữa những nạn nhân
chiến tranh. Tôi và vài linh mục đồng sự trải qua một số năm
rao giảng Tin Mừng cho những người tị nạn Công Giáo không
nhà cửa ở Đức – họ sống trong những vùng, mà cho tới thời
ấy, là những vùng riêng của Tin Lành. Không có một tổ chức
giáo xứ hay cộng đoàn Công Giáo nào tồn tại ở đấy. Suốt thời
gian đó, mỗi năm tôi bỏ ra khoảng mười tuần để viếng thăm
các vùng nói trên với ba linh mục khác – nhưng mỗi người
chúng tôi phụ trách các thị trấn hay các làng riêng.
Ban đầu, chúng tôi thăm từng gia đình
trong một khu vực nào đó - và đôi khi vị mục sư Tin Lành cho
chúng tôi mượn nhà thờ để qui tụ và cử hành phụng tự. Tuy
nhiên, đa số các trường hợp, chúng tôi thuê một vũ trường
hay một căn phòng rộng để làm địa điểm qui tụ. Việc ăn uống
ngủ nghỉ của chúng tôi do chính những người dân tị nạn này
sắp xếp.
Tại một thị trấn nhỏ, không có người tị
nạn Công Giáo nào mời tôi ngủ lại trong nhà họ, vì thế tôi
đi tới một phòng trọ của một người Tin Lành. Chủ nhân cung
cấp cho tôi một chỗ vốn thường dành cho những người ăn xin
lang thang. Tôi không ngạc nhiên khi nhận thấy các tấm trải
giường lâu rồi chưa được thay. Vì những người ăn xin không
có tiền để chi trả, nên chủ phòng trọ không buồn nghĩ đến
chuyện săn sóc giường chiếu cho họ. Khi gia đình của một
giáo viên Tin Lành phát hiện ra tôi đang ở đấy, họ thay tấm
trải giường cho tôi, mời tôi đi ăn tối, và thậm chí báo cho
các người tị nạn Công Giáo biết về tình trạng chỗ ở của tôi.
Nhờ biến cố đó, tôi đã nhận được sự trợ giúp đáng kể của
những người tị nạn nhiệt tình liên đới với tôi.
Trước khi tôi nhận sứ vụ đặc biệt này,
với lòng hăng hái của một linh mục, tôi đã chuẩn bị mười sáu
bài giảng về các chủ đề chính của Kitô giáo, nhưng tôi đã
không bao giờ dùng đến bất cứ bài nào trong số đó! Sống gần
gũi người nghèo, tôi sớm hiểu ra rằng cách tốt nhất để rao
giảng Lời Chúa cho họ là tiên vàn phải biết lắng nghe những
ưu tư, hy vọng và niềm vui của họ.
Chính trong những năm đầy khó khăn thử
thách ấy mà tôi đã bắt đầu viết ra các tư tưởng của mình,
kết đọng lại trong tác phẩm ba tập Luật của Đức Kitô. Nếu
không có những kinh nghiệm chia sẻ cuộc sống với bao người
nghèo khổ và túng thiếu thời chiến tranh và sau chiến tranh
như thế, thì bản văn kia của tôi rất có thể đã khác đi rất
nhiều.
Quả thật, quãng thời gian đó đã giúp
tôi nhận hiểu hơn rất nhiều về con người và sứ vụ của Đức
Giêsu, Đấng đã đi khắp các thị trấn và làng mạc Galilê rao
giảng Tin Mừng cho người nghèo và là Đấng không bao giờ biết
mình sẽ tựa đầu vào đâu. Việc săn sóc và rao giảng Tin Mừng
cho các quân nhân và những người tị nạn đã trở thành một
kinh nghiệm căn bản cho tôi. Mười tám quốc gia Phi Châu mà
tôi đã phục vụ (một cách không liên tục) trong quãng thời
gian hai mươi năm sau Công Đồng Vatican II đã định hình nhãn
quan, các ý tưởng và các phương thức thi hành sứ vụ của tôi
trong Thế Giới Thứ Ba, và cũng đã hiện thực hóa những niềm
hy vọng truyền giáo trước đây của tôi gấp trăm lần.
Những kinh nghiệm vừa có sức thay đổi
đời sống vừa có tính thách đố sâu xa này đã cho phép tôi
nhận thức những vấn đề nền tảng mà tôi nghĩ rằng rất có
thể mình không bao giờ thực sự nhận hiểu nếu như mình
không sống giữa người nghèo. Những kinh nghiệm ấy cũng giúp
đào sâu nhận thức của mình về vai trò của người linh mục xét
như là môn đệ Đức Kitô. Quả thật, làm sao chúng ta có thể
thực sự chia sẻ sứ điệp Tin Mừng với những người cùng khổ
nếu chúng ta không sẵn sàng đảm nhận thân phận nghèo của họ?
Biết về cái nghèo và sống cái nghèo, hai điều ấy hoàn toàn
khác nhau. Trở thành môn đệ của Con Người, điều đó đòi hỏi
chúng ta phải suy niệm hằng ngày - ở đây, bây giờ, và trong
bối cảnh cuộc sống cụ thể - về ý nghĩa của tiếng gọi trở
thành “một người trong chúng ta”. Tất cả điều này sẽ trực
tiếp cho thấy chúng ta có thực sự “biết Đức Kitô” hay không.
Vâng, chúng ta chỉ “biết” Đức Giêsu Kitô thông qua việc dấn
thân giúp đỡ những người nghèo, những người tội lỗi, những
kẻ bị bóc lột và bất cứ ai cần chúng ta giúp đỡ.
Đánh thức ơn gọi
Tìm cách đánh thức và nuôi dưỡng các ơn
gọi truyền giáo giữa những người tị nạn, đó là một trong
những mục tiêu sứ vụ thiết thực nhất của chúng tôi. Việc
hiện thực hóa những mục tiêu đó đã nhắc tôi nhớ đến Thánh
Phaolô và các bạn đường của ngài – các ngài không bao giờ
rời một nơi bao lâu các ngài chưa phát hiện và đào tạo được
những con người có khả năng thiết lập và phát triển cộng
đoàn tín hữu, những người sẽ tiếp tục công việc của các
ngài. Tại mỗi nơi, chúng tôi có thể nhận ra những người nam
cũng như nữ sẵn sàng đồng hành với chúng tôi và - khi cần –
giới thiệu chúng tôi cho các gia đình.
Kinh nghiệm đầu tiên của tôi trong việc
tuyển chọn những người giáo dân có tiềm năng cho sứ vụ này
là trong một vùng Tin Lành đôi khi có bầu khí căng thẳng –
nơi mà những người tị nạn sống tạm bợ. Ở đó tôi đã may mắn
có hai phụ nữ cao niên thánh thiện và một phụ nữ 22 tuổi tên
là Matje. Trong khi hai phụ nữ cao niên kia tỏ ra hết sức
nhiệt thành, thì tôi cũng nhận thấy rằng họ cần điều chỉnh
một đều gì đó. Số là hai phụ nữ này khư khư yêu cầu tôi đừng
viếng thăm một gia đình Công Giáo nọ mà họ cho là quá bê
bối. Mỗi lần họ nêu chuyện này ra, tôi hết sức kiên nhẫn và
ân cần giải thích cho họ rằng tiêu điểm của sứ mạng Đức
Giêsu là tìm kiếm chính những loại người đặc biệt ấy. Đến
cuối tuần, cả hai bị sửng sốt vì những gì đã xảy ra. Họ nói:
“Tất cả những người mà chúng tôi xem là vô vọng đã bắt đầu
tham gia sinh hoạt phụng tự đầy đủ và đã trở nên những con
người hoàn toàn mới.”
Matje, một phụ nữ rất không bình
thường, là thành viên duy nhất trong gia đình quan tâm đến
đức tin Công Giáo. Hoàn toàn cởi mở đón nhận đức Kitô, cô đã
lắng nghe và nội tâm hóa Lời Chúa. Ít lâu sau đó, cô tiết lộ
cho tôi một điều cô đã hứa với Chúa: “Nếu con có thể thuyết
phục gia đình con trở lại với Giáo Hội, con nguyện sẽ trở
thành một nhà truyền giáo.” Và cô ta đã thành công một cách
kỳ diệu về cả hai phương diện ấy. Cô đã không chỉ đưa mẹ và
em gái mình trở lại trong dịp tôi đến vùng đó lần đầu tiên,
mà cô còn đưa cả bố và anh trai cô trở lại khi tôi đến đó
lần thứ ba. Rồi ít lâu sau, cô trở thành một nhà thừa sai
Benedictine rất đắc lực ở Tanzania. Nhiều năm sau, khi cả
hai chúng tôi bị bệnh ung thư, chúng tôi gặp lại nhau ở Đức.
Bất chấp tình trạng bệnh hoạn của mình (cô đã chết vì chứng
bệnh này ít lâu sau khi cô thăm tôi), niềm vui rạng rỡ của
cô không bao giờ tắt. Đó quả là một tông đồ tuyệt vời.
Tại thị trấn kế bên, một người tị nạn
và cũng là một giáo viên gốc ở Silesia - là người giúp đỡ
tôi rất đắc lực - cũng đề cập đến những “trường hợp vô vọng”
mà anh ta nghĩ là mọi nỗ lực đều vô ích. Thật cực kỳ khó để
thuyết phục anh chấp nhận quan điểm mà tôi thường xuyên nhắc
đến, đó là Đức Giêsu không bao giờ có thái độ kỳ thị đối với
bất cứ ai. Khi chuyến viếng thăm của tôi kết thúc, anh kể
cho tôi về trường hợp một phụ nữ Công Giáo - là mẹ của sáu
đứa con - đã trở thành xì căng đan trong thị trấn. Phụ nữ
này liên can đến hoạt động mại dâm với các quân nhân Mỹ. Kể
xong câu chuyện, anh thốt lên: “Là một bậc vị vọng, cha
không thể bước chân vào nhà của con mụ ấy!” Để nhắc anh nhớ
rằng điều quan trọng là phải thực thi sứ mạng của Đức Giêsu,
tôi trả lời: “Vì cả anh và tôi đều là những ‘bậc vị vọng’,
chúng ta có thể cùng nhau viếng thăm chị ấy.” Khi chúng tôi
bước vào nhà người đàn bà nói trên, chị đang có mặt với một
phụ nữ khác cũng liên can đến mại dâm. Bực bội vì sự hiện
diện của chúng tôi, chị phun ra xối xả những lời thô tục mà
cả đời mình cho tới lúc đó tôi chưa bao giờ nghe. Anh bạn
của tôi nói: “Đấy! Con đã không cảnh báo trước với cha rồi
đó sao?” Tôi trả lời: “Có lẽ chúng ta đáng nhận những lời
chửi bới của chị ấy, vì trong thâm tâm mình chúng ta đã xem
thường chị ấy!” Chiều hôm đó, người phụ nữ kia trố mắt ngạc
nhiên thấy tôi ghé thăm chị lần nữa – lúc này chị đang một
mình với các con của chị - và tôi đã tỏ ra thân thiện với
chị như thể chưa có chuyện gì xảy ra cả. Sau một cuộc chuyện
gẫu ngắn, chị hứa sẽ đến tham dự việc cử hành phụng tự của
chúng tôi hai lần, vì tôi đã đến thăm chị hai lần. Cuối cùng
chị đã vượt xa khỏi sự ‘mặc cả’ ban đầu của mình để đi bộ
năm dặm với những đứa con lớn của chị, đến tham dự với chúng
tôi vào mọi buổi tối.
Một năm sau, khi tôi trở lại, người đàn
ông giáo viên đã trở thành bạn và mạnh thường quân rất đắc
lực của tôi ấy đã nói: “Cha thật có lý. Chị ấy đã trở thành
một con người mới và các con cái chị ấy cũng đã thay đổi rất
nhiều.” Đây quả là tin mừng lớn lao. Trước hết, người mẹ goá
bụa này vốn bị khinh miệt do bởi ngôn từ thô tục của chị –
thì ra, (thật trái ngược với điều chúng tôi nghĩ ban đầu)
việc chị sử dụng ngôn từ đó không phải vì chị phản kháng
chúng tôi nhưng đúng hơn bởi vì chị bị thất đoạt[1] nghiêm
trọng. Thứ hai, nhiều người tốt đã giúp đỡ chị thoát ra khỏi
tình cảnh khốn nạn và bước vào một cuộc sống mới tốt đẹp
hơn. Và cuối cùng nhưng không kém quan trọng, người giáo
viên mạnh thường quân của tôi nói trên đã trải qua một cuộc
hoán cải trong tâm hồn, anh nhận hiểu từ kinh nghiệm này
rằng – giống như Đức Giêsu – ơn gọi cốt yếu của anh là ưu
tiên phục vụ cho những người bị xem là tội lỗi, những kẻ bị
gạt ra ngoài lề xã hội.
Thật vậy, hoạt động truyền giáo là một
nỗ lực ‘gây nhiễm’ trong đó nếu chúng ta muốn thể hiện sức
mạnh yêu thương và cứu độ của Đức Kitô thì chúng ta không
thể không nhúng tay chân mình vào sình lầy khốn nạn của con
người. Hiện diện giữa những người cùng khổ nhất để phục vụ
họ, đó là một con đường rất quan trọng để khám phá, đánh
thức và nuôi dưỡng các ơn gọi truyền giáo giữa những người
nghèo cũng như giữa bao người khác nữa xung quanh.
Một đàng, theo cách hoạt động tông đồ
của Giáo Hội sơ khai, chúng tôi đã cố gắng xây dựng những
cộng đoàn đức tin mọi nơi mà chúng tôi tới. Nhưng đàng khác,
trong khi các Kitô hữu đầu tiên không bao giờ rời một cộng
đoàn nhỏ nào nếu cộng đoàn ấy chưa được cung cấp một thừa
tác viên Thánh Thể, thì trái lại chúng tôi – do một truyền
thống nào đó và do những qui định khắt khe của giáo luật –
đã để tất cả những cộng đoàn ấy lại phía sau lưng mình trong
tình trạng không có linh mục! Dù sao, đáng ghi nhận rằng
ngay cả dù không có thánh lễ, ít nhất nhiệt tâm truyền giáo
cũng đã phát triển tại những khu vực bần cùng ấy. Thực tế
Chúa cũng ban cho tôi khả năng cổ võ các ơn gọi linh mục và
tu sĩ suốt trong thời gian đó, song rõ ràng đấy không phải
là tiêu điểm nhấn mạnh của tôi. Bởi điều quan trọng hơn
trong bổn phận của linh mục, theo tôi, là giúp người giáo
dân ý thức về ơn gọi Phép Rửa của họ – qua đó họ sẽ dấn thân
thi hành sứ mạng của mình trong Giáo Hội và trong thế giới.
Một trách nhiệm quan trọng không kém, đó là hợp tác với các
tín hữu để biện phân các nhu cầu của thời đại, để khám phá
ra những sứ vụ nào phù hợp nhất với họ, theo các khả năng
riêng của họ, và cuối cùng để nâng đỡ họ trong những sứ vụ
mà họ đã chọn lựa.
Sát cánh với các
bệnh nhân
Năm 1977, hồi tôi cần một cuộc giải
phẫu thứ hai cho căn bệnh ung thư của mình, tôi đã quyết
định đến với một trong những bệnh viện nghèo nhất ở
Colleferro (phía nam Rôma), nơi làm việc của vị bác sĩ giải
phẫu đã phát hiện ra tình trạng ung thư của tôi. Vị bác sĩ
này đã học một phương pháp mới ở Hoa Kỳ – chỉ có thể được áp
dụng cho những người không hút thuốc. Trong tư cách là ứng
viên đầu tiên của ông, tôi xem đây là một cơ hội tuyệt vời
không chỉ cho chính mình mà còn để cho vị bác sĩ này kiểm
tra hiệu năng của kỹ thuật mới. Trong khi động lực riêng của
tôi ở đây có thể không hoàn toàn có tính bác ái, tôi vẫn
sung sướng được ở giữa những người nghèo, trở thành “một
người trong chúng ta”.
Thật ra, về mặt kỹ thuật, bệnh viện này
cũng là một bệnh viện hàng đầu - nhưng mặt khác, ở đây có
nhiều người rất nghèo và mang trọng bệnh nhưng không có
nhiều khả năng tài chánh. Hằng ngày, một nhóm thiện nguyện
đến phục vụ các nhu cầu cần thiết cho các bệnh nhân mới. Họ
tặng tôi một con dao, món quà đơn giản nhất. Cũng như với
mọi người nghèo, họ mang đến cho tôi một bó hoa để làm cho
căn phòng và tinh thần tôi được vui tươi phấn chấn hơn. Cả
những bệnh nhân cũng niềm nở với tôi. Một phụ nữ đứng tuổi ở
phòng bên cạnh ngày nào cũng sang thăm. Chị hát một bài hát
rất hay. Một cách hóm hỉnh, chị nói: “Tôi điếc, còn cha thì
câm. Chúng ta giống nhau.” Tôi suy ngẫm và nhận ra rằng
những quà tặng của người nghèo, được diễn tả một cách ân cần
và thân ái, thì thâm sâu hơn và quan trọng hơn bất cứ sự an
ủi nào khác.
Vì hoàn toàn câm, tôi học cách giao
tiếp thuần túy bằng cử chỉ và chữ viết. Khi giai đoạn khó
khăn nhất của mình đã trôi qua, tôi rất ngạc nhiên thấy các
y tá và các bệnh nhân đến với tôi để lãnh bí tích hoà giải.
Từ kinh nghiệm này, tôi càng xác tín hơn rằng ngay cả trong
tình trạng bệnh hoạn, người ta vẫn có thể vượt qua các rào
chắn để đem lại niềm an ủi cho nhau.
Kinh nghiệm sống không có thanh quản
của 15 năm qua – theo một nghĩa nào đó – là một ân huệ thật
sự đối với tôi, bởi vì nó đem lại cho tôi nhiều cơ hội tuyệt
vời để an ủi bệnh nhân, nhất là an ủi những người cùng cảnh
ngộ với mình. Đó là những cơ hội mà tôi không thể có được
nếu tôi không ở trong tình trạng ấy. Tôi nói như thế bởi vì
khi bạn hoàn toàn khoẻ mạnh và bạn cố gắng an ủi khích lệ
một bệnh nhân, rất có thể người bệnh sẽ trả lời: “Anh nói
nghe có vẻ dễ dàng. Nhưng làm sao anh thực sự hiểu được hoàn
cảnh của tôi?” Tôi tin rằng một linh mục nếu không bao giờ
đau ốm hay không bao giờ bị những vấn đề thể lý giống như
các bệnh nhân thì sẽ không thể hiểu được hay diễn tả được
niềm đồng cảm chân thành sâu sắc như một linh mục ở trong
hoàn cảnh của họ.
Từ đó đến nay, tôi ngày càng thấm thía
hơn lời của Ngôn Sứ Isaia: “Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện,
Ta đã thấy nước mắt của ngươi. Này Ta chữa lành ngươi”
(2V 20,5). Tôi cảm nhận được ý nghĩa thật thâm sâu trong
những lời ấy bởi vì chính căn bệnh của tôi đã trở thành
phương tiện kết hợp tôi với nỗi đau khổ của bao người khác;
tôi có thể thực sự hiểu và chia sẻ lời cầu nguyện của họ,
nước mắt của họ, niềm hy vọng được chữa trị của họ. Cũng
vậy, chương hai Thư Do Thái nối kết những nỗi thống khổ của
Đức Kitô một cách mật thiết với việc Ngài chia sẻ cảnh ngộ
của tất cả chúng ta. Nghĩa là, Thiên Chúa đã làm cho Đức
Kitô, huynh trưởng của chúng ta, nên hoàn hảo xuyên qua đau
khổ. Tôi tin rằng tôi đã được đặc ân “biết” Đức Kitô này,
người anh em tôi, người cùng chịu đau khổ và là người chữa
trị của tất cả. Và tôi cũng nhận ra ý nghĩa của sứ vụ Ngài
bằng những cách mà tôi có thể không bao giờ hiểu nếu như
chính bản thân tôi không đau khổ sâu xa.
Trong trường học đau khổ, Đức Giêsu,
người anh em của tất cả chúng ta, không chỉ học vâng phục
những gì Thiên Chúa đòi hỏi, mà còn học thương xót một cách
đặc biệt (Dt 5,8-9). Không chỉ bằng lời nói mà còn bằng
gương mẫu của Ngài, Đức Giêsu dạy chúng ta: “Hãy thương
xót, như Cha anh em là Đấng xót thương” (Lc 6,36). Ý
nghĩa sâu xa nhất của hy tế Đức Kitô trên Thập Giá được hiểu
như mang lấy gánh nặng tội lỗi của loài người (Dt 9,8), bằng
cách chia sẻ khổ đau của người ta với lòng trắc ẩn vô hạn.
Qua cuộc khổ nạn của Ngài, Đức Kitô đã trở thành bí tích tối
thượng, trở thành người chuyển tải cao nhất lòng thương xót
của Chúa Cha. Vì thế, không chỉ là thích hợp mà còn là cần
thiết việc các linh mục cũng chịu đau khổ, và qua đau khổ
các ngài trở thành cảm thông hơn với mọi người, nhất là với
các bệnh nhân.
“Hãy chữa lành những
người ốm đau!”
Xuyên qua các thế kỷ, Giáo Hội đã dạy
và đã thúc đẩy việc săn sóc y tế và mục vụ cho các bệnh
nhân. Trên khắp thế giới, Giáo Hội đã xây dựng rất nhiều
bệnh viện. Sự săn sóc đầy yêu thương đối với những người đau
ốm đã là chứng tá hùng hồn của tình yêu nơi Giáo Hội. Thánh
Vincent de Paul, vị linh mục thánh thiện và được thần hứng,
vượt lên trên những cấm kỵ văn hóa của thời ấy, đã giải
phóng năng lực của hàng ngàn nữ tu có lời khấn để họ phục vụ
cho bệnh nhân. Sự săn sóc và sự hiện diện đầy yêu thương của
những con người thánh thiện ấy – nam cũng như nữ – tự nó là
một sức mạnh chữa trị.
Tuy nhiên, trong vài thế kỷ qua, một
thái cực không lành mạnh đã phát triển trong đó việc rao
giảng Tin Mừng bị tách rời khỏi sứ vụ chữa trị. Duờng như đã
có hai cơ chế của Giáo Hội hoạt động song song nhau, một cho
việc loan báo Tin Mừng và một cho việc chữa trị. Càng nghiêm
trọng hơn nữa, đó là sự phổ biến của một nền luân lý đầy
nguy hiểm và dễ gây tổn thương, lạc xa đức tin theo Thánh
Kinh, như được đặc biệt ghi nhận vào thời sau Công Đồng
Trindentinô. Những hiện tượng không lành mạnh này đã sinh ra
nhiều chứng thần kinh loạn nghiêm trọng có nguồn gốc từ tâm
lý và trí năng, đôi khi được coi là tình trạng thần kinh
loạn và rối loạn tâm thần có nguồn gốc từ ... Giáo Hội!
Trái lại, cần phải khẳng định mạnh mẽ
rằng một đức tin chân thực và một nền luân lý cắm rễ trong
đức tin theo Tân Ước thì không bao giờ – trong bất luận
trường hợp nào – là nguyên nhân của sự suy nhược tâm thần
như thế. Đúng hơn, đức tin đích thực - được sống đúng đắn,
được rao giảng và được làm chứng – luôn luôn là hiện thân
của một sức mạnh chữa trị độc đáo.
Việc phát triển chiều kích chữa trị của
đức tin và của luân lý Kitô giáo đã và vẫn còn là một mối
quan tâm chính của tôi. Đức tin, trong toàn diện tính của
nó, không thể bị giảm trừ đến chỉ còn là việc bám chặt vào
một hệ thống các chân lý (niềm tin) được dạy bởi Giáo Hội.
Một cách căn bản, đức tin - theo nghĩa chân thực và thâm sâu
nhất của nó - là một mối quan hệ có tính chữa trị và có
sức cứu độ với Thiên Chúa. Như vậy, một đức tin sống
động phải thiết yếu quan tâm đến những mối quan hệ lành mạnh
và có sức chữa trị cũng như phải quan tâm đến việc phát
triển toàn diện các cơ cấu của sự sống. Trong công cuộc loan
báo Tin Mừng, các linh mục và tất cả những ai nhận sứ vụ
phục vụ người khác phải được hướng dẫn chu đáo và được đào
tạo nội tâm cách kỹ lưỡng theo những viễn tượng này.
Cách đây khoảng 40 năm, khi tôi ở Rôma,
có một phụ nữ trẻ, đang trong thời gian hoàn thành đợt thi
tốt nghiệp ở đại học, bỗng trở nên cáu kỉnh, quạu quọ, hung
hãn. Người ta khám phá ra rằng cô ta có một nhân cách tâm
thần phân liệt (schizophrenic personality). Khi tôi lần đầu
tiên gặp cô ta, con người Adam cũ trong tôi bỗng đùng đùng
phẫn nộ, tôi tự hỏi: “Tại sao người ta luôn luôn đưa đến cho
tôi những gánh nặng như thế này? Người ta phải biết rằng
lúc này tôi không thể làm được gì nhiều để giúp đỡ bất cứ ai
chứ!” Tuy nhiên, ơn Chúa chạm đến trái tim tôi, và tôi hiểu
rằng nơi người phụ nữ này, Đức Giêsu Kitô đang gặp tôi và
trắc nghiệm sự nhận thức của tôi đối với Lời Ngài: “Những gì
ngươi làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất của gia đình
Ta đây là ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25, 40). Trong khoảnh
khắc mạc khải ấy, tôi quyết định kính trọng, yêu thương
người phụ nữ tội nghiệp kia. Cô đang là sự hiện diện hữu
hình của Đức Kitô đau khổ ngay tại cửa nhà tôi. Cảm nhận
mình được yêu thương và tôn trọng, Lina sẵn sàng tín nhiệm
và cộng tác với tôi. Dù vừa trải qua một phẫu thuật tâm
lý (psychochirurgy) – vốn thường tàn phá mọi khả năng
chủ động – Lina không bao giờ bỏ một cái hẹn nào, và trong
những lần gặp nhau sau đó, cô đã biết nhìn tôi bằng ánh mắt
hiền từ, trìu mến.
Mặc dù không có bằng cấp nào về tâm lý
trị liệu, nhưng tôi đã đọc rất nhiều tác phẩm của các nhà
trị liệu nổi tiếng của thế kỷ này và tôi đã chú ý nhiều đến
những trường phái trị liệu nhấn mạnh đến các mối quan hệ có
tính chữa trị. Loại liệu pháp này chỉ thực sự có hiệu
năng tùy theo mức độ người ta có lòng kính trọng thâm
sâu và bền vững đối với người bệnh. Nhưng như thế cũng chưa
đủ. Bên cạnh việc học hỏi và thực hành những gì thuộc chuyên
môn của một nhà trị liệu tâm lý, cũng cần phải triển khai sứ
mạng của Đức Kitô như được ủy thác cho chúng ta và các hệ
quả của sứ mạng đó: “Hãy loan báo Tin Mừng rằng Nước Trời
đã gần đến. Hãy chữa lành những người đau yếu, ... băng bó
những kẻ cùi hủi” (Mt 10, 7-8; Lc 10,9).
Đành rằng học kỹ thuật là điều rất quan
trọng, nhưng sứ mạng chữa trị còn liên can đến rất nhiều
chuyện khác nữa. Người linh mục phải cởi mở mình ra tới
những chiều sâu của đức tin, và với một tâm hồn đầy tràn
lòng biết ơn và niềm vui, người linh mục hoàn toàn phó thác
chính mình trong bàn tay Thiên Chúa. Đặc biệt, tâm tình biết
ơn sẽ là chìa khóa mở toang lòng trí người ta để họ đón nhận
quà tặng tình yêu đầy năng lực chữa trị và giải phóng của
Thiên Chúa. Như vậy, tiên vàn không phải là tôi phải làm gì
– mà một cách căn bản hơn, đó là tôi phải là gì và tôi phải
đem cái gì tới cho mối quan hệ của tôi với Thiên Chúa và
với anh chị em mình. Chỉ khi biết mở rộng lòng mình ra
đón nhận phúc ân và an bình tràn ngập của Thiên Chúa thì
người linh mục mới có thể đem lại sức chữa trị cho người anh
em bên cạnh, nhất là cho những ai bệnh hoạn thể lý hay tâm
thần. Điều này khác hẳn với hình ảnh ‘bác ái’ của người linh
mục ở xa xa bệnh nhân -và từ trên cao nhìn xuống, ban phát
cho người ta ánh mắt thương hại!
Sự cứu chuộc, sự lành mạnh và sự chữa
trị được đóng dấu sâu sắc bởi điều mà thần học gọi là ơn dự
phòng (gratia praeveniens). Khi giải thích điều này
cho chính mình và cho người khác, tôi so sánh nó với một món
quà ân sủng được ban cho trước. Chẳng hạn, chính Thiên Chúa
luôn luôn có sáng kiến tín nhiệm và yêu thương chúng ta
trước - dù chúng ta là ai, dù chúng ta nói gì và làm gì. Các
linh mục và các thừa tác viên săn sóc bệnh nhân có thể đi
vào trọn vẹn trong nhiệm cục cứu độ này theo mức độ mà – để
tôn vinh Thiên Chúa – họ luôn luôn bày tỏ cho người anh em
mình, ngay cả những người thù địch nhất, một sự tín nhiệm
trước và vô điều kiện chảy ra từ thiện chí. Nghệ thuật cung
ứng sự khích lệ trước được ghi nhận ở cốt tủy của Paraklesis
trong Thánh Kinh, đó là sự khích lệ tuôn chảy từ sức mạnh
của Chúa Thánh Thần.
Những bạn trẻ thường xuyên bị đánh giá
thấp, bị lăng nhục, bị trách mắng bởi cha mẹ và bởi các nhà
giáo dục của mình sẽ vô tình đi đến chỗ tự xem mình là vô
giá trị. Khi người ta “dis-ease”[1] với chính mình trong
thời niên thiếu, lớn lên người ta sẽ đi đến chỗ bại xụi, yếu
nhược, què quặt, trở thành những bệnh nhân phung cùi thời
hiện đại. Ngược lại, những cha mẹ và nhà giáo biết sống
trọn vẹn vai trò Paraklesis và biết khôn ngoan đặt sự tín
nhiệm trước nơi con cái, thì họ sẽ có khả năng làm những
phép lạ – theo nghĩa đích thực của Thánh Kinh – có sức
chữa trị các quả tim và các mối quan hệ căn bản nhất. Hơn
nữa, trên chính nền tảng ấy, đôi khi họ có thể chữa lành cả
các chứng bệnh thực tế nữa. Đây là những nhà chữa trị thực
sự có năng lực sáng tạo.
Trong tư cách là linh mục, chúng ta
đừng bao giờ gán bất cứ loại sức mạnh kỳ diệu nào cho chính
chúng ta viện lẽ rằng nhờ được truyền chức thánh. Chúng ta
chẳng có gì kỳ diệu hay thần nhiệm cả đâu! Đàng khác, Thiên
Chúa thực hiện những việc trọng đại nơi và qua những người –
như Đức Maria – biết ca ngợi và vững tâm tín thác vào Ngài.
Đúng theo ơn gọi của mình, không hơn không kém, chúng ta là
những cộng tác viên bé nhỏ của Thiên Chúa, những kẻ mở rộng
lòng mình đón nhận ơn Chúa để đem lại sự chữa trị trong mọi
mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa, với tha nhân và với
toàn thể tạo vật. Luôn luôn tiên vàn chúng ta phải nhận thức
rằng cả chính chúng ta nữa cũng là những kẻ luôn luôn cần
được chữa trị - cả chúng ta nữa cũng không ngừng cần đến
tình yêu và sự hiện diện đầy khích lệ trước của Thiên Chúa.
Xét cho cùng, chúng ta cũng chỉ là những nhà chữa trị mang
đầy thương tích mà thôi. Trong mức độ mà chúng ta biết mau
mắn khích lệ và tín nhiệm người khác, thì sự tín nhiệm và
khích lệ này sẽ chảy ngược về với chúng ta – hóa thành năng
lực chữa trị và củng cố.
Cuối cùng, không chỉ một mình các Kitô
hữu, các tông đồ giáo dân hay các linh mục, được mời gọi và
được sai đi trong sứ vụ chữa trị. Nói theo ngôn ngữ của Cha
Teilhard de Chardin thì chính “Cảnh Vực Thần Linh” là nguồn
mạch trước hết từ đó mọi năng lực chữa trị chảy ra và lan
tỏa. Nhận thức quan trọng này, do đó, buộc chúng ta phải tìm
kiếm những mối quan hệ lành mạnh và những cơ cấu lành mạnh ở
khắp nơi, bên trong và bên ngoài Giáo Hội. Vả chăng, nhãn
quan này không phát xuất từ sứ mạng nền tảng của chúng ta là
loan báo Tin Mừng và chữa lành những người đau yếu một cách
toàn diện đó sao?
Vai trò chữa trị của
thần học luân lý và của việc giảng dạy luân lý
Phải dần dần tôi mới khám phá được rằng
thần học luân lý và, tổng quát hơn, sư phạm luân lý có những
chiều kích chữa trị và tác động rất đáng kể. Một trong những
trách nhiệm quan trọng nhất là giúp cho Giáo Hội, nhất là
các linh mục, ngày càng trở nên những tấm gương mẫu mực hơn,
những biểu tượng sống động hơn của vị Thầy Thuốc vĩ đại là
Đức Giêsu Kitô – bằng việc sống triệt để Tin Mừng về sự chữa
trị. Đành rằng các linh mục không giữ độc quyền về sứ mạng
chữa trị và mạc khải của Giáo Hội, tuy nhiên họ có thể phục
vụ tốt nhất cho dân Thiên Chúa trong việc tiên phong sống sứ
mạng chữa trị một cách nhất quán, trong xây dựng cộng đoàn,
trong rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.
Người ta luôn luôn choáng váng khi nhận
thấy một nền luân lý sách nhiễu - gây ra bệnh hoạn, phẫn nộ,
xét nét và gây hấn - trong Giáo Hội. Nếu có tồn tại những
tâm bệnh có nguồn gốc từ Giáo Hội gây phiền hà cho hầu
như mọi mối quan hệ chủ yếu với Thiên Chúa, với bản thân và
với tha nhân, thì cần phải có một nỗ lực phối hợp để điều
nghiên và sửa chữa tất cả những qui phạm của thần học, nhất
là thần học luân lý – vốn không tổng hợp và hội nhập được
hai chiều kích chữa trị và mạc khải. Đương nhiên công việc
này cũng cần đến một cuộc cải cách các cơ cấu Giáo Hội có
tính đàn áp, chẳng hạn những cơ cấu hậu thuẫn cho chủ trương
tập quyền đầy quan liêu và cho một quan điểm độc đoán về vai
trò lãnh đạo ở mọi cấp độ. Trong nỗ lực này, khởi điểm của
cuộc cải cách phải luôn luôn là những cố gắng hợp tác của
chúng ta để hiểu biết thấu đáo Đức Kitô là Đấng Chữa Trị, là
Ngôn Sứ và là hình ảnh Nhập Thể của Đấng Sáng Tạo.
Nhiều người Công Giáo đã được đánh thức
bởi nhận định kịp thời và thích đáng của Karl Rahner rằng:
Giáo Hội trước Công Đồng, thật đáng tiếc, đã gán là tội
trọng (mortal sin) cho vô số chuyện vặt vãnh và vớ vẩn.
Trong tư cách là một nhà thần học luân lý trẻ, tôi có lần
giảng tĩnh tâm ở Tyrol cho một trăm linh mục. Trong phần dẫn
nhập, tôi nói: “Thưa các cha, tôi không có ý giảng về một
danh mục các tội trọng.” Một linh mục hạt trưởng cao niên
lập tức công khai phản ứng lại: “Nhưng như vậy là không thực
tế! Làm sao chúng ta là những linh mục tránh được khả năng
phạm tội trọng trong liên quan đến những luật chữ đỏ?” Quan
điểm của vị linh mục này phát xuất từ thủ bản Noldin cũ kỹ,
trong đó vạch ra vô số qui định về nghi thức mà các linh mục
buộc phải tuân hành “nếu không thì mắc tội trọng”. Chẳng
hạn, cho đến năm 1949, Thánh Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích
của Vatican còn tuyên bố rằng một phụ nữ hay nữ tu mà trong
Thánh Lễ tới gần bàn thờ vượt quá lan can cung thánh là mắc
tội trọng. Khoảng ba mươi năm sau, có lần tôi vẫn còn đụng
chạm với một hồng y kiên quyết bảo vệ một luật của Giáo Hội
buộc trẻ em trên bảy tuổi phải xưng tội lần đầu trước khi
rước lễ lần đầu, vì người ta giả định rằng trẻ em ở tuổi này
có khả năng phạm tội trọng.
Kinh nghiệm ấy nhắc tôi nhớ lại thật rõ
những nỗi kinh hoàng thuở ấu thời của mình với vị cha sở khư
khư đòi chúng tôi xưng thú mọi tội trọng, đe doạ rằng chúng
tôi sẽ bị đốt trong lửa và diêm sinh nếu như chúng tôi xưng
thú không đầy đủ! Người ta trình bày cho trẻ em – chưa nói
là cho người lớn - một khuôn mặt Thiên Chúa kỳ dị biết bao!
Rất may là cả lúc đó lẫn bây giờ tôi vẫn không chia sẻ tư
tưởng bi quan của Eugen Drewermann. Nhưng ngay cả trong thời
đại hiện nay, quyền bính Giáo Hội ở mọi cấp vẫn cần phải
quan tâm đến những cảnh báo nghiêm túc của các nhà trị liệu
tâm lý có nhiệt tâm và giàu hiểu biết khi họ cảnh giác chúng
ta về các chứng bệnh có nguồn gốc từ Giáo Hội, những
chứng bệnh có thể phát xuất từ một cái nhìn tiêu cực,
sai trái và hà khắc.
Một điều nhấn mạnh mấy cũng không vừa,
đó là giáo huấn của Giáo Hội và việc thực hành mục vụ -
trong quan hệ với mọi chiều kích và mọi cơ cấu của đời sống
- phải được giải phóng khỏi một nền luân lý cứng nhắc và
phải được định hình lại trong viễn tượng một tổng hợp vững
chắc và có tính nhân văn của hai sứ vụ rao giảng và chữa
trị. Hơn nữa, tổng hợp này phải đặc điểm hoá việc huấn luyện
và đời sống linh mục. Trong khi từ đầu, tôi là một người ủng
hộ mạnh mẽ thần học giải phóng, tôi vẫn khẳng định mạnh mẽ
sự cần thiết phải bao gồm chiều kích giải phóng và chữa trị
trong mọi qui phạm thần học.
Quan tâm mục vụ đối
với những người li dị
Mối quan tâm của tôi đối với những
người li dị không phải là kết quả của các nghiên cứu lý
thuyết – mặc dù tôi vẫn nhìn nhận công việc nghiên cứu có
vai trò rất quan trọng. Đúng hơn, mối quan tâm này của tôi
phát xuất từ hai nguồn: một là, từ tình thương và niềm kính
trọng của Đức Giêsu đối với những con người đứng bên lề cuộc
sống, những người bị coi là hư hỏng - và hai là, từ vô số
các kinh nghiệm của bản thân tôi với những người li dị.
Nỗi thất vọng cùng cực và nỗi khổ đau
tâm cảm của quá nhiều người li dị thiết tưởng cũng đã đủ lý
do không chỉ để thúc đẩy niềm cảm thông nơi các linh mục mà
còn để dẫn Giáo Hội tới một cách suy nghĩ mới. Gần như ở
khắp những nơi trên thế giới mà tôi đã đi qua, các bạn tôi –
nhất là những tu sĩ nam nữ – đã giới thiệu những người li dị
đến gặp tôi, hoặc đã bày tỏ với tôi những nỗi quan tâm của
họ đối với những người li dị mà họ quen biết. Tôi nhớ có
lần, một giám mục Phi Châu giới thiệu chính em trai của
ngài, một người li dị, đến gặp tôi. Giám mục nói với người
em mình: “Chú hãy làm theo những gì Cha Haring khuyên chú
làm!”
Những nỗi khổ đau cùng cực của những
người li dị – thường đa số họ là những người rất đáng nể
phục – luôn luôn làm tôi trằn trọc và suy nghĩ về những Lời
này của Đức Kitô: “Những gì các ngươi làm cho một trong các
anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính
Ta” (Mt 25,40).
Tôi cảm kích sâu xa trước tấm lòng của
Đức Giêsu đối với người phụ nữ Samaria – người phụ nữ mong
muốn có được một đời sống nghiêm túc, nhưng đã bị khước từ
bởi năm người đàn ông. Trong truyền thống Do Thái lúc bấy
giờ, một “người đàng hoàng” sẽ không bao giờ tiếp xúc với
một phụ nữ như thế. Đức Giêsu đã không chỉ khôi phục lại
lòng tự trọng và phẩm giá cho chị mà, hơn thế nữa, Ngài đặt
chị làm một tông đồ của Ngài. Trong tư cách là một môn đệ
Đức Giêsu, tôi không thể nghĩ đến những con người khốn khổ
ấy mà không đồng thời nghe âm vang Lời Đức Giêsu: “Tôi đến
không phải để xét xử, nhưng là để chữa trị” (x. Ga 3,17; Lc
19,10).
Trong đa số các trường hợp li dị mà
mình tiếp xúc, tôi cảm nhận đó là một nỗi mất mát và nỗi đau
bi thảm hơn là một tội. Từ kinh nghiệm và suy tư của chính
mình, tôi ngày càng xác tín rằng phương thức oikonomia của
Giáo Hội Chính Thống phù hợp với Thánh Kinh hơn so với hữu
thể luận (ontologism) đầy tính pháp lý của giáo thuyết Công
Giáo hiện đại. Tôi cho rằng chúng ta nên liều chấp nhận khổ
sở (khổ sở do bị hiểu lầm và khổ sở do bị chỉ trích) để dám
suy nghĩ lại và định hình lại việc săn sóc mục vụ nhằm giúp
chữa trị những con người khốn nạn và mang đầy thương tích
này. Trong tư cách là các thừa tác viên của Đức Kitô đối với
dân Ngài, phải chăng chúng ta không thể hình dung rằng Đức
Giêsu đã viết tên của chúng ta – tên bạn và tên tôi – trên
đất và nói: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị ấy
trước đi!” (Ga 8,7-8)? Xin mở ngoặc để nói thêm ở đây: nhiều
người li dị đến gặp tôi không thể bị gọi là những kẻ ngoại
tình – theo bất cứ nghĩa nào!
Người linh mục đích thực không phải là
một quan tòa cũng không phải là một robot bị đóng hộp trong
những phạm trù phán quyết quá đơn giản. Phần mình, thú thực
tôi rất xấu hổ nếu cảm thấy mình hơi thoáng nghiêng về ý
nghĩ rằng những người li dị và tái hôn là những người “đang
sống trong tình trạng tội trọng một cách khách quan” sau khi
họ đã chịu đựng quá nhiều nỗi khổ đau và ô nhục trong biến
cố gãy đổ hoàn toàn cuộc hôn nhân thứ nhất của mình.
Săn sóc một cách chữa trị cho những
người li dị, đó cũng là một trắc nghiệm đo lường quyết tâm
đại kết của Giáo Hội. Các Kitôhữu Chính Thống và nhiều
Kitôhữu thuộc các giáo hội Cải Cách khác rất choáng váng
trước sự khắc nghiệt của những giám mục và linh mục Công
Giáo cố khư khư bám vào một hữu thể luận nặng tính pháp lý
lỗi thời để cắt xén, bóp méo hoặc thay thế hoàn toàn nhãn
quan của Thánh Kinh về tính bất khả phân ly bằng lối suy
nghĩ và kiểm soát quá đơn giản hóa và quá nhũng nhiễu
của họ.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÀNG THANH NIÊN GIÀU
CÓ |
Nguyên Tác
IN STEP
WITH GOD
LM Vincent Travers, OP
HƯƠNG VĨNH
chuyển ngữ
Chàng Linus nói với vợ: “Cuộc
đời lạ thật! Em có thích ngược dòng thời gian và sống lại từ
đầu, nếu em biết được những điều như em đang biết hiện nay
không?” Nàng Lucy không thấy cảm kích chút nào.
Nàng nhìn chồng chòng chọc và nói: “Bây giờ anh biết
được gì?”
Đó là một câu hỏi thật hay! Chúng ta
biết được gì đây, sau hai mươi năm, bốn mươi năm, sáu mươi
năm cuộc đời? Chúng ta đã học hỏi được gì do kinh nghiệm mà
ra? Nếu chúng ta đã học được từ kinh nghiệm, có lẽ chúng ta
đã không thường xuyên phạm đi phạm lại những lỗi lầm đó.
Thiết tưởng phần đông chúng ta cũng giống như chàng thanh
niên giàu có trong Phúc Âm Thánh Mác-cô (10, 17-22):
“Chúa Giêsu vừa lên đường thì
có một người chạy đến, quì xuống trước mặt Người và hỏi: ‘Thưa
Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm
gia nghiệp?’ Chúa Giêsu đáp: ‘Sao anh nói tôi là nhân
lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn
anh biết các điều răn: ‘Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ
trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha
kính mẹ.’
Anh ta nói: ‘Thưa Thầy, tất cả
những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.’ Chúa Giêsu
đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: ‘Anh
chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho
người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến
theo tôi.’
Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt
và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.”
***
Chúng ta đã dần dà học được là sống
bằng luật lệ và tuân giữ các giới răn thật có ý nghĩa:
đừng nói dối, đừng gian lận, đừng trộm cắp, đừng giết người.
Chúng ta cũng học được là sống ngược lại với luật lệ đưa
đến tình trạng hỗn loạn và rối ren. Khi không tín nhiệm ai
hết, người ta phải luôn thận trọng, canh chừng, không bao
giờ lơ là đưọc. Nếp sống đó thật là một cơn ác mộng và không
đáng sống.
Sống theo cách của tôi
Hầu như thật khó khăn đối với chúng ta
để luôn luôn sống theo luật lệ và tuân giữ các giới răn. Khi
chúng ta thành công thì mọi người được lợi. Sống theo luật
lệ là một bước tiến lớn lao để đi đúng đường, nhưng như Chúa
Giêsu đã vạch rõ cho người thanh niên thấy là sống không
gây rối, giữ mình sạch sẽ, tuân giữ các giới răn, rõ ràng
chưa đủ. Điều đó không đưa ta đến cốt lõi cuộc sống,
chỉ đưa ta tới ngưỡng cửa, nhưng chưa vào được bên trong
ngôi nhà. Chính ở bên trong ngôi nhà là nơi chúng ta phải
tới. Cuộc sống không có nghĩa là phải sống ở nơi ngưỡng cửa.
Chàng thanh niên xem ra đã thành
công. Chàng đã đạt đuợc điều đó. Chàng là “món hàng
đắt giá”, như ở Bắc Mỹ người ta thường nói. Dù chàng
giàu có, nhưng khi nhìn thấu suốt bên trong, chàng nhận thấy
trong cuộc sống còn có điều gì cao quí hơn tiền bạc. Chàng
đã hỏi Chúa Giêsu: “Tôi phải làm gì để được sự sống
đời đời?” Chàng đã hỏi đúng người. Chúa Giêsu cũng
đồng ý như thế. Chàng đã thiếu sót điều căn bản ở trong cuộc
sống. Ở điểm đó, Chúa Giêsu và chàng thanh niên đang cùng
đọc một trang sách, đang cùng hát chung một bản nhạc.
Cội rễ mọi sự dữ
Trừ phi chúng ta thấy người thanh niên
đó thật quảng đại, nếu không, chúng ta đã đánh mất tâm điểm
của câu chuyện. Chàng thật sự đã tuân giữ mọi lề luật suốt
cuộc đời chàng “từ lúc tấm bé”, như chàng đã thưa với
Chúa Giêsu. Ai trong chúng ta có thể nói được như vậy?
Nhưng chàng cảm thấy thất vọng tột độ
khi nghe Chúa Giêsu nói với chàng: Bạn đang có vấn đề. Vấn
đề của bạn là “tiền bạc”. Tiền bạc của bạn đã
cản trở bạn trên con đường đi đến sự sống vĩnh cửu. Nếu bạn
muốn trở thành đệ tử của tôi “bạn hãy bán hết những gì
bạn có, bố thí cho người nghèo khó và theo tôi”.
Khi người thanh niên nghe những lời đó,
chàng cảm thấy choáng váng. “Bán hết mọi tài sản?”
Chúng ta có thể tưởng tượng chàng đang hỏi Chúa như thế
trong sự ngỡ ngàng tột độ. “Thầy không nói giỡn chứ?”
Chẳng ngạc nhiên chút nào, chàng đã sa sầm nét mặt.
Ngã rẽ cuộc đời
Chúa Giêsu đang thử thách chàng thanh
niên đó. Bất chợt chàng cảm thấy mình đứng trước ngã rẽ cuộc
đời. Đối với người Hy-lạp, “thời gian khủng hoảng là thời
gian của vận hội mới”. Người ta im hơi lặng tiếng khi
đứng trước ngã rẽ cuộc đời. Ở đó đang diễn ra tấm thảm kịch
của sự do dự. Chàng thanh niên đang đắn đo.
Ở đây sự lựa chọn không phải giữa tốt
và xấu. Đó là sự “lựa chọn giữa tốt và tốt hơn”, giữa
con đường đang được nhiều người đi qua hay ít người đi; giữa
cuộc sống nơi ngưỡng cửa hay ở trong ngôi nhà. Sự lựa chọn
tùy thuộc ở chàng. Không quyết định cũng là một sự quyết
định rồi.
Chàng chỉ thưa: Không.
Chàng đã lặng lẽ ra đi một cách buồn bã. Còn bạn thì sao? …
Nhưng Phúc Âm ghi lại việc ra đi của chàng thanh niên như
một vận hội mới đã bị đánh mất trong cuộc đời chàng. Giả như
chàng đã ở lại, bán hết tài sản và theo Chúa Giêsu, tôi có
cảm tưởng là nhiều người – trong đó có gia đình, bạn bè và
những đồng nghiệp – có thể đã cho chàng là “mát dây”,
bị rơi vào đường cùng và gàn gàn dở dở!
Ai là chàng thanh niên đó? Theo Thánh
kinh mà nói, chàng thanh niên đó đại diện cho bạn và tôi. Và
thật hữu ích bạn nên tin tưởng như thế! Chàng đã có vấn đề.
Chàng là người “mê tiền”. Có thể tiền bạc không phải
là vấn đề đối với bạn và tôi. Nhưng câu hỏi của chàng thanh
niên, “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?”
là một câu hỏi đang vang động trong bối cảnh cuộc sống chúng
ta.
Ngày nay, đến lượt chúng ta đang đứng
trước ngã rẽ cuộc đời. Chúng ta cũng la lên lớn tiếng: “Lạy
Chúa, con phải làm gì đây?” Và Ngài trả lời: “Hãy
đánh rơi bất cứ điều gì ngăn cách con với Ta.” Đối với
hầu hết chúng ta, “sự lựa chọn không phải giữa tốt và
xấu, nhưng là giữa tốt và tốt hơn”. Đó là sự lựa chọn
giữa ai muốn trở thành triệu phú và ai muốn trở nên môn đệ
Chúa Giêsu?
Cuộc sống có ý nghĩa
Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II đã ngỏ
lời với hơn hai triệu bạn trẻ đang đứng trước ngã rẽ cuộc
đời, ở kinh thành Roma, ngày 19 tháng 8 năm 2000. Trích dẫn
lời nữ thánh Catherine thành Siena, Ngài nói:
“Nếu các bạn trở nên những người mà các bạn phải trưởng
thành như thế thì các bạn đã nổi lửa cho đời rồi.” Ba
trăm ngàn thanh thiếu niên đã đi xưng tội cuối tuần đó. Họ
đã xưng tội và đã nhận lãnh bí tích hòa giải.
Sự thách đố của Chúa Giêsu quật ngã
chúng ta nhiều cách. Lời mời gọi đạt tới sự sống vĩnh cửu là
một lời mời gọi đối với một linh đạo sâu sắc hơn, giúp chúng
ta ra khỏi vết lún mà chúng ta đã sa vào, giúp chúng ta lội
ngược dòng những dư luận quần chúng. Đó là một sự mời gọi
trở nên cao quí hơn trong những mối tương quan với bạn bè và
trong những giao dịch làm ăn. Trên tất cả, đó là một lời mời
gọi trở nên chứng tá thầm lặng đối với Tin Mừng.
Tôi vừa nhận được một cú điện thoại của
một giáo dân thuộc giáo xứ cũ của tôi ở Vancouver BC Canada.
Anh là nhân viên xã hội. Anh nói về chị Cathy. Chị bị
rơi xuống vực thẳm. Rồi chị đã gặp được người bạn của tôi và
sự hiện diện của anh đã giúp đỡ chị rất nhiều. Không những
chị cảm nhận sự hiện diện của anh mà còn sự hiện diện của
Chúa nữa, bởi vì theo lời chị, Chúa đã gởi anh ta đến với
chị. Anh đang là một chứng tá thầm lặng của Tin Mừng mà anh
không hay biết.
Hôm nay và mỗi ngày, chúng ta đang đứng
trước ngã rẽ cuộc đời. Chúa đang gặp gỡ chúng ta ở đó và
đang mời gọi chúng ta. Nếu chúng ta đồng hành với Ngài, tôi
cam đoan là những người thân cận với bạn không lấy làm cảm
kích chút nào. Lập trường mà bạn chọn lựa có thể khiến họ
lắc đầu, chán ngán và nói: “Bạn mất trí rồi”, “Bạn
điên rồ rồi!”
Mặc cho người khác nói gì, nghĩ gì.
Cuối cùng, điều can hệ là những gì bạn nghĩ tưởng và những
gì Chúa nghĩ tưởng, bởi vì Chúa và bạn đã liên kết vững mạnh
và keo sơn. |
VỀ MỤC LỤC |
|
NÓI
VỚI EM BÉ BÁN RONG BÁNH VÀ
CÁ (Ga 6,9) |
Chiều đã xuống hoàng hôn
Thì thào gió thổi lạnh
Hỡi em bé bán bánh
Sao em chưa về thôn?
Cha mẹ đang nóng lòng đợi em từng
giây phút
* *
*
Hỡi em bé bán bánh rong
Nhà em hẳn nghèo lắm
Cha mẹ em chẳng có “bát ăn bát để”
gì
Nên mới cho em đi bán bánh rong độ
nhật
Không có tiền cho em ăn học
Em mù chữ chắc rồi!
…
Em gầy như chiếc lá khô
Luồn lách giữa đám đông
Đang mải mê nghe lời Chúa.
Em lớn tiếng rao: “Này ai mua bánh”
Bánh hiệu Caphác
Để ăn lễ Vượt Qua.
Bỗng ông Phêrô
Nắm tay em lại
Lấy gọn năm chiếc bánh và hai con
cá còn dư
Ông Phêrô đem cả về cho Chúa.
Này em bé,
Tôi hỏi nhỏ em:
Ông Phêrô có mặc cả với em không?
Và ông trả đủ tiền bánh chưa?
Và rồi, khi ông Phêrô trao bánh và
cá cho Chúa.
Liệu Chúa có trách ông:
Sao không dẫn em lại đây cho Thầy?
Này em bé, tôi mách nhỏ em:
Chúa là người rất tinh tế và nhạy
cảm.
Khi Chúa cho con gái ông Gia-ia
sống lại,
Lúc mọi người đang vô cùng kinh
ngạc
Chỉ có Chúa mới biết đứa bé này
trong bụng chưa có gì.
Nên Ngài bảo: Hãy cho con bé ăn.
(Mc 5,23).
Cũng vậy, khi Chúa cho Lagiarô sống
lại,
Người Do Thái đang thán phục đến
kinh hoàng
Chúa nhìn Lagiarô quấn vải quanh
mình không cựa quậy được.
Chúa bảo ngay:
Hãy cởi dây cho anh ấy đi. (Ga
11,44).
Chưa hết đâu,
Em nhớ không?
Chiều nay, sau khi được Chúa cho ăn
no, đám đông tranh nhau ra về.
Chúa nhìn bãi cỏ xanh,
Còn vương vãi bao nhiêu là bánh
vụn.
Chúa bảo: Hãy thu lại những mảnh
bánh thừa kẻo phí đi (Ga 6,12).
Đó, em thấy không?
Chúa có cái nhìn và trái tim khác
mọi người.
Tối hôm nay, em về nhà,
Hẳn em không quên mách cha mẹ biết
chuyện xảy ra ban chiều,
Và em đề nghị cha mẹ tìm dịp để
được gặp Chúa Giêsu./.
Xuân Ly Băng
Ngày 11.5.2007 |
VỀ MỤC LỤC |
|
VẤN ĐỀ GHI DANH và DÂNG CÚNG TIỀN CHO NHÀ THỜ |
Hỏi:
xin cha giải thích giúp
các câu hỏi sau đây :
1- Thế
nào là Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ và Giáo Hội địa phương ?
2- Có
buộc phải ghi tên nhập giáo xứ và dùng phong bì dâng cúng
tiền thì mới được lãnh các bí tích và cho con em học giáo lý
không ?
Trả lời:
1- Chỉ có một Giáo Hội
duy nhất do Chúa Giêsu thiết lập trên nền tảng các Thánh
Tông Đồ, và “ Giáo Hội này tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo
do Đấng kế vị Phêrô và các Giám Mục hiệp thông với Ngài điều
khiển” (x. Lumen Gentium, số 8).
Vậy, khi nói đến Giáo
Hội Công Giáo hoàn vũ (Universal Catholic Church) là nói đến
toàn thể Cơ cấu này mà người đứng đầu cai trị là Đức Giáo
Hoàng La Mã, Vị Đại Diện duy nhất của Chúa Kitô trên trần
gian, là Thủ Lãnh Giám Mục Đoàn ( College of Bishops ) và
cũng là Giám Mục Rôma.
Hiệp thông với Đức Giáo
Hoàng trong đức tin, sứ vụ (ministry) và vâng phục là các
Giám mục trong toàn Giáo Hội. Các Giám Mục là những người kế
vị các Thánh Tông Đồ trong sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của
Chúa Kitô trong các Giáo Hội địa phương hay còn gọi là các
Địa Phận hay Giáo Phận ( Diocese).
Nói rõ hơn, mỗi Địa
phận ở mỗi quốc gia là một Giáo Hội địa phương (local
Church) đặt dưới quyền coi sóc của một Giám Mục do Đức Giáo
Hoàng bổ nhiệm.
Tất cả các Giáo phận
trong một quốc gia lại hợp thành Giáo Hội địa phương của
quốc gia ấy trong tương quan với Giáo Hội hoàn vũ. Thí dụ,
chúng ta có Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ, Giáo Hội Công Giáo
ViệtNam v.v .Trong mỗi Địa phận lại có nhiều Giáo xứ
(Parish) tức những giáo hội nhỏ trong một Giáo Hội địa
phương lớn là Giáo Phận. Cha xứ (Pastor) là người được Giám
mục địa phương bổ nhiệm để coi sóc một giáo xứ. Tất cả các
giáo hội địa phương lớn nhỏ đều hiệp thông và hợp lại thành
Giáo Hội hoàn vũ (Universal Church) dưới quyền coi sóc, lãnh
đạo của Đức Thánh Cha, Đấng kế vị Thánh Phêrô trong sứ mệnh
“ chăn dắt các chiên con , chiên mẹ của Thầy” ( x. Ga 21:
15-17)
Đó là tất cả cơ cấu tổ
chức, điều hành và danh xưng được sử dụng trong Giáo Hội
Công Giáo cho đến nay.
2- Việc ghi tên gia
nhập Giáo xứ và nghĩa vụ đóng góp tài chính, tiền dâng
cúng..
Để tiện việc chăm sóc
thiêng liêng hay mục vụ cho giáo dân, mỗi Địa Phận có nhiều
Giáo xứ như đã nói trên đây. Và cũng để giúp cho sứ vụ mục
vụ này được dễ dàng và hữu hiệu, giáo dân khắp nơi được kêu
gọi và khuyến khích ghi tên gia nhập một giáo xứ nới mình cư
ngụ hay thuận tiện về ngôn ngữ, nghi thức phụng vụ.
Cụ thể, theo giáo luật số
518, giáo dân có thể gia nhập một giáo xứ (parish) vì cự ngụ
trong địa hạt hay ranh giới thuộc về giáo xứ đó ( tòng thổ)
hay trong một giáo xứ thuận tiện cho mình về phương diện lễ
nghi phụng vụ hay ngôn ngữ thích hợp (tòng nhân). Cụ thể,
người Công giáo ViệtNam ở Mỹ có thể ghi tên gia nhập một
giáo xứ Mỹ nơi có Thánh lễ bằng tiếng Việt, hoặc có lớp dạy
giáo lý và Việt ngữ, mặc dù không cư ngụ trong lãnh thổ của
giáo xứ này.( can. no.518). Việc ghi tên gia nhập này
(Registration) rất cần thiết để lãnh nhận các bí tích, đặc
biệt là bí tích rửa tội, thêm sức và hôn phối vì các sự
kiện này phải được lưu trữ cẩn thận trong sổ sách của giáo
xứ theo giáo luật qui định. ( Cans nos. 877, 895,1121).
Hơn thế nữa, việc gia
nhập một giáo xứ nói lên tinh thần và trách nhiệm cộng tác
của giaó dân với hàng giáo sĩ, cụ thể là cha xứ và các cha
phó trông coi một giáo xứ. Mặt khác, việc giáo dân cam kết
tham gia sinh hoạt của giáo xứ thể hiện qua việc ghi tên gia
nhập cũng giúp cho việc thi hành trách nhiệm mục vụ của cha
xứ được cụ thể hơn qua mối giây liên hệ thực tế giữa chủ
chiên và đoàn chiên đặt dưới quyền chăm sóc mục vụ của mình
(pastoral care)
Hơn thế nữa, Giáo dân có
bổn phận tham gia và công tác với giáo sĩ trong tinh thần
thi hành chức vụ tư tế vương giả mà mình đã lãnh nhận qua
phép rửa, nhờ đó giáo dân “ thi hành chức vụ đó trong việc
lãnh nhận các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn, bằng đời
sống chứng nhân thánh thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích
cực.”(x.Lumen Gentium, số 10)
Chính trong tinh thần
cộng tác và thực thi bác ái tích cực này mà giáo dân trước
hết có bổn phận đóng góp tài chính để giúp giáo xứ, giáo
phận có phương tiện hoạt động và phục vụ hữu hiệu. Câu nói
“có thực mới vực được đạo” được áp dụng đúng đắn vào trường
hợp này. Cụ thể, ở Tổng Giáo Phận Galveston-Houston, hàng
năm giáo dân trong toàn giáo phận được kêu gọi đóng góp cho
Quỹ gọi tắt là DSF ( Diosecan Special Fund) chia theo tỷ lệ
cho các giáo xứ và buộc phải đóng đủ khoản tiền trợ giúp
này cho Giáo Phận để giúp tài trợ cho các chương trình mục
vụ, đào luyện và bác ái của Tổng Giáo Phận trong một năm.
Ngoài nghĩa vụ bó buộc
trên đây, giáo dân còn có bổn phận tài chính với giáo xứ
của mình qua những cuộc lạc quyên trong các thánh lễ cuối
tuần ( weekend collections). Số tiền này giúp giáo xứ trang
trải các chi phí cần thiết về bảo trì, sửa chữa, điện, nước,
sách phụng vụ , âm nhạc, và trả lương, bảo hiểm cho nhân
viên phục vụ giáo xứ kể cả chi phí ăn ở và chút lương cho
cha xứ, cha phó theo quy định của mỗi Giáo phận
Nếu không có sự đóng góp
hảo tâm của giáo dân vào việc này thì không giáo xứ nào có
thể tồn tại, sinh họạt được vì không có tiền chi phí cần
thiết và trả các bills lớn nhỏ hàng tháng.
Tuy nhiên, trong Giáo Hội
Công Giáo, thông dụng ở khắp nơi cho đến nay, thì việc đóng
góp này của giáo dân chỉ có tính cách tự nguyện chứ không
bó buộc khắt khe như ở nhiều giáo phái khác, nơi người ta
qui định rõ việc đóng góp là 10% lợi tức hàng tuần. Nếu tín
hữu nào không chu toàn thì được mời ra khỏi cộng đoàn đó.
3- Có
luật buộc phải dùng phong bì dâng cúng (offerings envelopes)
mới được lãnh các bí tích hoặc cho con em học giáo lý không
?
Tuyệt đối không có luật
này trong Giáo hội Công Giáo ở khắp nơi. Vậy nơi nào, giáo
xứ nào đặt ra luật này là sai trái hoàn toàn, vì mọi bí tích
được phải ban phát nhưng không (gratuitous) cho mọi giáo hữu
chứ không thể là chuyện mua bán, đổi trác bao giờ. Nếu ai
làm vì mục đích mua bán thì đã công khai phạm tội mại thánh
(simonia) mà Kinh Thánh, giáo lý và giáo luật của Giáo Hội
đều lên án và nghiêm cấm.( x. Cv 8:9-24; SGLGHCG, số
2121-22; giáo luật(canon laws) số 848, 947)
Nhưng cần phân biệt :
tiền thâu với mục đích gì ? để ban bí tích hay để giúp trả
chi phí cho nhà thờ khi cử hành bí tích ?
Cụ thể, nếu linh muc đòi
phải trả bao nhiêu tiền để rửa tội, thêm sức, dâng thánh
lễ, chứng hôn hay cử hành nghi thức an táng thì đây là tội “buôn
thần bán thánh” ( simonia) phải lên án. Ngược lại, nếu giáo
xứ thu một khoản lệ phí nào để mua dụng cụ như áo trắng,
nến trắng phát cho các em được rửa tội, thêm sức, hoặc lệ
phí trang hoàng nhà thờ, dùng điện, nến và ca đoàn trong lễ
cưới , lẽ Quinceneras ( thiếu nữ Mễ 15 tuổi) kể cả chút ít
tiền cho người phụ trách tập dượt ( rehearsal) nghi thức
hay cho các em giúp lễ thì đây là chuyện khác, không liên
hệ gì đến điều kiện để lãnh các bí tích. Các lệ phí này,
nhiều ít tùy mỗi giáo xứ qui định để giúp việc bảo trì nhà
thờ và trả bill điện dùng máy lạnh hay máy sưởi trong các
dip đó mà thôi.
Nhưng nếu giáo dân nghèo
không có tiền để trả cho lệ phí tương trưng này, thì cha xứ
cũng không được từ chối cho các em lãnh bí tích chỉ vì không
có tiền trả lệ phí kia. Nhất là không được phép đòi buộc ai
phải xuất trình phong bì dâng cúng hàng tuần cho giáo xứ
như điều kiện để được ghi tên học giáo lý rửa tội, thêm sức
rước lễ lần đầu, cử hành hôn phối hay tang lễ. Chắc chắn như
vậy vì không Giám Mục hay khoản giáo luật nào cho phép làm
việc này. Ngược lại, các cha xứ đều có bổn phận theo giáo
luật và khuyến cáo của Giám mục là phải hết lo cho đời sống
thiêng liêng của giáo dân được trao phó cho mình chăm sóc
mục vụ. (cf. Cans, nos. 519, 528-530). Ngoài ra, việc dạy
giáo lý cho cha mẹ và người đỡ đầu rửa tội (godparents),
thêm sức là trách nhiệm mục vụ của cha xứ . Người thụ hưởng
muốn đãi ngộ hay không tùy ý và hảo tâm chứ không bắt buộc.
Nhưng nếu ai lợi dụng việc này để thu tiền, dù lấy cớ là để
giúp việc bác ái hay gửi về giúp các giáo xứ bên ViêtNam,
thì đây hoàn toàn là việc làm tự tiện không căn cứ vào qui
định nào của Địa phận hay giáo luật. Cũng không được phép
đòi tiền, dù ít hay nhiều, để chứng hôn hoặc cử hành lễ
tang, dù là để lấy tiền giúp việc từ thiện hay bảo trợ ơn
gọi v.v. Nghĩa là không được lợi dụng hoàn cảnh vui, buồn
của ai để làm tiền cách bất chính, gây phương hại cho uy tín
và mục đích của Giáo Hội.
Sau nữa, ngay cả việc học
giáo lý của trẻ em, mặc dù các giáo xứ đều có thu lệ phí ít,
nhiều để trang trải các chi phí điều hành lớp học, nhưng nếu
gia đình nào quá nghèo túng không thể đóng được khoản lệ phí
này hay không dùng phong bì dâng cúng, thì giáo xứ cũng
không được từ chối cho con em họ ghi tên học giáo lý. Nghĩa
là không được gây cho ai cảm nghĩ rằng nghèo túng, không
tiền thì miễn hưởng các lợi ích thiêng liêng trong Giáo hội.
Nhưng cũng cần nói thêm
là tiền xin lễ theo Giáo quyền qui định hoặc tiền giáo dân
tự nguyện biếu linh mục trong các dịp rửa tội, thêm sức, lễ
cưới , lễ tang thì linh mục được phép nhận mà không có lỗi
gì. Vậy cần phân biệt giữa hai việc đòi hỏi phải trả và tự ý
dâng cúng. Nếu đã tự ý cho thì đừng phàn nàn, kêu trách ai
nữa.
Tóm lại, các linh mục đều
được khuyến cáo chu toàn trách nhiệm mục tử của mình với tất
cả lương tâm và lòng yêu mến sứ vụ thiêng liêng và trong
tình bác ái Kitôgiáo để tránh gương xấu về tiền bạc, và làm
cớ cho người ta oán trách, từ bỏ hay xa tránh Giáo Hội vì
tội mại thánh.
LM
Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Noi gương Cha tôi |
Cha tôi là Đoàn đức Hải,
ông nội tôi là Đoàn đức Nhuận. Nhưng các cụ lại đặt tên cho
tôi là Thanh Liêm. Tôi đoán đó là do ông nội tôi đặt, vì cụ
vốn là một ông đồ nho. Vì là con trai trưởng , nên cha tôi
rất gần gũi và hiếu đễ với ông nội theo như phong tục truyền
thống Khổng giáo hồi xưa.
Tôi lại làm nghề luật sư,
nên khi nói chuyện với người Mỹ thì thật tức cười. Tôi giải
thích cho họ tên Liêm của tôi có nghĩa là Honesty, nên quý
vị có thể gọi tôi là Luật sư Liêm tức là Lawyer Honesty.
Nghe vậy, thì mười người như một, họ đều cười ngất. Vì đa số
người Mỹ cho rằng chẳng có luật sư nào mà lại lương thiện
được cả. Thành ra họ coi đó là một nghịch lý, thật buồn
cười.
Tôi phải giải thích với
họ rằng cái tên của tôi là do cha mẹ đặt cho ngay từ lúc mới
chào đời, tôi nào biết gì mà chọn lựa. Chắc là cha mẹ mong
ước sau này tôi sẽ là một người lương thiện, nên mới chọn
tên Liêm cho tôi. Do đó, tôi phải sống làm sao cho xứng đáng
với sự mong ước đó. Đó là điều tôi không thể né tránh được:
No escape! Thành ra tôi chưa bao giờ kiếm được nhiều tiền
với nghề luật sư. Nghe vậy, mấy người Mỹ hiểu ra, đều gật
đầu thông cảm.
Năm 1948, lúc tôi 14
tuổi, thì Việt minh đến nhà bắt cha tôi đi biệt tăm. Và đến
năm 1952, đến lượt mẹ tôi cũng qua đời, trong lúc tôi chưa
xong bậc Trung học, nên cả cha lẫn mẹ tôi đều không biết đến
nghề luật sư mà tôi chọn cho mình làm phương kế sinh nhai
Tuy cha mẹ mất sớm, nhưng
nhờ các anh chị bao bọc huớng dẫn mà tôi đã trưởng thành
chững chạc và giữ được gia phong gia đạo, bảo tồn được nề
nếp truyền thống của dòng họ nhà mình. Và tôi thật biết ơn
cha mẹ về điều này.
Nhân dịp Lễ Father’s
Day, tôi xin ghi lại một ít điều tôi học được của người ngay
từ tấm bé. Vào năm 1940-1941 lúc lên 6-7 tuổi, tôi thường
đựợc cha dẫn đi theo chỗ này chỗ nọ. Nhờ vậy, tôi rất gắn bó
với người. Cha tôi được sự quý trọng của nhiều bà con trong
dòng họ cũng như trong làng quê. Tôi thấy ông hay giúp đỡ
người khá , vì ông khỏe mạnh lại khéo tay, nên làm việc gì
cũng mau lẹ, gọn gàng. Do đó, bà con thường hay đến nhờ vả
ông giúp đỡ công việc mỗi khi cần thiết. Ông củng thường dẫn
tôi đến thăm các cụ già trong thân tộc và tìm mọi cách chia
sẻ đồ ăn với bà con ở nông thôn vốn thường túng thiếu.
Là con trưởng của ông đồ
vào cái thời nho học đã suy tàn, nên ông chẳng được học hành
bao nhiêu. Ông biết đọc chữ quốc ngữ, nhưng coi bộ cũng
chẳng thong thạo gì cho lắm, vì thường thì ông bảo tôi đọc
báo hay thư từ cho ông nghe. Còn về chữ nho, tôi cũng ít
thấy ông mở sách ra đọc. Mẹ tôi có lần kể cho ngh : “bố con
là người có tính quyết đáp , một khi đã suy tính để quyết
định việc gì, thì phải thực hiện cho bằng được. Và ít khi
chần chừ, ngập ngừng trước một khó khăn nào. Làm con trai,
con phải học được tính khẳng khái quyết đáp như bố con ấy…”
Mỗi khi ra thăm đồng
ruộng, ông thường cầm theo một con “dao rựa“ dài đến trên
80 cm, kể cả cán dao. Dao này thật là đa dụng , vì có thể
làm được rất nhiều việc, ngoài việc cắt, chặt các vật cứng
cáp, ông còn dùng để đào, xúc đất hay khai mương thoát nước
cho các thửa ruộng bị ngập úng, giúp bà con trong các gia
đình neo đơn ít người có khả năng chăm sóc ngoài đồng áng.
Ông cũng thường dùng mũi dao để xúc phân trâu, phân bò nằm
ngay giữa lối đi lại, và hất xuống thửa ruộng gần đó. Điều
nhỏ nhoi ông làm đã cho tôi một bài học về sự tự nguyện phục
vụ công ích, giúp đỡ mọi người khi mình có điều kiện làm
được. Bố tôi thường hay nhắc nhủ các anh chị lớn là “Thấy
cái gì chướng tai gai mắt , thì phải ra tay sửa sang lại ,
chứ không được bàng quan, dửng dưng trước tình trạng trái
khoáy. Đó mới là tác phong của một con người có gia giáo và
tư cách của một dòng tộc có uy tín trong xóm làng …”
Trong các bữa ăn gia
đình, mỗi lần có anh chị nào than phiền này nọ về cách xử sự
không tốt của một bà con trong làng xóm, thì cha tôi thường
hay khuyên can, ông nói: “Người ta đâu có nghĩ được như
mình. Do đó, mình không nên chấp nhất đối với họ về chuyện
không hay như thế “. Sau này khi đã lớn, lúc đọc được đoạn
văn trong cuốn “ Livre de mon ami “ của văn hào Anatole
France, tôi cũng thấy được lời khuyên bảo của một người cha
giống hệt như bố tôi đã dậy anh chị em chúng tôi khi xưa.
Tôi vẫn còn nhớ ông cụ
bảo tôi là: “ Mỗi khi con muốn hỏi tên người nào ngang tuổi
hay lớn hơn , thì nhớ phải dùng chữ nho cho lịch sự. Chẳng
hạn “Xin cho biết quý danh“ , chứ đừng “Xin cho biết
tên“. Có thể bây giờ người ta dễ dãi, đơn giản hơn, nên cứ
xài chữ nôm, khác với hồi xưa chữ nho vẫn còn thịnh hành hơn
chăng?
Cha tôi không phải là
người hoạt động chính trị, thế mà vẫn không thoát khỏi việc
bị Việt minh bắt đi mất tích vào đầu năm 1948. Trước đó vào
mùa hè năm 1947, Việt minh đã bắt giết cậu út, em của mẹ tôi
là Tống văn Dung và quẳng xác xuống sông Trì Chính, Phát
Diệm, khiến mẹ tôi phải vật vã than khóc suốt bao nhiêu ngày
đêm. Và dù đến khi mẹ chết vào năm 1952 tại nhà bà Cô Phó
Tích, là em của cha tôi, nỗi đau buồn vì mất em và mất chồng
do Việt minh gây ra vẫn không hề nguôi ngoai.
Từ trên 40 năm nay, tôi
dấn thân vào hoạt động xã hội, phục vụ đồng bào. Và tôi cũng
bị chính quyền ... bắt tù chỉ vì tôi tranh đấu đòi Dân chủ,
Tự do, Nhân quyền cho VN. Tôi làm như vậy, cũng chỉ vì noi
gương ngay thẳng, chính trực và hết lòng phục vụ dân tộc của
cha tôi mà thôi. Tôi thật biết ơn cha về tấm gương tiết tháo
lẫm liệt đó. Và tôi cũng rất tự hào có được một người cha
chí khí, dũng cảm, yêu thương hết moi người mà hồi sinh thời
bà con vẫn goi cụ là Ông Chánh Hải ở xã Cát Xuyên, huyện
Xuân Trường, tỉnh Nam Định..
Cha tôi đã khuất gần 60
năm rồi. Nhưng cái nết na, cái phong thái quả cảm và lòng hy
sinh tận tụy của người với bà con, với làng nước thì vẫn còn
mãi trong lòng anh chị em chúng tôi.
Luật sư
Đoàn Thanh Liêm |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐIỀU
KHÁC THƯỜNG TRONG NHỮNG CÁI BÌNH THƯỜNG |
Tôi vẫn nhớ câu chuyện thầy Thế Tâm
Nguyễn Khắc Dương kể cho chúng tôi nghe trong một buổi học:
Lúc thầy còn trẻ ở quê miền Trung, trong một lần dạo chơi
ngoài đồng vắng, chú “tiểu đồng” đi theo đã hỏi thầy: “Cậu
ơi, bông hoa nở trong kẹt đá để làm chi, không có ai thấy
cả!”.
Câu hỏi của chú bé nọ đã ăn sâu vào trí
nhớ của tôi. Nhiều lần tôi đã suy nghĩ đề tìm câu trả lời,
nhưng tôi chỉ tự trả lời được bằng một câu “kinh điển” chung
chung: Vì Thiên Chúa yêu thương loài người nên Ngài dựng nên
muôn loài muôn vật cho loài người hưởng dùng mà ca ngợi
Ngài!
Tôi đã “ví von” câu chuyện này qua bài
thơ “Ngẫm Nghĩ” sau đây:
Đoá hoa nở giữa đồng không.
Con chim hót giữa mênh mông đất
trời.
Sao lấp lánh giữa chơi vơi.
Cá tôm bơi lội giữa khơi nước ngàn.
Vô thường mà lại đa mang,
Thân con giữa chốn trần gian đông
người.
Sinh ra để khóc hay cười?
***
Hôm nay, sau một cuộc nói chuyện với
hai bạn trẻ đến thăm và sau khi tình cờ đọc xong một đoạn
trong cuốn “Hoàng Tử Bé” của Saint-Exupéry, tôi đột nhiên
“thấy” được một câu trả lời có vẻ cụ thể và “sát sườn” hơn
cho mình: “Bông hoa ấy nở trong kẹt đá là để chú bé kia thấy
nó và đặt ra câu hỏi nọ”. Bông hoa ấy không nở ra một cách
“vô nghĩa lý” trong cuộc đời!
Tôi thử suy nghĩ thêm và thấy có điểm
tương đồng giữa bông hoa nọ và một con người nào đó đang
hiện diện trên cuộc đời này: Không ai có mặt trên cuộc đời
một cách “vô nghĩa lý” cả. Nếu Thiên Chúa dựng nên một người
thì chắc chắn người ấy đã được Ngài trao cho một sứ mạng để
hoàn thành.
Tôi trở lại suy nghĩ về những bông hoa
và thấy Thiên Chúa đã dựng nên quá nhiều bông hoa, hình như
nhiều hơn cả mức cần thiết, như chú bé nọ đã nhận xét. Nhưng
nghĩ cho kỹ, tôi thấy bất kỳ bông hoa nào - dù là bông hoa
dại - cũng có một “sứ mạng”: hoặc là để cho con người ngắm
nhìn, hoặc là để cho ong bướm hút mật, hay thậm chí để cho
chim chóc côn trùng nhấm nháp cho no bụng... Không bông hoa
nào nở ra một cách vô ích cả.
Con người cũng vậy. Hình như Thiên Chúa
dựng nên nhiều người quá, có lẽ nhiều hơn cả mức cần thiết?
Thầy Dương đã đưa ra nhận xét như thế khi đi giữa đường phố
Sài Gòn đông nghẹt người.
***
Trong hàng tỷ người đang có mặt trên
trái đất này, thoạt nhìn, có rất nhiều cuộc đời xem ra vô
nghĩa lý vì “ẩn khuất trong những kẹt đá” như bông hoa mà
chú bé nọ đã tình cờ nhìn thấy. Họ âm thầm được sinh ra và
âm thầm chết đi mà chẳng để lại dấu tích gì trên trần gian.
Thậm chí nhiều khi cuộc đời họ chỉ toàn là đắng cay bất hạnh
phải âm thầm gánh chịu một mình. Thế thì họ được sinh ra làm
gì nhỉ?
Chú bé nọ “tình cờ” gặp được bông hoa
và đặt ra được một câu hỏi. Khi ấy chú còn quá nhỏ để biết
rằng câu trả lời đã nằm sẵn trong câu hỏi mà chú đặt ra. Tôi
hy vọng rằng khi lớn lên chú đã tìm ra câu trả lời cho mình.
Nếu còn sống, bây giờ chắc “chú” cũng đã bước qua tuổi 70!
Riêng tôi, nhờ câu hỏi ấy mà tôi tìm ra
được một câu trả lời về cuộc nhân sinh cho chính mình: Mỗi
một con người được sinh ra trên mặt đất này là để hạnh ngộ
với một-ai-đó.
Rất nhiều lần và rất tình cờ, tôi đã
được soi sáng bởi những con người “vô danh”: những người
hành khất, những người tàn phế, những đứa trẻ con, những
người nhà quê bình dị... Nếu được phép, tôi xin ví họ như
những bông hoa nở trong kẹt đá. Họ âm thầm sống giữa cuộc
đời, không kỳ vọng có một ai đó “ngắm nhìn” mình, “trưng
bày” mình cho những người khác chiêm ngưỡng. Họ sống một
cuộc đời bình dị. Họ được sinh ra trong bình dị và sẽ chết
đi trong bình dị, hầu như không để lại một dấu ấn nào cho
những người chung quanh. Tuy nhiên, nếu xét cho kỹ, họ đang
âm thầm thực hiện sứ mạng cao cả của mình dù họ không hay
biết. Nếu họ sống đúng với ơn gọi làm người, chắc chắn họ
đang soi sáng cho ít là một-ai-đó đã may mắn tình cờ gặp
được họ. Là người, họ đang thực hiện sứ mạng cao cả của một
con người trong cuộc đời này.
***
Là Kitô hữu, là con cái “gần gũi” của
Thiên Chúa, chắc chắn tôi đang mang trong mình một sứ mạng
trọng đại mà Thiên Chúa trao phó. Sứ mạng ấy trọng đại không
phải vì tôi sẽ làm những việc lớn lao mang lại những thành
công vang dội khiến nhiều người trầm trồ thán phục. Không,
như một bông hoa dại nở trong kẹt đá, sứ mạng trọng đại của
tôi là hãy nỗ lực làm triển nở toàn vẹn ơn gọi Kitô hữu
trong chính hoàn cảnh sống hiện tại của mình. Rồi đến một
lúc bất ngờ nào đó, phút giây hạnh ngộ giữa tôi và một-ai-đó
sẽ đến. Nếu cuộc gặp gỡ này có thể giúp cho người đó đặt ra
câu hỏi về ý nghĩa của cuộc nhân sinh, thì tôi đã thực hiện
được sứ mạng mà Thiên Chúa uỷ thác khi Ngài cho tôi được
diễm phúc sinh ra trong cuộc đời này.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết
sống một cách “khác thường” những điều “bình thường” trong
mọi giây phút của cuộc đời con. Amen./.
- Trầm Tĩnh Nguyện - |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU KHÔNG GHEN
TƯƠNG |
Tác phẩm 13 Nét mặt
của Tình yêu
Dominique AUZENET
Lm Micae-Phaolô Trần Minh Huy chuyển
ngữ
Chương Ba TÌNH YÊU KHÔNG GHEN TƯƠNG
Chúng ta đã cùng nhau xem xét Tình yêu nhẫn nại,
Tình yêu phục vụ. Bây giờ đến bảng liệt kê tiêu cực tám
động từ giúp chúng ta phân biệt cái không phải là tình yêu,
và những thái độ cụ thể của tội lỗi mà chúng ta phải chế ngự
và hoán cải để sống một tình yêu thánh thiện, trong tương
quan với tha nhân. Trước hết thánh Phaolô khảo sát tính ghen
tuông.
1. Những cạnh tranh mà tính ghen tuông len lỏi vào và những
tồn tại...
Thánh Phaolô năng trở lại vấn đề nầy trong các thư của ngài,
và nếu chúng ta muốn hiểu rõ điều ngài tố cáo khi viết tình
yêu không ghen tuông, cần phải trích dẫn ít đoạn văn chi
tiết hơn :
"Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ
những việc làm đen tối, và hãy cầm lấy vũ khí của sự sáng để
chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang
sống giữa ban ngày : không chè chén say sưa, không chơi bời
dâm đảng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc
lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà
thỏa mãn các dục vọng" (Rm 13,12-14).
"Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì
anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt
và theo thói người phàm sao ? Khi người nầy nói Tôi, tôi
thuộc về ông Phaolô, và người khác Tôi, tôi thuộc về ông
Apollô, thì anh em chẳng phải là người phàm tục sao ?" (I
Cor 3,3-4).
"Quả vậy, tôi sợ rằng khi tôi đến, tôi không thấy anh em
được như ý tôi, và anh em thấy tôi không được như ý anh em.
Chớ gì ở giữa anh em đừng có chia rẽ, ghen tương, oán ghét,
cạnh tranh, vu khống, nói hành, kiêu căng, hỗn loạn" (II Cor
12,20).
"Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là
dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất
hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái,
ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như
vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo : những
kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa.
Còn
hoa quả của Thần Khí là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn
nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Không
có luật nào chống lại những điều như thế. Những ai thuộc về
đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh xác thịt vào thập giá cùng
với các dục vọng và đam mê.
Nếu
chúng ta sống nhờ Thần Khí thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến
bước. Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau,
đừng ganh tỵ nhau" (Gal
5,19-26).
Như vậy chúng ta thấy rõ, trong khi nói đến tính ghen tuông,
thánh Phaolô đã tố cáo thế nào những lối ứng xử do "xác
thịt" mà ra, tức từ quả tim của con người tội lỗi. Thánh
Phaolô mô tả chi tiết những gì đến từ xác thịt : xâu xé,
chia rẽ, lời nói cộc cằn... và ngài đặt nó đối nghịch với
những gì mà Thánh Thần muốn tỏa ra trong chúng ta : lòng
tốt, kính trọng, tín nhiệm... Do đó ngài khuyến dục hãy mặc
lấy Chúa Giêsu Kitô (Rm 13,14).
Trong thư của ngài, thánh Giacôbê tông đồ cũng đi hướng đó
bằng cách đặt đối nghịch sự khôn ngoan trên cao với những
ứng xử trần gian :
"Ai là người khôn ngoan và từng trải trong anh em?
Người ấy hãy dùng lối sống tốt đẹp mà chứng tỏ rằng những
hành động của họ phát xuất từ lòng hiền hậu và đức khôn
ngoan. Nhưng nếu trong lòng anh em có sự ghen tương, chua
chát và tranh chấp, thì anh em đừng có tự cao tự đại mà nói
dối trái với sự thật. Sự khôn ngoan đó không phải từ trời
cao ban xuống, nhưng là sự khôn ngoan của thế gian, của con
người tự nhiên, của ma quỷ. Thật vậy, ở đâu có ghen tương và
tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa. Đức
khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh
khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và
sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả
hình. Người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã
gieo trong hòa bình, là cuộc đời công chính"
(Jc 3,13-18).
Trong những đoạn thư của các tông đồ mà chúng ta vừa đọc,
tính ghen tuông là thành phần của một toàn thể các thái độ
và ứng xử được xui khiến bởi một tinh thần cạnh tranh :
·
Những cãi vã, tranh luận, bất hòa, ác tâm, bất đồng...
·
Đầu óc hay kiếm chuyện và ti tiện,
·
Chuyện ngồi lê đôi mách và vu khống,
·
Rối loạn và phá hoại trong cộng đoàn.
Tất cả những thứ đó là thuốc độc thực sự đối với các cộng
đoàn tín hữu. Chỉ có việc tiếp đón Chúa Thánh Thần mới có
thể vô hiệu hóa những thực tại xấu xa nầy, bằng cách làm
xuất hiện những hoa quả tốt lành xây dựng cộng đoàn.
2. Một
ý muốn quyền lực trên con người và sự vật.
a) Cần phải đi xa hơn trong suy tư. Chính xác tính ghen
tuông là gì ? Tiếng Hylạp là zèlos, nghĩa là nhiệt tâm. Dưới
khía cạnh nầy, tính ghen tuông do nhiệt tâm thái quá mà sinh
ra. Thánh Phaolô viết : tình yêu không được nhiệt tâm thái
quá. Ngài bận lòng tố cáo sự thi đua, những cạnh tranh
thiêng liêng làm cho một số tín hữu đứng lên chống lại nhau,
như ở Côrintô chẳng hạn :
"Tôi xin anh em... chớ gì đừng có sự chia rẽ giữa anh
em... Mỗi người trong anh em nói rằng tôi thuộc về Phaolô.
Và tôi thuộc về Apollô. Và tôi thuộc về Kêpha. Còn tôi thuộc
về Đức Kitô. Vậy Đức Kitô bị phanh thây rồi sao ?(I Cor
1,10-13).
Các phe phái có thể do những người có cá tính mạnh qui tụ
lại chung quanh mình những người theo sở thích của họ, nhưng
cũng bởi những con người "ham làm lãnh tụ"...
Trong mọi trường hợp, sự gắn bó quá đáng với những cá nhân
được thiết lập như những "thầy tinh thần" (gourous) hay sự
thống trị của một số người nào đó trên kẻ khác, kết cuộc
luôn luôn mang lại những hậu quả xấu... Thánh Phaolô tố cáo
những thủ đoạn của những người Dothái tòng giáo đã đến nói
với các tín hữu Galata rằng họ sẽ không thể được rỗi nếu
không chịu cắt bì :
"Họ nhiệt thành với anh em không phải vì mục đích tốt,
mà chỉ vì muốn ly gián anh em với tôi, để anh em nhiệt thành
với họ. Được người ta tỏ lòng nhiệt thành là điều tốt, miễn
là vì mục đích tốt và trong mọi trường hợp, chứ không phải
chỉ khi nào tôi có mặt giữa anh em" (Gal 4,17-18).
"Tình yêu chỉ phải đương đầu với loại cuộc chiến nầy.
Cần phải nghiêm túc nghĩ đến điều đó trong tất cả các giáo
đoàn, nơi mà lòng nhiệt thành thái quá sẽ nhanh chóng trở
thành đáng ngờ : thay vì hiệp nhất các thành phần của cùng
một cộng đoàn thì nó đặt họ đối nghịch nhau và làm cho họ
thành đối thủ với nhau. Than ôi, lắm khi có những cuộc cạnh
tranh ngay trong lòng Giáo Hội khó mà hiểu nổi. Thánh Phaolô
đã quen với điều đó nên đã viết : "Chính vì tính ưa tranh
giành mà họ loan báo Chúa Kitô, họ không có lòng ngay..."
(Phil 1,17).
Do
đó, theo cách của mình, thánh Phaolô nhắc nhở rằng Thiên
Chúa không cần đến công việc của chúng ta, nhất là với những
công trình mà chính ta thực hiện bởi lòng đam mê để xây dựng
Nước Ngài đâu... Vẫn có chồng chất những lòng nhiệt thành và
những đam mê. Nhưng tiêu chuẫn chính là tình yêu"[1]
b) Tính ghen tương cũng nảy sinh trong tâm hồn chúng ta vì
sự kinh ngạc đối với một người bộc lộ và tỏa ra một ánh sáng
mà cuộc đời ta không có. Ý muốn quyền lực của tôi, nhất là
khi nó bị nhạo báng, làm cho tôi ghen tức với những gì làm
cho người kia sống có chiều sâu và tôi cảm nhận trong mình
như bị tổn thương... Trong trường hợp nầy, như một dốc khác
của sự khâm phục, tính ghen tuông liều nảy sinh một bạo lực
rất mạnh. Bạo lực nầy có thể đi đến chỗ gây nên chết chóc :
"Philatô biết rằng chỉ vì ghen tương mà các
thượng tế đã bắt nộp Chúa Giêsu" (Mc 15,10).
Sự khiêm tốn tìm kiếm hiệp nhất có thể giải thoát các tâm
hồn, cho người bị ghen ghét cũng như cho kẻ ghen ghét:
"Xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn,
bằng việc hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng
một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh
tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ
khác hơn mình"
(Phil 2,2-3).
Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết vui vẻ đánh
giá cao những gì là đẹp đẻ và tốt lành trong đời sống của
những người chung quanh.
c) Tính ghen tuông cũng là một biểu hiện của lòng tham lam,
ham hố... Chúng thần tượng hóa các của cải vật chất, cách
đặc biệt ở đây là của cải người khác, ngay cả của người anh
em trong cộng đoàn. Lòng tham lam cộng thêm tính ghen tuông
phát xuất từ một con tim cần phải được thanh luyện. Chúng ta
đừng sợ những bóng tối nội tâm nầy, hãy để cho chúng lộ ra
ánh sáng, và chúng ta hãy mang chúng đến giao cho Chúa trong
bí tích hòa giải. Một khi được lòng thương xót Chúa giải
thoát, tôi có thể lưu lại trong cộng đoàn như một người anh
em.
Ngược lại, nếu vì bất chấp hay vì kiêu ngạo, tôi tự đóng kín
trong những tối tăm của mình, tôi sẽ trở nên một chướng ngại
cho chính cộng đoàn của mình :
"Khi viết thế, tôi muốn nói với anh em là đừng đi lại với
kẻ nào mang danh là người anh em mà cứ dâm đãng, tham lam,
thờ ngẫu tượng, quen chửi bới, say sưa rượi chè hay trộm
cắp, ngay cả anh em cũng phải tránh đừng ăn uống với con
người như thế" (I Cor
5,11).
Sự thanh tẩy tâm hồn nhằm đạt được đức ái đích thực cũng
chính là Lời Chúa kiện toàn sự thanh tẩy ấy trong chúng ta.
Thánh Phêrô nhắc nhở cho chúng ta rằng Lời Chúa tái sinh và
thanh tẩy tâm hồn chúng ta, đổi mới các mối tương quan với
những người sống chung quanh chúng ta:
"Nhờ vâng phục sự thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn
để thực thi tình huynh đệ chân thành... Vì anh em đã được
tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống
bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi...
Vậy anh em hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả
hình và ghen tương, cùng mọi lời nói xấu, gièm pha. Như trẻ
sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa..."
(I P 1,22 - 2,2).
Suy niệm để lần hạt Mân Côi
1. Tình yêu không ghen tuông. "Những việc do tính xác
thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là ... hận thù, bất hòa, ghen
tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ...
Còn hoa quả của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an,
nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ...
Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Thần thì cũng hãy nhờ Thánh Thần
mà tiến buớc. Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích
nhau, đừng ganh tỵ nhau"
(Gal 5,19-26). Chúng ta hãy dâng mình cho Chúa Thánh Thần để
Ngài làm lớn lên trong chúng ta hoa trái của Ngài.
2. Tình yêu không ghen tuông. "Ai là người khôn ngoan
và từng trải trong anh em? Người ấy hãy dùng lối sống tốt
đẹp mà chứng tỏ rằng những hành động của họ phát xuất từ
lòng hiền hậu và đức khôn ngoan. Nhưng nếu trong lòng anh em
có sự ghen tương, chua chát và tranh chấp, thì anh em đừng
có tự cao tự đại mà nói dối trái với sự thật. Sự khôn ngoan
đó không phải từ trời cao ban xuống, nhưng là sự khôn ngoan
của thế gian, của con người tự nhiên, của ma quỷ. Thật vậy,
ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ
mọi thứ việc xấu xa. Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con
người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan
dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt,
không thiên vị, cũng chẳng giả hình. Người xây dựng hòa bình
thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình, là cuộc đời
công chính" (Jc 3,13-18).
Chúng ta hãy cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong các gia đình
và cộng đoàn của chúng ta.
3. Tình yêu không ghen tuông. "Xin anh em hãy làm cho
niềm vui của tôi được trọn vẹn, bằng việc hãy có cùng một
cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý
hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh,
nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác hơn mình"
(Phil
2,2-3). Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết vui
mừng đánh giá cao những gì là đẹp đẻ và tốt lành trong đời
sống của các anh chị em chung quanh.
4. Tình yêu không ghen tuông. "Đêm sắp tàn, ngày gần
đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm
lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho
đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày : không chè chén
say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen
tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng
chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng" (Rm
13,12-14).
Chúng ta hãy cầu nguyện cho những ai đang sống trong tối tăm
được ơn trở lại.
5. Tình yêu không ghen tuông. "Nhờ vâng phục sự thật,
anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân
thành. Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn,
vì anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát,
mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và
tồn tại mãi mãi... Vậy anh em hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi
điều xảo trá, giả hình và ghen tương, cùng mọi lời nói xấu,
gièm pha. Như trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa tinh
tuyền là Lời Chúa..." (I P 1,22 - 2,2). Chúng ta hãy
xin cho được lòng yêu mến Lời Chúa, để lời đó thanh tẩy tâm
hồn chúng ta cho một tình bác ái lớn lao hơn.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Thay Đổi Hình
Dáng của tuổi Già |
Thay đổi cấu
trúc bên ngoài của cơ thể đôi khi là những chỉ dấu báo hiệu
sự sắp tới của tuổi già. Và thường thường con người sẽ có
những ngỡ ngàng, những ưu tư trước các thay đổi đó.
1-Thay đổi về tóc
Với khoa
học, lông và tóc giúp bảo vệ cho đầu khỏi bị tác dụng nguy
hại của ánh nắng mặt trời, ngăn ngừa sự xâm nhập vật lạ vào
mắt, mũi. Nhưng với con người, tóc là món đồ trang trí quý
giá, một biểu tượng của cá tính. Do đó tóc được chăm sóc rất
chu đáo. Khi tóc thay đổi với tuổi già thì nhiều người thấy
không vui, tìm đủ mọi cách để che đậy.
Về cấu tạo,
tóc là một tập hợp những tế bào khô đã chết được đẩy lên
khỏi da từ một túi nang ở chân tóc. Trong chân tóc có mạch
máu, dây thần kinh, tuyến tiết chất nhờn. Trung bình trên
đầu có hơn 100,000 sợi tóc và mỗi ngày có khoảng một trăm
sợi rụng đi.
Tại chân tóc
có những tế bào đặc biệt được sắp đặt để vào một tuổi nào đó
tiết ra chất mầu melanin khiến cho tóc đen, bạch kim hoặc
hung hung đỏ.
Cho tới nay
chưa có giải thích thỏa đáng cho những thay đổi của tóc khi
về già như thay đổi về số lượng, mầu sắc và phẩm chất của
tóc. Mặc dù những thay đổi này không mang lại ảnh hưởng xấu
cho sức khỏe nhưng con người lại rất quan tâm đến.
a- Tóc bạc
Về mầu sắc,
sự kiện tóc bạc hay tóc hoa râm là những dấu hiệu khá
sớm của tuổi về già.
Tóc bạc bắt
đầu từ hai bên thái dương rồi lan lên đỉnh đầu. Mới đầu, nó
còn có tính cách muối tiêu, trắng đen lẫn lộn, sau đó thì
muối nhiều hơn tiêu.
Sở dĩ tóc
thành trắng là vì loại tế bào sinh hắc tố (melanin) giảm đi,
tóc trở thành không có mầu, ánh sáng phản chiếu lên khiến
cho tóc như trắng.
Cho đến nay
khoa học chưa chứng minh tại sao tế bào này giảm đi cũng như
chưa tìm ra cách ngăn chặn được sự giảm này.
Ða số các
nhà nghiên cứu cho tóc bạc vì gen di truyền hoặc vì sự hóa
già. Cũng có ý kiến cho là vì thiếu sinh tố loại B, kém dinh
dưỡng, do thời thiết, ô nhiễm hóa chất trong môi trường hoặc
do căng thẳng tâm thần, buồn phiền quá mức.
Vì không
ngăn ngừa, không chữa được nên con người tìm cách che đậy,
thay đổi sự bạc trắng này bằng mỹ phẩm nhuộm tóc, mang tóc
giả hoặc cấy tóc.
Giáo sư
Kyonggeun Yoon và các nghiên cứu gia tại Ðại học Y Khoa
Jefferson, Pennsylvania, đã thành công trong việc chuyển đổi
tóc từ trắng sang đen của chuột mắc bệnh bạch tạng bằng điều
chỉnh gen di truyền. Kết quả nghiên cứu được công bố trong
tạp chí Nature số tháng Giêng năm 2000. Mong rằng phương
thức này sớm mang lại kết quả tốt đẹp để có thể áp dụng cho
người già tóc bạch kim.
Tuy được coi
là một dấu hiệu sớm của tuổi về già, nhưng sự bạc tóc chỉ
xảy ra ở khoảng 65% người cao tuổi, còn 35% thì hoặc tóc
không bạc hay chỉ bạc khi tuổi rất cao.
Nhiều trung
niên, mới 25-30 tuổi tóc đã bạc.
Thành ra sự
bạc tóc không phải là chỉ dấu của sự hóa già của các bộ phận
trong cơ thể, cũng như không có ảnh hưởng gì tới sức khỏe
hay tới tuổi thọ. Nhiều người hãnh diện có mái tóc bạch kim,
tự cho là người từng trải, có kinh nghiệm và đáng tin cậy.
Thánh kinh
có ghi “Tóc bạc là vương miện của sự vinh quang”
Còn huyền
thoại Ngũ Tử Tư, sau một đêm trầm suy, sáng dậy tóc
đã bạc trắng cũng vẫn chỉ là huyền thọai, không có giải
thích khoa học.
b- Rụng tóc
Rụng tóc là
một hiện tượng bình thường xẩy ra ngay từ khi còn trẻ. Nhưng
với tuổi cao, tóc rụng nhiều hơn nhất là khi da đầu bị nhiễm
trùng, hoặc do ảnh hưởng của một vài dược phẩm, chất phóng
xạ trị liệu, vài loại thực phẩm.
Trung bình,
mỗi ngày có khoảng 100 sợi tóc rụng. Lông nách và lông mu
cũng chịu cùng số phận.
Ngoài ra,
khi về già tóc khô, giòn, dễ rụng vì các tuyến nhờn kém họat
động.
Ở nữ giới,
lông tóc mọc ở cằm trên khi số lượng kích thích tố nữ giảm
vào thời tắt kinh và gây ra nhiều ngượng ngùng cho quý bà.
Ta có thể nhổ, cạo hoặc dùng các chất hóa học để làm mất
những sợi lông vô duyên này.
Ngoài ra khi
qúy bà dùng thuốc có nam kích thích tố, thì lông tóc cũng
mọc ra ở mặt và thân thể, nhưng khi ngưng thuốc thì lông tóc
ngưng mọc.
2- Thay đổi về da
Với một diện
tích 17 thước vuông, da là bộ phận lớn nhất của cơ thể.
Về phương
diện cấu tạo, da đã làm nhiều kiến trúc sư xây dựng ngạc
nhiên, thán phục vì tính cách bền bỉ, đàn hồi và nhậy cảm
của nó.
Da là đồng
minh bảo vệ cơ thể chống ngoại vật xâm lăng như vi khuẩn,
cát bụi, những phũ phàng của thời tiết nóng lạnh, thay đổi
của thiên nhiên.
Nhưng da
cũng tố giác tuổi già với nhiều thay đổi không đẹp như da
nhăn nheo, khô cằn, mềm xệ hoặc những vết đồi mồi...
Về cấu tạo,
da có ba lớp chính: biểu bì, bì và hạ bì với các chức năng
khác nhau.
-Biểu bì là
lớp ngoài cùng gồm tế bào tiết chất cứng gelatin để bảo vệ
da; tế bào sắc tố làm cho da có mầu và chặn tia tử ngoại xâm
nhập cơ thể. Biểu bì được liên tục thay thế và trong suốt
cuộc đời 70 tuổi, ta mất đi tới 20 kí lô tế bào da.
-Bì là một
mạng lưới tế bào với hai chất đạm elastin và collgen làm da
được bền bỉ và co giãn. Bì còn có nhiều mạch máu, dây thần
kinh, tuyến mồ hôi, tuyến nhờn và chân tóc.
-Hạ bì nằm
dưới cùng, có nhiều tế bào mỡ, sợi thần kinh, mạch máu và
được dùng như để gắn hai lớp bì và biểu bì vào cơ thể.
Sự hóa già
mang đến nhiều thay đổi không đẹp lắm cho hình dáng con
người ở cả ba lớp da.
Biểu bì hư
hao nhiều hơn là tái tạo, mô mới kém tổ chức khiến cho biểu
bì mỏng manh. Tế bào mầu, chất elastin và collagen giảm,
tuyến mồ hôi và tuyến nhờn teo, giảm hoạt động. Những thay
đổi đó đưa tới các hậu quả sau đây:
a-Da nhăn.
Sự xuất hiện
của lớp da nhăn đầu tiên trên cơ thể làm nhiều người hoảng
hốt, vì với da nhăn làm ta như già đi. Da nhăn nheo vì chất
collagen giảm, chất elastin tăng, da mất tính đàn hồi.
Chúng ta có
thể đo sự mềm dịu đàn tính của da bằng cách kẹp lớp da giữa
hai ngón tay trong ít giây, rồi thả ngón tay, tính xem mất
mấy giây để lớp nhăn trở lại bằng phẳng. Thường thì một hai
giây, nhưng ở người trên 60 tuổi, thì phải mất vài chục
giây.
Da nhăn
nheo, không có nghĩa là những cơ quan cốt yếu trong cơ thể
cũng suy mòn. Người trẻ tuổi mà da không được chăm sóc thì
cũng vẫn nhăn như thường.
b.- Da khô
Ở người cao
tuổi, sự bài tiết mồ hôi giảm vì những tuyến mồ hôi, tuyến
nhờn giảm hoặc kém hiệu năng. Do đó da trở nên khô, ngứa,
nhất là về mùa lạnh.
c- Thay đổi khả năng điều hoà thân nhiệt
Dưới lớp bì
và biểu bì là một lớp mô mỏng chứa nhiều chất mỡ để chống sự
thất thoát nhiệt độ cơ thể.
Ở người cao
tuổi, lớp mỡ này mất đi, nhất là ở mu bàn tay, mặt và gan
bàn chân. Các cảm giác ngoài da cũng kém, nhất là cảm giác
đau. Vì thế người cao tuổi hay bị phỏng ở bàn chân.
Số lượng
những mạch máu nhỏ dưới da của người cao tuổi cũng ít hơn,
cho nên người gìa chịu đựng độ lạnh kém người trẻ. Khi nhiệt
độ giảm dưới mức an toàn, người già có thể bị lạnh cóng.
d- Chậm lành vết thương
Xúc giác
giảm cộng thêm sự suy yếu của hệ thống miễn dịch kéo dài độ
nhạy cảm của da khi tiếp xúc với hoá chất kích thích. Người
già hay bị tổn thương nơi da. Khả năng lành da cũng rất chậm
vì giảm máu nuôi dưỡng da.
Nhìn chung,
những thay đổi theo tuổi già của da xuất hiện rõ nhất ở trên
mặt. Vầng trán nhăn nheo với vết rạn chân chim ở đuôi con
mắt; da mặt mỏng; xương mặt nhô; mạch máu lộ trên da; mí mắt
xệ, quầng mắt đen; vành tai to chẩy xuống; cằm nhiều mỡ.
3- Thay đổi về chiều cao
Với tuổi đời
chồng chất, con người như co lại, và dáng điệu ngay thẳng
hiên ngang lúc trai tráng không còn nữa.
Trung bình
khi về già, đàn ông thấp đi khoảng 2 phân, đàn bà 1,5
phân. Đây là do ảnh hưởng của một số yếu tố như sự giảm nước
trong cơ thể, các bắp thịt yếu, thay đổi vóc dáng, xương
sống hao mòn và biến dạng.
Riêng ở nữ
giới, nguyên nhân chính của co ngắn chiều cao vẫn là bệnh
loãng xương (osteoporosis).
4- Thay đổi về sức nặng, dung lượng nước của cơ thể
Kết quả của
nhiều cuộc nghiên cứu đều xác nhận là, sức nặng của cơ thể
tăng lên ở tuổi trung niên rồi giảm xuống lúc tuổi già. Đồng
thời, tế bào mỡ tăng và thay thế vào chỗ những tế bào thịt
bị tiêu hao vì ta không sử dụng đến chúng. Tế bào mỡ xuất
hiện nhiều nhất ở vùng bụng và hông.
Ở tuổi thanh
niên, 60% sức nặng của cơ thể là nước. Khi về già chỉ còn có
51%.
Nữ giới cũng
vậy: từ 51% lúc trẻ xuống 46% lúc về già. Nguyên do là số
lượng tế bào chứa nhiều nước mất đi hoặc teo đi
5- Một số những thay đổi khác
Nhận xét
chung cho thấy, về già vòng ngực tăng lên, sống mũi và dái
tai dài ra một chút.
Trên xương
đầu thì những khớp nối của xương dính liền lại, xương sọ dày
lên.
Móng tay,
móng chân mọc chậm, đổi mầu và có những lằn gợn gồ ghề.
Kết luận
Trên đây là
những thay đổi bình thường xẩy ra trong tiến trình lão hoá.
Ngày nay
khoa học đã chứng minh là ta có thể làm những thay đổi này
chậm lại bằng cách sống theo quy luật thiên nhiên, dinh
dưỡng hợp lý, tránh lạm dụng những chất có hại cho cơ thể,
vận động xương thịt đều đặn cho khí huyết lưu thông, gân cốt
thư dãn.
Cũng như giữ
cảnh lòng luôn luôn an lạc, như lời người xưa: “Lạc giả
trường thọ, ưu giả dị yểu”.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức,
Texas-Hoa Kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|