Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay
Gaudium Et Spes |
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Chương II
Cộng Ðoàn Nhân Loại
28. Kính trọng và yêu thương đối
thủ. Cũng phải kính trọng và yêu thương những
người không cùng một cảm nghĩ hoặc cùng một hành động với
chúng ta trong những vấn đề xã hội, chính trị hay cả tôn
giáo nữa. Thực vậy, càng lấy sự nhân ái và yêu thương mà tìm
hiểu sâu xa hơn những cách cảm nghĩ của họ, chúng ta càng dễ
dàng có thể đi tới đối thoại với họ hơn.
Thực ra,
đức ái và lòng nhân hậu này không bao giờ cho phép chúng ta
trở thành dửng dưng với điều chân và thiện. Hơn thế nữa,
chính đức ái thúc bách các môn đệ Chúa Kitô loan báo cho mọi
người chân lý cứu rỗi. Nhưng phải phân biệt lầm lỗi, điều
luôn luôn phải loại bỏ, với người lầm lỗi
32* vì những người lầm lỗi vẫn còn giữ được nhân
phẩm, ngay cả khi họ có những ý niệm sai lầm hoặc hơi lệch
lạc về tôn giáo
10. Chỉ có mình Thiên Chúa là quan tòa và là Ðấng
thấu suốt mọi tâm hồn: bởi vậy Ngài ngăn cấm chúng ta xét
đoán tội lỗi bên trong của bất cứ người nào
11.
Giáo lý của
Chúa Kitô cũng đòi chúng ta phải tha thứ những xúc phạm và
giáo lý ấy nới rộng giới răn yêu thương đối với tất cả kẻ
thù, đó chính là giới răn trong Luật Mới: "Các ngươi có nghe
lời truyền dạy hãy thương yêu thân nhân mà ghét thù địch
mình. Còn Ta, Ta dạy các ngươi: hãy thương yêu kẻ thù nghịch
mình, cứ làm ơn cho kẻ ghét mình, lại cầu nguyện cho những
người bắt bớ vu vạ cho ngươi nữa" (Mt 5, 43-44)
12.
29. Bình đẳng căn bản giữa mọi
người với nhau và công bình xã hội. Càng ngày
càng phải nhận thức sự bình đẳng căn bản giữa mọi người hơn,
bởi vì mọi người đều có một tâm linh và được dựng nên giống
hình ảnh Thiên Chúa nên có cùng một bản tính và cùng một
nguồn gốc, hơn nữa vì được Chúa Kitô cứu chuộc nên họ đều
được mời gọi như nhau và cùng hưởng chung một cùng đích nơi
Thiên Chúa.
Dĩ nhiên
mọi người không bằng nhau vì không có khả năng thể chất như
nhau và những năng lực trí tuệ và tinh thần như nhau. Tuy
nhiên phải vượt lên trên và loại bỏ mọi hình thức kỳ thị về
những quyền lợi căn bản của con người, hoặc trong phạm vi xã
hội hoặc trong phạm vi văn hóa, kỳ thị vì phái tính, chủng
tộc, màu da, địa vị xã hội, ngôn ngữ hay tôn giáo, vì như
vậy là trái với ý định của Thiên Chúa. Do đó thực đáng buồn
khi những quyền lợi căn bản của nhân vị cho đến nay vẫn chưa
được bảo đảm toàn vẹn ở mọi nơi. Thí dụ người ta không nhìn
nhận phụ nữ có quyền tự do chọn lựa người chồng hay quyền tự
do chọn bậc sống, hoặc quyền được giáo dục và có văn hóa như
nam giới
33*.
Hơn nữa, dù
có những khác biệt chính đáng giữa con người với nhau, tuy
nhiên nhân phẩm như nhau của mọi người cũng đòi hỏi người ta
phải tiến tới mức sống nhân đạo hơn và xứng hợp với con
người hơn. Thực vậy, những chênh lệch quá đáng về kinh tế và
xã hội giữa những thành phần hay giữa những dân tộc trong
cùng một gia đình nhân loại thực là những gương xấu và đi
ngược với công bằng xã hội, lẽ phải,
34* nhân phẩm và nền hòa bình xã hội cũng như quốc
tế.
Còn các tổ
chức của con người hoặc tư hoặc công hãy nỗ lực phục vụ phẩm
giá cũng như cứu cánh của con người, đồng thời hãy mạnh mẽ
chống lại bất cứ hình thức nô lệ nào trên phương diện xã hội
hay chính trị và bảo vệ những quyền lợi căn bản của con
người trong trong bất cứ một chính thể nào. Hơn nữa, các tổ
chức ấy còn phải dần dần phù hợp với những việc thiêng liêng
là những việc cao cả hơn hết, dù đôi khi phải trải qua một
thời gian khá lâu để đạt tới mục đích hằng mong mỏi đó.
30. Cần phải vượt ra khỏi thứ luân
lý cá nhân chủ nghĩa. Hoàn cảnh biến đổi sâu
rộng và nhanh chóng đòi hỏi cấp bách đừng ai chủ trương một
thứ luân lý duy cá nhân mà không lưu tâm hoặc không màng chi
tới diễn tiến thời cuộc
35*. Bổn phận công bình và bác ái được chu toàn
mỗi ngày một hơn là do mỗi người biết, tùy theo những khả
năng của mình và nhu cầu của kẻ khác mà mưu ích chung, bằng
cách cổ võ và trợ giúp những tổ chức công hay tư nhằm cải
thiện những điều kiện sống của con người. Lại có những người
ngoài miệng thì chủ trương rộng rãi và đại lượng, mà thực tế
họ luôn luôn sống như chẳng quan tâm gì tới những nhu cầu
của xã hội. Hơn nữa tại nhiều nơi có nhiều người còn coi
thường các luật lệ và những qui định của xã hội. Một số
người không ngần ngại dùng những hình thức gian lận và lừa
đảo để trốn những thuế vụ chính đáng hoặc trốn tránh những
gì xã hội đòi buộc. Có người lại coi nhẹ một số luật lệ
trong cuộc sống xã hội, chẳng hạn những luật lệ liên hệ tới
việc bảo vệ sức khoẻ, hoặc việc xe cộ lưu thông, bởi vì họ
không nhận thức được rằng do bất cẩn như thế sẽ gây nguy
hiểm cho tính mạng của họ và của những người khác.
Mỗi người
đều phải nhìn nhận và tôn trọng những liên đới xã hội như
một trong những nghĩa vụ chính yếu của con người thời nay.
Bởi vì thế giới càng hợp nhất thì hiển nhiên những bổn phận
của con người càng vượt trên những nhóm riêng rẽ hơn và dần
dần sẽ lan rộng tới toàn thế giới. Ðiều ấy chỉ thể hiện được
một khi mỗi người và mỗi cộng đoàn trau dồi nơi chính họ
những đức tính luân lý và xã hội, đồng thời đem những đức
tính ấy gieo rắc ngoài xã hội. Như vậy, với sự trợ giúp cần
thiết của ơn thánh Chúa sẽ có những con người thật sự mới và
là những người kiến tạo một nhân loại mới.
31. Trách nhiệm và tham gia.
Ðể mỗi người chu toàn một cách cẩn thận hơn nghĩa vụ của họ
đối với mình hay đối với những cộng đoàn mà họ là thành
phần, thì với những phương thế phong phú của nhân loại ngày
nay, họ phải được giáo dục chu đáo để có văn hóa sâu rộng
hơn. Trước hết cần phải tổ chức việc giáo dục những người
trẻ thuộc bất cứ thành phần nào trong xã hội, làm sao để đào
tạo được những người nam và nữ không những tài giỏi về văn
hóa mà còn có một tâm hồn cao thượng, bởi vì thời đại chúng
ta đang khẩn thiết đòi phải có những người như vậy.
Nhưng con
người khó mà nắm được ý nghĩa trách nhiệm này nếu những hoàn
cảnh sinh sống không cho phép họ ý thức về phẩm giá của mình
cũng như không cho phép họ đáp lại sứ mệnh của mình bằng
cách hiến thân phục vụ Thiên Chúa và người khác. Ngoài ra,
sự tự do của con người nhiều lúc suy giảm đi, một khi con
người rơi vào cảnh quá cùng cực, cũng như tự do ấy bị hạ giá
một khi buông thả theo những dễ dãi quá mức trong cuộc sống,
con người dường như tự khép mình trong thứ lâu đài cô đơn
ngà ngọc. Trái lại tự do ấy được củng cố khi con người chấp
nhận những ràng buộc không thể tránh được trong cuộc sống xã
hội, coi những nhu cầu muôn mặt của tình liên đới nhân loại
là của mình và tự buộc mình phải phục vụ cho cộng đoàn nhân
loại.
Vì thế,
thiện chí muốn góp phần vào những công việc chung cần được
cổ võ nơi mọi người. Ngoài ra phải ca tụng đường lối của
những quốc gia đang để cho càng đông công dân càng tốt được
tham gia việc nước trong sự tự do đích thực. Tuy nhiên cần
phải lưu ý tới hoàn cảnh thực tế của mỗi dân tộc cũng như
tới uy quyền cần thiết của quyền bính quốc gia. Hơn nữa, để
mọi công dân phấn khởi tham dự vào cuộc sống của các đoàn
thể tạo nên cơ cấu xã hội, thì họ cần phải tìm được trong
những tổ chức ấy, những lợi ích lôi cuốn họ và giúp họ sẵn
sàng phục vụ người khác. Chúng ta có thể nghĩ một cách hợp
lý rằng số phận mai sau của nhân loại nằm trong tay những
người có khả năng trao cho hậu thế những lý do để sống và để
hy vọng.
32. Ngôi Lời Nhập Thể và tình liên
đới nhân loại. Thiên Chúa đã dựng nên con
người không phải để sống riêng rẽ nhưng để tạo nên sự liên
kết xã hội. Cũng thế "... Thiên Chúa không muốn thánh hóa và
cứu rỗi loài người cách riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng Ngài
muốn qui tụ họ thành một dân tộc để họ nhận biết chính Ngài
trong chân lý và phụng sự Ngài trong thánh thiện"
13. Ngay từ khởi đầu lịch sử cứu rỗi chính Ngài đã
chọn con người, không phải với tính cách như những cá nhân,
nhưng như những phần tử của một cộng đoàn. Thực thế, trong
khi Thiên Chúa biểu lộ ý định của Ngài, Ngài cũng đã gọi
những người được chọn là "dân Ngài" (Xac 3,7-12), hơn nữa
còn ký kết giao ước với dân ấy tại Sinai
14.
Tính chất
cộng đoàn này nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô được kiện
toàn và hoàn tất. Chính Ngôi Lời Nhập Thể đã muốn chia sẻ
tình liên đới nhân loại. Người đã hiện diện tại tiệc cưới
Cana, đã vào nhà Giakêu, đã ăn uống với những người thu thuế
và những người tội lỗi. Người đã mạc khải tình yêu thương
của Chúa Cha và sứ mệnh cao cả của con người, khi Người nhắc
tới những điều hết sức thông thường trong xã hội và dùng
những kiểu nói cũng như những hình ảnh hoàn toàn thuộc cuộc
sống thường nhật. Tự ý tuân phục những luật lệ trong quốc
gia Người, Người đã thánh hóa những mối liên hệ của con
người, nhất là những liên hệ thuộc về gia đình là nguồn gốc
phát sinh những liên hệ xã hội. Người đã muốn sống cuộc sống
của những thợ thuyền với người đương thời nơi quê hương
Người.
Trong khi
rao giảng, Người đã truyền dạy rõ ràng cho con cái Thiên
Chúa phải cư xử với nhau như anh em. Lúc cầu nguyện, Người
đã xin cho tất cả các môn đệ Người được nên "một". Hơn nữa,
là Ðấng Cứu Chuộc mọi người, chính Người đã tự hiến thân
chết cho mọi người. "Chẳng ai có lòng thương yêu hơn kẻ liều
mạng sống mình vì bạn hữu" (Gio 15,13). Người còn ra lệnh
cho các Tông Ðồ rao giảng sứ điệp Phúc Âm cho muôn dân để
nhân loại trở nên gia đình của Thiên Chúa, trong đó sự sung
mãn của lề luật chính là đức ái.
Là trưởng
tử của một đoàn anh em đông đúc, sau khi chết và sống lại,
Người đã thiết lập nhờ hồng ân của Thánh Thần Người một sự
kết hiệp huynh đệ mới giữa tất cả những kẻ đón nhận Người
với đức tin và đức ái trong chính Thân Thể của Người tức là
Giáo Hội, ở đấy mọi người là chi thể với nhau, tùy theo
những ơn đã lãnh nhận mà phục vụ lẫn nhau.
Tình liên
đới này cần phải được gia tăng luôn mãi cho tới ngày nó được
hoàn tất, và ngày đó nhờ được ơn thánh cứu thoát, loài người
như một gia đình được Thiên Chúa và Chúa Kitô là Anh yêu
thương, sẽ dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng toàn hảo.
Chú
Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo
trước)
33* Ðây chỉ là một thí
dụ về việc kỳ thị căn cứ vào giới tính.
Trong xã hội thấm nhuần văn minh Nho Giáo và Phật Giáo, sự
kỳ thị này có ít hay nhiều, tùy trường hợp (coi sau này: số
60c).
34*
Ðức công bằng giúp ta trả cho mọi người của riêng họ. Từ xưa
đã có thói quen phân biệt công bằng giao hoán đối với từng
phần tử xã hội, giúp mỗi người trao trả cho người khác tất
cả những gì mà kẻ ấy có quyền đòi hỏi; công bằng pháp lý đối
với chính cộng đoàn xã hội, khiến mọi cá nhân hoạt động theo
những đòi hỏi của ích chung; công bằng phân phối của xã hội
(nhờ các đại diện của xã hội) đối với mọi phần tử cộng đoàn,
thúc đẩy xã hội phân chia nhiệm vụ cũng như quyền lợi giữa
phần tử của cộng đoàn một các chính đáng. Theo văn kiên của
Tòa Thánh (Ðức Piô XI và XII): công bằng xã hội phải được
hiểu như công bằng pháp lý tổng quát, nghĩa là nhân đức
khiến mọi phần tử của xã hội thực hiện mọi nhân đức khác mỗi
khi ích chung đòi hỏi như vậy (theo như Thánh Tôma dạy,
II-II, q. 58, a a. 5-7 (x. Calvez-Perrin, Eglise et Société
économique. L?Enseignement social des Papes de Léon XIII à
Pie XII, Paris 1959, trg 192-203 và 543-567).
"Aequitas" (lẽ phải) là danh từ có nghĩa gần
giống danh từ công bằng, nhưng phong phú hơn: không chỉ dựa
trên nguyên tắc pháp lý để giải quyết một vấn đề, mà còn cố
gắng cân nhắc các hoàn cảnh chủ quan cũng như khách quan. Sự
trọng tài giữa người phá hoại và nạn nhân có lẽ không thỏa
mãn đòi hỏi của nguyên tắc công bằng giao hoán, nhưng trong
hoàn cảnh thực tế rất có thể là giải pháp tốt nhất: thích
hợp cho con người.
35* Phải chăng đây là
điều hơi lạ khi Công Ðồng chỉ nêu ra lý do nhất thời của
những xu hướng hiện đại? Nếu con người có bản tính xã hội
(Công Ðồng đã xác nhận điều này ở trên, số 24-25), phải
chăng con người không thể chỉ hoạt động tuân theo một luân
lý cá nhân? Ngoài ra, đức tin lại không nhấn mạnh rằng đức
bác ái là trên hết hay sao? ... Tố cáo Giáo Hội chỉ mới bắt
đầu lưu tâm đến các vấn đề xã hội từ cuối thế kỷ 19, nghĩa
là sau cuộc cách mạng kỹ thuật và theo sau các phong trào xã
hội chủ nghĩa, tố cáo như thế chỉ là không biết lịch sử mà
thôi (ví dụ như từ trong CvTđ 2, 44-45; 4,32-35 đến các nhà
Dòng chuyên lo chuộc lại những người bị tù hay chuyên săn
sóc bệnh nhân v.v...). Nhưng đàng khác không thể phủ nhận
được rằng những triết thuyết từ thời cải cách tin lành trở
đi đã ảnh hưởng tới quan niệm tôn giáo rất nhiều đến nỗi có
nhiều tín hữu đạo đức trong các bổn phận cá nhân mà lại
không biết tôn trọng công bằng và bác ái xã hội chút nào.
"Tôi không giết người, không cướp của người" là những câu
năng được nghe và chúng đã tỏ lộ thứ quan niệm ấy. Thế thì
làm thiệt hại cho tha nhân, không kính trọng quyền lợi của
tha nhân không phải là cách giết và cướp của người ta hay
sao? Ngoài ra họ có lo gì cho những đòi hỏi của ích chung
không?... Vả lại trước đây trong các lớp dạy giáo lý và luân
lý thần học cũng gần như chỉ biết nhấn mạnh thái độ cá nhân
về các bổn phận luân lý. Dạy về bổn phận cá nhân đối với cá
nhân tương đối là dễ; trái lại dạy về bổn phận đối với tha
nhân vô danh và đối với ích chung thì khó. Chắc chắn là cần
phải nhấn mạnh đến các nguyên tắc và đào tạo lương tâm của
mọi giáo dân để họ trưởng thành và biết tự xét đoán mọi hoàn
cảnh, hơn là tiếp tục để cho họ chỉ biết hoạt động theo
những giải quyết từng chi tiết của các giáo sĩ. Số 31 phác
họa một chương trình căn bản về việc giáo dục xã hội.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
Xin Hiệp thông cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam |
HỌP BAN THƯỜNG VỤ
(MỞ RỘNG)
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
VIỆT NAM
Ngày 20-6-2007 vừa qua, tại Trung tâm
Công giáo số 72/12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3, Tp.HCM đã diễn
ra buổi họp Ban thường vụ mở rộng của Hội đồng Giám mục Việt
Nam. Tham dự buổi họp có Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa chủ
tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, Đức Hồng y G.B Phạm Minh
Mẫn phó chủ tịch, Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt phó
Tổng Thư ký thay Đức cha Tổng Thư ký Phêrô Nguyễn Soạn bị
đau. Ngoài ra có còn sự hiện diện của Đức cha Phêrô Nguyễn
Văn Nhơn, Phaolô Bùi Văn Đọc, Giuse Vũ Duy Thống, Stêphanô
Tri Bửu Thiên, Phêrô Nguyễn Văn Đệ, Giuse Võ Đức Minh, Giuse
Châu Ngọc Tri, Giuse Hoàng Văn Tiệm, Antôn Vũ Huy Chương,
Phaolô Nguyễn Văn Hoan, Giuse Nguyễn Văn Yến (phụ trách Ban
Bác ái Xã hội các giáo phận miền Bắc) và hai cha thư ký
Phêrô Phan Xuân Thanh (Huế) và Antôn Nguyễn Ngọc Sơn (Tp.Hồ
Chí Minh).
Đúng 8 giờ sáng, sau lời Kinh khai mạc của Đức cha chủ tịch,
các Uỷ ban bắt đầu báo cáo công việc của mình trong 8 tháng
qua. Văn phòng Thư ký Hội đồng Giám mục cũng báo cáo tổng
kết các công tác như liên lạc, nghiên cứu, in các bộ sách
mới nhất là Bộ Giáo luật 1983 với phần mục lục phân tích chủ
đề rất công phu dành cho mọi thành phần dân Chúa.
Sau phần báo cáo tổng kết, Đức cha Giuse Vũ Duy Thống trình
bày phác thảo bố cục nội dung Thư Chung 2008 với chủ đề
“Giáo dục Kitô giáo”..
Hội nghị cũng bàn việc chuẩn bị cho Đại hội Thường niên của
Hội đồng Giám mục Việt Nam sẽ được tổ chức ở Hà Nội từ ngày
08-12/10 với những nội dung quan trọng:
- Bầu lại nhân sự Ban Thường Vụ và các Uỷ ban.
- Bàn về mối tương quan giữa các Hội đồng Giám mục, nhất là
các Hội đồng Giám mục trong vùng Đông Nam Á và dự tính mời
đại biểu Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ sang thăm Việt Nam.
- Bàn cơ cấu Hội đồng Giám mục: hoàn thiện Quy chế Hội đồng
Giám mục và tìm ra một Tổng thư ký không phải là Giám mục để
có nhiều thời gian, toàn tâm toàn ý điều hành công việc. Bên
cạnh đó chuẩn bị tìm phát ngôn viên chính thức của Hội đồng
Giám mục nhằm tăng cường cho Tổng Văn phòng Thư ký.
- Bàn về chương trình dài hạn của Hội đồng Giám mục với các
dự án La Vang (Huế), Toà Khâm sứ (Hà Nội) và Giáo hoàng viện
(Đà Lạt).
- Hội nghị cũng thấy cần lập thêm Uỷ ban Giáo dục chuyên lo
về Giáo dục Kitô giáo cho Hội đồng Giám mục.
- Ban Thường vụ xin Uỷ ban Bác ái Xã hội theo dõi các hoạt
động thời sự, tình hình xã hội để giúp cho Hội đồng Giám mục
có thể lên tiếng trước những vấn đề xã hội.
- Uỷ ban Bác ái Xã hội đang hoàn thành bản thảo và sẽ xuất
bản quyển Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo để giúp
cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân vấn đề về xã hội.
- Năm 2010 là năm kỷ niệm 50 năm thành lập hàng giáo phẩm
tại Việt Nam. Hội đồng Giám mục Việt Nam dự tính tổ chức
Synode (Công đồng) để tổng kết hoạt động trong 50 năm qua và
đề ra bước tiến mới cho Giáo hội Việt Nam. Synode sẽ có sự
tham gia của mọi thành phần Dân Chúa.
- Văn phòng Thư ký giới thiệu với các Giám mục “Kế hoạch
phát triển Giáo hội Việt Nam từ 2008-2010 và mở rộng tới năm
2020 qua các tài liệu nghiên cứu.
- Bên cạnh đó Ban Thường vụ cũng bàn về một số vấn đề khác:
vấn đề cha Nguyễn văn Lý, lập các chương trình kế hoạch đào
tạo cho chủng sinh, các thành phần dân Chúa tham dự trong
những hội nghị của Hội đồng Giám mục, vấn đề truyền giáo và
giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số…
Buổi họp Ban Thường vụ mở rộng kết thúc vào lúc 14 giờ cùng
ngày. Sau đó các Giám mục dùng bữa cơm thân mật tại trung
tâm Công giáo.
Nguồn: VPTK/HĐGMVN
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Việc Đào tạo chủng sinh
trong các Đại chủng
viện tại Việt Nam |
Kính thưa Quí Độc
giả GSVN
Đặc san GSVN rất trân trọng sự quan tâm của
Quí vị muốn biết thực sự việc Đào tạo chủng sinh trong các
Đại chủng viện tại Việt Nam như thế nào, giữa một hoàn cảnh
khá phức tạp và nhiều thách đố. Đặc biệt là hai chi tiết
đang được chú ý : Các chủng sinh có được giảng dạy về « Học
thuyết xã hội của Giáo hội » hay không ? Và ngược lại, bộ
môn được cán bộ nhà nước trực tiếp giảng dạy trong các ĐCV
như thế nào ?
Sau khi xin ý kiến của những Linh mục uy
tín, đã nhiều chục năm miệt mài với công việc đào tạo chủng
sinh trong cả 3 miền đất nước. GSVN xin chuyển đến quí Độc
giả một vài thông tin đáng tin cậy:
Chủng viện nào cũng dạy môn « Học thuyết xã
hội của Giáo Hội », còn việc áp dụng thì không luôn đuợc như
lòng mong muốn và đồng bộ như nhau cho mọi nơi và mọi hoàn
cảnh.
Việc cán bộ nhà nước vào dạy môn "Công dân
giáo dục" cho chủng sinh là sự thật, nhưng không gây trở
ngại nhiều. Nhất là chúng ta hoàn toàn có thể tín nhiệm vào
sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, cộng với sự trưởng
thành của các chủng sinh (mà hầu hết đã phải sống thời gian
“tiền chủng viện” hàng chục năm…)
Các Đức Giám Mục và các Ban đào tạo luôn
cố gắng hết sức để có thể chu toàn trách nhiệm của mình dù
trong hoàn cảnh khó khăn hay thuận lợi.
Việc đào tạo chủng sinh tại Việt Nam hiện
nay, có nhiều khó khăn như thiếu nhân sự (giáo sư), thiếu cơ
sở vật chất do số lượng chủng sinh tăng, và rất cần được xã
hội chấp nhận đổi mới hơn nữa trong các cơ chế hiện hành.
GSVN xin trích một đọan trong cuốn
"Đào Tạo và Tự Đào Tạo Thiêng Liêng Của Các Linh Mục Tương
Lai Trong Bối Cảnh Việt Nam Ngày Nay"
Nguyên bản tiếng Anh của Lm. Micae-Phaolô
TRẦN MINH HUY, Xuân Bích.
Bản dịch Việt ngữ của Lm. Vincentê Trần
Minh Thực, Lm. Gioan Baotixita Nguyễn văn Hào, Ứng viên
Xuân Bích.
Tác phẩm này đã được Xuất bản bởi Học
Viện Đời Sống Thánh Hiến tại Á Châu
Institute for Consecrated Life in Asia (ICLA)
Quí độc giả có thể tham khảo trọn vẹn tác
phẩm tại
http://www.conggiaovietnam.net/
Hoặc cũng có thể yêu cầu GSVN gởi trực
tiếp qua email cho từng cá nhân.
Hội Nghị Các Đại Diện Chủng Viện Hai Năm Một Lần
1. Hoạt Động Của Các Đại Diện Tại Các Cuộc Họp
Dù có
nhiều khó khăn, việc đào tạo linh mục tại Việt Nam cho thấy
có nhiều hứa hẹn. Các cấp chính quyền đã cho phép các đại
diện thường trú của sáu đại chủng viện được tổ chức họp mặt
hai năm một lần, luân phiên tại sáu đại chủng viện. Các cấp
chính quyền cho những cuộc họp mặt này một tầm quan trọng
đặc biệt khi nhận ra rằng các chủng viện đang đào tạo những
nhà lãnh đạo tương lai cho Giáo Hội.
Trong
những cuộc họp mặt này, các vị đại diện chủng viện nhìn lại
những gì đã diễn ra qua việc xem xét những báo cáo thường
niên của mỗi chủng viện. Các ngài suy nghĩ và thảo luận về
một trong bốn chiều kích của Pastores Dabo Vobis (nhân bản,
thiêng liêng, tri thức và mục vụ). Các tham dự viên cũng
chia sẻ một số những khó khăn mà các ngài trải nghiệm trong
những khía cạnh khác nhau của việc đào tạo tại chủng viện.
Qua những chia sẻ và những tương tác như thế, các ngài nâng
đỡ và khích lệ lẫn nhau trong sứ vụ khó khăn này. Sau những
cuộc họp mặt này, các nhà đào tạo nắm bắt và lượng định một
cách rõ ràng hơn những nhu cầu cụ thể của việc đào tạo ở
chủng viện đối với mỗi Giáo Hội địa phương. Những nhu cầu
này sẽ được ưu tiên tuỳ theo mức độ cấp thiết.
2. Đề Nghị của Các Đại Diện Đối Với Chính Quyền
Trong
những cuộc họp mặt này, một phái đoàn của Ban Tôn Giáo Trung
Ương và Ban Tôn Giáo tỉnh tới thăm và nói chuyện với các
tham dự viên. Các tham dự viên trình bày cho phái đoàn này
những kiến nghị. Những kiến nghị đó bao gồm:
giảm thời gian dành cho môn giáo
dục công dân, xoá bỏ việc hạn chế con số các ứng viên vào
chủng viện, và xoá bỏ việc thẩm tra lý lịch những chủng sinh
tốt nghiệp chủng viện.
Các ngài
cũng trình bày với phái đoàn của chính quyền một số đề xuất
như: mỗi giáo phận được phép mở một nhà đào tạo tiền chủng
viện; các giáo phận được phép tuyển lựa các ứng viên hằng
năm thay vì hai năm một lần; có thêm một năm nữa cho tiến
trình đào tạo tại chủng viện để dành cho việc thực tập mục
vụ; cuộc họp mặt các nhà đào tạo mở rộng ra với cả đội ngũ
giảng dạy không thường trú tại chủng viện;
xoá bỏ việc những ai tới dạy
chủng viện phải được chính quyền chấp thuận trước; và các
linh mục và những vị dạy tại chủng viện được theo học những
khoá dài hạn hoặc cập nhật ở ngoại quốc.
Các ngài cũng bày tỏ hy vọng thường xuyên nhận được các tài
liệu của Toà Thánh; rằng thủ tục nhập cảnh sách vở và báo
chí dùng trong chủng viện được đơn giản hoá.
Các ngài cũng quan tâm lo lắng về sự trì hoãn chấp thuận cho
mở phân hiệu của chủng viện Thành Phố Hồ Chí Minh, và
cần tạo nhiều điều kiện thuận lợi
để mời những người Việt Nam ở hải ngoại và các giáo viên
người nước ngoài tới dạy hoặc thuyết trình tại các chủng
viện.
3. Đề Nghị Của Các Đại Diện Với Lãnh Đạo Giáo Hội
Đối với
các vị lãnh đạo Giáo Hội, đại diện các chủng viện cũng trình
lên những mong đợi. Các ngài xin các Giám Mục làm cho toàn
thể mọi người Công giáo, đặc biệt là các cha xứ, ý thức được
rằng mọi thành phần Hội Thánh đều có trách nhiệm trong công
tác đào tạo các linh mục tương lai, bao gồm cả việc thực tập
mục vụ của các chủng sinh.
Nhu cầu
khẩn thiết hiện nay là cần nhiều nhà đào tạo chất lượng, và
nhu cầu cho các nhà đào tạo nâng cao kiến thức của mình qua
việc trao đổi giữa Giáo Hội Việt Nam với các Giáo Hội trong
khu vực, và bằng các cuộc hội thảo cũng như các khoá đào tạo
ngắn hạn, cũng được đề xuất.
GSVN
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT CÁI NHÌN MỚI
GIÁO XỨ LÀ
MỘT CỘNG ĐOÀN HIỆP THÔNG |
GIÁO XỨ
Chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ
loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài
biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác
trong một cộng đoàn, trong một xã hội. Về phương diện tôn
giáo, cộng đoàn đầu tiên, xã hội đầu tiên chúng ta sống với,
đó là gia đình, tiếp đến là giáo xứ. Vậy giáo xứ là gì ?
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đưa ra
một định nghĩa như sau :
“Giáo xứ là nơi thông thường cho tín
hữu qui tụ lại để được lớn lên trong đức tin, để sống màu
nhiệm hiệp thông Giáo hội và tham gia vào sứ mạng của Giáo
hội.” (Ecclesia in Asia số 25).
Vậy chúng ta phải sống tinh thần hiệp
thông trong giáo xứ như thế nào, hay nói cách khác, chúng ta
phải làm gì để giáo xứ trở thành một cộng đoàn hiệp thông ?
CHỦ CHĂN HIỆP THÔNG
VỚI GIÁO DÂN
Như chúng ta đã biết : giáo xứ là một
cộng đoàn, là một xã hội vì thế phải có những người đứng
đầu, những vị lãnh đạo. Người đứng đầu và lãnh đạo trong
giáo xứ thường là các linh mục, chúng ta gọi chung bằng một
danh từ đó là những vị chủ chăn. Để tạo được một bàu khí
hiệp thông, những vị chủ chăn cần lưu ý tới một số điểm sau
đây :
- Tinh thần phục vụ :
Hẳn chúng ta còn nhớ, trong Phúc âm có
lần Chúa Giêsu đã xác quyết với các môn đệ : “Ai muốn làm
lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai
muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”. (Mt
20,26-28). Vì thế, mọi chức vụ trong Giáo hội là để phục vụ,
kể cả chức vụ Linh mục :
“Các chủ chăn trong Giáo hội noi gương
Chúa phải phục vụ lẫn nhau và phục vụ các tín hữu khác.” (GH
số 32).
“Giáo dân cũng có quyền được các chủ
chăn có chức thánh ban phát dồi dào các ơn trợ lực chứa đựng
trong các kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, đặc biệt là
Lời Thiên Chúa và các bí tích.” (GH số 37).
- Tinh thần cha con.
Tinh thần phục vụ này được biểu lộ
trong mối liên hệ cha-con giữa các chủ chăn và các tín hữu
:
“Linh mục phải săn sóc các tín hữu như
những người cha trong Chúa Kitô, vì đã sinh họ cách thiêng
liêng nhờ phép Thánh tẩy và giáo huấn (1Cor 5,15 và 1P
1,23). (GH số 28)
- Nêu gương cho đoàn chiên.
“Nêu gương cho đoàn chiên (1P 5,3),
Linh mục phải làm sao hướng dẫn và phục vụ cộng đoàn địa
phương của mìnnh để họ xứng đáng mang danh hiệu Giáo hội
Thiên Chúa (1Cor 1,2; 2Cor 1,1), là danh hiệu riêng biệt
của toàn thể dân Thiên Chúa, là dân duy nhất.
- Tinh thần cộng tác.
Để tạo được một sự cộng tác chân thành,
các vị chủ chăn phải :
* Chấp nhận vai trò của giáo dân trong
cộng đoàn Dân Chúa :
“Phần các vị chủ chăn có chức thánh,
các ngài phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá và trách nhiệm
của giáo dân trong Giáo hội…” (GH số 37).
* Chấp nhận những ý kiến đóng góp :
“Các ngài nên sẵn sàng chấp nhận những
ý kiến khôn ngoan của họ.” (GHI số 37).
* Xem xét những khát vọng của họ để đưa
ra những chương trình mục vụ thích hợp :
“Với tinh thần cha con, các ngài hãy
cẩn thận xem xét, trong Chúa Kitô, những kế hoạch, thỉnh cầu
và khát vọng của họ.
* Giáo dân ngày nay tương đối đã trưởng
thành, chứ không còn thái độ “gọi dạ bảo vâng”, vì thế chủ
chăn cần phải tôn trọng sự tự do :
“Đàng khác, chủ chăn phải nhìn nhận và
tôn trọng sự tự do chính đáng của mọi người trong lãnh vực
trần thế.” (GH số 37).
Đặc biệt phải tín nhiệm họ và trao cho
họ những công việc cụ thể cần phải làm :
“Các ngài nên tin cẩn giao cho họ những
công tác để họ phục vụ Giáo hội, cho họ tự do và quyền hạn
để hành động. Hơn nữa, các ngài cũng nên khuyến khích họ tự
đảm lấy trách nhiệm.” (GH số 37)
- Những người cần được quan tâm.
Các chủ chăn cần tìm ra những phương
cách hữu hiệu để hướng dẫn mọi thành phần Dân Chúa, nhất là
người nghèo :
“Thế nên, các nghị phụ Thượng Hội Đồng
thúc giục các vị chủ chăn hãy nghĩ ra những phương cách mới
mẻ và hữu hiệu để chăn dắt các tín hữu, làm sao cho mỗi
người, nhất là người nghèo cảm nhận được mình là một thành
phần thực thụ của giáo xứ và của toàn thể Dân Chúa.”
(Ecclesia in Asia số 25).
* Tuy nhiên, các vị chủ chăn cũng nên
lưu tâm đến giới trẻ :
“Thượng Hội Đồng lưu ý đặc biệt hơn nữa
giới trẻ là thành phần mà giáo xứ cần phải tạo nhiều điều
kiện hơn để họ hiệp thông và cộng tác.” (Ecclesia in Asia số
25).
* Những người bỏ đạo :
“Như mục tử tốt lành, linh mục còn phải
đi tìm (Lc 15,4-7) những người đã lãnh nhận phép thanh tẩy
trong Giáo hội công giáo, nhưng đã xao lãng không lãnh nhận
các bí tích hay đã mất đức tin.” (GH số 28).
Đồng thời đặc biệt giúp đỡ những nhóm,
những cộng đoàn “nhỏ và đẹp” :
“Các nghị phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh
tới giá trị của các cộng đoàn Giáo hội cơ bản như một phương
thế hữu hiệu để đẩy mạnh sự hiệp thông và cộng tác trong các
giáo xứ và giáo phận như một lực lượng thực sự cho công
cuộc phúc âm hóa. Những tập thể này còn giúp các đoàn viên
Tin mừng trong tinh thần yêu thương huynh đệ và phục vụ, từ
đó trở thành điểm khởi hành vững chắc cho một xã hội mới,
biểu hiện một nền văn minh tình thương.” (Á Châu số 95).
GIÁO DÂN HIỆP THÔNG
VỚI CHỦ CHĂN.
Công đồng đã định nghĩa :
“Giáo dân là tất cả những Kitô hữu
không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Giáo hội công
nhận; nghĩa là những Kitô hữu đã được tháp nhập vào Thân thể
Chúa Kitô nhờ phép Thanh tẩy, đã trở nên dân Thiên Chúa và
tham dự vào chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa
Kitô theo cách thức của họ. Họ là những người đang thực hiện
sứ mệnh của toàn dân Kitô giáo trong Giáo hội và trên trần
gian theo phận vụ riêng của mình.” (GH số 31).
Là phần tử của Giáo hội, người giáo dân
cũng có bổn phận vào sự phát triển của Giáo hội : “mọi người
cùng góp phần vào công cuộc chung, tùy theo cách thức của
mình.” (GH số 30). Thực vậy, nét đặc sắc của người giáo dân
đó là họ sống giữa trần gian : Tính cách trần thế là tính
cách riêng biệt và đặc thù của giáo dân (GHI số 31). Họ đem
lại nhiều lợi ích cho Giáo hội : “Các chủ chăn của Dân thánh
biết rõ giáo dân giúp ích rất nhiều cho toàn thể Giáo hội.”
(GH số 30). Nhưng theo phương thế riêng của mình bởi vì họ
sống giữa lòng cuộc đời :
“Vì ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận
tìm kiếm nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và
xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần gian,
nghĩa là giữa tất cả cũng như trong từng công việc và bổn
phận trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia
đình và ngoài xã hội : tất cả những thứ đó dệt thành cuộc
sống của họ. Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ, để dưới sự hướng
dẫn của tinh thần Phúc âm, như men bên trong, họ thánh hóa
thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình…” (GH số
31).
“Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho
Giáo hội hiện diện và hoạt động nơi và trong những hoàn
cảnh mà nếu không có họ, thì Giáo hội sẽ không trở thành
muối của thế gian.” (GH số 33).
Họ làm chứng bằng chính cuộc sống cá
nhân và gia đình của họ :
“Công cuộc rao giảng Phúc âm đó, nghĩa
là sự loan báo Chúa Kitô bằng đời sống, chứng tá và lời nói,
mang một sắc thái và một hiệu quả đặc biệt vì được thể hiện
trong những hoàn cảnh chung của trần gian.” (GH số 35).
“Có một bậc sống rất giá trị để thể
hiện nhiệm vụ đó, bậc sống được một bí tích đặc biệt thánh
hóa, đó là đời sống hôn nhân và gia đình. Gia đình là môi
trường hoạt động và trường học tuyệt diệu cho việc tông đồ
giáo dân. Từ gia đình, Kitô giáo thấm nhập vào các tổ chức
cuộc sống và dần dần biến đổi các tổ chức ấy.” (GH số 35).
Như vậy, “trước mặt nhân loại, mỗi giáo
dân phải là chứng nhân của sự phục sinh và sự sống của Chúa
Giêsu, đồng thời là dấu hiệu của Thiên Chúa hằng sống. Tất
cả và mỗi người góp phần nuôi dưỡng thế giới bằng những hoa
trái thiêng liêng và truyền bá cho thế gian tinh thần của
những người nghèo khó, hiền lành và hiếu hòa, những người mà
Phúc âm Chúa đã tuyên bố là có phúc. Tóm lại, người Kitô hữu
hãy làm cho thế giới sống như linh hồn làm cho thân xác
sống.” (GH số 33).
Người giáo dân phải khéo léo tìm hiểu
sâu xa hơn chân lý Chúa mạc khải, để khả dĩ có thể hiệp
thông và giúp nhau nên thánh :
“Giáo dân phải giúp nhau sống đời thánh
thiện, nhờ những việc trần thế, để thế gian thấm nhuần tinh
thần Chúa Kitô và đạt đến cùng đích một cách hữu hiệu hơn
trong công lý, bác ái và hòa bình.” (GH số 36).
Đồng thời, họ còn có bổn phận phải liên
kết với chủ chăn. Như trong một thân thể, mỗi chi thể tuy
khác biệt những vẫn hiệp nhất để đem lại sức sống cho toàn
thân :
“Thực vậy, nếu Chúa phân biệt những
thừa tác viên có chức thánh với các thành phần khác của Dân
Thiên Chúa, thì sự phân chia này vẫn hàm chứa một sự hiệp
nhất, vì chủ chăn và các tín hữu khác liên kết với nhau do
những mối dây liên hệ chung.” (GH số 32).
“Phần các tín hữu phải sẵn lòng hợp tác
với các chủ chăn và những người giảng dạy.” (GH số 32).
“Giáo dân còn được mời gọi góp phần
trực tiếp bằng nhiều cách và công cuộc tông đồ của hàng giáo
phẩm.” (GH số 33).
Để sự cộng tác được tốt đẹp và mang lại
lợi ích, người giáo dân cần phải :
* Thẳng thắn trình bày những ý kiến xây
dựng của mình :
“Như con cái Thiên Chúa và như anh em
trong Chúa Kitô, họ cũng sẽ trình bày với các vị ấy những
nhu cầu và khát vọng của mình một cách tự do và tin cẩn. Nhờ
sự hiểu biết, khả năng chuyên môn và uy tín của họ, họ có
thể và đôi khi còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ mình về
những việc liên quan đến lợi ích của Giáo hội.
* Chấp nhận những quyết định của các vị
chủ chăn :
“Như mọi tín hữu khác, với tinh thần
vâng lời của người Kitô hữu, giáo dân cũng hãy mau mắn chấp
nhận những điều mà các chủ chăn có nhiệm vụ thánh đại diện
Chúa Kitô đã quyết định với tư cách những thày dạy và những
nhà lãnh đạo trong Giáo hội; làm như thế, họ đã theo gương
Chúa Kitô đấng đã vâng lời cho đến chết để mở đường hạnh
phúc của sự tự do con cái Thiên Chúa cho tất cả mọi người.”
(GH số 37).
KẾT LUẬN
Chính sự cộng tác chân thành giữa chủ
chăn và giáo dân sẽ mang lại những hoa trái tốt đẹp cho Giáo
hội :
“Hy vọng rằng sự liên lạc mật thiết
giữa giáo dân và chủ chăn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho
Giáo hội : Thực vậy, nhờ sự liên lạc đó, giáo dân ý thức
trách nhiệm mình một cách vững vàng hơn; lòng hăng say của
họ được phát triển, và họ góp sức dễ dàng hơn vào công việc
của các chủ chăn. Phần các chủ chăn, nhờ sự trợ lực kinh
nghiệm của giáo dân, các ngài có thể phán đoán minh bạch và
đúng đắn hơn về những vấn đề thiêng liêng cũng như trần thế;
như vậy, toàn thể Giáo hội được vững mạnh nhờ tất cả mọi chi
thể, sẽ chu toàn hữu hiệu hơn sứ mệnh mình đối với sự sống
của thế gian.” (GHK số 242).
GSVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHẬN HIỂU Ý NGHĨA VÀ MỤC ĐÍCH SÂU XA HƠN CỦA ƠN GỌI LINH MỤC |
Tác phẩm Giáo Hội Cần Loại Linh Mục
Nào? (tiếp theo)
Lm Giuse Lê Công Đức chuyển ngữ từ
bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD IMPERILED, Tác giả:
Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.
Tiếng gọi đặc biệt
dành cho Matthêu (Lêvi) là một ví dụ hùng hồn về ơn gọi
nhưng không đối với giáo dân cũng như giáo sĩ. Khi Đức Giêsu
đi ngang qua, Ngài trông thấy một người đàn ông tên là
Matthêu đang ngồi ở bàn thu thuế; và Ngài nói với ông: “Hãy
theo Ta”. Và ông đứng dậy đi theo Ngài. Và khi Đức Giêsu
ngồi dùng bữa tối trong nhà, nhiều người thu thuế và những
kẻ tội lỗi cùng dùng bữa với Ngài và các môn đệ Ngài (Mt
9,9-10).
tiếng gọi dành cho
Lêvi
và bữa ăn Messianic
Lêvi là một thiên tài
tôn giáo thực sự ở chỗ ông nhận ra và diễn tả tính nhưng
không này một cách sáng tạo ngay từ đầu: “Nếu Thầy mời tôi,
một kẻ xấu, một tên thu thuế bị khinh bỉ, lẽ nào Ngài
không tiếp đón các bạn cũ của tôi nhỉ?” Cùng ngày hôm ấy,
Lêvi dọn bữa cho Đức Giêsu và cho các bạn hữu của ông.
Lêvi có nhận ra rằng hành động ấy của ông là biểu tượng của
bữa ăn Messianic và của tính mới mẻ của Nước Trời không? Đối
với chúng ta, hành động ấy của Lêvi là một diễn tả rất
thuyết phục về ý nghĩa ơn gọi của chính chúng ta.
Lòng hiếu khách của
Lêvi, đã phá đổ các rào chắn của con người và tất cả những
thói trịch thượng ngạo mạn, đã không tránh được sự dòm ngó
của những người Pharisêu. Nhóm Pharisêu hỏi các môn đệ Đức
Giêsu: “Tại sao Thầy của các anh ăn uống cùng với những
người thu thuế và những kẻ tội lỗi? “ (Mt 9,11). Cũng vậy,
cả lịch sử câu chuyện chúng ta được chấp nhận cách ưu
biệt vào kết hợp với Thánh Thể được chứng minh trong câu hỏi
của những người Pharisêu, một câu hỏi phát xuất từ thái độ
loại trừ. Cốt lõi của lòng thương xót và của tình yêu đầy
sức chữa trị của Đức Giêsu trong bối cảnh này được tóm kết
trong câu trả lời đầy thách đố của Ngài: “Những người lành
mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng những người đau yếu
mới cần. Hãy đi và học biết điều này: ‘Ta muốn lòng nhân từ
chứ không muốn hy lễ’. Vì Ta đến không phải để kêu gọi những
người công chính nhưng là những tội nhân” (Mt 9,12-13).
Có lẽ thời nào cũng có
một tầng lớp linh mục nào đó không học biết được và không
thể hiện được nhãn quan căn bản về tình thương và lòng khiêm
nhường đầy sức chữa trị của Đức Giêsu, thay vào đó, các vị
linh mục ấy sẽ cổ xúy một cái nhìn sai lạc về “hy lễ”. Tuy
nhiên, cũng như Mátthêu, các linh mục đích thực không thể
tìm thấy hạnh phúc chân thực trong việc bước theo Đức Giêsu
nơi sự phân loại và loại trừ bất cứ ai ra khỏi bữa ăn
Messianic với luận cứ rằng: “Họ ở trong tình trạng tội
trọng một cách khách quan”.
Về vấn đề này, cũng
như trong các vấn đề khác, những ai sống một đời sống đạo
đích thực sẽ không giấu được nỗi thảng thốt, niềm thích thú
và một cảm nhận bên trong về tấm lòng nhân hậu tuyệt vời của
Đức Kitô, tấm lòng ấy giúp họ có thể bẻ gãy mọi rào chắn của
con người chống lại thói tự cho mình là công chính. Dĩ
nhiên, những phẩm chất này cũng bao gồm một khả năng biện
phân Kitô giáo rành mạch tiên vàn giúp cho tất cả chúng ta
là những linh mục biết cảnh giác đừng loại chính mình ra
khỏi niềm vui của bữa ăn Messianic do bởi nhãn quan tự cho
mình là công chính và thiếu vắng một tấm lòng. Chúng ta đừng
bao giờ nghĩ hay nói điều gì có tính qui kết người khác là
tội nhân trước khi thú nhận rằng cả chúng ta nữa cũng là
những tội nhân đáng thương. Trong bối cảnh này, chúng ta tự
hỏi các linh mục có nên luôn luôn cố trao ấn tượng rằng mình
là những con người thánh thiện hay ít nhất mình là những con
người không có gì sai quấy? Rõ ràng câu hỏi ấy cần được trả
lời sáng tỏ.
Nhà văn nữ Ba Lan Mary
Winowska kể câu chuyện sau đây về một cha sở. Trước mắt tất
cả giáo dân trong xứ, vị linh mục này là một mục tử tốt lành
thánh thiện tuyệt vời. Dường như không ai có thể chê ngài về
bất cứ điều gì cả. Ngày nọ, một công an chìm của Gestapo đến
gặp ngài, tự giới thiệu, và đưa ra với ngài một đề nghị bất
ngờ: “Chúng tôi tin rằng ông sẵn lòng hợp tác với chúng tôi
bằng cách đều đặn cung cấp cho chúng tôi những thông tin
trong nội bộ Giáo Hội. Công việc này không ai có thể làm tốt
hơn ông, vì ông rất được tín nhiệm bởi các giám mục và các
linh mục khác.” Cha sở trả lời không do dự: “Không được.
Chúa không cho phép tôi làm điều đó!” Viên công an chìm rút
trong túi ra một tấm ảnh, chìa cho cha sở xem. Đó là ảnh một
phụ nữ đang ẵm đứa con nhỏ trên tay. Anh ta nhìn thẳng vào
mắt vị linh mục, hỏi gằn từng tiếng: “Ông không phải là cha
của đứa trẻ này đấy chứ?”
Hoàn toàn bất ngờ
trước tang chứng ấy, vị linh mục trầm ngâm giây lát, rồi xin
viên công an cho mình có thêm thời gian để suy nghĩ về đề
nghị trên kia của anh ta: “Anh cho phép tôi khất đến Chúa
Nhật tới.”
Chúa Nhật tuần ấy, mọi
người tề tựu đến nhà thờ để tham dự Thánh Lễ như thường lệ.
Và một sự kiện hết sức bất ngờ đã xảy ra. Vào đầu Thánh Lễ,
thay vì đọc Kinh Cáo Mình theo nghi thức thông thường, vị
linh mục xưng thú tất cả những tội lỗi của mình trước mặt
toàn thể cộng đoàn giáo dân, kể cả những tội mà Gestapo
không hề biết. Trà trộn giữa các tín hữu trong nhà thờ hôm
ấy, có hai viên công an chìm của Gestapo. Trong nước mắt, vị
linh mục xin cộng đoàn giáo dân tha thứ cho mình và cho phép
mình xin chuyển đi nơi khác để đền tội. Sau một thoáng im
bặt, cả nhà thờ bắt đầu xôn xao lên. Mọi người đều sa lệ vì
cảm kích. Họ nhất tề la lên: “Xin cha đừng đi đâu cả, xin
cha tiếp tục ở lại săn sóc chúng con. Chúng con vốn kính mến
cha, hôm nay chúng con càng kính mến cha và cảm thấy cha gần
gũi hơn bao giờ!” Nhờ sự thú nhận công khai của mình, vị
linh mục nói trên, qua tình trạng tội lỗi của ông, đã tỏ ra
ông là “một người trong chúng ta” với các giáo dân của ông.
Để trả lời cho câu hỏi
căn cơ trên kia, rõ ràng người linh mục phải hiểu rõ mình
được gọi sống thánh thiện tới mức trở thành một nguồn khích
lệ cho mọi người trên con đường tiến tới sự hoàn thiện Kitô
giáo. Tuy nhiên, bất cứ sự ngụy tạo nào của sự thánh thiện
cũng sẽ là một mô ụ gây cản trở cho nỗ lực trên. Linh mục
nào không thể nhận ra rằng mình cũng sống nhờ vào sự thứ tha
của Chúa và rằng mình cũng sai lầm thì linh mục ấy sẽ không
thể nhận được một sự tín nhiệm nào cả.
Sẽ thật có ý nghĩa
việc chúng ta chọn Lêvi Matthêu như một vị quan thầy. Làm
thế, chúng ta có thể trở nên những linh mục có hiệu năng
nhiều hơn, trong chừng mực chúng ta sẵn sàng hơn để mời
những kẻ bên ngoài bước vào bàn ăn Messianic của Đức Giêsu;
và làm thế, chúng ta sẽ thấy mình được đón nhận niềm nở hơn
bởi chính Đức Giêsu. Cũng như Lêvi, chúng ta cần nhận hiểu
sâu xa hơn và hiện thực hóa lời của Đức Giêsu: “Ta không đến
để xét xử nhưng là để cứu độ thế gian” (Ga 12,47).
Càng khiêm tốn ca ngợi
tình yêu chữa trị của Thiên Chúa đối với mọi con người,
chúng ta càng có thể – nhờ ân sủng Thiên Chúa - trở thành
những “thầy thuốc bị thương” đầy hiệu năng. Rõ ràng, các
linh mục không bao giờ được phép coi bất cứ ai thuộc
trách nhiệm săn sóc của mình là “hết thuốc chữa”. Mọi cảm
quan và hoạt động mục vụ của chúng ta phải được thấm nhuần
bởi ý thức ngày càng hơn về tình yêu đi bước trước của Thiên
Chúa, một tình yêu vô hạn và chúng ta chỉ là những kẻ bất
xứng - ngay cả khi chúng ta cảm nghiệm về sự thiếu thốn của
mình. Tất cả những gì chúng ta có thể làm chỉ là tiếp tục
sẵn sàng để cho tấm lòng quảng đại của Thiên Chúa hành động
và, khi nhìn nhận tấm lòng ấy, chúng ta thể hiện sự quảng
đại của Thiên Chúa trong thái độ mục vụ của chúng ta, trong
việc khích lệ người khác một cách không mệt mỏi. Chúng ta
hãy để cho Lêvi hướng dẫn mình!
việc rửa chân
tại Bữa Tiệc Ly
Biến cố phép rửa của
Đức Giêsu ở sông Giođan và việc Ngài rửa chân cho các tông
đồ tại Bữa Tiệc Ly là hai sự kiện hoàn thành lẫn nhau. Khi
nâng việc rửa chân ấy lên hàng nghi lễ, Đức Giêsu muốn diễn
tả phép rửa mà Ngài tự nguyện lãnh nhận trong máu của chính
Ngài để thứ tha tội lụy và để cho tình yêu phi bạo lực được
khải thắng. Khi chọn làm công việc rửa chân, một công việc
thường được gán cho các tôi tớ thấp hèn nhất, Đức Giêsu muốn
xác nhận rằng hành động khiêm nhường này – vốn soi sáng cho
toàn bộ cuộc sống và cái chết của Ngài – phải được coi là
chuẩn mực cao nhất, đặc biệt đối với những ai được gọi để
chia sẻ sứ mạng loan báo Tin Mừng của Ngài và sứ mạng hiệp
nhất tất cả các môn đệ trong tình yêu của Ngài.
Mặc dù Tin Mừng Gioan
mang sắc thái nổi bật là một Tin Mừng về Thánh Thể, nó vẫn
không đưa ra một trình thuật minh nhiên nào về cơ chế của
Thánh Thể. Cũng như nhiều học giả Thánh Kinh khác, tôi xem
bản trình thuật rửa chân trong bối cảnh của nó là một trình
thuật tuyệt vời về Thánh Thể. Đó là một chìa khóa không thể
thiếu để nhận hiểu sâu xa hơn về cả Thánh Thể lẫn chức linh
mục.
Sau khi rửa chân cho
các môn đệ, Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta mối quan hệ độc
đáo của Ngài với Chúa Cha. Hơn nữa, Ngài mạc khải cho chúng
ta biết Cha là ai qua nghi thức rửa chân này, qua việc Ngài
tự hiến trở thành bánh ban sự sống và, cuối cùng, qua việc
Ngài đổ máu trao ban nguồn sống. Gioan đã nhấn mạnh mạc khải
này trong lời cầu nguyện của Đức Giêsu: “Lạy Cha, giờ đã
đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật
vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để
Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho
Người. Mà sự sống đời đời đó là nhận biết Cha là Thiên Chúa
duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là
Giêsu Kitô“ (Ga 17,1-3).
Có một số người kiên
quyết chống lại việc truyền chức linh mục cho phụ nữ dựa vào
giả thuyết rằng không có phụ nữ nào hiện diện tại Bữa Tiệc
Ly, và do đó họ kết luận rằng chức linh mục Tân Ước rõ ràng
chỉ dành riêng cho nam giới. Có lẽ không có phụ nữ nào hiện
diện ở đó, nhưng đó là điều ta chỉ có thể giả đoán thôi.
Điều quan trọng hơn, đó là sự kiện rằng phụ nữ có hiện diện
với Đức Giêsu, có liên hệ một cách tích cực trong đời sống
sứ vụ của Ngài, và phụ nữ tiếp tục liên hệ tích cực như thế
bằng những cách thế đầy ý nghĩa và có sắc thái linh mục
trong quá trình xây dựng Hội Thánh.
Các phụ nữ không chỉ
đi theo Đức Giêsu trong tư cách là những người tôi tớ khiêm
nhường, mà họ còn trung thành ở lại dưới chân thập giá khi
những người khác đã bỏ đi mất. Người đầu tiên gặp thấy Chúa
Phục Sinh vào sáng sớm ngày đầu tuần và loan báo tin mừng đó
chính là một phụ nữ. Biến cố này chúng ta chỉ cử hành trong
Thánh Lễ một cách xứng đáng khi chúng ta biết từ chối mọi
thái độ trịch thượng và biết tự biến mình – cùng với những
phụ nữ ấy – trở thành những tôi tớ của Người Tôi Tớ Giavê.
Gioan, người môn đệ
được Chúa yêu mến và người bạn trung thành của Phê-rô, đã
cho thấy rõ rằng Phê-rô phải khó khăn biết bao để cho phép
mình đi vào trong trung tâm của mầu nhiệm Đức Kitô nơi hành
động rửa chân. Dĩ nhiên, nghi lễ này chẳng có ý nghĩa gì đối
với bất cứ ai không thể đón nhận nó như luật nền tảng của
đời sống Kitôhữu và nhất là của sứ vụ tông đồ của người linh
mục. Khi Phê-rô hỏi phải chăng Đức Giêsu sắp rửa chân cho
ông, Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ anh không hiểu điều Thầy
sắp làm, nhưng rồi anh sẽ hiểu.” Bị sốc, Phê-rô nói:
“Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con.” Đức Giêsu đáp:
“Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ không được đồng
bàn với Thầy” (Ga 13,7-8). Phê-rô chỉ đầu hàng khi nhận
được tối hậu thư đó, dù ông không nhận ra tầm mức đầy đủ ý
nghĩa của nó đối với mình. Cũng như Phê-rô, chúng ta chỉ ý
thức mơ hồ về ý nghĩa của tối hậu thư nói trên khi chúng ta
đang trên hành trình tiến đến một nhận thức hiện sinh trọn
vẹn hơn.
Một phần nào đó,
nguyên nhân của sự bối rối nơi Phê-rô cũng như nơi những
người khác là do bởi hình ảnh sai lệch về Đấng Mêsia vốn rất
phổ biến thời ấy. Vào thời của Đức Giêsu, những người
anawim, tức những con cái It-ra-en khó nghèo và hèn mọn –
như Maria và Giu-se – hát và rao giảng những Bài Ca của
Người Tôi Tớ với hết tâm hồn họ. Tuy nhiên, đối lập với niềm
hy vọng của những người anawim, nơi giới thượng lưu có tồn
tại một ngưỡng vọng về một vị anh hùng dân tộc đầy uy lực sẽ
giải phóng It-ra-en khỏi ách thống trị Rôma.
Suy nghĩ về Tin Mừng
Maccô, chúng ta sẽ ngạc nhiên khi đầu tiên nhận thấy rằng
trong nhiều trường hợp, Đức Giêsu được mô tả như một Đấng
yêu cầu các tông đồ không được tiết lộ Ngài là Mêsia. Maccô
có lý do chính đáng để trình bày như thế. Vì Phê-rô và những
người theo Đức Kitô bám chặt vào một Mêsia quyền lực, nên
dường như vào thời điểm ấy họ không thể tin tưởng rằng Con
Người, rằng “một người trong chúng ta” ấy chính là Đấng
Mêsia. Chỉ khi các tông đồ trở nên hoàn toàn vỡ mộng với ý
niệm về quyền lực như nói trên, họ mới có thể – trong niềm
tin sâu xa vào Người Tôi Tớ của Thiên Chúa – nhận hiểu Ngài
là Đấng Mêsia đích thực và đầy sức mạnh.
Khi áp dụng sự thật
này cho chính mình, tôi nhận ra rằng chỉ trong mức độ tôi
“biết” Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, tức Con Người, và chỉ
trong toàn thể con người và cách sống của tôi trong tư cách
là người tôi tớ của Người Tôi Tớ ấy, mới có thể có bất cứ
ý nghĩa nào trong lời ca ngợi Đức Giêsu là Đấng Mêsia.
Trong mức độ mà bất cứ linh mục, phó tế hay người được đào
tạo mục vụ nào còn bám chặt vào đặc quyền đặc lợi, chức
quyền, vinh dự thế gian hay cố níu giữ một thói trịch thượng
nào đó, thì bất cứ gì được nói về “địa vị” của chức linh mục
thừa tác và chức linh mục phổ quát cũng đều trở thành rỗng
tuếch, sai lạc và hoàn toàn giả trá.
Trong mọi thời đại,
Thiên Chúa đã gửi các tư tế có năng lực ngôn sứ đích thực
đến cho Giáo Hội và cho thế giới. Các vị này – với lòng
khiêm nhường sâu thẳm và với sự sáng suốt tuyệt vời – đã qui
hướng lòng trí vào phép rửa của Người Tôi Tớ Giavê, vào sự
kiện Con Người rửa chân cho các môn đệ, vào tình yêu mãnh
liệt của Ngài đối với những người nghèo khổ và bất lực nhất
trên mặt đất này, và cuối cùng, vào thái độ Ngài sẵn sàng
đảm nhận thập giá. Tất cả những tiêu điểm ấy được cử hành
trong bữa ăn Thánh Thể – nơi mà Đức Kitô Phục Sinh hiện diện
một cách thâm sâu.
sự kệch cỡm
của những cuộc
tranh giành
địa vị cao thấp
Nếu chúng ta không lột
trần những khuynh huớng kiếm tìm vinh dự và mọi hình thức tự
đề cao mình, chúng ta sẽ bị sốc trước sự thật khi đọc trình
thuật Thánh Kinh về cuộc tranh luận lố bịch giữa các tông đồ
trong đó các ông cãi nhau xung quanh vấn đề ai là người lớn
nhất. Thật là không thể tưởng tượng! Liền sau việc Đức Giêsu
rửa chân cho các môn đệ và giải thích về ý nghĩa thâm sâu
của hành động đó, chúng ta đọc thấy:
“Các ông còn cãi
nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất.
Đức Giêsu bảo các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị
dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh
em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh
em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì
phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với
kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà,
Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc
22, 24-27).
Cũng vậy, chính
Giacôbê và Gioan, qua mẹ các ông, đã xin chỗ vinh dự bên
cạnh Đức Giêsu. Phải chăng họ không nhận ra rằng lời yêu cầu
ti tiện ấy của họ làm đau lòng Đức Giêsu biết bao? Đức Giêsu
đã trả lời họ: “Các ngươi không biết các ngươi xin gì.
Các ngươi có thể uống chén Ta uống, và nhận phép rửa mà Ta
nhận không?” (Mc 10,38).
Bản văn này rất quan
trọng cho chúng ta, bởi vì ở đây Đức Giêsu yêu cầu chúng ta
hiểu phép rửa của chính chúng ta trong quan hệ với phép rửa
của Ngài trong tư cách là Người Tôi Tớ phi bạo lực – một
phép rửa bằng máu. Ở đây đặt ra cho các Kitôhữu và nhất là
cho các linh mục một nhận thức hết sức quan trọng: đó là,
mọi sự phải được cân nhắc lại. Hoặc chúng ta chấp nhận sự
chọn lựa nền tảng để bước theo Đấng-Mêsia-Người-Tôi-Tớ một
cách trung thành, khiêm tốn và can đảm, dù phải chịu đau khổ
cho đến chết nếu cần, hoặc chúng ta vẫn tiếp tục làm nô lệ
cho thói kỳ thị và lòng kiêu ngạo.
Maccô 9, 30-37 là một
kiệt tác về văn chương và sư phạm. Dưới ngòi bút của Maccô,
Đức Giêsu trình bày sứ điệp căn bản của Ngài cho các tông đồ
như sau: “Con Người sẽ bị nộp trong tay người ta, họ sẽ
giết Người, và ba ngày sau, Người sẽ sống lại“ (Mc 9,31).
Lúc ấy Đức Giêsu bước
đi trước các ông - tiến về sự hoàn thành những gì Ngài đã
giải thích. Trên đường đi, các tông đồ giữ một khoảng cách
với Ngài để Ngài không nghe những gì họ bàn tán. Nhưng Ngài
biết tỏng! Khi thầy trò quây quần trong nhà ở Carphanaum,
Đức Giêsu hỏi: “Anh em tranh luận với nhau về điều gì khi đi
đường?” Họ im lặng, vì chủ đề cuộc tranh luận của họ là ai
lớn nhất giữa họ. Phải chăng các ông có một lương tâm tệ hại
đến nỗi các ông ước mong rằng Đức Giêsu, Đấng vừa mạc khải
số phận thê thảm của Ngài, không biết những gì họ đang suy
nghĩ trong đầu óc mình?
Sau hai mươi thế kỷ
của lịch sử Giáo Hội, chúng ta có khôn ngoan hơn chút nào
chăng? Nếu chúng ta thành thật, thì người tốt nhất trong
chúng ta cũng sẽ phải nhìn nhận rằng có những lúc mình rơi
vào cám dỗ muốn đề cao chính mình. Tại Công Đồng Vatican II,
đã thường xuyên vang lên những cảnh giác chống lại thói hãnh
thắng của Giáo Hội. Trong chính phiên họp cuối cùng, một số
hồng y, thượng phụ, giám mục và một số nhà thần học – kể cả
tôi – đã qui tụ lại với nhau để thảo luận một đề nghị cuối
cùng cho Công Đồng, đó là: Chúng tôi đã kiến nghị rằng các
Nghị Phụ Công Đồng sẽ không trở về với các giáo phận của
mình mà trước hết không trịnh trọng cam kết theo tinh thần
khó nghèo của người tông đồ - và trước hết là theo tinh thần
đơn sơ tông đồ bằng cách tháo gỡ mọi tước hiệu đối nghịch
với Tin Mừng vốn vẫn còn rất phổ biến trong tầng lớp
lãnh đạo Giáo Hội. Vài trăm giám mục đã sẵn sàng cho bước
này. Tuy nhiên, do thời gian gấp rút lúc bấy giờ, đề nghị ấy
đã không bao giờ được thông qua. Tôi xác tín rằng rất có thể
chúng ta đã tránh được cho Giáo Hội rất nhiều rắc rối sau
Công Đồng nếu chúng ta đã chính thức biểu quyết và trung
thành tuân giữ một quyết định rõ ràng về vấn đề này.
Một cách vô cùng sáng
tỏ, câu chuyện Đức Giêsu chịu cám dỗ (Mt 4, 1-11) hoàn toàn
lột trần mưu chước Satan cám dỗ người ta sử dụng tôn giáo để
vụ lợi, để đề cao chính mình, để tranh thủ quyền lực thế
gian; và những cám dỗ này được thấy là trực tiếp đối nghịch
với ơn gọi của Đấng-Mêsia-Người-Tôi-Tớ. Những cám dỗ khủng
khiếp ấy nguy hiểm một ngàn lần hơn so với – chẳng hạn –
việc thủ dâm, việc quan hệ tình dục tiền hôn nhân, việc ngừa
thai ... và bất cứ ưu tư nào khác liên quan đến lãnh vực
tính dục mà Giáo Hội thường xuyên xôn xao bàn luận và khắc
ghi sâu trong tâm trí người tín hữu.
Tình trạng phóng thể
tôn giáo và nhất là tình trạng xuống cấp của mạc khải trọn
vẹn về Đức Giêsu, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, xuyên qua
lòng kiêu hãnh và cao ngạo của con người, xuyên qua lòng
tham quyền lực, ... tất cả đều là công trình của ma quỉ.
Chúng ta cần không ngừng dốc sức để lột trần những quyến rũ
ấy – trước hết nơi chính chúng ta và rồi nơi Giáo Hội và thế
giới. Công việc vạch mặt những cám dỗ này chỉ có thể thực
hiện được trong mức độ mà lòng trí chúng ta gắn chặt với Đức
Giêsu, Người Tôi Tớ Giavê.
Đức Giêsu – người thợ mộc
Trong nhiệm cục cứu
độ, Đức Giêsu ngay từ đầu được sinh ra và lớn lên trong
khung cảnh nghèo. Được gọi là “con trai của bác thợ mộc”,
hay đơn giản hơn: “anh chàng thợ mộc”, Ngài quen với công
việc vất vả – và chúng ta có thể hình dung Đức Giêsu vui
vẻ làm việc cho người ta, giúp dựng nhà cửa, đóng bàn ghế
cho họ ... Khuôn mặt người thợ Giêsu ăn khớp với khuôn mặt
lớn hơn của Đức-Giêsu-Người-Tôi-Tớ-Giavê, “Con Người”. Cuối
cùng, khuôn mặt người thợ này cũng rất am hợp với hình ảnh
Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan giữa đám đông những
người bình thường, những người đón nhận lời Gioan kêu gọi
hoán cải.
Tôi còn nhớ hồi cuối
thập niên 1950, nhiều người trong chúng ta đã bị sốc khi
Hồng Y Giuseppe Pizzardo, vị lãnh đạo có nhiều quyền hành
trong tòa thánh, đã cấm các sáng kiến về linh mục thợ với
luận cứ kỳ quặc rằng vị trí của một người công nhân hạng
quèn sẽ không phù hợp với phẩm cách của chức linh mục. Dĩ
nhiên, phong trào này mâu thuẫn với cái nhìn của vị hồng y
nói trên về chức linh mục, một cái nhìn được kết tinh từ cả
một lịch sử dài của những linh mục mơ tưởng sự nghiệp, những
linh mục ngay từ đầu bận tâm săn đuổi các tước vị và các đặc
quyền trong Giáo Hội - những bận tâm này dẫn họ tiến thẳng
đến chiếc mũ hồng y! Ý niệm linh mục thợ chắc hẳn đã làm
sững sờ những giáo sĩ này, những người đầy tham vọng phấn
đấu tranh thủ áo mão cân đai cũng như bao thứ rác rưởi vốn
hão huyền và ngớ ngẩn hơn cả những thứ đang nằm trong tay
bao kẻ cường hào trên thế gian này.
Thật mỉa mai, khi tôi
viết những dòng này, một lá thư nặc danh vừa mới được gửi
tới với lệnh truyền: “Ông hãy ngừng ngay chuyện phê bình
Giáo Hội! Cả ông nữa cũng có thể được mặc áo tía đó.” Buồn
nhất là sự thật trần trụi mà tác giả của lá thư này muốn
nói lên: có một mối liên quan giữa sự vâng phục tối mặt và
con đường tiến thân vốn đặc trưng một thời và hiện nay vẫn
còn thúc đẩy mạnh mẽ nhiều kẻ săn tìm sự nghiệp trong Giáo
Hội! Thật hoàn toàn tương phản với Đức Giêsu Người Thợ Mộc
và các tông đồ của Ngài – phần đông trong họ là những ngư
phủ. Ngay cả Phao-lô, người thợ dệt bố, vẫn tiếp tục công
việc của mình trong khi thi hành tất cả các trách nhiệm của
người tông đồ, hay như anh bạn thầy thuốc Luca vẫn duy trì
công việc chữa bệnh trên đường đồng hành với Phao-lô trong
sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Khi nhìn lại chương
trình cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta thấy rằng cuộc Nhập
Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa vào trong thân phận khó nghèo,
vào trong cảnh vực bần cùng hạ cấp của xã hội là một sự đối
nghịch hoàn toàn với mọi hình thức cầu quyền cầu danh. Hơn
tất cả các ngôn sứ trước Ngài, và ăn khớp với tôn chỉ độc
đáo của Ngài là “tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và
chân lý”, Đức Giêsu vạch mặt và tố giác mọi sự lạm dụng
tôn giáo để tranh thủ tư lợi cá nhân.
Ở đây, cần phải nhấn
mạnh lại danh hiệu duy nhất mà Đức Giêsu tự gán cho mình:
“Con Người” (ben adam). Thư Do Thái giải thích rõ ràng điều
này như sau: “Người đã phải nên giống anh em mình về mọi
phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và
trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa” (2,17). Sau đó,
cũng trong Thư này, ta đọc thấy: “Người đã chịu thử
thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm
tội” (4,15).
Trong cảnh vực đức tin
Công Giáo hay trong bất cứ truyền thống Kitô giáo nào, hễ
bất cứ ở đâu có tồn tại một giai cấp giáo sĩ vị vọng được
đúc nặn từ một hệ thống đặc quyền phân biệt hẳn họ khỏi đại
chúng, thì tầng lớp ấy sẽ trở thành một thứ muối đạo đức giả
nhạt nhẽo và trở thành sự mâu thuẫn trực tiếp với châm ngôn
của Tin Mừng vốn tha thiết mời gọi chúng ta trở thành muối
đất và ánh sáng cho đời. Như thế, trong ánh sáng của Tin
Mừng, bất cứ sự phân biệt nào giữa giáo sĩ và giáo dân dựa
trên đẳng cấp và đặc quyền đều hoàn toàn thô bỉ.
Ngay trong Giáo Hội sơ
khai, sự phản đối việc thi hành quân dịch đã trở thành một
dấu hiệu rõ ràng của tất cả các tín hữu bước theo Người Tôi
Tớ phi bạo lực. Tuy nhiên, khi Giáo Hội thích nghi với những
thay đổi xảy ra do sắc dụ của Constantine năm 313, một sự
phân biệt mới kỳ quặc đã xuất hiện giữa các linh mục (lúc
bấy giờ thật sự là “giáo sĩ”) và giáo dân. Việc từ chối thi
hành quân dịch dựa trên tinh thần phi bạo lực bỗng trở thành
một đặc quyền cho chỉ một tầng lớp người – đó là tầng lớp
giáo sĩ – trong khi đó quần chúng thường dân được kỳ vọng là
phải thi hành quân dịch nếu họ được lệnh trưng binh.
Một đàng, việc miễn
quân dịch cho các linh mục có vẻ như bảo đảm cho các ngài
thi hành vai trò của giáo sĩ là làm chứng cho Đức Kitô Đấng
Kiến Tạo Hòa Bình, Người Tôi Tớ phi bạo lực của Giavê; nhưng
đàng khác, các linh mục và các giám mục đã để mình được sử
dụng nhằm khuyến khích việc thi hành quân dịch của các
Kitôhữu “thường dân”. Ở đây, toàn bộ ý nghĩa của việc được
rửa nhân danh Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ phi bạo lực - vốn là
đặc điểm của toàn dân tư tế của Thiên Chúa - đã hoàn toàn bị
phá sản. Làm sao tôi, trong tư cách là một linh mục, có thể
đòi rằng vai trò làm chứng và sự đồng hình dạng của tôi với
Đức-Kitô-Đấng-Kiến-Tạo-Hòa-Bình không cho phép tôi thi hành
quân dịch trong khi đồng thời tôi, trong tư cách là linh
mục, lại bảo các anh em Kitôhữu của tôi rằng họ phải chấp
hành một sắc luật nhà nước yêu cầu họ thi hành quân dịch?
Là một linh mục lính
cứu thương trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, tôi đã hưởng
lợi từ sự miễn chuẩn này hết mức độ mà mình có thể. Nếu
không có chế độ miễn chuẩn, rất có thể tôi đã phải đương đầu
với một khủng hoảng luân lý nghiêm trọng, vì trong lương tâm
mình, tôi không bao giờ có thể cầm súng trong cuộc chiến
tranh bẩn thỉu ấy. Nói ‘hưởng lợi’, song tôi thấy cũng cần
phải chỉ rõ rằng chính sách miễn chuẩn cho linh mục ấy đã
đòi trả giá đắt, bởi vì trong số các đơn vị quân đội khác
nhau, con số tử vong cao nhất đã thuộc về các lính cứu
thương là linh mục. Tuy nhiên, sự sẵn sàng chết trong tư thế
không vũ trang để phục vụ cho sự sống là một cái gì đó hoàn
toàn khác với thái độ cảm tử trong khi tham gia vào việc
giết đồng loại. Theo nghĩa đó, tôi đã hưởng lợi rất nhiều.
Tôi có thể thêm rằng gần như mọi thành viên của Giáo Hội Hòa
Bình Mennonite ở Đức đã dứt khoát từ chối tham gia quân đội,
và điều xảy ra là nhiều người trong họ đã chấp nhận bị xử tử
theo lệnh của Hitler để kiên trung làm chứng cho tinh thần
phi bạo lực.
Dọc theo bao thế kỷ
cho đến thời đại chúng ta, nhiều giám mục và giáo sĩ Công
Giáo ở cả hai phía của các cuộc chiến tranh đã đóng một vai
trò quị lụy rất đáng buồn – họ cổ súy sự vâng phục đối với
Xê-da trong khi lẽ ra cần phải vâng phục Đức Kitô. Chỉ cần
nêu ra ở đây một ví dụ của chính thế kỷ này: Khi
Jagerstatter, anh bõ nhà thờ người Aùo, từ chối thi hành
quân dịch “theo sự điều động của một tên tội phạm như
Hitler”, cả cha sở lẫn giám mục của anh đều cố thuyết phục
anh rằng thà chịu tòng quân một cách cưỡng bách hơn là phải
chết. Tuy nhiên, anh ta đã tỏ ra khôn ngoan hơn và dũng cảm
hơn các giáo sĩ ấy.
Trong ánh sáng của
phép rửa, cuộc sống và cái chết của Đức Kitô, tôi xác tín
rằng sự dấn thân thâm sâu cho tinh thần phi bạo lực và cho
hòa bình là một cái gì rất cơ bản của ơn gọi Kitôhữu và ơn
gọi linh mục. Trong mọi nghề nghiệp và mọi lãnh vực của đời
sống, luôn cần phải chú ý thăng tiến một cơ chế công lý,
tình yêu, hòa bình và phi bạo lực.
Tôi hơi ngần ngại đối
với câu hỏi thường được đặt ra rằng phải chăng các linh mục
nên có những quan điểm chính trị nhằm thăng tiến hòa bình,
công lý, và tinh thần phi bạo lực. Dù sao, trong tư cách là
linh mục và đặc biệt trong tư cách là những nhà thần học,
chúng ta phải cố gắng hết sức mình để cổ võ các ơn gọi hoạt
động chính trị. Đàng khác, những linh mục nào tin rằng họ
phải hiện diện và hoạt động trong mọi đấu trường cuộc sống
sẽ cho thấy khả năng thất bại của họ trong ơn gọi rao giảng
và làm chứng cho cốt lõi tinh thần của Đức Giêsu, Người Tôi
Tớ Giavê.
Trong suốt giòng lịch
sử Giáo Hội, vô số nam nữ Kitôhữu hoàn toàn dấn thân cho các
giá trị hòa bình và phi bạo lực của Tin Mừng đã phục vụ cho
người nghèo, cho những người bệnh hoạn tật nguyền, những
người bị bỏ rơi bằng những cách thức đầy sáng tạo và với
tinh thần mục vụ sâu sắc. Thử nghĩ, phải chăng Giáo Hội
không thể cho phép những thừa tác viên này của Đức Kitô thi
hành các chức năng chuyên biệt mà cho đến nay vẫn chỉ dành
riêng cho những người được truyền chức? Và nếu những người
nam nữ ấy được ban quyền như vậy – như trong trường hợp chức
phó tế được tái lập (tuy nhiên rất đáng tiếc là chỉ dành
riêng cho nam giới!) – thì phải chăng họ không thể được
truyền chức thánh nếu họ khao khát điều đó?
làm chứng cho Chúa Phục Sinh
Ngay trước khi bầu chọn Matthia để bổ
sung đầy đủ con số các tông đồ, Phê-rô đưa ra một mô tả sắc
nét về những yêu cầu của một tông đồ như ta đọc thấy trong
Sách Công Vụ: “Vậy phải làm thế này: có những anh em đã
cùng chúng tôi đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống
giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gioan làm phép ưủa
cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời.
Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi lam chứng
rằng Người đã Phục Sinh.” (1,21-22).
Tôi thấy thật là một điều rất có ý
nghĩa khi Phê-rô nhắc các tông đồ nhớ lại tầâm quan trọng
của sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan, vì biến cố
phi thường ấy cho thấy rằng Đức Giêsu, trong tư cách là
Người Tôi Tớ phi bạo lực của Giavê, vui lòng đón nhận những
gánh nặng của chúng ta. Đối với mọi Kitôhữu và, một cách đặc
biệt khẩn thiết, đối với tất cả các giám mục và linh mục,
mầu nhiệm này phải trở thành khuôn mẫu cho chứng tá của họ
về lòng khiêm nhường và tinh thần phi bạo lực của Đức Giêsu
cũng như cho chứng tá về việc Ngài chuyển hóa kẻ thù thành
bạn hữu xuyên qua tình yêu vô điều kiện của Ngài.
Yêu cầu thứ hai là phải có sự thân mật
gần gũi với Đức Giêsu qua việc đồng hành với các môn đệ
Ngài. Điều này có nghĩa rằng phải nhận biết Đức Kitô là Con
Thiên Chúa và là Con Người, là “một người trong chúng ta”.
Nhận biết Đức Kitô như chính Ngài biết Ngài là ai, điều đó
sẽ thúc giục chúng ta – cũng như Ngài – luôn dõi mắt hướng
về Giê-ru-sa-lem. Luôn luôn hướng vọng những gì sẽ được hoàn
thành ở Giê-ru-sa-lem, đó là cách mà các tác giả Tin Mừng
giải thích về yêu cầu này, và đó cũng được ghi nhận là đặc
điểm của nhóm tông đồ Đức Giêsu. Đó là một con đường gập
ghềnh sỏi đá, đầy những bất trắc và bất ngờ.
Tại sao Phê-rô không nói thẳng với vị
ứng viên tông đồ kia rằng anh ta phải là một người có mặt
với Đức Kitô cho đến khi Ngài chết trên thập giá? Không kể
Gioan, ai trong họ sẽ đáp ứng được điều kiện này! Nếu Phê-rô
cố đòi rằng người được tuyển chọn phải là một chứng nhân
trực tiếp về cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô, rất có
thể các tông đồ sẽ giới thiệu một phụ nữ trong nhóm họ. Vì
như các Sách Tin Mừng cho thấy, có nhiều phụ nữ đi theo Đức
Giêsu trên con đường đến Can-vê và đứng đó với Ngài đến
cùng. Các Kitôhữu trong mọi thời đại đã tôn vinh những phụ
nữ thánh thiện và can đảm này – họ, cùng với Đức Maria và
Gioan, là những chứng nhân trực tiếp về cái chết của Đức
Giêsu. Hơn nữa, chính Maria Ma-đa-lê-na là người đầu tiên
trông thấy Chúa Phục Sinh và loan tin mừng này cho các tông
đồ. Thế nhưng, vị tông đồ mới được tuyển chọn lại là một nam
nhân, vì đối với các tông đồ, vốn chìm sâu trong truyền
thống tổ phụ Do Thái, con số mười hai mang ý chỉ mười hai
người con trai của Gia-cóp. Và theo cách hiểu ấy, một nam
nhân đã được chọn.
Dù sao đi nữa, sự nhấn mạnh chính yếu
của Phê-rô cũng đặt vào việc làm chứng cho cuộc Phục Sinh
của Đức Kitô chịu đóng đanh, Người Tôi Tớ đau khổ của Giavê.
Làm chứng cho Chúa Phục Sinh, đó là cốt lõi của ơn gọi
Kitôhữu và là đặc điểm sâu xa của những ai được gọi để rao
giảng Tin Mừng một cách đặc biệt. Tôi hy vọng rằng tất cả
những ai đọc quyển sách này sẽ nhận ra mọi khía cạnh khác
nữa mà tôi đề cập đến trong ánh sáng này. Tôi sẽ chỉ ra ở
đây rằng những linh mục không làm chứng một cách thuyết phục
cho cuộc Phục Sinh của Đức Kitô và của mọi người tin thì đều
chỉ là những đại diện giả danh của Đức Kitô mà thôi.
Vì việc làm chứng cho cuộc Phục Sinh
của Người Tôi Tớ đau khổ là trọng tâm của cuộc khảo sát
lương tâm không ngừng của chúng ta và là cuộc trắc nghiệm
căn tính linh mục, nên câu hỏi nền tảng luôn luôn đặt ra cho
chúng ta là: Chúng ta có sẵn sàng để với trọn lòng mình
thể hiện khuôn mặt Người Tôi Tớ đau khổ, khiêm nhường và
trắc ẩn trong một tinh thần hân hoan tuôn trào từ niềm tin
của chúng ta vào cuộc Phục Sinh của Đức Kitô và của chính
chúng ta hay không? Người xung quanh có nhận ra rằng chính
đức tin sống động của chúng ta là nguồn nghị lực giúp chúng
ta kiên nhẫn và hân hoan giữa bao nỗi thống khổ, bao bệnh
tật, căng thẳng, bất đồng không? Chắc chắn việc suy tư về
chiều sâu của đức tin chúng ta vào Đức Kitô Phục Sinh sẽ
không ngừng thúc đẩy chúng ta chú ý đến phép rửa của mình
trong Đức Kitô, Người Tôi Tớ khiêm nhường và hiền lành của
Giavê.
một cử hành tạ ơn
Thánh Thể đứng ở vị trí trung tâm của
đoàn dân mới Thiên Chúa trong cuộc hành trình dương thế tiến
về điểm tận thời. Thánh Thể là cuộc cử hành (trong tâm tình
tạ ơn) phép rửa bằng nước của Đức Giêsu trong Thánh Thần và
phép rửa bằng lửa của Ngài trong cuộc khổ nạn, cái chết và
cuộc Phục Sinh. Đó là một cử hành sự khải thắng của Ngài
trong tư cách là Người Tôi Tớ khiêm nhường – Đấng mà chúng
ta ký thác niềm hy vọng hằng sống. Nếu đời sống Kitôhữu được
hiểu và được sống trong nhãn giới về nhiệm cục hiện diện cứu
độ của Thiên Chúa, thì việc cử hành Thánh Thể là tột đỉnh
của sự hiện diện ấy – một chóp đỉnh mà ở đó chúng ta gặp gỡ
và hiện diện với Đấng Cứu Độ và Đấng Cứu Chuộc của lịch sử
nhân loại.
Việc gắn kết khoảnh khắc hiện tại và
lịch sử quá khứ của chúng ta vào trong lịch sử cứu độ của
Đức Kitô sẽ làm nên thời gian kairos – một thời gian hồng
phúc, một cơ hội độc đáo nối kết quá khứ với tương lai. Việc
cử hành với một hồi tưởng tạ ơn đích thực sẽ làm cho tất cả
lại trở thành kho tàng hoạt động cứu độ của Thiên Chúa trong
lịch sử và nối kết chúng với cả những nỗ lực có sức trao ban
sự sống lẫn những thất bại của chính chúng ta. Những nỗ lực
và những thất bại của chúng ta sẽ nhận được ý nghĩa trọn vẹn
của chúng trong mối tương giao ấy với Chủ Tể của lịch sử. Ở
đây, trong khoảnh khắc của sự hiện diện của Đức Kitô Phục
Sinh, chúng ta được trao ban nguồn năng lực sự sống của Ngài
để tiếp tục cuộc hành trình cùng với Ngài tiến về tương lai
– một tương lai có cả đau khổ lẫn niềm vui mời gọi chúng ta
đương đầu với những thách đố mới và những trách nhiệm mới
trong niềm hy vọng kiên vững đợi chờ sự hoàn thành chung
cuộc vào Ngày của Chúa. Đó chính thật là giờ phút chúng ta
gặp “rồi” Đấng mà chúng ta hy vọng cử hành cuộc chiến thắng
trọn vẹn của tình yêu của Ngài – và tình yêu của chúng ta
nữa – vốn còn ở phía trước.
Việc cử hành Thánh Lễ với tâm tình tạ
ơn đích thực sẽ tuôn trào trong chúng ta niềm vui và niềm
tín thác, và thường khơi dậy trong chúng ta thái độ sẵn sàng
hơn và tỉnh thức hơn. Những năng lực của cuộc tưởng niệm tạ
ơn sẽ cho phép chúng ta tiếp tục bước đi trên con đường lên
Giê-ru-sa-lem, đảm nhận tất cả những đòi hỏi và những khó
khăn của cuộc sống mà không bao giờ lạc mất dấu vết của Đấng
Phục Sinh. Hoa quả của phút giờ hiện tại ở trong sự hiện
diện của vị Chúa Tể lịch sử trổ sinh từ những năng lực quá
khứ cũng dồi dào không kém chi so với hoa quả trổ sinh từ
niềm hy vọng hiện tại của chúng ta, một niềm hy vọng có sức
làm sống họat và đào sâu cảm thức trách nhiệm cá nhân cũng
như tập thể của mình. Sức mạnh và sức bền của chúng ta được
củng cố trong nghi thức hiệp lễ - qua đó chúng ta được kết
hiệp mật thiết với Đức Kitô, Đấng đã có, đang có và sẽ đến.
Trong khi tất cả những gì được nói về
Thánh Lễ đều đúng cho mọi Kitôhữu, thì cách riêng, những
điều ấy đặt ra một số câu hỏi rất cơ bản cho các vị chủ tọa
hèn mọn của Lời Chúa và Thánh Thể. Trong vai trò linh mục
của mình, chúng ta có ngày càng trở nên những dấu hiệu sống
động của các động lực lịch sử không? Trong tư cách là những
tôi tớ của Đức Kitô, chúng ta có sẵn sàng cho phép Đức Kitô
Phục Sinh đưa chúng ta ngày càng sâu hơn vào cộng đoàn lữ
hành của Ngài không? Chúng ta có ngày càng nhận thức hơn về
tầm quan trọng của sự cộng tác và tinh thần đồng trách
nhiệm với cộng đoàn tín hữu qui tụ lại trong tư cách là
những người cùng cử hành đức tin không?
Từ những gì tôi đã chia sẻ cho tới
đây, các tiêu chuẩn cho người chủ tế Thánh Lễ rõ ràng đã
hiện lộ ra. Tôi cho rằng mỗi và tất cả những đòi hỏi đặt ra
cho đời sống linh mục như đã thảo luận trên đây thì có tầm
quan trọng hơn nhiều so với vấn đề hạn hẹp có tính sinh học
và chẳng có mấy cơ sở là vấn đề phái tính.
Thánh Lễ là giờ phút vượt qua, là sự
vận động và chuyển hóa của Chúa. Đó là khoảnh khắc nghỉ
ngơi? Đúng thế, nhưng còn hơn thế nữa, đó là khoảnh khắc để
lên đường lần nữa, để vào chuyến phiêu du vĩ đại hơn nhiều
so với những gì mà Môsê và dân It-ra-en đã kinh nghiệm.
Trong mỗi cuộc cử hành Thánh Lễ, chính Đức Kitô lại mờøi gọi
chúng ta: “Hãy chỗi dậy! Chúng ta hãy đi!” (Mt
26,46).
Đức Giêsu mời gọi chúng ta nghỉ ngơi,
điều đó không có nghĩa là chúng ta trở thành những con người
“ngồi ì”. Ai là những con người “ngồi ì”? Để trả lời cho câu
hỏi này, cần phải đặt nó trong câu hỏi nền tảng của chúng
ta: Giáo Hội cần có loại linh mục nào? Những con người “ngồi
ì” là những người nam cũng như nữ thường xuyên uể oải, thiếu
lý tưởng và cảm hứng, những con người không thể thu nhận sức
mạnh của Chúa Thánh Thần để khích động người khác. Con người
ngồi ì là con người không thể nội tâm hóa lời mời gọi của
Đức Giêsu: “Hãy chỗi dậy, chúng ta hãy bước tới!” – nhất
là khi việc bước tới có bao hàm nguy cơ phải chịu đau
khổ, chịu thay đổi, chịu bất ổn trong nhất thời. Con người
ngồi ì là con người bất động, tự thỏa mãn với mình, tự hài
lòng với những thành quả đạt được trong quá khứ và tránh né
những trách nhiệm đầy thách đố đòi mình phải dám liều. Nói
tắt, con người ngồi ì là con người nhút nhát.
Rất thường, những kẻ tự thỏa mãn với
mình là những kẻ có não trạng cố chấp (fundamentalists), dị
ứng với những cách nghĩ mới mẻ đầy sáng tạo và bám chặt vào
những chuẩn mực và những qui tắc của quá khứ. Đó là những
nhà bảo vệ truyền thống cách cứng nhắc – nếu có năng lực, họ
sẽ tích cực sử dụng năng lực của mình để vãn hồi và củng cố
một trật tự của quá khứ. Những người ngồi ì là những người
bám dính vào những chiếc ngai do mình tự tạo ra, không sẵn
sàng tiến lên phía trước – bởi vì việc tiến lên như thế sẽ
có nghĩa là họ phải từ bỏ những hấp dẫn và những đặc quyền
của chủ nghĩa giáo sĩ trị trong mọi dạng thức và ở mọi cấp
độ của nó.
Thời đại của chúng ta, với những đổi
thay nhanh chóng và với bao phát triển mới mẻ, mở ra một khó
khăn rất đặc thù. Giáo Hội hôm nay phải khổ sở nhiều vì
những linh mục và giám mục - bám chặt vào các địa vị, các
chức tước của mình – khuyến khích các tín hữu quay ngược
chiều kim đồng hồ, hướng vọng về lớp bụi mờ quá khứ. Các vị
đó không hề ý thức rằng làm thế là biến tất cả chúng ta –
như trường hợp của vợ ông Lót – trở thành những cột muối!
Chỉ khi chúng ta cùng sống với Đức Giêsu, Chủ Tể của lịch
sử, Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến lại, thì chúng ta mới có
thể cùng nhau tiến về phía trước. Thật vậy, trong cái nhìn
của nhiều người, việc tiến lên phía trước cùng với Đức Giêsu
trong cuộc tưởng niệm tạ ơn là một hồi ức và thách đố quá
nguy hiểm. Nếu Đức Kitô Phục Sinh của lịch sử có thể chọn
hiện diện trọn vẹn với chúng ta trong hành vi bẻ bánh và
chia sẻ chén rượu, thì phải chăng Ngài không thể biến đổi
những con người ngồi ì trở thành những khách hành hương hăng
hái và những người tiên phong của lịch sử? Đây là một phép
lạ vĩ đại mà chúng ta khát khao và cầu xin.
Cố gắng định hình lịch sử tương lai
trong tư cách là những nhà kiến tạo hòa bình phi bạo lực và
dũng cảm, đó rõ ràng là cuộc phiêu lưu vĩ đại của thời đại
chúng ta. Nếu cảm nghiệm về Bài Giảng Trên Núi có thể gây
cảm kích lớn lao cho những con người nam và nữ như Mahatma
Gandhi, Martin Luther King, Jr., Dorothy Day và các vị sáng
lập đầy dũng cảm của các cộng đoàn tu trì, và có thể chuyển
hóa họ trở thành những nhà tiên phong luôn luôn lao về phía
trước, thì tại sao thời nay xem ra thiếu vắng những khuôn
mặt lãnh đạo như thế?
Trong ánh sáng này, chúng ta thấy rõ
rằng mình cần một cuộc canh tân phụng vụ. Nhưng một nền
phụng vụ canh tân mà chúng ta cần đến phải vượt quá tiêu
điểm hiện nay vốn đặt trên những tranh luận về nghi lễ. Tiên
vàn, một cách lột xác triệt để, chúng ta cần trở thành những
con người đầy niềm tin và hy vọng hơn, biết rộng mở đôi tai,
quả tim và trí óc hơn để sẵn sàng đón nhận và hưởng ứng lời
mời gọi tiến lên đầy thách đố của Đức Kitô: “Hãy chỗi dậy!
Chúng ta hãy bước tới!”
“tất cả họ đều
đầy tràn Thánh Thần” (Cv 2,4)
Đáp lại lời kêu gọi của Đức Kitô: “Hãy
chỗi dậy! Chúng ta hãy đi!”, Phê-rô, con người tự tin
thái quá, đã trả lời: “Thưa Thầy, con sẵn sàng đi với
Thầy dù phải tù tội hay phải chết” (Lc 22,23). Tuy nhiên,
như tất cả chúng ta đều biết, sự dũng cảm ấy của Phê-rô
đã dẫn ông ta trôi tụt xuống chỗ thê thảm. Khi Charles de
Gaulle đang cầm quyền ở Pháp, các nhà báo Pháp vì muốn châm
biếm đã dựng nên câu chuyện rằng có lần De Gaulle đọc kinh
cầu ở Montmartre trong đó có câu như sau: “Rất Thánh Trái
Tim Đức Chúa Giêsu, hãy tin tưởng vào con!” Trong khi
các giám mục và các linh mục biết rõ sự cảnh giác về việc
quá tin vào chính mình, tôi vẫn e rằng có rất nhiều người
trong chúng ta – nhất là những ai đã thành công trong việc
leo lên các nấc thang trong Giáo Hội – cũng cơ hồ muốn thốt
lên lời nguyện pha trò rất ư hàm súc ấy.
Không phải những người có quyền lực và
giàu tài năng trong chúng ta là những người bị cám dỗ đặc
biệt đó sao? Không có thuốc chữa trị nào khác cho căn bệnh
này ngoài việc đặt trọn niềm tín thác vào sự thúc đẩy của
Chúa Thánh Thần, vào lời hứa của Lễ Ngũ Tuần. Chính Chúa
Thánh Thần – Đấng đã thay đổi triệt để Phê-rô và các tông đồ
khác vốn trước đó đã vấp ngã trước ‘bài trắc nghiệm’ là cuộc
khổ nạn và cái chết của Đức Kitô – cũng sẽ biến đổi chúng
ta.
Nếu trong đức tin sâu thẳm, chúng ta
suy ngẫm những lời này: “Tất cả họ được đầy tràn Thánh
Thần”, thì những tước hiệu như ‘Đức Cha, Đức Ông, Đức Thánh
Cha’... và tất cả các tước hiệu sáo rỗng khác sẽ xẹp như
bong bóng xì. Vì trong Vương Quốc của Thiên Chúa, Vương Quốc
của những mối quan hệ chính trực, thì chính những người bé
nhỏ nhất, vô danh nhất, hèn kém nhất là những người mang
trong mình sức mạnh đầy tác động của Chúa Thánh Thần.
Toàn thể trình thuật về biến cố Hiện
Xuống hướng sự chú ý của chúng ta về lời tiên tri của Ngôn
Sứ Giôen: “Ta sẽ tuôn đổ Thánh Thần của Ta trên mọi xác
phàm / con trai con gái các ngươi sẽ nói tiên tri ... Ngay
cả các nô lệ của Ta, nam và nữ, cũng sẽ được đầy tràn Thánh
Thần của Ta trong những ngày đó, và họ sẽ nói tiên tri” (Cv
2,17-18). Rõ ràng, ở đây không hề muốn nói rằng các tôi trai
tớ gái sẽ trở thành linh mục, vì ý niệm này (= linh mục)
không tồn tại trong Giáo Hội sơ khai của các tông đồ.
Chỉ đến thời hậu tông đồ thuật ngữ ‘linh mục’ mới được vận
dụng lại trong liên hệ đến Đức Kitô, Vị Linh Mục Thượng Phẩm
đích thực.
Cộng đoàn Hiện Xuống, được đánh dấu cả
bởi nhãn giới về Đức Kitô Ngôn Sứ lẫn bởi niềm xác tín sâu
sắc về nhu cầu phải ngoan ngoãn và tín thác vào Chúa Thánh
Thần, đã tin tởng rằng cả đàn ông lẫn phụ nữ đều được đánh
dấu để trở thành những người thông dự cách khiêm tốn vào sứ
vụ ngôn sứ của Đức Kitô. Nói một cách nôm na hơn, mọi
Kitôhữu đích thực, dù nam hay nữ, đều là những con người
ngôn sứ, những con người được giải phóng và đầy tràn Thần
Khí do tác động của Thánh Thần Đức Kitô; và họ được trao ban
một sứ mạng giải phóng, sứ mạng mà trong thời đại chúng ta
luôn luôn đòi hỏi phải tỉnh thức và sáng suốt biện phân. Như
vậy, câu hỏi mãi còn cho chúng ta trong tư cách là Kitôhữu
và là thành viên của Nhiệm Thể Đức Kitô là: Chúng ta có sẵn
sàng mở lòng ra – bằng bất cứ giá nào – để đón nhận sự thúc
đẩy của Chúa Thánh Thần nơi chúng ta và nơi những người khác
không? <OJ>
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
NGƯỜI ĐÀN BÀ GÓA |
“Trong lúc giảng dạy, Chúa Giêsu nói
rằng: ‘Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo
quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào
hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội
đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài
sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu
giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.’
Chúa Giêsu ngồi đối diện với thùng
tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ
tiền vào đó ra sao. Có lắm người bỏ thật nhiều tiền. Cũng có
một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá
một phần tư đồng xu Rô-ma. Chúa Giêsu liền gọi các môn đệ
lại và nói: ‘Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo nầy đã bỏ
vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều
rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà nầy
thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài
sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.’” ( Mc
12, 38-44)
***
Câu chuyện người đàn bà góa trong Phúc
Âm Thánh Mác-cô trích dẫn trên đây, gợi cho tôi dòng chữ dễ
mến của C.S. Lewis: “Điều gì bạn nghe và thấy phần
lớn tùy thuộc chỗ bạn đứng và tùy bạn thuộc hạng người
nào.”
Câu chuyện trong Phúc Âm, tự bản chất,
không phải là một câu chuyện người đàn bà góa cho đi hết
tiền bạc của mình. Cũng không phải là một câu chuyện về đức
hạnh. Người đàn bà đó không nhận được một lời cám ơn hay một
sự tưởng thưởng nào đối với lòng quảng đại của mình. Chúa
Giêsu cũng không ca ngợi tán dương bà.
Thiên Chúa nhận biết
G.K. Chesterton định nghĩa “thiên
tài như là khả năng quan sát điều gì
minh bạch hiển nhiên”. Căn cứ trên sự nhận
xét đó, Chúa Giêsu là một thiên tài. Cặp mắt quan sát của
Ngài không nhìn nơi cao xa quyền quý thuộc thế giới nầy mà ở
đó thường xuất hiện những nhân vật được mọi người chú ý.
Đúng hơn, đôi mắt quan sát của Ngài
nhìn xuống một người mà bất kỳ ai cũng không để ý tới. Ngài
nhận ra người đàn bà góa không ai trông thấy, vì không có gì
nổi bật nơi bà – một người rất khó nhận diện, ở tột cùng nấc
thang xã hội. Ngài nhận thấy cử chỉ âm thầm của lòng quảng
đại nơi bà – một thứ xúc tác làm cho cuộc nhân sinh trở nên
tốt đẹp hơn.
Chúa Giêsu ghi nhận điều đó và đã
bình phẩm thêm. Đó chính là trọng điểm của đoạn Phúc Âm
nầy. Trọng điểm đó, đối với chúng ta, là phải cân nhắc để “sống
như chúng ta phải sống”, trong một thế giới xem ra vô
nghĩa và dễ lạc mất trong đám “quần chúng đang điên loạn
lên” rồi!
Người cha tôi yêu
Tôi biết một ông cụ bị bệnh Alzheimer.
Cụ góa vợ. Người con gái sống với cụ cũng góa chồng. Chị cảm
thấy không dễ dàng chút nào khi phải chăm sóc một người cha
như thế. Chị bộc lộ tâm tình:
“Cha tôi cứ đi thẩn thờ một mình ngoài
đường phố và cứ tưởng mình đang trên đường trở về ngôi nhà
xa xưa nơi xóm cũ. Vào một buổi sáng sớm tháng ba, nhằm lúc
mùa đông lạnh lẽo, cảnh sát đã nhặt ba tôi ở ngoại biên
thành phố. Ba tôi nói với cảnh sát là đi xem lễ Giáng Sinh
nửa đêm.
Tôi không biết còn tiếp tục được bao
lâu nữa để thay áo quần cho ba tôi, tắm rửa và cho ăn uống.
Tôi đã mỏi mệt lắm rồi. Cuộc sống thật quá khắt khe, quá đòi
hỏi! Và tôi cảm thấy tội lỗi khi suy nghĩ như thế về một
người cha mà tôi rất mực thương yêu.”
Tôi nói phụ họa vào: “Đúng thế! Cuộc
sống thật quá đòi hỏi khắt khe. Tôi không biết rồi đây chị
phải ứng phó như thế nào, nhưng tôi biết chị sẽ tiếp tục
cuộc sống như thế bao lâu có thể được, miễn là chị còn mạnh
mẽ và sức khỏe tốt. Tôi thông cảm với chị. Khó khăn của chị
hoàn toàn bị đóng khung trong thân phận con người.”
Sau đó, trước khi lái xe về nhà, tôi đã
vẫy tay chào. Cả chị và cha chị đứng trước cổng ra vào, cũng
vẫy tay lại. Người cha – không phải do lỗi lầm nào của chính
mình – hoàn toàn không nhận biết sự tận tâm tận lực của
người con gái yêu quý.
Khi đang lái xe về nhà, tôi nhớ lại
một tù nhân ở Lao Xá Mountjoy thường nói với tôi
câu nầy: “Khi con làm điều tốt, không ai nhắc nhở tới;
khi con làm điều bậy, không ai quên được.”
Hai loại giả dối
Câu nói của tù nhân trên đây cho thấy
một nan đề: ở mỗi một người trong chúng ta, đều có pha lẫn
cái xấu và cái tốt. Chúng ta đã có kinh nghiệm xung đột đó ở
bên trong chúng ta. Chúng ta vừa “lương thiện”, vừa “bất
lương”.
Tôi thường hay nói: “Chỉ những kẻ
tội lỗi mới đến nhà thờ Chúa nhật để xem lễ.” Thật đúng
như thế! Chúa không bao giờ khó chịu với kẻ tội lỗi. Tôi
biết khi nói điều đó sẽ làm cho một số người sửng sốt. Chúa
chỉ khó chịu với những ai nghĩ mình không phải là kẻ tội
lỗi.
Nếu bạn không tin lời tôi, xin bạn hãy
đọc lại Thánh Kinh. Tất cả chúng ta đều giả dối. Có hai hạng
người giả dối. Có người biết mình giả dối và có người phủ
nhận mình giả dối. Hy vọng chúng ta là những kẻ giả dối
nhưng cố gắng sống Tin Mừng, ngược lại với những kẻ
không cố gắng sống theo Tin Mừng chút nào.
Tôi thường chỉ cho những tù nhân ở Lao
xá Mountjoy thấy sự khác biệt lớn lao giữa họ và tôi: đó là
họ nhận thấy điều đó còn chính tôi thì không nhận ra.
Tất cả đều bại lộ
Nếu tất cả những thời gian đen tối
trong đời sống chúng ta cũng như những tâm tư xấu xa của
chúng ta được phô bày, chắc chắn những người quen biết chúng
ta sẽ sửng sốt, ngay cả công phẫn nữa. Nhưng tất cả cốt
chuyện không nằm ở chỗ đó.
Nếu tất cả những việc thiện giấu kín
của chúng ta, những sự hy sinh cũng như những việc đạo đức
của chúng ta được gia đình và bạn bè biết đến, chắc chắn họ
sẽ ngạc nhiên và có thể thán phục nữa về lòng hào hiệp ẩn
tàng nơi chúng ta.
Vì vậy chúng ta không nên quan tâm đến
tội lỗi mình cũng như tội lỗi người khác không bị ai hay
biết, và chỉ “nên sống lương thiện một cách âm thầm”,
như người đàn bà góa trong câu chuyện nầy. Không ai cả,
ngoại trừ Chúa ra! Chúa biết rõ như thế, và một ngày nào đó
kẻ trộm cắp sẽ được tha thứ, cũng như tất cả những việc lành
giấu kín rồi đây sẽ được tỏ bày cho mọi người trông thấy.
Bàn tay của Chúa
Cho phép tôi đan kết lại với nhau về
những gì mà tôi đang chia sẻ với quý bạn bằng một câu chuyện
liên quan đến một đôi tân hôn bị lâm vào trận bão tố trên
con đường heo hút ở Rặng Núi Đá miền Tây Canada.
Vì không thể đi xa được nữa, họ bắt
buộc phải bỏ xe hơi lại. May mắn thay, có một trang trại gần
đó. Một ánh đèn le lói từ nơi cửa sổ trang trại phóng ra đã
đưa họ đến đó để được giúp đỡ.
Chủ nhà là một đôi vợ chồng già nua,
khi nghe tiếng gõ cửa, họ đã vội vàng mở. Đôi vợ chồng trẻ
giải thích với họ về tình trạng ngặt nghèo của mình và xin
ngủ tạm qua đêm. Họ nói: “Xin cho chúng tôi ngủ nhờ nơi
nào cũng được, trên tấm thảm nơi sàn nhà…”
Khi họ đang nói, một vài hạt thóc dính
trên đầu tóc bạc phơ của bà già rơi xuống. Lập tức, cặp vợ
chồng già nhận biết họ là đôi tân hôn. Cặp vợ chồng già đưa
mắt nhìn nhau rồi nói: “Được rồi, anh chị cứ ngủ lại di.
Hãy ngủ trong phòng dành cho khách khứa.”
Đêm hôm đó, đôi tân hôn đã sử dụng
phòng dành cho khách. Sáng hôm sau, họ đã thức dậy sớm và ra
đi thật lặng lẽ để khỏi quấy rầy chủ nhà. Họ vội vã mặc quần
áo và để lại một tờ giấy năm chục đô-la trên bàn trang điểm.
Họ cúi mình để xuống thang lầu và trong
khi nhón gót đi qua phòng khách, họ rất đỗi ngạc nhiên thấy
ông cụ già đang co cụm trên chiếc ghế bành, còn bà cụ già
đang cuộn mình lại trên ghế trường kỷ.
Cặp vợ chồng già đó không có phòng dành
cho khách. Họ đã dành giường ngủ của họ cho đôi tân hôn xa
lạ kia. Họ không muốn làm hỏng thời gian trăng mật của đôi
tân hôn đó.
Cặp vợ chồng già đó cũng giống như
người đàn bà góa ở trong Phúc Âm. Họ đã “cho đi những gì
tốt đẹp nhất” trong hoàn cảnh của họ. Đến lượt đôi tân
hôn, họ cũng “cho lại những gì tốt đẹp nhất” mà họ
có được trong cảnh ngộ đó của họ.
Chúng ta cần một linh đạo nối kết chúng
ta lại với cuộc sống, khà dĩ giúp chúng ta nhận thấy bàn tay
của Chúa trong cuộc sống thường nhật.
Câu chuyện đáng chú ý về người đàn bà
góa không nhằm mục đích đề cập tới đức độ hay lòng quảng
đại, nhưng nhằm cho chúng ta thấy điều kỳ diệu trong cuộc
đời thường. Đó là:
Chúng ta phải quan tâm hằng ngày;
Chúng ta phải quan tâm tất cả những
gì Chúa nhìn thấy hết
Và Ngài không thể quên được!
LM Vincent Travers, OP
Hương Vĩnh chuyển ngữ |
VỀ MỤC LỤC |
|
CỨ ĐỂ NHỮNG HẬU QUẢ CỦA NÓ XẢY RA (bài 2) |
Giờ cơm trưa mỗi ngày luôn là một cuộc
chiến đấu đối với người mẹ vì sau giờ cơm bà phải đưa cô bé
Mỹ Tiên, 6 tuổi, đến trường mẫu giáo. Bà có nghe về cách thế
áp dụng chiến thuật mà người ta đã chỉ cho bà. Đối với bà,
cô bé đến đúng giờ là một vinh dự cho bà vì thật sự không dễ
để làm cho cô bé đi học đúng giờ. Một ngày kia, bà chỉ cho
cô bé biết đã đến giờ cô bé phải rời nhà đi học, nhưng rồi
bà lại phải ngồi xuống ăn trưa với cô bé. Cô bé cứ nhẩn nha
không thiết gì giờ giấc đến trường. Bà mẹ cảm thấy khó chịu
nhưng không biết làm cách nào. Sau khi ăn xong, bà rời khỏi
nơi đó và đi vào phòng khách xem Tivi và xem ra bà chỉ chú
trọng vào công việc của bà. Cuối cùng thì cô bé đến trường
trễ nửa giờ. Khi cô bé trở về, bà mẹ để ý xem có gì khác
biệt xảy ra không, như kết quả của việc đi trễ. Nhưng mọi sự
vẫn bình thường không có gì xảy ra. Tuy nhiên, bà mẹ tiếp
tục với phương cách đó cho ngày hôm sau. Vào ngày thứ 3, bà
viết một vài hàng ghi chú cho cô giáo và xin cô cộng tác.
Ngày hôm đó cô bé đi trễ 40 phút. Khi cô bé về nhà, cô bé
khóc nức nở, hậu quả của việc đi trễ. Bà mẹ an ủi: “Cưng, mẹ
xin lỗi vì con đã đi trễ. Con có thể đi học sớm hơn vào ngày
mai”. Từ ngày hôm đó trở đi, cô bé luôn coi giờ để đi học,
và bà mẹ không còn phải quan tâm đến việc nhắc nhở cô bé đi
học đúng giờ nữa.
Cũng phương cách đó, chúng ta có thể áp
dụng cho các trẻ con thức dậy và đến trường vào lúc sáng. Bố
mẹ nên cho chúng những đồng hồ báo thức. Bố mẹ nên cắt nghĩa
cho chúng biết rằng bố mẹ sẽ không còn trách nhiệm gọi chúng
thức dậy và đến trường đúng giờ nữa. Bố mẹ nên ngưng làm
những chuyện đó và cứ để cho chúng chịu trách nhiệm nếu
chúng muốn nhẩn nha, ham chơi, quên mang sách, hay quên làm
bài tập. Ngay cả việc trễ xe buýt của trường, hãy để chúng
nó tự đi bộ tới trường, chúng có đủ năng lực.
Chúng ta cứ tự hỏi: cái gì sẽ xảy ra
nếu chúng ta không can thiệp vào những chuyện ấy? Đi học trễ
hoặc không làm bài sẽ khiến các cô giáo giận dữ. Các đồ chơi
bị phá hủy sẽ không còn để chơi. Quần áo dơ không cho vào
giỏ giặt đồ, sẽ không được giặt. Và cứ như thế, những hậu
quả do việc làm của chúng tất nhiên sẽ xảy ra, và rồi chúng
phải đối diện với những hậu quả đó.
Yến Vi 3 tuổi đang ở trong sân nhưng cứ
muốn chạy ra đường chơi. Bà mẹ cứ phải canh giữ và mang nó
trở lại trong sân. Bà rầy la và phết đít nó, nhưng cũng chỉ
vô ích.
Trong trường hợp nầy, chúng ta phải xử
sự thế nào? Dĩ nhiên chúng ta không nên để đứa trẻ tự do
chạy nhảy kẻo nó bị xe tung vì đó là kết quả đương nhiên của
việc chạy chơi ngoài đường. Vì thế, chúng ta phải xếp đặt
một kết quả làm sao để thích hợp với một trật tự đã bị phá
vỡ. Lần đầu tiên cô bé chạy ra đường, bà mẹ dĩ nhiên là bắt
nó lại và nên hỏi cô bé có muốn chơi ở trong sân không? Nếu
nó còn thích chạy rông ra đường, bà mẹ không cần nói năng gì
cả, chỉ việc yên lặng bế nó và đem nó vào trong nhà. Hành
động của bà như muốn nói: vì con không thích chơi ngoài sân
nên con không được phép ra ngoài nữa. Chỉ khi nào con chấp
nhận chơi ở trong sân mà thôi, con được phép làm điều đó.
Điều đó có nghĩa là nó có quyền lựa chọn làm theo ý muốn của
nó. Bà mẹ không nên áp đặt, nhưng bà có thể thiết lập một
giới hạn và kết quả theo đó. Bất cứ khi nào cô bé tỏ ý muốn
chấp nhận điều đó, nó có thể chạy ra sân chơi. Nhưng nếu nó
vẫn thích chạy lung tung ra ngoài đường, nó sẽ bị bắt và bị
mang vô nhà cho suốt thời gian còn lại của ngày hôm đó.
Nhưng để đề phòng, đừng để việc đó trở nên một cuộc chiến
tranh giữa 2 mẹ con vì vấn đề quyền bính, sau lần thứ 3 bà
mẹ nên để nó ở trong nhà một vài ngày. Điều quan trọng là
cho nó có cơ hội làm lại cuộc đời. Cô bé có thể phản đối
việc bắt nó đem vào trong nhà và tỏ vẻ muốn nổi loạn vì
không được làm theo sở thích. Vào những lúc đó, bà mẹ nên
lặng yên. Bà không nên phản ứng gì về việc cô bé muốn làm
loạn, vì ở đây chúng ta chỉ cần ứng phó với riêng vấn đề nầy
mà thôi.
Bé Duyên 3 tuổi quên đánh răng. Để làm
công việc đó, bà mẹ phải đi với nó và ép nó đánh răng mỗi
lần bà thấy cần. Lần nầy, cả 2 mẹ con đều cảm thấy bực bội,
nên bà mẹ nghĩ đến phương cách mà bà vừa được học hỏi. Bà
bảo với cô bé rằng cô bé không cần phải đánh răng nếu cô bé
không muốn. Nhưng vì kẹo và đồ ngọt sẽ làm hại những răng
không được đánh, nên nó không được phép ăn đồ ngọt nữa.
Trong vòng một tuần, cô bé không đánh răng nhưng cũng không
có kẹo để ăn. Những đứa khác thì có kẹo và có kem để ăn nữa.
Vào một buổi chiều kia, cô bé tuyên bố với mẹ rằng cô bé
muốn đánh răng và muốn có kẹo để ăn. “Không phải bây giờ
cưng ơi! Con phải đánh răng vào buổi sáng và sau khi ăn”. Cô
bé chấp nhận ngay mà không phàn nàn. Sáng hôm sau, khi thức
giấc cũng như sau những bữa ăn, cô bé vui vẻ đi đánh răng
như đã thõa thuận.
Nhiều chuyện như thế đã được dùng theo
phương cách nầy và đã thành công.
lm.lêvănquảng, Tiến
sĩ tâm lý
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NIỀM RIÊNG |
(Lc 7:36-8:3)
Sao em không nói một
lời,
ngày xưa áo tím, chợ
đời xôn xao,
niềm riêng biết gởi nơi
nao,
nỗi lòng vời vợi, cơn
đau chập chùng.
Gót chân Ai đẹp lạ
lùng,
nghe trong suối lệ cõi
lòng ăn năn
tóc mây vấn vít đôi
chân,
dầu thơm hay vạn hoa
ngàn ngát bay
Dù đời vẫn trắng đôi
tay,
dù đang sống kiếp đọa
đầy lao lung,
quyết tâm vẹn nghĩa
thủy chung,
vững tin Lượng Cả bao
dung hải hà
Chúa yêu em, Chúa thứ
tha,
từ nay cuộc sống chan
hòa niềm vui ...
vân thanh
17.06.2007
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÍNH
TRỊ THEO QUAN ĐIỂM CỦA GIÁO HỘI |
Nhiều người Việt chúng ta
hiện nay, ở hải ngoại cũng như tại quê nhà, mỗi khi có ai
nói đến hai tiếng CHÍNH TRỊ, là không muốn nghe nữa. Chúng
ta, hàng ngày vẫn phải sống, va chạm với những vấn đề chính
trị mà tại sao lại "kỵ" nó như vậy ? Phải chăng chính trị là
cái gì lôi thôi, làm phiền chúng ta, gây khó khăn cho chúng
ta, tạo cho chúng ta những điều khó nói khó giải quyết, có
khi không nói được những điều mà mình nghĩ trong tâm, hoăc
sơ đụng chạm đến người khác, gây phiến toái cho cả người
nghe lẫn người nói. Đất nước chúng ta qua bao thế hệ từ ông
cố bà cố nội ngoại, ông bà cha mẹ, cả con cái chúng ta đã
trải qua những thời kỳ chiến tranh điêu linh từ 1940, 1950
đến 1954, 1975..... Rồi từ 1975 đến nay, tuy đất nước đã
ngưng tiếng súng nhưng lòng chúng ta vẫn còn "chiến tranh".
Chúng ta vẫn đang bị lưu đầy nơi đất khách quê người xa xôi
ngàn dậm. Vì "chính trị" mà chúng ta phải rời bỏ quê hương
đất tổ. Vậy chính trị là gì?
CHÍNH TRỊ LÀ GÌ?
Ở đây chúng tôi không
muốn đào sâu về chính trị một cách hàn lâm khoa bảng
(academic), chỉ xin nói một cách khái quát và thực dụng
vào những câu chuyện, cuộc sống hàng ngày của con người từ
gia đình đến xã hội, quốc gia. Theo Littré viết từ năm 1870
thì chính trị là một khoa học cai trị các quốc gia.
Robert viết năm 1962 thì cho Chính trị là một nghệ
thuật và thực hành cách cai trị các xã hội
loài người. Như vậy thì cả hai định nghĩa, mặc dù
viết cách nhau gần thế kỷ, đều qui về hai chữ "CAI
TRỊ" tức ám chỉ trong đó một QUYỀN HÀNH.
Các nhà chuyên môn hiện còn đang tranh
luận về điểm này. Một vài người cho rằng Chính trị là một
khoa học chính thể các quyền hành có tổ chức trong các đoàn
thể quốc gia. Trái lại phần đông cho đó là khoa học các
quyền hành có tổ chức trong một đoàn thể. Thực vậy, muốn cai
trị phải có quyền hành, dù trong một tổ chức xã hội loài
người còn sơ khai. Nhưng thế nào là QUYỀN HÀNH và dùng quyền
hành thế nào để mưu cầu công ích? Làm sao có thể dung hòa
giữa quyền hành và nhu cầu của hai phía: cai trị và bị trị?
Như vậy chúng ta thấy có hai thái độ căn bản về chính trị.
Một đàng cho Chính trị là một cuộc đấu tranh, cá nhân hay
nhóm nào nắm được quyền hành là nắm được quyền thống trị để
thủ lợi. Một đàng cho chính trị là một nỗ lực duy trì trật
tự và công lý. Quyền hành là để bảo vệ quyền lợi chung, ích
lợi chung chống lại áp bức của các quyền hành riêng biệt phe
nhóm. Đối với những người trên, chính trị dùng để duy trì
đặc quyền đặc lợi của một thiểu số trên đa số. Đối với những
người sau, chính trị là một phương tiện để thực hiện một xã
hội công bằng, hòa bình, tự do kiểu đô thị của Aristote và
kiểu Khổng Tử thời Nghiêu Thuấn.
Tuy nhiên, dù dựa vào
thuyết nào đi nữa thì một phần cũng còn tùy thuộc vào tình
trạng xã hội. Con người ở giai cấp bị áp bức, nghèo đói, khổ
sở, bất mãn cho rằng quyền hành không thể đảm bảo một trật
tự thật sự mà chẳng qua chỉ là một trò hề bịp bợm để che đậy
sự thống trị của những kẻ có ưu thế. Đối với những người này
thì chính trị là đấu tranh. Còn giai cấp giàu sang, quyền
quí hả hê thì cho rằng xã hội là hòa hợp và quyền hành là để
duy trì một nền trật tự chân chính. Đối với họ, chính trị là
liên kết tất cả mọi người ở mọi giai tầng lại với nhau thành
một xã hội hòa hợp, tự do và thanh bình. Hai lập luận trên
bề ngoài xem có vẻ trái ngược nhau, nhưng đặc chất ý nghĩa
thực của nó lại bổ túc cho nhau, nghĩa là bất cứ lúc nào, ở
đâu nó cũng có tính lưỡng ứng, hai bộ mặt, diễn tả một thực
trạng xấu xa nhất, xác thực nhất của "nhà nước" hay "xã
hội". Nói rõ hơn, cái quyền hành thiết lập trong xã hội hay
quốc gia, dù ở đâu hay lúc nào thì cũng vẫn là một lợi khí
của Thống Trị. Nhưng chính trị vẫn thường được mô tả bằng
những mỹ từ đầy lý tưởng. Chính trị là một khoa hoc hay nghệ
thuật điều hành, cai tri một quốc gia sao cho mọi guồng máy
của nhà nước được ổn định, có trật tự kỷ cương, sinh hoạt
điều hòa thông suốt, để người dân được sống giàu sang, an
bình hạnh phúc yêu thương nhau, đồng thời chính quyền hay
người làm chính trị có được uy quyền phú quí. Nhưng làm sao
để có thể dung hòa được quyền lực và nhu cầu của cả hai
phía?
Trong một cộng đồng, đoàn thể hay một
quốc gia thì người dân, con người là đối tượng của chính
quyền hay người cầm đầu một tổ chức. Khi hội viên hoặc dân
số càng đông, đất càng rộng thì trách nhiệm và uy quyền của
người cầm đầu càng lớn. Con người là một sinh vật có trí
khôn, thông minh, năng động, có óc cải tiến không ngừng để
mưu cầu hạnh phúc. Do đó khi con người càng văn minh thăng
tiến thì nhu cầu càng nhiều và đa dạng. Lúc đó sự đòi hỏi
phải thỏa mãn của người dân nơi chính quyền trở nên phức
tạp, tạo thành xung khắc quyền lợi của hai bên. Đấu tranh
phát sinh từ đó.
Chính trị là đấu tranh, dùng con người làm PHƯƠNG TIỆN:
BAO LỰC
Dù nấp dưới danh nghĩa nào đi nữa,
ngưới làm chính trị vẫn nhân danh con người để đứng lên,
dùng con người làm PHƯƠNG TIỆN đấu tranh hầu cướp chính
quyền và bảo vệ quyền lực. Người ta kêu gọi Tự do, Dân chủ,
Nhân quyền và Bình đẳng xã hội, nhưng kết cuộc cũng là để
nắm giữ và bảo vệ quyền lực hầu mưu cầu lợi ích cá nhân hoăc
phe nhóm. Các hình thức đấu tranh của chính trị cũng sẽ tùy
thuộc ở những yếu tố tâm lý, dân số, địa dư, văn hóa, xã
hội, kinh tế cũng như ở ngay sự hiện hữu của các mâu thuẫn
gây ra chính trị. Mâu thuẫn bao giờ cũng phát sinh và biểu
lộ trong một khung cảnh nào đó và các yếu tố phát sinh ra nó
lại ảnh hưởng đến các hình thức đấu tranh trong hoàn cảnh đó
để rồi cuối cùng đưa đến BẠO LỰC. Bạo lực có thể là tiền,
các phương tiện truyền thông báo chí, kỹ thuật....không kể
vũ lực được biểu hiện bằng súng đạn hoặc giáo mác, nắm tay /
quả đấm. Đa số các phong trào đấu tranh chính trị đều đưa
đến và kết thúc bằng bạo lực. Có người nói: " Ông vua đầu
tiên là một quân nhân may mắn". Phải chăng câu
nói khẩy này ngụ ý rằng Vũ khí là nguồn gốc của quyền hành
và quyền hành trước hết dựa vào vũ lực. Chủ nghĩa Cộng Sản
đã chẳng đề cao tự do dân chủ, bình đẳng xã hội, tranh đấu
cho lớp người nghèo khổ thiệt thòi thợ thuyền, bần nông và
dùng bạo động đấu tranh giai cấp cướp chính quyền để rồi chủ
trương độc tài toàn trị ôm cứng lấy quyền hành độc đảng ?
Quyền hành đồng nghĩa với vũ lực. Kẻ nào mạnh về quân sự kẻ
đó thắng. Stalin đã từng thách thức Đức Giáo hoàng: "Ông có
bao nhiêu sư đoàn?"
Giáo Hội lấy con người làm CỨU CÁNH
:
BÁC ÁI, NHÂN HÒA thuần hóa BẠO LỰC
Giáo hội công giáo có lập
trường và đường lối hoàn toàn khác. Giáo hội không chủ
trương làm chính trị phe nhóm hay đảng phái, cũng không chủ
trương đứng về phe này hay phe kia hoặc tranh dành lấy quyền
lực cho mình.(Hiến chế mục vụ trong thế giới ngày nay).
Chính trị, theo giáo huấn của Giáo hội, lấy con người làm
CỨU CÁNH, và phương tiện tranh đấu là NHÂN HÒA / BÁC ÁI.
Những chỉ dẫn này ta thấy đầy dẫy trong Tin Mừng Phúc Âm là
bản "hiến pháp" tuyệt vời của Giáo Hội công giáo và các học
thuyết xã hội của Giáo Hội là bản nội qui hướng dẫn người
công giáo hành sử quyền con người của mình.
Vì lấy con người làm cứu
cánh, nên tất cả những gì liên quan đến con người Giáo Hội
đều nâng đỡ, che chở, bảo tồn và ủi an. Sinh mạng và phẩm
giá con người vì vậy đã được đặt lên hàng đầu, phải luôn
luôn được tôn trọng bởi lẽ con người là hình ảnh của
Thiên Chúa (St 9, 6), và được cứu chuộc bằng máu châu báu
của Đức Kitô, được làm con trong con người, làm đền thờ
của Chúa Thánh Thần và được dành cho sự sống đời đời trong
sự kết hợp với hồng ân Thiên Chúa (Christi fideles Laici,
37). Giáo Hội đòi hỏi mọi người phải sống với niềm tin
Tin Mừng. Chỉ có sống thực với Tin Mừng với tất cả tâm hồn
yêu thương vị tha mới có thể cứu gỡ phẩm giá con người khỏi
mọi lôi cuốn không ngừng của đam mê dục vong, hoặc khinh rẻ
hoặc tôn sùng thái quá thân xác con người. Không có một luật
lệ trần thế nào có thể bảo đảm nhân vị và tự do con người
thích đáng bằng Tin Mừng Chúa Kito, đã được trao phó cho
Giáo Hội. (Rm 8, 14). Tin Mừng này xác tín sự Tự Do của con
cái Thiên Chúa, phủ nhận mọi hình thức nô lệ, vì mọi ách nô
lệ đều do tội lỗi mà ra. Tin Mừng tôn trọng triệt để phẩm
giá và quyết định tự do của lương tâm, đồng thời cũng luôn
luôn nhắc nhở phát huy mọi tài năng để phụng sự Thiên Chúa
và mưu ích cho mọi người. Sau hết, Tin Mừng còn dạy mọi
người phải thương yêu nhau. Yêu tha nhân và cả kẻ thù như
chính mình vậy ( Mt.22, 39).
Nhân Quyền là quyền của
con người: quyền sống, quyền được trọn vẹn thể xác, quyền
được hưởng những phương tiện cần và đủ để sống xứng đáng là
con người có nhân phẩm như quyền sống an toàn trong lúc bệnh
hoạn, khuyết tật, già yếu, thất nghiệp...Ngoài nhân quyền
thể xác con người còn cần phải có nhân quyền tinh thần như
quyền tìm kiếm chính trị, quyền tự do tư tưởng, quyền tự do
tôn giáo, quyền bình đẳng không bị kỳ thị.
Tự Do cũng là một đặc
tính căn bản trân quí của con người, nhưng Tự Do phải gắn
liền với đi tìm Chân Lý. "Con người quay về điều thiện
luôn luôn trong tình trạng tự do"(Gaudium & Spes, 11 ).
Do đó tự do không có nghĩa là muốn làm gì thì làm nhưng là
có quyền làm những điều thuộc bổn phận của mình mà Thiên
Chúa đã khắc ghi trong tâm mỗi người.
Song song với việc giải
phóng con người khỏi mọi áp bức là việc cần thiết phải bảo
tồn tự do và tất cả những quyền cơ bản khác của con người,
trong đó quyền tự do tôn giáo chiếm vị thế quan trọng nhất.
(Evangelii Nuntiandi, 39). Quyền này không thể bị lệ thuộc
dưới bất cứ một áp lực nào, dù cá nhân, đoàn thể, quốc gia
hay bất cứ một quyền bính trần thế nào khác. Do đó, về
phương diện tôn giáo, không ai có thể bị ép buộc hành động
trái với lương tâm hoặc theo lương tâm mình dù trong bất cứ
hoàn cảnh nào, không gian và thời gian nào. (Dignitalis
Humanae, 2). Hạn chế quyền tự do tôn giáo rõ ràng là xúc
phạm đến phẩm giá con người kéo theo những vi phạm về tôn
giáo. (Redemptoris Hominis, 17).
Tóm lại, tất cả những vấn
đề thuộc về con người được tranh cãi và giải quyết đều liên
quan đến TỰ DO của CON NGƯỜI, trong đó Tự Do Tôn giáo là
trên hết và là một đòi hỏi bất khả nhượng. Nó là một tảng đá
ở trong góc nhà của tòa lâu đài NHÂN QUYỀN. Tự Do Tôn
giáo là một nhân tố thiết yếu không thể thiếu vì lợi ích và
sự phát triển của từng cá nhân cũng như toàn thể xã hội. Nhờ
nó mà việc sống chung hòa bình giữa con người với nhau được
hài hòa xung mãn. (Sứ điệp ngày Thế giới Hòa Bình 1988, Nhập
đề). Người công giáo không thể đóng cửa ở trong nhà thờ. Đức
Phaolo VI đã từng tự giới thiệu tại diễn đàn LHQ như là một
"chuyên viên về nhân bản" và tuyên bố "Phát triển là tên gọi
mới của hòa bình". Còn Đức Gioan Phaolo II biện hộ cho nhân
quyền, cho người nghèo, cho các nước nghèo thế nào thì cả
thế giới đều đã biết
SỐNG - CHÍNH -TRI
: Tu sửa bản thân,
dấn thân.
Chúng ta thường hiểu
chính trị theo nghĩa thông thường, chính trị là phe phái,
tranh dành, chiếm đoạt và bảo vệ quyền lực với mọi thủ đoạn
lưu manh gian ác miễn sao đạt được ý nguyện. Đó là chính trị
dơ bẩn, chính trị BÁ ĐẠO. Nhưng không phải ai cũng làm chính
trị bá đạo cả. Chúa Giêsu cũng làm "chính trị", nhưng Ngài
không dùng thủ đoan lưu manh để lừa gạt. Ngài lấy Từ bi, Bác
ái, lòng Nhân mà thuyết phục con người để mọi người thương
yêu nhau và sống an bình hạnh phúc. Đó là chính trị VƯƠNG
ĐẠO. Thí dụ về Chúa thì nhiều vô kể. Toàn thể TIN MỪNG là cả
một kho tàng, là một hiến pháp siêu chính trị mà chúng ta
phải noi theo. Nhưng chỉ xin nêu một thí dụ về Đức Khổng.
-Ông Tử Lộ hỏi Đức Khổng:
"Nếu vua nước Vệ mời thầy ra giúp vua cai tri, thày làm
gì trước?"
-Khổng Tử đáp: "Ắt
phải lấy chính danh làm trước vậy."
Thuyết chính danh như thế nào, có thể
đa số chúng ta đã biết, xin không bàn nhiều ở đây. Chúng ta
thường nghe nói: Danh Chính Ngôn thuận, nghĩa là
Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc
sự bất thành , thuyết căn bản của triết học họ Khổng.
Đãng CSVN, chế độ tự do tại Hoa Kỳ này đang áp dụng loại
chính trị nào? Chắc không phải là chính trị vương đạo. Nếu
vương đạo, chính danh thì đã chẳng có hơn 3 triệu người
Việt, trong đó có chúng ta, đã liều chết rời bỏ quê hương
lang thang nơi xứ người như hiện nay. Nếu vương đạo thì Hội
Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã không cần phải nhắc nhở người công
giáo dấn thân vào chính trị, chú ý đến những vấn đề xã hội,
Sự sống / Sự chết, Chiến tranh / Hòa bình....ở đất nước Hoa
Kỳ này. Phải chăng khi nói dấn thân, các ngài muốn chúng ta
sống với chính trị.
Con người sinh ra, sống
và chết trong môi trường chính trị. Con người là con vật
chính trị. Vì thế sống chính trị là điều kiện căn bản để
thực hiện một cuộc sống đầy đủ của con người, cả về thể xác
lẫn tinh thần. Sống chính trị không phải là làm chính trị.
Làm chính trị nhắm mục tiêu tranh dành quyền lực. Sống chính
trị cốt yếu ở chỗ thực hành những đức tính chính trị bắt đầu
ngay từ bản thân mình và ngay trong đời sống thừơng nhật của
mình. Tu sửa bản thân mình trước khi tu sửa xã hội.
Đức tính chính trị là
những nỗ lực cải thiện các mối liên hệ giữa mình với người
khác và rộng dần ra tới toàn thể xã hội, quốc gia.... Muốn
làm tốt hơn những mối tương quan này, tất nhiên phải tìm
hiểu đâu là những trở ngại, phía mình, phía người, tính chất
của những trở ngại này rồi tìm ra những phương hướng giải
quyết vấn đề dựa trên những điều kiện cơ bản, thích hợp với
Tin Mừng.
Đức tính chính trị là
những đức tính có tính cách cộng đồng, nằm trong các mối
tương quan xã hội. Để luyện tập những đức tính này không thể
đóng cửa tu thân hàm dưỡng trong phòng kín, mà phải dấn thân
vào các sinh hoạt đoàn thể / cộng đồng. Phải cùng với nhiều
người khác tạo ra một môi trường tập thể tu thân, tạm gọi là
CỘNG TU. Giáo hội sơ khai của các tông đồ phải chăng cũng là
những cộng đồng cộng tu, mọi người quây quần sống chung với
nhau để cầu nguyện, ăn chay hãm mình và tu luyện.
Chính trị luôn luôn có
tính cách bành trướng, tạo ra một mối tương quan mật thiết
giữa phần tử với toàn thể. Vì thế việc thực hiện các đức
tính chính trị tuy bắt đầu từ đời sống thường nhật của mình
nhưng lại bắt buộc phải kết thúc ở toàn thể xã hội. Nếu
không, sinh hoạt chính trị sẽ bị bóp méo hay bẻ gẫy. Đời
sống con người và xã hội cũng bị xáo trộn theo.
Chính trị là sự áp đặt của toàn thể vào
cá nhân. Nhưng đức tính chính trị lại là sự phản hồi từ cá
nhân vào toàn thể. Khi sự phản hồi này được thể hiện, thì
tính chất áp đặt không còn nữa, mà đã trở thành tự do dân
chủ....đem lại phúc lợi chung cho mọi người. Mỗi người công
giáo chúng ta, nếu sống đúng tinh thần Tin Mừng Chúa sẽ là
những hạt nhân có tính phản hồi vào môi trường xã hội làm
đẹp chính trị. ( Mt.5, 13-16).
Trong thực tế, làm được
điều đó không phải là dễ . Chúa dạy "chúng ta phải
thương yêu nhau như yêu chính mình vậy"( Mt. 22, 39) đã
hơn 2000 năm nay mà bây giờ, hàng ngày Giáo Hội và các cha
vẫn còn phải nhắc nhở chúng ta. So kè những vấn đề khác nhau
của đất nước là thực hiện một đức tính chính trị. Không đồng
quan điểm về một vấn đề gì nhưng vẫn tiếp tục hợp tác trong
các sinh hoạt của cộng đồng xã hội, lại là một đức tính
chính trị khác.
Mỗi cá nhân tín hữu không
tự cô lập trên ngọn núi của mình, mà phải xuống núi, xắn tay
hợp tác với người khác, khép mình vào một kỷ luật làm việc
tập thể, đó là đức tính chính trị.
Tạo được sự hợp tác giữa
những bất đồng trong cùng một hệ phái, một cộng đồng đã là
việc khó, tạo sự hợp tác này giữa những hệ phái / cộng đồng
khác nhau lại còn khó hơn bội phần, đòi hỏi nhiều tập luyện
các đức tính chính trị khác nhau, không thể chỉ nói xuông.
Nguyên do chính tạo ra
những bất ổn trong xã hội là sự xung đột quyền lợi giữa
người này với người khác, giữa nhóm này với nhóm khác. Giải
quyết những vấn đề này mà phải dùng tới các thủ đoạn man trá
và tàn độc thì thật ra không phải là giải quyết, mà chỉ
triển hạn, đẩy lui vấn đề đi xa hơn bằng cách tạo ra nhiều
vấn đề khác. Nước đang đục, khuấy cho đục thêm.
Để giải quyết những vấn
đề có tính cách toàn diện này, không thể chỉ dựa vào sự
luyện tập các đức tính chính trị nơi một số người, mà phải
cần tới những sửa sang dự bị từ nền tảng trong mọi tương
quan của toàn thể xã hội. Xã hội nào, chính quyền đó. Toàn
thể gọi toàn thể. " Muối sẽ làm mặn môi trường. Ánh sáng
sẽ xua đuổi bóng tối."(Mt. 5, 13-16). Một cuộc cách mạng
chỉ thành công trong một môi trường đã dọn sẵn. Một chế độc
tài cũng chỉ thành công trong một môi trường thích hợp với
nó. Một chế độ không bỗng nhiên từ trời rơi xuống. Một chế
độ bao giờ cũng là con đẻ của một tình trạng xã hội. Mà xã
hội là do chính chúng ta tạo nên. Sống chính trị càng lan
rộng thì mọi não trạng của xã hội sẽ thay đổi theo. Các
tương quan sẽ từ từ thay đổi bản chất. Khi trái cây chín mùi
đủ chỉ một cơn gió nhẹ cũng làm nó rụng xuống.
LỜI KẾT :
Để sáng tỏ ý nghĩa hai
tiếng Chính trị theo quan điểm của Giáo Hội, tôi mượn mẩu
đối thoại giữa một nhà báo Ý và Đức Thánh cha Gioan Phaolo
II:
- Thưa Ngài, Ngài có
làm chính trị không?
- Đừng hiểu chính trị
theo nghĩa hẹp. Giáo Hoàng có bổn phận rao giảng phúc âm, mà
trong phúc âm có con người, tức có nhân quyền, tự do, nhân
phẩm và lương tâm cùng tất cả những gì thuộc về con người.
Nếu tất cả những cái đó có một giá trị chính trị thì tôi làm
chính trị.
Vì tôi bênh vực
con người. (Ezio Mauro e Paolo Mieli.G.P.II , La stampa
04.03.91,2).
Nguyễn Tiến
Cảnh, MD. Ph.D.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU KHÔNG KIÊU CĂNG |
Tác phẩm 13 Nét Mặt Tình Yêu -
Dominique AUZENET
Lm Micae-Phaolô Trần Minh Huy chuyển
ngữ
1. Tình yêu không phồng lên (kiêu ngạo) :
Ngoại động từ phồng lên thánh Phaolô dùng ở đây làm chúng ta
liên tưởng đến ngụ ngôn La Fontaine "Con
nhái muốn phồng to bằng con bò", và để rõ hơn, người ta
dịch thêm phồng to kiêu ngạo : "Sự hiểu biết đó phồng to
(sinh) lòng kiêu ngạo, còn lòng bác ái thì xây dựng" (I Cor
8,1). Kiêu ngạo, khoe khoang, kênh kiệu là
những biểu lộ của lòng mến mộ chính mình, chứ không phải là
của đức ái, vốn là tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân.
"Kẻ nào yêu bản thân bằng một tình yêu vô trật tự thì
chẳng có đức ái nơi mình, bởi vì nó không yêu mến Chúa...
Lòng tự ái lột bỏ đức ái khỏi tâm hồn để mặc cho nó tính xấu
kiêu ngạo. Và chính vì thế mà mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ
lòng tự ái"[1]
Lòng tự ái được nhận diện bởi sự thích nghĩ đến mình hơn là
nghĩ đến Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài. Hay còn bởi ước
muốn làm cho các quan điểm riêng của mình được vượt trổi
trong vấn đề nầy hoặc vấn nạn kia... Thánh Phaolô không dịu
dàng với những người Côlossê :
"... Họ chìm đắm trong những thị kiến của mình, vênh
váo vì những suy nghĩ theo lối người phàm. Họ không gắn chặt
với Đầu là Đức Kitô..." (Col 2,18-19).
Thánh nhân còn gọi cái đó là sự hỗn láo ngạo mạn trong một
bản liệt kê mà Ngài gọi là mớ lộn xôn : "chia rẽ,
ghen tương, oán ghét, cạnh tranh, vu khống, nói hành, kiêu
căng, hỗn loạn" (II Co 12,20). Đọc những điều
như thế, có lẽ chúng ta không khỏi nghĩ rằng cả đến các cộng
đoàn, giáo xứ chúng ta cũng chẳng hơn gì cộng đoàn Corintô !
2. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan :
Đó là lời khuyên của thánh Phaolô vào cuối thư gởi tín hữu
Rôma :
"Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại,
nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là
khôn ngoan" (Rm 12,16).
Tito Colliander, một tín hữu Chính Thống có gia đình đã viết
:
" Quả thật làm sao một người có thể nhận được những
lời khuyên, sự đào tạo, giúp đỡ, nếu y nghĩ rằng mình biết
hết mọi sự, có thể làm mọi thứ và chẳng cần lời khuyên bảo
nào cả ? Không một tia sáng nào có thể xuyên qua được một
bức tường tự mãn như thế : 'Khốn thay những kẻ coi mình là
khôn ngoan, và cho mình là thông minh' (Is 5,21)...
Vậy
chúng ta hãy lột bỏ sự tín nhiệm thái quá mà chúng ta có cho
chính mình. Nó thường cắm rễ sâu trong mình mà chúng ta
chẳng nhận thấy, ngay cả sự chế ngự mà nó thi thố trên tâm
hồn chúng ta. Rõ ràng chính sự ích kỷ, sự quá lo lắng cho
bản thân và lòng tự ái của chúng ta là nguyên nhân các khó
khăn, sự thiếu tự do nội tâm trong cơn thử thách, những phật
ý, những nỗi bứt rứt tâm hồn và thể xác của chúng ta.
Bạn
hãy nhìn vào chính bạn, và bạn sẽ thấy bạn bị ràng buộc đến
độ nào bởi ước muốn làm thỏa mãn "cái tôi" của bạn, và chỉ
một mình nó thôi. Tự do của bạn đã bị trói buộc bởi những
mối giây chật hẹp của lòng yêu bạn, và như thế vô tình bạn
bị đu đưa như cái xác không ý thức từ sáng sớm đến chiều tối
: 'Bây giờ tôi muốn uống, bây giờ tôi muốn đi ra ngoài, bây
giờ tôi muốn đọc báo...' Trong mỗi khoảnh khắc, các ước muốn
riêng của bạn xỏ mũi lôi kéo bạn như thế, và nếu có gì gây
trở ngại là bạn nổi tam bành lên tức thì, vì phật ý, thiếu
nhẫn nại hay tức giận.
Nếu
bạn thăm dò trong sâu thẳm lương tâm mình, bạn sẽ khám phá
ra những điều tương tự. Cảm giác khó chịu mà bạn cảm nhận
khi có ai đó nói nghịch lại với bạn cho phép bạn dễ dàng
thấy rõ điều đó. Chúng ta sống như vậy như những tên nô lệ.
Nhưng 'ở đâu có Thánh Thần là ở đó có tự do' (2 Cor 3,17)"[1]
3. Anh em đừng đánh giá mình cao quá :
"Sự tự do mà Thánh Thần ban cho chúng ta đi qua một
tình yêu đúng đắn đối với bản thân, nó dựa trên một sự hiểu
biết đích thực về mình. 'Nếu con muốn đạt được sự hiểu biết
hoàn hảo, nếu con muốn thưởng thức Chân lý vĩnh cửu là chính
Chúa, thì đây là con đường : con đừng bao giờ ra khỏi sự
hiểu biết chính con và luôn hạ mình trong thung lũng khiêm
nhường. Con sẽ nhận ra chính Chúa ở trong con, và từ sự hiểu
biết nầy con kéo ra được mọi thứ cần thiết. Không một nhân
đức nào có thể có sự sống trong chính mình, ngoại trừ bởi
đức ái và bởi đức khiêm nhường, vốn là mẹ nuôi của đức ái.
Sự hiểu biết về chính con sẽ gợi lên cho con đức khiêm
nhường, khi con khám phá ra được rằng con chẳng hiện hữu, và
hữu thể mà con cũng như những người khác đã lãnh nhận từ nơi
Chúa là Đấng yêu thương các con, trước khi các con có mặt
trên đời"[1]
Nhân những ân ban thiêng liêng được trao cho cộng đoàn xuyên
qua mỗi người chúng ta (việc nầy khêu lên các cám dỗ về kiêu
ngạo), thánh Phaolô khuyến cáo sự đánh giá đúng đắn dựa trên
một hiểu biết chân thật về chính mình nhu sau :
"Anh em đừng quá mức khi đánh giá chính mình, nhưng
hãy đánh giá mình cho đúng mức, mỗi người tùy theo lượng đức
tin Thiên Chúa đã phân phát cho"
(Rm 12,3).
Lời kêu gọi đến đức khiêm tốn nầy là cần thiết cho chúng ta
: chúng ta sẽ không bao giờ nhỡ phô trương sự hơn người của
chúng ta, trong thái độ hay trong lời nói... Trong thư gởi
tín hữu thành Philiphê, thánh Phaolô còn đi xa hơn :
"Đừng làm chi vì óc bè phái, vì hư danh, nhưng mỗi
người hãy khiêm nhường đánh giá người khác trổi vượt hơn
mình" (Phil 2,3).
4. Thiên Chúa chống lại những kẻ kiêu ngạo :
Chúng ta biết rõ lời cầu nguyện của Trinh Nữ Maria trước sự
hiện diện của bà chị họ Elizabeth : Kinh Magnificat, linh
hồn tôi ngợi khen Chúa. Mẹ hát lên Chúa đã
đoái nhìn sự nghèo khó của nữ tỳ Ngài thế nào.
Xuyên qua ân sủng dạt dào của Mầu nhiệm Nhập Thể nầy, Mẹ
cũng nhận thấy rằng Chúa đến phân tán những kẻ
kiêu ngạo bởi chính những tính toán của lòng họ.
Cha Laurentin chú giải :
"Những người nghèo sống trong chân lý : họ biết yếu
đuối của họ và sự cao cả của Thiên Chúa. Còn những kẻ kiêu
ngạo phồng mình lên, tự cho mình những vẽ bề ngoài cao hơn
những gì thực sự là họ.Hảnh diện về bản thân và sự độc lập
hơn người của mình, họ tự phụ phong cho mình làm địch thủ
với Thiên Chúa. Tình yêu ảo tưởng về bản thân của họ làm cho
họ trở nên thù nghịch với chân lý, và thù địch với những
người nghèo mà họ thống trị để vươn lên.
...
Thiên Chúa làm thất bại những ý định xảo trá không để các
mánh khóe của chúng thành tựu. Ngài bắt những kẻ khôn ngoan
ngay trong các mánh khóe của họ : 'Mưu đồ của hạng tinh
khôn, Người phá vỡ, khiến tay chúng chẳng làm nên công trạng
gì. Người bắt kẻ khôn ngoan bằng chính những xảo kế của
chúng, và đi trước mưu toan của phường quỷ quyệt' (Job
5,12-13). Châm ngôn nầy thường được kiểm chứng qua dòng lịch
sử : Những kẻ kiêu ngạo mà tham vọng và ảo tưởng vượt quá
phương tiện của mình đang chuẫn bị cho sự suy tàn của chính
chúng"[1]
Ở đây, trong lời cầu nguyện của mình, Mẹ Maria nêu lại một
sự hiển nhiên xuyên suốt cả Kinh Thánh. Chẳng hạn thánh
Phêrô trong thư thứ nhất :
"Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau,
vì Thiên Chúa chống lại những kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho
những người khiêm nhường" (I Pet
5,5).
"Nhưng ân sủng Người ban còn mạnh hơn, vì thế có lời
Kinh Thánh nói : 'Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng
ban ơn cho kẻ khiêm nhường' (Jc 4,6).
5. Mỗi người đều có sự kiêu ngạo của mình :
Dù hình thức thế nào đi nữa, sự kiêu ngạo của mỗi người đều
có một điểm chung là sự đánh giá cao thái quá về bản thân
mình. Nó được biểu lộ ra trong sự thỏa mãn hảo huyền về các
tài năng hay ân ban của mình.
Người kiêu ngạo thích mình hơn kẻ khác và tự so sánh mình
tốt hơn, được phú bẩm hơn kẻ khác. Người kiêu ngạo quên đi
hay từ chối nhìn nhận những gì mình có, những gì mình là,
đều bởi Thiên Chúa mà đến.
Sự kiêu ngạo mặc nhiều hình thức khác nhau :
·
Tính khoe khoang :
một sự hảnh diện thái quá để đi
tìm kiếm những danh dự, những sự cao trọng ; ưa xuất hiện,
ưa thành công để thỏa mãn bản thân...
·
Sự thỏa mãn hảo
huyền trong các tài năng và ân ban
của mình,... tắt một lời là tự lấy làm thỏa mãn.
·
Ao ước biết hết
mọi sự hay luôn luôn muốn biết
nhiều hơn, nhiều hơn cả những gì Thiên Chúa đã muốn cho
chúng ta biết (một số những tò mò nào đó là nguyên nhân của
kiêu ngạo).
·
Tính tự phụ :
chính là quá tự tín ở mình, có một ý
kiến quá đề cao bản thân, hoặc còn hơn nữa là tìm kiếm một
tình trạng cao hơn hiện trạng mà Thiên Chúa muốn cho chúng
ta.
·
Tính tự ái : một
tình yêu thái quá cho mình được
biểu lộ qua việc tìm kiếm thoải mái, và được diễn tả ra
trong việc thỏa mãn trước lời khen tặng ; trái lại, không
thể chịu đựng nổi lời phê bình và từ chối không nhìn nhận
các lầm lỗi của mình...
·
Tính quá nhạy cảm
: Phật ý về một chuyện chẳng ra
chi, không chấp nhận lời khiển trách... lòng tự ái bị dày
vò.
·
Tính ích kỷ : Tính
ích kỷ quơ tất cả về cho mình, tìm
mình trong mọi sự, gặp lại mình ở khắp mọi nơi. Tất cả chúng
ta đều hơn kém có hình thức kiêu ngạo nầy len lỏi vào cả
những ý hướng tốt nhất.
·
Kiêu sa : một thứ
bảo đảm ngạo mạn được biểu lộ ra
trong dáng vẻ, kiểu cách ; một thứ kiêu hảnh gần như khinh
bỉ...
"Ở đây không thể nêu hết mọi chi tiết các hoa trái của
kiêu ngạo trong đời sống hằng ngày của chúng ta : nói dối,
chán nãn, buồn bã, độc lập, ghen tương, rụt rè...Quả thật,
kiêu ngạo "là một ngọn gió rất nhẹ nhàng, rất tinh tế, nó
thấâm nhập vào trong hầu hết mọi hoạt động của chúng ta...
và nó là sợi giây buộc chặt cả chuỗi các tật xấu"[1]
6. "Hãy học cùng Thầy, vì Thầy khiêm nhượng thật trong lòng"
Chúa Giêsu nhấn mạnh điều đó : Sự kiêu ngạo đến từ trong
lòng :
"Chính là từ bên trong, từ lòng dạ con người mà xuất ra
những ý định tà vạy... kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những
điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người
ra ô uế" (Mc 21-23).
Và kiêu ngạo :
·
đóng lòng chúng ta với đức tin : "Làm sao anh em có
thể tin được, khi anh em chỉ biết nhận lãnh vinh quang lẫn
cho nhau ?" (Jn 5,44).
·
làm chúng ta ra mù quáng : "...người lên mặt kiêu
căng không biết gì cả, nhưng mắc bệnh ham tranh luận và
thích cãi chữ. Do đó sinh ra ganh tỵ, tranh chấp, lộng ngôn,
nghĩ xấu" (I Tm 6,4). "... sẽ có những lúc gay go, người ta
sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khóac lác, kiêu ngạo, nói lộng
ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ơn bạc nghĩa, phạm thượng,
vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ,
ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu
khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa" (II Tm 3,1-4).
·
làm cho chúng ta quay đầu lại : "... kẻo lên mặt kiêu
căng mà bị kết án như ma quỷ" (I Tm 3,6)
·
làm cho chúng ta lầm lạc : "Lòng kiêu ngạo của ngươi
đã đánh lừa ngươi" (Ovadia 3).
"Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống
sẽ được nâng lên" (Lc 14,11 và 18,14). Vậy lòng
chúng ta cần được thanh tẩy bởi ân huệ của Chúa Thánh Thần
mà Chúa Cha đã hứa và Chúa Giêsu phái đến.
"Cha giới thiệu với các con một nhân đức rất thiết thân
với lòng Chúa Cứu Thế. Ngài nói : 'Hãy học cùng Thầy vì Thầy
dịu hiền và khiêm nhượng thật trong lòng' (Mt 11,29). Cha
liều mình nói một điều dại dột, nhưng cha vẫn nói ra là Chúa
quá yêu thương nhân loại đến đỗi đôi khi Ngài cho phép xảy
ra những tội trọng. Tại sao ? Để những kẻ đã phạm các tội ấy
vẫn ăn ở khiêm nhường, sau khi đã thống hối. Không ai muốn
tự coi mình là thánh thiên khi ý thức được mình đã phạm
những lỗi nặng. Chúa Cứu Thế đã khuyên nhũ nhiều về điều đó
: "Hãy ăn ở khiêm nhường !" Ngay cả khi các con làm được
những việc trọng đại, hãy nói : chúng tôi là những đầy tớ vô
dụng. Thế nhưng tất cả chúng ta đều có khuynh hướng làm
ngược lại và tìm cách làm cho mình nổi bật. Hãy trở nên bé
nhỏ, đó là nhân đức kitô giáo có liên quan đến mỗi người
chúng ta"[1]
Đức khiêm nhường, vốn là một cái nhìn khách quan và chân
thật về bản thân, sẽ thắng thế trong cuộc sống hằng ngày của
chúng ta, khi nó làm phát sinh trong chúng ta những hoa trái
của một sự trưởng thành thiêng liêng lớn lao hơn : giản dị
khiêm tốn, nhu cầu huynh đệ giúp nhau, chấp nhận bản thân,
sự dửng dưng liên quan đến danh tiếng của mình, việc không
bao giờ ngã lòng, bình an và niềm vui nội tâm, tìm kiếm chân
lý... Chúng ta hãy ao ước và cầu xin đức khiêm nhường trong
kinh nguyện hằng ngày của chúng ta.
"Sự tiến bộ trong đời sống thiêng liêng được biểu lộ ra
qua một hiểu biết luôn luôn được tích tụ thêm về chính sự
bất xứng của mình, theo nghĩa đầy đủ và mặt chữ, ngay khi
chúng ta tự cho mình giá trị nào đó, dù bằng cách nào đi
nữa, thì điều đó chứng tỏ các việc không xuôi. Cái đó cũng
nguy hiểm nữa, bởi vì Kẻ Thù sẽ tiến lại gần và bắt đầu làm
chúng ta mất cảnh giác về cách nó đặt trở ngại trên đường
chúng ta đi. Linh hồn có ý nghĩ quá cao về mình giống như
con quạ trong chuyện ngụ ngôn, thích nghe những lời nịnh hót
của con cáo, và để chứng tỏ giọng hát hay của mình, nó đã để
rơi mất miếng phó mát. Xin Chúa giúp bạn thực hiện cách ý
thức hơn cái bổn phận không được gán giá trị gì cho các công
trình của bạn"[1]
Suy niệm
để lần hạt Mân Côi
1.
Tình yêu không kiêu căng. "Sự hiểu biết sinh lòng
kiêu ngạo, còn lòng bác ái thì xây dựng" (I Cor
8,1). Chúng ta hãy cầu nguyện cho sự hiểu biết nơi mỗi người
chúng ta được nên cơ hội chia sẻ, chứ không phải để phô
trương lòng tự phụ là mình hiểu biết hơn người.
2. Tình yêu không kiêu căng. "Anh em hãy đồng tâm
nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những
điều hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan" (Rm
12,16). Trong khi
cùng Mẹ Maria chiêm ngắm Chúa Giêsu đã sống thế nào, chúng
ta hãy xin ơn được lôi kéo bởi những
gì là khiêm nhường.
3. Tình yêu không kiêu căng. "Đừng đi quá mức trong
khi đánh giá mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức, mỗi
người tùy theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho"(Rm
12,3).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con biết đón nhận những cơ hội
phải sống tầm thường và bé nhỏ như đến từ bàn tay Chúa.
4. Tình yêu không kiêu căng. "Anh em hãy lấy đức
khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ
kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường" (I Pet 5,5 - Jc
4,6). Lạy Chúa, xin
ban cho con biết nhìn nhận những sai trái của con khi làm
tổn thương các người khác bởi tính ngạo nghễ của con, và mặc
cho con đức khiêm nhường.
5. Tình yêu không kiêu căng. "Anh em hãy học cùng
Thầy, vì Thầy dịu hiền và khiêm nhượng thật trong lòng" (Mt
11,29). Nhờ lời cầu bàu của Mẹ
Maria, xin Chúa Thánh Thần nắn đúc trong chúng con sự dịu
hiền và khiêm nhượng của Trái tim Chúa Giêsu.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Ăn Mất Ngon |
Ngon miệng (appetite) là
khoái cảm, thèm muốn ăn uống.
Ăn mất ngon xảy
ra khi không còn thèm muốn này, mặc dù cơ thể vẫn có nhu cầu
về năng lượng.
Ăn mất ngon,
dù do nguyên nhân nào, là một biến cố quan trọng đối với mọi
người, đặc biệt là người cao niên và trẻ đang tăng trưởng.
Ăn mất ngon
không phải là một bệnh mà là dấu hiệu, triệu chứng của một
bệnh nào đó.
Khi ăn không ngon thì sự
tiêu thụ thực phẩm giảm. Mà thực phẩm lại mang năng lượng
cho mọi sinh hoạt của cơ thể, cung cấp vật liệu để tu bổ tế
bào hư hao, tạo ra tế bào mới. Không có đủ chất dinh dưỡng
sẽ dẫn tới giảm cân, cơ thể mệt mỏi, bắp thịt teo, tâm thần
buồn rầu, giảm khả năng miễn dịch, kém sức chịu đựng. Tử
vong có thể xảy ra nếu mỗi năm liên tục sụt đi 10% sức nặng
cơ thể. Các cụ ta có kinh nghiệm là “không ăn thì mẻ cũng
chết, nói chi con người”.
Cũng cần phân biệt sự ăn
mất ngon với bệnh anorexia nervosa. Ðây là một rối loạn ăn
uống có tính cách tâm lý của người từ chối dinh dưỡng đầy đủ
dù họ đói và mất cân trầm trọng. Lúc nào họ cũng coi mình
như quá mập, tự làm ói mửa để trục xuất thực phẩm ra khỏi
bao tử. Bệnh thường thấy ở
tuổi thanh thiếu niên, đặc biệt là nữ giới.
Phân biệt cảm giác đói và sự ngon miệng thèm ăn
Ðói (Hunger) là sự ước
muốn tự nhiên với thực phẩm sau một thời gian không ăn uống.
Cảm giác này được thỏa mãn bởi sự tiếp thu thức ăn.
Ðói được trung tâm nằm
trong bộ phận hypothalamus trên não bộ điều khiển. Trung tâm
này hoạt động tùy theo mức độ chất dinh dưỡng trong máu. Khi
mức độ chất dinh dưỡng thấp, hypothalamus phát ra một tín
hiệu gây ra cảm giác đói. Cảm giác cũng xuất hiện khi bao tử
trống rỗng co bóp. Vì thế người ăn vặt luôn miệng không có
cảm giác đói này.
Có người khi đói cồn cào
thì ăn gì cũng thấy ngon. Lại có người đang đói thấy món ăn
không thích lắm cũng không thèm ăn món đó. Ngược lại có
người khi đã no bụng mà thấy một món ăn hấp dẫn thì vẫn muốn
ăn.
Một món ăn bổ dưỡng mà ta
không thèm ăn thì sự bổ dưỡng cũng vô ích. Một số người lại
chỉ ăn món họ thích, bất kể bổ dưỡng hay không. Cho nên mới
có chuyện thiếu dinh dưỡng, nhất là ở trẻ em.
Khi ta ăn và nuốt thức ăn
thì một tín hiệu thỏa mãn chuyển lên hypothalamus và cảm
giác đói giảm đi. Khi dạ dày chứa nhiều thực phẩm thì cảm
giác đói không còn nữa. Ta có cảm giác “no nê”, thỏa mãn ước
muốn thực phẩm.
Cảm giác thèm ăn khác với
cảm giác đói. Ðây là một đáp ứng do học hỏi hoặc do thói
quen khi trông thấy thực phẩm. Thèm thức ăn không liên hệ gì
với nhu cầu cần thức ăn. Ví dụ sau một bữa ăn đầy đủ, không
ăn được nữa, nhưng con người vẫn thèm muốn ăn thêm và họ ăn
một cách thích thú. Người ta gọi trường hợp này là “no bụng,
đói con mắt”, bởi vì cảm giác thèm thuồng này nảy sinh như
một nhu cầu tâm lý.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng
tới sự thèm ăn:
- Tùy thuộc thói quen ăn
nhiều, tập quán gia đình, trình độ học vấn, văn hóa ăn uống
địa phương. Vì thế có giống người này dễ mập hơn giống khác
hoặc cùng ăn như nhau mà có người gầy, người béo.
- Dưới ảnh hưởng của xúc
động tâm lý. Nhiều người ở trong tâm trạng buồn chán, căng
thẳng lấy sự ăn uống để khuây khỏa; khi mất mát thì ăn để
đền bù; trẻ em ăn nhiều để lấy sự chú ý của cha mẹ.
Cơ quan hypothalamus ở
não bộ điều hòa sự thèm ăn, nhưng nguyên lý của sự điều hòa
này chưa được biết rõ.
Nguyên nhân ăn mất ngon
Có nhiều nguyên nhân gây
ra ăn mất ngon
1- Ăn
mất ngon vì bệnh tật như:
a- Trong bệnh tim-phổi,
người bệnh mệt mỏi không muốn ăn, lại còn bị sụt cân vì các
chức năng tuần hoàn, hô hấp cần nhiều năng lượng hơn để làm
việc.
Ngoài ra, các thuốc trị
bệnh tim phổi như steroid, theophyllin làm tăng hơi trong
bao tử, bệnh nhân cảm thấy no bụng, không muốn ăn.
b- Bệnh ung thư đặc biệt
là ung thư phổi và bao tử
c- Nhiễm trùng như trong
trường hợp bênh lao, bệnh AIDS.
d- Bệnh nội tiết như
tuyến giáp trạng ác tính, bệnh tiểu đường
đ- Trầm cảm, buồn phiền
vì sống cô lập hay mất bạn đồng hành.
e- Rối loạn vị giác và
khứu giác khiến cho không biết được hương vị thực phẩm và
không ăn
2-
Nghiện rượu
Rất thường xẩy ra ở người
cao tuổi. Khi uống rượu say, họ coi thường việc tiêu thụ
thực phẩm. Khi hồi phục cơn say, họ ói mửa, tiêu chẩy, không
muốn ăn.
Rượu cũng gây hư hao các
chức năng và cấu trúc của gan, ảnh hưởng tới sự tiêu hóa,
hấp thụ và tồn trữ thực phẩm, sinh tố và kim loại cần thiết.
3- Ăn
mất ngon do tác dụng phụ của dược phẩm
- Thuốc amphetamine làm
giảm sự ăn, cho nên nhiều người mập phì muốn giảm cân đã
dùng.
- Lạm dụng các loại thuốc
kích thích thần kinh (thuốc lắc ectasy)
- Thuốc trụ sinh gây tiêu
chẩy và làm thay đổi mùi vị thực phẩm; thuốc trị ung thư gây
ăn mất ngon đồng thời cũng đưa tới táo bón, ói mửa, tiêu
chẩy.
- Các thuốc trị bệnh tim,
thuốc an thần, thuốc ngủ giảm khoái cảm ăn uống.
- Vài loại thuốc gây khô
miệng (cogentin, artane), khiến cho sự nhai nuốt thức ăn khó
khăn.
- Thuốc chống đau nhức,
thuốc trị cảm, chống nghẹt mũi
Ngoài ra, người cao tuổi
còn kém ăn vì dùng nhiều loại thuốc trong ngày, khiến cho
ngang bụng, không muốn ăn.
4- Bệnh răng miệng,
răng giả lung lay, nhai nuốt khó khăn; yếu sức hoặc đau nhức
không sử dụng tay hữu hiệu để đưa thức ăn vào miệng; ăn chậm
làm thức ăn nguội không hấp dẫn, bỏ dở bữa ăn.
5- Không có thực phẩm,
nghèo túng, suy yếu không đi mua đồ ăn được, không nấu nướng
được.
Chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán bệnh căn cứ vào
lời kể của bệnh nhân về rối loạn trong việc ăn uống:
- Mất
khẩu vị từ khi nào? sau
biến cố hoàn cảnh nào? Nhiều hay ít?
- Có dấu hiệu gì khác như
buồn nôn, ói, táo bón, đau bụng...
- Có bệnh kinh niên?
- Có sụt cân không? Bao
nhiêu kí?
- Quần áo thấy rộng ra,
bắp thịt teo
-Giảm sức nặng bình
thường
Ðể tìm nguyên nhân, các
thử nghiệm như chụp X-quang và nội soi dạ dày, ruột; thử
nghiệm các chức năng của gan, thận, tuyến giáp, thử nước
tiểu, thử thai.
Ðiều trị
Vì mất ăn ngon
chỉ là dấu hiệu của một
bệnh nào đó trong cơ thể, cho nên cần đi bác sĩ để tìm ra
nguyên nhân rồi điều trị nguyên nhân đó.
Với bệnh nhân, nên lưu ý
tới các điểm sau đây:
- Ăn chung với bạn bè
hợp tính sẽ vui hơn và ăn được nhiều hơn.
- Bầy biện bàn ăn với
chén bát mầu sắc, sạch sẽ, kèm thêm vài bông hoa, điệu nhạc
hấp dẫn
- Ăn làm nhiều bữa nhỏ
mỗi hai giờ trong ngày thay vì hai hoặc ba bữa ăn chính. Một
mâm cơm với nhiều món ăn có thể
làm nhiều người thấy ngán, không muốn ăn. Ăn ít một giúp
tiêu hóa dễ dàng hơn rồi sau đó tăng dần dần phần ăn.
- Món ăn
phải hợp với khẩu vị, ý thích của mỗi cá nhân
- Khi ăn,
nên chậm rãi nhai để thưởng
thức hương vị món ăn và tạo ra sự muốn ăn món đó trong tương
lai
- Bữa ăn nào thấy ngon
miệng thì tăng món ăn trong bữa đó.
- Thêm gia vị, mầu sắc
khi nấu nướng để món ăn hấp dẫn hơn
- Tránh uống nhiều nước
hoặc uống thuốc trước bữa ăn để tránh no bụng.
- Kiêng món ăn có thể làm
no hơi như nước có gas, cà phê, rau cải bắp, broccoli.
- Ðể có đủ năng lượng và
chất đạm, uống hai ly sữa ít chất béo hoặc
sữa đậu nành mỗi ngày.
- Tránh
tiêu thụ quá nhiều rượu và thuốc lá là những chất kích thích
niêm mạc dạ dày, ruột khiến cho ăn không thấy ngon. Nhiều
người dùng một chút rượu gọi là “khai vị” để giúp ăn ngon,
nhưng nên uống trước bữa ăn khoảng nửa giờ.
- Uống nước
đầy đủ để miệng khỏi khô, khó nhai nuốt thực phẩm.
- Tránh táo
bón và tiêu chẩy.
- Ði bộ hoặc tập luyện
nhẹ giúp ăn ngon hơn đồng thời cũng giúp cơ thể tiêu thụ
chất dinh dưỡng. Tránh các tập luyện quá sức của mình.
- Giữ gìn vệ sinh răng
miệng, điều chỉnh răng giả, khám bác sĩ nha khoa theo định
kỳ.
- Giảm thiểu nguyên nhân
tinh thần như căng thẳng bằng tâm lý
trị liệu, áp dụng phương
pháp thư giãn cơ thể, thiền định, tập trung hít thở để giảm
bồn chốn, lo âu, nhờ đó có thể cải thiện sự ăn uống.
Biếng ăn ở trẻ em
Biếng ăn thường xảy ra ở
trẻ em, đặc biệt là tuổi đang tăng trưởng.
Với tuổi này, biếng ăn
không phải bao giờ cũng do đau ốm vì khẩu vị con người thay
đổi một cách tự nhiên tùy theo tâm
trạng, thời gian... Có nhiều em
mải chơi, không nghĩ tới ăn uống. Nhưng đôi khi con biếng ăn
cũng do lỗi ở cha mẹ, ép buộc ăn khi chúng chưa muốn
ăn; cho ăn các món ăn mà con không thích. Một số bà mẹ cho
con uống thuốc bằng cách pha lẫn vào sữa hoặc thức ăn, chúng
sợ đắng nên không ăn.
Số lượng thực phẩm mà bé
tiêu thụ là cần thiết nhưng cũng cần theo dõi tăng trọng cơ
thể. Nhiều bé có vẻ như ít ăn nhưng vẫn lên cân đều, không
bệnh tật, vẫn khỏe mạnh, vui chơi
Tuy nhiên, có những
trường hợp mà trẻ thực sự biếng ăn, không chịu tiêu thụ đủ
lượng dinh dưỡng cần thiết, khiến cho cha mẹ rất lo ngại mà
không biết làm sao để trẻ ăn nhiều hơn.
Sau đây là một số gợi ý
có thể giúp trẻ ăn ngon hơn, và nhờ đó ăn nhiều hơn:
a- Bữa ăn cần có không
khí thoải mái, thân thiện, không ép bé ngồi gò bó trên ghế;
b- Khích lệ bé bằng những
trò vui, vừa chơi vừa ăn, bằng thực phẩm nhiều mầu sắc,
hương vị khác nhau;
c- Ðể trẻ được thoải mái,
tự khám phá món ăn với các giác quan của mình: sờ mó món
ăn, ngửi món ăn, nếm thử món ăn. Tất nhiên là phải đảm bảo
các điều kiện vệ sinh trước khi cho trẻ ăn.
d- Cho bé ăn nhiều món ăn
khác nhau từ khi bé được 7-8 tháng tuổi để trẻ quen với
nhiều loại thức ăn;
đ- Có khi bé thích món
này mà không thích món kia, không nên ép ăn món bé không
thích. Bé ăn là mừng rồi. Có thể vào thời gian khác trẻ lại
thay đổi khẩu vị và sẽ thích
món đó;
e. Không nên cho thuốc
bổ, thuốc trị bệnh vào thức ăn vì mùi vị thuốc làm trẻ thấy
e ngại khi ăn;
g- Không cố ép bé ăn cho
hết phần ăn, khi bé không thích sẽ nôn
ọe. Lấy thức ăn vừa đủ,
không quá nhiều có thể làm trẻ "ngán" khi nhìn thấy. Khi trẻ
ăn được, nếu cần thì lấy thêm;
h- Không cho ăn các món
vặt gần hoặc ngay trước bữa ăn chính, để trẻ thấy đói mới có
thể ăn hết lượng thực phẩm đã chuẩn bị;
i- Không dùng thức ăn như
một hình thức thưởng phạt.
Tuy nhiên, biếng ăn cũng
có thể là dấu hiệu của một số bệnh như nhiễm độc, nóng sốt,
tiêu chẩy, hô hấp, sán lãi. Nên tham khảo ý kiến bác sĩ khi
thấy bé có triệu chứng biếng ăn kéo dài.
Kết luận
Ăn uống là cả
một nghệ thuật. Ðể ăn ngon cũng phức tạp hơn. Chẳng thế mà
lão thi sĩ Tản Ðà đã thốt ra:
« Nghề ăn cũng
lắm công phu
Làng ăn ta phải
biết cho đủ mùi »
Cụ cũng nêu ra
bốn tiêu chuẩn để có bữa ăn ngon miệng:
« Thức ăn ngon
Lúc ăn ngon
Chỗ ăn ngon
Người ăn cùng
ăn ngon »
Nếu liên tục ăn
không ngon, cơ thể sẽ thiếu chất dinh dưỡng, suy nhược, gầy
mòn, mất tinh anh, có thể đưa tới tử vong.
Và dân gian ta cũng ghi
nhận:
« Ăn được ngủ
được là tiên
Không ăn không
ngủ, mất tiền thêm lo ».
Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức
Texas-Hoa Kỳ. |
VỀ MỤC LỤC |
|
BÀN
VỀ CHỮ DANH - Chuyện phiếm của Gã Siêu. |
Trong số trước, gã đã
bàn đến nghề nghiệp và để cho đủ món ăn chơi, trong số này
gã xin nói tới công danh, như một hậu quả tất nhiên của việc
mình đã hùng hục kéo cày, mình đã bươm chải ngược xuôi, mình
đã vất vả kiếm sống.
Mở bất cứ cuốn tự điển
Việt Nam nào, gã cũng thấy được hai ý nghĩa của chữ danh.
Nghĩa thứ nhất, đó là tên. Nghĩa thứ hai, đó là tiếng tăm.
Gã sẽ từ từ mổ xẻ hai ý nghĩa này.
Trước hết, danh có
nghĩa là tên. Kể từ khi cất tiếng khóc oe oe đi vào cuộc
sống, chúng ta được cha mẹ đặt cho một cái tên, nhờ đó thiên
hạ có thể phân biệt chúng ta với người này người nọ.
Phép đặt tên của người
Việt Nam cũng khá nhiêu khê và rắc rối. Gã chỉ xin ghi lại
những điểm chính đã được Toan Ánh trình bày trong cuốn “Con
người Việt Nam”, rồi sau đó thêm mắm thêm muối cho đậm đà
hơn một tí.
Theo tác giả, ngày xưa
nước ta không có hộ tịch hộ khẩu, thành thử đứa bé mở mắt
chào đời không phải làm giấy khai sinh, người ta có thói
quen gọi nó là thằng cu, cái đĩ, thằng tý, con đỏ…tùy theo
nó là con giai hay con gái.
Riêng với những gia
đình hiếm muộn, thường gọi con cái bằng một cái tên rất xấu,
như thằng Tèo, cái Tủn…vì sợ rằng tên đẹp quá, thì sẽ bị ông
“ngáo ộp” vồ mất, hay sẽ bị cô hồn các đẳng rước đi. Và cứ
thế, cứ thế cho đến lúc khôn lớn. Lắm khi sắp sửa lấy vợ
lấy chồng, con cái mới được cha mẹ chính thức đặt tên cho.
Còn ngày nay thì khác,
vợ vừa mới có “cứt gián”, chồng đã hý hửng chọn tên cho con.
Hay vừa mới siêu âm về, biết được con mình là giai hay là
gái, cha mẹ đã vội xì xầm bàn tán chuyện đặt tên cho con.
Và khi đặt tên cho con,
cha mẹ phải lưu ý không được trùng tên với vua quan, hay chú
bác, ông cụ bà kỵ của mình cũng như của lối xóm, bằng không
thì rắc rối to.
Gã đã từng chứng kiến
cảnh hai vợ chồng trẻ có được đứa con đầu lòng, hớn hở đặt
tên và làm giấy khai sinh cho con. Nhưng vừa về tới nhà,
liền bị người bà con xa lắc xa lơ đến mắng cho một chặp :
- Bộ hết tên rồi sao mà
đặt tên ấy cho nó. Chúng mày có biết không tên ấy là tên cụ
cố sinh ra ông ngoại của thím tao.
Và thế là trong giấy tờ
đứa bé có một tên, còn trong đời thường thì nó lại được gọi
bằng một tên khác.
Tuy nhiên, nhiều người
khi oán ghét một ai, lại cố tình lấy tên kẻ ấy mà đặt cho
con của mình và coi đó như một cách…trả thù dân tộc vậy!!!
Hầu như dân tộc nào
cũng thế, người ta rất thận trọng trong khi đặt tên, bởi vì
tên gọi ít ra cũng phải nói lên ước vọng của cha mẹ đối với
con cái.
Chẳng hạn trong Kinh
Thánh, Đức Chúa Trời hẳn đã đặt tên cho người đờn ông đầu
tiên là Adong và Adong vừa có nghĩa là bùn đất vừa có nghĩa
là con người. Sau đó, Adong, người đờn ông đầu tiên ấy đã
chớp chớp đôi mắt khi gặp người đờn bà đầu tiên và ông đặt
tên cho nàng là Eva, có nghĩa là mẹ của chúng sinh. Đức
Giavê đã đổi tên cho Abram thành Abraham, có nghĩa là cha
của nhiều dân tộc. Còn Đức Kitô đã cải tên cho ông Simon
thành Phêrô, có nghĩa là đá tảng.
Người Việt Nam cũng
thế, cha mẹ thường gửi gấm những ước vọng thầm kín của mình
vào tên gọi của con cái. Chẳng hạn cụ thân sinh ông Cao Bá
Quát đặt tên cho hai con của mình là Bá Đạt và Bá Quát, bởi
vì đời nhà Chu bên Tàu có tám vị hiền sĩ , đó là Bá Quát và
Bá Đạt, Trọng Đột và Trọng Hốt, Thúc Dạ và Thúc Quý, Quý Quỳ
và Quý Đa. Đặt tên cho hai con là Bá Đạt và Bá Quát, cụ thân
sinh ra các ông đã muốn cho các con mình sau này cũng sẽ trở
nên những bậc hiền sĩ.
Một tên đầy đủ thường
gồm có ba phần, đó là họ, chữ đệm và tên.
Trước hết là họ. Họ từ
tổ tiên truyền xuống, đời này qua đời khác. Thường thì con
lấy họ của bố, nhưng cũng có trường hợp theo họ mẹ, chẳng
hạn khi người mẹ không có anh em trai, thì một trong những
người con sẽ lấy họ mẹ để lo việc phụng thờ ngoại tộc, hay
khi người mẹ sinh con ra mà không có bố…
Tiếp đến là chữ đệm.
Đờn bà con gái thường dùng chữ Thị. Còn đờn ông con giai
thường dùng mấy chữ như Văn, Đình, Hữu, Duy…Ngày nay chữ đệm
đã thay đổi nhiều. Đờn bà con gái lắm người không thích chữ
Thị, vì xem ra có vẻ bị lép vế, nên dùng những chữ khác cho
thêm phần mộng mơ, lãng mạn và âm vang leng keng, như chữ
Mộng, Lệ, Thùy…
Viết tới đây, gã rất
lấy làm “tâm phục khẩu phục” các bậc phụ mẫu thời trước. Tuy
hoàn cảnh lúc bấy giờ chưa sáng, những quí cụ ông, quí cụ bà
đã từng đặt những cái tên thật kêu và thật đẹp cho con cái
mình, chẳng hạn như Mộng Xuân, Lệ Thu, Thúy Lam, Diễm
Quỳnh…Quả là hết xảy và trên cả tuyệt vời nữa!
Sau cùng là tên. Đây là
phần cuối, nhưng lại là phần chính. Như đã nói ở trên, tên
được chọn để nói lên sở nguyện của cha mẹ, của kẻ mang tên,
hay ít ra cũng phải có một ý nghĩa nào đó.
Đối với con gái, người
ta ưa chọn tên các loài hoa như Lan, Huệ, Cúc, Mai, Đào,
Liễu, Liên…hay tên bốn mùa như Xuân, Hạ, Thu, Đông…Đối với
con giai, người ta thích những tên có tính cách hùng mạnh,
nói lên bổn tính của phái nam, như Nhân, Trí, Dũng, Tín,
Trực…hay đôi khi giản tiện, người ta lấy ngay năm sinh để
đặt cho con, như Tý, Sửu, Dần, Mão…
Cũng giống như dân Do
Thái, người Việt Nam ta có tục kiêng tên. Khi có con đầu
lòng, thì người ta dùng tên con để gọi bố mẹ nó, dù tên nó
lúc bấy giờ mới chỉ là một tên tạm bợ, như tên Tí, tên Tẹo.
Người ta gọi bố mẹ nó là bác Tí giai và bác Tí gái, hay bác
Tẹo giai và bác Tẹo gái.
Chính vì sự kiêng tên,
mà nhiều chữ phải đọc chệch sang chữ khác, chẳng hạn như
Hoàng đổi thành Huỳnh, Vũ đổi thành Võ, Long đổi thành
Luông…
Khi có tí chức, tí
quyền hay tí tiếng tăm, có khi người ta dùng họ để gọi thay
tên, chẳng hạn như Nguyễn tiên sinh, bác Hồ, bác Tôn…Có khi
người ta dùng chức tước văn bằng để gọi, chẳng hạn như ông
Huyện Đặng, cụ Cử Vũ…có khi người ta dùng tên làng, tên xã
để gọi, chẳng hạn như Ông tú Vị Xuyên, cụ Tam nguyên Yên Đổ.
Bình thường, chỉ những
kẻ bạch đinh, vai nặng chân trơn, mới phải dùng tên để gọi,
vì thế tại các làng xã, người ta cố dành dụm chút tiền còm
để mua cho mình tí chức như chân nhiêu, chân xã hầu được
bàn dân thiên hạ gọi là ông nhiêu và bà nhiêu, ông xã và bà
xã thay cho tên của mình.
Đặc biệt khi vác lều
chõng đi thi, thì phải biết kiêng húy, có nghĩa là trong bài
văn, thí sinh không được dùng những chữ dính dáng đến tên
của nhà vua và các vị tôn tộc trực hệ. Nếu chẳng may phạm
húy, thì dù bài văn có tuyệt vời đến đâu, cũng sẽ bị sổ toẹt
và nhiều khi còn mang lấy vạ vào thân.
Tuy nhiên, đã có danh
thì cũng cần phải có tiếng, nghĩa là cái tên của mình phải
được nhiều người biết đến. Hơn thế nữa, người ta vốn không
ưa những sự quá đơn giản, mà lại thích những sự rườm rà hoa
lá cành. Trần xì cái tên cha mẹ đặt cho như Tí, Tèo, Tẹo…mà
thôi chưa đủ, cần phải phụ đề vào đó chút ít, như ông giám
đốc Tí, bà bác sĩ Tèo, bác chủ tịch Tẹo…Chính những thứ phụ
tùng lỉnh kỉnh này làm cho người ta nở mày nở mũi và nghênh
ngang với đời.
Vì thế, chữ danh, ngoài
cái ý nghĩa là tên gọi, còn mang một ý nghĩa khác nữa, đó là
tiếng tăm.
Đứng trước cái danh
này, gã nhận thấy bàn dân thiên hạ được chia làm hai phe :
tiêu cực và tích cực.
Phe thứ nhất mang tính
cách tiêu cực, coi tiếng tăm chỉ là sự giả trá thế gian, hay
như một thứ phân bón, nên không màng chi đến. Chẳng hạn như
tục ngữ đã bảo :
- Công danh bánh vẽ,
giàu sang chiêm bao.
Hay như Tản Đà cũng đã
viết :
- Vèo trông lá rụng đầy
sân,
Công danh phù thế có
ngần ấy thôi.
Bởi đó, người ta rất e
dè và ngần ngại :
- Cây cao thì gió càng lay,
Càng cao danh vọng, càng dày gian
truân.
- Làm trai quyết chí tu
thân,
Công danh chớ vội, nợ
nần chớ lo.
Điều quan trọng là phải
chí thú làm ăn, ra sức gầy dựng sự nghiệp, rồi tiếng tăm ắt
sẽ tới, mà lỡ nó không tới cũng chẳng sao cả, vì rốt cuộc ta
vẫn là ta kia mà, như lời Hoàng Đạo trong “Mười điều tâm
niệm” đã khuyên giới trẻ :
- Cần sự nghiệp, chứ
không cần công danh.
Hay như ca dao cũng đã
nhắc nhở :
- Công danh đeo đuổi mà
chi,
Sao bằng chăm chỉ giữ
nghề canh nông.
Thậm chí có người còn
phớt lờ cái danh, xóa tên nó trong sổ nhân sinh và đặt nó ra
bên rìa cuộc đời mình :
- Chen chúc lợi danh đà
chán ngắt,
Cúc tùng phong nguyệt
mới vui sao.
Phe thứ hai mang tính
cách tích cực, phải hăm hở lăn xả và nhập cuộc để kiếm chút
cháo. Đại diện cho phe chịu chơi, phe diều hâu, chủ chiến
này chính là Nguyễn Công Trứ. Rải rắc trong thơ văn, ông
luôn hô hào :
- Tang bồng hồ thỉ nam
nhi trái,
Cái công danh là cái nợ
lần.
Đường đường là một kẻ
trượng phu, một đấng tu mi nam tử mà chẳng có một tí công
danh thì thà chết quách đi cho rồi :
- Có trung hiếu nên đứng trong trời
đất,
Không công danh thà nát với cỏ cây.
Vì thế, phải dứt khóat lập trường, phải
ra sức tạo lập cho mình một tiếng tăm cho thiên hạ biết mặt
cũng như cho đời biết tên :
- Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
Chữ danh thường đi đôi với chữ lợi. Có
tiếng tăm thì cũng thường có nhiều bổng lộc vật chất, nói
chung là có nhiều tiền. Danh và lợi vốn tỷ lệ thuận với
nhau. Người ta thường hay lợi dụng cái danh của mình để vơ
vét về cho thật nhiều. Đồng thời cái lợi chính là một chất
kích thích làm cho người ta phấn khởi và hồ hởi leo lên cao,
lên cao hơn nữa, cho dù có phải luồn, phải lách, hay phải
cúi gập người xuống.
Nhìn thấy cái lợi, hay cụ thể hơn, nhìn
thấy tiền, mắt ai mà chẳng sáng lên như đèn ô tô. Từ đứa con
nít cho chí tới ông già, nghĩa là tất tật nam phụ lão ấu đều
thấu triệt giá trị của đồng tiền, như một câu ca dao hôm nay
đã sánh ví :
- Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi
trẻ,
Là sức khỏe của tuổi
già,
Là cái đà của danh
vọng,
Là cái lọng để che
thân,
Là cán cân của công lý.
Tự bổn chất, có danh có
tiếng là chuyện bình thường, vô thưởng vô phạt, nhưng xem ra
lại rất thích hợp với bản tính con người. Bởi vì ông chính
trị gia nào cũng mong được người đời sau biết đến tên tuổi
của mình. Anh nhà văn nhà thơ nào cũng muốn được chui tọt
vào trong văn học sử và lưu lại ở đó dù chỉ một vài dòng
ngăn ngắn.
Tuy nhiên, vấn đề trở
nên nhiêu khê và rắc rối ở chỗ là phải leo lên đài danh
vọng bằng cách nào ? Phải làm sao để mà “có danh gì với núi
sông” ?
Trước hết, gã thấy có
những kẻ nhờ vợ hay nhờ nhà vợ mà leo lên :
Chẳng hạn như một anh
chàng sinh viên vừa mới mãn đại học, đang thất nghiệp dài
dài, vớ ngay được cô vợ, con ông giám đốc, thế là chỉ một
thời gian ngắn, sau khi rước “cô nàng về dinh’, anh ta
nghiễm nhiên ngồi vào chiếc ghế “trợ lý giám đốc” và từ đó
việc làm ăn phất lên như diều gặp gió. Đường công danh mở
toang, anh ta chẳng thèm thênh thang cử bộ, mà lái ô tô con
phom phom đi vào.
Đúng là :
- Có người nhờ vợ nên
ông,
Lắm người vì vợ mất
không cơ đồ.
Tiếp đến, gã thấy có
những kẻ nhờ thế giá hay nhờ sự phò trợ của bè bạn mà leo
lên, theo kiểu “phe ta thổi phồng phe mình”.
Chẳng hạn như một anh
thợ hát, giọng ca đặc sệt mùi thuốc lào, nhưng được mấy tay
bạn, vốn nghề ký giả, nhà báo thổi lên và phong làm “siêu
sao”, làm “quái kiệt”…khiến cho bàn dân thiên hạ cứ phải
ngẩn tò te, lò mò muốn biết.
Sau cùng, gã thấy có
những kẻ nhờ công sức của mình mà leo lên. Tuy nhiên, công
sức ở đây lại được rẽ vào nhiều ngả khác nhau, giống như chữ
tu kia cũng có dăm bảy đường :
- Thứ nhất thì tu tại
gia,
Thứ hai tu chợ,
Thứ ba tu…nhà dòng.
Đúng thế, có những kẻ
ra công gian giảo, ra sức dối trá để kiếm cho mình tí danh.
Chẳng hạn mấy cô cậu
học trò, hay mấy anh chị sinh viên đã khều cho mình mảnh
bằng tú tài và cử nhân qua việc quay cóp trong các cuộc thi.
Theo sự nhận xét của gã, đa số các thí sinh tại Việt Nam,
không ít thì nhiều, cũng đã gian lận trong lúc làm bài thi.
Như vậy, một khi đã “ra lò”, không hiểu họ sẽ dẫn đất nước
này đi về đâu ?
Quay cóp mà thôi chưa
đủ, mấy ông cán bộ và công chức còn sử dụng quái chiêu độc
địa hơn nữa. Số là nhà nước muốn nâng cấp phe ta, đòi buộc
các quan lớn cũng như các quan nhỏ phải có văn bằng nọ, văn
bằng kia. Bởi đó, thay vì đi học hàm thụ, để cập nhật hóa
trình độ của mình, mấy ông quan này chỉ việc ngồi ở nhà rung
đùi, rồi tung tiền ra, mua bằng giả để giữ cho được cái ghế
mình đang ngồi.
Nếu cụ Tam Nguyên Yên
Đổ đội mồ mà sống dậy, nhìn thấy các quan, chắc chắn cũng
phải kêu trời, như ngày xưa cụ đã từng than thở cả tiếng về
những ông tiến sĩ giấy :
- Tấm thân xiêm áo sao
mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy
mới hời.
Ghế tréo lọng xanh ngồi
bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hóa
đồ chơi.
Gã biết một tên nọ, học
mãi học hoài mà vẫn chẳng được “tốt nghiệp trường làng”,
nghĩa là vẫn chưa vượt qua được ngưỡng cửa cấp một. Thế
nhưng, khi lớn lên và bước chân xuống cuộc đời, xét về
phương diện mánh khóe và xảo quyệt, thì chẳng ai bằng hắn
cả.
Lúc nào trong chiếc
“cạc táp”, hắn cũng có những tấm danh thiếp với rất nhiều
học vị và chức vụ khác nhau, để lòe bịp thiên hạ. Rồi sau
đó, tùy hoàn cảnh hắn sẽ sử dụng những tấm danh thiếp ấy để
hạ gục nhanh con mồi.
Chẳng khi hạn đến với
mấy ông quan vốn mắc bệnh tham nhũng mãn tính, hắn xùy ngay
ra tấm danh thiếp tự xưng mình là phóng viên báo này, ký giả
báo kia, hầu đòi buộc vị quan ấy phải xùy tiền mua sự yên
lặng của hắn, bằng không hắn sẽ huỵch toẹt cho bàn dân thiên
hạ được biết sự thật. Và thế là, dù tức như bị bò đá, ông
quan kia cũng vẫn phải vui vẻ bất đắc dĩ chi tiền cho hắn.
Tuy nhiên, trong cái xã
hội đảo điên, vàng thau lẫn lộn, cũng không thiếu những
người đã đứng lên bằng chính đôi chân của mình, đã tạo dựng
sự nghiệp bằng chính công sức của mình. Và nếu có tí danh
vọng đính kèm, thì danh vọng ấy cũng xuất phát bởi những cố
gắng liên tục của bản thân.
Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật
có kể lại câu chuyện “Chị em xe rác và ước mơ tiến sĩ” như
sau:
Ở Cần Thơ, có ba chị em
gái sinh ra trong một gia đình đình mẹ hốt rác. Từ 4-5 tuồi,
họ đã theo mẹ đẩy xe rác lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm.
Người dân khu vực Xuân Khánh, Cần Thơ, quen gọi họ là “chị
em xe hốt rác”, nhưng ít ai biết ba chị em đang âm thầm trui
rèn tương lai của mình trên giảng đường đại học…
Cô chị tích cóp tiền
thu gom phế liệu, giấy vụn, vỏ lon bia…để có 480.000 đồng
trả học phí bảng A Anh văn, 550.000 đồng đóng bằng B,
700.000 đồng đóng bằng C. Sau khi cô chị đạt bằng C, tội
nghiệp bà mẹ quá lo lắng không biết còn bằng D, bằng E, bằng
F gì nữa không ?
Nêu sự kiện trên, tác
giả đã chua thêm vào đó chút suy tư vụn vặt của mình như
sau :
Thiết nghĩ, các bằng
cấp mà ba chị em gái này có được là do thực học, do quyết
tâm vượt qua danh phận của mình một cách danh dự và chúng ta
hoàn toàn tin tưởng rằng ước mơ của ba chị em có cơ sở để
đạt được bằng thực học.
Nghĩ lại cảnh quay cóp,
ném phao…của các cuộc thi nâng ngạch lên chuyên viên chính,
bác sĩ chính, giảng viên chính mà cảm thấy ngậm ngùi cho cái
“đạo học” ngày nay.
Có danh một cách đường
đường chính chính đã là chuyện khó, nhưng gìn giữ và duy trì
cái danh ấy khỏi hoen ố, khỏi bị mai một cũng không phải là
chuyện dễ, bởi vì nhiều khi đã phải đầu tư biết bao nhiêu
công sức mới có được một tí danh, thế mà bỗng chốc đùng một
phát, tất cả đều đi đoong, đều tiêu tan thành mây khói, thân
thì bại, danh thì liệt, như người xưa đã bảo :
- Kiếm củi ba năm thiêu
một giờ.
- Mua danh ba vạn, bán
danh ba đồng.
Đêm nằm vắt tay lên
trán mà ngẫm nghĩ sự đời, gã nhận thấy có hai nguyên nhân
chính khiến người ta thường bị thân bại danh liệt, đó là
tình và tiền.
Có kẻ vì tình, hay nói
toạc móng heo ra, vì tình cảm lem nhem, dính dấp đến chuyện
đờn bà con gái mà đi đoong sự nghiệp. Lịch sử đã để lại quá
nhiều bằng chứng về vần đề này :
Ngày xưa vua Kiệt vì
say mê nàng Muội Hỷ, bỏ bê việc triều chính, ăn chơi trác
táng, nên bị vua Thành Thang cướp mất nước. Vua Trụ vì say
mê nàng Đắc Kỷ, giết hại công thần, hoang dâm vô độ, khiến
cho sự nghiệp bị tan tành. Ngô Phù Sai, vì say mê nhan sắc
của Tây Thi, cô gái ở thôn Trữ La do Việt Câu Tiễn hiến
cống, đã phung phí của chung, đày ải các tôi trung, khiến
lòng dân oán thán. Lợi dụng cơ hội ấy, Câu Tiễn liền cử binh
sang đánh chiếm nước Ngô, tàn phá Cô Tô đài, nơi vua Phù Sai
cùng Tây Thi đêm ngày vui vẻ “mí nhau”. Phù Sai phải bỏ kinh
thành chạy trốn và cuối cùng đã tự sát để khỏi bị rơi vào
tay Việt Vương Câu Tiễn.
Còn ngày nay cũng không
thiếu những tấm gương để đời. Chẳng hạn hình như vào thập
niên sáu mươi, ông bộ trưởng chiến tranh của dân Ăng lê tên
là Profuno, vì lẹo tẹo với cô gái điếm Christine Keller,
khiến cho toàn bộ nội nước Anh lúc bấy giờ phải từ chức, còn
bản thân ông bộ trưởng cũng tiêu tùng luôn. Sở dĩ như vậy vì
cô gái điếm này là một điệp viên của Liên Xô, được cài vào
để lấy những tin tức tối mật.
Và mới đây, tổng thống
Bill Clinton nước Huê kỳ cũng suýt đi tong sự nghiệp cũng
chỉ vì đã nhăng nhít với cô tập sự viên Nhà Trắng tên là
Monica Lewinsky.
Ngoài ra, cũng có kẻ vì
tiền mà mất toi cơ đồ. Thực vậy, thấy tiền ai mà chẳng ham,
chẳng thích, chẳng mê, để rồi tìm mọi cách kiếm cho được
thật nhiều. Kiếm tiền bằng công sức lao động chân chính thì
chẳng nói làm chi, nhưng kiếm tiền bằng cách gian giảo trong
khi buôn bán, tham nhũng hối lộ trong khi thi hành chức vụ,
bỏ nhầm công quĩ vào túi để xài riêng…Thôi thì thiên hình
vạn trạng đến quỉ thần cũng không lường nổi. Đây cũng chính
là một con đường ngắn nhất dẫn những kẻ tham lam vào vòng tù
tội, còn sự nghiệp thì cũng tan vỡ thành mảnh vụn.
Có người đã leo lên tới
tột đỉnh danh vọng rồi, chẳng hạn như ông tổng thống của
nước Đại Hàn, quê hương của những củ sâm Cao Ly, song cũng
vì cái túi tham không đáy của mình, đã vô tư xơi những khoản
tiền “bồi dưỡng” của mấy công ty lớn, nên đã bị tòa án sờ
vào gáy.
Quả là chua xót và đắng
cay như lời Kinh Thánh :
- Phù hoa trên mọi phù
hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa.
Để kết luận, gã xin
mượn lại mấy tư tưởng sau đây, đã được tác giả Diệp Văn Sơn,
ghi lại trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật.
Dân Trung quốc có câu
:
- Người biết đạo, tất
không khoe. Người biết nghĩa, tất không tham. Người biết
đức, tất không thích tiếng tăm lừng lẫy.
Hay như :
- Người đi không cầu
cho có bóng mà bóng tự nhiên theo. Người kêu không cầu cho
có tiếng dội mà tiếng dội vẫn vang. Vì thế, người quân tử
chỉ cần làm nên công rồi danh ắt sẽ đến.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|