Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay
Gaudium Et Spes |
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Chương II
Cộng Ðoàn Nhân Loại
26*
23. Mục Ðích Công Ðồng nhắm tới.
Trong những khía cạnh chính yếu của thế giới hôm nay phải kể
tới sự gia tăng những mối tương quan giữa con người với
nhau, mà những tiến bộ kỹ thuật ngày nay đóng góp rất nhiều
vào việc phát triển sự gia tăng ấy. Tuy nhiên, cuộc đối
thoại huynh đệ giữa con người được hoàn hảo không phải ở
trong những tiến bộ ấy, nhưng một cách sâu xa hơn trong cộng
đoàn nhân loại. Cộng đoàn này đòi hỏi phải có sự tôn trọng
tất cả phẩm giá thiêng liêng của nhau. Mạc khải Kitô giáo
giúp nhiều vào việc cổ võ cho sự hiệp thông giữa các nhân
vị, đồng thời cũng đưa ta tới chỗ hiểu biết sâu xa hơn về
những luật lệ của đời sống xã hội mà Tạo Hóa đã in vào bản
tính thiêng liêng và luân lý của con người.
Bởi vì những
tài liệu mới đây của Giáo Quyền đã trình bày sâu rộng hơn lý
thuyết Kitô giáo về xã hội con người1,
nên Công Ðồng chỉ nhắc lại một ít chân lý chính yếu và Công
Ðồng trình bày những nét căn bản của các chân lý ấy dưới ánh
sáng của Mạc Khải. Tiếp đến, Công Ðồng nhấn mạnh tới một vài
hậu quả xét là quan trọng hơn ở thời đại chúng ta.
24. Ðặc tính cộng đoàn của thiên
chức con người trong ý định Thiên Chúa. Lấy
tình Cha săn sóc mọi người, Thiên Chúa đã muốn rằng tất cả
mọi người phải làm thành một gia đình và đối xử với nhau
bằng tình huynh đệ. Bởi vì mọi người được tạo dựng giống
hình ảnh của Thiên Chúa là Ðấng đã "cho tất cả nhân loại do
một nguyên tổ cư ngụ trên khắp mặt đất" (CvTđ 17,26), nên họ
đều được gọi tới cùng một cứu cánh duy nhất là chính Thiên
Chúa.
Do đó yêu mến
Thiên Chúa và anh em là giới răn thứ nhất và trọng nhất.
Thánh Kinh dạy ta rằng tình yêu mến Thiên Chúa không thể
tách rời với tình yêu anh em: "...nếu có điều răn nào khác
đi nữa cũng gồm tóm trong lời này: hãy thương yêu anh em như
chính mình... Thương yêu là chu toàn luật pháp vậy" (Rm
13,9-10; x. 1Gio 4,10). Ðiều nói trên cũng được nhận là quan
trọng nhất đối với con người mỗi ngày một lệ thuộc nhau hơn
cũng như đối với thế giới ngày càng hiệp nhất lại.
Hơn nữa, khi
cầu nguyện với Chúa Cha: "xin cho mọi người nên một..., như
chúng ta là một" (Gio 17,21-22), Chúa Giêsu mở ra những viễn
tượng mà lý trí con người không thể tự đạt tới được. Như vậy
Chúa Giêsu đã nói lên một sự tương tự nào đó giữa sự kết hợp
của Ba Ngôi Thiên Chúa với sự kết hợp của các con cái Chúa
trong chân lý và đức ái. Sự tương tự này cho thấy con người,
tạo vật duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên cho
chính họ, chỉ có thể gặp lại chính bản thân mình nhờ thành
thực hiến thân
2.
25. Sự lệ thuộc giữa con người và
xã hội. Ðặc tính xã hội của con người cho
thấy rõ sự thăng tiến của con người và sự phát triển của xã
hội lệ thuộc nhau
27*. Thực vậy, nhân vị chính là và phải là nguyên
lý, chủ thể và cứu cánh của mọi định chế xã hội, bởi vì tự
bản chất nhân vị phải hoàn toàn cần đến đời sống xã hội
3. Cho nên vì đời sống xã hội đối với con người
không phải là một cái gì phụ thuộc, do đó nhờ trao đổi với
người khác, nhờ phục vụ lẫn nhau và nhờ đối thoại với anh
em, con người được tăng triển mọi khả năng của mình và có
thể đáp ứng được thiên chức của mình.
Giữa những
mối liên hệ xã hội cần thiết để con người được phát triển,
có những mối liên hệ đáp ứng được bản tính sâu xa của con
người một cách trực tiếp hơn, đó là gia đình và cộng đoàn
chính trị; cũng có những mối liên hệ phát sinh do ý muốn tự
do của con người. Trong thời đại chúng ta, nhiều nguyên nhân
làm cho những mối tương quan và lệ thuộc nhau mỗi ngày một
tăng thêm; do đó phát sinh nhiều hiệp hội và những tổ chức
khác nhau, công hay tư xét về phương diện pháp lý
28*. Sự kiện này được mệnh danh là xã hội hóa,
không phải là không có những nguy hại, tuy nhiên cũng đem
lại nhiều lợi ích lớn lao để củng cố cũng như làm gia tăng
những đức tính của con người và bảo đảm những quyền lợi của
con người
4.
Nhưng nếu đời
sống xã hội giúp nhiều cho con người chu toàn sứ mệnh của
mình kể cả sứ mệnh tôn giáo nữa, thì ta cũng không thể phủ
nhận rằng con người vì những hoàn cảnh xã hội họ đang sống
và tiêm nhiễm ngay từ thuở thiếu thời, nên nhiều khi xa lánh
không làm điều thiện và bị lôi kéo làm điều ác. Chắc chắn
những xáo trộn rất thường xảy ra trong phạm vi xã hội một
phần phát sinh từ chính tình trạng căng thẳng giữa những tổ
chức kinh tế, chính trị và xã hội. Nhưng sâu xa hơn, những
xáo trộn trên phát sinh do ích kỷ và kiêu căng của con
người, đó cũng là những nguyên nhân làm cho môi trường xã
hội ra vẩn đục. Một khi trật tự xã hội bị đảo lộn do hậu quả
của tội lỗi, thì con người, bẩm sinh đã nghiêng chiều về sự
xấu, lại gặp phải những cám dỗ mới để phạm tội. Những cám dỗ
này nếu không có cố gắng liên lỉ và không có ơn thánh trợ
giúp sẽ không thể lướt thắng được.
26. Bổn phận mưu cầu công ích.
Sự lệ thuộc nhau mỗi ngày một chặt chẽ hơn và dần dần lan
rộng trên toàn thể thế giới, vì thế công ích - tức là toàn
bộ những điều kiện của đời sống xã hội cho phép những tập
thể hay những phần tử riêng rẽ có thể đạt tới sự hoàn hảo
riêng một cách đầy đủ và dễ dàng hơn - ngày nay mỗi lúc một
nới rộng tầm phổ quát hơn và do đó bao hàm những quyền lợi
và nghĩa vụ của toàn thể nhân loại. Bất cứ tập thể nào cũng
phải tôn trọng nhu cầu và nguyện vọng chính đáng của các tập
thể khác, hơn thế nữa, phải tôn trọng công ích của toàn thể
gia đình nhân loại
5.
Nhưng đồng
thời con người càng ngày càng ý thức hơn về phẩm giá cao
trọng vốn có của mình, bởi vì con người vượt trên mọi loài
và vì những quyền lợi cũng như bổn phận của con người là phổ
quát và bất khả xâm phạm. Vậy cần phải cho con người được
tất cả những gì thiết yếu mà con người phải có để thực sự
sống đời sống con người, như của ăn, áo quần, chỗ ở, quyền
tự do chọn lựa bậc sống và quyền lập gia đình, quyền được
giáo dục, quyền làm việc, quyền bảo tồn danh thơm tiếng tốt,
quyền được kính trọng, quyền thông tin xứng hợp, quyền hành
động theo tiêu chuẩn chính thực của lương tâm mình, quyền
bảo vệ đời sống tư và quyền tự do chính đáng cả trong phạm
vi tôn giáo nữa.
Bởi vậy, trật
tự xã hội và tiến bộ của nó phải luôn luôn nhằm ích lợi của
các nhân vị, bởi vì trật tự của muôn vật phải lệ thuộc vào
trật tự của các nhân vị chứ không ngược lại. Ðiều này chính
Chúa đã ám chỉ khi Người nói rằng ngày nghỉ được lập ra vì
con người chứ không phải con người được dựng nên vì ngày
nghỉ
6. Trật tự này phải phát triển mỗi ngày một hơn,
phải đặt nền tảng trên chân lý, xây dựng trong công bình,
nuôi sống nhờ tình yêu; phải dần dần tìm được trong tự do sự
quân bình mỗi ngày mỗi hợp với nhân bản hơn
7.
29* Ðể chu toàn được những điều trên, phải có sự
đổi mới tâm thức và những thay đổi sâu rộng trong xã hội.
Thánh Thần
Chúa, Ðấng điều khiển những biến chuyển thời gian và canh
tân bộ mặt trái đất với sự quan phòng kỳ diệu, đang hiện
diện trong cuộc tiến hóa này. Men Phúc Âm đã và đang làm dậy
lên trong lòng con người sự đòi hỏi phải có nhân phẩm, một
đòi hỏi không thể cưỡng chế được.
27. Tôn trọng nhân vị.
Ðể đi tới những kết luận thực hành và cần thiết hơn, Công
Ðồng nhấn mạnh về sự tôn trọng con người. Vậy mỗi người đều
phải coi người đồng loại không trừ một ai như "cái tôi thứ
hai", cho nên trước hết phải quan tâm đến sự sống của họ và
quan tâm đến những phương tiện cần thiết giúp họ sống một
đời sống xứng đáng
8, chứ đừng bắt chước người giàu có kia đã không
săn sóc gì tới người nghèo Lazarô
9.
Nhất là thời
nay, chúng ta có bổn phận khẩn thiết phải trở nên người lân
cận của bất cứ người nào và tích cực giúp đỡ khi họ đến với
mình, hoặc có thể là một người già lão bị mọi người bỏ rơi,
hoặc là một công nhân ngoại quốc bị khinh bỉ một cách bất
công, hoặc là một người lưu vong, hay một đứa bé sinh ra do
cuộc tình duyên bất hợp pháp chịu đau khổ cách bất công vì
tội lỗi mình không phạm, hoặc một người đói ăn đang kêu gọi
lương tâm chúng ta, làm vang lại lời của Chúa: "Bao nhiêu
lần các ngươi làm những việc đó cho một trong những người
hèn mọn là anh em Ta đây, tức là các ngươi làm cho Ta vậy"
(Mt 25,40).
Ngoài ra, tất
cả những gì đi ngược với chính sự sống, như giết người dưới
bất cứ hình thức nào, diệt chủng, phá thai
30*, giết chết cách êm dịu
31*, hoặc tự tử trực tiếp; tất cả những gì xâm
phạm sự toàn vẹn của con người, như cắt bỏ một phần thân
xác, hành hạ thân xác hoặc tâm trí, làm áp lực tâm lý; tất
cả những gì xúc phạm đến nhân phẩm, như những cảnh sống thấp
kém dưới mức độ phải có của con người, giam cầm vô cớ, lưu
đày, nô lệ, mãi dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ con; kể cả những
tình trạng làm việc nhục nhã khiến cho công nhân hoàn toàn
trở thành dụng cụ cho lợi lộc, chứ không được coi như con
người tự do và có trách nhiệm: tất cả những điều nói trên và
những điều tương tự đều thực sự ô nhục. Và trong khi làm
thối nát nền văn minh nhân loại, thì tất cả những điều trên
lại càng bôi nhọ chính những kẻ chủ động hơn là bôi nhọ
những kẻ phải chịu sự nhục mạ, đồng thời cũng xúc phạm nặng
nề đến danh dự của Ðấng Tạo Hóa.
Chú
Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo
trước)
26* Chương này bổ túc
chương I.
1) Con người
có bản tính xã hội, theo ý Ðấng Tạo Hóa: con người đều bởi
một Chúa, đều là một loại, đều có chung một cùng đích. Lời
Chúa mạc khải: như trong điều răn thứ nhất, trong ý nguyện
của Chúa Giêsu cũng như trong tính cách con cái một Thiên
Chúa Ba Ngôi cũng xác nhận điều ấy (số 24).
2) Do đó con
người cần nhờ xã hội để phát triển. Xã hội là để phục dịch
con người. Nhưng nếu con người không sinh hoạt trong xã hội
vì công ích thì không có xã hội. Sự nhượng bộ lợi ích riêng
cốt để nhờ công ích xã hội mà giúp đỡ từng cá nhân. Ðàng
khác nhiều khi lý tưởng đó còn xa vời: do thiếu sót về kinh
tế, về chính trị, về xã hội (lắm lúc do tội ích kỷ và kiêu
ngạo gây nên). Trong trường hợp ấy xã hội làm thiệt hại cho
con người (số 25).
3) Nên phải
tôn trọng ích chung của cả thế giới cốt cổ võ quyền lợi căn
bản cá nhân. Cần phải canh tân tâm trạng dưới ảnh hưởng của
Chúa Thánh Thần và theo tinh thần Phúc Âm (số 26).
4) Phải tôn
trọng nhân vị mọi người. Công Ðồng nhắc tới một số người
thường vẫn chưa được tôn trọng, và một số tội lỗi của xã hội
ngày nay là vết nhơ cho nền văn minh và cho chính kẻ phạm
tội đó; những tội lỗi đó quả thực làm ô danh Thiên Chúa (số
27).
5) Không
tiêu diệt đối phương: tôn trọng nghĩa là tìm hiểu và đối
thoại, là lên án sự sai lầm chứ không xét đoán ý kín đáo của
kẻ sai lầm. Hơn nữa, ta phải yêu thương kẻ làm hại ta (số
28).
6) Phải công
nhận mọi người đều bình đẳng về quyền lợi căn bản vì cùng
một bản tính, một nguyên thủy, một cùng đích và cũng được
cứu chuộc như nhau. Nên, phải loại trừ mọi phân biệt về
quyền lợi đó trên phạm vi cá nhân, trong sinh hoạt xã hội,
văn hóa và chính trị dù có những sự khác biệt phụ thuộc (số
29).
7) Luân lý
cá nhân phải nhượng bộ cho luân lý nhấn mạnh về nhiệm vụ xã
hội: Công Ðồng vừa diễn tả thái độ theo luân lý xã hội, vừa
nêu ra vài thí dụ cụ thể trái ngược với luân lý ấy (số 30).
8) Ðể được
như vậy phải giáo dục xã hội và canh tân trạng huống sinh
hoạt. Công dân phải lần lần góp phần vào đời sống chính trị
(số 31). Hoạt động và lời Chúa mạc khải xác nhận khía cạnh
xã hội của con người: đặc biệt khi tập trung loài người như
anh em, như chi thể của một thân thể. Tình liên đới ấy sẽ
hoàn thiện hóa ở đời sau (số 32).
27* Ðiều hòa quyền lợi
của xã hội (số 26) và quyền lợi cá nhân (số 27) trong thực
tế rất khó, chẳng hạn thật là rất nguy hiểm nếu dựa trên
tiêu chuẩn về lượng để xét định những đòi hỏi của công ích.
Những bảng thống kê về kết quả kinh tế xã hội (sự gia tăng
sản xuất, mức độ sinh hoạt, công trình thịnh vượng, trừng
phạt tội trạng, v.v...) đã có thể vi phạm nhân vị dù chưa
nói gì về phương pháp được xử dụng. Trong trường hợp ấy các
kết quả mỹ mãn đó không phục vụ công ích! Làm hại hay tiêu
diệt các nhóm thiểu số để đạt tới mục tiêu của đa số cũng là
một ví dụ (x. số 59, 73).
28* Gọi là chế độ "công
pháp hay tư pháp" tùy theo liên quan đến ích lợi chung hay
ích lợi riêng. Ví dụ hệ thống tư pháp cũng có tính cách công
pháp vì là cần thiết cho công ích. Hệ thống đó nhằm bảo vệ
những quyền lợi riêng của từng cá nhân hay của từng pháp
nhân (chính quốc gia cũng có quyền lợi riêng như vậy): những
quyền lời ấy thuộc về tư pháp.
29* Không những sự giao
thiệp giữa cá nhân với cá nhân và giữa cá nhân với quốc gia,
mà cả những hoạt động của chính quyền và của các quốc gia
với nhau cũng phải dựa trên bốn cột trụ này: chân lý, công
bình, tình yêu, tự do. Phải chăng Công Ðồng có lý khi đòi
hỏi phải canh tân tâm trạng và đổi mới ngay chính xã hội
nữa.
30*
Phá thai là tội trọng đi ngược với sự sống (MV 51b). Giết
thai nhi khi chưa thành hình (chừng 6 tuần đầu) có lẽ không
phải sát nhân (thần học cũng như khoa học chưa chắc chắn về
vấn đề thai nhi ấy đã sống do linh hồn nhân loại chưa),
nhưng chắc chắn sự phá thai đó là giết mạng sống đã có đặc
tính nhân loại. Hơn nữa vì có lẽ đã có linh hồn nhân loại
rồi, nên phá thai là liều lĩnh giết người và đó là một tội,
và sát hại một kẻ không những hoàn toàn vô tội mà còn là đứa
con của chính kẻ sát nhân. Dù trường hợp người mẹ rất nguy,
cũng không thể giết thai nhi để cứu mẹ: mạng sống của thai
nhi cũng như của chính người mẹ là thuộc quyền của Chúa:
không ai có quyền cắt đi. Không bao giờ được phép làm sự dữ,
dù với mục đích tốt lành. Chẳng may, vì lý do có nhiều vụ
phá thai bất hợp pháp và làm trong những hoàn cảnh thiếu cẩn
thận (nhiều khi do người không phải là bác sĩ và thiếu
phương tiện), thì có quốc gia lập luật cho phép phá thai với
một số điều kiện bảo đảm. Phải hiểu rõ là dù có luật như thế
đi chăng nữa, "cho phép" chỉ có thể có nghĩa là luật pháp
không coi vụ phá thai đó là tội trạng mà các tòa án phải
trừng phạt; chứ không có nghĩa phá thai không phải là tội.
"Phá thai... là tội ác đáng ghê tởm" (MV 51c). Giáo Hội phạt
tội này với vạ tuyệt thông cho tất cả những ai góp phần hiệu
lực cho việc phá thai.
31*
Tức là làm cho những người bệnh nặng, tàn tật, già nua, mau
chết để khỏi phải kéo dài sự đau đớn. Hành động có vẻ nhân
đạo nhưng thực sự là tội sát nhân, và tỏ lòng ích kỷ (bệnh
nhân nào lại không quấy rầy kẻ chung quanh) hơn là tỏ lòng
bác ái.
32*
Sự lầm lạc vẫn đáng ghét vì không hợp với bản tính con người
đã có lý trí để hiểu biết sự thật. Sự lầm lạc trong phạm vi
luân lý nhất là do tội còn đáng ghét hơn nữa vì nó làm cho
con người nên xấu xa và có thể ảnh hưởng trên người khác rất
nhiều. Nhưng chính người lầm lạc vẫn còn là con người phải
được tôn trọng. "Lầm lẫn thì không có quyền lợi": nghĩa là
bản tính con người đòi hỏi rằng phải nỗ lực để loại trừ sự
lầmlạc. Dĩ nhiên chỉ con người mới có thể có quyền lợi. Thế
thì kẻ lầm lạc không có quyền để lầm lạc, nhưng vẫn có quyền
để được kính trọng như con người, mặc dầu đã lầm lạc (về vấn
đề này Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo còn nói rõ hơn).
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
NỀN TẢNG CỦA HIỆP THÔNG |
NỀN TẢNG CỦA HIỆP
THÔNG
Đọc lại Kinh thánh, chúng ta thấy con
người đã được dựng nên trong một tình trạng cân đối và hài
hòa, bởi vì lúc bấy giờ con người được :
- Hiệp thông và gắn bó với Thiên Chúa.
Sự hiệp thông và gắn bó này được diễn tả bằng hình ảnh Adong
Eva sống trong vườn địa đàng và Thiên Chúa thường hiện ra để
nói chuyện với hai ông bà.
- Hiệp thông và gắn bó với nhau. Sự
hiệp thông và gắn bó này được diễn tả bằng hình ảnh Eva xuất
hiện từ chiếc xương sườn của Adong và cả hai trở nên một
xương một thịt. (St 2,8-17).
Thế nhưng, vì kiêu căng muốn trở nên
bằng Thiên Chúa, con người đã quay lưng chống lại Ngài.
Chính sự phản bội đầu tiên này đã :
- Bẻ gẫy sự hiệp thông và gắn bó với
Thiên Chúa : hai ông bà tự ý cắt đứt mối liên hệ với Đấng là
tình yêu (1Gio 4,16), là nguồn hiệp nhất.
- Bẻ gẫy sự hiệp thông và gắn bó với
nhau : trong hôn nhân bằng việc ly dị và đa thê, giữa anh em
bằng lòng ghen tương sát hại (St 4), ngoài xã hội bằng sự
bất đồng ngôn ngữ (St 11,1-9).
Vốn là tình yêu, nên Thiên Chúa đã đi
bước trước đến với con người để cứu vãn sự đổ vỡ này cũng
như để tái lập sự hiệp thông và gắn bó ấy, Thiên Chúa đã
tuyển chọn dân Do Thái và trao cho họ giao ước được đóng ấn
trong đức tin (Os 2,22), nhờ họ Ngài tỏ mình và kết hợp muôn
dân trong một sự phụng thờ duy nhất.
Tuy nhiên, phải chờ cho đến khi Đức
Kitô, Con duy nhất của Ngài, xuống thế làm người, thì nhịp
cầu nối trời và đất mới được hoàn thành. Sự hiệp thông và
gắn bó giữa con người và Thiên Chúa cũng như giữa con người
với nhau được Ngài thực hiện trong Giáo hội, bởi vì Ngài
liên kết những ai yêu mến và tin vào Ngài bằng cách ban cho
họ Thần Khí (Rm 5,5), nuôi dưỡng họ bằng một tấm bánh là
thân xác Ngài làm hy tế trên thập giá (1Cor 10,16). Như thế,
Ngài làm cho tất cả các dân tộc trở nên một thân xác (Eph
2,14-18), các tín hữu thành chi thể Ngài. Nhờ Ngài, sự hiệp
thông và gắn bó được tái lập trên mọi lãnh vực :
- Với Thiên Chúa bằng việc xóa bỏ tội
lỗi.
- Với nhau bằng việc Thần Khí biến họ
thành con cái của một Cha chung (Rm 8,14) và cùng một trái
tim, một tâm hồn, họ đồng thanh ca tụng Cha mình (Rm 15,5;
Cvtđ 2,4-11).
Tóm lại, nhờ đức tin con người nhận
biết Thiên Chúa duy nhất : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần. Họ hướng đến đức ái liên kết Chúa Cha với Chúa Con và
là đức ái do Thần Khí thông ban cho họ (Gio 15,9; Rm 5,5).
Khi liên kết với Thiên Chúa, đức ái làm cho họ trở thành
chứng nhân của Ngài trên trần gian và thành cộng tác viên
thực hiện ý định của Ngài, tức là liên kết mọi người và toàn
thể vũ trụ vào trong Người Con duy nhất (Rm 8,29; Eph 1,5)
Từ những sự việc trên, chúng ta rút ra
những điểm căn bản sau đây :
1- Đức Kitô và
Chúa Thánh Thần chính là nguyên lý của sự hiệp thông.
“…Ngay từ nguyên thủy, Thiên Chúa đã
tạo dựng một bản tính nhân loại duy nhất và quyết định sau
này tập họp tất cả con cái Ngài tản mát đó đây thành một dân
tộc duy nhất. Chính vì mục đích ấy mà Thiên Chúa đã sai Con
Ngài xuống, Đấng mà Ngài đã đặt làm thừa kế vũ trụ (Dth
1,2), hầu trở nên Thày, Vua, Linh mục cho mọi người và nên
thủ lãnh của dân tộc mới và phổ quát của con cái Thiên Chúa.
Sau cùng, cũng vì mục đích đó mà Thiên Chúa đã sai Thánh
Thần của Con Ngài, là Chúa và là Đấng ban sự sống. Đối với
toàn Giáo hội, với tất cả cũng như với mỗi tín hữu, Thánh
Thần là nguyên lý qui tụ và hiệp nhất trong giáo lý của các
Tông Đồ, trong sự hiệp thông, bẻ bánh và kinh nguyện (Cvtđ
2,42).
2- Chúa Ba Ngôi là
khuôn mẫu cho sự hiệp thông
Ba ngôi Thiên Chúa là hình ảnh lý tưởng
nhất cho sự hiệp thông, bởi vì Ba Ngôi tuy riêng biệt nhưng
vẫn luôn hiệp thông cùng nhau trong cùng một bản tính. Với
chúng ta cũng vậy, mặc dù có những khác biệt, nhưng chúng ta
vẫn có thể và phải tiến đến một sự hiệp thông chân thành
bằng cách tìm hiểu và tôn trọng những khác biệt của nhau.
(HN số 15).
ĐỐI TƯỢNG CỦA SỰ
HIỆP THÔNG
Chúng ta vốn thường nói : con người đầu
đội trời, chân đạp đất. Vì thế, sống trong cuộc đời, chúng
ta có hai bổn phận phải chu toàn, đó là bổn phận đối với
trời và bổn phận đối với đất, hay cụ thể hơn, đó là bổn phận
đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với anh em đồng loại.
Trong phạm vi hiệp thông cũng vậy : chúng ta phải hiệp thông
với Chúa và với nhau. Sự hiệp thông này được đặc biệt thực
hiện trong lòng Giáo hội, bởi vì Giáo hội chính là bí tích
của sự hiệp thông, nói cách khác Giáo hội vừa là dấu chỉ vừa
là phương thế hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa và
giữa con người với nhau.
1. Hiệp thông giữa
con người và Thiên Chúa.
“Sự kiện toàn thể nhân loại làm nên một
gia đình duy nhất, dựa trên một nguồn gốc chung, vì tất cả
mọi người nam, nữ đều được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh
của Ngài. Bên cạnh đó, mọi người đều có một vận mệnh chung,
vì mọi người đều được gọi để hoàn thành cuộc đời mình nơi
Thiên Chúa, mà trung tâm là Đức Giêsu Kitô, Đấng “đã tự kết
hợp với mỗi người một cách nào đó” (cf. RH, số 13; MV, số
22) trong công cuộc nhập thể của Ngài” (DV, số 28)..
Đức Giêsu, là Chúa
thật và là người thật, được sai đi bởi Thiên Chúa của sự
hiệp thông, Ngài đã thiết lập sự hiệp thông giữa trời và đất
trong chính thân thể của Ngài (Ecclesia in Asia, số 13).
Ngài đã hòa giải nhân loại với Thiên Chúa nhờ việc mang lại
ơn tha thứ tội lỗi (Ep 1, 7). Ngài đã liên kết dân Do Thái
và dân ngoại thành một, phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù
ghét để tạo nên một nhân loại mới (Ep 2, 13- 18).
“…ngõ hầu anh em
được hiệp thông với chúng tôi. Nhưng sự thông hiệp của ta là
thông hiệp với Cha và với Con của Người, Đức Giêsu Kitô”
(1Ga 1, 3).
Chúng ta là con cái
Thiên Chúa (1Ga 3, 1. 2. 10), được sinh ra bởi Thiên Chúa
(1Ga 2, 29; 3, 9; 4, 7; 5, 1. 4. 18).
Đức Kitô đã mạc
khải cho chúng ta biết : Thiên Chúa là một người Cha giàu
lòng thương xót (cf. 2Cr 1, 3), Ngài đặc biệt gần gũi với
con người, nhất là khi con người gặp khổ đau, bị đe dọa.
Chính Thiên Chúa đến với con người trước và chỉ cho con
người đường nẻo để con người có thể đến với Ngài : Chưa có
ai đã từng thấy được Thiên Chúa. Người Con duy nhất, Đấng ở
trong lòng Cha, Ngài đã tỏ Cha ra (cf. Ga 1, 18). Nơi Đức
Kitô, con người được gặp gỡ Thiên Chúa. Đức Kitô làm cho mọi
sự được tái tạo (cf. Ep 1, 12); trở nên anh em với nhau,
không còn Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ,
vì anh em tất cả là một trong Đức Kitô (cf. Gl 3, 28).
“Như Đức Kitô dấn
mình trong sự sống và tình yêu của Chúa Cha, cộng đoàn các
môn đệ cũng phải dìm mình trọn vẹn trong sự sống của Thiên
Chúa Ba Ngôi và sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa. Nhờ
mối hiệp thông này, cộng đoàn các môn đệ tiến đến việc chia
sẻ tình yêu và sự sống của Thiên Chúa với kẻ khác cách đáng
tin hơn, và chuyển mang sức mạnh của Nước Thiên Chúa vào các
thực tại Á Châu cách hữu hiệu hơn” (Là môn đệ Đức Kitô tại Á
Châu hôm nay, Tuyên ngôn của LHHĐGMAC, 1/ 1995, số 14).
2. Hiệp thông giữa con người với nhau.
“Nếu ta yêu mến nhau, thì Thiên Chúa
lưu lại trong ta, và nơi ta, lòng mến của Người đã được
thành toàn” (1Ga 4, 12).
Những tiến bộ khổng lồ về khoa học và
kỹ thuật đã giúp con người trở nên chủ nhân ông của trái đất
và đã thống trị nó (cf. St 1, 28). Việc thống trị này đôi
khi được hiểu một chiều và xem ra không còn chỗ đứng cho
tình thương nữa. Trong khi đó, Giáo hội chính là dụng cụ
Thiên Chúa dùng để thực hiện việc hiệp nhất. (cf. GH, số 1).
Tất cả mọi người đều được tạo dựng theo
hình ảnh Thiên Chúa. Do đó, mọi người đều là anh em, dù
thuộc chủng tộc hay văn hóa nào đi nữa và cùng tạo nên một
gia đình vì đều gọi Thiên Chúa là Cha.
Để khẳng định chúng ta hợp nhất thành
một gia đình, sách Sáng thế còn cho chúng ta thấy Adong Eva
là khởi điểm duy nhất của cả nhân loại. Vì thế, chúng ta là
anh chị em ruột với nhau, nên không bao giờ được khinh bỉ
hay loại trừ một ai. Hành động như vậy là tự khinh bỉ và
loại trừ chính mình.
Tuy nhiên trong việc hiệp thông giữa
con người với nhau, là người tín hữu chúng ta cần phải lưu
tâm :
a- Hiệp thông trong
nội bộ Giáo hội.
Chúng ta thường bảo : Phải tu thân, tề
gia trước đã rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ. Nếu
Giáo hội là dụng cụ để thực hiện sự hiệp thông, thì trước
hết sự hiệp thông ấy phải có trong lòng Giáo hội :
- Hiệp thông với Đấng kế vị thánh
Phêrô :
Đọc lại Phúc âm chúng ta nhận thấy Chúa
Giêsu đã xây dựng Giáo hội trên đá tảng Phêrô : “Còn Thày,
Thày bảo cho anh biết : anh là Phêrô, nghĩa là tảng đá, trên
tảng đá này, Thày sẽ xây Hội Thánh của Thày…” (Mt 16,18).
Ngài cũng đã trao cho Phêrô quyền chăn dắt toàn thể Giáo hội
: “Hãy chăm sóc chiên của Thày”.
Chính trong chiều hướng ấy, Công đồng
đã xác quyết : “Để chức Giám mục được duy nhất và không bị
phân chia, Chúa đã đặt thánh Phêrô làm thủ lãnh các Tông đồ
khác, và trong Ngài, Chúa đã đặt nguyên lý cùng nền tảng
vĩnh cửu và hữu hình của hiệp nhất đức tin và hiệp thông.
Thánh Công đồng một lần nữa nêu lên cho mọi tín hữu tin vững
vàng giáo lý về sự thiết lập, sự trường tồn, về quyền lực và
quan niệm của quyền tối thượng nơi Giáo hoàng Rôma cùng
quyền giáo huấn bất khả ngộ của ngài” (GH số 18).
- Hiệp thông với Giám mục giáo
phận.
“Thánh Phêrô và các Tông đồ khác tạo
thành một cộng đoàn Tông đồ duy nhất theo như Chúa đã ấn
định; tương tự như thế, Giáo hoàng Rôma, Đấng kế vị Phêrô,
cùng với các Giám mục, là những người kế vị các Tông đồ, đều
liên kết với nhau. Đặc tính và bản chất cộng đoàn của hàng
Giám mục được biểu lộ qua luật lệ cổ truyền: theo đó, Giám
mục trên khắp hoàn cầu thông hiệp với nhau và với Giám mục
Rôma bằng mối dây hiệp nhất, bác ái và bình an” (GH số 22).
Đầu mối sự duy nhất là Chúa Kitô, và đầu mối hữu hình là Đức
Thánh cha, là Giám mục giáo phận.
“Giáo phận là sự hiệp thông của các
cộng đoàn chung quanh vị mục tử; trong đó giáo sĩ, tu sĩ và
giáo dân tham gia cuộc đối thoại bằng đời sống và bằng tâm
hồn, cuộc đối thoại được Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Giáo phận
là nơi ưu tiên cho ta thấy cụ thể hình ảnh sự hiệp thông của
các cộng đoàn giữa bao thực tế xã hội, chính trị, tôn giáo,
văn hóa vô cùng phức tạp của Á Châu”. (Ecclesia in Asia số
25)
Chúng ta có thể nói được rằng Linh mục
chính là hiện thân của Giám mục trong cộng đoàn mình coi sóc
:
“Trong mỗi cộng đoàn tín hữu địa
phương, Linh mục là hiện thân của Giám mục mà các ngài hằng
liên kết với lòng tin tưởng và quảng đại, lãnh nhận phần
chức vụ cùng chia sẻ nỗi lo lắng của Giám mục và hằng ngày
ân cần thi hành chức vụ ấy.” (GH số 28).
Vì thế, Linh mục cần phải gắn bó và
cộng tác mật thiết với Giám mục, coi Giám mục như là người
cha của mình :
“Là cộng sự viên khôn ngoan, là phụ tá
và là dụng cụ của hàng Giám mục, Linh mục được kêu gọi để
phục vụ dân Thiên Chúa. Các ngài hợp với Giám mục mình tạo
thành Linh mục đoàn duy nhất với nhiều chức vụ khác nhau.”
(GH số 28).
“Vì tham dự vào chức Linh mục và vào sứ
mệnh của Giám mục, Linh mục phải thực sự xem ngài như cha
mình và phải kính cẩn vâng phục ngài.” (GH số 28)
Đồng thời Giám mục phải coi các linh
mục là như con cái và bạn hữu :
“Phần Giám mục cũng phải coi sóc các
linh mục cộng tác với mình như con cái và bạn hữu, như Chúa
Kitô không gọi môn đệ là tôi tớ, nhưng là bạn hữu (Gio
15,15).” (GH số 28).
- Hiệp thông giữa các linh mục
với nhau.
“Một tình huynh đệ thắm thiết nối kết
tất cả các linh mục với nhau, vì cùng tham dự một chức thánh
và một sứ mệnh chung. Tình huynh đệ đó phải được bộc lộ một
cách tự phát, tự nguyện qua sự tương trợ cả tinh thần lẫn
vật chất, trong phạm vi mục vụ cũng như trong phạm vi cá
nhân, trong các buổi hội họp, cũng như trong sự hiệp thông
với nhau qua đời sống, việc làm và tình bác ái” (GH số 28).
- Hiệp thông
giữa giáo dân với nhau.
“Giáo hội do Chúa
thiết lập được tổ chức và điều khiển theo nhiều thể thức
khác biệt rất lạ lùng. “Vì như trong một thân thể, chúng ta
có nhiều chi thể, nhưng mọi chi thể không có cùng một nhiệm
vụ; cũng vậy, chúng ta tuy nhiều người song là một thân thể
trong Chúa Kitô, nên mỗi người chúng ta là chi thể lẫn nhau”
(Rm 12, 4- 5). Thế nên, chỉ có một dân Thiên Chúa được Ngài
tuyển chọn; “Chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một phép
Thánh tẩy” (Ep 4, 5), cùng chung một phẩm giá của những chi
thể vì đã được tái sinh trong Chúa Kitô, cùng một ân huệ
được làm con cái, một ơn gọi trở nên trọn lành, một ơn cứu
độ và một niềm hy vọng duy nhất và một đức ái không phân
chia. Vì thế, trong Chúa Kitô và trong Giáo hội, không còn
có sự hơn kém vì nguồn gốc hay dân tộc, vì địa vị xã hội
hoặc nam nữ… Nếu Chúa phân biệt những thừa tác viên có chức
thánh với những thành phần khác của dân Thiên Chúa , thì sự
phân chia này vẫn hàm chứa một sự hiệp nhất, vì chủ chăn và
các tín hữu khác liên kết với nhau do những mối dây liên hệ
chung. Các chủ chăn trong Giáo hội noi gương Chúa phải phục
vụ lẫn nhau và phục vụ các tín hữu khác; phần các tín hữu
phải sẵn lòng hợp tác với chủ chăn và những người giảng dạy.
Như thế, tuy khác biệt nhau, nhưng tất cả đều làm chứng sự
duy nhất kỳ diệu trong Thân Thể Chúa Kitô. Thực vậy, chính
sự khác biệt về ân huệ, chức vụ và hoạt động lại là mối dây
kết hợp con cái Thiên Chúa làm một, vì “mọi sự ấy là công
trình của cùng một Thánh Thần duy nhất” (1 Cr 12, 11) (GH số
32).
“Mọi tín hữu rải
rắc trên khắp hoàn cầu đều hiệp thông trong Thánh Thần với
tất cả các tín hữu khác, và vì thế “kẻ ở Roma biết rằng
người Ấn độ là chi thể mình”. (GH số 13)
Tóm lại, chính trong sự hiệp thông với
Đức Giáo hoàng, và với Giám mục đoàn, mà sự biểu lộ tính
hiệp nhất và tính khác biệt của Giáo hội, mà mỗi Giáo hội
địa phương, cũng như thành phần của dân Thiên Chúa, nhận ra
đặc tính cơ bản của mình.
Đồng thời, sự hiệp nhất các Kitô hữu là
một điều cần thiết để nhờ họ trần gian nhận biết tình yêu
của Chúa Cha được biểu lộ qua việc trao ban Con Một Ngài và
để mọi người nên một trong Đức Kitô. Nhờ vậy mà ước muốn
cuối cùng của Ngài sẽ được thực hiện : Xin cho tất cả nên
một như chúng ta là một vậy ! (Gio 17,21).
b- Hiệp thông bên
ngoài Giáo hội.
Sự hiệp thông không phải chỉ được thực
hiện trong lòng Giáo hội mà con được lan tỏa ra bên ngoài :
- Hiệp thông với mọi người.
Như chúng ta đã biết, Giáo hội luôn
mang đặc tính phổ quát, nghĩa là chung cho mọi người, ở mọi
nơi và trong mọi lúc. Vì thế, Giáo hội luôn hiệp thông với
mọi thành phần, không loại trừ một ai :
“Giáo hội, tức dân Thiên Chúa, không
loại bỏ bất cứ một phần di sản trần thế nào của các dân tộc;
trái lại, Giáo hội chăm sóc và thu dụng tất cả những gì tốt
lành nơi gia sản, nơi nguồn lực và phong hóa của các dân
tộc, và khi thu dụng, Giáo hội tinh luyện, kiện toàn và làm
chúng nên cao thượng… Đặc tính phổ quát này, tư trang của
dân Thiên Chúa, là một ân huệ do chính Thiên Chúa ban, nhờ
đó Giáo hội Công giáo luôn nỗ lực cách hữu hiệu quy tụ toàn
thể nhân loại cùng những gì tốt lành nơi họ dưới một Thủ
lãnh là Chúa Kitô, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần”
(GH số 13).
“Vì thế, mọi người đều được mời gọi vào
sự hiệp nhất Công giáo này của dân Thiên Chúa, sự hiệp nhất
ấy tiên báo và cổ võ nền hòa bình phổ quát. Họ thuộc về hoặc
hướng về sự hiệp nhất đó dưới nhiều thể cách khác nhau, được
sắp xếp hoặc họ là tín hữu Công giáo hay là những người tin
Chúa Kitô, hoặc sau cùng, tất cả mọi người không trừ ai, đều
được ơn Thiên Chúa kêu mời lãnh nhận phần rỗi” (GH số 13).
- Nhất là cộng tác với những
người thiện chí.
Công đồng kêu gọi chúng ta hãy cộng tác
với mọi người để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn :
“Người công giáo phải tìm cách cộng tác
với tất cả mọi người thiện chí để cổ động cho bất cứ những
gì là chân thật, công bằng, thánh thiện và đáng yêu quí.
Người công giáo hãy đối thoại với họ, hãy đến với họ cách
khôn ngoan và tế nhị, hãy tìm cách kiện toàn những cơ cấu xã
hội và quốc gia theo tinh thần Phúc Âm”. (TĐ số 14).
“Các Kitô hữu phải hoạt động và cộng
tác với mọi người khác để tổ chức đứng đắn những công việc
kinh tế xã hội. Họ phải quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục
các thiếu nhi và thanh thiếu niên bằng các loại trường học
khác nhau…Ngoài ra, họ còn phải tham gia vào nỗ lực của các
dân tộc đang cố gắng tạo ra những hoàn cảnh sống tốt đẹp
hơn, và củng cố hòa bình thế giới, bằng cách khuất phục đói
khát, dốt nát và bệnh tật.” (TG số 12).
Và Công đồng kết luận :
“Trong đời sống và hoạt động của mình,
các môn đệ Chúa Kitô, nhờ liên kết chặt chẽ với nhân loại,
hy vọng sẽ mang lại cho nhân loại một chứng tá đích thực về
Chúa Kitô, và sẽ hoạt động cho phần rỗi của nhân loại, dù ở
nơi mà họ không thể rao giảng về Chúa Kitô một cách đầy đủ.”
(TG số 12).
- Đặc biệt hiệp thông với những
người đau khổ và nghèo túng.
Hiệp thông giải phóng và tái tạo đối
với những người gần cận: “Như Đức Giêsu, chúng ta phải “dựng
lều của mình” giữa nhân loại đang xây dựng một thế giới tốt
hơn, nhưng đặc biệt giữa những người đau khổ cách sâu xa, và
được thúc đẩy bởi Thần khí sự sống, chúng ta phải dấn thân
thật thâm sâu vào các nền văn hóa Á Châu nghèo khó và thiếu
thốn, ở đó những khát vọng tình yêu và sự sống là những khát
vọng mãnh liệt và cấp thiết nhất. Việc phục vụ sự sống đòi
hỏi sự hiệp thông với mọi người nam nữ, đang kiếm tìm và
tranh đấu cho sự sống, như Đức Kitô đã liên đới với nhân
loại. Sự liên đới đòi hỏi chúng ta phải làm việc chung với
anh chị em Á Châu của mình, để giải phóng xã hội chúng ta
khỏi những gì áp bức và hủy hoại sự sống con người và thụ
tạo, đặc biệt khỏi tội lỗi… Cách đặc biệt, chúng ta sẽ theo
Đức Giêsu trong sự “chọn lựa ưu tiên” của Ngài đối với người
nghèo… Cùng với anh chị em Á Châu của mình, chúng ta cố gắng
xúc tiến sự hiệp thông giữa những người Á Châu đang bị đe
dọa trước những chênh lệch quá hiển nhiên về kinh tế, xã hội
và chính trị. Cùng với họ, chúng ta sẽ khám phá những con
đường nhằm sử dụng những cống hiến của các tôn giáo, văn
hóa, ngôn ngữ khác nhau để đạt đến một sự hiệp nhất Á Châu
phong phú và sâu sắc hơn. Chúng ta sẽ xây dựng những cây cầu
liên đới và giao hòa với các tín đồ khác, và nắm tay mỗi
người trong họ tại Á Châu để hình thành một cộng đoàn tạo
dựng tích cực” (Là môn đệ Đức Kitô tại Á Châu hôm nay, Tuyên
ngôn của LHHĐGMAC, 1/ 1995, số 14).
Hành vi sáng tạo của Thiên Chúa cũng
cho thấy mọi của cải đều dành cho mọi người. Chính hành vi
sáng tạo đó mở ra cuộc đối thoại liên tôn. Nếu Thiên Chúa
chỉ có một, nếu tất cả chúng ta đều là anh em với nhau dưới
cái nhìn của Cha trên trời, thì chúng ta có thể đi vào đối
thoại với các tôn giáo khác. Chúng ta không ngạc nhiên trước
những điểm đồng qui giữa những tôn giáo khác nhau, vì hết
thảy chúng ta đều giống hình ảnh của Đấng độc nhất. Thiên
Chúa đã tỏ mình như Cha của Đức Giêsu Kitô và nên một với
Đức Giêsu Kitô, trong sự hiệp nhất của Thánh Thần. Trong Đức
Kitô, Thiên Chúa đã tỏ mình như Cha với một danh nghĩa mới
mẻ, không ngờ được: “Vì những ai Người đã biết từ trước, thì
Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con
của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em
đông đúc” (Rm 8, 29). Theo sau Đức Giêsu, chúng ta được đặt
làm anh em dưới một danh nghĩa cũng mới mẻ như vậy. Việc
chúng ta nhìn nhận Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu Kitô là
trưởng tử giữa một đàn em đông đúc, sẽ cho chúng ta một cái
nhìn mới mẻ về tha nhân:
- Ngay từ thời Cựu ước, Thiên Chúa đã
luôn nhắc nhở con người không được ngược đãi cô nhi quả phụ,
phải tôn trọng kẻ mù lòa, hành khất, ngoại kiều, già lão và
trong năm toàn xá, trả lại tự do cho những ai mất vì công
nợ.
- Đức Giêsu không xua đuổi kẻ nào vì
môi trường xã hội hay mức độ kinh tế. Người đặc biệt quan
tâm đến những người nghèo hèn, bệnh tật, những kẻ bị loại
trừ. Đó là thái độ “ưu tiên chọn lựa người nghèo” như Giáo
hội quen gọi: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong
những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho
chính Ta” (Mt 25, 40). Mọi người đều là anh em của chúng ta,
nhưng Thần khí của Đức Kitô thúc giục chúng ta ưu tiên đến
với những người bé mọn.
- Đối với người môn đệ Đức Kitô, quyền
lực là để phục vụ: “Giữa anh em, ai muốn làm lớn, thì phải
làm người phục vụ” (Mt 20, 26). Chính Đức Giêsu đã rửa chân
cho các môn đệ và Ngài đã yêu thương đến cùng, yêu đến thí
mạng sống vì người mình yêu.
- Chúa cũng dạy chúng ta phải yêu
thương và tha thứ cho cả kẻ thù, như chính Ngài đã tha thứ
cho những kẻ đóng đinh Ngài.
Trong Kitô giáo, đức ái quyết định tất
cả. Kitô hữu không những là anh em của hết thảy mọi người,
mà họ còn phải học là anh em theo lối của Đức Giêsu. Thập
giá được cắm giữa lòng tình huynh đệ. Cha Maximilien Kolbe
đã làm chứng điều ấy khi chấp nhận chết thay cho một anh em
mà cha chẳng mắc nợ gì. Cha đã noi gương Đức Giêsu: “Người
vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy
trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa… Chính vì thế, Thiên
Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên
muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2, 6. 9). Nếu ai nói yêu mến Thiên
Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối (cf.
1Ga 4, 20). Chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù vì Thiên Chúa
đã yêu thương chúng ta đang lúc chúng ta còn đối địch với
Người (cf. Rm 5, 8). Thập giá Đức Kitô đã làm sụp đổ bức
tường ngăn cách: “Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức
tường ngăn cách là sự thù ghét” (Ep 2, 14- 18). “Anh em chỉ
có một Thầy, còn tất cả đều là anh em với nhau” (Mt 23,
8).
c- Hiệp thông với
Giáo hội trên trời
“Cho tới khi Chúa ngự đến trong uy
nghi, có tất cả các thiên thần theo Người (cf. Mt 25, 31),
và khi sự chết đã bị hủy diệt, mọi vật đều qui phục Người
(cf. 1Cr 15, 26- 27), thì trong số các môn đệ Chúa, có những
kẻ còn tiếp tục cuộc hành trình nơi trần thế, có những kẻ đã
hoàn tất cuộc sống này và đang được tinh luyện, và có những
kẻ được hiển vinh đang chiêm ngưỡng “rõ ràng chính Thiên
Chúa duy nhất trong Ba Ngôi như Ngài hằng có”.
Nhưng hết thảy mọi người chúng ta, tùy
cấp bậc và cách thức khác nhau, đều hiệp thông trong cùng
một đức mến Chúa yêu người, cùng hát lên một bài ca chúc
tụng vinh quang Thiên Chúa chúng ta. Vì tất cả những ai
thuộc về Chúa Kitô và nhận lãnh Thánh Thần Người, đều họp
thành Giáo hội duy nhất và liên kết với nhau trong Người
(cf. Ep 4, 16).
Bởi vậy, sự hiệp nhất giữa những người
còn sống trên dương thế với những anh em đã yên nghỉ trong
bình an Chúa Kitô không hề bị gián đoạn. Nhưng trái lại,
Giáo hội xưa nay luôn tin rằng sự hiệp nhất đó còn được vững
mạnh hơn nhờ việc truyền thông cho nhau những của cải thiêng
liêng.
Quả thực, nhờ kết hiệp mật thiết với
Chúa Kitô hơn, các người ở trên trời củng cố toàn thể Giáo
hội vững bền hơn trong sự thánh thiện, làm cho việc thờ
phượng mà hiện nay Giáo hội tại thế dâng lên Thiên Chúa,
được cao cả hơn, và họ góp phần phát triển Giáo hội rộng rãi
hơn bằng nhiều cách (cf. 1Cr 12, 12- 27). Được về quê trời
và hiện diện trước nhan Chúa (cf. 2Cr 5, 8), nhờ Ngài, với
Ngài và trong Người, các thánh không ngừng cầu bầu cho chúng
ta bên Chúa Cha, bằng cách trình bày các công nghiệp đã lập
được khi còn ở dưới thế, nhờ Đấng Trung gian duy nhất giữa
Thiên Chúa và loài người là Chúa Giêsu Kitô (cf. 1Tm 2, 5),
khi họ đã phục vụ Chúa trong mọi sự, và hoàn tất nơi thân
xác họ những gì còn thiếu sót trong các đau khổ của Chúa
Kitô, hầu mưu ích cho Thân Thể Người là Giáo hội (cf. Cl 1,
24). Do đó, với tình huynh đệ, các ngài lo lắng giúp đỡ
chúng ta rất nhiều vì chúng ta yếu hèn. (số 49).
Bởi vì sự hiệp nhất
của Hội Thánh không chỉ là sự hiệp nhất của một tổ chức tốt
hay của một kỷ luật vững chắc. Nó thuộc bình diện “sự hiệp
thông”. Giáo Hội hiệp thông là “ý tưởng trung tâm và căn
bản” (Hội nghị bất thường năm 1985) lộ rõ từ các tài liệu
của Công Đồng Va-ti-ca-nô II. Sự hiệp thông này là sự hiệp
thông với Chúa Cha, và với Chúa Con, Đức Giêsu, trong Chúa
Thánh Thần (x. 1Ga 1,3) và là sự hiệp thông giữa các môn đệ
trong lòng mến. “Qua mọi thời đại, Chúa Thánh Thần hợp nhất
toàn thể Giáo hội trong mối hiệp thông và thừa hành, ban
phát các ơn phẩm trật và đoàn sủng khác nhau, như là linh
hồn làm sống động các định chế trong Giáo hội” (LG, số 7).
GSVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
Tác phẩm "Giáo hội cần loại Linh mục nào"? (tiếp theo) |
Lm Giuse Lê Công Đức chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD IMPERILED, Tác giả: BERNARD HARING, C.SS.R.
ÁNH SÁNG CHÓI LÒA CỦA THÁNH KINH
Đức Giêsu, Đấng tự xưng
là “Con Người”, Đấng là “một người trong chúng ta”, đã yêu
cầu Gioan Tẩy Giả, con trai của một tư tế và ngôn sứ, làm
phép rửa cho Ngài cùng với đám đông ở sông Gio-đan. Hành
động này là một biểu tượng đầy kích cảm cho thấy sự liên đới
đầy sức cứu độ của Ngài với các tội nhân và sự giải cứu họ
khỏi vòng tội lỗi.
phép rửa của Đức Kitô –
một chìa khóa căn bản để nhận thức
Trong cốt lõi của nó, sự
chuyển đổi từ tình trạng tội lỗi tới sự liên đới cứu độ là
một chìa khóa để nhận hiểu ý nghĩa cuộc hoán cải mà Gioan
rao giảng. Chính Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc của chúng ta, làm
cho chúng ta có thể đạt được sự hoán cải này, ở mức trọn vẹn
của nó. Tuy nhiên, phép rửa của Đức Kitô còn có ý nghĩa hàm
súc hơn nhiều chứ không chỉ là một sự chuyển đổi từ tình
trạng liên đới trong tội lỗi tới ơn cứu độ. Đó là một biến
cố độc đáo của Ba Ngôi Thiên Chúa, trực tiếp hướng chỉ đến
cái chết thập giá và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô. Trong hành
động Đức Giêsu công khai lãnh nhận phép rửa, Ngài tự thánh
hiến chính mình và đồng thời được thánh hiến bởi quyền năng
Chúa Thánh Thần – được biểu tượng nơi hình chim bồ câu hòa
bình – để tôn vinh Cha là Đấng mãi mãi làm chứng cho Đức
Giêsu: “Đây là Con Yêu Dấu của Ta, Ta rất hài lòng về Người”
(Mt 3,1-7); “Con là Con Ta rất yêu dấu, Ta hài lòng về Con”
(Lc 3,22; Mc 1,11). Những lời ấy – được trịnh trọng nhắc lại
trên núi Tabo – âm vọng lại câu mở đầu của Bài Ca Thứ Nhất
trong bốn Bài Ca Isaia Đệ Nhị (Is 42,1).
Việc thánh hiến qua phép
rửa này, vốn luôn luôn hướng chỉ đến đỉnh điểm là cái chết
Thập Giá và cuộc Phục Sinh, bộc lộ cho thấy căn tính của Đức
Giêsu là Đấng Cứu Độ và là vị Thượng Tế mới, như được khai
triển trong Thư Do Thái. Được thụ thai bởi Đức Trinh Nữ
Maria nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Đức Kitô được mạc khải
như là Người Tôi Tớ và Người Con phi bạo lực, đau khổ và đầy
năng lực giải phóng của Thiên Chúa – Ngài là biểu tượng đích
thực và là hiện thân của Bồ Câu hòa bình. Ngài là Đường
không sai lầm, là Chân Lý và Sự Sống hoàn toàn mới của hòa
bình được hun đúc từ thái độ phi bạo lực đầy sức giải phóng,
từ sự liên đới có năng lực cứu độ và từ những đau khổ của
Ngài.
Các linh mục - và tất cả
những ai thuộc về đoàn dân tư tế, ngôn sứ và vương đế phục
vụ của Thiên Chúa - không bao giờ có thể suy tư cho đủ về
bốn Bài Ca của Người Tôi Tớ vốn được Đức Giêsu xem như
chương trình sống và hoạt động của Ngài và – do đó – cũng là
chương trình sống cho các môn đệ Ngài.
Dacaria, tư tế và ngôn sứ
Giao ước mới và nhãn quan hoàn toàn mới của nó về chức linh
mục đã được biểu tượng nơi Dacaria, cha của Gioan Tẩy Giả,
là người thuộc về một trong những phẩm hàm cao nhất của chức
tư tế Lêvi và là người đang chu toàn một việc phụng tự
truyền thống khi Thiên Chúa mạc khải cho ông biết vai trò
của con trai ông: “Em bé sẽ đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều
con cái It-ra-en về với Đức Chúa. Em sẽ... làm cho tâm tư kẻ
ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay” (Lc 1,15-17).
Sứ điệp ấy của thiên thần là một sứ điệp chan hòa niềm vui:
“Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng sẽ được hỷ
hoan ngày con trẻ chào đời” (Lc 1,14).
Tính mới mẻ của sứ điệp
này và những bối cảnh xung quanh nó quá vĩ đại ngoài khả
năng tiếp nhận của Dacaria đến nỗi ông trở thành câm. Tình
trạng câm này của Dacaria tự nó là một biểu tượng của sự
thay đổi lớn lao đã diễn ra. Dù vậy, ông vẫn trung thực đưa
tin cho vợ mình là Êlidabét, người thuộc dòng tư tế Aaron và
là một phụ nữ vừa có đức tin sâu sắc vừa có nhãn giới ngôn
sứ.
Ngôi nhà của Dacaria trở
thành khung cảnh đặc biệt cho một hiện tượng ngôn sứ độc
đáo. Tất cả mọi người đều nói tiên tri – Êlidabét, Dacaria,
Maria nữ tì khiêm cung của Chúa, và nhất là em bé Gioan với
sự kiện “nhảy mừng trong bụng mẹ” (Lc 1,44).
Gioan Tẩy Giả, con trai
của một tư tế và ngôn sứ
Theo luật, Gioan sẽ trở
thành một thành viên của tầng lớp tư tế có phẩm hàm cao của
người Do Thái. Thế nhưng, chúng ta không nghe nói gì về việc
Gioan thực hiện những chức năng tư tế theo truyền thống.
Phép rửa đặc biệt của Gioan, trong tư cách là một dấu hiệu
của sự hóan cải, thì có tính phụng vụ theo ý nghĩa tốt nhất
của từ ngữ này, nhưng nó hoàn toàn đối nghịch với bất cứ hệ
thống nghi lễ nào. Phép rửa của Gioan vén mở trước mầu nhiệm
thâm sâu của Phép Rửa Đức Giêsu và, qua đó, vén mở cho thấy
mầu nhiệm Phép Rửa của chính chúng ta – nó đánh dấu việc
chúng ta đi vào trong Giao Ước Mới của ơn cứu độ, một giao
ước được đặc trưng bởi ơn gọi và căn tính của Đức Giêsu xét
như Người Tôi Tớ và Người Con khiêm hạ, đau khổ, phi bạo
lực và có quyền năng chữa trị của Thiên Chúa.
Ở cốt lõi của phép rửa
Gioan Tẩy Giả là Đức Giêsu, “Con Người”, hiện thân tuyệt đối
của sự liên đới có năng lực cứu độ, Đấng mở ra Luật Mới với
ý nghĩa tối thượng là: “Anh em hãy mang lấy gánh nặng của
nhau, và như thế anh em sẽ chu toàn Luật của Đức Kitô”
(Gl 6,2). Sống luật này, đó không chỉ là nẻo đường dẫn
tới sự liên đới có sức cứu độ (một sự liên đới được đào sâu
không ngừng đến vô hạn) – mà đó cũng là con đường duy nhất
để thoát ra khỏi tình trạng liên lụy trong tội lỗi. Giao Ước
Mới nằm ở trung tâm mầu nhiệm thâm sâu của Phép Rửa Đức
Giêsu và, do đó, của Phép Rửa chúng ta nữa.
sự
tương phản:
tư
tế của các ông hoàng!
Vụ giết người tàn ác theo
lệnh của nhà vua - mà Gioan Tẩy Giả là nạn nhân - báo trước
việc Đức Kitô chịu đóng đanh và chịu chết trong tay của các
thượng tế và người đại diện của quyền bính Đế Quốc Rôma.
Hai số phận của Gioan Tẩy
Giả và của Đức Giêsu minh họa sự lạm dụng có hệ thống của
tôn giáo vốn ủng hộ kẻ cường quyền và thí đốt những người
nghèo hèn, yếu thế. Hình thức lạm dụng này cũng là một trong
những cám dỗ lớn nhất được ghi nhận nơi giới tư tế thuộc các
tôn giáo và văn hóa khác nhau. Một đoạn văn về tư tế Amaziah
trong Sách Ngôn Sứ Amos cho ta thấy rõ sự thật này:
Bấy giờ ông A-mát-gia,
tư tế đền thờ Bết-Eân, sai người đến gặp Gia-róp-am, vua
It-ra-en, và thưa: “A-mốt âm mưu chống đức vua ngay trên
lãnh thổ It-ra-en, và đất nước này không còn chịu nổi bất cứ
lời nào của ông ta nữa. Vì A-mốt nói như thế này:
“Gia-róp-am sẽ chết vì
gươm,
và It-ra-en
sẽ bị đày biệt xứ.”
Bấy giờ
A-mát-gia nói với ông A-mốt: “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về
đất Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở
Bết-Eân này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh
điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều.” (Am
7,10-13).
Có thể cần đến
cả pho sách để chỉ nói về đề tài mối quan hệ giữa các tư tế
với các vua, nhưng thiển nghĩ chỉ cần chấp nhận rằng trong
Giáo Hội Công Giáo nhiều người trong chúng ta có lý do để ăn
năn hối lỗi vì đã gắn bó mật thiết và là đồng minh của những
thế quyền áp bức. Thiết tưởng sẽ hữu ích việc vạch ra cách
mà mối quan hệ bẩn thỉu này được hình thành và phát triển.
Trong ba thế kỷ
đầu của Giáo Hội, các giám mục – cách riêng - đã trung thành
theo bước chân của Đức Kitô. Trở thành một giám mục, linh
mục, phó tế hay một kỳ lão của Giáo Hội, điều đó tất nhiên
có nghĩa rằng người ấy hoàn toàn sẵn sàng trở thành một ứng
viên của cái chết tử đạo. Những người được tuyển chọn ấy
hiểu khá rõ ơn gọi phổ quát và đặc biệt của mình, và họ sẵn
sàng đón nhận những hệ lụy của ơn gọi ấy trong ánh sáng của
biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, một phép rửa
bằng nước và máu.
Thế kỷ IV, khi
Constantine, một người “trở lại” với đức tin, được tôn phong
hoàng đế bởi giám mục Rôma, thì những thay đổi lớn đã xảy
ra. Trong khi quả thực Giáo Hội được giải phóng khỏi cuộc
bách hại đẫm máu, thì một cách nhanh chóng Giáo Hội cũng bị
bế tắc trong bổn phận bước theo chân Đức Giêsu Người Tôi Tớ.
Sự thỏa hiệp và quị lụy quyền bính thế tục - (điều mà Đức
Giêsu đã chất vấn, như được thấy trong câu chuyện cám dỗ, và
điều mà Ngài đã giải trừ huyền thoại trong toàn bộ cuộc sống
của Ngài từ khi nhận phép rửa cho đến cái chết Thập Giá) -
không may đã trở thành một thực tại trong mọi thành phần của
Giáo Hội. Nhiều giám mục hoặc chịu khuất phục hoặc ngày càng
xích tới gần nghiệp chướng trở thành “tư tế của các vua”.
Trong cố gắng
nâng đỡ Giáo Hội và nâng đỡ các vị lãnh đạo của Giáo Hội
trong tư cách là cột trụ và là bộ mặt của xã tắc, các hoàng
đế và các vua đã xây dựng những dinh thự nguy nga cho các vị
ấy, đã hào phóng ban tặng đủ thứ đặc quyền đặc lợi thế gian,
đã tôn phong cho các vị những tước hiệu đầy cao ngạo như
“Nhà Thần Học Của Triều Đình”, “Tổng Giám mục Hoàng Thân”,
“Đức Thánh Cha”, “Đức Cha”, vân vân và vân vân...
Hiện tượng kỳ
dị này và những biến cố có tính bước quặt đảo ngược này –
vốn còn gây nhiều di lụy mãi đến hôm nay – phải được suy tư
và đánh giá lại trong ánh sáng của phép rửa bằng nước và máu
của Đức Giêsu. Cách mà chúng ta chọn để nhìn và suy tư về
những biến cố lịch sử từng định hình một khuôn mặt chuyên
chế như thế của Giáo Hội và của quyền lãnh đạo trong Giáo
Hội có thể ảnh hưởng rất quan trọng đến bản chất và chất
lượng của sự chọn lựa căn bản của chúng ta trong tư cách là
những Kitôhữu và những linh mục trong thời đại hôm nay.
Nói chung, Đức
Giêsu không chống đối chức tư tế Do Thái giáo trong truyền
thống mà Ngài nhận được, Ngài cũng không chống đối các tư tế
một cách quơ đũa cả nắm. Những xung đột chính của Ngài là
với các phần tử cao nhất trong giới tư tế. Tuy nhiên, đáng
ghi nhận sự kiện rằng Đức Giêsu không bao giờ gọi chính Ngài
hay các môn đệ Ngài là “tư tế”, Ngài cũng không nói đến cơ
chế của một “chức tư tế mới”. Ít nhất những phần cũ nhất của
Tân Ước gần sát với thời Đức Giêsu không bao giờ dùng từ “tư
tế” để nói về Đức Giêsu hay các tông đồ của Ngài. Chỉ trong
bản văn rất muộn sau này, là Thư Do Thái, được viết khi Giáo
Hội đã phát triển một mức nào đó thành một tổ chức và cơ
cấu, thì từ ngữ này mới được sử dụng, và chủ yếu nhằm đề ra
một tương phản rõ rệt với bất cứ gì có dáng dấp một mối quan
hệ gây chất vấn có thể dẫn đến việc các giáo sĩ trở thành
“tư tế của các vua”. Trái lại, nhãn quan Tân Ước về chức
linh mục thì hoàn toàn khác biệt, và nhãn quan ấy được
hình thành như vậy trong ánh sáng của phép rửa Đức Giêsu
trong nước sông Giođan và trong máu của Ngài nơi cuộc tử nạn
Thập Giá.
câu chuyện về
hy tế của Abraham
Sẽ là thiếu sót
việc duy chỉ chăm chú đến những khác biệt rành rành giữa
chức tư tế của Cựu Ước và tính mới mẻ của những người tôi tớ
của Tin Mừng. Chúng ta cũng cần phải lưu tâm tới những quan
niệm sai lầm về hy tế nữa.
Abraham sẵn
sàng giết Isaác để làm hy lễ đền tội dâng lên Thiên Chúa,
đôi khi các nhà thần học nói về ý niệm hy tế đã chọn thái độ
sẵn sàng ấy làm khởi điểm cho mình. Hồi tôi bắt đầu học thần
học, người ta vẫn còn giảng dạy rằng Thiên Chúa thử thách sự
sẵn sàng của Abraham trong việc giết Isaác để làm hy lễ.
Abraham sẵn lòng, đó là sự thật, nhưng nói rằng Thiên Chúa
muốn điều đó thì quả là một xác định hết sức đáng ngờ. Để
hiểu chức linh mục của Tân Ước, điều trước hết là phải xua
tan những ý niệm sai lầm về hy lễ để có thể hiểu đúng ý
nghĩa đích thực của câu chuyện Abraham. Trong chiều hướng
đó, cách đây khoảng 50 năm, W. Eichrodt, một học giả Thánh
Kinh tên tuổi đã đề ra một cách giải thích hoàn toàn khác,
cách giải thích này nói chung được chấp nhận trong giới
Thánh Kinh và được giảng dạy trong lãnh vực huấn giáo ngày
nay.
Eichrodt chỉ ra
rằng, trong môi trường và nền văn hóa sơ khai mà Abraham đã
sống và đã từ bỏ để theo tiếng Chúa gọi, có một niềm xác tín
rằng trong một số trường hợp Thiên Chúa chỉ có thể được vuốt
giận bằng hy tế đứa con trai đầu lòng của người ta. Người ta
phải rùng mình tự hỏi trong giòng lịch sử đã có bao nhiêu
đứa con trai đầu lòng bị hành quyết một cách dã man “nhân
danh Thiên Chúa”. Abraham không là ngoại lệ của sự mê tín
thảm khốc này. Vì ông sống trong bối cảnh mà theo truyền
thống của thời ông, một hy tế như thế được kỳ vọng, vì thế
Abraham với lương tâm sai lạc của mình đã kết luận rằng việc
giết con mình để tế lễ là điều hoàn toàn đúng đắn. Tuy
nhiên, ngay cả trong lương tâm sai lạc này của Abraham, một
điều gì đó tốt vẫn có thể được nói về ông: Ông sẵn sàng làm
theo thánh ý Thiên Chúa khi ông hiểu sai thánh ý ấy! Tuy
nhiên, khi câu chuyện diễn tiến, Thiên Chúa đã can thiệp và
đã giải phóng Abraham khỏi một lương tâm mê tín. Đây là một
kinh nghiệm mạc khải vĩ đại và một bước đột phá về văn hóa
để giải phóng con người khỏi một hình ảnh sai lầm và bạo lực
khủng khiếp về Thiên Chúa.
Một trong những
bằng chứng rõ ràng nhất cho cách giải thích của Eichrodt là
sự kiện hiển nhiên rằng kể từ đó đã có phát triển một ý thức
trong It-ra-en rằng việc cố gắng làm nguôi lòng Thiên Chúa
bằng mạng sống con người là một tội ác kinh tởm chống lại
Thiên Chúa và loài người. Tuy nhiên, Thánh Kinh cũng nhanh
chóng chỉ ra rằng trong một số giai đoạn tàn bạo nào đó của
lịch sử Ít-ra-en, vẫn có một số người bị ảnh hưởng và bị
nhiễm cái nhìn kinh khủng ấy – một cái nhìn vẫn còn rất bình
thường trong thế giới xung quanh It-ra-en.
Hình ảnh sai
lạc này về một vị Thiên Chúa hay báo thù đòi hỏi con người
dâng hy tế các con trai đầu lòng, lạ thay, lại được đưa trở
lại vào một lý thuyết cứu chuộc được gán (có lẽ một cách lầm
lẫn) cho Thánh Ansenmô. Lý thuyết này dẫn đến sự ngộ nhận
thông thường rằng tội lỗi của loài người quá lớn đến nỗi
công lý của Thiên Chúa đòi hỏi hy lễ là chính Con Một của
Ngài để chuộc lại. Dĩ nhiên, lý thuyết này sau đó phủ trùm
bóng rợp của nó trên hầu như mọi sự được coi là hy lễ trong
tương quan với chính Đức Giêsu. Để làm sáng tỏ sự ngộ nhận
này, không gì hữu ích hơn là nhìn sát hơn phép rửa của Đức
Giêsu và tất cả những hệ quả theo sau trong ánh sáng ấy.
Người Tôi Tớ phi bạo lực, đau khổ
và có sức mạnh giải phóng của Thiên Chúa
Tin Mừng Máccô
giới thiệu căn tính và sứ mạng của Đức Giêsu trong ánh sáng
của một nhận hiểu căn bản được tìm thấy trong bốn Bài Ca của
Isaia Đệ Nhị: “Vì Con Người đến không phải để được phục
vụ nhưng là để phục vụ“ (Mc 10,45). Trong tư cách là Người
Tôi Tớ, Đức Giêsu được nhìn nhận là Người Con yêu dấu.
Trong bản văn tiếng Hípri, câu mở đầu của Bài Ca Thứ Nhất
nói về ebed, nghĩa là người tôi tớ được tôn vinh – được
tín thác mọi sự. Bản Bảy Mươi dùng từ Hy lạp pais để chỉ
đứa con trai. Trong ánh sáng của các Bài Ca Người Tôi Tớ,
Đức Giêsu được hiểu trước hết như người tôi tớ hòa bình –
một cách hiểu không hề có bao hàm bất cứ ý niệm sai lạc nào
về nhu cầu được nguôi giận của Thiên Chúa. Đúng hơn, cách
hiểu ấy nhằm giúp cho con người tìm ra con đường hòa bình
nơi chính Đức Giêsu, Đấng là đường hòa bình và là hiện thân
của thái độ phi bạo lực.
Lời Đức Giêsu
mời gọi yêu thương kẻ thù là con đường biến kẻ thù thành bạn
hữu. Con đường hòa bình mà Đức Giêsu vạch ra cho chúng ta là
con đường phi bạo lực – nó chọn lựa đau khổ và thậm chí sự
chết thay vì giết chết hay làm hại kẻ thù. Chính năng lực
phi bạo lực đầy sức giải phóng này là điểm tựa cho một thái
độ hoàn toàn sẵn sàng khai quang con đường hòa bình, và sẵn
sàng làm thế bằng cách trao ban mạng sống. Đức Giêsu là Sự
Thật, và một cách rất chuyên biệt, Ngài là Sự Thật về tinh
thần phi bạo lực đầy sức giải phóng.
Nhưng câu hỏi
vẫn còn: Phải chăng Thiên Chúa đã đòi hy lễ là chính Con Một
Ngài? Bởi vì chúng ta đứng trước một mầu nhiệm thâm sâu và
bởi vì từ góc nhìn của mình chúng ta chỉ có thể phát biểu
trong những giới hạn của ngôn ngữ, của nhãn quan, bối cảnh
con người chúng ta – là những cái luôn luôn khiếm khuyết và
bất toàn - nên câu trả lời là vừa có vừa không. Trong mối
tương quan nội tại và năng động của Ba Ngôi, Thiên Chúa muốn
chỉ cho con người thấy con đường hòa bình bằng bất cứ giá
nào. Như vậy, “hy tế Đức Kitô” là cái giá của hòa bình
và hòa giải – một cái giá vừa có sức thanh toán sự chết vừa
có sức trao ban sự sống, cái giá tột cùng của mạc khải độc
đáo về tình yêu vô hạn của Thiên Chúa. Nhưng, để hiểu cái
giá này, cần phải cảnh giác một điều gì đó. Thiên Chúa không
hề có ý định hay có kế hoạch sát hại Đức Giêsu, Người Con
Yêu Dấu. Điều Thiên Chúa thực sự nhắm đến chính là sự hòa
giải cho một nhân loại hòa bình và phi bạo lực. Hơn nữa,
Thiên Chúa muốn – và Ngài tiếp tục muốn – chúng ta sẵn sàng
trả giá cho hòa bình, hòa giải và cho tình yêu cứu độ như
được hiểu trong ngôn ngữ của Thánh Phao-lô: “Ngài là sự
bình an của chúng ta” (Ep 2, 14).
Để làm sáng tỏ
điều này hết sức có thể, Ba Ngôi Vị - Đấng Sáng Tạo, Đấng
Cứu Độ và Đấng Hiệp Nhất – cấm giết người và nhất là cấm
giết người nhân danh Thiên Chúa. Giết người là tội ác ghê
tởm nhất. Như vậy, nhận thức này làm sáng tỏ cho mọi thời
rằng Thiên Chúa không bao giờ có ý muốn Người Con nhập thể
của Ngài bị giết như một nạn nhân để làm cho Ngài nguôi
ngoai hay để chuộc tội.
Điều Thiên Chúa
thực sự nhắm đến là thái độ sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm,
thậm chí chấp nhận chết trên thập giá nếu cần, để mạc khải
tình yêu vô hạn của Thiên Chúa và để cho con người thấy con
đường hòa bình, chân lý và sự sống. Cuối cùng, đây là giá
mà Đức Giêsu đã trả, thậm chí đến độ trên thánh giá Ngài cầu
nguyện cho các kẻ thù của Ngài và cho mọi tội nhân. Như thế,
việc giết Đức Giêsu trên thập giá là hệ quả của sự dám liều
ấy chứ không phải là hệ quả của “hy tế có thể được chấp
nhận” như đã được dạy hằng bao thế kỷ và vô tình đã vẽ
ra cho Thiên Chúa một khuôn mặt khắc nghiệt và tàn bạo.
Cả ba Sách Tin
Mừng Nhất Lãm đều trình bày câu chuyện Đức Giêsu chịu phép
rửa trong ánh sáng của bốn Bài Ca Người Tôi Tớ. Ngay cả Tin
Mừng Gioan cũng minh nhiên giới thiệu: “Đây là Con Chiên
Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian!” (Ga 1,29). Gioan
cũng nhắc chúng ta nhớ chủ đề cốt lõi của Bài Ca Thứ
Nhất trong bốn Bài Ca Người Tôi Tớ: “Tôi trung Ta sẽ không
kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố
phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gãy; tim đèn leo
lét, nó chẳng nỡ tắt đi“ (Is 42, 2-3); “Bị ngược đãi, người
cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi
làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở
miệng” (Is 53,7).
Một kết quả dị hợm do
cách nghĩ méo mó biến Đức Giêsu thành một con dê tế thần ấy
là bản văn tiếng Anh của bản Thánh Kinh Giê-ru-sa-lem – bám
chặt vào cách dịch: “Yahweh has been pleased to crush him
with suffering” = “Giavê hài lòng đè bẹp người trong đau
khổ” (Is 53,10). Chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa rút
ra được niềm vui khi hành hạ Đức Giêsu không? Bản Thánh Kinh
Anh ngữ mới và tất cả các bản dịch đại kết mới đều nói một
cái gì đó hoàn toàn khác: “Yet the Lord took
thought for his tortured Servant and healed him who made
himself a sacrifice” = “Tuy nhiên Đức Chúa nghĩ đến Người
Tôi Tớ tan nát của Ngài và chữa lành Người đã tự hiến mình
làm hy lễ” (Is 53,10).[1]
Trong khi chúng
ta có thể và sẽ tiếp tục nói về “hy lễ” như một cách giải
phóng khỏi tội lụy để đạt đến sự liên đới trong hòa bình,
đạt đến tình yêu vô vụ lợi, công lý có sức cứu độ, thì hy lễ
theo nghĩa đúng đắn của nó có hàm chứa những sự chọn lựa gay
go kèm theo những hệ quả khó khăn cho các linh mục và các
Kitôhữu. Những hệ thống nghi lễ, những công phu khổ hạnh và
những “hy sinh” trống rỗng không thể là hầm trú cho ta ẩn
náu và không thể cho phép ta bất cần một sự nhận thức đích
thực về cuộc sống. Hơn nữa, tất cả chúng ta phải sẵn sàng và
mau mắn từ bỏ những gì ngăn cản bước tiến của mình trên con
đường hòa bình và công lý hướng về Thiên Chúa, và chúng ta
phải sẵn sàng đảm nhận những gánh nặng do hòa bình và hòa
giải đặt ra bằng cách dám chịu đau khổ, thậm chí dám chịu
chết, nếu đó là yêu cầu của Tin Mừng hòa bình, Tin Mừng của
Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa.
Chúng ta nhấn
mạnh bao nhiêu cũng không đủ rằng Thiên Chúa, Đấng mà chúng
ta gọi là Cha và Mẹ của Đức Giê-su Kitô Đấng Cứu Độ chúng
ta, không hề muốn và không hề cho phép bất cứ loại hy tế nào
dẫn chúng ta đến chỗ trốn tránh tiếng gọi đích thực của mình
trong, và cho, lịch sử cứu độ. Ý nghĩa đích thực của hy tế
Đức Kitô rõ ràng đòi hỏi một tinh thần hy sinh chính mình,
một thái độ hoàn toàn sẵn sàng đảm nhận những gánh nặng của
anh chị em mình, và một lòng can đảm không nao núng để đối
mặt với những chống đối, khổ đau và nguy hiểm – tất cả những
cái ấy có thể bật lên trong quá trình thăng tiến hòa bình,
công lý và tình yêu cứu độ.
tinh thần phi bạo lực
và sự thứ tha tội lỗi
Cốt lõi của sự
tự thức nơi Đức Kitô trong tư cách là Người Tôi Tớ phi bạo
lực và là bí tích của hòa bình cũng dọi tia sáng trên cuộc
khủng hoảng hiện nay xung quanh bí tích hòa giải.
Câu chuyện nổi
tiếng về Cơn Lụt Hồng Thủy là biểu tượng rõ ràng cho thấy
con đường tự hủy diệt của toàn thể nhân loại xuyên qua bạo
lực và sai lầm, cả hai luôn luôn sóng bước cùng với thói
kiêu căng và ngạo mạn. “Đất đã ra hư hỏng trước nhan Thiên
Chúa và đầy bạo lực. Thiên Chúa nhìn đất và thấy nó đã ra
hư hỏng, vì mọi xác phàm đã theo nếp sống hư hỏng trên mặt
đất” (St 6,11-12).
Thánh Kinh kể
lại một lịch sử dài về bạo lực của chế độ đàn ông trị.
Lamec, người khủng bố các vợ mình và là một hậu duệ của
Cain, kẻ sát nhân, là một điển hình rất rõ nét cho sự thật
này: “Ông Lamec nói với các bà vợ: ‘Ađa và Xila, hãy nghe
tiếng ta! Thê thiếp của Lamec, hãy lắng tai nghe lời ta! Vì
một vết thương, ta đã giết một người, vì một chút sây sát,
ta đã giết một đứa trẻ. Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng
Lamec thì gấp bảy mươi bảy!” (St 4,23-24).
Điều rõ ràng là
chỉ những con người phi bạo lực mới được cứu trong và xuyên
qua cơn Hồng Thủy ấy. Chính Đức Giêsu đã qui chiếu đến nhãn
quan này khi Phêrô hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm
đến con, con phải tha thứ bao nhiêu lần? Bảy lần chăng?”
Đức Giêsu đáp: “Ta không bảo anh tha thứ bảy lần, nhưng
là bảy mươi bảy lần” (Mt 18,21-22). Viêc Matthêu vận
dụng ẩn dụ này cho thấy rằng Đức Giêsu tha thiết muốn chúng
ta tha thứ vô giới hạn.
Được rửa với
Đức Kitô “để được thứ tha tội lỗi” nghĩa là được tha thứ, và
điều đó cũng còn có nghĩa – quan trọng hơn nhiều - rằng tất
cả được cứu khỏi số phận tội lụy, tất cả được mang về mối
liên đới có sức cứu độ, và tất cả được mời gọi trở thành
những người cộng tác trong sứ mạng hòa bình và hòa giải của
Đức Kitô trên trần thế.
Nếu ta có thể
nói rằng chức linh mục thừa tác thêm một cái gì đó cho
chức linh mục phổ quát của tất cả những ai đã chịu Phép
Rửa, thì sự “thêm một cái gì đó” ấy chắc hẳn nằm ở chỗ: ở
mọi cấp độ, các linh mục phải là những mẫu gương của thứ
tha, những nhà lãnh đạo và những người kiến tạo hòa bình
trên con đường tiến tới phi bạo lực và hoà giải. Con đừơng
ấy bao hàm một tinh thần hủy mình ra không và sẵn sàng nhận
hiểu đúng đắn về thái độ từ bỏ chính mình. Nói cách khác,
các linh mục phải là những nhà kiến tạo hòa bình dám nhận
mọi hiểm nguy, mọi gánh nặng, mọi hy sinh cần thiết để thi
hành sứ mạng của Đức Kitô. Để có được thái độ sẵn sàng và bỏ
mình như vậy, các linh mục cần biết sẵn lòng khiêm tốn cộng
tác với mọi người thiện chí nhằm phục vụ cho ơn cứu chuộc
con người khỏi tội lụy trong mọi hình thức bất công, lầm lạc
và bạo lực của nó ở bất cứ nơi nào mà nó có mặt. Điều này
hoàn toàn khác hẳn với những thực hành khổ chế có tính trấn
áp chính mình vốn bị nhiều người chất vấn – những thực hành
này có bao gồm những sự hành hạ chính mình và những đau khổ
không cần thiết nhằm mục đích làm nguôi ngoai cơn giận của
một vị Thiên Chúa hay báo thù.
Thư Do Thái
giới thiệu Đức Kitô như vị thượng tế đầy lòng trắc ẩn, và
chính lòng trắc ẩn và tình thương này thúc đẩy Đức Kitô
thương xót các tội nhân. Điểm đặc trưng nơi một người linh
mục đích thực là: “Vị ấy có khả năng cảm thông với những
kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy
yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho
dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ cho chính mình như vậy”
(Dt 5,2-3).
Tôi có một đề
nghị đầy sức chữa trị và đầy an ủi cho các linh mục cũng như
cho các Kitô hữu phải khổ sở vì trằn trọc không biết mình đã
xưng thú đàng hoàng mọi tội trọng của mình chưa, không biết
mình đã xưng đúng loại tội và đúng số lượng chưa – đề nghị
đó là: Bạn hãy tập trung mọi sự chú ý và mọi năng lực của
bạn vào việc trở thành một dấu hiệu hữu hình và đầy thuyết
phục của sự chữa trị, thứ tha và của tinh thần phi bạo lực
hết sức có thể! Đó là một loại bí tích đấy! Rồi bạn sẽ được
đảm bảo trong đức tin rằng Thiên Chúa tha thứ mọi tội lỗi
của bạn. Chỉ khi nào quyết chí bước đi trên lộ trình này,
chúng ta mới có thể đóng góp phần mình vào nỗ lực vượt qua
cơn khủng hoảng hiện nay xung quanh bí tích của hòa bình và
hòa giải.
chức linh
mục của các tín hữu
và chức linh
mục thừa tác
Công Đồng
Vatican II đã sải những bước dài trên con đường vượt qua não
trạng giáo sĩ trị in hằn bao đời, não trạng đó đánh giá cao
các linh mục và đánh giá thấp người giáo dân – sự phân biệt
này dẫn đến nhiều hình thức lảng xa và phân biệt trong Giáo
Hội. Từ một góc nhìn phụng vụ, tôi thấy những lá chắn ấy
chưa bao giờ được ghi nhận rõ ràng hơn thời điểm cách đây ít
lâu khi tôi ghé thăm một số nhà thờ ở Ý và nhận thấy các bàn
thờ được đặt ở một tầng cao hơn gian giữa của giáo đừơng.
Thời ấy, ít khi một linh mục bước xuống vào giữa lòng Giáo
Hội, ngay cả lúc cho rước lễ.
May thay, quyết
định của Công Đồng uỷ trao cho mọi người đã chịu Phép Rửa -
những Kitô hữu không có chức thánh – các vai trò quan trọng
trong phụng vụ và mục vụ là một bước quan trọng trong việc
phá bỏ các lá chắn ấy. Hiện nay đa số trong chúng ta đều
biết rằng chức linh mục không phải là một bước đi lên trong
bậc thang xã hội, nhưng đúng hơn, đó là một sự dấn thân đặc
biệt để đi xuống, trong khiêm nhường và phục vụ, đến với con
người để trở thành “một người trong họ”. Khi làm thế, ý
nghĩa của chức linh mục không bị lạc mất. Đúng hơn, có thể
nói, chức linh mục được vãn hồi, được củng cố và được đào
sâu theo chiều hướng trở lại với sự khiêm nhường của Đức
Kitô như dấu hiệu căn tính của Ngài là Thượng Tế tốt lành.
Chức linh mục phổ quát và chức linh mục thừa tác cùng hướng
chỉ đến ơn gọi Phép Rửa của chúng ta là ơn gọi phục vụ cho
nền hòa bình Messianic trên trái đất này.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
NGƯỜI MÙ BA-TI-MÊ |
Nguyên Tác
IN STEP
WITH GOD
LM Vincent Travers,
OP
HƯƠNG VĨNH
chuyển ngữ
Thánh Mác-cô thuật lại câu chuyện người
mù Ba-ti-mê trong Phúc Âm của ngài như sau (Mc 10, 46-52):
“Chúa Giêsu và các môn đệ đến thành
Giê-ri-cô. Khi Chúa Giêsu cùng với các môn đệ và một đám
người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-cô thì có một người mù
đang ngồi ăn xin bên vệ đuờng, tên anh là Ba-ti-mê, con ông
Ti-mê.
Vừa nghe nói đó là Chúa Giêsu
Na-gia-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: ‘Lạy ông Giêsu,
Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!’ Nhiều người
quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng:
‘Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!’ Chúa
Giêsu đứng lại và nói: ‘Gọi anh ta lại đây!’ Người ta
gọi anh mù và bảo: ‘Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh
đấy!’
Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng
phắt dậy mà đến gần Chúa Giêsu. Người hỏi: ‘Anh muốn tôi
làm gì cho anh?’ Anh mù đáp: ‘Thưa Thầy, xin cho tôi
nhìn thấy được.’ Người nói: ‘Anh hãy đi, lòng tin của
anh đã cứu anh!’
Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và
đi theo Người trên con đường Người đi.”
***
Người mù Ba-ti-mê được kể lại trong
đoạn Phúc Âm của Thánh Mác-cô trên đây, ngồi đơn độc bên vệ
đường trông thật thảm não. Anh ta bừng sống dậy khi nghe
biết Chúa Giêsu đi ngang qua. Anh kêu lớn tiếng và van xin
mãnh liệt: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.”
(Mc 10, 51).
Lời cầu xin của anh đã được đáp trả.
Bất chợt, anh thấy được. Để có thể thấy được như thế phải có
một kinh nghiệm lạ thường. Thật dễ dàng cho bạn để tưởng
tượng hơn là cho tôi để diễn tả.
Những dấu vết mù lòa
Chúng ta thường nghe nói: Không ai
mù lòa cho bằng những người không muốn thấy. Nói cách
khác đi là chúng ta mang trên mình những vết mù lòa riêng
tư. Có những lúc chúng ta trở nên mù lòa như câu ngạn ngữ
trên đây.
Khi chúng ta mang vết “mù lòa tâm
linh” thì niềm hy vọng duy nhất của chúng ta là cầu
xin như Ba-ti-mê trên đây. Bởi vì trong cuộc sống có những
điều mà chỉ một mình Thiên Chúa chữa trị được thôi – và sự
mù lòa tâm linh là một trong những điều đó.
Kinh nghiệm giải phóng
Để có thể thấy được, trước khi không
thấy, phải có một “kinh nghiệm giải phóng”
thật sự. Có nhiều người kêu xin cho được kinh nghiệm đó. Họ
bảo là họ thấy Chúa Giêsu như Vị Cứu Tinh của họ. Họ đã được
tái sinh và không ngừng nói lên điều đó. Họ không thể im hơi
lặng tiếng. Tôi đã gặp gỡ vài người như thế.
Để đáp lại, bạn và tôi có thể nói: “Thật
tốt cho bạn, hỡi Annie. Thật tốt cho bạn, hỡi Ba-ti-mê. Tôi
ghen tị với các bạn, bởi vì đối với tôi, kinh nghiệm xảy ra
trong chiều hướng ngược lại. Tôi ở trong bóng tối, đang kêu
lên: Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con.”
Có nhiều cách thế để “kinh nghiệm sự
mù lòa”. Tôi bắt đầu lau chùi nhà cửa và trước khi xong
được một nửa thì bụi bắt đầu bám trở lại. Vậy ích lợi gì?
Tôi đang dọn bữa ăn và trong khi đang nấu nướng, tôi nghĩ
tới bữa ăn tối mai. Không bao giờ ngừng nghỉ. Chu kỳ vẫn
tiếp diễn và xem ra không ai quan tâm hết.
Tôi tự cho mình quan trọng khi nuôi
dưỡng con cái, nhưng giờ đây chúng nó mỗi đứa đi một ngả.
Tôi biết chúng thương yêu tôi, nhưng trong thực tế, chúng đã
ra đi và không gọi điện thoại về nhà hay thăm viếng đôi ba
lần trong năm hay trong nhiều năm.
Chồng tôi và tôi xem ra không đi bất cứ
nơi nào nữa hết. Mọi ngày vẫn như vậy. Thế giới của tôi đầy
tăm tối. Không có ánh sáng trong cuộc đời tôi. Tôi bị mù
lòa. Tôi là anh chàng Ba-ti-mê.
Cảm thấy bất lực
Hoặc giả chúng ta kêu lên:
“Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con.
Mỗi ngày con đi làm, nhưng công việc lút đầu lút cổ. Hệ
thống thối nát. Con bất đồng với thái độ đối xử với nhau như
khuyển mã và những phương pháp nhẫn tâm vẫn được sử dụng.
Con cảm thấy bất lực để sửa đổi được gì.
Ngoài ra, ý kiến của con xem ra không
được người ta đếm xỉa và công việc của con không được đảm
bảo. Con đã lớn tuổi để có thể bắt đầu trở lại ở một nơi
khác và con còn quá trẻ để có thể xin nghỉ hưu. Con phải bảo
vệ hưu bổng của con cũng như sự an toàn tài chánh cho gia
đình con. Con nhận được chi phiếu vào mỗi kỳ lương là điều
thật tốt, nhưng về mặt tâm linh, con bị mù lòa như Ba-ti-mê,
bởi vì con không thấy được ánh sáng ở cuối đường hầm.”
Đơn độc và bơ vơ
Hoặc giả chúng ta kêu lên:
“Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con.
Hôn nhân của con đang trên đà đổ vỡ. Chồng con không chịu đi
gặp chuyên viên cố vấn để được khuyên bảo. Nhìn về tương
lai, con cảm thấy lo sợ. Nghĩ đến việc sống còn khiến con
kinh hãi. Con lo sợ những vụ cãi cọ vu vơ khiến mỗi người bị
thần kinh căng thẳng.
Con không tìm ra một giải pháp nào. Con
giống như một kẻ bi quan không thắc mắc về tương lai, bởi vì
biết rằng tương lai sẽ rất kinh hoàng. Con không còn đóng
góp được gì cho nhân quần. Con cảm thấy không còn hữu dụng
cho ai nữa.”
Hoặc giả chúng ta la lên:
“Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con.
Con mới vào đại học đây. Con cảm thấy bị lạc lõng giữa rừng
người. Không ai hiểu rõ con. Con không được may mắn trong
việc giao tế. Xem ra ai cũng tương giao tốt đẹp, chỉ trừ một
mình con thôi. Con rất bối rối. Con không biết sẽ đi về đâu.
Con là chàng Ba-ti-mê.”
Không ai thiện cảm
Bây giờ là lúc nên chấm dứt kinh cầu
của những nỗi thống khổ đó để suy niệm đoạn Phúc Âm nói về
anh chàng Ba-ti-mê và lấy tờ giấy đó ra khỏi quyển sách. Khi
anh ta nghe nói Chúa Giêsu đang đi ngang qua, anh đã kêu lên
để cầu xin Ngài. Bước khởi đầu của anh là kêu cầu Đấng
Toàn Năng.
Đã lâu lắm rồi chúng ta nghe được là
hầu hết những khó khăn của chúng ta đều có tính cách tâm lý
và tất cả những giải pháp của chúng ta thuộc về tâm linh.
Ba-ti-mê đã tin tưởng nơi lời cầu xin.
Hãy ghi nhận điều gì xảy ra sau đó.
Ba-ti-mê “không được cảm tình”. Anh bi quở trách bởi
những người rất có lý do. Họ bảo anh câm miệng lại. Nhưng
Ba-ti-mê không để ý tới. Anh tỏ ra can đảm trong sự liều
lĩnh. Anh càng la lớn tiếng hơn nữa.
Thông thường trong những lúc gặp hoạn
nạn, chúng ta cũng bị đối xử như thế bởi những người có dụng
ý. Họ quở trách chúng ta một cách khắc nghiệt hay có tính
cách khôi hài: Anh cần đi gặp một bác sĩ tâm lý giỏi thì
tốt hơn. Chỉ anh lo cho cuộc sống của anh mà thôi. Đừng
tưởng Thiên Chúa quan tâm đến anh. Thiên Chúa có nhiều việc
quan trọng hơn để phải ưu tư.
Khi chúng ta theo gương Ba-ti-mê mà
hành động, chúng ta không buông xuôi, cho dù gặp phải những
tiếng nói tiêu cực. Chúng ta tiếp tục kêu lên Chúa lớn tiếng
hơn nữa.
Cái chăn an toàn
Sự kiên trì của Ba-ti-mê đã được tưởng
thưởng. Chúa Giêsu phán: “Gọi anh ta lại đây!”
(Mc 10, 49). Ban đầu anh ta do dự. Việc anh đứng phắt dậy, “vất
áo choàng đi” và tới với Chúa Giêsu trong bóng tối là
việc mà chỉ Ba-ti-mê làm được mà thôi và đó cũng là việc mà
Chúa Giêsu sẽ không làm. Thiên Chúa sẽ không làm cho chúng
ta những gì chúng ta có thể tự mình làm được.
Ba-ti-mê đứng phắt dậy, đã vất áo
choàng lại và đi tới Chúa Giêsu trong bóng tối. Tại sao anh
do dự? Để hiểu rõ sự do dự của anh, chúng ta phải
thẩm định giá trị chiếc áo choàng của anh. “Chiếc áo
choàng đó là ‘cái chăn an toàn’ của anh”. Đó là cái
giường của anh, đồ vật cho anh hơi ấm, là vật sở hữu duy
nhất của anh.
Khi vất chiếc áo choàng đó đi là anh
vất bỏ tất cả những gì mà anh lệ thuộc vào. Kinh ngạc thay,
khi anh vất bỏ chiếc áo choàng, chính là lúc anh thấy được
ánh sáng.
Buông bỏ
Linh đạo ở đây là sự “buông bỏ”.
Buông bỏ không phải chỉ được đề cập tới trong Kitô giáo, mà
còn trong Do-thái giáo, Ấn-độ giáo, Hồi giáo, Phật giáo. Ở
giai tầng cao nhất, tất cả những tôn giáo lớn đều dạy về
huyền nhiệm và nghệ thuật của sự buông bỏ. Khi bạn buông bỏ
là bạn tìm gặp được cái “chân ngã” của bạn.
Buông bỏ là một bí quyết. Buông bỏ đưa
đến ánh sáng. Linh đạo ở đây mang ý nghĩa là “buông bỏ
những cái chăn an toàn của chúng ta”, những sự
vướng mắc của chúng ta, những sự khước từ và gian dối của
chúng ta, những điều thỏa hiệp đối với sự liêm khiết của
chúng ta và làm giảm giá trị chúng ta trên phương diện nhân
sinh, cũng như nguyên nhân gây ra những hành động theo một
cung cách bất xứng đối với nhân cách chúng ta như là con cái
Chúa.
Linh đạo diệu kỳ trong đoạn Phúc Âm nầy
là Ba-ti-mê, một người ăn xin, không có chút của cải, không
có quà tặng, do đó không có gì để dâng hiến cho Chúa, ngoại
trừ những sự khổ đau, tâm trạng trống rỗng, sự cô đơn, sự
thất bại và thất vọng. Và thật ngạc nhiên, khi anh dâng
cho Chúa tất cả những thứ đó, chính lúc bấy giờ anh thấy ánh
sáng và rồi theo Chúa Giêsu.
Tôi không đưa ra giả thuyết là từ đây
cuộc đời của anh không còn vấn đề gì nữa. Cuộc sống vẫn còn
khó khăn cho dù có ánh sáng. Tình yêu chân thật không bao
giờ trôi chảy êm xuôi!
Nói tóm lại: Linh Đạo ở đây là “đứng
phắt dậy, vất áo choàng đi và tới với Chúa Giêsu trong bóng
tối”. Bước nhảy vọt bằng đức tin đưa chúng
ta ra khỏi bóng tối để đi vào ánh sáng và lăn xả vào thời
điểm của chính chúng ta để trở nên những con người mà Chúa
kêu gọi chúng ta phải hướng tới. |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHẬT THỰC |
Kể từ ngày 18-05, tại Việt Nam, người
ta bắt đầu trình chiếu một bộ phim có cái tên nghe rất
“kêu”: Sài Gòn Nhật Thực.
Tôi thì “về vườn” đã lâu, trở thành anh
“nông dân Hai Lúa”, chẳng còn đến rạp chiếu bóng nào nữa,
nên không quan tâm gì tới bộ phim đang được quảng cáo rầm rộ
kia. Tuy nhiên, hai chữ Nhật Thực trên đây khiến tôi nhớ lại
hiện tượng nhật thực toàn phần đã xảy ra tại Sài Gòn vào
ngày 24-10-1995:
Lúc đó, tôi đang làm việc tại Xưởng
Phim Hoạt Hình trong thành phố. Mấy ngày trước, thiên hạ bàn
tán xôn xao về hiện tượng nhật thực sắp xảy ra. Vì đây là
một hiện tượng hiếm hoi, lâu lắm mới xảy ra một lần, chỉ
những ai “may mắn” lắm mới được chiêm ngưỡng nó, nên ai cũng
háo hức cả. Trên vỉa hè, những người bán hàng rong bày bàn
những chiếc “kính” coi nhật thực làm bằng bìa cứng có dán
hai tấm giấy gì gì đó “để bảo vệ mắt khi nhìn thẳng vào mặt
trời trong lúc nhật thực”. Tôi cũng hăng hái mua một cái để
dành.
Ngày quan trọng đã tới. Trong Xưởng
Phim, ai nấy thủ sẵn “mắt kính nhật thực” của mình... Đến
giờ nhật thực, mọi người đồng loạt ngưng việc, chạy ùa ra
sân để nhìn lên mặt trời. Trời bắt đầu tối sầm lại. Bỗng một
ai đó la lên: “Chạy xuống nhà kho coi, rõ lắm!”
Trong nhà kho của Xưởng Phim, một nhân
viên nào đó nhiệt tình và có đầu óc “khoa học” đã làm một
“hệ thống quan sát nhật thực” bằng một thau nước và một tấm
gương soi, phản chiếu hình ảnh mặt trời lên bức tường, quan
sát rất dễ dàng và rõ ràng!
Cái hình ảnh mặt trăng ăn lẹm vào, rồi
che khuất hoàn toàn mặt trời, làm cho mặt trời trở nên mờ
mịt, kể cũng “ngồ ngộ”, nhưng không khiến tôi bất ngờ cho
lắm, vì đây là điều mà ai cũng mường tượng ra được. Điều làm
tôi hết sức ngạc nhiên là lúc mặt trăng bắt đầu “nhả” mặt
trời ra, chỉ để cho mặt trời loé sáng theo một hình lưỡi
liềm như kiểu vầng trăng khuyết: khi nhìn xuống đất, tôi ngỡ
ngàng nhìn thấy đầy dẫy những bóng sáng hình trăng khuyết
trên nền nhà kho. Thì ra, các tia sáng phát ra từ mặt trời
bị nhật thực, chiếu xuyên qua các lỗ đinh trên mái tôn, đã
tạo nên những hình ảnh của một tia sáng “khuyết” thay vì một
tia sáng tròn trịa của ngày thường!
***
Bây giờ, cứ nghĩ về nhật thực là tôi
lại giật mình: trong cuộc đời của mỗi người, chúng ta hẳn đã
tạo nên rất nhiều cuộc “nhật thực”!
Tôi tạo ra “nhật thực toàn phần” khi
tôi để cho “u mê ám chướng” che khuất hoàn toàn “mặt trời
chân lý” và tôi sống trong sa đoạ hư hỏng. Những lúc đó,
cuộc đời của tôi trở nên tối sầm lại, không còn soi sáng cho
ai được nữa. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, mức độ “tác hại” của
những lúc này có thể không nghiêm trọng quá, vì những người
chung quanh đã biết rõ tôi là “mặt trời đen” và chẳng ai
trông cậy gì vào ánh sáng phát ra từ tôi nữa. Trái lại, họ
còn tìm cách để “giải cứu” tôi khỏi tình trạng đáng buồn
kia.
Sức “tác hại” dường như xảy ra lớn hơn
khi tôi che khuất một cách nhập nhằng theo kiểu “nhật thực
một phần”: tôi vẫn để cho mặt trời trong tôi chiếu sáng,
nhưng tôi làm cho các tia sáng biến dạng một cách tinh vi
khó nhận ra: tôi vẫn phát ra ánh sáng, nhưng ánh sáng này
mang nặng các méo mó dị dạng của con người tôi! Chắc hẳn có
những người vẫn đón nhận thứ ánh sáng dị dạng của tôi mà cứ
tưởng rằng đó là ánh sáng bình thường, và họ vô tình bị ảnh
hưởng bởi thứ ánh sáng tai hại này mà không hay biết. Thay
vì soi sáng, tôi đã làm cho họ bị “mù mờ” đi. Thay vì dẫn
đưa họ tới miền ánh sáng đích thực thì tôi lại đẩy họ vào
vùng sai trái lầm lạc!
***
Thật rất khó để có thể nhận ra những
“mập mờ” trong cuộc sống của mình nếu không cậy dựa vào Chúa
Giê-su Ki-tô, Đấng được mệnh danh là “Mặt Trời Công Chính”.
Thông thường, trong nỗ lực hướng thiện, ai cũng cố gắng để
sống trong chân lý và phục vụ trong chân lý. Tuy nhiên, vì
“cái tôi” thường rất khó thăm dò và kiểm soát, nên nó rất dễ
luồn lách và bành trướng che phủ lên Sự Thật. Bởi tôi thường
chủ quan cho rằng sự thật của mình là đúng, nên nhiều khi
tôi đã khiến cho sự thật khách quan bị méo mó đi, dẫn đến
những hậu quả dị dạng trong cuộc sống.
Lạy Chúa Giê-su, xin Chúa giúp con
thoát khỏi tính chủ quan để con nhận ra và sửa đổi những
khuyết tật nơi linh hồn con, hầu con có thể phản chiếu lại
trọn vẹn Ánh Sáng Cứu Độ của Chúa cho những người chung
quanh. A-men./.
- Trầm Tĩnh Nguyện - |
VỀ MỤC LỤC |
|
RỬA
TỘI CHO NGƯỜI CHẾT ? |
Hỏi: đang có một linh mục công khai loan truyền
việc rửa tội cho người chết hiện về.. xin cha cho biết có
giáo lý nào nói về việc này không ?
Trả
lời:
Xưa nay ở khắp nơi, người
ta đã nói nhiều về những hiện tượng như người chết hiện về
trong giấc mơ hay trong thực tế để xin điều này, cảnh cáo
việc kia hay người khác còn sống. Người ta cũng kể những
truyện kinh hoàng về ma quái hiện ra để nhát người sống hoặc
phá phách khiến nhiều người không dám ở trong những căn nhà
nơi có xảy ra những hiện tượng quá bất thường này.
Tuy nhiên, trước những sự
kiện đó, Giáo Hội không chính thức đưa ra một giáo lý nào để
giải thích và áp dụng mà vẫn giữ thái độ im lặng cho đến
nay. Các linh mục chỉ khuyên giáo dân dùng nước phép để vẩy
trong nhà hay xin làm phép nhà mà thôi. Dầu vậy, riêng
trường hợp những người được coi là bị “tà thần hay ma quỷ ám
hại công khai” (publicly possessed) thì Giáo Hội vẫn xử dụng
biện pháp gọi là trừ quỉ (exorcism) để giúp những nạn nhân
trong trường hợp này được bình an trở lại. Vì thế, ở mỗi
Giáo phận, một hay vài linh mục nào đó được Giám Mục chỉ
định cho làm việc này, và chỉ các linh mục này được phép
“trừ quỷ” mà thôi.
Như thế cho thấy là thực
tế có hiện tượng ma quỷ phá phách mà Giáo Hội phải quan tâm,
ngoài niềm tin là có “ma quỷ, địch thù của anh em, như
sư
tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé” để cám dỗ con người
phạm tội nghịch cùng Thiên Chúa như Thánh Phêrô đã
cảnh giác (x 1 Pr 5:8).
Nhưng nếu ai nói rằng
linh hồn người nào đã chết hiện về để xin rửa tội và từ đây
muốn dạy giáo lý cho ai về phép rửa dành cho người chết thì
đó hoàn toàn là điều tưởng tượng hoang đường, nếu không muốn
nói là lac giáo=heresy vì không có căn bản tín lý, giáo lý,
thần học nào của Giáo Hội về việc này.
Tôi quả quyết như vậy, vì
những lý do sau đây:
Trước hết, Giáo Hội không
tin và dạy chúng ta tin về điều được gọi là “luân hồi=
reincarnation”. Đây là niềm tin của tôn giáo khác và chúng
ta kính trọng niềm tin của tôn giáo này. Nhưng là tín hữu
Chúa Kitô trong Giáo Hội Công Giáo, chúng ta không được tin
điều này vì Giáo hội đã dạy như sau về số phận con người
ngay sau khi chết:
“Mỗi người lãnh nhận trong linh hồn bất tử của mình phần
trả công đời đời cho mình ngay sau khi chết trong một cuộc
phán xét riêng, chiếu theo cuộc sống của mình hướng về Chúa
Kitô, để hoặc sẽ trải qua một sự thanh luyện, hoặc lập tức
bước vào hưởng diễm phúc Thiên Đàng hoặc lập tức bị án phạt
đời đời” (x. SGLGHCG,
số 1022)
Như thế có nghĩa là một
người sau khi chết sẽ tức khắc chịu phán xét riêng để :
1-
hoặc phải được thanh luyện thêm
ở nơi gọi là “luyện tội” (purgatory) một thời gian dài, ngắn
tùy sự công bằng và lòng nhân ái của Chúa đòi hỏi.
2-
hoặc được vào thẳng Thiên Đàng
để vui hưởng Thánh Nhan Chúa vì đã tốt lành đủ sau khi chết.
3-
hoặc phải chịu án phạt đời đời
trong nơi gọi là hỏa ngục vì đã hoàn toàn khước từ Chúa và
tình thương của Ngài cho đến phút chót trước khi chết. (x.
Sđd, số 1033-34)
Như vậy,
làm gì còn trường hợp nào linh hồn được trở về thế gian để
xin rửa tội nữa?
Vả lại, mặc dù phép rửa
rất cần thiết để được cứu độ như Chúa Giêsu đã dạy (x.Ga
5:3; Mc 16:16; Mt 28 : 19), nhưng chúng ta đừng quên hai
điều rất quan trọng sau đây:
Trước hết, rửa tội là
cần thiết, nhưng cần hơn nữa là phải sống những cam kết khi
được lãnh bí tích này (baptismal promises). Đó là yêu mến
Chúa trên hết mọi sự và yêu anh em như chính mình. Phải từ
bỏ ma quỉ và xa lánh mọi tội lỗi để sống theo đường lối của
Chúa vì “không phải bất cứ ai thưa
với Thầy : lạy Chúa, lạy
Chúa là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ những ai thi
hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào
mà thôi.” (Mt 7:21). Nói khác đi, không phải cứ
rửa tội thôi là được cứu rỗi, không cần phải làm gì nữa.
Ngược lại, nếu không sống những đòi hỏi trên của phép rửa,
thì rửa tội rồi cũng vô ích mà thôi. Chắc chắn như vậy, vì
phép rửa nguyên mình nó không phải là Giấy thông hành
(Passport) cho ai để đi thẳng lên trời mà không cần bất cứ
thủ tục nào khác nữa.
Thứ đến, với những người
chết đi mà không được rửa tội trong đó có các trẻ con, Giáo
Hội vẫn tin tưởng là họ có thể được cứu rỗi nếu đó không
phải là lỗi của họ qua lời dạy giáo lý và tín lý sau đây :
“Đúng thế, những người không do lỗi của mình mà
không biết đến Phúc Âm của Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài,
nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và nhờ ơn sủng của Ngài
mà hành động để làm trọn
Thánh Ý Ngài, theo như lương tâm mặc khải cho họ và
truyền dạy họ thì những người đó có thể đạt tới ơn cứu độ
muôn đời.” (x. Sđd ,số 847; Lumen Gentium ,số 16).
Như thế rỏ ràng cho thấy
là những người đã chết mà không được chiu phép rửa tội, vẫn
có thể được cứu rỗi, nếu họ đã sống đúng với tinh thần giáo
lý nói trên đây.Ngược lại, nếu đã không sống đúng với tinh
thần đó hay đã không thực hành những cam kết khi được rửa
tội thì dù có được rửa rồi cũng vô ích mà thôi, nói gì đến
không được rửa tội nữa.
Phép rửa chỉ là khởi đầu
cần thiết cho một tiến trình hoán cải (conversion) nội tâm
để nên thánh và được cứu độ. Nhưng phép rửa không bảo đảm
cho ai thoát khỏi mọi nguy cơ phạm tội cá nhân trở lại sau
khi được rửa tội, vì bản chất con người còn yếu đuối, cộng
thêm ý chí tự do (freewill) mà Thiên Chúa luôn tôn trọng cho
con người xử dụng bao lâu còn sống trên đời này. Vì thế, nếu
không có thiện chí cộng tác với ơn Chúa để sống những cam
kết của bí tích rửa tội thì Chúa không thể cứu ai được.
Chính vì thực trạng con người vẫn hoàn toàn yếu đuối sau khi
được rửa tội, cộng thêm nguy cơ cám dỗ của ma quỉ và gương
xấu của thế gian mà Chúa Giêsu đã lập thêm các bí tích cần
thiết khác như Thêm sức, Thánh Thể và Hòa giải để giúp con
người được bổ sức tiến bước trên đường thánh hóa cũng như
lấy lại ơn Chúa sau khi lỡ sa phạm tội vì yếu đuối bản
thân. Nghĩa là nếu chỉ cần rửa tội là được cứu độ thì Chúa
Giêsu lập thêm các bí tích kia làm gì nữa ?
Như thế, người chết không
cần hiện về để xin chịu phép rửa tội qua trung gian của ai
nữa vì đã quá muộn để làm việc này.
Điều này hoàn toàn huyền
hoặc và lạc giáo vì không có chút căn bản thần học và tín lý
nào hết. Chắc chắn như vậy.
Tuy nhiên, nếu chuyện
“hiện về này” thực sự có xẩy ra cho một cá nhân nào, nghĩa
là có ai mơ gặp người chết về xin rửa tội, thì đó chỉ là
kinh nghiệm riêng tư rất cá biệt của người ấy mà thôi.
Nhưng chắc chắn kinh nghiệm này không thể là kinh nghiệm phổ
quát có giá trị giáo lý để kêu gọi người khác tin và thực
hành được.
Điều chúng ta cần ghi nhớ
là Chúa Giêsu đã sinh xuống thế và chết cách nay chỉ mới
2000 năm. Giáo Hội cũng chỉ mới thi hành việc rửa tội từ
sau ngày Chúa về trời, cách nay cũng chưa được 2000 năm.
Trong khi thực tế là số người đã sinh ra và chết đi trước
Chúa Giêsu thì không biết là bao ngàn triêu con người. Những
người này tuyệt đối không biết Chúa Kitô và không được chịu
phép rửa. Vậy nếu “huyền thoại” nói trên mà đúng và cần thực
hành thì tất cả những người đã chết đều phải hiện về hết
để xin rửa tội. Khi đó, chắc chắn Giáo Hội sẽ không thể có
đủ thì giờ và huy động đủ thừa tác viên và người trung gian
đỡ đầu để rửa tội hết cho bao ngàn triệu sinh linh ấy được !
Thiên Chúa là tình thương
và công bằng. Ngài không thể thiên vị ai trong việc cứu độ.
Vậy nếu phép rửa là điều
kiện duy nhất bắt buộc cho mọi linh hồn để được phần rỗi,
thì điều này phải áp dụng cho hết mọi linh hồn đã không được
rửa tội khi còn sống trong thân xác ở đời này. Nghĩa là,
Chúa không thể ưu tiên cho ai trở về xin phép rửa mà không
cho các linh hồn khác được về vì nhu cầu tối thiết này. Như
vậy, chúng ta cũng không cần biết đến lời dạy giáo lý trên
đây của Giáo Hội nữa vì không đúng thực tế. Ấy là chưa nói
đến mối nguy hại lợi dụng của những người còn sống vì chắc
chắn sẽ có những người nghĩ rằng rửa tội trước là điều thua
thiệt. Họ không cần xin rửa tội nữa, cứ sống và ăn chơi cho
phỉ chí, cần gì bận tâm đến những răn đe về luân lý và
đạo đức cho mệt. Cứ sống theo sở thích rồi sau khi chết, sẽ
hiện về xin rửa tội để đươc tha hết một lần mọi tội cá nhân
và nguyên tổ. Như thế sẽ nắm chắc phần rỗi hơn vì không còn
thì giờ và nguy cơ để phạm tội thêm nữa như những người đã
rửa tội và đang còn sống trên trần gian này !
Nhưng ai dám tin và dạy
cho người khác tin điều quái đẳn này ?
Có chăng chỉ có người
vô tình hay cố ý coi thường giáo lý, và thần học tín lý của
Giáo Hội nên đã tự ý đưa ra giả thuyết hoang đường để hướng
dẫn sai lầm người khác mà thôi !
Tóm lại, chúng ta không
được tin và thực hành những gì Giáo Hội không dạy về tín
lý, giáo lý và luân lý, nếu chúng ta muốn coi Giáo Hội là Mẹ
thay mặt Chúa là Cha trong trách nhiệm dạy dỗ và hướng dẫn
chúng ta sống đức tin trong cuộc lữ hành này.
LM
Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn |
VỀ MỤC LỤC |
|
DI
CHÚC CỦA ĐỨC TGM PHILIPPHÊ NGUYỄN KIM ĐIỀN: |
Giáo Hội Công Giáo
Tòa Tổng Giám Mục
Huế
Archevêché Huế
Việt
Nam
DI
CHÚC
Nhân
Danh Cha và Con và Thánh Thần!
Tôi cám đội ơn Chúa đã
thương chọn tôi làm con Chúa, Linh Mục và Giám Mục trong Hội
Thánh của Ngài, mặc dù tôi rất bất xứng.
Tôi không có ước muốn
riêng nào về sự chết và cuộc tẩm liệm hay chôn xác tôi. Sao
cũng được, tùy Thánh Ý Chúa và sự liệu định của anh em Linh
Mục Giáo Phận, vì tôi chẳng đáng chi cả.
Tôi không có gì để nhắc
nhủ các Linh Mục Huế cách đặc biệt, trừ ra xin phép được
khuyên các ngài hãy can đảm tỏ ra trung thành với Hội Thánh
trong mọi hoàn cảnh, sống đoàn kết trong Linh Mục đoàn và
sống trọn vẹn bổn phận chủ chăn nhân hiền.
Tôi cám ơn các Linh Mục
trong Giáo Phận đã nhẫn nại chịu đựng tôi và tận tâm cộng
tác với tôi. Những ai mà tôi vô tình hay vì bổn phận đã làm
mất lòng thì xin tha lỗi cho tôi. Phần tôi, không buồn phiền
một ai cả. Xin mọi người cầu nguyện cho tôi.
Về tiền bạc, tôi không
mắc nợ ai. Nếu như ai có thấy đang thiếu tôi vật gì, thì tôi
vui lòng tha thứ cho hết.
Các vật dụng, sách vở
và tiền mặt tôi đang có, thì tôi trối lại hết cho Tòa TGM
Huế.
Một lần nữa, tôi cám
đội ơn Chúa và xin tạm biệt mọi người, hẹn nhau trên Nhà
Cha.
Huế, ngày tám tháng
mười một 1985
(ký tên và đóng dấu)
Philipphê Nguyễn Kim
Điền
Tiểu Sử của Đức Tổng
Giám Mục Philippe Nguyễn Kim Điền:
- Ngài sinh ngày 13 tháng 3 năm 1921
tại Gia Định. - Năm 12 tuổi, ngài vào tu học tại Tiểu Chủng
Viện rồi sau đó vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse, đường Cường
Để Sài Gòn (nay đổi tên mới là đường Tôn Đức Thắng). - Ngài
chịu chức Linh Mục ngày 21 tháng 5 năm 1947, sau đó làm giáo
sư, rồi Giám Đốc Chủng Viện.
- Năm 1955, ngài gia nhập Dòng Tiểu Đệ
của Thánh Charles de Foucault, sinh hoạt mục vụ với người
nghèo trong các xóm lao động, đạp xích lô để sống tự túc.
Ngài cũng đã qua Bắc Phi, sống tập thể trong sa mạc Sahara
với các tu sĩ Dòng Tiểu Đệ theo truyền thống của Dòng nầy.
Năm 1957, trở về Việt Nam, ngài đã từng sống ở Sài Gòn, Lâm
Đồng, Cần Thơ
- Ngày 8 tháng 12 năm 1960, ngài được
Tòa Thánh Vatican chính thức bổ nhiệm làm Giám Mục Giáo Phận
Cần Thơ (lúc 39 tuổi), lễ tấn phong được tổ chức tại Sài Gòn
ngày 22 tháng 01 năm 1961.
- Ngày 30- 9- 1964, ngài được Tòa Thánh
cử làm Giám Quản Tổng Giáo Phận Huế thay thế Đức Tổng Giám
Mục Ngô Đình Thục đi họp ở Roma và không trở về sau biến cố
01- 11- 1963.
- Ngày 11- 3- 1968, ngài được chính
thức làm Tổng Giám Mục Huế.
(......)
- Ngày 8- 11- 1985, cảm thấy cái chết
có thể đến với ngài bất cứ lúc nào nên ngài đã viết di chúc
ngắn để lại cho các Linh Mục “khuyên các cha hãy trung thành
với Hội Thánh và đoàn kết với nhau, sống trọn vẹn bổn phận
của chủ chăn nhân hiền”...
- Ngày 25- 3- 1988, ngài viết một bức
thư gởi cho ông Nguyễn Văn Linh, sau khi ông được bầu làm
Tổng Bí Thư đảng CSVN và tuyên bố chính sách “đổi mới”...Nội
dung bức thư đòi xóa bỏ lệnh quản chế, được phục hồi quyền
công dân, được tự do đi lại để thi hành nhiệm vụ Tổng Giám
Mục đối với giáo dân Huế và thăm viếng các Giáo Phận khác
thuộc Tổng Giáo Phận Huế.
- Ngài qua đời ngày 8 tháng 6 năm
1988 tại Sài Gòn, hưởng thọ 67 tuổi.
Lược ghi theo tài
liệu của độc giả gởi đến |
VỀ MỤC LỤC |
|
Thánh lễ nối
dài giữa lòng nhân loại |
Trên đường về thành
Bétxaiđa, đám đông dân chúng tuôn đến với Chúa Giêsu để nghe
lời Người giảng dạy. Cùng với Chúa Giêsu, các môn đệ và đám
đông, chúng ta đang ở nơi đồng vắng – nơi sẽ xảy ra phép lạ
hoá bánh ra nhiều nuôi sống dân chúng. Sự kiện Chúa Giêsu
hoá bánh ra nhiều không chỉ đơn thuần là một phép lạ, mà còn
là một một lời loan báo cho tương lai: nhân loại sẽ được
dưỡng nuôi bằng bàn tiệc Thánh Thể trong đó nhiệm thể Chúa
Kytô trở nên Linh dược Thần linh nuôi sống nhân trần.
Giữa nơi hoang vắng, ngày
lại sắp tàn và với một lượng người quá đông đã khiến các môn
đệ lo lắng. Các ông lo lắng là phải. Bởi các ông biết rằng
đối với đám đông, các ông cũng có một vai trò nhất định nào
đấy. Một điều dễ hiểu là để lời Thầy được thính giả lãnh hội
thì công việc của các môn đệ trong vấn đề tổ chức chẳng dễ
dàng gì. Chính vì thế, giữa đồng không hiu quạnh, các ông lo
cho số phận của năm ngàn con người sẽ ra sao khi đêm về mà
không có gì lót dạ. Lương thực dự trữ bấy giờ chỉ vỏn vẹn
năm chiếc bánh và hai con cá. Thật chẳng thấm vào đâu với số
người quá đông như thế. Vì thế, theo các ông, cách tốt nhất
là giải tán đám đông, cho họ về nhà, nhẹ gánh nặng, thầy trò
còn có thời gian nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc. Hợp lý quá
đi chứ. Nhưng Chúa Giêsu không nghĩ như vậy. “Chính anh em
hãy cho họ ăn”. Tâm trạng của các ông có lẽ bực bội hơn là
ngạc nhiên. Chúng con cho họ ăn ư? Ồ không đâu, thưa Thầy.
Chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá? Chỉ còn cách là chúng
con đành phải lặn lội vào nơi gần nhất để mua lương thực cho
ngần ấy người mà thôi. Chúa Giêsu không để các ông phải khổ
sở với suy nghĩ rất ư bình thường như vậy. Điều Chúa muốn
các ông làm là hãy bảo đám đông quy tụ từng nhóm năm mươi
người, nằm ngã xuống và phân phát bánh cho họ.
Khi đám đông dân chúng đã
ngã mình trên đồng vắng, nghĩa là như Israel xưa trong sa
mạc, họ không còn lạc lõng, bơ vơ, tản mát nữa, tất cả đều
được quy tụ trở thành cộng đoàn cùng nhau dự tiệc- một hình
ảnh loan báo cho một dân tộc mới được mời gọi vào dự Tiệc
cánh chung của Thiên Chúa, khi đó kẻ nghèo sẽ được ăn uống
thoả thuê- Chúa Giêsu mở đầu bữa tiệc này theo đúng phong
tục của người Dothái, nghĩa là bằng lời chúc tụng. Một điều
thú vị là nếu đối chiếu với bản văn Tin mừng hôm nay với bản
văn bữa Tiệc ly và bữa tiệc Emmau, chúng ta sẽ thấy 4 động
từ sau đây như là nét đặc trưng của việc dâng lễ tạ ơn. Đó
là việc Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra
và trao cho các môn đệ. Có khác chăng là ở đây là lời chúc
tụng, còn trong bữa Tiệc ly là lời Tạ ơn (x. Lc 22, 19;24,
30). Như thế phép lạ hoá bánh ra nhiều không chỉ cho thấy
Chúa Giêsu chính là vị Ngôn sứ vượt trên mọi ngôn sứ của
thời đại, như ngôn sứ Êlia xưa đã nuôi 100 người bằng 20
chiếc bánh lúa mạch (x. 2V 4, 42-44) mà còn có quyền năng
trong việc quy tụ và nuôi sống dân Thiên Chúa. Chúa Giêsu
còn cho chúng ta thấy chính Người là hình ảnh của Thiên Chúa
đến trần gian để yêu thương con người, săn sóc và nuôi dưỡng
họ bằng phương cách họ không thể ngờ. Hôm nay chính Người đã
ban tặng cho họ ân huệ cao vời, đã nuôi sống họ cách dư dật.
Như ngôn sứ Êlia xưa,
Chúa Giêsu hôm nay cũng dựa trên năm chiếc bánh và hai con
cá của đám đông dân chúng hiến dâng để nuôi sống họ. Bí tích
Thánh Thể mà chúng ta tham dự mỗi ngày cũng vậy. Chính chúng
ta cũng phải dâng hiến năm chiếc bánh và hai con cá, tức là
những hy sinh, những đau khổ, bình an và hạnh phúc của cuộc
đời lên cho Thiên Chúa. Năm chiếc bánh và hai con cá thật
chẳng đáng là gì trước một đám đông đang đói lả, nhưng đó
lại chính là phương tiện cần thiết để Chúa thi ân giáng
phúc. Cũng vậy, với quyền năng, Chúa Kytô sẽ biến đổi, hiến
thánh sự đói nghèo của chúng ta, Người sẽ tiến dâng lên Chúa
Cha cuộc sống và những việc làm dù rất nhỏ bé của chúng ta
trở nên điều thiện hảo mưu ích cho muôn người.
Bí tích Thánh Thể chính
là việc Thiên Chúa muốn quy tụ, mời gọi và đón nhận mỗi
người chúng ta vào dự Tiệc với Người. Bữa tiệc đó rất cụ
thể, rất sinh động và sinh muôn ơn ích. Bàn tiệc mà chúng ta
tham dự không đơn thuần là một bữa tiệc thông thường, mà là
một bữa Tiệc Sự Sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời gọi
chúng ta đến kín múc nơi bàn tiệc Thánh Thể để toàn thể con
người chúng ta qua việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa
Kytô, chúng ta được hiệp thông cách trọn vẹn với Thiên Chúa,
được sống chính đời sống Thần linh của Thiên Chúa. Bí tích
Thánh Thể còn là một lời mời gọi chúng ta can đảm lên đường,
đến với thế giới đang chia rẽ, đến với đồng loại đang đói
nghèo, đau khổ, bệnh hoạn tù đày để liên kết, an ủi, nâng đỡ
và cưu mang họ. Xin Chúa thánh hoá và biến đổi chúng ta hầu
cuộc đời chúng ta mãi mãi là Thánh lễ nối dài giữa lòng nhân
loại.
Lm.
Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU KHÔNG KHOE
KHOANG |
Tác phẩm 13
Nét Mặt Tình Yêu
Lm. Dominique AUZENET
Lm Micae-Phaolô Trần Minh Huy chuyển
ngữ
TÌNH YÊU KHÔNG KHOE KHOANG
1. Đừng có thổi kèn báo trước ngươi.
Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng tìm làm cho
người ta chú ý là rất có hại biết bao cho những hành vi có ý
tốt nhất :
"Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng,
chớ có phô trương cho thiên hạ trông thấy, bằng không anh em
sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban
thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống như
bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài
phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã
được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái
biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và
Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho
anh" (Mt 6,1-4).
"Tình yêu không phô trương". Tình yêu không làm cho mình nổi
bật trước việc thiện mình làm, đó là điều mà ở đây Chúa
Giêsu nói là "thổi kèn" và coi là giả hình. Tình yêu đích
thực là vô vị lợi và không qui về chính mình. Người ta
thường nói tình yêu không làm rộn ràng...
Tuy nhiên, điều đó giả thiết cả một cuộc thanh luyện tình
yêu. Trải qua dòng thời gian, chúng ta học tập tự giải thoát
khỏi lòng khao khát được người đời biết đến. Lòng khao khát
nầy làm cho chúng ta không ngừng tìm kiếm lời tán dương của
kẻ khác. Và như Chúa Giêsu đã nói, "chúng thực hành công
chính trước mặt người đời để
được họ lưu ý...".
"Điều có thể xảy ra là tôi đến với tha nhân là để bảo
đảm về giá trị riêng của tôi. Lối ứng xử của những kẻ khoe
khoang trên đời đều như thế cả. Không chắc chắn được về
chính mình, họ cảm thấy nhu cầu khẩn thiết gặp được những
dấu hiệu tán thưởng mới trên gương mặt tha nhân. Họ tìm kiếm
cái gì ? Một bộ sưu tập những kẻ tâng bốc. Nói đúng ra, thái
độ ứng xử ấy không thiếu sự hấp dẫn của nó. Khác với kẻ kiêu
ngạo coi thường lời phẩm bình của người đồng loại, kẻ khoe
khoang nhìn nhận nhu cầu được người chung quanh cảm phục và
khen lao. Trong trường hợp như vậy, người ta chưa thương tha
nhân vì tha nhân, mà chỉ tìm nơi tha nhân những lời tung hô
làm dịu đi trong chốc lát cái cảm xúc hằng ám ảnh về sự yếu
kém của mình"[1]
2. Hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết.
Chúa Giêsu đã giới thiệu vài phương thuốc hiệu nghiệm, cách
riêng phương thuốc để tự hạ mình xuống và đặt mình vào chỗ
rốt hết :
"Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà
ngồi nên nói với họ dụ ngôn nầy : Khi anh được mời đi ăn
cưới thì đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan
trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn
nhân vật kia phải đến nói với anh rằng 'xin ông nhường chỗ
cho vị nầy'. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ
cuối. Trái lại, khi anh được mời thì hãy vào ngồi chỗ cuối,
để cho người mời anh phải đến nói 'xin mời ông bạn lên trên
cho'. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng
bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình
xuống sẽ được nâng lên" (Lc 14,7-11).
Hay còn nữa : "Giữa anh em thì không được như vậy : ai
muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em;
ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người" (Mc
10,43-44).
Còn
lâu chúng ta mới thỏa mãn đạt được địa vị ngôi sao mà chúng
ta muốn trải rộng cái tôi của mình... Chúa Giêsu đã nói về
Ngài và cuộc khổ nạn của Ngài. Cha Huvelin đã viết cho
Charles de Foucauld : "Chúa Giêsu đã chọn chỗ tận cùng đến
đỗi chẳng bao giờ có ai có thể cướp mất được chỗ đó của
Ngài". Vậy đừng có ai trong chúng ta cảm thấy bàng hoàng khi
phải hạ mình xuống ! "Đừng sợ, bạn càng khốn khó, Chúa Giêsu
càng yêu bạn. Ngài sẽ đi xa, thật xa để tìm kiếm bạn..."[1]
3. Lạy Chúa, xin canh phòng miệng lưỡi con.
"Tình yêu không khoe khoang"... dĩ nhiên cũng liên quan đến
lời nói của chúng ta. Người ta sẽ có thể giải thích : Tình
yêu cân nhắc những lời nói của mình. Quả thực, chúng ta biết
rõ là thói khoe khoang được diễn tả ra bằng lời nói nhằm làm
cho người ta được nổi bật. Người ta có thể không bao giờ nói
bậy, không bao giờ nói xấu kẻ khác. Nhưng trong mức độ mà
người ta không ngớt kể lể với kẻ khác về mình, thì cuộc trao
đổi không nhất thiết vẫn ở bình diện lời nói. Chúng ta hãy
lấy Mẹ Maria làm gương mẫu : sự thinh lặng nội tâm của Mẹ
làm cho mỗi lời nói của Mẹ trở nên một viên ngọc quí. Chớ gì
khi chúng ta nói, lời nói của chúng ta phải là hoa trái của
sự thinh lặng của chúng ta.
"Lạy Chúa, xin canh giữ miệng con và trông chừng lưỡi
con" (Tv 141,3). Câu thánh vinh nầy là một lời cầu
nguyện rất cần thiết cho nhiều người trong chúng ta. Những
thái quá trong lời nói được diễn tả trong cuộc tán gẫu kéo
dài, trong nhu cầu không thể nén để kể lể về mình, trong sự
không thể giữ một điều bí mật, trong ước muốn thỏa mãn tính
hiếu kỳ của chúng ta về cuộc đời kẻ khác... và trong nhiều
cách thế khác ít lộ liểu hơn. Tính huênh hoang trong lời nói
cũng dẫn chúng ta đến chỗ khoe khoang những sự hư vô thế
gian, và như thế duy trì một bầu khí hời hợt bề ngoài ngăn
cản việc lắng nghe Lời Chúa tự trong sâu thẳm của lòng mình
: "Chúng huênh
hoang vì những vật hư vô nầy..." (Tv 97,7).
Phải, chúng ta hãy đắn đo và chế ngự lời nói của chúng ta.
Hãy cầu xin ơn ấy với Chúa Thánh Thần đang ngự trong chúng
ta :
"Nhưng cái lưỡi thì không ai chế ngự được, nó là một sự
dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nộc độc giết người.
Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng
lưỡi mà nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình
ảnh Thiên Chúa. Từ cùng một cái miệng phát xuất lời chúc
tụng và lời nguyền rủa. Thưa anh em, như vậy thì không được.
Chẳng lẽ một mạch nước lại có thể phun ra từ một nguồn cả
nước ngọt lẫn nước chua sao ? Thưa anh em, làm sao cây vả
lại có thể sinh ra trái ô-liu, hoặc cây nho sinh trái vả ?
Nước mặn cũng không thể sinh ra nước ngọt. Trong anh em, ai
là người khôn ngoan hiểu biết ? Người ấy hãy dùng lối sống
tốt đẹp mà chứng tỏ rằng những hành động của họ phát xuất từ
lòng hiền hậu và đức khôn ngoan. Nhưng nếu trong lòng anh em
có sự ghen tương, chua chát và tranh chấp, thì anh em đừng
có tự cao tự đại mà nói dối trái với sự thật" (Jc 3, 8-14).
Trong nhiều trường hợp, khoe khoang chính là nói dối trái
với sự thật... Tốt hơn là hãy làm thinh, dè dặt kín đáo.
4. Tình yêu là dè dặt kín đáo .
Đây là hai bản văn của thánh nữ Catarina đệ Siêna giúp chúng
ta xác định rõ và thăm dò tầm quan trọng của sự dè dặt kín
đáo :
"Sự dè dặt kín đáo kéo thân xác ra khỏi những vui thú và
những tế nhị của thế gian. Nó làm cho thân xác tránh xa xã
hội của người trần gian và đưa nó vào xã hội của các tôi tớ
Thiên Chúa. Sự dè dặt kín đáo khiến con người trốn khỏi
những nơi tội lỗi và dẫn đưa nó vào những chỗ thúc đẩy lòng
đạo hạnh. Nó điều tiết mọi phần thân thể để chúng trở nên
giản dị và được giữ gìn ý tứ : Con mắt không nhìn những gì
bị cấm đoán và chỉ nhìn thấy trước mặt trời và đất; miệng
lưỡi tránh mọi lời nói vô ích và phù phiếm, nhưng sẵn sàng
loan báo Lời Chúa vì phần rỗi của tha nhân và xưng thú tội
lỗi mình; lỗ tai xua đuổi các diễn từ bởn cợt, nịnh hót,
phóng đãng, và nói xấu kẻ khác, nhưng chăm chú lắng nghe Lời
Chúa và những kêu than của tha nhân hầu cảm thông với nhu
cầu của họ... Sự dè dặt kín đáo cũng điều tiết đôi tay trong
những gì chúng đụng chạm và thực hiện, hướng dẫn đôi chân
trên những nẽo đường của chúng, hầu luật lệ xấu xa của xác
thịt hằng chống lại tinh thần không làm ô nhiễm các khí cụ
nầy"[1]
Và đây là điều Chúa Chúa Cứu Thế nói với Catarina : "Sự dè
dặt kín đáo không là gì khác ngoài sự
hiểu biết đích thực mà linh hồn có về mình và về Chúa. Chính
trong sự nhận biết nầy mà sự dè dặt kín đáo đã cắm rễ vào.
Nó là một ngành được ghép vào và kết hiệp với đức ái... Sự
dè dặt kín đáo sẽ không là một nhân đức mang lại những hoa
trái sự sống, nếu nó không được trồng cấy trong nhân đức
khiêm nhường, bởi vì đức khiêm nhường phát xuất từ sự nhận
biết mà linh hồn có được về mình. Và Thầy đã bảo con là căn
rễ của sự dè dặt kín đáo là một hiểu biết chân thực về bản
thân và về lòng nhân lành của Chúa, nó làm cho linh hồn trao
ban cách tự nhiên cho mỗi người cái gì họ đáng phải được.
Và
trước hết, nó qui về Chúa những gì là của Chúa, bằng cách
trả lại cho Danh Chúa danh dự và vinh quang, các thánh sủng
và ân ban mà nó biết là đã nhận lãnh từ nơi Chúa. Nó cũng
trả lại cho chính mình cái mà nó ý thức được là mình đáng
được, bằng cách nhận biết rằng nó không hiện hữu bởi chính
nó và nó chỉ tồn tại nhờ ân ban của Chúa.
Đó
là những kết quả của sự kín đáo dè dặt được xây dựng trên sự
hiểu biết chính mình, vốn là đức khiêm nhường đích thực.
Không có sự khiêm nhường nầy, linh hồn sẽ không kín đáo
được. Và sự không kín đáo bắt nguồn từ lòng kiêu ngạo, cũng
như sự kín đáo có nguồn ngọn trong lòng khiêm nhường. Như
một tên ăn cắp, nó lấy cắp vinh dự thuộc về Thầy để qui
hướng về nó và làm cho nó được vinh quang. Còn những gì
thuộc về nó thì nó lại gán cho Thầy bằng cách lẩm bẩm ca
thán những ý định nhiệm mầu Thầy đã kiện toàn trong nó và
trong các tạo vật khác của Thầy. Nó công phẫn trong mọi sự
chống lại Thầy cũng như tha nhân.
Hoàn
toàn ngược lại cách ứng xử của những ai có nhân đức dè dặt
kín đáo... Họ trả lại cho tha nhân những gì họ nợ tha nhân,
nhất là hiến tặng cho tha nhân tình thương phát xuất từ đức
ái, lời cầu nguyện khiêm tốn và liên lĩ mà mọi người phải
duy trì cho nhau"
Suy niệm để lần hạt Mân Côi
1. Tình yêu không khoe khoang. "Khi làm việc lành
phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên
hạ thấy, bằng không anh em sẽ chẳng được Cha của anh em,
Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua
chiêng đánh trống như bọn đạo đức giả... cốt để người ta
khen" (Mt 6,1-2). Tình yêu không làm cho người
ta chú ý. Xin Chúa ban cho chúng con sự xóa bỏ về điều thiện
không gây rộn ràng nầy.
2. Tình yêu không khoe khoang. "Khi anh được mời dự
tiệc, anh hãy đi ngồi vào chỗ cuối, để khi người đã mời anh
đến nói với anh 'xin mời bạn lên trên cho'. Bấy giờ anh sẽ
được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn
mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn
lên" (Lc 14,10-11). Chúng ta hãy cầu xin Chúa
ban ơn có thể hạ mình xuống, bằng cách ngồi vào chỗ cuối
trong trường hợp cụ thể nọ kia xảy ra.
3. Tình yêu không khoe khoang. "Lạy Chúa, xin canh
giữ miệng con và trông chừng lưỡi con" (Tv
141,3). Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi sự thái quá trong
lời nói lộ rõ trong việc tán gẫu kéo dài, trong nhu cầu kể
lể về mình không kìm hãm được, trong sự không thể giữ bí
mật, trong ước muốn thỏa mãn tính tò mò về cuộc đời kẻ
khác...
4. Tình yêu không khoe khoang. Chúa Cứu Thế nói với thánh nữ
Catarina đệ Siêna rằng "Sự dè dặt kín
đáo không là gì khác ngoài sự hiểu biết đích thực mà linh
hồn có về mình và về Chúa. Chính trong sự hiểu biết ấy mà sự
dè dặt kín đáo đã ăn rễ sâu vào". Chúng ta hãy xin ơn khiêm
nhường và
nghèo khó tâm hồn. Tình yêu là dè dặt kín đáo.
5. Tình yêu không khoe khoang. "Còn Maria thì cẩn
thận giữ gìn những điều ấy và suy niệm trong lòng"
(Lc 2,19). Chúng ta hãy cầu xin ơn nội tâm, thinh lặng và
cầu nguyện.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Cập
Nhật về Bệnh Lao |
Trong mấy tuần lễ vừa
qua, một vần đề thời sự y học đã được không những các nhà y
khoa học lên tiếng mà truyền thông khắp nơi cũng sôi nổi bàn
cãi, phóng sự, thông tin. Vài ngài dân cử Hoa Kỳ cũng lên
tiếng trách cứ cơ quan kiểm soát bệnh tật, nhân viên an ninh
biên giới và đòi họ ra quốc hội điều trần nội vụ đồng thời
tìm biện pháp đối phó, bảo vệ sức khỏe dân chúng.
Ðó là chuyện về một vị
thầy cãi 31 tuổi người Mỹ ở thành phố Atlanta, làm một đường
đi mây về gió, vượt Ðại Tây Dương sang Tây Âu cưới vợ, hưởng
tuần trăng mật rồi bay trở lại Hoa Kỳ qua ngả Gia Nã Ðại.
Ðiểm đặc biệt gây ra bàn
cãi là anh ta đang mắc một loại bệnh hiếm, có thể lây truyền
sang hành khách cùng ngồi trong phi cơ với anh trong hơn
chục giờ bay. Anh bị bệnh Lao phổi với loại vi khuẩn ngoan
cố, chống cự lại được với các kháng sinh trừ lao tốt nhất.
Anh bào chữa là cơ quan y
tế đã không cản trở việc anh đi máy bay và cho biết bệnh của
anh không có rủi ro truyền lây cho người khác.
Giới chức y tế phủ nhận,
khuyến cáo anh ta không nên trở lại Hoa kỳ bằng phi cơ dân
sự mà phải thuê một máy bay riêng. Anh bèn bay tới Gia Nã
Ðại rồi lái xe về New York, vào một bệnh viện xin điều trị.
Cơ quan kiểm soát bệnh
liên bang bèn tức tốc cho máy bay riêng tới đón anh về trụ
sở CDC ở Atlanta để khám nghiệm.
Hiện nay, anh đang được
để ở riêng, chữa trị tại một bệnh viện chuyên về Lao tại
thành phố Denver, Colorado. Tin cuối cùng cho biết luật sư
đã có ba kết quả thử đàm không có trực khuẩn lao.
Ðể trấn an dân chúng và
để ngăn ngừa lây lan bệnh, các cơ quan y tế đang tìm kiếm
mấy chục hành khách ngồi gần vị luật sư và đưa ra lời hướng
dẫn cần làm, nếu e rằng bị lây bệnh. Ðó là:
1- Nên tới bác sĩ gia
đình hoặc trung tâm y tế để xin làm thử nghiệm tìm kiếm bệnh
lao. Bác sĩ sẽ tìm hiểu dấu hiệu triệu chứng bệnh, làm thử
nghiệm trên da, Interferon-Gamma Release Assat (IGRA) và nếu
cần chụp quang tuyến phổi.
2- Nếu cần, trở lại bác
sĩ từ 6-8 tuần lễ sau để thử nghiệm tìm lao một lần nữa
3- Cất giữ kết quả thử
nghiệm. Nếu thấy xuất hiện các triệu chứng bệnh lao như ho,
xuống cân, sốt, đổ mồ hôi
ban đêm thì cần trở lại bác sĩ ngay, dù kết quả thử nghiệm
trước đây tốt xấu ra sao.
4- Dù trước đây đã được
chủng ngừa lao, mà cho rằng đã có tiếp cận với bệnh nhân lao
thì cũng nên đi thử nghiệm lại.
Cuộc tranh cãi còn đang
tiếp diễn. Truyền thông cũng đã nói tới việc có thể có “đáo
tụng đình” về trách nhiệm của vị luật sư nhiễm XDR-TB, của
giới chức y tế liên hệ tới cho phép hoặc không cho phép thầy
cãi ta có bệnh hiếm cưỡi máy bay đi cưới vợ.
Theo cơ quan Kiểm Soát
Bệnh CDC, phẩm chất không khí trong lòng máy bay được thanh
lọc kỹ và tốt hơn ở trong phòng làm việc. Hành khách trên lộ
trình dài quá 8 giờ có thể có nguy cơ nhiễm lao nếu ngồi
cạnh bệnh nhân bị lao phổi. Tiếp xúc trong thời gian ngắn ít
khi bị lây bệnh.
Trong khi chờ đợi kết quả
nội vụ, xin cùng nhau tìm hiểu về bệnh lao này.
Thế nào là “bệnh lao kháng - nhiều-thuốc” Multi
Drug-Resistant -TB
Bình thường, bệnh lao có
thể điều trị khỏi với 4 loại thuốc căn bản hàng đầu.
Nếu các thuốc này bị lạm
dụng hoặc không dùng đúng cách, vi khuẩn lao trở nên quen
nhờn với thuốc và sự điều trị với nhóm thuốc hạng hai sẽ khó
khăn, có nhiều tác dụng phụ không muốn và rất tốn kém. Khi
các thuốc hạng hai này lại bị lạm dụng thì vi khuẩn trở
thành bất trị, cần được nghiên cứu chữa chạy quy mô hơn nữa.
Theo cơ quan Y tế Thế
giới, khi vi khuẩn chống lại được với hai dược phẩm công
hiệu nhất là isoniazid và rifampicin thì là bệnh lao
kháng-nhiều-thuốc (MDR-TB hoặc multidrug-resistant TB).
Ở mức độ trầm trọng hơn,
XDR-TB (Extensively Drug-Resistant-TB) như trường hợp vị
luật sư hành khách hàng không đang được dư luận nhắc nhở
tới, thì vi khuẩn lao chống lại cả với các thuốc uống nhóm
fluoroquinolone và ít nhất là với ba loại thuốc chích hàng
thứ nhì là capreomycin, kanamycin và amikacin.
Sự chống với thuốc kháng
sinh xảy ra khi:
-
bệnh nhân không dùng thuốc theo
đúng liều lượng và thời gian do bác sĩ chỉ định
-
bác sĩ cho không đúng thuốc,
không đúng liều lượng hoặc thời gian quá ngắn
-
khi sự tiếp liệu thuốc bị khó
khăn, gián đoạn
-
khi thuốc có ít công hiệu trị
liệu
Khi gặp trường hợp
XDR-TB, sự điều trị khó khăn hơn, cần được các nhà chuyên
môn có kinh nghiệm, kiến thức cao, phòng thí nghiệm tân
tiến, cần có tất cả các
nhóm thuốc để lựa chọn và thời gian điều trị có thể kéo dài
tới hai năm. Sự thành công tùy thuộc ở mức độ chống thuốc
của vi khuẩn, bệnh nặng hay nhẹ và sức đề kháng của người
bệnh.
Lây lan với MDR-TB cũng
tương tự như lây lan bệnh lao bình thường và tùy thuộc một
số điều kiện như:
- Số lượng bệnh nhân có
mặt tại địa điểm
- Các bệnh đó nặng hoặc
nhẹ
- Thời gian tiếp xúc với
bệnh nhân lâu hay mau
- Không khí nơi tiếp xúc:
thoáng khí ít rủi ro hơn
căn phòng nhỏ bé, không khí ứ đọng
- Khả năng đề kháng của
người tiếp xúc. Thí dụ với bệnh nhân suy miễn dịch vì HIV sẽ
dễ bị lây bệnh lao hơn.
Nói chung, lây XDR-TB ít
khi xẩy ra hơn là lây lan lao phổi bình thường, vì XRD-TB
rất hiếm. Theo cơ quan Y tế Thế giới, vào năm
2004, có khoảng nửa triệu
trường hợp MDR-TB tại các quốc gia. Từ năm 1993 tới 2006,
Hoa Kỳ có 49 trường hợp XRD-TB.
Thường thường XDR-TB xuất
hiện sau MDR-TB. Cũng theo cơ quan Y tế Thế giới, lây lan
bất cứ loại bệnh lao nào ở trên phi cơ đều rất hiếm.
Và xin cùng nhau ôn lại về bệnh Lao
Lao vẫn còn là một bệnh
có sức tàn phá rất mạnh. Toàn thế giới có khoảng 1.6 tỷ
người bị nhiễm, 15 triệu người mang bệnh và số tử vong mỗi
năm lên tới 2.5- 3 triệu.
Tại Mỹ, bệnh lao đã giảm
rất nhiều. Năm 2006 có 13,767 ca mà phần đông thấy ở di dân,
người vô gia cư, người nghiện chích thuốc, bệnh nhân bị liệt
kháng HIV.
Tại Việt Nam, bệnh lao
còn khá phổ biến và đứng hàng thứ 13 trong 22 nước có số
bệnh nhân lao cao trên thế giới. Mỗi năm, Việt nam có khoảng
160,000 ca lao mới đủ loại trong đó lao phổi dương tính với
vi khuẩn Koch là 60,000. Tồng số bệnh nhân lao lưu hành lên
tới trên 260,000 người.
Trong những năm gần đây,
bệnh lao trở nên khó chữa vì sự xuất hiện của các vi khuẩn
lao kháng thuốc.
Nguyên nhân
Lao là một bệnh truyền
nhiễm do trực khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây ra. Vi
khuẩn được bác sĩ người Ðức Robert Koch (1843-1910) nhận
diện vào năm 1882.
Vi khuẩn này rất hiếu
khí, cho nên thường tấn công phần đỉnh của phổi, phần đầu và
thân của xương. Gan, dạ dày, thực quản ít bị lao vì dưỡng
khí thấp.
Truyền bệnh
Lao lan truyền hầu như
duy nhất qua không khí từ người bệnh sang người khác. Vi
khuẩn lẫn vào không khí khi người bệnh ho, hắt hơi và sống
khoảng dăm giờ. Người kế cận hít vào và mang bệnh.
Sự truyền lan qua không
khí chỉ xảy ra trong trường hợp lao phổi hoặc họng, chứ
không xảy ra khi bị lao ở các nơi khác như thận, xương
Bình thường cần có sự
chung sống lâu với người lao chưa được điều trị mới mắc
bệnh, chứ chỉ gặp gỡ thoảng qua một vài lần thì ít khi bị.
Chẳng hạn như đi trên cùng chuyến xe bus mà người ngồi cạnh
bị lao thì cũng không đủ thời gian để bệnh truyền sang.
Bệnh không lây lan khi sờ
đụng vào nhau, dùng chung bát đĩa, phòng vệ sinh, phòng tắm
Gần đây bệnh lao xẩy ra
nhiều hơn, một phần vì số người bị liệt kháng HIV tăng mà
những người này lại dễ mắc bệnh lao.
Theo cơ quan Y tế Thế
giới thì 1/3 dân số trên trái đất bị bệnh lao, nhất là ở các
quốc gia kém mở mang vì nghèo đói, ăn ở chật chội, kém vệ
sinh công cộng, thiếu phương tiện phòng ngừa bệnh. Cũng theo
cơ quan này, lao đứng hàng thứ nhì trong số các bệnh nhiễm
với tử vong khoảng hai triệu trên thế giới.
Với sự di chuyển dễ dàng,
di dân du lịch toàn cầu, mọi quốc gia đều có nhiểu khả năng
tiếp nhận bệnh nhân lao, kể cả lao kháng thuốc MDR-TB và
XDR-TB.
Triệu chứng
Người bị lao thường ho cả
mấy tuần lễ, đôi khi đàm lẫn máu, đau ngực, khó thở, nóng
sốt, đổ mồ hôi ban đêm,
gầy ốm mất kí. Ho ra máu xảy ra khi có “lỗ” cavity ở phổi.
Khi có những dấu hiệu vừa
kể, kéo dài vài tuần lễ mà không biết rõ nguyên do, đều cần
đi bác sĩ để được khám nghiệm.
Riêng với trẻ em, các
triệu chứng thường thấy gồm có ốm yếu, sút cân trong 2 tháng
mà không biết rõ nguyên nhân, ho, thở khò khè,
sí ban chiều, đổ mồ hôi
trộm.
Định bệnh
Định bệnh căn cứ vào các
dấu hiệu bệnh lý, thử đàm tìm vi khuẩn lao, chụp quang tuyến
phổi, làm phản ứng tuberculin, soi phế quản.
a- Xét nghiệm tìm trực khuẩn trong đàm rất chính
xác để chẩn đoán lao phổi, nhất là sau khi nuôi cấy trong
môi trường riêng. Thử nghiệm rẻ tiền, dễ thực hiện, thích
hợp với các quốc gia đang phát triển.
b- Thử nghiệm nhiễm lao bằng tuberculin test
chích dưới da với một chút chất đạm đặc biệt. Sau 48 giờ,
chỗ chích hơi sưng đỏ là dấu hiệu nhiễm vi trùng lao, nhưng
còn yếu không đủ gây bệnh.
Thử nghiệm này do bác sĩ
người Pháp Charles Mantoux khám phá, áp dụng vào năm 1910 và
là thử nghiệm chính xác nhất hiện nay.
Những người sau đây cần
thử Mantoux trên da:
- đã tiếp xúc thời gian
lâu với người bệnh lao
- bị nhiễm HIV
- cho rằng mình đã bị
bệnh lao
- sống ở quốc gia mà bệnh
lao thường có, như Ðông Nam Á châu
- nghiện chích thuốc
cấm.
c- Thử máu Quanti FERON-TB để đo khả năng miễn
dịch của cơ thể với trực khuẩn lao. Trong tương lại, thử
nghiệm này có thể thay thế cho phản ứng da.
Hai thử nghiệm sau chỉ
cho biết có bị nhiễm lao hay không chứ không cho biết có
bệnh lao. Cần xác định
bằng X-quang, thử nghiệm đàm.
Cơ quan Y tế Thế giới đưa
ra một hướng dẫn tìm bệnh lao như sau:
- Mọi người bị ho không
lý do kéo dài 2-3 tuần lễ hoặc lâu hơn đều cần được khám
nghiệm coi có bị bệnh lao hay không.
- Mọi bệnh nhân nghi ngở
bị lao phổi cần được thử đàm ít nhất hai, hoặc tốt hơn, ba
lần để coi có vi khuẩn lao. Nếu có thể được, nên lấy một mẫu
đàm vào buổi sáng sớm.
- Mọi bệnh nhân có kết
quả X-quang không bình thường đều cần được thử nghiệm đàm để
kiếm vi khuẩn gây bệnh.
Cần phân biệt nhiễm lao
với bệnh lao.
- Trong nhiễm lao
(TB-infection), vi khuẩn nằm im không tăng trưởng vì bị hệ
miễn dịch của cơ thể khống chế, không gây ra bệnh, không có
dấu hiệu triệu chứng, X-quang phổi bình thường và không
truyền lây bệnh được.Tuy nhiên, nhiễm có thể trở thành bệnh
nếu cơ thể suy nhược, mắc HIV, nghiền chích thuốc cấm, sống
gần gũi với người bị bệnh lao.
Người nhiễm lao cần phải
uống thuốc isoniazid phòng tránh bệnh trong sáu tháng.
- Bệnh lao (TB-Disease)
là khi vi khuẩn đang hoạt động mạnh, tấn công mô bào các cơ
quan, gây ra các triệu chứng dấu hiệu bệnh và có thể truyền
vi khuẩn cho người khác.
Trị liệu
Cách đây trên nửa thế kỷ,
không có thuốc nào có thể trị dứt bệnh lao. Lao đã được liệt
kê vào nhóm bốn nan bệnh trong nền y học cổ truyền dân tộc
Việt Nam, Trung Hoa (Phong, Lao, Cổ, Lại. Tứ chứng nan y).
Nhưng kể từ năm 1950,
nhiều thuốc trị lao rất công hiệu đã được khám phá, sản
xuất. Có hai nhóm thuốc chữa lao:
Nhóm thiết yếu hàng đầu
gồm có Isoniazid, Rifampin, Ethambutol, Pyrazinamide.
Nhóm hàng hai thứ yếu là
streptomycin, ethionamid, prothionamid, PAS, cycloserin,
kanamycin và capreomycin.
Vì lao là bệnh có nhiều ở
các quốc gia đang phát triển, sự điều trị không đồng nhất,
nên cơ quan Y tế Thế giới đã có hướng dẫn chung như sau.
Hướng dẫn này đã được nhiều tổ chức y tế tại các quốc gia
ủng hộ:
- Mọi bệnh nhân, kể cả
người bị nhiễm HIV, mà trước đây chưa nhận điều trị lao, đều
nên dùng các thuốc hàng đầu đã được mọi người công nhận.
Giai đoạn đầu kéo dài hai
tháng với isoniazid, rifampin, pyrazinamide và ethambutol.
Gian đoạn kế tiếp được ưa
thích là bốn tháng với hai thuốc isoniazid và rifampicin. Có
thể thay thế bằng isoniazid và ethambutol trong sáu tháng
nếu người bệnh không tuân thủ điều trị, nhưng e rằng bệnh sẽ
khó lành và nhiều nguy cơ tái phát có thể xảy ra, đặc biệt
đối với người bị nhiễm HIV.
- Mọi bệnh nhân cần được
theo dõi kết quả với thử đàm vào lúc kết thúc kết thúc điều
trị hai tháng của giai đoạn dầu, sau năm tháng và khi hoàn
tất trị liệu. Bệnh nhân dương tính với thử đàm vào tháng thứ
5 đều bị coi như thất bại và cần được xem xét lại phương
thức điều trị.
- Bệnh nhân MDR-TB cần
được điều trị với bốn thuốc hàng hai trong thời gian ít nhất
là 18 tháng.
Nói chung, người mắc bệnh
lao phải uống thuốc trong thời gian lâu, ít nhất là sáu
tháng. Sau hai tuần lễ uống thuốc, nguy cơ lan truyền bệnh
đã giảm đi rất nhiều.
Nếu ngưng thuốc giữa
chừng, bệnh tái phát và rất khó chữa. Điều quan trọng là
phải uống thuốc cho tới khi bác sĩ thử nghiệm, chụp phim
thấy hết bệnh chứ không phải là ngưng khi thấy trong người
khỏe trở lại và lên cân.
Nếu bị bệnh mà không chữa
thì không những sẽ thiệt mạng mà còn rủi ro truyền bệnh cho
người khác.
Phòng ngừa
Phòng tránh lao tập trung
vào các điều sau đây:
a- Loại trừ nguồn gốc gây
lan truyền bệnh.
Bệnh nhân lao phổi và
cuống họng cần được chẩn đoán càng sớm càng tốt, tạm thời để
họ ở riêng và bắt đầu điều trị ngay bằng dược phẩm để tiêu
diệt vi khuẩn gây lao.
Trong thời gian này, bệnh
nhân không trở lại nơi làm việc hoặc trường học, tránh tiếp
xúc với người lành, đặc biệt là trẻ em, người nhiễm HIV,
không lai vãng nơi công cộng nhiều người tụ tập.
Thường thường, sau 2-3
tuần lễ uống thuốc đều đặn, thử nghiệm đàm âm tính thì khả
năng lây truyền bệnh giảm.
b- Phát hiện bệnh sớm.
Khi nghi có bệnh, cần đi
bác sĩ để được khám nghiệm, thử đàm, chụp hình phổi, thử
phản ứng tuberculin ngoài da và điều trị, nếu có bệnh.
c- Ðiều trị trường hợp
nhiễm lao, phản ứng da dương tính và chưa có dấu hiệu bệnh.
d- Tạo sức đề kháng với
vi khuẩn lao bằng vaccin BCG. Ðây là loại vi khuẩn lao sống
nhưng đã giảm độc tính và hiện đang được dùng ở mọi nơi, đặc
biệt là trẻ em tại các quốc gia đang phát triển, lao nhiều.
Vaccin không ngửa bệnh lao nhưng tăng cường sức đề kháng của
cơ thể với vi khuẩn lao.
Nên nhớ là bệnh lao không
di truyền, không gây ra do hút thuốc lá.
Kết luận
Lao được coi như bệnh của
người nghèo, với lợi tức thấp, sống trong điều kiện kém vệ
sinh, nhà cửa chật chội, không thoáng khí, bệnh dễ lây lan.
Nghèo đói lại làm bệnh lao dễ phát triển, khó chữa vì người
dân không đáp ứng được với phí tổn trị bệnh.
Theo tổ chức Y tế Thế
giới, bệnh lao đang có khuynh hướng tái xuất hiện tại các
quốc gia đang phát triển, đặc biệt là khi lao kết hợp với
nhiễm HIV và với các trường hợp vi khuẩn lao kháng thuốc.
Tổ chức này đã đề ra kế
hoạch giảm bệnh lao và số tử vong trên thế giới xuống 50%,
so với năm 1990, bằng cách kêu gọi sự hợp tác của các chính
phủ, cung cấp miễn phí thuốc trị lao cho mọi bệnh nhân, đặc
biệt là tại các quốc gia đang phát triển, dân chùng nghèo
túng, không có tiền mua thuốc. Ðồng thời, tổ chức cũng cố
gắng giúp các quốc gia cải tiến hệ thống điều trị với trực
tiếp theo dõi trị liệu (DOT-directtly observe therapy), bảo
đảm sự tuân thủ của bệnh nhân dùng thuốc.
Cao vọng của tổ chức là
vào thập niên 2050, bệnh lao sẽ không còn là vấn nạn y tế
của mọi quốc gia và tỷ lệ bệnh sẽ là
1/1 triệu người dân.
Và cũng không còn các
trường hợp lao kháng thuốc, di chuyền tiếp cận với người
lành trên máy bay, xe chuyên chở
công cộng cũng như nơi có nhiều dân chúng tụ họp,
để lây truyền căn bệnh nan trị.
Mong vậy thay!
Bác sĩ
Nguyễn Ý-Ðức
Texas-Hoa Kỳ. |
VỀ MỤC LỤC |
|
NGHỀ
NGHIỆP - Chuyện phiếm của Gã Siêu. |
Ngày xưa còn bé, trong thời gian tiểu
học, mài đũng quần trên ghế nhà trường, thế nào cũng có lần
thày cô bắt làm một bài luận với đề tài :
- Lớn lên em sẽ làm gì ?
Thế là bọn nhóc chúng tôi cắm cúi viết.
Đứa thì mơ làm bác sĩ, đứa thì mơ làm kỹ sư, đứa thì mơ làm
thương gia…Và thậm chí, có đứa cả gan dám mơ làm ông tổng
thống nữa. Ôi ! những giấc mơ chưa bị ô nhiễm mới đẹp làm
sao !
Còn bây giờ, gặp nhau sau bao nhiêu
năm dài xa cách và nhìn lại quãng đường mình đã đi qua với
những vật lộn và bươn chải , nhất là sau những bầm giập của
cuộc sống, hay nói cách khác, sau những lần bị đời đá lên đá
xuống như một trái bóng, đứa thì cười ha hả với những thành
công rực rỡ, đứa thì ngậm ngùi với những thất bại đắng cay.
Có nhiều yếu tố tạo nên thành công hay
thất bại trên đường đời.
Thứ nhất là cơ may, gặp thời gặp vận.
Có những đứa chỉ với chút tiền còm, đầu tư vào lãnh vực nhà
đất, thậm chí có đứa chẳng bỏ ra đồng bạc nào, chỉ cần làm
cò, làm môi giới mua đi bán lại, nhưng trúng phóc vào lúc
nhà đất đang lên cơn sốt. Và thế là chỉ trong một thời gian
ngắn, phất lên trông thấy. Đúng là :
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
Làm bởi ngươi, nhưng ban bởi Ta.
Thứ hai là cố gắng và chắt bóp, vừa chí
thú làm ăn lại vừa tiết kiệm trong chi tiêu, theo kiểu “kiến
tha lâu cũng đầy tổ”, để rồi cuối cùng cũng khấm khớ, như
thiên hạ đã diễn tả :
- Trông lên thì chẳng bằng ai,
Trông xuống thì cũng chẳng ai bằng
mình.
Nhưng quan trọng nhất vẫn là phải có
một nghề trong tay. Thực vậy, sống trong bối cảnh của nền
kinh tế thị trường, người ta lại càng cần phải có một nghề
chuyên môn, bằng không thì chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng
thất nghiệp. Mà đã thất nghiệp, thì chỉ còn cách nằm ở nhà,
ăn lương vợ và làm….báo đời.
Chính vì thế, người xưa đã bảo :
- Không có tiền bạc chưa phải là nghèo,
nhưng không có nghề nghiệp mới thực sự là nghèo.
Tiền bạc như núi, nhưng tiêu mãi tiêu
hoài, có ngày cũng sẽ hết. Và khi hết tiền, hết bạc, chắc
chắn chúng ta sẽ lâm cảnh túng thiếu. Chàng trai phung phá
ôm cả một gia tài đi ăn chơi vung vít, phá gia chi tử. Miết
rồi cũng rơi vào tình trạng đói khổ, phải đi chăn heo. Trong
cảnh cơ cực ấy, chàng muốn tọng cám heo cho đầy bụng mà cũng
chẳng ai cho.
Trong khi đó, nghề nghiệp sẽ đẻ ra
tiền, thì còn lo gì túng thiếu. Bởi đó, tục ngữ Việt Nam đã
bảo :
- Trâu ruộng bề bề, không bằng nghề
trong tay.
Còn người Tàu cũng đã nói :
- Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.
Hay như một câu danh ngôn đã xác quyết
:
- Ruộng đất thẳng băng, chẳng bằng một
nghề trong tay.
Vì thế, điều quan trọng là phải chọn
cho mình một nghề, rồi ra sức trau dồi, học hỏi nghề mình đã
chọn để có được một chất lượng cao, cũng như để có được một
tay nghề vững.
Vì thế, người ta cũng thường diễn tả :
- Toàn bộ cuộc đời chúng ta tùy thuộc
vào một vài quyết định trong tuổi thanh xuân.
Đúng thế, vào lúc đầu còn xanh và sức
sống còn đang phơi phới, có những quyết định làm xoay chuyển
hẳn hướng đi và ảnh hưởng mãi cho đến khi về già.
Quyết định thứ nhất, đó là chọn cho
mình một bậc sống : Lập gia đình hay ở độc thân. Nếu lập gia
đình thì chọn cho mình một người bạn trăm năm khả dĩ cùng đi
với mình cho đủ ba vạn sáu ngàn ngày. Còn ở độc thân, thì
độc thân giữa đời hay vào nấp bóng trong một dòng tu…
Quyết định thứ hai, đó là chọn cho mình
một nghề, để rồi đầu tư công sức vào đó. Nghề đã chọn sẽ
theo mình trong suốt cả cuộc đời. Nếu có đổi thay chăng nữa
thì cũng thật long đong, vất cả mà nhiều lúc cũng chẳng nên
cơm cháo gì.
Chuyện rằng : Nước Trịnh có người học
nghề làm dù che mưa, ba năm mới thành nghề. Trời hạn hán,
không ai dùng đến dù, anh ta bèn bỏ nghề làm dù, đi học nghề
làm gầu tát nước. Lại học ba năm mới thành nghề làm gầu, thì
trời mưa mãi không ai dùng đến gầu.
Bấy giờ anh ta lại quay về nghề làm dù
như trước. Không bao lâu, trong nước có giặc, dân gian nhiều
người phải đi lính, mặc đồ nhung phục, không ai cần đến dù,
anh ta xoay ra nghề đúc bình khí thì đã già quách mất rồi.
Úc Ly Tử thấy anh ta, thương tình, nói
rằng :
- Than ôi ! Bác chẳng đã già đời rồi ư
! Già hay trẻ không phải là tự người, mà là tự trời, điều ấy
đã cố nhiên. Nhưng nghề nghiệp thành hay bại, dù lỡ thời hay
không gặp dịp, cũng chẳng nên đổ cả cho trời, tất có mình ở
trong.
Ngày xưa nước Việt có một người làm
ruộng, cấy lúa chiêm ba năm đều thất vì lụt cả. Có người bảo
anh ta nên tháo nước mà cấy lúa mùa. Anh ta không nghe, cứ
cấy chiêm như trước. Năm ấy nắng to, mà nắng luôn ba năm, vụ
chiêm nào cũng trúng, thành ra anh ta kéo lại, chẳng những
hòa mấy năm mất mùa trước, mà còn trở nên giàu có. Cho nên
thiên hạ mới bảo rằng :
- Trời đại hạn, nghĩ đến sắm thuyền.
Trời nồng nực, nghĩ đến sắm áo bông.
Đó là một câu thiên hạ nói rất phải.
Tuy nhiên, có một nghề trong tay không
quan trọng cho bằng cách chúng ta hành nghề. Bởi vì có
những cách hành nghề nhằm bóc lột người khác, làm nghèo quê
hương và phá hoại đất nước. Nhưng cũng có những cách hành
nghề giúp ích cho người khác, làm giàu cho quê hương và góp
phần xây dựng đất nước, như một câu danh ngôn đã bảo :
- Giá trị của một nghề không bằng giá
trị của cách hành nghề.
Gã xin đưa ra những thí dụ cụ thể để
minh chứng cho điều vừa mới trình bày.
Chẳng hạn những người sản xuất thuốc,
giúp cho bàn dân thiên hạ trị bệnh, thế nhưng vì lòng tham
đã chế biến những thứ thuốc dổm, làm cho người đau yếu tiền
mất tật mang, bệnh vẫn hoàn bệnh và không chừng vì để lâu,
còn mỗi ngày một trở nên trầm trọng hơn.
Chẳng hạn những người bán hàng, giúp
cho bàn dân thiên hạ giải quyết được những nhu cầu cần thiết
cho bản thân và gia đình, thế nhưng vì lòng tham, đã chế
tạo ra những chiếc thước thiếu, những chiếc cân non, để móc
túi người mua mà người mua chẳng hề hay biết.
Mới đây tại Việt Nam, có một anh chàng
đi mua lúa tại tỉnh Kiên Giang, đã mày mò chế tạo ra một
chiếc cân với bộ phận điều khiển từ xa. Anh ta chỉ cần đứng
ở đâu đó và nhấn nút một phát là chiếc cân tăng giảm theo ý
muốn của mình. Quả là quỉ khóc thần sầu.
Chẳng hạn những người thầu khoán, giúp
cho bàn dân thiên hạ xây dựng nhà cửa để có một nơi cư trú
vừa ấm cúng lại vừa khang trang đẹp mắt, thế nhưng cũng vì
lòng tham, nên đã bớt cừ trong lúc đóng móng, đã bớt sắt
trong lúc đổ đà…khiến cho ngôi nhà chưa hoàn tất đã bị
nghiêng đổ, hay mới sử dụng được ít ngày, đã bị sụp lún và
nứt nẻ tùm lum khiến cho khổ chủ mặt mũi buồn xo !
Hầu như trong bất cứ ngành nghề nào,
người ta cũng đều có thể lươn lẹo và luồn lách, gian dối và
xảo trá để vơ vét về cho đầy lòng tham của mình. Nhưng khốn
nỗi, lòng tham của người ta lại thường vô đáy, nên biết thế
nào mà lấp cho đầy.
Có người nước Sở làm nghề vừa bán mộc,
lại vừa bán giáo. Ai hỏi mua mộc, thì anh ta khoe:
- Mộc này thật chắc, không gì đâm
thủng.
Còn ai hỏi mua giáo, thì anh ta to
miệng quảng cáo :
- Giáo này thật sắc, đâm cái gì cũng
thủng.
Nghe vậy, người ta bèn hỏi :
- Thế bây giờ lấy giáo của bác đâm vào
mộc của bác thì sao ?
Và thế là anh ta tịt ngòi.
Tác giả sách Cổ Học Tinh Hoa bèn góp
lời bàn như sau :
“Chẳng qua vì mối lợi mà thành ra nói
dối. Thế nhưng khi bị người ta hỏi đến lẽ, thì liền không
đối đáp được nữa.
Có khác gì kẻ đem tượng gỗ ra chợ bán
và khoe rằng :
- Ai mua tượng về nhà thì được giàu
sang.
Đến lúc có người bắt bẻ :
- Sao bác không để ở nhà cho được giàu
sang, mà lại mang ra chợ bán làm gì ?
Lập tức tắt khẩu, mà đành vác tượng ra
về”.
Vắt tay lên trán mà suy gẫm chuyện đời,
lắm người đã phải dài hơi than thở cả tiếng :
- Có những nghề thấp đã nuôi dưỡng
những nhân cách lớn và ngược lại nhiều nhân cách tồi lại ngự
trị trong những nghề cao.
Nghe xong lời phát biểu trên, gã bèn vỗ
đùi đánh đét một cái và nói :
- Thật là tuyệt vời, tuyệt vời !
Rất nhiều lần khi đọc những bài phóng
sự về những phu hốt rác, những phu quét đường, hay những
người thông ống cống thành phố…gã đã phải khẩu phục tâm phục
những người phu, những người thợ này. Nghề của họ thật khiêm
tốn, nhưng nhân cách của họ lại thật cao. Họ chẳng gian
tham, chẳng mánh mung, nhưng âm thầm làm việc khi mọi người
đang ngủ yên, hay chui rúc dưới những đường cống tăm tối và
hôi thối, cốt để phục vụ dân phố và đem lại những thoải mái
cho mọi người.
Trái lại, thực là vô phúc và đại họa
khi những kẻ có nhân cách tồi lại chễm chệ ngự trị trong
những nghề cao.
Chẳng hạn như những ông tổng thống,
những ông bộ trưởng, những ông giám đốc…Nhãn hiệu trình tòa
của họ thật là đẹp, nhưng nhân cách của họ lại tồi vì bị
lòng tham lôi kéo và thúc đẩy, khiến họ đã nuốt trửng hàng
trăm, hàng ngàn tỷ đồng mà vẫn cứ phây phây, làm cho đất
nước đã nghèo lại càng nghèo hơn.
Vì thế, yếu tố con người bao giờ cũng
vẫn là yếu tố căn bản và đi hàng đầu. Nếu con người mà đã
hỏng, thì mọi lãnh vực khác cũng sẽ bị sụm bà chè.
Trong phạm vi nghề nghiệp cũng vậy :
- Chẳng có nghề hèn, mà chỉ có kẻ hèn.
Ở Hàng Châu có người bán các thứ trái
cây, khéo để dành cam, lâu mà không ủng, vỏ vẫn đỏ hồng,
trông đẹp như vàng, như ngọc đem ra chợ bán giá đắt, mà
người ta tranh nhau mua. Ta cũng mua một quả. Đem về bóc ra,
hơi xông lên mũi, múi xác như bông nát. Ta liền đem ra chợ
hỏi người bán cam :
- Anh bán cam cho người ta để làm của
cúng lễ, đãi khách khứa hay là chỉ làm cho choáng bề ngoài
để đánh lừa người ta ? Tệ thật ! Anh giả dối lắm.
Người bán cam cười và nói :
- Tôi làm nghề này đã lâu năm để kiếm
tiền nuôi thân, Tôi bán, người ta mua, chẳng ai nói gì, chỉ
có ông kêu ca ! Thiên hạ giả dối nhiều chẳng phải một mình
tôi ? Ông thật không chịu nghĩ đến nơi…Này thử xem, người
đeo hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng trông ra dáng quan võ lắm,
kỳ thực không biết có giỏi được như Tôn Tẩn, Ngô Khởi không
? Người đội mũ cao, đóng đai dài, đường hoàng trông ra dáng
quan văn lắm, nhưng kỳ thực không biết có giỏi được như Y
Doãn, Cao Dao không ? Giặc nổi không biết dẹp, dân khổ không
biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ
hỏng nát không biết sửa đổi, ngồi không ăn lương, không biết
xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu
ngon, ăn của quí, oai vệ, hách dịch vô cùng! Đó bề ngoài
chẳng như vàng, như ngọc, mà bề trong chẳng như bông nát là
gì ? Ông không chịu xét những hạng người ấy mà đi xét quả
cam của tôi !
Ta nghe nói, nín lặng, không trả lời
được ra làm sao. Ta nghĩ người ấy nói có giọng khôi hài. Dễ
chừng người ấy ghét kẻ gian tà, giận phường thế tục mới thác
ra truyện bán cam để dạy người đời chăng ?
Qua truyện trên, tác giả muốn lấy quả
cam đẹp vỏ, thối ruột mà châm chích cái hách dịch, cái oai
vệ bề ngoài của những bậc quan lớn một đời suy đốn, để phơi
bày cái thực chất bất tài, bất trí, bất dũng ở bên trong.
Nói rộng ra, bài này có ý dạy ta không
nên tin bề ngoài, cũng như những bài ngụ ngôn nói : Cái
thùng không, bông lúa lép, hay những câu ca dao :
- Trông em, anh ngỡ sao mai,
Biết rằng trong có như ngoài hay không
?
- Nhác trông ngỡ tượng tô vàng,
Nhìn ra mới biết chẩu chàng ngày mưa.
Không có nghề hèn, mà chỉ có kẻ hèn.
Chính kẻ hèn đã bôi tro trát trấu vào nghề nghiệp và làm cho
nghề nghiệp cũng trở nên hèn, như một câu danh ngôn đã bảo :
- Không phải nghề nghiệp làm danh giá
cho con người, mà chính con người làm danh giá cho nghề
nghiệp.
Viết tới đây, gã xin mượn lại một lần
nữa mẩu chuyện trong sách “Cổ Học Tinh Hoa”. Mẩu chuyện ấy
mang tựa đề là “Người bán thịt dê” :
Vua Chiêu Vương nước Sở bị mất nước,
phải bỏ chạy. Có người bán thịt dê tên là Duyệt, cũng chạy
theo vua.
Thời gian sau, vua Chiêu Vương trở về,
lấy lại được nước. Vua bèn thưởng cho những người chạy theo
mình khi trước, trong số đó có cả người bán thịt dê nữa.
Ai cũng nhận phần thưởng, chỉ một mình
người bán thịt dê từ chối và nói :
- Trước nhà vua mất nước, tôi mất nghề
bán thịt dê. Nay nhà vua còn nước, tôi còn nghề bán thịt dê.
Thế là tôi giữ được nghiệp cũ đủ ăn rồi, còn đâu dám mong
thưởng.
Vua cố ép. Người bán thịt dê thưa rằng
:
- Nhà vua mất nước không phải là tội
tôi, nên tôi không dám liều chết. Nhà vua lấy lại được nước,
không phải do công tôi, nên tôi không dám lĩnh thưởng.
Vua bảo :
- Để rồi ta đến nhà ngươi chơi vậy.
Người bán thịt dê nói :
- Theo phép nước Sở, phàm người nào có
công to, được trọng thưởng thì vua mới đến nhà. Nay tôi xét
mình tôi mưu trí không đủ giữ được nước, dũng cảm không đủ
giết được giặc. Quân giặc vào trong nước, tôi chạy đi lánh
nạn, phải theo nhà vua, chớ có phải là cốt ý theo nhà vua
đâu ! Nay nhà vua muốn bỏ phép nước đến chơi nhà tôi, e
thiên hạ nghe thấy lại chê cười chăng.
Chiêu Vương thấy nói, ngoảnh lại bảo Tư
Mã Tử Kỳ rằng :
- Người bán thịt dê này tuy làm nghề vi
tiện mà giãi bày nghĩa lý rất cao xa. Nhà ngươi làm thế nào
mời được người ấy ra nhận chức tam công cho ta.
Người bán thịt dê nghe thế bèn nói :
- Tôi biết chức tam công là quí hơn cửa
hàng bán thịt dê, bổng lộc nghìn vạn, giàu hơn tiền lãi bán
thịt dê. Nhưng tôi đâu dám tham tước lộc mà để nhà vua mang
tiếng là gia ơn không phải nghĩa. Tôi thực không dám nhận.
Xin cho về giữ lấy nghề bàn thịt dê.
Nói đoạn, người ấy lùi ra ngay.
Tác giả sách “Cổ Học Tinh Hoa” đã góp
thêm lời bàn như sau :
“Vua Chiêu Vương muốn thưởng, là lấy
cái ý khí mình gặp bước lưu vong mà người ta đi theo mình là
người ta có lòng trung thành với mình. Người bán thịt dê
không nhận thưởng là lấy cái nghĩa không đáng nhận, vì không
có công cán gì.
Nếu ai cũng biết an phận thủ thường,
quí trọng nghề nghiệp như người bán thịt dê, thì còn ai là
kẻ ham mê phú quí, quyền thế và sự thưởng phạt ở đời chẳng
là công minh lắm ru ! Thực đáng làm gương cho những kẻ không
biết liêm sỉ, tài năng công đức chẳng có gì mà cũng cố cày
cục, chạy chọt lấy chút phẩm hàm chức vụ để lòe đời vậy.”
Theo thiển ý của gã, nếu các vị tai to
mặt lớn mà không tham sân si, tiền của, bổng lộc, để cho tệ
nạn tham nhũng lộng lành, thì đất nước này đã phất lên từ
lâu.
Như vậy, chính lòng liêm khiết và tự
trọng của người chủ quán đã mang lại vinh quang cho nghề bán
thịt dê, một nghề xem ra rất tầm thường trong bất cứ xã hội
nào. Phải chăng câu chuyện này đã củng cố phần nào cho ý
tưởng gã đã trình bày ở trên, đó là không có nghề hèn, mà
chỉ có kẻ hèn.
Một câu chuyện khác cũng đáng cho
chúng ta suy nghĩ, đó là câu chuyện về Alfred Nobel.
Vào một buổi sáng năm 1888, Alfred
Nobel, người phát mình ra chất nổ và đang hái ra tiền như
nước, đã thức giấc trong sự bàng hoàng và sửng sốt : tất cả
báo chí trong ngày đều nói đến cái chết của ông vua chất nổ.
Thực ra, đây chỉ là sự lầm lẫn của một
ký giả nào đó, bởi vì không phải Alfred Nobel qua đời, mà là
người anh của ông. Thế nhưng, dù sao đây cũng là dịp để ông
đọc được cảm nghĩ của người khác đang có đối với ông.
Trên môi miệng mọi người, ông chỉ là
ông vua chất nổ, là người làm giàu trên cái chết của không
biết bao nhiêu sinh mạng. Người ta không hề nhắc tới những
nỗ lực của ông nhằm phá vỡ những hàng rào ngăn cách giữa các
dân tộc và các ý thức hệ. Không một ai đã nhắc đến những
kiến tạo hòa bình của ông cả.
Alfred Nobel buồn vô cùng vì hình ảnh
của một nhà kinh doanh trên sự chết chóc mà thiên hạ đang
nghĩ về mình. Ông quyết định làm cho cả thế giới biết lẽ
sống đích thực của ông. Với quyết tâm ấy, ông ngồi xuống bàn
làm việc và viết tờ chúc thư, trong đó ông đã dành tất cả
tài sản của mình để thiết lập nên một trong những giải
thưởng có giá trị nhất thế giới, đó là giải Nobel hòa bình,
nhằm tưởng thưởng cho tất cả những ai có công góp phần vào
việc xây dựng hòa bình trên thế giới.
Ngày nay, biệt hiệu của Alfred Nobel
không còn là vua chất nổ nữa, mà là vua hòa bình.
Và như vậy, không phải nghề nghiệp đã
làm danh giá cho con người, mà chính con người đã làm danh
giá cho nghề nghiệp.
Vì thế, chúng ta cần phải trao cho con
cái một nghề để nó có thể tự mình kiếm sống, bởi vì:
- Tay làm hàm nhai,
Tay quai miệng trễ.
- Có làm thời mới có ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Tuy nhiên, việc quan trọng hơn vẫn là
phải đào luyện chính con người của chúng, vì yếu tố con
người là yếu tố quyết định trong mọi lãnh vực. Chẳng thế mà
người xưa đã từng xác quyết:
- Nhất niên chi kế, thụ cốc.
Thập niên chi kế, thụ mộc.
Bách niên chi kế, thụ nhân.
Có nghĩa là :
- Kế trăm năm không gì bằng trồng lúa.
Kế mười năm không gì bằng trồng cây.
Kế trăm năm không gì bằng trồng người.
Bởi vì :
- Đẻ con chẳng dạy chẳng răn,
Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng.
Vậy thử hỏi chúng ta đã đầu tư thế nào
cho sứ mạng trồng người này ?
Trong phạm vi xã hội, ngân sách nhà
nước dành bao nhiêu phần trăm cho chi phí quốc phòng và bao
nhiêu phần trăm cho công việc giáo dục ?
Khi con người đã rệu rạo thì chắc chắn
xã hội sẽ tuột dốc, bất ổn sẽ xảy ra và người ta sẽ lại đổ
tiền nhiều hơn nữa để ổn định trật tự, cũng như tái lập hòa
bình. Quả là một cái vòng luẩn quẩn chết người, vì đã không
chịu “chữa tận căn”.
Con người là gốc rễ. Gốc rễ đã thối,
thì dù có bón bao nhiêu phân, xịt bao nhiêu thuốc dưỡng,
cũng chỉ là vô ích mà thôi.
Trong phạm vi gia đình, chúng ta đã
thực sự quan tâm và bắt tay vào việc giáo dục con cái chưa ?
Hay là chúng ta lại chủ trương trao phó cho ông trời, như
tục ngữ đã nói :
- Trời sinh voi, trời sinh cỏ.
- Cha mẹ sinh con, trời sinh tính.
Và cứ để mặc con cái lớn lên như một
loài cỏ dại.
Để kết thúc, gã xin chia sẻ như thế này
:
- Đối với con cái,
Để lại tiền của không bằng để lại
kiến thức.
Để lại kiến thức không bằng để lại
nghề nghiệp.
Để lại nghề nghiệp không bằng để lại
đức độ.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|