Gaudium Et Spes - Phần Thứ Hai:
Một Số Vấn Ðề Khẩn Thiết |
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Phần Thứ Hai
Một Số Vấn Ðề Khẩn Thiết
46. Lời mở đầu. Sau
khi trình bày về phẩm giá nhân vị cũng như về một số bổn
phận cá nhân hay xã hội mà con người được gọi để chu toàn
trong vũ trụ, nay Công Ðồng, với ánh sáng Phúc Âm và kinh
nghiệm nhân loại, lưu ý mọi người về một số nhu cầu khẩn
thiết của thời đại này, và là những nhu cầu đang ảnh hưởng
rất nhiều đến nhân loại.
Giữa nhiều
vấn đề làm cho mọi người ngày nay quan tâm, nên ghi nhận
trước hết những điểm sau đây: hôn nhân và gia đình, văn hóa
nhân loại, đời sống kinh tế xã hội và chính trị, hòa bình và
sự liên đới gia đình các dân tộc. Cần phải dùng những nguyên
tắc và ánh sáng bắt nguồn từ Chúa Kitô chiếu giãi từng vấn
đề này, để những nguyên tắc và ánh sáng đó hướng dẫn các
Kitô hữu và soi sáng mọi người trong công cuộc kiếm tìm giải
pháp cho biết bao vấn đề phức tạp nêu trên.
Chương I
Phải Ðề Cao Phẩm Giá
Của Hôn Nhân Và Gia Ðình
51*
47. Hôn nhân và gia đình trong thế
giới ngày nay. Sự lành mạnh của con người
cũng như xã hội nhân loại và Kitô giáo liên kết chặt chẽ với
tình trạng tốt đẹp của cộng đoàn hôn nhân và gia đình. Do
đó, cùng với tất cả những ai tán dương các cộng đoàn hôn
nhân và gia đình, người Kitô hữu thành thực vui mừng trước
những trợ lực khác nhau giúp con người ngày nay tiến tới
trong việc cổ võ cộng đoàn yêu thương ấy cũng như trong sự
tôn trọng đời sống; những trợ lực ấy còn giúp đỡ các đôi vợ
chồng và các bậc làm cha mẹ trong sứ mệnh cao cả của họ.
Người Kitô hữu còn mong đợi và nỗ lực thực hiện những thành
quả tốt đẹp hơn.
Nhưng phẩm
giá của định chế ấy không phải ở đâu cũng sáng tỏ như nhau,
vì đã bị lu mờ bởi chế độ đa thê, nạn ly dị, bởi cái mà
người ta gọi là tự do luyến ái, cùng những hình thức lệch
lạc khác. Hơn nữa, tình yêu hôn nhân rất thường bị hoen ố vì
lòng ích kỷ, khoái lạc chủ nghĩa và những lạm dụng bất hợp
pháp cản trở sự sinh sản. Ngoài ra, các hoàn cảnh hiện tại
về kinh tế, xã hội, tâm lý và chính trị đang gây cho gia
đình những xáo trộn trầm trọng. Sau hết, tại một vài nơi
trên thế giới, người ta không khỏi lo lắng nhận thấy những
vấn đề được phát hiện do sự gia tăng dân số. Tất cả những
điều ấy đang làm khắc khoải lương tâm con người
52*. Tuy nhiên, có một điều chứng tỏ sức mạnh và
sự bền vững của định chế hôn nhân và gia đình, đó là các
biến đổi sâu xa của xã hội hiện tại, mặc dù gây ra nhiều khó
khăn, nhưng vẫn rất thường bộc lộ bản chất đích thực của
định chế trên bằng nhiều cách.
Bởi vậy,
bằng cách làm sáng tỏ hơn một vài chủ điểm trong giáo lý của
Giáo Hội, Công Ðồng muốn soi sáng và khích lệ người Kitô hữu
cũng như mọi người đang cố gắng bảo toàn và cổ võ phẩm giá
tự nhiên cũng như giá trị thiêng liêng cao cả của đời sống
hôn nhân.
48. Sự thánh thiện của hôn nhân và
gia đình. Ðấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban
những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và cho
cộng đoàn tình yêu vợ chồng. Ðời sống chung này được gầy
dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là sự ưng thuận cá nhân
không thể rút lại
53*. Như thế, bởi một hành vi nhân linh, trong đó,
hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an
bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá
trị trước mặt xã hội nữa. Vì lợi ích của lứa đôi, của con
cái và của xã hội, nên sợi dây liên kết thánh thiện này
không lệ thuộc sở thích của con người. Chính Thiên Chúa là
Ðấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục tiêu
khác nhau
1; những điều ấy hết sức quan trọng đối với sự
tiếp nối nhân loại, sự phát triển cá nhân và phần rỗi đời
đời của mỗi thành phần trong gia đình, quan trọng đối với
phẩm giá, sự vững chãi, an bình và thịnh vượng của chính gia
đình và của toàn thể xã hội loài người. Tự bản chất, chính
định chế hôn nhân và tình yêu lứa đôi qui hướng về việc sinh
sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh diễm phúc của hôn nhân.
Như thế, bởi giao ước hôn nhân, người nam và người nữ "không
còn là hai, nhưng là một xương thịt" (Mt 19,6), phục vụ và
giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người
và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất
với nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn
là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của
con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi
hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly
2.
Chúa Kitô
ban dồi dào ơn phúc cho tình yêu muôn hình ấy, một tình yêu
phát xuất từ nguồn mạch tình yêu Thiên Chúa và được tác
thành theo gương kết hiệp của Chúa Kitô và Giáo Hội. Thực
vậy, như xưa kia Thiên Chúa đến gặp gỡ dân Ngài bằng một
giao ước yêu thương và trung thành
3, ngày nay Ðấng Cứu Thế, Bạn Trăm Năm của Giáo
Hội
4, cũng đến với đôi vợ chồng qua Bí Tích Hôn Phối.
Người còn ở lại với họ để hai vợ chồng cũng mãi mãi trung
thành yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau như Người đã
yêu thương Giáo Hội và đã nộp mình vì Giáo Hội
5. Tình yêu vợ chồng đích thực được kết nhập trong
tình yêu Thiên Chúa, được hướng dẫn và thêm phong phú nhờ
quyền năng cứu chuộc của Chúa Kitô và hoạt động cứu rỗi của
Giáo Hội, để hai vợ chồng được dẫn dắt cách hữu hiệu đến
cùng Thiên Chúa, cũng như được nâng đỡ và kiện cường trong
nhiệm vụ cao cả làm cha mẹ
6. Bởi đó, vợ chồng Kitô hữu được củng cố và như
được thánh hiến
7 bằng một bí tích riêng để được lãnh nhận các bổn
phận và phẩm giá của bậc sống họ; nhờ sức mạnh của bí tích
này, họ được thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô mà chu toàn bổn
phận hôn nhân và gia đình của họ, nhờ đó tất cả đời sống của
họ được thấm nhuần đức tin, cậy, mến, và càng ngày họ càng
tiến gần hơn tới sự trọn lành riêng biệt của họ và sự thánh
hóa lẫn nhau; và bởi đấy, cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa
54*.
Do đó, được
cha mẹ hướng dẫn bằng gương sáng và kinh nguyện gia đình,
con cái và tất cả những ai sống trong khuôn khổ gia đình sẽ
gặp được con đường nhân ái, cứu độ và thánh thiện dễ dàng
hơn. Còn vợ chồng đã lãnh nhận phẩm giá và chức vụ làm cha
mẹ sẽ chăm lo chu toàn bổn phận giáo dục, nhất là về phương
diện tôn giáo vì bổn phận này liên hệ đến họ trước hết.
Con cái là
những phần tử sống động trong gia đình nên cũng góp phần
riêng vào việc thánh hóa cha mẹ. Thực vậy, con cái sẽ đáp
lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và
tin cậy, và sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong
nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh. Mọi người hãy
tôn trọng đời sống góa bụa được can đảm tiếp nhận như một
tiếp nối ơn gọi hôn nhân
8. Các gia đình hãy quảng đại san sẻ cho nhau
những của cải thiêng liêng. Như thế, mỗi gia đình Kitô hữu
xuất phát từ hôn nhân, một hôn nhân như là hình ảnh và nói
lên sự tham dự giao ước yêu thương giữa Chúa Kitô và Giáo
Hội
9, nên sẽ biểu hiện trước mặt mọi người sự hiện
diện sống động của Ðấng Cứu Thế trong thế giới và bản chất
đích thực của Giáo Hội qua tình yêu, qua niềm quảng đại chấp
nhận sinh sản con cái, qua sự hiệp nhất và trung tín của hai
vợ chồng cũng như qua sự hợp tác thân ái của mọi thành phần
trong gia đình.
49. Tình yêu vợ chồng.
Lời Chúa đã nhiều lần mời gọi những người sắp kết hôn hãy
nuôi dưỡng thời kỳ đính hôn bằng một tình yêu trong sạch và
những người đã thành vợ chồng hãy nâng đỡ cuộc sống lứa đôi
bằng một tình yêu không chia xẻ
10.
55* Nhiều người hiện thời vốn coi trọng tình yêu
đích thực giữa vợ chồng, biểu hiện bằng nhiều cách theo
những tập tục lành mạnh của mỗi thời đại, mỗi dân tộc. Tình
yêu ấy có đặc tính nhân linh cao cả vì từ một nhân vị hướng
đến một nhân vị khác bằng một tình cảm tự ý, do đó bao gồm
hạnh phúc toàn diện của con người. Nên tình vợ chồng có thể
lồng vào những biểu lộ của thể xác và tâm hồn một phẩm giá
đặc biệt, và khiến chúng trở nên cao quí như những yếu tố và
dấu hiệu đặc thù của tình yêu đôi bạn. Bởi một ơn huệ đặc
biệt của ơn sủng và của tình thương, Chúa đã đoái thương
chữa trị, cải thiện và nâng cao tình yêu ấy. Một tình yêu
kết hợp yếu tố nhân loại với yếu tố thần linh như thế phải
thấm nhuần cả đời sống và hướng dẫn đôi vợ chồng biết tự do
trao hiến cho nhau, qua những tâm tình và cử chỉ trìu mến
11. Hơn nữa, chính nhờ những hành vi quảng đại của
mình mà tình yêu giữa hai người được trọn vẹn và lớn thêm.
Tình yêu vợ chồng, do đó vượt xa xu hướng nhục dục thuần
túy, và xu hướng này, nếu được tôn thờ một cách ích kỷ, sẽ
mau chóng tan biến và kéo theo những hậu quả thảm hại
56*.
Sự âu yếm
trên được biểu lộ và hoàn hảo cách đặc biệt qua những động
tác riêng của hôn nhân. Bởi vậy, những hành vi thực hiện sự
kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quí
và chính đáng. Ðược thi hành cách thực sự nhân linh, những
hành vi ấy biểu hiện và khích lệ sự trao hiến hỗ tương, nhờ
đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong hoan lạc và
biết ơn
57*. Ðược bảo đảm vì tín cẩn nhau và nhất là được
chuẩn y bởi bí tích của Chúa Kitô, tình yêu ấy trung thành
bất khả phân ly giữa cảnh đời thăng trầm, và do đó loại hẳn
mọi hình thức ngoại tình và ly dị. Phải nhìn nhận phẩm giá
cá nhân bình đẳng giữa vợ chồng trong tình tương ái trọn vẹn
để nhờ đó, biểu hiện rõ ràng tính cách duy nhất của hôn nhân
đã được Chúa xác nhận. Ðể kiên trì gánh vác những bổn phận
của ơn gọi Kitô giáo này, cần phải có một nhân đức phi
thường: vì thế, vợ chồng đã được ơn sủng củng cố để sống
thánh thiện sẽ ân cần nuôi dưỡng và cầu xin cho được một
tình yêu vững bền, một tâm hồn đại lượng và một tinh thần hy
sinh.
Tình yêu vợ
chồng chân chính sẽ được quí trọng hơn và người ta sẽ nghĩ
tưởng về hôn nhân cách lành mạnh hơn, nếu các vợ chồng Kitô
hữu làm chứng rõ ràng về sự trung thành và hòa hợp trong
tình yêu cũng như trong niềm âu lo giáo dục con cái, nếu họ
góp công hoạt động trong việc chấn hưng văn hóa, tâm lý và
xã hội, một sự chấn hưng cần thiết để đề cao hôn nhân và gia
đình. Phải biết hợp thời và hợp cách giáo dục thanh thiếu
niên về phẩm giá, phận sự và hành vi thể hiện tình vợ chồng,
tốt nhất là trong chính khung cảnh gia đình. Nhờ vậy, một
khi đã được rèn luyện để giữ đức khiết tịnh, đến tuổi thích
hợp, chúng có thể từ thời đính hôn đứng đắn tiến tới hôn
nhân.
Chú
Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo
trước)
51* 1) Giới thiệu: Gia
đình là nền tảng của xã hội (số 47a), nhưng hiện nay bị
nhiều vết nhơ (b), nên Công Ðồng muốn góp phần giáo lý để
nâng cao gia đình và hôn nhân (c).
2) Diễn tả
gia đình cách đại cương: Bản tính, khởi sự, giá trị và chiều
hướng của hôn nhân (số 48a). Tính cách cao siêu của tình yêu
hôn nhân (b). Ðời sống gia đình hướng về Chúa (c). Vai trò
của mỗi người trong gia đình và việc tông đồ của họ (d).
3) Tình yêu
hôn nhân: tính cách (số 49a), phương cách biểu lộ nó (b),
phải phổ biến quan niệm đích thực về nó (c).
4) Con cái:
Hôn nhân hướng về việc sinh sản con cái (số 50a). Kẻ làm cha
mẹ phải có trách nhiệm (b). Sinh sản con cái không phải là
mục đích duy nhất (c).
5) Những
khó khăn: gặp phải khi duy trì tình yêu đồng thời phải tôn
trọng sự sống (số 51a). Những giải pháp không được áp dụng
(b). Những tiêu chuẩn để chọn giải pháp (c,d).
6) Mục vụ
gia đình: Ở trong gia đình (số 52a), trong đại gia đình và
xã hội (b). Việc tông đồ của gia đình (c). Phần đóng góp của
khoa học gia chuyên môn (d), của Linh Mục (e), của đôi hôn
nhân (f).
52* Hôn nhân và gia
đình là tế bào đầu tiên đồng thời là nền tảng của xã hội
cũng như của Giáo Hội. Công Ðồng muốn góp phần để bảo vệ hôn
nhân vì ở nhiều nơi hôn nhân bị tội lỗi làm hoen ố. Công
Ðồng nhắc đến chế độ đa thê, ngược lại với tính cách hợp
nhất của hôn nhân (số 48a phần cuối và 49b); ly dị, trái
ngược với tính bất khả phân ly; tự do luyến ái tức sống
chung mà không chấp nhận liên hệ hôn nhân. Công Ðồng còn nói
chung về những hình thức "lệch lạc khác": chẳng hạn hôn nhân
thí nghiệm, nghĩa là khi chưa có con thì chưa thành bất khả
phân ly; hôn nhân ép buộc của thanh niên thiếu nữ không ưa
nhau, v.v... Hôn nhân hợp nhất và duy nhất còn có thể mất ý
nghĩa cao đẹp do lòng ích kỷ của đôi bên, do khoái lạc chủ
nghĩa, do những tội lỗi liên quan tới việc sinh sản.
Nhưng còn
có nhiều hoàn cảnh khác cũng có thể gây nên những khó khăn
và dịp tội cho hôn nhân. Công Ðồng nhắc đến hoàn cảnh kinh
tế: chẳng hạn tiền lương không đủ để nuôi dưỡng và giáo dục
con cái; hoàn cảnh tâm lý và xã hội: như quan niệm mới về
địa vị người phụ nữ, hay là môi trường sinh sống quá chú ý
đến tình dục; hoàn cảnh dân sự: như lề luật trái ngược
nguyên tắc luân lý, ví dụ việc phá thai, giải phẫu để ngăn
cản khả năng sinh sản, v.v...; hoàn cảnh nhân khẩu gia tăng
tại nhiều nơi cũng có thể đe dọa nền kinh tế của các quốc
gia đang mở mang.
Trong thông
điệp Humanae Vitae, Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI công nhận đó là
những lý do đã khiến Giáo Hội xét lại lập trường (số 2-5).
53* Ðây là một định
nghĩa của hôn nhân đáng cho ta lưu ý tới: a) cốt yếu là cùng
một đời sống và cùng một tình yêu đặc biệt, b) tùy theo luật
Chúa là Ðấng đã sáng tạo hôn nhân, c) bắt đầu do sự ưng
thuận nhau của hai người nam và nữ. Ðối tượng của sự ưng
thuận ấy là chính con người, hai con người tự hiến cho nhau
và đón nhận nhau. Hai người: chứ không phải chỉ quyền lợi
trên thân xác của mình mà thôi (như, theo Giáo Luật khoản
1081 đoạn 2, Thông điệp Casti Connubii của Ðức Piô XI đã xác
nhận: x. AAS 22 (1930), 541; Dz 3701/2225). Hai bên sẽ nên
một về mọi phương diện: sinh lý, tâm lý, xã hội và đạo đức.
Kết quả là một tổ chức vững chắc không phải tự ý riêng của
đôi bên, nhưng theo ý định của Thiên Chúa. Tổ chức này có
nhiều mục đích (số 50b) và mưu ích không những cho đôi bên
mà còn cho gia đình và xã hội nữa.
54*
Hai đoạn 48ab nhấn mạnh rằng hôn nhân là một trong những ơn
kêu gọi của Chúa để con người thánh hóa bản thân. Thiên Chúa
đã sáng lập hôn nhân và quyết định bản tính của nó, mục
đích, tính cách chính yếu cũng như đã thánh hóa nó và nâng
cao nó làm thành một bí tích giúp đôi bên làm tròn nghĩa vụ
và sống đức ái (x.Hiến chế tín lý về Giáo Hội 35c; 41e; và
sau này: số 52g).
Hai vợ chồng được mời gọi để thánh hóa bản
thân :1) bằng cách sống tình yêu riêng biệt (số 49-50a), 2)
cũng như nhờ phận vụ làm cha làm mẹ (số 50).
55* Sách Sáng Thế Ký
thuật lại hai câu chuyện khác nhau về Chúa dựng nên loài
người. Từ 1,1 đến 2,4 nhấn mạnh sự khác nhau của hai giống
nam và nữ, cốt để hai bên phối hợp và sinh con. Từ 2,5 đến
2,25 Thánh Kinh nói rằng người nữ được dựng nên sau và bởi
người nam, giống như người nam, để nhấn mạnh người nam và nữ
là để bổ túc cho nhau nhờ sự phối hợp nên "một thân thể"
(trong Thánh Kinh danh từ này không chỉ nói về thân xác,
nhưng ám chỉ tới toàn thể con người). Nên việc hai giống
hướng về nhau, cũng như tình yêu giữa người nam và người nữ
và cả tính dục nữa đều do Thiên Chúa dựng nên và là tốt đẹp.
Tính dục không phải là kết quả của tội tổ tông. Tội ấy chỉ
gây nên sự rối loạn của một thứ tính dục không còn tùng phục
lý trí (Stk 3,7-16).
Qua các
chuyện về tổ phụ, Thánh Kinh nhấn mạnh phương diện sinh sản:
các ngài đã chấp nhận chế độ đa thê (v.d. Stk 16,1;
29,15-30) và việc lấy vợ lẽ (30,3-12). Không sinh đẻ được,
là vì Chúa phạt (15,3).
Các sách
Khôn Ngoan (đặc biệt là Diễm Tình Ca) ca tụng tình yêu vợ
chồng, mà không đề cập đến việc sinh sản một cách rõ ràng.
Tình yêu ấy là tình yêu xác thịt (xem vd. Cn 5,15-20).
Phần các
tiên tri khi các ngài so sánh giao ước giữa Thiên Chúa và
dân Israel với tình yêu vợ chồng, các ngài đã mặc nhiên nêu
ra lý tưởng tình yêu đối với hôn nhân.
56* Ðức Phaolô VI
(Humanae Vitae số 8-9) diễn tả tình yêu vợ chồng như sau: 1)
nguồn gốc của nó là Thiên Chúa, 2) nó tốt đẹp vì trong đó
hai người tự hiến cho nhau để trở nên một và trau giồi cho
nhau, 3) nó tượng trưng sự phối hợp giữa Chúa Kitô và Giáo
Hội, 4) nó là tình yêu nhân bản: vừa cảm giác vừa thiêng
liêng, phát sinh từ ý chí tự do, chứ không chỉ do tình cảm
và bản năng mà thồi, 5) nó trọn vẹn, nghĩa là khiến hai bên
chia sẻ mọi sự và tìm mưu ích cho bạn hơn là cho mình, 6) nó
chung thủy và duy nhất đến giờ chết, 7) và đưa tới kết quả
ngoài ích lợi cho đôi bên, nghĩa là nó hướng về việc sinh
sản con cái.
57* Tất cả những cử chỉ
âu yếm thân xác, đến chính việc phối hợp mật thiết, đều là
phương pháp riêng biệt để biểu lộ, thể hiện và cổ võ tình
yêu hôn nhân. Là những hành động của con người, của con
Thiên Chúa, để sống ơn gọi của mình, hành động đó không có
gì là bất xứng. Không phải hôn nhân cho phép để thực hành
những điều đê tiện. Hôn nhân thường thường đòi hỏi những
hành động ấy, cốt như phương pháp để thể hiện ơn gọi của
Chúa. Việc thú vật cũng có những tác động tương tự bên
ngoài, không nên gây ra sự ngộ nhận. Dĩ nhiên đôi vợ chồng
phải thực hiện những hành động đó một cách xứng hợp với con
người, nghĩa là một cách hợp lý và hợp đức tin, chứ không
phải chỉ vì bản năng tính dục, vì ích kỷ và bất chấp hoàn
cảnh của bạn mình, của con cái, của gia đình và của xã hội.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Truyền Giáo
(tiếp theo kỳ trước) |
TRUYỀN GIÁO TRONG CÁCH SỐNG CỦA CÁ NHÂN
Kinh nghiệm cho thấy :
một công trình lớn bao giờ cũng phải khởi đi từ những chi
tiết nhỏ. Sở dĩ một ngôi nhà được đứng vững là bởi nền móng
chắc chắn. Và nền móng vững chắc ấy được kết thành do những
cây cừ đóng sâu xuống lòng đất. Cũng thế, việc quốc gia là
việc đại sự. Và việc đại sự này phải được bắt đầu từ cá
nhân và gia đình, chính vì thế người xưa đã dạy :
- Phải tu thân, tề gia
trước đã, rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ.
Trong phạm vi siêu
nhiên cũng vậy. Công cuộc truyền giáo là công cuộc quan
trọng của toàn thể Giáo hội. Công cuộc này phải được xuất
phát từ cá nhân, gia đình và cộng đoàn giáo xứ. Trong tông
huấn sau Thượng hội đồng Giám mục Á châu, Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đã nói về sứ vụ truyền giáo vốn là bản chất
của một Giáo hội chứng tá, mà hình thức chứng tá đầu tiên là
chính đời sống của vị thừa sai, của các gia đình Kitô hữu và
của cộng đoàn Giáo hội…vì ngày nay, dân chúng đặt tin tưởng
vào các chứng nhân hơn là vào các thày giảng dạy, tin vào
đời sống và việc làm hơn là tin vào lý thuyết.
Trước khi đề cập tới
lãnh vực cá nhân, tôi xin đưa ra hai nhận định như sau :
Nhận định thứ nhất, đó
là hiện nay do ảnh hưởng của khuynh hướng tự do, thực dụng
và hưởng thụ, người ta chỉ biết sống cho mình. Vì lo sống
cho mình, nên người ta đã chạy theo vật chất và lợi nhuận,
đồng thời coi nhẹ chuyện tôn giáo. Bỏ ăn bỏ uống mới chết,
chứ bỏ đọc kinh hay bỏ tham dự thánh lễ, nào có thiệt hại
gì. Người ta chịu khó đổ mồ hôi sôi nước mắt để kiếm tiền và
đồng tiền đã chi phối toàn bộ cuộc sống của nhiều người.
Nhận định thứ hai, đó
là vai trò của người giáo dân đã được Công đồng Vaticanô II
nhấn mạnh và được các Đức Thánh Cha đề cập tới rất nhiều.
Thực vậy, Công đồng đã dành hẳn một sắc lệnh để bàn về “Tông
đồ Giáo dân” và rải rắc trong các văn kiện, chẳng hạn như
hiến chế về “Giáo hội”, sắc lệnh về hoạt động “Truyền giáo”…
địa vị cũng như bổn phận của người giáo dân trong lòng Giáo
hội cũng đã được trình bày một cách đầy đủ.
Đặc biệt trong phạm vi
truyền giáo, vì sống giữa lòng cuộc đời với những môi trường
khác nhau, người giáo dân có những thuận lợi riêng để làm
chứng cho Đức Kitô, như men trong bột. Thực vậy, Công đồng
Vaticanô II trong sắc lệnh về “Tông đồ giáo dân” đã viết :
- Vì bản chất riêng
biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời nên
chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh
thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong
bột. (TĐ số 2).
Trong sắc lệnh về
“Truyền giáo”, Công đồng cũng nói :
- Mọi Kitô hữu, dù sống
ở đâu, đều phải lấy gương mẫu đời sống và chứng tá lời nói
để biểu dương con người mới mà họ đã mặc lấy nhờ phép Rửa và
biểu dương sức mạnh của Chúa Thánh Thần mà họ đã được củng
cố nhờ phép Thêm sức, để những người khác nhìn thấy những
việc lành của họ mà ngợi khen Chúa Cha. (TG số 11).
- Các Kitô hữu vì có
những ơn huệ khác nhau, nên mỗi người phải cộng tác vào Phúc
âm tùy theo hoàn cảnh thuận tiện, tài năng, đặc sủng và chức
vụ của mình. (TG số 28).
- Nhiệm vụ chính của
giáo dân, nam cũng như nữ, là làm chứng về Chúa Kitô, làm
chứng bằng đời sống và lời nói trong gia đình, trong các
đoàn thể xã hội, cũng như trong môi trường nghề nghiệp. (TG
số 21)
Trong hiến chế về “Giáo
hội”, Công đồng xác quyết :
- Dù là ai, họ vẫn được
kêu gọi dùng hết sức lực đã lãnh nhận do lòng từ ái của Đấng
Tạo Hóa và do ân huệ Đấng Cứu Thế như những chi thể sống
động, phát triển và thánh hóa Giáo hội không ngừng. Vì thế,
giáo dân làm tông đồ là thông phần vào chính sứ mệnh cứu độ
của Giáo hội…Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo hội
hiện diện và hoạt động nơi và trong những hoàn cảnh mà nếu
không có họ, thì Giáo hội sẽ không trở thành muối của thế
gian. (GH số 32).
Trong tông huấn “Kitô
hữu giáo dân”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng nói :
- Tự căn bản, người
giáo dân có một vị trí không thể thay thế được. Nhờ giáo dân
mà Giáo hội Chúa Kitô hiện diện trong mọi lãnh vực khác nhau
của thế giới, như là dấu chỉ và nguồn mạch của hy vọng và
tình yêu. (KTHGD số 7).
Qua những trích dẫn kể
trên, chúng ta thấy truyền giáo là bổn phận của mỗi người
giáo dân và chúng ta chỉ có thể chu toàn bổn phận ấy bằng
một đời sống gương mẫu. Thực vậy, chúng ta thường bảo :
- Lời nói như gió lung
lay,
Việc làm như tay lôi
kéo.
Chính gương sáng mới là
một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn và hấp dẫn đối với
người khác. Và như chúng ta cũng đã biết : lý tưởng của
người Kitô hữu là có Đức Kitô trong tâm hồn và mang Đức Kitô
đến cho người khác.
Trước hết, bằng một đời
sống kết hiệp với Chúa trong những tâm tình cầu nguyện,
chúng ta thực sự là người có Đức Kitô. Công đồng cũng xác
quyết :
- Kết quả phong phú của
việc tông đồ giáo dân tùy thuộc ở sự kết hiệp sống động của
chính họ với Chúa Kitô, Đấng đã phán rằng : Ai ở trong Thày
và Thày ở trong kẻ ấy, như vậy mới sinh được nhiều hoa trái
vì ngoài Thày ra các con chẳng làm gì được. (TĐ số 4).
Hơn thế nữa, chúng ta
chỉ có thể cho cái mà mình đã có. Nếu không có Chúa trong
tâm hồn, làm sao chúng ta có thể đem Chúa đến cho người
khác.
Mẫu gương lý tưởng của
người Kitô hữu đó chính là Mẹ Maria. Thực vậy, với lời xin
vâng trong hoạt cảnh truyền tin, Mẹ là người đầu tiên thực
sự có Chúa trong cõi lòng của mình, đồng thời với hành động
thăm viếng, Mẹ đã đem Chúa đến cho gia đình bà Elisabeth.
Tiếp đến, bằng một đời
sống ngập tràn tình bác ái yêu thương, được biểu lộ qua
những việc làm cụ thể, chúng ta sẽ giới thiệu khuôn mặt đích
thực của Đức Kitô cho những người chúng ta găïp gỡ trong
cuộc sống. Công đồng cũng nói :
- Mọi hoạt động tông đồ
phải bắt nguồn và lấy sức mạnh từ đức bác ái…Giới răn quan
trọng nhất trong lề luật là kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn
và yêu thương tha nhân như chính mình (Mt 22,37-40). Thực
vậy, Chúa Kitô đã làm cho giới răn bác ái đối với tha nhân
có một ý nghĩa mới phong phú hơn khi Ngài muốn đồng hóa mình
với anh em như chính đối tượng của bác ái. (TĐ số 8).
Mẹ Têrêxa Calcutta đã
khẳng định :
- Nếu có đức bác ái
trong con tim, bạn luôn có một cái gì đó để cho đi, ít ra là
một nụ cười.
Đúng thế, với lòng bác
ái cộng thêm với chút thao thức vào nhiệt tình, chúng ta sẽ
tìm ra được những sáng kiến độc đáo để góp phần vào công
cuộc truyền giáo, chẳng hạn giữ sự trang nghiêm sốt sắng
trong nhà thờ, tham gia công tác xã hội…
Anh tài xế taxi nọ luôn
để sẵn trong xe một cuốn Kinh thánh để hành khách có thể đọc
cũng như có thể cùng chia sẻ với anh. Ông già kia trong
những lúc rảnh rỗi đã cẩn thận viết từng câu kinh thánh trên
giấy, bỏ vào chai, đóng nút lại và thả xuống biển. Trong
vòng bốn mươi năm, ông đã gủi đi được 27.000 sứ điệp tình
thương của Đức Kitô và đã có hơn 2.000 người thuộc ba mươi
quốc gia khác nhau đã viết thư trả lời…
Ngoài ra, chính trong
khi chu toàn những bổn phận của mình, trong gia đình cũng
như ngoài xã hội, với tất cả tinh thần trách nhiệm và tình
yêu thương, chúng ta sẽ trở nên như men trong bột.
TRUYỀN GIÁO TRONG
CÁCH SỐNG CỦA GIA ĐÌNH
Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy hiện nay
gia đình đang lâm vào một cơn khủng hoảng trầm trọng. Cơn
khủng hoảng này phá hủy tận gốc rễ nền tảng của gia đình với
hai tệ trạng : ly dị và phá thai. Hàng năm biết bao nhiêu
thai nhi vô tội đã bị giết chết, biết bao nhiêu cặp vợ chồng
đã lôi nhau ra tòa để rồi cuối cùng đường ai người ấy đi,
chấm dứt những tháng ngày tình nghĩa khiến con cái lâm vào
tình trạng nheo nhóc.
Đối với người Việt Nam chúng ta, mặc dù
cơn khủng hoảng chưa đến nỗi trầm trọng vì cuộc sống gia
đình cũng như tình nghĩa vợ chồng còn được bảo vệ bởi nền
luân lý và cuộc sống chan hòa yêu thương. Thế nhưng con số
những vụ phá thai và ly dị vẫn mỗi ngày một gia tăng, các
giá trị truyền thống đang bị xói mòn và gia đình đang dần
dần mất đi sức sống và chất keo gắn bó của nó.
Do cuộc sống đòi hỏi phải chạy theo kim
đồng hồ và do những công việc chồng chéo, người ta không còn
thời giờ để sống với nhau. Vợ chồng không còn thời giờ để
chăm sóc cho nhau. Cha mẹ không còn thời giờ để tìm hiểu,
cảm thông và dạy bảo con cái. Gia đình thay vì là một mái ấm
đã trở thành một quán trọ.
Ấy là chúng ta chưa nói đến một ít
người, mỗi khi về thăm quê hương, đã dùng những đồng đô la
của mình để làm ăn bất chính, lợi dụng cái mác “Việt kiều”
của mình để ẵm thêm cô bồ nhí hay chơi bời xả láng và tạo
nên sóng gió cho gia đình của họ.
Đối mặt với tình trạng phá thai, chúng
ta không lạ gì khi thấy Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II không
ngừng đề cao và cổ võ cho một nền văn minh tình thương để
chống lại với cái được ngài gọi là “nền văn hóa sự chết”.
Còn đối diện với tình trạng ly dị,
thiết tưởng không gì bằng là nhắc lại lập trường của chính
Chúa Giêsu :
- Lúc khởi đầu công trình tạo dựng,
Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người
đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ
thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai,
nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã
phối hợp, loài người không được phân ly.
Gia đình nắm giữ một vai trò quan trọng
đối với cá nhân xã hội cũng như Giáo hội.
Trước hết, đối với cá nhân, gia đình
chính là mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta những bài học
làm người, trong đó cha mẹ là những thày cô không thể thay
thế. Hiến chế “ Giáo hội trong thế giới ngày nay” đã khẳng
định :
- Gia đình là một trường học phát triển
nhân tính.
Làm sao chúng ta có thể quên được những
lời khuyên nhủ của mẹ, những sự chỉ dạy của cha về từng lời
nói, từng bước đi, từng việc làm nhỏ mọn nhất, nhưng chính
nhờ đó mà chúng ta nên người, như tục ngữ đã bảo :
- Học ăn học nói, học gói học mở.
Tiếp đến, đối với xã hội, gia đình là
viên đá đầu tiên đặt nền móng cho quốc gia. Nền móng có
vững chắc, thì ngôi nhà mới bảo đảm. Gia đình là tế bào sống
động, là con tim của xã hội. Gia đình cũng là nơi cưu mang
di sản của chính nhân loại, vì thông qua gia đình, sự sống
được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Tế bào ấy mà èo
uột, trái tim ấy mà đau yếu, thì xã hội sẽ bị lao đao và
nhân loại sẽ bị tàn lụi. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Lêô
XIII đã nói :
- Gia đình nào, xã hội nấy.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong
tông huấn “Kitô hữu giáo dân” cũng viết :
- Kinh nghiệm cho thấy rằng nền văn
minh và sự vững bền của các dân tộc tùy thuộc trước tiên vào
phẩm chất con người trong các gia đình. Như thế, việc dấn
thân hoạt động trong môi trường gia đình có một giá trị xã
hội không gì so sánh được. Giáo hội xác tín sâu xa vào điều
đó, Giáo hội ý thức chắc chắn rằng tương lai của nhân loại
phải đi qua gia đình. (KTHGD số 40).
Sau cùng, đối với Giáo hội, gia đình là
con đường của Giáo hội vì cũng như Giáo hội, gia đình dẫn
chúng ta vào Nước trời thông qua đời sống lứa đôi với những
bổn phận làm vợ làm chồng và làm cha làm mẹ. Gia đình là một
“Giáo hội tại gia”, một Giáo hội cỡ nhỏ, một Giáo hội được
thu hẹp, trong đó Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện và hoạt
động, tiếp tục chịu chết và sống lại. Gia đình là sự tiếp
nối của Giáo hội và làm cho Giáo hội có mặt ở mọi nơi và
trong mọi lúc. Gia đình là nơi kết hợp các phần tử lại với
Đức Kitô. Gia đình có lên tới Chúa, thì Giáo hội mới được
phát triển.
Là một “Giáo hội cỡ nhỏ”, nên gia đình
Kitô hữu cũng mang lấy những đặc tính của Giáo hội.
Thực vậy, gia đình chúng ta phải là một
cộng đoàn yêu thương : cha me, vợ chồng và con cái phải
luôn nghĩ đến nhau, sống cho nhau và có thể chết vì nhau,
nhờ đó chiếu tỏa tình yêu ấy ra bên ngoài, nơi những người
chúng ta có dịp tiếp xúc với.
Gia đình chúng ta phải là một cộng đoàn
sống đức tin : cha mẹ và con cái cùng nhau lắng nghe, suy
gẫm và thực thi Lời Chúa, nhờ đó làm chứng cho Tin mừng.
Gia đình chúng ta phải là một cộng đoàn
phụng tự bằng những giây phút cầu nguyện chung với nhau, đặc
biệt là những giờ kinh tối sớm : mọi người cùng hợp một lòng
dâng lên Chúa lễ vật là những hy sinh vất vả trong ngày,
đồng thời cùng hợp một ý cầu nguyện cho những nhu cầu cần
thiết, nhờ đó chu toàn chức vụ tư tế ngay trong chính gia
đình mình.
Sau cùng, gia đình chúng ta phải là một
cộng đoàn truyền giáo : nhờ lời khuyên bảo và nhất là nhờ
gương sáng, chúng ta có thể làm việc tông đồ cho chính những
người thân yêu, nhờ đó cảm hóa được những gia đình chung
quanh. Chúng ta phải sống thế nào, để khi nhìn vào những gia
đình công giáo, anh em lương dân sẽ phải sửng sốt kêu lên :
- Làm sao họ có thể sống hạnh phúc và
yêu thương, hợp nhất và trung thành với nhau như thế ?
Trong sắc lệnh “Tông đồ Giáo dân”, Công
đồng cho thấy khi chu toàn những bổn phận của nếp sống gia
đình, chúng ta đã thực sự làm việc tông đồ và truyền giáo.
Trước hết là bổn phận của cha mẹ, Công
đồng viết :
- Chính cha mẹ là những người đầu tiên
phải rao truyền và giáo dục đức tin cho con cái họ. Bằng lời
nói và gương sáng họ huấn luyện con cái sống đời Kitô giáo
và làm việc tông đồ. (TĐ số 11).
Tiếp đến là bổn phận vợ chồng, Công
đồng viết :
- Tất cả những việc ngày xưa vốn là bổn
phận vợ chồng, thì ngày nay còn phải coi là phần quan trọng
nhất của việc tông đồ. Đó là phải biểu lộ và chứng minh bằng
đời sống tính cách bất khả phân ly và sự thánh thiện của dây
hôn phối…(TĐ số 11).
Trên một chuyến xe đò, tôi đã được nghe
mẩu đối thoại sau đây của mấy bà ngồi phía sau. Bà thì than
ông chồng đèo bòng bồ nhí. Bà thì than ông chồng đào hoa nay
cô này mai cô khác. Bà thì than ông chồng nói dối như cuội,
nại lý do công việc la cà hết quán bia ôm này đến quán bia
ôm khác. Các bà đều đồng ý : nói ra thì tan nát cửa nhà, còn
không nói thì ấm ức trong lòng chẳng thể nào chịu nổi. Cuối
cùng có một bà đã phát biểu :
- Chỉ mấy bà công giáo là sướng. Đạo
của họ dạy chỉ được phép một vợ một chồng và họ đã sống như
vậy. Nếu có con gái, tôi sẽ tìm mấy anh công giáo mà gả phứt
đi cho rồi, bởi vì lấy được họ là như có được một bảo đảm an
toàn.
Tôi đã mỉm cười trước lời phát biểu ấy
và thầm nghĩ :
- Phải chăng đặc tính một vợ một chồng
là điểm đáng ca ngợi của hôn nhân Kitô giáo và đã có được
một tác dụng truyền giáo nào đó.
TRUYỀN GIÁO TRONG
CÁCH SỐNG CỦA CỘNG ĐOÀN
Ai trong chúng ta cũng đều phải công
nhận : ảnh hưởng của phong trào tục hóa mỗi ngày một lan
rộng. Thuở ban đầu, tục hóa chỉ có nghĩa là việc hồi tục của
một tu sĩ, hay việc chuyển đổi tài sản của hàng giáo sĩ
thành tài sản của quốc gia, như trong cuộc cách mạng Pháp
năm 1789. Rồi từ đó tiến tới chỗ tách biệt thần quyền và thế
quyền.
Tuy nhiên, trong phạm vi cá nhân sự tục
hóa là việc sống đời sống giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân mà
không cần bất cứ hình thức tôn giáo nào cả. Người ta vẫn
tin, nhưng lại coi trọng những giá trị nhân bản và cho rằng
Chúa đến để giải thoát con người khỏi chính sự nô lệ của tôn
giáo. Đạo của họ chỉ là “đạo làm người” mà thôi.
Với một chủ trương như thế, nên không
lạ gì khi thấy số người rửa tội, tham dự thánh lễ và lãnh
nhận các bí tích mỗi ngày một giảm sút. Tình trạng hờ hững
và dửng dưng về tôn giáo cuối cùng sẽ dẫn tới việc bỏ đạo,
bỏ Chúa.
Thêm vào đó, những lo toan về công ăn
việc làm đã làm cho tình trạng thờ ơ ngày càng gia tăng.
Người ta coi nhẹ vấn đề tôn giáo. Người ta làm ngơ trước
những sinh hoạt của cộng đoàn, của giáo xứ, nhất là đối với
những người công giáo Việt Nam sống tại các quốc gia trên
thế giới.
Do hoàn cảnh đặc biệt khi được định cư,
chúng ta không thể tụ lại và quây quần làm thành một giáo xứ
như ở Việt Nam, trái lại sống rải rắc mỗi người một nơi,
mỗi gia đình một chỗ, nên càng có lý do để tỏ ra không tha
thiết với cộng đoàn, với giáo xứ trong niềm tin cũng như
trong những sinh hoạt chung. Nếu được kêu gọi tham dự hay
đóng góp để xây dựng thì họ liền vin vào cớ mình đi lễ nhà
thờ Tây, nhà thờ Mỹ chứ đâu có đi lễ nhà thờ Việt Nam. Thế
nhưng, dù Tây hay Mỹ, đã là người giáo dân, chúng ta đều có
bổn phận phải chia sẻ đời sống đức tin và phải xây dựng mối
dây liên kết giữa những người trong cùng một cộng đoàn,
trong cùng một giáo xứ. Từ những nhận định trên, chúng ta sẽ
đi vào hoạt động truyền giáo của cộng đoàn.
Thực vậy, chúng ta không thể nào sống
cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một
pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người
khác trong một cộng đoàn. Chính vì thế, ngay từ khi bắt đầu
cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã quây quần chung quanh
Ngài nhóm mười hai các tông đồ, rồi sau đó Ngài đã chính
thức thiết lập Giáo hội như là dân Thiên Chúa, như là cộng
đoàn qui tụ những người có chung một niềm tin.
Trong phạm vi cá nhân, ngoài gia đình,
thì giáo xứ chính là cộng đoàn đầu tiên chúng ta có bổn phận
phải gắn bó và phát triển. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã
định nghĩa :
- Giáo xứ là gia đình của Thiên Chúa,
là cộng đồng huynh đệ chỉ có một tâm hồn. Giáo xứ là một mái
ấm gia đình yêu thương và niềm nở, là một cộng đoàn những
tín hữu. (KTHGD số 26)
Nếu bản tính của Giáo hội là truyền
giáo và nếu hoạt động truyền giáo là bổn phận quan trọng và
thánh thiện hơn cả của Giáo hội, thì giáo xứ, một đơn vị căn
bản làm thành Giáo hội, cũng phải quan tâm đến vấn đề truyền
giáo. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Piô XI, khi quyết định
thiết lập ngày thế giới truyền giáo, đã nói :
- Một giáo xứ bỏ qua việc truyền giáo,
là đã bỏ qua một “việc công giáo hơn cả” trong các việc công
giáo khác, là đã bỏ qua một “việc tông đồ hơn cả” trong
các việc tông đồ khác.
Tuy nhiên, cộng đoàn hay giáo xứ chỉ có
thể làm việc truyền giáo bằng chính nếp sống của mình. Và
theo tôi nghĩ : nếp sống kiểu mẫu và lý tưởng đã đem lại
nhiều thành quả tốt đẹp, đáng cho chúng ta noi theo, đó
chính là nếp sống của cộng đoàn đầu tiên tại Giêrusalem.
Sách Công vụ Tông đồ đã mô tả như sau :
- Họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng
dạy, hiệp thông với nhau, tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện.
Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông đồ làm nhiều điềm thiêng
dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự
làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho
mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày
chuyên cần đến Đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ
dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa.
(CVTĐ 2,42-47)
- Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà
chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình
có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của
chung…Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả
những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem
đặt dưới chân các Tông đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi
người, tùy theo nhu cầu. (CVTĐ 4,32-35).
Hậu quả của nếp sống ấy chính là :
- Họ được toàn dân thương mến. Và Chúa
cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ.
(CVTĐ 2,47).
- Dân chúng ca tụng họ. Càng ngày càng
có thêm nhiều người tin theo Chúa : cả đàn ông đàn bà rất
đông. (CVTĐ 5,13-14).
Từ những mô tả kể trên, chúng ta rút ra
được những nét đặc sắc của cộng đoàn Giêrusalem, để rồi áp
dụng vào nếp sống của giáo xứ chúng ta
1-
Họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy.
Có nghĩa là họ chuyên cần học hỏi Lời
Chúa. Có lẽ cộng đoàn chúng ta chưa quan tâm đủ tới việc
lắng nghe, suy gẫm và thực thi Lời Chúa. Do đó, Lời Chúa
không có tác dụng gì đến bản thân và cuộc đời của chúng ta.
Và Kinh thánh vẫn còn là một cuốn sách xa lạ đối với nhiều
người Việt Nam.
2- Họ cầu nguyện
không ngừng.
Có nghĩa là họ cầu nguyện trong mọi
hoàn cảnh, khi vui cũng như lúc buồn, khi bình an cũng như
lúc thử thách. Với chúng ta cũng vậy, việc cầu nguyện chung
phải là nền tảng của đời sống cộng đoàn, nhờ đó chúng ta
được kết hiệp với nhau, cũng như nhờ đó Chúa thực sự hiện
diện giữa chúng ta :
- Vì ở đâu có hai, ba người họp lại
nhân danh Thày, thì có Thày ở đấy, giữa họ. (Mt 18,20).
3- Họ siêng năng
tham dự lễ bẻ bánh.
Có nghĩa là họ siêng năng tham dự thánh
lễ. Với chúng ta cũng vậy, thánh lễ phải là đỉnh cao và
trọng tâm của mọi sinh hoạt trong giáo xứ. Bởi vì nhờ bí
tích Thánh thể, chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa,
qua Lời Ngài cũng như qua Mình Máu thánh Ngài. Đồng thời,
nhờ bí tích Thánh thể, chúng ta còn được kết hiệp mật thiết
với nhau, như lời thánh Phaolô :
- Bởi vì chỉ có một tấm bánh, và tất cả
chúng ta chia sẻ cùng một bánh ấy, nên tuy nhiều người,
chúng ta cũng chỉ là một thân thể. (1Cor 10,17)
4- Họ để mọi sự
làm của chung
Có nghĩa là họ thực sự sống tình bác ái
huynh đệ, giúp đỡ lẫn nhau để rồi không ai bị thiếu thốn. Có
lẽ giáo xứ của chúng ta chưa quan tâm đủ đến tinh thần chia
sẻ này, bởi vì bên cạnh chúng ta còn rất nhiều không đủ cơm
ăn áo mặc, không đủ tiền cho con tới trường.
5- Họ hiệp thông
với nhau, một lòng một ý với nhau
Có nghĩa là họ chia sẻ chính sự sống
của Thiên Chúa qua sự trung gian của Đức Kitô và trong Chúa
Thánh Thần. Đây cũng là một nỗi ưu tư của Chúa Giêsu :
- Xin cho hết thảy chúng được nên một.
Cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở
trong chúng ta và thế gian tin là Cha đã sai Con. (Gio
17,20-21).
Sở dĩ phải hiệp thông bởi vì chúng ta
có những mẫu số chung : cùng có một người Cha là Thiên
Chúa, cùng có một vị thủ lãnh là Đức Kitô, cùng có một địa
vị là con Thiên Chúa, cùng có một điều răn mới là giới luật
yêu thương, cùng có một sự sống là Chúa Thánh Thần. Ngài
chính là nguyên lý của sự khác biệt và hiệp nhất trong Giáo
hội. Ngài ban các ân sủng khác nhau để làm ích cho Giáo hội
cũng như liên kết các chi thể lại với nhau.
Chính những đặc tính trên đã làm cho
dân ngoại phải sững sờ ngạc nhiên và con số những người tin
theo Chúa mỗi ngày một gia tăng.
Cộng đoàn của chúng ta muốn gặt hái
được những thành quả tốt đẹp trong phạm vi truyền giáo, cũng
phải thực thi khuôn mẫu lý tưởng ấy. Thế nhưng, giáo xứ
không phải chỉ có linh mục và ban hành giáo, mà còn bao gồm
tất cả những người giáo dân và gia đình của họ nữa. Bởi vì
cá nhân và gia đình chính là những viên gạch vững chắc xây
dựng cho tòa nhà giáo xứ, cũng như là những yếu tố căn bản
làm cho cộng đoàn được sống động trong các sinh hoạt của
mình.
Trước hết mỗi cá nhân cũng như mỗi gia
đình phải cố gắng phát triển tình yêu thương để giáo xứ trở
thành một mái ấm được mở rộng tiếp đón và phục vụ mọi người.
Bởi vì yêu thương chính là bộ đồng phục của người Kitô hữu :
- Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết
anh em là môn đệ của Thày : là anh em có lòng yêu thương
nhau. (Gio 13,35).
Chứ đừng vì tự ái hay tư lợi mà chia
rẽ, bè phái làm mất đi sự hiệp nhất. Bởi vì Công đồng đã nói
:
- Sự chia rẽ giữa các Kitô hữu gây tai
hại cho công việc rất thánh thiện là rao giảng Phúc âm cho
mọi loài thụ tạo,và còn khép kín con đường đưa tới đức tin
đối với nhiều người. (TG số 6).
Tiếp đến, mỗi cá nhân cũng như mỗi gia
đình còn được mời gọi để tham dự ba chức năng :
Làm ngôn sứ qua việc rao truyền lời
Chúa và dạy giáo lý nhất là đối với những người không có
thiện cảm với đạo. Làm tư tế qua việc giúp lễ, đọc sách
thánh, ca đoàn, quét dọn…làm cho phụng vụ trong nhà thờ ăn
khớp với nếp sống ngoài xã hội. Làm vương đế qua việc giúp
các vị chủ chăn coi sóc các linh hồn, quản trị tài sản giáo
xứ cũng như đóng góp để xây dựng giáo xứ.
Sau cùng, các tín hữu thời sơ khai đã
lưu tâm đến việc giúp đỡ các tông đồ không những về tinh
thần mà còn về vật chất nữa. Trong thông điệp “Redemptoris
Missio” Đức thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết :
- Tất cả cộng đồng Antiochia liên đới
vào việc gửi Phaolô và Barnaba đi rao giảng Tin mừng cho dân
ngoại. (RM số 2).
Họ cũng không sống khép kín và chỉ biết
có cộng đoàn của mình, trái lại luôn sẵn sàng mở rộng và
giúp đỡ những cộng đoàn khác đang gặp phải khó khăn :
- Cũng như anh em thường trổi vượt về
mọi mặt : về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt
thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học
được nơi chúng ta, thì anh em cũng phải trổi vượt về lòng
quảng đại trong dịp lạc quyên này. (2Cor 8,7).
Chúng ta cũng vậy, hãy tích cực vun
trồng ơn gọi, giúp đỡ các linh mục, tu sĩ cũng như những
giáo xứ, những cộng đoàn khác đang cần đến chúng ta. Cộng
tác trong việc xây dựng giáo xứ và ý thức về những nhu cầu
của giáo phận cũng như của Giáo hội toàn cầu :
- Người giáo dân phải quan tâm đến
những những nhu cầu của dân Thiên Chúa ở rải rắc trên khắp
địa cầu. Nhất là họ phải coi những công cuộc truyền giáo
như việc của chính mình, bằng cách đóng góp về vật chất hay
cả về nhân sự. (TĐ số 10).
Có thực thi như thế, giáo xứ mới thực
sự là một cộng đoàn tông đồ và truyền giáo (TĐ số 10), như
Công đồng hằng mong ước.
KẾT LUẬN
Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện
sau đây :
Bữa tối kia tại vận đồng trường Los
Angeles, ông Jonh Keller, một diễn giả nổi tiếng, được mời
thuyết trình trước khoảng 100.000 Người. Đang diễn thuyết,
bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói :
- Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp
cho tắt tất cả các đèn sáng trong sân vận động này.
Đèn tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong
bóng tối âm u. Ông nói tiếp :
- Bây giờ tôi đốt lên một que diêm.
Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm đang cháy thì hãy hô
to “đã thấy”.
Một que diêm được bật lên, cả sân vận
động vang dội những tiếng :
- Đã thấy, đã thấy.
Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông
giải thích :
- Ánh sáng của một hành động nhân ái dù
bé nhỏ như một que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối
của nhân loại như vậy.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận
động lại được tắt. Một giọng nói vang lên :
- Tất cả những ai ở đây có mang theo
diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên.
Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng.
Ông kết luận :
- Nếu tất cả chúng ta biết hợp lực cùng
nhau thì có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng
bố, cái ác và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình
thương, sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta…
Câu chuyện trên làm tôi nghĩ tới một
câu danh ngôn :
- Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là
ngồi đó mà rủa sả bóng đêm.
Có nghĩa là trước tình trạng xuống cấp
của xã hội, mỗi người chúng ta cần phải có những hành động
cụ thể, chứ đừng than ngắn thở dài hay lên tiếng phê bình
chỉ trích.
Cách rao giảng bằng việc làm, bằng đời
sống là cách thích hợp với con người thời nay hơn cả, bởi vì
họ cần thực hành hơn lý thuyết. Nếu bảo đạo của chúng ta là
đạo thật, nhưng đời sống của chúng ta lại chẳng tốt lành,
thì ai dại gì mà tin vào chúng ta.
Trong phạm vi đạo giáo, chúng ta cũng
thường được nghe nói :
- Tin đạo chứ đừng tin kẻ có đạo.
Thế nhưng, bổn phận của chúng ta, những
người tín hữu, đó là phải đảo ngược lại câu nói ấy:
- Bằng cuộc sống đời thường của cá
nhân, gia đình và cộng đoàn những kẻ có đạo, người ta sẽ tin
vào đạo.
Như vậy, với một cuộc sống ngập tràn
tình bác ái yêu thương, chúng ta hãy mạnh dạn “ra khơi”…
GSVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
THĂM VIẾNG MỤC VỤ LÀ GÌ
? |
Hỏi: xin cha gỉai thích rõ :
1- Trách nhiệm và
quyền hạn của Giám mục chính tòa, Giám mục Phó và Giám mục
phụ tá.
2- Thế nào là những
cuộc thăm viếng mục vu của các Giám mục ?
Trả lời:
1- Giám mục là những người kế vị các Tông Đồ trong sứ
mạng rao
giảng, dạy dỗ, thánh hóa và coi sóc đoàn chiên được trao phó
cho mình. Gíam mục phải do chính Đức Thánh Cha bổ nhiệm,
thuyên chuyển và chế tài. Nghĩa là mọi Giám mục đều trực
tiếp chịu trách nhiệm với Đức Thánh Cha mà thôi.
Về chức thánh (Holy
Orders) thì chức Giám mục là chức thánh cao nhất của Giáo
Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo.Mọi Giám mục kể cả các
Hồng y và chính Đức Thánh Cha cũng đều chia sẻ chung chức
thánh này.
Về trách nhiệm và quyền
hạn thì Giám mục được phân loại thành Giám mục Giáo phận hay
chính tòa, Giám mục hiệu tòa, Giám mục phó và Giám mục phụ
tá.
a- Giám mục Giáo Phận
hay chính tòa ( Diocesan Bishop or Ordinary) là
Giám Mục được bổ nhiệm để coi sóc một Địa phận ( Diocese)
tức là Chủ chăn của một Giáo hội địa phương (local church)
hiệp thông trọn vẹn với Đức Thánh Cha là Chủ chăn và là Thủ
lãnh Giáo Hội hoàn vũ ( Universal Church)
b- Giám Mục hiệu tòa
(titular bishop) là giám mục không có nhiệm vụ
chính thức coi sóc một Địa phận nào.
c- Giám mục Phó (
Coadjutor) là Giám mục có quyền kế vị ( lên thay
thế) Giám mục chính tòa khi vị này từ chức về hưu hay bất
ngờ qua đời.
d- Giám mục Phụ tá
(Auxiliary bishop) là Giám mục được bổ nhiệm để phụ giúp
Giám mục chính tòa trong việc điều hành giáo phận. Giám mục
phụ tá không có quyền kế vị khi giám mục giáo phận từ chức
hay qua đời. (x.giáo luật số 375-410)
2- Trách nhiệm mục vụ của Giám mục giáo phận:
Do thánh chức và năng
quyền ( order &competence) được lãnh nhận, các giám mục giáo
phận hay chính tòa có nhiệm vụ phải mở những cuộc thăm
viếng mục vụ, còn gọi là kinh lược (Pastoral visitations)
trong toàn giáo phận của mình để thăm và cử hành các bí
tích, đặc biệt là bí tích thêm sức, cho giáo dân được trao
phó cho mình coi sóc.Nếu vì lý do gì không thể đích thân đi
kinh lược được, thì giám mục chính tòa có thể ủy thác cho
giám mục phó hay giám mục phụ tá làm việc này (nếu có các vị
này trong giáo phận) (x. can.396). Như thế có nghĩa là chỉ
trong giáo phận của mình, giám mục chính tòa mới có trách
nhiệm thăm viếng mục vụ mà thôi. Ngoài phạm vi giáo phận,
Giám mục không có trách nhiệm mục vụ nào đối với đoàn chiên
không thuộc quyền coi sóc của mình.
Nói rõï hơn, trong Giáo
Hội, cụm từ “ thăm viếng mục vụ”chỉ được dùng đúng nghĩa để
chỉ những công vịệc mà một giám mục phải làm vì bổn phận và
theo giáo luật. Ngay cả việc cử hành các nghi lễ giáo chủ
hay đại trào ( Pontifical Mass) với đầy đủ phẩm phục giáo
chủ gồm mũ (mitre) và gậy (crozier), giám mục cũng chỉ được
phép cử hành trong phạm vi giáo phận của mình mà thôi. Khi
ra khỏi giáo phận, nếu muốn cử hành nghi lễ này ở nơi thuộc
giáo phận khác, thì giám mục khách cũng cần có sự đồng ý
trước, tức là phải xin phép của giám mục bản quyền địa
phương ( local ordinary). (can. 390).
Như vậy, không thể gọi
bất cứ cuộc viếng thăm nào của một giám mục ở ngoài phạm vi
địa phận là thăm viếng mục vụ được, vì không có giám mục nào
có trách nhiệm này theo giáo luật. Ngay cả trường hợp giám
mục đến thăm một công đoàn hay giáo xứ có giáo dân từng
thuộc đoàn chiên cũ của mình ở địa phận nhà, thì cuộc viếng
thăm này cũng chỉ có tinh chất cá nhân thân hữu (private
visitation) mà thôi chứ không có mục đích mục vụ nào cả vì
các giáo dân đó nay đang thuộc quyền mục vụ của giám mục địa
phương rồi.
Vậy xin lưu ý kỹ điều này
để không lẫn lộn khi dùng những cụm từ chỉ tước vị hay nhiêm
vụ thực sự của các giám mục trong Giáo Hội. Nghĩa là không
nên gọi giám mục phụ tá là giám mục phó hay ngược lại, cũng
như không thể dùng cụm từ “thăm viếng mục vụ” cho bất cứ
cuộc viếng thăm nào của các giám mục từ địa phận này đến địa
phương khác.
Ngay cả đối với các linh
mục, thì nhiệm vụ mục vụ và sứ vụ linh mục (pastoral duties
and priestly ministries) cũng chỉ được thi hành hợp pháp
trong phạm vị giáo phận mà mình đã lãnh nhận năng quyền(
faculty) từ giám mục của mình mà thôi. Khi ra khỏi địa phận
, nếu muốn thi hành sứ vụ linh mục ở đâu trong một thời gian
lâu dài sau một tháng, thì linh mục phải xin năng quyền ấy
nơi giáo quyền địa phương. (Có nhiều nơi đòi phải xin sau
một hay hai tuần lễ tạm trú).Nghĩa là không linh mục nào
được đến cử hành thánh lễ,và ban các bí tích ở địa phương
khác mà không có phép của Đấng bản quyền sở tại. Nhưng trong
trường hợp nguy tử thì mọi linh mục đều được phép rửa tội,
sức dầu và giải tội ở bất cứ nơi nào có nhu cầu này trong
lúc mình đang có mặt ở đó.(can.976)
Đó là những điều giáo dân
cần biết để hiểu về nhiệm vụ mục vụ của các Giám mục và Linh
mục.
Lm.
Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÍCH LŨY CỦA CẢI |
Nguyên Tác
IN STEP
WITH GOD -
LM Vincent Travers,
OP
HƯƠNG VĨNH
chuyển ngữ
TÍCH LŨY CỦA CẢI
(Lc 12, 13-21)
***
Một cách khác thường, Chúa Giêsu đã gọi
người đàn ông trong dụ ngôn nầy là “người dại dột”
(Lc 12, 20), không phải vì ông ta giàu có – giàu có không
phải là một cái tội – nhưng vì thái độ sai lầm của ông đối
với của cải.
Một phi công đang bay trên không trung
với ba hành khách trong máy bay: một hướng đạo sinh, một vị
linh mục và một khoa học gia về không gian. Viên phi công
quay về phía ba hành khách và đưa tin buồn một cách nhẫn
tâm: “Máy bay đang rơi xuống! Chúng ta có bốn người nhưng
chỉ có ba cái dù. Tôi có vợ và ba con đang cần đến tôi.”
Anh ta chộp lấy một cái dù và nhảy ra khỏi máy bay.
Nhà khoa học nói lớn tiếng: “Tôi là
người khôn lanh nhất trần gian. Thật là một đại họa
cho nhân loại nếu tôi phải chết.” Ông liền chộp lấy
chiếc dù thứ hai và nhảy ra khỏi máy bay.
Còn lại vị linh mục và em hướng đạo
sinh. Vị linh mục quay sang em đó và nói: “Con ơi, cha
không có gia đình. Cha đã sống một cuộc sống lâu dài và hạnh
phúc rồi, nay cha sẵn sàng trực diện với Đấng Tạo Hóa. Con
đang còn trẻ. Cả một cuộc sống dài lâu đang trải ra trước
mặt con. Con hãy cầm lấy chiếc dù nầy đi.” Thật là một
linh mục đáng khâm phục. (Bạn có thể tin tưởng tôi khi tôi
tuyên dương vị linh mục đó là anh hùng!)
Em hướng đạo sinh trả lời: “Xin cám
ơn Cha, nhưng điều đó không cần thiết. Cả cha và con đều có
dù hết. Cha có biết không, cái ông khôn lanh nhất trên đời
đó đã nhảy ra khỏi máy bay, mang theo cái ba-lô của con! Ông
ta không khôn lanh như ông ta tưởng.”
Tôi thiết tưởng đó là phần chính của sứ
điệp Tin Mừng hôm nay.
Linh đạo phá sản
Chúng ta không luôn luôn khôn
lanh như chúng ta thường nghĩ tưởng. Phần nhiều
những gì chúng ta làm, quyết định hay chọn lựa không có ý
nghĩa thật sự, sau khi chúng ta xem xét kỹ càng. Chúng ta
cảm thấy mình ngu đần. Người đàn ông giàu có trong đoạn Phúc
Âm nầy là một trường hợp điển hình.
Không có chỗ nào trong đoạn Phúc Âm nầy
cho thấy ông là một con người xấu xa. Có thể ông là một
người tốt, một người tao nhã nữa. Chắc chắn ông là một người
làm việc đầu tắt mặt tối. Đúng thế, những người làm việc khó
nhọc đôi khi có những quyết định tồi tệ. Người đàn ông trong
đoạn Phúc Âm nầy đã lập kế hoạch đời mình căn cứ trên cuộc
sống ở trần gian nầy mà thôi.
Cụm từ duy nhất mà ông biết đến là phải
“có nhiều hơn nữa”. Ông ta bị thôi miên bởi
cụm từ “thêm nữa” mà không bao giờ có thể nắm
bắt được. Ông không bao giờ đi quá xa hơn cụm từ đó. Ông
càng có thêm, ông càng muốn thêm hơn. Một người tham lam
không bao giờ được thỏa mãn. Đủ không bao giờ là đủ hết.
Bỗng chốc quả bong bóng nổ tung. Chúa
gọi ông ta và ông phải ra đi, để lại đằng sau tất cả của cải
cho một người khác. Ông không thể mang theo một thứ gì với
mình. Ông đứng trước mặt Chúa với tay không và trần trụi.
Ông không có một lời nào để thốt lên. Sự trống rỗng của ông
đã nói lên tất cả. Cả Chúa cũng không có một lời nào để ngỏ
với ông.
Tới lúc đó, ông mới biết mình chưa bao
giờ làm gì hết. Đám tang của ông cũng rầm rộ như đám tang
của một tên trùm Mafia, với khối bông hoa và mộ bia bóng
nhoáng. Cuối cùng, tên trùm Mafia là người giàu có nhất
trong nghĩa địa, nhưng được công bố là bị phá sản về mặt
tinh thần.
Như vậy, những ưu tiên của chúng ta là
gì? Chúng ta đã sống cho lý tưởng nào? Tất cả cuộc sống
chúng ta dùng để làm gì? Con tim chúng ta hướng về đâu? Điều
gì chúng ta đã mong muốn nhiều nhất? Đó là những vấn nạn lớn
lao. Tất cả đều tùy thuộc vào câu trả lời.
Sự sống sau khi chết
Số phận của người đàn ông trong dụ ngôn
nầy đưa chúng ta đến một câu hỏi sâu xa hơn nữa: Điều gì
xảy ra sau khi chết? Có phải chúng ta sẽ được kết thúc
dưới ba tấc đất hay trong lò hỏa thiêu? Có phải chỉ thế thôi
sao?
Thánh Augustinô đã la lên: “Lạy
Chúa, Chúa đã tạo dựng chúng con cho Chúa và con tim chúng
con bồi hồi xao xuyến cho tới khi được nghỉ an trong Chúa!”
Chúng ta có kinh nghiệm về sự bồi hồi thổn thức đó ở trong
chúng ta hay không? Có một khoảng trống trong con tim và một
sự nhức nhối trong tâm hồn mà chỉ Thiên Chúa mới khoả lấp
được không? Lại một lần nữa, đó chính là những vấn đề quan
trọng trong cuộc sống.
Sự sống trước khi
chết
Có một vấn nạn khác chúng ta cần phải
nêu lên: “Có một cuộc sống trước khi chết không?”
Điều đó xem ra là một câu hỏi quái đản đang đập vào đầu óc
bạn. Eric Fromm là một tâm lý học gia nổi
tiếng đã viết: “Điều đáng thương hại trong cuộc sống ngày
nay là phần đông chúng ta chết trước khi sống trọn vẹn.”
Nhà tâm lý học nầy đã quan tâm đến những người chỉ “hiện
hữu” chứ không “sống” thật sự.
Tối chắc chắn nếu nhà tâm lý học Fromm
có mặt ở Waterford vào ngày hội gọi là “Spraoi”
vào thượng tuần tháng tám, ông ta sẽ lấy làm sung sướng thấy
rất đông người đang vui hưởng cuộc sống mà không chút ngượng
ngùng. Thiết tưởng ngay cả Chúa nữa cũng sẽ hết lòng tán
thưởng. Tôi tưởng tượng Chúa đang nhìn xuống, mỉm cười và
nói: “Cuộc thí nghiệm lớn lao của Ta với sự sống đã được
chứng minh.”
Tôi đã đọc đâu đó một câu chuyện nói về
những người khóc than lớn tiếng trên giường bệnh, sắp chết,
là những người chưa bao giờ biết sống. Họ chỉ là những quan
sát viên đối với cuộc sống, những người ngoại cuộc, những
khán giả thụ động. Thần học lớn lao của Kitô giáo cho biết
vinh quang của Thiên Chúa chính là con người biết sống một
cách trọn vẹn.
Giả thiết
Thử tưởng tượng một chút là Chúa hiện
ra và nói đôi điều với chúng ta cũng như Ngài đã nói với
người đàn ông giàu có trong đoạn Phúc Âm nầy: “Thời giờ
của con đã điểm. Bây giờ là lúc con phải ra đi. Con còn sống
vài giờ nữa thôi để sắp đặt cuộc sống cho ổn định. Bây giờ
quá trễ để thay đổi được gì, ngoại trừ việc con nói lời giã
biệt. Không cần phải sửa soạn hành lý. Tất cả những gì con
mang theo với mình là những kỷ niệm của con.”
Những kỷ niệm gì bạn sẽ mang
theo? Những kỷ niệm gì sẽ khiến bạn nói lên: “Tôi
sung sướng vì đã biết sống. Tôi sung sướng vì đã cưới người
phối ngẫu của tôi. Tôi đã được lớn lên trong gia đình tôi,
yêu thương cha mẹ tôi, đối xử với mọi người với lòng kính
trọng và đầy nhân phẩm, làm cho nhiều người cười thay vì
khóc, làm cho nhiều người cảm thấy được thoải mái, biến cuộc
sống trở thành hòa nhã hơn, ân cần hơn và chan chứa nhiều
kinh nghiệm tốt đối với kẻ khác?”
Những ưu tiên
Nếu bạn chỉ còn sống thêm ít giờ nữa
thôi, bạn có còn quan tâm đến sự thành công, đến trương mục
ngân hàng, danh thơm tiếng tốt, chơi gôn thật giỏi hoặc bất
cứ điều gì mà bạn thích thú trong cuộc sống? Tôi thiết tưởng
tôi biết điều bạn muốn làm trong những giờ còn lại của bạn.
Tôi ức đoán ra ngay bây giờ đây!
Bạn sẽ nói với càng nhiều người càng
tốt về một trong ba điều sau đây – có thể hai điều hay cả ba
điều. Có người bạn sẽ nói: “Tôi rất lấy làm buồn!”
Với người khác, bạn lại nói: “Tôi tha thứ!” Và người
khác nữa, bạn sẽ nói: “Tôi rất yêu thương!” Đó là
những gì bạn sẽ nói, bởi vì rõ ràng cuộc sống là như thế đó.
Cuối cùng, cuộc sống có tương
quan đến Thiên Chúa và đến tha nhân. Và như thế,
người giàu có trong dụ ngôn nầy đã đánh mất điều đó ở đâu?
Những ưu tiên của ông ta đã sai lầm. Ông đã săn đuổi hũ vàng
cho tới khi cầu vồng biến mất và khi đến cuối cuộc đời, ông
bàng hoàng khám phá ra rằng đó chỉ là ảo ảnh.
Phúc Âm đưa chúng ta về với thực tại.
Sống là sống trong thực tại, chứ không phải
bằng trí tưởng tượng. Trí tưởng tượng cũng tốt, bao lâu
không làm cho thực tại trở nên nhầm lẫn. Phúc Âm đưa chúng
ta trở về với những gì là quan trọng và những gì không quan
trọng.
Lòng hào hiệp và sự
chiếm hữu
Trong vài giờ ngắn ngủi sau cùng đó, sự
kiện trở nên giàu có hay nổi tiếng, trở thành vĩ đại và
quyền thế, kho lẫm đầy thóc hay bất cứ chiến công, chiến
tích nào mà chúng ta đã tích luỹ…không có điều gì trong
những thứ đó sẽ trang trí cho khung ảnh cuộc đời.
Điều quan trọng ở đây là lòng hào
hiệp ở bên trong, chứ không phải sự chiếm hữu ở bên
ngoài. Và nếu chúng ta chân nhận như thế, chúng ta sẽ
không ngớ ngẩn sai phạm khi chộp lấy cái ba-lô mà tưởng là
cái dù. Mong bạn hiểu điều tôi muốn nói!
Phúc Âm đã dạy: “Thật vậy, một
chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho
chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Vì thế,
chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng
đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình
thì tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh
viễn.” (2 Cr, 4 17-18) |
VỀ MỤC LỤC |
|
TRÁNH PHÊ BÌNH – CHÚ TRỌNG ƯU ĐIỂM HƠN LÀ KHUYẾT ĐIỂM (Bài
02) |
Cô
bé Kim Chi, 10 tuổi, bật khóc khi cô bé lấy những chiếc bánh
ngọt ra khỏi lò nướng. Cô đã không có gì sai theo những chỉ
dẫn trên hộp bánh, nhưng bây giờ thì những chiếc bánh ấy đã
cháy rụi. Bà mẹ ngửi thấy mùi cháy khét nên vào bếp và
hỏi:”Cái gì xảy ra vậy Kim Chi? Con đã đốt cháy những chiếc
bánh ngọt của con rồi. Vâng, mẹ đã ngửi thấy được mùi. Chúng
ta hãy coi thử tại sao? Mẹ biết con đã không để ý đến nó.”
“Vâng, con cảm thấy không yên. Chúng ta hãy xem thử tại sao
lại xảy ra như vậy?”
Đối
diện với một hướng đi rõ ràng, cô bé ngưng khóc và xem xét
tình hình. Cô bé và bà mẹ xem lại lời chỉ dẫn cũng như những
điều mà cô bé đã làm cho đến khi họ khám phá ra rằng cô bé
đã canh sai thời gian trên đồng hồ tự động. “Ô, con thấy
điều con đã làm sai rồi.” Bà mẹ nói: “Tốt. Chúng ta lau bếp
và con có thể làm lại.”
Bà
mẹ đã biến tai họa và chứng cớ của sự thất bại thành một
tình trạng học hỏi. Bà không rầy mắng con mình về việc để
những chiếc bánh cháy đi, cũng không phê bình về sự sai lỗi
của nó. Bà cho cô bé thấy rằng sai lầm không phải là một kết
thúc mọi chuyện và điều cần làm chính là phải khám phá ra có
một sự phán đoán sai lầm nào đó. Bà biết nỗi lo sợ của con
bà nhưng không cần quá quan tâm về chuyện đó. Bà đưa con bà
ra khỏi sự sợ bằng cách vào cuộc với con mình, đi tìm lý do
đã khiến có sự hư hỏng đó. Sau đó, bà khích lệ con bà cố
gắng làm lại lần nữa. Sự thất đảm đã biến mất bỡi sự nâng đỡ
và sự cảm thông tràn đầy tình thương của bà mẹ.
Khi
một đứa trẻ làm một điều sai lỗi, đó là hậu quả của sự thiếu
kinh nghiệm hoặc do sự phán đoán sai lầm. Nó có thể đau buồn
về những hậu quả đó. Nếu quở trách hoặc lên án nó chỉ gây
thêm đau khổ cho nó mà thôi.
Ông
bố đi vào phòng làm việc của ông để lấy cái khoan. Ông nổi
giận lên khi nhìn thấy những đồ đạt của ông vất vãi lung
tung. Một chiếc máy bay lớn nằm ngay trên băng ghế với những
vật dụng khoan, kìm, búa… nằm vất vưởng hai bên. Chiếc máy
bay, bề mặt chiếc ghế, và tất cả những dụng cụ đều bị bao
phủ bỡi một lớp sơn còn mới toan. Lọ sơn thì nằm ngay trên
sàn. Quá giận dữ nên ông gọi ngay cu Tuấn 10 tuổi đến. Và
ông đã hét lên khi cậu bé vừa đến:
-
Hãy nhìn xem đống rác mà con đã làm. Tại sao con không học
gọn gàng, sạch sẽ? Tại sao con lại làm xáo trộn như thế? Mọi
thứ đều dính đầy sơn. Con làm như vậy để làm gì? Hãy trả lời
cho bố.
Ông
ta hét to trong lúc thằng bé run lên và cứng họng. Một lúc
sau, cu Tuấn vừa khóc vừa nói:
-
Con chỉ muốn xịt để sơn chiếc máy bay của con thôi. Con đâu
biết sơn có thể bay ra xa như vậy. Bấy giờ con không biết
phải làm thế nào?
-
Tại sao con không nói với Bố trước thay vì phải chờ tới lúc
nầy?
-
Con sợ Bố giận. Đó là lý do tại sao con đã chạy trốn đi.
-
Bố sẽ đánh cho con một trận nghe chưa!
Sự
giận dữ của ông bố có thể hiểu được. Trong cơn giận dữ, ông
bố không nghe được điều đau buồn trong giọng nói của cu bé,
cũng không nhận ra cái khó xử của cậu bé. Khi người bố phản
ứng như ông đã hành xử, ông chỉ càng làm cho đứa bé thêm sợ
hãi và càng đẩy cậu bé ra xa ông. Sự đe dọa, đánh đập không
hoàn phục được tình trạng đã xảy ra, cũng không dạy được gì
cho cậu bé biết cách xử dụng để xịt một lọ sơn như thế nào?
Như
vậy, đâu là phương cách tốt nhất và hữu hiệu nhất?
Động lực giận dữ của ông bố nên mở lối cho sự nhận thức rằng
cậu bé không có ý sơn cả chiếc băng ghế. Chỉ một cái nhìn
cũng đủ biết cái gì đã xảy ra. Ông bố có thể lợi dụng tình
thế như một cơ hội để dạy dỗ. Sự kiện ở đây cho thấy cậu bé
có sự can đảm.
Và
đây là cách thế tốt nhất ông bố có thể xử dụng trong trường
hợp nầy. Ông gọi cu bé đến phòng làm việc của ông và nói:
-
Bố thấy con có nhiều vấn đề trục trặc ở đây. Con có thể nói
cho bố biết cái gì đã xảy ra không?
Cậu
bé sẽ lúng túng trả lời:
-
Vâng, con cố gắng xịt sơn chiếc máy bay của con. Con không
ngờ sơn xịt lại bay quá xa như vậy.
-
Như vậy, con học thấy rằng sơn xịt thì khác với sơn cọ phải
không?
-
Vâng, đúng như thế.
Bấy
giờ cậu bé sẽ cảm thấy nhẹ nhõm bỡi sự thân thiện của ông
bố.
-
Con có chút kinh nghiệm về cách xử dụng sơn xịt lần tới
không?
-
Vâng, con nghĩ con có thể xịt những mẫu giấy quanh đó.
Ông
bố đề nghị:
-
Hãy thử xem sao, nếu con dọn sạch chỗ nầy và đặt chiếc máy
bay vào đó, đoạïn xịt sơn vào những chỗ còn trống.
-
Con nghĩ nó sẽ đẹp lắm.
-
Bây giờ, làm thế nào đối với những dụng cụ ở trên băng ghế?
-
Con không biết. Nhưng con nghĩ chúng sẽ không bị ảnh hưởng
gì.
-
Nếu chúng được đặt vào chỗ của chúng thì có tốt hơn không?
-
Ồ, con nghĩ như vậy thì tốt hơn nhiều, vì chúng sẽ không bị
dính sơn.
-
Con có ý tưởng gì về những dụng cụ đã bị dính sơn.
-
Con sẽ dùng một vài thứ nước đặc biệt để lau sạch chúng.
-
Tốt lắm. Con cứ thử đi.
Cậu
bé sẽ sung sướng đi làm để chuộc lỗi. Bố nó và nó trở thành
những người bạn. Sự hòa điệu thì cần thiết và nó đã học được
bài học quí giá từ sự sai lầm của nó.
lm.lêvănquảng, tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
Một
vị chủ chăn luôn hết lòng vì đoàn chiên |
Bài của Đa Minh Nguyễn Tiến
Khởi
Xứ
Làng Truông - Hương Giang - Hương Khê - Hà Tĩnh
*****************
Sau khi lĩnh nhận Thiên chức Linh mục
ngày 22 tháng 06 năm 2004. Linh mục GB. Nguyễn Huy Tuấn được
Đức Giám mục cấp bằng sai về coi sóc giáo xứ Thổ Hoàng, một
giáo xứ có bề dày lịch sử với hơn 330 năm hình thành và phát
triển và cũng là nơi hạt giống Tin mừng được gieo vào đầu
tiên trên mảnh đất núi rừng huyện Hương Khê - Hà Tĩnh. Nằm
trên địa bàn xã Phương Mỹ thuộc huyện Hương Khê, với gần
6.000 giáo dân, gồm 6 giáo họ sống tập trung hai bên bờ
thuộc khu vực hạ lưu sông Ngàn Sâu. Đây là vùng quê thấp
nhất của một huyện miền núi, lại ở ngay trên chín khúc Hội
Nai, là khúc sông có dòng chảy rất hẹp, chảy quanh co theo
9 hòn núi cao nên cứ lúc có mưa lớn là cả làng quê dường như
bị ngập chìm trong lũ, chính vì thế mà giáo xứ Thổ Hoàng -
Phương Mỹ bị coi là nơi "muối mòng sông nước - cơ cực trăm
đường". Mặc dầu về coi sóc giáo xứ với thời gian chưa phải
là dài nhưng Linh mục GB. Nguyễn Huy Tuấn đã được chứng
kiến, được cảm nghiệm và từng trải với cuộc sống muôn vàn
khó khăn, với những nỗi gian truân mà người dân ở đây thường
xuyên phải hứng chịu do Thiên tai gây ra, nhất là về mùa mưa
bão. Tính bình quân hàng năm ít nhất giáo xứ Thổ Hoàng -
Phương Mỹ phải trải qua từ 3 đến 4 trận lũ lụt, nước ngập
hàng tuần, mùa màng sản xuất thường xuyên bị đe doạ. Nghề
nghiệp chính của họ lại chủ yếu là làm nông nghiệp, quanh
năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, nơi thấp trồng lúa,
nơi cao hơn trồng ngô, khoai, đậu, lạc. Thế nhưng đất sản
xuất nông nghiệp ít, lại luôn bị lũ lụt hành hoành nên thu
nhập mùa vụ cũng chẳng được là bao, bởi vậy mà cái nghèo,
cái khó luôn thường xuyên đeo bám. Hơn nữa đây là nơi rất
cách lễ, giao thông đi lại hết sức khó khăn, cách xa trung
tâm huyện lỵ hơn 30 km, đường lầy lội, lại bị dòng sông chia
cắt làm hai, không cầu cống, việc thông thương qua lại giữa
các giáo họ, các xóm quê với nhau chỉ có con đò ngang, mái
chèo bằng gỗ được giao cho 1 người phụ trách và các gia đình
phải cống nộp hàng năm bằng lúa hoặc bằng tiền. Cảm nhận và
ý thức được những nỗi thống khổ của dân. Với sức trẻ và lòng
nhiệt huyết, ngoài việc coi sóc chăm lo phần hồn cho các tín
hữu, Linh mục Nguyễn Huy Tuấn đã đem hết sức mình để hướng
dẫn, tìm kiếm nguồn hỗ trợ từ những tấm lòng hảo tâm để
thường xuyên sát cánh cùng với nhân dân ở đây từng bước khắc
phục khó khăn. Từ việc sửa sang khuôn viên nhà thờ nhà xứ,
khắc phục đường điện, làm cầu phao bắc qua sông cho bà con
đi lại thông thương đến việc xây dựng được ngôi trường 2
tầng đảm bảo cho việc học tập của con em trong vùng, và ngôi
trường này cũng chính là nơi cứu mạng cho hàng trăm người
lánh nạn trong cơn đại lũ vừa qua. Đặc biệt là việc giúp
người dân đổi mới cách làm ăn, cách đối phó với Thiên tai,
lũ lụt.
Trong cơn đại lũ vừa qua xẩy ra trên
địa bàn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, Linh mục GB. Nguyễn
Huy Tuấn đã có những việc làm, những hành động rất đáng được
ghi nhận, được nhân dân và chính quyền địa phương hết sức
thán phục. Theo bà con giáo dân trong vùng cho biết: Sau khi
nhận được công điện của ban phòng chống bão lụt và qua dự
báo trên truyền hình, Cha Tuấn đã sớm chuẩn bị và báo động
cho bà con các công tác phòng chống, vận động thuyền cứu hộ
để đề phòng khi có sự cố xẩy ra trong mưa lũ. Bên cạnh đó
Linh mục Tuấn cùng với một số người thuộc Hội đồng giáo xứ
túc trực, theo dõi mức nước lên xuống từng phút để kịp thời
tổ chức ứng cứu.
Đêm mồng 7 tháng 8 năm 2007, khi nước
lũ dâng lên quá cao ngoài dự đoán của tất cả mọi người, các
công tác phòng chống dường như vô hiệu hoá. Biết sẽ có nhiều
sự cố nguy hiểm xẩy ra, chiếc thuyền chèo bằng tay nhỏ bé
của mình không thể chống chọi được với cường suất của dòng
lũ, Cha Tuấn đã vội vàng chèo thuyền đi mượn được chiếc
thuyền gắn máy loại nhỏ của một người dân buôn bán gần đó
rồi tự mình đi trong mưa lũ cứu người đồng thời kêu gọi tất
cả mọi người khẩn trương tìm nơi an toàn để trú ẩn. Nhờ vậy
mà hàng trăm người trong cơn nguy kịch đã được cứu thoát.
Thật may nhà xứ nước chưa ngập hết tầng 2 nên Cha đã cho
người trong nhà tập trung nấu cơm, chia thành suất rồi chèo
thuyền đi cứu trợ cho dân đang bị mắc kẹt trong lũ lụt và
cũng tự tay mình chèo thuyền đi hàng mấy chục cây số để vận
động xin mì tôm về cứu trợ cho dân khi nước lũ đang vây hãm.
Chính những nắm cơm, những giờ phút xông xáo ấy của Linh mục
Tuấn mà nơi trung điểm của trận lũ quái ác này là vùng quê
Thổ Hoàng - Phương Mỹ không bị thiệt hại về người, tính mạng
và sức khoẻ của người dân ngay sau lũ vẫn được đảm bảo,
trong khi đó riêng huyện Hương Khê có đến 13 người phải
thiệt mạng. Tuy nhiên với trận lũ lịch sử chưa từng xẩy ra
trên địa bàn huyện Hương Khê này thì mức thiệt hại vô cùng
lớn đối với mảnh đất Thổ Hoàng - Phương Mỹ là điều không thể
tránh khỏi bởi chẳng có cách nào khác có thể cứu vãn được.
Trước cảnh tan hoang sau những ngày nước rút, hàng trăm ngôi
nhà bị cuốn trôi, hơn 80% tài sản của dân bị ngập chìm và
cuốn theo dòng nước, 100% nhà dân bị ngập tận nóc lại là một
nỗi băn khoăn lo lắng cho một vị chủ chăn luôn hết mình vì
đoàn chiên. Bằng sự nhiệt huyết, hoà đồng cùng với sự giản
dị chất phác, lời kêu gọi của Linh mục Nguyễn Huy Tuấn đã
được khá nhiều nơi, nhiều tổ chức, nhiều tấm lòng nhân đạo
hướng về với những chuyến hàng cứu trợ rất thiết thực như
gạo, mì tôm, quần áo, thuốc men để trước mắt lo được cái đói
khát, rét buốt cho nhân dân. Từ sự nhiệt tâm của vị linh mục
đáng kính ấy, từ sự quan tâm của nhà nước, sự chia sẻ của
nhưng tấm lòng hảo tâm, của các tổ chức, cá nhân ở nhiều nơi
nên hiện nay vùng quê Thổ Hoàng - Phương Mỹ đã phần nào tạm
thời ổn định được cuộc sống trước mắt, hàng trăm ngôi nhà bị
trôi đã được khôi phục đảm bảo nơi ăn chốn nghỉ cho bà con.
Điều đáng mừng là những mái trường bị ngập chìm, bàn ghế
ngổn ngang cũng đã được khắc phục và con em vùng Thổ Hoàng -
Phương Mỹ vẫn triển khai năm học mới đúng với thời gian
chung của cả nước.
Mặc dù tuổi đời, tuổi Thiên chức còn
rất trẻ nhưng với bản chất thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát,
tính giản dị, chất phác, lòng nhiệt tình và tinh thần cao cả
của Linh mục GB Nguyễn Huy Tuấn đã để lại trong lòng người
dân Thổ Hoàng - Phương Mỹ sự kính phục, lòng biết ơn và một
niềm tin mến sâu sắc. Hi vọng rằng Cha sẽ mãi là một vị Linh
mục đáng kính, một vị chủ chăn hết lòng vì đoàn chiên, là
một bông hoa tươi thắm trên cánh đồng truyền giáo của giáo
hội.
Hà Tĩnh, ngày 22 tháng 08 năm 2007
N.T.K |
VỀ MỤC LỤC |
|
Sơn Điền Nguyễn Viết
Khánh |
Hơn mười năm trước khi tôi mới gặp nhà
báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh lần đầu, ông lúc ấy đã ngoài
bẩy mươi nhưng phong thái nhã nhặn và lịch thiệp vẫn giữ lại
cho ông nét tươi tắn, trẻ trung. Trẻ trung như sức lực hoạt
động viết báo của ông luôn bền bỉ, đều đặn (trừ những năm
tháng phải ngồi tù) trong nhiều thập niên qua.
Tôi thường đọc những bài bình luận nhạy
bén và sâu sắc của ông đăng trên một số các tờ báo Việt ngữ
nhưng rất ít khi có dịp gặp ông trong các buổi sinh hoạt tại
Bắc Cali là nơi ông và tôi cùng là cư dân. Cách đây khoảng
ba, bốn năm về trước, có lần tôi hỏi thăm thì được ông cho
biết: “Bà nhà bác lúc này không được khoẻ nên bác rất ít khi
ra ngoài. Chỉ trừ những người bạn văn báo giới quen biết
lâu, nhất là ở xa về mà lại tổ chức sinh hoạt ở gần nhà, bác
mới có thể đến thăm họ và góp mặt một chút mà thôi, cô Ngọc
Thủy thông cảm nhé”. Viết những bài bình luận về thời sự,
ông diễn đạt ý nghĩa sự nhận định bằng lời lẽ mạnh mẽ và sắc
bén, nhưng nói chuyện giao tế với mọi người, ông luôn có sự
hòa nhã và khiêm cung trong cách nói nhẹ nhàng như thế. Bởi
ông là nhà báo mà cũng là nhà giáo, không những lâu năm
trong nghề nghiệp, mà danh tiếng ông còn được kính trọng
trên cả hai lãnh vực cao quý đó.
Khi tôi có dịp đến thăm ông trong căn
apartment nhỏ trên đường King, nơi đó trước đây là một phần
đời ấm cúng của ông cùng với người vợ tào khang trong suốt
sáu mươi năm dài, nhưng nay chỉ còn hình bóng trong khung
hình nhỏ nơi ban thờ, người vợ của ông đã ra đi từ hai năm
trước, nay chỉ mình ông sống trong căn nhà ngập đầy kỷ niệm.
Căn nhà nhỏ ấy tuy đơn lạnh, quạnh quẽ hơn nhưng cũng là nơi
sống và làm việc miệt mài của một nhá báo yêu nghề, luôn say
mê tận tụy với chức nghiệp đã đeo đuổi và phục vụ trong hơn
nửa thế kỷ qua.
Cũng tại căn nhà ấy, tuy đôi bạn đời đã
mất đi một người nhưng hai chiếc giường nhỏ vẫn kê nằm song
song như từ trước tới nay không hề thiếu vắng. Ngoài ra là
chiếc TV để vừa giải trí cùng theo dõi tin tức thời sự nóng
bỏng trong ngày, bàn làm việc, chiếc máy compurter và sách
báo tài liệu chiếm gần hết không gian của ký giả kỳ cựu Sơn
Điền Nguyễn Viết Khánh. Đây là thế giới sống và làm việc của
ông nên dù có các con ở gần, có ngỏ ý mời bố về sống chung
nhưng ông vẫn muốn sống tự toại thoải mái dù phải tự nấu ăn
và làm tất cả mọi công việc nhà lấy, nhưng nhờ tập khí công
vào mỗi buổi sáng sớm như trong nhiều năm qua ông vẫn giữ
được sức khỏe tốt. Hơn nữa không muốn làm phiền các con vì
ai cũng có nhu cầu đời sống riêng nên hiểu tấm lòng các con
đều hiếu thảo là ông đã thấy mãn nguyện, và mỗi tuần thấy
các con về chơi, dọn dẹp nhà cửa hộ bố, đón đi ăn hoặc đưa
về thăm các cháu nội ngoại là ông đủ cảm thấy vui vẻ hạnh
phúc với những sự chăm sóc trong tình thương yêu đó.
Cũng tại nơi đây tôi đã được nghe đôi
điều tâm sự của nhà báo lão thành Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh
mà tôi rất kính mến, giờ thêm ngưỡng phục tấm lòng son sắt,
tận tụy, chung thủy của ông đối với sự nghiệp làm báo, trách
nhiệm làm thầy đối với học trò, và tình nghĩa yêu thương đối
với người vợ hiền đã khuất bóng.
Người con gái mà ông quen biết từ lúc
còn ở ngưỡng cửa Trung Học là một cô gái nhu mì nết na. Thời
đó, tình cảm gái trai nếu có cũng chỉ ở mức “tình trong như
đã, mặt ngoài còn e’ nên hai người chỉ biết cảm mến mà chưa
dám ngỏ lời vì nghĩ rằng mình còn đi học, còn trẻ quá để nói
chuyện yêu đương! Thời đó, đa số con gái được cha mẹ cho
theo học hết Trung học cũng tốt lắm rồi, nên bẵng đi vài năm
họ chẳng có dịp gặp lại nhau vì người con gái ấy đã nghỉ học
để phụ giúp chuyện nhà, mua bán và lo cho gia đình. Không
ngờ sau đó có dịp gặp lại, hai bên đều đã trưởng thành, ôn
lại tình cảm thuở học trò và dường có một sợi dây duyên nợ
buộc ràng nên họ đã trở thành đôi vợ chồng, gắn bó suốt cả
một cuộc đời lâu bền về sau.
Là một người say mê các môn về Khoa học
và ước mơ sau này sẽ trở thành một nhà Bác học, chuyên
nghiên cứu về Không gian và Vũ trụ để có thể khám phá những
điều mới lạ hữu ích cho nền Khoa học tân tiến. Nhưng, có
phải là định mệnh chăng mà ông lại trở thành nhà dịch thuật,
làm báo và dạy bộ môn báo chí cho những người say mê ngành
truyền thông. Những công việc đó đã theo ông gần hết cuộc
đời và là niềm yêu thích say mê không kém gì niềm mơ ước về
Khoa học của ông ngày xưa, dầu nghề báo đã tìm đến ông chứ
không phải ông chọn lựa như ông từng cho biết trong lần tôi
có dịp phỏng vấn ông cách đây mấy năm trước.
Sau khi lập gia đình, có được người vợ
đảm đang việc mua bán bên ngoài, chăm lo nuôi dạy con cái
trong nhà và hết lòng thương yêu hỗ trợ chồng nên ông thật
sự bước vào ngành báo chí qua sự hướng dẫn của vài người bạn
thân đang hoạt động trong ngành làm báo Việt ngữ lúc bấy
giờ. Qua những bài dịch, phóng tác từ tiếng Pháp và Anh ngữ
qua tiếng Việt, ông viết thường xuyên cho tuần báo Thanh
Niên của ký giả Trần Việt Sơn, ngoài ra còn sáng tác nhiều
truyện ngắn dưới bút hiệu Tùng Khanh. Năm 1949, vào khoảng
ba mươi tuổi và đã thu thập một số vốn liếng kinh nghiệm
cũng như kiến thức làm báo nên ông đảm trách việc chủ nhiệm
cho tờ nhật báo Quyết Sống ở Hà Nội, Sau đó, ông làm việc
với Việt Tấn Xã, phiên dịch những bản tin Anh, Pháp sang
Việt ngữ và làm đặc phái viên cho chiến trường miền Trung
tại Huế khoảng đầu thập niên năm mươi, đến giữa thập niên đó
thì ông được đảm nhận chức vụ đặc phái viên VTX cho phủ Tổng
Thống. Rồi trở thành cây viết bình luận, xã luận xuất sắc
của các tờ báo lớn của miền Nam VN như Đuốc Nhà Nam, Thần
Chung, Dân Chủ Mới, Sàigòn Mới, Trắng Đen, Độc Lập, Tiếng
Chuông… với tên Việt Lang Quân. Sau những lần đi tu nghiệp
báo chí ở Nhật về, ông đã phát huy thêm nhiều điều hay, mới
và hữu ích đã học hỏi được từ nước ngoài về các tiêu chuẩn
báo chí quốc tế, và bút hiệu Sơn Điền kèm theo tên thật
Nguyễn Viết Khánh của ông cũng được gọi từ đó.
Năm 1965, ông trở thành Tổng Thư Ký cho
cơ quan Thông Tấn Xã của Việt Nam Cộng Hòa. Bên cạnh đó, một
công việc quan trọng và rất đỗi tha thiết yêu mến của ông,
đó là chương trình dạy môn báo chí cho các sinh viên trường
đại học Vạn Hạnh. Ông quý mến tất cả những học trò đã đến
với ông và ngược lại ông cũng nhận được sự kính yêu của họ
dành cho ông từ lúc còn ngồi dưới mái trường Vạn Hạnh cho
mãi đến bây giờ dù ở khắp nơi hải ngoại. Tất cả sự hăng say,
hoài bão lý tưởng cùng những kinh nghiệm kiến thức trong
ngành báo chí, ông vui sướng được truyền đạt lại cho giới
học trò, những lớp người đi sau tiếp tục khai phá và phát
triển thêm cho ngành truyền thông báo chí Việt Nam.
Trong cuộc tiếp xúc, nhà báo Sơn Điền
Nguyễn Viết Khánh cũng cho tôi (một người tuy không phải là
học trò của ông nhưng đã làm cho tôi rất cảm động khi ông
xem tôi như lớp đàn em thân mến) biết thêm về những điều
luôn cần phải trau dồi và quan tâm của một nhà văn nhà báo.
Đó là chữ “tâm”, là tâm thức, là nghị lực và ý chí, kiên trì
và nhẫn nại để quyết tâm học hỏi hòng tránh những đào thải
bởi những tư duy mới trong thời đại tiến hóa mau lẹ trên thế
giới ngày nay. Có cái tâm đó mới có sự thúc đẩy của tinh
thần cầu học không xao lãng, không biết mệt mỏi. Điều thứ
hai là cần phải giữ đúng đạo đức nghề nghiệp, cũng là đạo lý
con người trong xã hội. Điều kiện này có một cái gốc căn bản
là sự lương thiện, hiền hương, lương tâm, nó luôn được tri
giác soi sáng nên còn gọi là lương tri. Bởi kiến thức và đạo
đức là hai cột trụ nâng đỡ nghề làm báo. Nhưng… kiến thức
càng nhiếu, suy tư càng phức tạp, cám dỗ càng mạnh, chỉ có
lương tri trong sáng mới giúp được ký giả thức tỉnh trước
tham vọng quá đáng vì danh lợi, để khỏi bị lôi cuốn vào con
đường của những kẻ bất lương, vô liêm sỉ. Báo chí cũng giống
một thứ vũ khí, nếu ở trong tay kẻ ác thì nó là vật hãm hại,
bôi nhọ người, nhưng ở trong tay người thiện thì nó là vật
bảo vệ những giá trị cao quý nhất của cuộc sống.
Khi nói về những hoạt động trong ngành
truyền thông báo chí qua hơn nửa thế kỷ, từ quá khứ cho đến
hiện tại và cả trong tương lai, đôi mắt nhà báo Sơn Điền
Nguyễn Viết Khánh như có ngọn lửa cháy sáng niềm đam mê, tin
yêu mãnh liệt. Nhìn phong thái ung dung điềm đạm, giọng nói
mạch lạc với từng chữ từng lời khiêm tốn nhã nhặn và với đôi
mắt sáng bừng niềm tin tha thiết ấy, tôi chợt hỏi đùa ông
một câu: “Ngày trước, bác là một Giáo sư danh tiếng mà cũng
là một ký giả nổi tiềng, có chức vụ nghề nghiệp cao, cháu
mong bác thứ lỗi khi có thắc mắc này muốn hỏi…’. Ông nhẹ gật
đầu, nhìn tôi, lắng nghe câu hỏi, tôi nói liền một mạch:
“Thưa bác, bởi thường thì “trai tài gái sắc” hay phải lòng
và mến mộ sắc tài của nhau, vậy trong quãng đời hoạt động
thời trẻ, chắc bác cũng có nhiều người phụ nữ nhan sắc ái mộ
và cảm mến phải không ạ?
Ông bật cười, đôi mắt lại lóe sáng một
góc trời quá khứ, rồi chậm rãi cho biết: “Ngọc Thủy nghĩ thế
cũng đúng thôi, bác cũng từng gặp những người cảm mến sự
hoạt động viết lách của mình, đó cũng là ánh lửa cho đời
sống được thắp lên những niềm vui, sự thông cảm, an ủi và
tri ngộ nhưng đạo đức và lương tâm cũng giúp bác biết giữ
lại được điều gì tốt đẹp nên gìn giữ và dừng tránh những đổ
vỡ, thương tổn đáng tiếc. Cũng có đấy cháu ạ, nhưng chỉ là
những kỷ niệm đẹp hoặc thấp thoáng thôi’.
Ông lại nhắc đến lương tri và trọng
trách của một nhà giáo phải sống như thế nào để thể hiện
cung cách đạo đức và ứng xử đàng hoàng, tử tế. Ông cho biết
là rất may mắn được dạy dưới mái trường Vạn Hạnh, chú trọng
về tâm và đức độ của con người theo giáo hóa nhà Phật với
câu “duy tuệ thị nghiệp’ luôn ngời sáng trong đời sống hướng
tới thiện lành, chân mỹ.
Sau tháng tư năm 1975, nhà báo Sơn Điền
Nguyễn Viết Khánh bị bắt chung với một số các anh chị em văn
nghệ sĩ khác, ông phải trải qua mười hai năm tù dưới chế độ
Cộng sản. Được qua Mỹ đoàn tụ với các con vào đầu năm 1992
và sẵn là một định mệnh nghiệp dĩ, ông vẫn tiếp tục làm báo,
viết những bài bình luận, nhận định về tình hình thời sự thế
giới hiện nay qua ngòi bút sắc bén và cái nhìn rất tinh tế
đã khiến độc giả trên các báo, thính giả trên các đài phát
thanh theo dõi vẫn luôn luôn thú vị với những bài viết độc
đáo của ông. Quả thật, ai cũng thán phục sự nhiệt tình hăng
say của ông, tuổi dù đã gần chin mươi nhưng sức làm việc và
ngòi bút của ông vẫn trẻ trung, bén lửa.
Bên trong những hoạt động tích cực đó,
vẫn có những nỗi niềm u uẩn riêng đã làm tôi thật sự xúc
động khi nghe ông tỏ bầy tâm sự: “Hồi bác mới sang Mỹ, ở nhà
mãi cũng buồn, lại nhớ nghề vì yêu nghề nên sau đó bác một
mình đi xuống Nam Cali cùng làm tờ Việt Báo Kinh Tế theo lời
mời của vợ chồng chủ nhiệm Trần Dạ Từ & Nhã Ca. Bà nhà bác ở
lại đây với các con. Những năm chin mươi mấy đó chưa có xe
đò Hoàng như bây giờ nên mấy tháng bác mới về thăm nhà một
lần. Bác gái bấy giờ đã ngoài bẩy mươi nhưng cũng còn khỏe,
biết bác yêu nghề làm báo nên bà không ngăn cản nhưng có lần
bác cũng nghe đứa con gái kể cho biết: “Có hôm trời mưa to,
mẹ cứ đứng ở cửa sổ ngó ra ngoài trời mưa, mặt mẹ buốn lắm,
con nghĩ chắc lúc đó mẹ nhớ tới ba nhiều”. Tuy xúc động và
áy náy nhưng công việc làm báo dưới Nam Cali cứ cuốn hút
bác, cho đến một hôm… Khi đứa con đón bác từ phi trường San
Jose, thay vì đưa về nhà như mọi khi thì lại chở thẳng bác
đến nhà thương vì bà nhà bác vừa mới phải đưa vào cấp cứu.
Dọc đường, bác bồn chồn lo lắng và cảm thấy thực sự hối
tiếc. Vợ chồng đã sống với nhau gần sáu mươi năm chưa hề xa
lâu. Nay tuy tuổi đã già nhưng chắc bà ấy cũng luôn cần đến
mình ở bên cạnh, thế mà mình bấy lâu cứ mê mải làm báo. Thôi
lần này, phải ở nhà, bên cạnh với bà ấy. Khi không còn khoẻ
là lúc bà cần đến mình hơn bao giờ hết…”. Thế là từ đó,
ông ở nhà hẳn, luôn bên cạnh chăm sóc cho bà, không rời đâu
ngày buổi nào. Họa hoằn lắm khi có việc phải ra ngoài, ông
chỉ đi một lát rồi vội vả về nhà. Ông luôn ở bên cạnh bà như
thế trong suốt mấy năm bà suy yếu. Cho đến ngày bà nhắm mắt
lìa đời, ông vẫn ở lại trong căn nhà nhỏ, còn phảng phất
bóng dáng người vợ hiền đã một đời tận tụy cùng ông và các
con cháu. Người vợ đảm đang ấy cũng đã hy sinh rất nhiều
trong sự nghiệp làm báo của ông, công việc gắn liền cũng vào
thời điểm họ mới thành hôn, thấm thoát cũng trải qua hơn năm
mươi năm dài. Sự thành công của ông là phần lớn bà tiếp tay
khích lệ, những đóng góp âm thầm của những người vợ một đời
tận tuỵ yêu quý chồng con.
Vào trưa thứ sáu tuần này, ngày 1 tháng
9/07 sẽ có buổi tiếp xúc và ra mắt mắt tác phẩm Những Mùa
Xuân Trở Lại của nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, chương
trình được tổ chức vào lúc 1 giờ trưa tại thư viện Dr Martin
Luther King, ngay góc đường số 4 S. downtown San Jose.
Tuyển tập Những Mùa Xuân trở lại dày
250 trang với các chương viết giá trị về Mùa Xuân của Sự
Sống, Mùa Xuân của Vũ Trụ, Vũ Trụ và Con Người .v.v… nói lên
Tình Người, Tình Nhân Loại sẽ tốt đẹp với những hạt giống
Nhân Ái gieo rắc mùa Xuân đến tất cả muôn nơi, cho muôn
loài. Nơi đâu có Thương Yêu là sẽ có mùa Xuân, nẩy mầm Hy
Vọng thắm tươi. Và trong tuyển tập này, tác giả cũng chia xẻ
đến tất cả quý bạn đọc, thân hữu niềm tin yêu hy vọng tươi
sáng về tương lai đất nước Việt Nam. Những niềm tin yêu hy
vọng sẽ mang Những Mùa Xuân Trở Lại trên quê hương yêu quý
của chúng ta một ngày không xa.
ngọc thủy |
VỀ MỤC LỤC |
|
VẪN LÀ MỘT NỀN Y KHOA VUI VỚI NHIỀU HY VỌNG |
Quý độc giả Ephata
và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,
Trong công việc lo lắng
cho anh em bị bệnh trong nhà dòng, có lần tôi được gặp một
vị bác sĩ, khi người anh em của chúng tôi lâm trọng bệnh,
tôi liên lạc với người bác sĩ ấy thường xuyên hơn. Mối quan
hệ giữa vị bác sĩ ấy và người anh em của tôi là một mối quan
hệ sâu đậm, tôi được biết từ những ngày xa xưa ở Huế, khi vị
bác sĩ này còn là một chú bé, người anh em của tôi đã đi lại
với gia đình và nâng dỡ tinh thần gia đình chú bé, cũng như
chú bé ấy có nhiều dịp chạy ra chạy vào nhà dòng với người
cha thân yêu.
Ngày Chúa gọi người anh
em tôi về, người bác sĩ ấy có mặt liên tục trong phòng tang
lễ của nhà dòng ( chúng tôi quàn các tu sĩ của nhà dòng khi
qua đời tại phòng khách nhà dòng ), với bộ tang lễ màu đen,
trên đầu vấn một vành khăn trắng, mắt ông đỏ hoe và không
ngừng rơi lệ mỗi khi có ai đến thăm hỏi. Đêm trước ngày an
táng, khi mọi người đã lần lượt ra về, trả lại người anh em
của tôi một đêm âm thầm một mình với Chúa trong nhà thờ (
chúng tôi có truyền thống di quan ra nhà thờ đêm trước ngày
an táng ), ông đến bên tôi xin một đặc ân “Cha cho phép mở
nắp quan tài để con và cháu được nhìn mặt ông nội lần cuối”
( hiện nay chúng tôi sử dụng quan tài có nắp kính ), tôi đã
không thể từ chối lời thỉnh cầu này vì người con trai của
ông vừa từ nước ngoài về khi nghe tin “ông nội” qua đời.
Tôi không lạ gì những
thái độ của ông. Trong những ngày người anh em của tôi trở
bệnh nặng, mỗi lần vào bệnh viện, đến phòng làm việc của ông
để thăm hỏi, ông vẫn với con mắt đỏ hoe, giọng nói đầy xúc
động khi cho tôi biết về bệnh tình của người anh em tôi. Rồi
người nuôi bệnh cho tôi biết, bác sĩ không dám lên thăm cha
nhiều nữa mà chỉ gọi điện thọai hỏi, vì mỗi lần thăm bác sĩ
lại xúc động. Trái lại, ông gọi điện thọai cho tôi nhiều hơn
và xin tôi vào với người đau nhiều hơn vì ngày Chúa gọi đã
gần kề.
Ông xót xa nói với tôi
khi ngày đầu nhận được tất cả các kết quả xét nghiệm “ Thưa
cha, đã quá trễ rồi, sao bố con lại để đến bây giờ mới phát
hiện ? Con sẽ cố gắng với các đồng nghiệp của con, nhưng quá
trễ rồi !”, và ông cùng với các đồng nghiệp của ông rất tận
tình với chúng tôi như tôi đã chứng kiến, những vị bác sĩ
giỏi của một bệnh viện giỏi nổi tiếng và đắt tiền tầm mức
quốc tế ở thành phố này. Điều mắm muối là, người anh em linh
mục của tôi lâm trọng bệnh cũng là một ... bác sĩ ! Một bác
sĩ mải miết với những bệnh nhân nghèo miền sông nước Cửu
Long mà quên đi sức khỏe của mình. Nghe đâu khi biết mình
mang bệnh, ngài còn cố nán lại không lên thành phố để điều
trị vì còn đang theo dõi phát thuốc cho một số người nghèo.
Trong những ngày phải nằm viện, đã có lần ngài nói với tôi :
Cha cho phép con về lo cho một vài người, họ đang cần đến
con”.
Tang lễ đã qua, tôi
không còn dịp liên lạc với ông, bỗng một hôm tôi nhận được
một lá thư của ông, trong thư ông đính kèm một bài viết, ông
nhờ tôi xem và hỏi ý tôi về bài này. Đọc xong, tôi trả lời
thư cho ông với tất cả lòng trân trọng, trân trọng một tấm
lòng nhân ái, trân trọng một tâm hồn “lương thiện trí thức”,
trân trọng một con người biết đau nỗi đau của nhân loại. Tôi
mạn phép gởi bài của ông để chia sẻ với một người anh em
linh mục trong Dòng đang giảng dạy về Thân học Luân lý, tôi
nhận được thư trả lời “cám ơn anh đã gởi bài viết của Bs.
Phương để chia sẻ với em, bài viết rất nhân bản và rất hay,
giá như có nhiều bác sĩ biết được như vậy nhỉ !”.
Ông đã gởi đăng ở báo
Doanh Nhân Saigon Cuối tuần ( báo Tuổi Trẻ đăng lại ngày
25/8 ) với cái tựa là “Y Khoa buồn”, tôi nghĩ ngược lại và
giới thiệu ông, giới thiệu một tấm lòng nhân ái, giới thiệu
một tâm hồn lương thiện trí thức với cái tên khác : Y Khoa
vui và hy vọng. Tôi nghĩ là vui và hy vọng vì vẫn còn những
người bác sĩ nhớ lời thề của mình với ông tổ y khoa, vẫn còn
những người thầy thuốc biết đau cái đau của nhân loại, vẫn
còn những người bác sĩ biết chọn lựa cung cách sống với
tiếng nói của lương tâm lành mạnh.
Chúng tôi đăng bài viết
của ông gởi cho tôi, bài viết nguyên tuyền là bài viết của
ông cho quý độc gỉa có dịp xem ngay trong số báo này, với
đề nghị chúng ta cùng vui vì còn có những con người như thế.
Lm. VĨNH SANG, DCCT
30/8/2007
Y KHOA BUỒN
Chiều nay bệnh nhân thưa vắng, được về
sớm, lơ đãng dán mắt vào cái TV chẳng mấy khi coi, có một
phóng sự trên VTV2, “Chương trình sàng lọc trẻ sơ sinh”, cứ
làm tôi mãi ngẫm nghĩ. Chẳng đi đến đâu, thôi thì viết ra
cho nhẹ lòng!
À thì ra thế, y khoa nước ta tiến bộ
quá chừng ! Những mảnh nhiễm sắc thể mà bọn chúng tôi chỉ
được đánh vật trên giáo trình luyện thi Đại học 20 năm về
trước, giờ này người ta đã trích ly, đong đếm, khảo sát được
dưới kính hiển vi. Chúng giúp chẩn đoán sớm, thật sớm những
dị tật bẩm sinh ngay từ trong bụng mẹ, mà ông tạo trớ trêu
đã đặt trên số phận của một thai nhi. Có bệnh chữa được, có
bệnh hiện nay chưa chữa được. Chưa chữa được, chứ
không phải là không bao giờ chữa được, hiểu theo cái nghĩa
lạc quan nhất của một ngành di truyền học đang tiến bộ từng
ngày. Với một bản đồ gen được thiết lập, người ta có thể
phán quyết về số phận của một con người: bình thường lành
lặn, hay tận cùng hẩm hiu với một dị tật bẩm sinh nào đó,
không tương hợp với cuộc sống. Đồng thời, là những hệ lụy
cay đắng, đau đớn của những bậc cha mẹ không may!
Nhưng phát hiện sớm, từ trong bụng mẹ, để làm gì ?
Nếu để điều trị sớm, để giúp sửa chữa
sớm, thật sớm sự lỡ tay của Tạo hóa thì quá tốt rồi. Ai cũng
mong ước thế ! Còn như để hủy diệt một mầm sống từ trong
trứng nước, “giúp cải tạo giống nòi” thì có nên chăng ? Đành
rằng, nuôi dạy một đứa con bệnh hoạn, đầy khuyết tật quả là
một gánh nặng nhiều khi quá sức chịu đựng. Nhưng, thai nhi
non nớt đó đâu có quyền được chọn quyền được sinh ra, khỏe
mạnh hay bệnh hoạn, ưu tú hay đầy khuyết tật. Không phải lỗi
của nó, cũng không phải lỗi của bất cứ ai cả. Chấm dứt sự
sống của một hài nhi yếu ớt, bệnh hoạn, chỉ duy trì những
thai nhi khỏe mạnh, có lý lẽ của nó ! Nhưng hình như, nó
phảng phất chút gì giông giống thuyết ưu sinh ( eugenics ).
Nietzsche, một trong những triết gia đại diện của thuyết ưu
sinh, chủ trương chỉ tồn tại những cá thể ưu việt, thuần
chủng, khỏe mạnh hoàn toàn. Mà ai cũng biết, tư tưởng của
Nietzsche đã từng là mầm mống cho những trang đen tối và bi
thảm nhất trong lịch sử nhân loại, chủ nghĩa Quốc xã.
Primum non nocere ! Trước hết,
không làm tổn hại !. Lời răn y khoa số 1 từ cổ đại, chắc
không ai không đồng ý. Vì mục đích cao quí và tối hậu nhất
của y khoa là chữa lành, chứ không phải hủy diệt ! Vì quyền
được sống của mọi sinh mạng, thì đều quí giá như nhau ! Vì
những gì y học bó tay hôm nay, biết đâu lại có thể được chữa
lành trong một tương lai rất gần ! Vì những hài nhi bị tuyên
án tử hôm nay, năm, mười, hay năm mươi năm sau biết đâu có
thể khỏe mạnh bình thường nhờ những tiến bộ vũ bão của y
học. Bao nhiêu bệnh lý phải bó tay bao năm về trước, nay có
thể điều trị tử tế, đàng hoàng. Nếu nhân loại quyết định hủy
diệt tất cả những mầm sống mà nền y học của nó hiện không
thể trị lành, chắc chắn vô số bệnh nhân nan y của tôi ắt hẳn
đã phải về bên kia thế giới từ lâu. Sự sống, dù ngắn ngủi,
dù đầy bệnh tật hiểm nghèo, chắc chắn luôn luôn quí giá hơn
cái chết !
Phải chi, chúng ta có những cơ sở nuôi
dạy, chăm sóc trẻ khuyết tật thật tốt đẹp, để những đứa trẻ
không may đó có cơ hội được sinh ra, được chăm sóc, được
sống tử tế và được hy vọng vào một nền y học đang tiến bộ
từng ngày. Hơn là chúng phải ra đi từ trong bụng mẹ, hay
sinh ra và trở thành một gánh nặng không thể chịu nổi cho
cha mẹ. Vì vậy, không hề lên án, tôi cảm thông nỗi đau đớn
của những bậc cha mẹ phải đành lòng bỏ đi đứa con bệnh hoạn
đang hình thành của mình. Trong sự chia sẻ này, pha lẫn
nhiều ngậm ngùi về một nền y học hữu hạn và còn quá nhiều
bất lực !
Truyện cổ kể rằng, một vị thiền sư nọ
khi đạt chánh quả, đã đặt một con kiến lạc lối trên tay áo
nhẹ nhàng xuống đất. Lẽ nào, chỉ có những con kiến khỏe
mạnh, không tật không nguyền, mới xứng đáng với tình yêu
thương muôn loài, với lòng tôn kính sự sống ?
Cái đầu dấm dớ của tôi cũng không nén
nổi một tiếng thở dài khi ống kính chĩa sát, thật sát vào
những hình hài dúm dó đầy khuyết tật. Hình như, quá say sưa
với kiểu đưa tin theo kiểu “người thật việc thật”, người
quay phim nào đó đã quên mất một nguyên tắc bất di bất dịch
trong nghề y, là quyền riêng tư của mỗi bệnh nhân. Phải
chăng, vì nhiệt tình minh họa sự lợi ích của chương trình
sàng lọc sơ sinh, người ta có quyền trưng lên các phương
tiện truyền thông, những con người bất hạnh này như những ví
dụ cụ thể, lạnh lùng và không chút xót thương. Những lời
giảng giải của đồng nghiệp tôi về chứng suy giáp trạng bẩm
sinh, chắc chắn sẽ dẫn đến thiểu năng trí tuệ về sau, thật
chính xác, cực kỳ chính xác và uyên thâm. Nhưng có ai nhìn
thấy ánh mắt đau đớn, cúi gầm đầy cam chịu của một bà mẹ trẻ
cũng lồ lộ dưới ống kính, khi gia cảnh bất hạnh của mình
được đem làm dẫn chứng một cách sinh động, lạnh lùng đến thế
hay không? Đồng nghiệp tôi khi đang say sưa giảng giải, có
được sự ưng thuận của gia đình hay không, tôi không biết ?
Vì trong những dòng generic ở cuối phim, tôi không thấy một
dòng cảm tạ, hay ghi nhận sự cộng tác của những con người
rất đỗi bất hạnh này. Nhưng tôi biết chắc rằng, những cuốn
sách thuốc mà tôi học, nếu không cần thiết, bắt buộc phải
che mắt và bộ phận sinh dục trước khi chụp ảnh, in thành
sách để chúng tôi học làm thầy thuốc. Thông lệ này cũng là
điều bắt buộc khi mổ tử thi, để tỏ lòng kính trọng một đồng
loại xấu số. Ngay ở nhà xác, tôi đã đọc được một câu cách
ngôn đầy minh triết ”Mortui vivos docent - Người chết
dạy kẻ sống”. Tiên quyết hơn cả, tất cả các hình ảnh từ bệnh
nhân, khi sử dụng cho mục đích giảng dạy hay truyền thông,
đều phải có sự đồng ý và cho phép của chính bệnh nhân đó,
hay gia đình của họ. Đó là một nguyên tắc đẹp đẽ và bất di
bất dịch ! Vì nhân danh sự hiểu biết hay quyền lợi cộng
đồng, để phơi bày bệnh tật và niềm đau khổ của một gia đình
bất hạnh, chắc chắn không phải là mục tiêu của một nền y
khoa nhân bản.
Thế nên, một nền y khoa dù tân tiến
cách mấy, nhưng thiếu tính nhân văn và lòng tôn trọng con
người, mãi mãi là một nền y khoa buồn
!
BS. LÊ ĐÌNH PHƯƠNG |
VỀ MỤC LỤC |
KHUÔN MẶT LINH MỤC THỜI CÔNG ĐỒNG VÀ SAU CÔNG ĐỒNG
|
Tác phẩm Giáo Hội Cần Loại Linh Mục
Nào? (tiếp theo)
Lm Giuse Lê Công Đức chuyển ngữ từ
bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD IMPERILED, Tác giả:
Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.
Tại Công Đồng
Vatican II, các giám mục – và các cố vấn của các
ngài trong đó đa số là linh mục – rất ý thức rằng các linh
mục trong Giáo Hội đang kỳ vọng một văn kiện mạch lạc sáng
tỏ về đời sống và sứ vụ của họ giữa một thế giới và một Giáo
Hội đang thay đổi. Mãi đến cuối Công Đồng, vào ngày
7-12-1965, sau một giai đoạn thai nghén đầy vất vả, các Nghị
Phụ mới phê chuẩn xong Sắc Lệnh Về Sứ Vụ Và Đời Sống Linh
Mục.
Những nỗ lực ban đầu
Đầu tháng 10 năm 1964, bản dự thảo thứ
17 về chức vụ linh mục được đệ trình cho hội nghị khoáng đại
và đã nhận được những phê phán kịch liệt. Thay mặt các giám
mục Tây Đức, Hồng Y Julius Dopfner của Munich đã đưa ra sự
phản đối dữ dội nhất. Bản văn được đánh giá là hoàn toàn
trật khớp với kinh nghiệm lịch sử về các linh mục và giáo
dân, làm nên một thứ thần học và tu đức khơi khơi bên ngoài
lịch sử. Phản ứng tức thời ấy của đại đa số các giám mục đã
cho thấy hết sức rõ rằng chính đây là điểm yếu nhất của bản
văn kiện dự thảo.
Một bản văn hoàn toàn mới được gấp rút
soạn thảo. Quả thực, ủy ban soạn thảo đã tập trung mọi cố
gắng để bao hàm những vui mừng, hy vọng, buồn sầu, lo lắng
của con người trong thế giới hôm nay mà các linh mục chia
sẻ. Tuy nhiên, ba mươi năm sau Công Đồng, phải nhận rằng các
vị soạn thảo và biểu quyết bản văn đó vẫn chưa nhận thức
được hết tầm mức của cơn khủng hoảng, và tầm mức của sự thay
đổi chi phối trực tiếp đến các nền văn hóa và các xã hội hôm
nay cũng như ngày mai. Vẫn còn thiếu một sự tiên lượng gắn
liền với thực tiễn; và Giáo Hội vẫn cần phải nhạy cảm hơn
nhiều rất nhiều, ngay cả khi đang phải đương đầu với bao khó
khăn và biến động.
Dù sao, chúng ta cũng nên xem lại Sắc
Lệnh quan trọng này, vì chính trong đó chúng ta sẽ gặp thấy
một số điểm rất có ý nghĩa như sau: Các linh mục không thể
thực sự phục vụ người ta trừ phi các vị thấu cảm hoàn toàn
hoàn cảnh sống của họ, nghĩa là các linh mục phải sống ở
giữa dân chúng được ủy trao cho mình (đoạn 3). Cần phải nhấn
mạnh đến việc giúp người ta tiến tới mức trưởng thành đầy đủ
(đoạn 6). Và há chúng ta không thể khẳng định rõ rằng ở đây
có bao hàm việc nhận thức và khích lệ người ta biết phê bình
đó sao? Một điểm quan trọng khác, đó là các linh mục cần đặc
biệt quan tâm đến những người đau khổ, những kẻ bệnh tật,
những người nghèo khó. Cũng không nên quên rằng Sắc Lệnh này
nhấn mạnh đến việc xây dựng cộng đoàn Kitôhữu với trung tâm
là Thánh Thể (đoạn 8).
Công Đồng đã không quên lưu ý đến hiện
tượng lịch sử đang đổi thay nhanh chóng, song tại sao có
vẻ như các Nghị Phụ không thấy trước những hệ quả nổi
cộm nhất của hiện tượng này – chẳng hạn, các vấn đề xung
quanh tính đa nguyên và sự hòa giải – trong ý thức đầy đủ về
sự đa dạng văn hóa? Sắc lệnh nhấn mạnh một cách đúng đắn đến
tầm quan trọng của tinh thầân khó nghèo nơi các linh mục,
thế nhưng tại sao không hề thấy nói rằng chính các giám mục
phải là những mẫu gương sống động về cuộc sống khó nghèo và
đơn sơ? Bản văn cũng giới thiệu động lực phong phú cho linh
đạo linh mục xét như một diễn tả của mối dây liên đới huynh
đệ. Cuối cùng, song không kém quan trọng, các linh mục được
thúc bách trung thực đánh giá chính mình trong ánh sáng của
những đòi hỏi mà họ phải đáp ứng để có thể sống gần gũi dân
chúng (đoạn 22).
Công Đồng có chịu
trách nhiệm về cơn khủng hoảng nghiêm trọng
của chức linh mục
hôm nay không?
Trước hết, một cách chính xác chúng ta
muốn nói gì qua hai tiếng “khủng hoảng”? Cần phải phân biệt
giữa khủng hoảng xét như biểu hiện của sự suy sụp và khủng
hoảng hiểu như một dấu hiệu lớn lên (hay một cơ hội cho phép
đạt được một bước trưởng thành mới).
Mười năm sau Công Đồng Vatican II, một
linh mục gốc Tây Ban Nha vốn từng phục vụ tại Châu Mỹ Latinh
đã viết – dưới sự hướng dẫn của tôi – một luận án tiến sĩ về
cơn khủng hoảng được ghi nhận quá rõ rệt trong đời sống linh
mục. Anh kết luận rằng cơn khủng hoảng này hoàn toàn có thể
trở thành một loại khủng hoảng để lớn lên, nếu việc đào
tạo linh mục được nhận thức và được thực thi theo đúng
tinh thần của Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes của Công Đồng.
Anh cũng kết luận rằng một trong những lý do chính làm cho
cơn khủng hoảng này trở nên nghiêm trọng, đó là người ta
thường chẳng quan tâm – nếu không nói là hoàn toàn vứt bỏ –
đường hướng canh tân linh đạo như được đề ra trong Hiến chế
nói trên.
Không thể chối cãi gì nữa, thời đại
chúng ta là một thời đại với bao biến động lịch sử dồn dập.
Phần đông các giới thẩm quyền trong Giáo Hội không có đủ sự
chuẩn bị về linh đạo và thần học để có thể nhận thức được
đầy đủ tầm mức của thách đố đặt ra cho Giáo Hội hôm nay. Đặc
biệt, những người ủng hộ phong trào Khôi Phục, khư khư
tìm cách quay về thời cũ và tố cáo rằng Công Đồng phải
chịu trách nhiệm về cơn khủng hoảng và tình trạng xáo trộn
này, họ không đủ khả năng (hay không muốn) nhận ra và khảo
sát những mối nguy hiểm và những cơ hội mà lịch sử trong đà
biến chuyển nhanh chóng hiện nay đang đặt ra. Họ tiếp tục
đắm chìm và bị giam hãm trong một thứ triết học và thần học
cũ sì mốc meo, coi như mọi sự đều ngưng đọng, không có gì
thay đổi cả! Họ dường như không thể - hay không muốn -
chuyển từ một kiểu thức luân lý nặng tính tuân phục sang một
nền đạo đức mang tính trách nhiệm và đồng trách nhiệm. Lỗ
hổng nơi họ càng được thấy rõ hơn nữa qua việc họ bám chặt
vào chủ nghĩa trung ương tập quyền, nắm quyền kiểm soát thái
quá, trực tiếp đối ngược lại tập đoàn tính và bổ túc tính –
là những giá trị nhân văn hơn. Trong một thời đại mà các
biến chuyển lịch sử diễn ra hết sức nhanh chóng, xu hướng
tập quyền và tất cả hệ thống kiểm soát của nó có thể là
nguyên nhân chính dẫn đến sự bỏ nhỡ hoàn toàn hay sự phong
tỏa các cơ hội hưởng ứng công cuộc đại kết và hòa nhập trong
tính đa dạng toàn cầu xuyên qua sự hội nhập văn hóa.
Thật trớ trêu, những người lẽ ra phải
bật đèn xanh và thúc đẩy bước nhảy sang kiểu thức mới lại
chính là những người đang đắp ụ để cản trở bước nhảy ấy. Một
dấu hiệu rõ rệt của phương diện khủng hoảng này là sự kiện
cay đắng rằng ngay cả những giám mục hơi hơi năng động cũng
được thay thế ‘đúng qui định’ vừa khi các vị này đến tuổi
nghỉ hưu, trong khi đó những ‘chiếc phanh hãm lì lợm’ thì
được tiếp tục tại vị lâu hơn nhiều. Các giám mục tiên phong
trong nhãn quan hiện đại bị nguy cơ cho ‘về vườn’, trong khi
đó những vị lề mề tụt hậu thì được lưu dụng. Một tinh thần
hoài cổ như vậy, nói cho cùng, không có gì nguy hiểm mấy nếu
ở trong một giai đoạn tĩnh tại; song trong một thời đại đầy
biến chuyển như ngày nay, việc cố chấp quay ngược chiều kim
đồng hồ có thể dẫn người ta đến chỗ phải hứng chịu cái số
phận trở thành cột muối của bà vợ ông Lót.
Những mẫu gương
khích lệ
Đứng trước tình trạng hiện nay của Giáo
Hội, chúng ta có thể nói một cách đầy quả quyết như Galilê
rằng: “E pur si muove!” (Dù sao, nó vẫn quay!). Tôi có
thể dễ dàng viết một quyển sách với đầy đủ tư liệu trưng
dẫn để hỗ trợ cho các ghi nhận của mình. Trong tư cách là
một linh mục người Đức, tôi chọn tham chiếu ở đây bức thư
ngỏ của các giám mục Đức gửi cho các linh mục mang tựa đề
“Về Sứ Vụ Linh Mục” (24-9-1992). Tài liệu này là một ví dụ
tuyệt vời về sự chuyển đổi kiểu thức diễn ra trong thời đại
chúng ta.
Hết sức thẳng thắn, các giám mục Đức đề
cập đến cơn khủng hoảng hiện nay trong chức linh mục và mời
gọi trước hết các thành viên mở rộng tầm mắt ra để nhìn thấy
những cơ hội tích cực thay vì phung phí năng lực vào những
lời lẩm bẩm ta thán vô ích trước những tình hình bi đát của
thực tế. Dĩ nhiên, bức thư cũng nhắc nhở rằng không được
phép coi nhẹ hay phớt lơ những khía cạnh ảm đạm của chức
linh mục và những nguy cơ thực sự của nó. Trước hết, đây là
vấn đề về sự ưu tiên, vì tinh thần Kitô giáo không bao giờ
tập chú trước hết đến chiến thắng của sự dữ, rồi sau đó mới
miễn cưỡng quay sang chấp nhận sự kiện rằng Thiên Chúa đóng
một vai trò trong việc lúc này lúc khác đem phần thắng về
cho sự thiện.
Trong tư cách là giám mục của Giáo Hội
phổ quát, các vị lãnh đạo của Giáo Hội ở Đức đã mời gọi các
linh mục của mình phát triển một tầm nhìn toàn diện thế
giới, vì cơn khủng hoảng hiện tại (hy vọng đây là thứ khủng
hoảng để lớn lên) có liên hệ đến sự chuyển biến thâm sâu của
các nền văn hóa, các xã hội, các khoa học và cả của cái nhìn
về vũ trụ – tức toàn bộ thế giới thụ tạo. Như vậy, mối quan
hệ giữa Giáo Hội và thế giới không thể ở trong một tình
trạng ngưng đọng, bất biến. Kỷ nguyên Kitô giáo đã trôi qua
một cách dứt khoát rồi.
Các linh mục đang đứng giữa cơn khủng
hoảng này – cơn khủng hoảng mà nhiều người mệnh danh là cơn
khủng hoảng của đức tin. Đâu là ý nghĩa thực sự của việc chờ
đợi trong đức tin? Trong đời sống và sứ mạng, cách riêng các
linh mục (nghĩa là không loại trừ các tu sĩ nam nữ và toàn
thể dân Thiên Chúa nữa) phải đương đầu với nhiều hình thức
phân cực gây tê liệt trong Giáo Hội. Ở điểm này, các giám
mục Đức, với sự thành thực và thẳng thắn, đã đề cập đến
những vấn đề gây ra bởi các giáo huấn chính thức hiện hành
của Rôma về một số khía cạnh của luân lý tính dục và hôn
nhân: những giáo huấn hoặc bị thản nhiên phớt lơ hoặc bị tẩy
chay cách minh nhiên bởi số đông các tín hữu. Như vậy, hai
thứ lòng trung thành đang xung đột nhau. Một đàng, đa số các
linh mục cảm nghiệm sâu xa về lòng trung thành đối với quyền
giáo huấn của giáo hoàng; và đàng khác, họ muốn trung thành
với toàn dân Thiên Chúa. Làm sao chúng ta hòa giải những đối
nghịch này trong các lương tâm cũng như trong giảng dạy và
thực hành mục vụ? Ai là những người khổ sở nhất ở đây nếu
không phải là các linh mục và những người cộng tác trong
lãnh vực mục vụ?
Hiện tượng phân cực này đặc biệt gây
khốn khổ cho các linh mục luống tuổi – là những người chủ
yếu đã được đào tạo theo tinh thần tiền Công Đồng. Rất
thường, chiều sâu của cơn khủng hoảng này thậm chí len tới
cấp độ của một cơn khủng hoảng về căn tính.
Bức thư của các giám mục Đức đưa ra
những lời đầy thách đố sau đây, trong ý thức đầy đủ về vấn
đề: “Người mục tử phải mang lấy gánh nặng trách nhiệm
cuối cùng đối với giáo xứ. Nhưng ngài rất thường nhận ra
rằng giáo dân giỏi giang hơn mình” (tr. 5). Tiến trình học
biết cộng tác với giáo dân và với các linh mục trẻ thật
sự không dễ dàng chút nào cho tất cả các phía liên hệ.
Về vấn đề độc thân, các giám mục Đức
cũng thẳng thắn không kém: “Phải chăng lối sống độc thân
quan trọng đến nỗi cho phép
việc trì hoãn những gì thuộc về chính cốt lõi của sứ vụ mục
vụ, ít nhất như được quan niệm cho đến nay?” (tr. 6)
Các giám mục Đức đề cập rất nhiều vấn
đề liên quan đến câu hỏi cơn khủng hoảng hiện nay của chức
linh mục “có quan hệ như thế nào với khuôn mặt tương lai của
Giáo Hội” (tr. 9). Khi suy tư về các động lực của giai
đoạn lịch sử mà chúng ta vừa trải qua, các giám mục này kết
luận rằng hiện nay và trong tương lai, hơn cả trong quá khứ,
các ơn gọi linh mục cần phải được nhận hiểu và được thúc đẩy
một cách năng động: “Với thời gian, chúng ta phải thực sự
trở thành những con người đúng như bản chất của mình”
(tr.10). Bao hàm trong câu nói trên là một chân lý đầy
thách đố. Nhìn ơn gọi linh mục như một cái gì tĩnh tại, đó
thật là một nhãn quan chết chóc. Bức thư nói thêm: “Ở đây,
cũng như trong nhiều phương diện khác, chúng ta phải học
biết đón nhận và phát triển một sự trưởng thành ngày càng
hơn” (tr.10). Các nguyên động lực của sự lớn lên phải
ngày càng trở thành đặc trưng và bộc lộ rõ trong đời sống
linh mục, cùng với lòng can đảm sống một cuộc sống hoàn toàn
trong suốt trước mặt cộng đoàn – cho dù nơi mình vẫn còn
những khuyết điểm riêng (tr. 13).
Khiêm tốn chấp nhận những khuyết điểm
và những giới hạn nơi con người mình, đó có thể là một hành
vi ca ngợi lòng từ bi và kiên nhẫn của Thiên Chúa. Đồng
thời, sự chấp nhận này có thể là một phương thế chống lại
cơn cám dỗ quá dằn vặt đay nghiến chính mình.
Trong cái nhìn của các giám mục Đức,
tình trạng hiện nay vừa là một lời mời gọi vừa là một cơ hội
đúng lúc cho các linh mục, trong liên đới với nhau, bước lên
đường và đặt mình vào giữa những nhu cầu và những thảm cảnh
của nhân loại (tr. 34). Tôi cho rằng tinh thần mới mẻ này
được diễn tả một cách tha thiết trong lời tuyên bố đầy cảm
kích sau đây: “Chúng tôi không quên liên đới với những
bạn đồng sự của chúng tôi – là những người thường xuyên bị
vây bọc bởi các thảm cảnh, đã từ bỏ sứ vụ. Không bao giờ
chúng tôi bỏ rơi họ” (tr. 30). Quả thật, toàn bộ bức thư
rực cháy tinh thần Tin Mừng và khích lệ niềm hy vọng của
chúng ta vào tương lai của Giáo Hội và tương lai của chức
linh mục.
Người ta cũng ghi nhận thấy cùng một âm
hưởng mục vụ thẳng thắn và cởi mở ấy trong lá thư mục vụ của
các Giám Mục Lehman (Mainz), Saier (Freiburg), và Casper
(Rottenburg-Stuttgart) liên quan đến vấn đề săn sóc mục vụ
cho những người Công Giáo li dị và tái hôn – gồm cả việc
chấp nhận cho những người Công Giáo ấy tham dự Thánh Thể dựa
theo những nguyên tắc biện phân khôn ngoan. Cả sau khi bị
Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin của Vatican chỉ trích, ba vị giám
mục này vẫn duy trì tinh thần của mình – một cách trung trực
và phi bạo lực.
Chỉ trong mối liên đới và trong niềm
tín nhiệm lẫn nhau giữa các giám mục và các linh mục thì cơn
khủng hoảng hiện nay mới có thể được vượt qua, vì yếu tố
hiệp nhất họ chính là tình yêu và mối quan tâm mục vụ mà họ
cùng chia sẻ.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU KHÔNG VUI MỪNG TRƯỚC BẤT CÔNG |
Tác
phẩm 13 Nét Mặt Tình Yêu -
Dominique AUZENET
Lm.
Micae-Phaolo Trần Minh Huy chuyển ngữ
Chương Mười
TÌNH YÊU
KHÔNG VUI MỪNG TRƯỚC BẤT CÔNG
1. Niềm vui xấu xa :
Không thể được ! Bạn sẽ nói như vậy... Làm sao nghĩ
rằng tôi có thể vui thích về điều xấu được ? Tuy
nhiên... Lòng chúng ta đôi khi đã chẳng cảm nhận một niềm
vui xấu xa khi kẻ khác kiểm nhận điều xấu mà chúng ta đã
nghĩ về họ, khi họ biện minh cho chúng ta là đã phê phán sai
về họ cách nào đó... Trong trường hợp ấy, đừng bao giờ vui
thú vì đã có lý... Khi có một phần mà chúng ta phải ngượng
nghịu, thì đó là một dấu hiệu rằng chúng ta đã có tiến bộ
trong tình huynh đệ.
"Khi quân thù gục ngã, con đừng lấy làm vui. Lúc nó bị
lảo đảo, lòng con chớ reo mừng" (Cn 24, 17).
Chúng ta đừng để bị gậm nhấm từ bên trong bởi nỗi cay đắng
nầy mà kết cục là lấy làm mãn nguyện về sự thất bại của kẻ
khác ("Chính tôi mới là người tốt nhất"); hoặc đưa đến chỗ
kẻ nầy lấy làm vui khi người ta làm hại đến kẻ kia ("Điều đó
sẽ dạy cho nó bài học").
"Bây giờ tôi hiểu rằng đức ái hoàn hảo hệ tại việc chịu
đựng các khuyết điểm của tha nhân, không ngạc nhiên trước
những yếu đuối của họ, được xây dựng nhờ những hành vi nhân
đức nhỏ nhặt nhất mà họ đã thực hiện"[1]
2. Mối liên hệ tòng phạm :
Cha Schaeffer dịch câu nầy của bài ca đức ái là tình yêu
không vui thích trước điều lầm lạc. Chúng ta có thể hiểu
là tình yêu không vào hùa với điều xấu đến độ đồng lõa với
nó.
Nếu chúng ta được đầy tràn Thánh Thần, lẽ nào chúng ta có
thể dung túng những thỏa hiệp cá nhân hay tập thể để gây
thiệt hại cho tha nhân, dưới hình thức những bất công thực
sự, chẳng hạn cứ tiếp tục những trộâm cướp trá hình, hoặc
duy trì những chỉ trích nói xấu... ? Chúng ta sẽ nhận chịu
mà không nói gì những tình huống không rõ ràng trong mức độ
cụ thể chúng ta lợi dụng được các tình huống ấy sao ? Bởi
vì, tuy không vui mừng vì điều xấu, người ta thường lợi dụng
được điều đó mà không nói gì và như vậy là có một mối liên
hệ tòng phạm.
Sự lầm lạc, dối trá, vô luân và điều xấu "giam hãm chân
lý trong sự bất chính", như thánh Phaolô nói trong Rm
1, 18 :
"Từ trời, Thiên Chúa mạc khải cơn thịnh nộ của Người
chống lại mọi thứ vô luân và bất chính của những người lấy
sự bất chính mà giam hãm chân lý".
Trái lại, lòng yêu mến chân lý thanh luyện các cách ứng xử,
các hành động của chúng ta, cùng những đồng lỏa thường ngày
với sự bịp bợm.
Trong một suy tư kéo dài về Bí tích Rửa Tội, thánh Phaolô
khuyên giục chúng ta rút ra những hiệu quả của ân sủng bí
tích nầy :
" Anh em hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng
nay lại sống cho Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu. Vậy tội
lỗi đừng có thống trị thân xác phải chết của anh em nữa,
khiến anh em phải nghe theo những dục vọng của thân xác. Anh
em đừng dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều bất
chính, phục vụ cho tội lỗi nữa. Trái lại, anh em là những
người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân
cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm
điều công chính, phục vụ Thiên Chúa" (Rm 6, 11-13).
3. Tính hai lòng :
Chúng ta có thể áp dụng cho mình những lời thánh Phêrô nói
với Simon trong một bối cảnh khác ở Tông đồ Công vụ 8, 21-23
:
"Lòng anh không ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa. Vậy
anh hãy sám hối về việc xấu ấy của anh, và cầu xin Chúa, may
ra Người sẽ tha cho anh tội đã nghĩ như thế trong lòng. Thật
vậy, tôi thấy anh đang ứ đầy mật đắng và đang bị tội ác trói
buộc" (Act 8, 21-23).
Sự sám hối và lo lắng trừ bỏ mọi liên hệ đồng lỏa với sự dữ
có thể làm cho chúng ta chạy đến với lòng nhân hậu của Thiên
Chúa trong bí tích Hòa giải. Lòng thương xót Chúa chữa lành
chúng ta và phục hồi lại trong chúng ta nhiệt tình vâng theo
Lời Chúa. Ngược lại, nếu chúng ta để bị lười biếng lôi kéo,
chấp nhận thỏa hiệp và sự thiếu ngay thẳng do đó mà ra, thì
chúng ta chìm sâu trong một tình trạng hai lòng.
Việc thường xuyên nhận lãnh bí tích giải tội là chìa khóa
căn bản khai mở chúng ta với sự thánh thiện mà Thiên Chúa dự
định cho chúng ta.
"Nếu chúng ta xưng thú tội lỗi của chúng ta thì Ngài vốn
trung thành và công chính sẽ tha thứ tội lỗi chúng ta và
thanh tẩy chúng ta khỏi mọi bất chính" (I Jn
1, 9).
Chúa Giêsu tuyên bố : "Phúc cho những tâm hồn trong
sạch (nghĩa là ngay thẳng, trọn vẹn thuộc về chỉ một
mình Thiên Chúa), họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa" (Mt 5,
8).
4. Tình yêu phải sầu khổ vì điều xấu :
Nếu Chúa Thánh Thần đổ đầy sự hiện diện của Ngài nơi chúng
ta, thì không những chúng ta có thể tìm giải thoát tâm hồn
và cuộc sống chúng ta khỏi mọi thứ đồng lỏa với cái xấu, mà
chúng ta còn sầu khổ vì sự bất chính bao quanh chúng ta và
vì sự xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngày nay khó mà hình dung
niềm đau khổ đó, trừ phi là một dửng dưng thực sự về mặt
thiêng liêng. Thánh Kinh cho chúng ta mẫu gương của Lot và
Ezéchiel :
Lot, cháu của Abraham, cư ngụ ở Sođoma (Stk 13,12), là một
người công chính. Cuộc sống trụy lạc của những người phạm
pháp ở Sođôma làm buồn lòng ông Lot...
"Ông Lot, người công chính, đang phải ưu phiền vì nếp
sống dâm đãng của những người phạm pháp. Quả vậy, người công
chính đó sống ở giữa họ, mắt thấy tai nghe những hành vi phi
pháp ngày ngày xâu xé tâm hồn công chính của ông" (II Pet 2,
7-8).
Tiên tri Ezéchiel (thế kỷ 6 trước Chúa Giêsu) có nhiệm vụ
cảnh báo người gian ác phải bỏ đường lối mình, loan báo sự
sụp đổ của Giêrusalem ; ông thị kiến thấy tội lỗi của
Giêrusalem và hình phạt địng giáng xuống trên thành nầy.
Những người công chính ở trong thành phải buồn khổ sẽ được
bảo vệ. Yavê truyền lệnh cho một thiên thần :
"Hãy rảo khắp thành, khắp Giêrusalem. Hãy ghi dấu
chữ thập trên trán những người đang rên siết khóc than về
mọi điều ghê tởm đang xảy ra trong khắp thành"
(Ez 9, 4).
Nỗi buồn mà Chúa Giêsu vạch ra như một công trình của Chúa
Thánh Thần "Phúc thay những ai buồn phiền
vì họ sẽ được an ủi" (Mt 5, 5) cũng chính là sự thông
hiệp với tâm hồn Chúa Giêsu trước tội lỗi của thế gian. Vấn
đề đối với chúng ta không phải là trở nên những kitô hữu hay
càu nhàu than vãn, cho bằng để Chúa Thánh Thần khắc ghi
trong chúng ta giá trị đúng của các sự vật :
"Trong khi yêu mến Thầy, người ta càng biết được Chân
Lý của Thầy hơn, và càng hiểu biết Chân lý của Thầy, người
ta càng cảm nhận cơn buồn phiền và nỗi đau đớn không thể
chấp nhận được khi thấy Thầy bị xúc phạm"[1]
5. Tình yêu khẩn nài lòng nhân hậu của Chúa :
"Không vào một thời điểm hay giai đoạn nào của lịch sử
- nhất là vào một thời đại nguy kịch như thời đại của chúng
ta -, Giáo Hội không thể quên lãng lời cầu nguyện vốn là một
lời kêu cứu đến lòng nhân hậu của Thiên Chúa, khi phải đối
mặt với vô vàn hình thức của sự dữ đang đè nặng xuống nhân
loại và đang đe dọa nó... Giáo Hội có quyền và có bổn phận
"lớn tiếng"[1]
kêu lên Thiên Chúa Nhân Hậu. Những tiếng kêu lớn nầy phải
đặc trưng cho Giáo Hội của thời đại chúng ta đang sống.
Chúng phải được đạo đạt lên Thiên Chúa để van xin lòng nhân
hậu của Ngài... thể theo những nhu cầu khẩn thiết của con
người trong thế giới đương thời. ... Bởi một tiếng kêu như
thế, như các tác giả Thánh Kinh, chúng ta kêu lên Thiên Chúa
là Đấng không hề khinh miệt thứ gì trong những cái Ngài đã
tạo nên, là Đấng trung tín với chính mình, với tình cha và
với tình yêu của Ngài ! Như các tiên tri, chúng ta kêu đến
khía cạnh mẫu tử của tình yêu nầy, vì nó hằng dõi bước, như
một người mẹ, theo mỗi một đứa con, mỗi chiên lạc của mình.
Và Ngài vẫn như thế cho dù có hằng triệu con chiên lạc, cho
dù trong thế giới nầy sự bất chính thắng thế hơn sự ngay
thẳng, cho dù nhân loại vì tội lỗi của mình mà đáng phải
chịu một cơn "đại hồng thủy" mới, như ngày xưa thế hệ Nôê đã
đáng phải chịu...
Và nếu người nầy kẻ nọ trong những người đương thời của
chúng ta không chia sẻ niềm tin và hy vọng đang dẫn đưa tôi,
với tư cách là tôi tớ của Chúa Kitô và thừa tác viên các mầu
nhiệm của Thiên Chúa, trong giờ phút nầy của lịch sử, van
nài lòng nhân hậu của Thiên Chúa cho nhân loại, thì ít ra
chớ gì họ cũng tìm hiểu lý do của sự vồn vã ân cần nầy. Sự
khẩn trương nầy được tình yêu đọc lên cho con người, cho tất
cả những gì là nhân bản, đang bị đe dọa bởi một hiểm họa
mêng mông, theo như trực giác của một phần lớn con người của
thời đại nầy"[1]
Suy niệm
để lần hạt Mân Côi
1. Tình yêu không vui mừng vì điều bất công. Với Chúa Giêsu
trong chiều Thứ Năm Thánh, chúng ta hãy cầu xin cho được
tình yêu đích thực vốn yêu thương tha nhân cho đến cả thập
giá: "Như Thầy
đã yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau" (Jn 13,
34). Lạy Chúa Giêsu, nhờ lời
cầu nguyện của Mẹ Maria, xin Chúa ban cho chúng con tình yêu
đối với tất cả những ai mà chúng con chưa yêu thương được :
"Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh
em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho
kẻ vu khống anh em... Anh em muốn người ta làm gì cho mình
thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu anh em yêu thương kẻ
yêu thương mình thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội
lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ" (Lc 6, 27-28. 31-32).
2. Tình yêu không vui mừng vì điều bất công. Với Chúa Giêsu
ở trước mặt Philatô, chúng ta xin cho được ơn tìm kiếm và
khẳng định chân lý trong mọi hoàn cảnh. "Một trong nhóm
thuộc hạ vả vào
mặt Chúa Giêsu... Chúa Giêsu trả lời : Nếu tôi nói sai, anh
hãy chứng minh xem sai ở chỗ nào ; còn nếu tôi nói phải, sao
anh lại đánh tôi ?" (Lc 18, 22-23).
Chớ gì Chúa Giêsu ban cho chúng ta sức mạnh để trừ bỏ mọi sự
đồng lỏa với sự dữ.
3. Tình yêu không vui mừng vì điều bất công. Với Chúa Giêsu
trên Núi Bát Phúc, chúng ta xin ơn trong sạch, đơn sơ và sự
ngay thẳng tâm hồn. "Phúc
cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy
Thiên Chúa" (Mt 5, 8). Lạy Chúa
Giêsu, xin giải thóat chúng con khỏi "những mối liên hệ bất
chính" và khỏi mọi tính hai lòng ba dạ.
4. Tình yêu không vui mừng vì điều bất công. Với Chúa Giêsu
ở sông Gio-đan, đến đặt mình vào hàng các tội nhân để nhận
lãnh phép rửa của Gioan Tẩy Giả, chúng ta xin ơn yêu mến các
anh chị em có tội và ơn cho cuộc trở lại của chính mình.
"Bây giờ cứ để làm thế đã, vì chúng ta nên làm
như vậy để giữ trọn đức công chính" (Mt 3, 15).
Nhờ lời cầu nguyện của Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá, chúng
ta xin ơn không quay đi khỏi gánh nặng tội lỗi chung quanh
chúng ta.
5. Tình yêu không vui mừng vì điều bất công. Với Chúa Giêsu
trên thập giá, chúng ta van xin Chúa Cha tỏ lòng nhân hậu :
"Xin Cha tha cho họ, vì họ
không biết việc họ làm" (Lc 23, 24). "Giáo Hội có quyền và
có bổn phận "lớn tiếng" kêu lên Thiên Chúa Nhân Hậu. Những
tiếng kêu lớn nầy phải đặc trưng cho Giáo Hội của thời đại
chúng ta đang sống. Chúng phải được đạo đạt lên Thiên Chúa
để van xin lòng nhân hậu của Ngài... thể theo những nhu cầu
khẩn thiết của con người trong thế giới đương thời"
(Jean-Paul II).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Ung
Thư Bạch Cầu |
Bạch cầu là
một trong ba loại tế bào của máu: hồng cầu, bạch cầu và tiểu
bào.
Hồng cầu
chứa huyết cầu tố, mang dưỡng khí nuôi
các cơ quan bộ phận.
Bạch cầu có nhiệm vụ
chống lại các chất lạ như vi sinh vật, hóa chất xâm nhập cơ
thể và tạo ra kháng thể.
Tiểu cầu giúp máu đóng
cục, tránh xuất huyết ở vết thương.
Tế bào máu được tạo ra từ
các tế bào gốc đa hiệu (pluripotent stem cells) ở tủy xương.
Nơi đây, tế bào máu lớn lên cho đến khi trưởng thành thì
chuyển sang dòng máu. Bình thường, các tế bào này tăng sinh
theo nhu cầu của cơ thể. Khi già yếu, chúng tự hủy và được
thay thế bằng những tế bào mới trẻ trung, nhiều sinh lực.
Phần dung dịch lỏng của
máu là huyết tương, có các hóa chất hòa tan như đạm,
hormone, khoáng, vitamins, kháng thể.
Ung thư bạch cầu (thường
được gọi là “ung thư máu”) là bệnh trong đó tủy và hệ
bạch huyết bị rối loạn và tạo ra những bạch cầu ác tính.
Chúng tăng sinh ngoài tầm kiểm soát và nhu cầu của cơ thể,
lấn át các tế bào khác trong máu khiến cho máu không hoàn
thành được các nhiệm vụ thường lệ.
Bệnh có cả
ở súc vật như mèo, heo, trâu bò
và dĩ nhiên ở người. Với người, bệnh xuất hiện ở bất cứ tuổi
nào.
Nam giới bị
ung thư máu nhiều hơn nữ giới.
Ung thư có
thể là mãn tính hoặc cấp tính, tùy theo tốc độ tiến triển
tình trạng nặng nhẹ của bệnh.
Trường hợp
cấp tính, xuất hiện nhiều tế bào máu chưa trưởng thành và vô
dụng ở tủy xương và máu. Bệnh nhân bị thiếu máu vì hồng cầu
thấp; dễ xuất huyết vì thiếu tiểu cầu; dễ mắc bệnh nhiễm vì
khả năng tự vệ giảm. Do đó bệnh trở nên trầm trọng rất nhanh.
Trong mãn tính, dấu hiệu
xảy ra chậm hơn, bệnh nhân có đủ thời gian tạo ra tế bào máu
trưởng thành nhưng có thể chuyển sang tình trạng cấp tính.
Ung thư bạch cầu mãn tính
nhiều hơn cấp tính và thường thấy ở người ngoài 67 tuổi.
Trẻ em dưới 19 tuổi thường hay bị ung thư máu cấp tính
lympho bào.
Ung thư cũng được chia
loại tùy theo bạch cầu hiểm ác được tạo ra từ hệ bạch huyết
hoặc từ tủy xương.
Nguyên
nhân
Nguyên nhân đích thực của
bệnh chưa được biết rõ, nhưng một số rủi ro có thể gây ra
bệnh. Đó là:
a. Tiếp xúc với các nguồn phóng xạ, như trường
hợp các nạn nhân bom nguyên tử ở Nhật vào cuối Thế Chiến II,
vụ tai nạn nổ lò nguyên tử Chernobyl (Ukraine)
năm 1986 hoặc ở bệnh nhân tiếp nhận xạ trị.
b. Bệnh nhân ung thư được điều trị bằng dược
phẩm.
c. Làm việc trong môi trường có nhiều hóa chất
như benzene, formaldehyde.
d. Một số bệnh do thay đổi gene như hội chứng
Down, do virus hoặc vài bệnh về máu.
Dấu
hiệu
Dấu hiệu của bệnh thay
đổi tùy theo số lượng bạch cầu trong máu và tùy theo nơi mà
các bạch cầu ác tính tụ tập. Các dấu hiệu này cũng không
tiêu biểu cho ung thư bạch cầu.
Sau đây là các dấu hiệu
thường thấy:
-
nóng sốt,
-
đổ mổ hôi ban đêm,
-
dấu hiệu thần kinh như nhức đầu,
-
mệt mỏi, suy yếu
-
xuống cân,
-
dễ dàng mắc các bệnh truyền
nhiễm vì khả năng miễn dịch suy yếu,
-
xuất
huyết dễ dàng vì thiếu tiểu cầu,
-
sưng
và chẩy máu nướu răng, da dễ bị bầm tím,
-
đau
nhức xương, khớp,
-
bụng
chướng, gan, lách sưng, đau vì
chứa nhiều bạch cầu ung thư,
-
nổi hạch ở cổ, nách…
Nếu không được điều trị,
ung thu cấp tính đưa tới tử vong rất mau.
Ung thư mãn tính có thể
không có dấu hiệu, khó chẩn đoán, dễ tử vong vì bội nhiễm
các loại vi khuẩn.
Đôi khi bệnh được khám
phá tình cờ trong khi khám sức khỏe tổng quát.
Chẩn
đoán bệnh
Để xác định bệnh, bác sĩ
sẽ thực hiện các bước như sau:
- khám tổng quát cơ thể,
tìm coi gan, lách, hạch có sưng;
- thử nghiệm đếm số tế
bào máu và số lượng huyết cầu tố, các chức năng của gan,
thận;
- xét nghiệm tế bào tủy
xương và nước tủy,
- chụp hình X-quang cơ
thể.
Điều
trị
Bệnh cần được các bác sĩ
chuyên môn nhiều ngành như huyết học, u bướu hóa xạ trị chăm
sóc, điều trị.
Mục đích điều trị là đưa
bệnh tới tình trạng không còn triệu chứng, bệnh nhân bình
phục với tế bào máu và tủy xương lành mạnh như trước.
Phương thức điều trị tùy
thuộc vào một số yếu tố như loại ung thư, giai đoạn bệnh,
tuổi tác và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.
Các phương pháp trị liệu
gồm có:
a. Hóa
trị (Chemotherapy)
Hóa trị dùng các dược
phẩm khác nhau bằng cách uống, chích vào tĩnh mạch hoặc vào
tủy xương để tiêu diệt tế bào ung thư.
Hóa trị rất công hiệu và
được áp dụng cho đa số bệnh nhân.
Có nhiều loại thuốc và
người bệnh có thể chỉ uống một thứ hoặc phối hợp hai ba
thuốc.
Tuy nhiên, hóa trị cũng
ảnh hưởng tới các tế bào bình thường và gây ra một số tác
dụng phụ như rụng tóc, lở môi miệng, nôn mửa, tiêu chẩy, ăn
mất ngon, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn sinh sản.
b.Xạ
trị (Radiation therapy)
Với một máy phát xạ lớn,
các tia phóng xạ được đưa vào các bộ phận có nhiều bạch cầu
ung thư tụ tập, như lá lách, não bộ để tiêu diệt chúng.
Tác dụng phụ gồm có: mệt
mỏi, viêm đau nơi da nhận tia xạ.
c. Sinh
trị liệu (Biological Therapy)
Còn gọi là miễn dịch trị
liệu, sinh trị liệu xử dụng kháng thể để hủy hoại tế bào ung
thư. Kháng thể là những chất đạm đặc biệt được cơ thể sản
xuất khi có một vật lạ xâm nhập. Kháng thể này sẽ phát hiện
và tiêu diệt các vật lạ đó khi chúng trở lại cơ thể.
Sinh trị liệu được thực
hiện qua hai phương thức:
. Gây miễn dịch để kích
thích, huấn luyện hệ miễn dịch nhận diện và tiêu diệt tế bào
ung thư
. Cho
bệnh nhân dùng các kháng thể đặc biệt được sản xuất trong
phòng thí nghiệm để trị ung thư.
d.
Ghép tế bào gốc (Stem Cell Transplant)
Ghép tủy là lấy tủy xương
(thường là ở xương hông) có tế bào gốc của một người cho
khỏe mạnh rồi đưa vào người bệnh với mục đích tái tạo tế bào
máu và hệ thống miễn dịch.
Tế bào gốc từ máu, cuống
rốn thai nhi và nhau thai
cũng được dùng để điều trị một vài loại ung thư máu.
Trong bệnh ung thư bạch
cầu, tế bào gốc của tủy trở thành bệnh hoạn, sản xuất ra quá
nhiều bạch cầu non yếu nhưng độc ác, gây trở ngại cho sự
tăng sinh của tế bào bình thường ở máu. Chúng cũng xâm nhập
vào các bộ phận khác của cơ thể và gây nhiều rối loạn khác.
Để tiêu hủy các tế bào
bất thường này, cần dùng một số lượng khá lớn hóa chất hoặc
phóng xạ. Các chất này cũng tác hại lên các tế bào lành mạnh
trong máu và tủy.
Ghép tủy không hoàn toàn
bảo đảm tránh được sự tái phát của ung thư nhưng có thể tăng
khả năng trị bệnh và kéo dài đời sống người bệnh.
Phòng
ngừa
Một số bệnh ung thư có
thể phòng ngừa bằng cách giảm thiểu tiếp xúc với rủi ro gây
ung thư (như tránh khói thuốc lá), bằng nếp sống lành mạnh
(không hút thuốc lá, uống nhiều rượu...) , bằng dinh dưỡng
đầy đủ hợp lý. Riêng với ung thư bạch cầu thì không có các
rủi ro rõ rệt để phòng tránh.
Vì vậy người thường xuyên
tiếp xúc với phóng xạ, hóa chất độc mà có những dấu hiệu
bệnh bất thường đều nên đi kiểm tra sức khỏe theo định kỳ để
sớm khám phá ra bệnh.
Ghép Tế
Bào Gốc.
Vào giữa thế kỷ thứ 19,
các khoa học gia người Ý đã gợi ý rằng tủy xương là nguồn
gốc của tế báo máu nhờ có một hóa chất nào đó trong tủy. Tới
đầu thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu chứng minh là một số tế
bào ở tủy tạo ra tế bào máu. Họ gọi các tế bào này là “tế
bào gốc”-stem cells. Kết quả nhiều nghiên cứu kế tiếp đã
xác định dữ kiện này.
Tế bào gốc có trong tủy
xương và máu. Tủy là lớp mô bào xốp nằm giữa các khoảng
trống của xương. Ở trẻ sơ sinh, tất cả xương đều có tủy hoạt
động mạnh. Tới tuổi tráng niên, tủy ở xương tay chân ngưng
hoạt động trong khi đó tủy ở các xương sọ, hông, sườn, ức,
cột sống vẫn tiếp tục sản
xuất tế bào gốc.
Vì máu và tủy đều chứa
nhiều tế bào gốc cho nên có nhiều đề nghị các chữ “ghép
tế bào gốc -stem cells transplantation” để thay thế cho
“ghép tủy xương-bone marrow transplantation”.
Đặc tính của các tế bào
gốc là có thể tự sinh ra tế bào khác y hệt như mình và tạo
ra các tế bào trưởng thành như hồng cầu, bạch huyết cầu,
tiểu cầu.
Ngoài tủy xương, tế bào
gốc còn có trong dòng máu lưu thông hoặc máu từ cuống rốn
thai nhi, nhau thai..
Ở tủy xương, cứ khoảng
100,000 tế bào máu thì có một tế bào gốc, trong khi đó số
lượng tế bào gốc ở máu chỉ bằng 1/100 ở tủy.
Khái niệm ghép tủy để trị
bệnh được khảo sát một cách khoa
học vào cuối thế chiến II khi có nhiều nạn nhân bị hoại tủy
do tiếp cận với phóng xạ, đặc biệt là sau vụ nổ bom nguyên
tử ở Nhật.
Kỹ thuật
ghép tủy xương được thực hiện thành công vào năm 1968 để
điều trị các bệnh ung thư bạch cầu, thiếu máu vô sinh
(aplastic anemia), u ác tính các hạch bạch huyết như bệnh
Hodgkin, rối loạn miễn dịch và vài loại u như ung thư noãn
sào, vú.
Trong ghép
tủy, các tế bào bệnh hoạn của tủy bị tiêu diệt và tế bào gốc
lành mạnh được truyền vào máu, tập trung vào ổ xương
và bắt đầu sinh ra tế bào máu bình thường cũng như thiết lập
một hệ miễn dịch mới.
Ghép tế bào gốc cứu sống
nhiều người và chỉ thực hiện được khi có người cho thích
hợp. Điều này không dễ dàng, vì để phương thức thành công,
tế bào đôi bên phải hầu như 100% tương xứng. Chỉ dưới 30%
bệnh nhân cần ghép tế bào mầm có thể tìm được tương xứng ở
thân nhân.
Nếu người nhận và người
cho là sanh đôi đồng nhất (identical twins), do một trứng
được thụ tinh rồi phân chia tạo ra hai thai nhi, thì mọi sự
êm đẹp, không có phản ứng khước từ (reject).
Ngược lại khi người cho
và người nhận không là sinh đôi đồng nhất thì cần phải tìm
một người cho có loại tế bào gần tương tự như tế bào người
nhận. Đây là việc làm khá khó khăn, tốn nhiều thời gian để
có đối tác tương ứng.
Nhu cầu của bệnh nhân cần
được ghép tế bào gốc rất cao mà kiếm được hai loại tế bào
tương xứng giữa người cho và người nhận rất khó khăn.
Vì thế nhiều tổ chức bất
vụ lợi quốc tế đã đứng ra để ghi danh những vị tình nguyện
hiến tủy hoặc tế bào mầm trong máu. Mỗi vị ghi danh là một
niềm hy vọng cho những bệnh nhân khao khát chờ đợi được cứu
sống.
Hiện nay danh sách có
khoảng hơn 10 triệu người trên thế giới sẵn sàng dâng hiến.
Hiến tủy được thực hiện
tại cơ sở y tế với đầy đủ phương tiện, sau nhiều sửa soạn
chu đáo cho nên rất an toàn. Mọi người từ 18 tới 60 tuổi, có
sức khỏe tốt và hội đủ một số tiêu chuẩn y tế đều có thể ghi
danh.
Tại Hoa Kỳ, muốn ghi
danh, xin kêu điện thoại số
1-800-627-7692 để biết thêm
chi tiết.
Kết
luận
Mỗi ngày có khoảng 6000
người bị ung thư bạch cầu, u lympho bào mòn mỏi có được ân
nhân tương xứng để nhận lãnh tế bào gốc trong tủy, trong máu
để tránh khỏi lưỡi hái tử thần.
Xin hãy mở rộng lượng từ
tâm.
Bác sĩ
Nguyễn Ý-Đức
Texas-Hoa Kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHẠY…
Chuyện phiếm của Gã Siêu. |
Đêm. Ánh trăng vàng đổ
xuống ê hề trên một khoảng sân rộng. Gió thổi mơn man. Xấp
nhỏ đang chơi trò “Vân Tiên”. Chúng chia thành hai phe, đối
đáp nhau bằng những vần thơ thật dễ thương, một phe vần a,
còn một phe vần ô, để xem phe nào nhanh trí, còn phe nào bí
lối thì liền bị thua. Bị thua thì phải cõng phe kia chạy một
vòng quanh sân.
Một người xướng :
- Vân Tiên cõng mẹ chạy
ra,
Phe a :
- Đụng phải bà già,
cõng mẹ chạy vô.
Vân Tiên cõng mẹ chạy
vô,
Phe ô :
- Đụng phải nhỏ bồ,
cõng mẹ chạy ra.
Vân Tiên cõng mẹ chạy
ra,
Phe a :
- Đụng phải…đờn bà,
cõng mẹ chạy vô.
Vân Tiên cõng mẹ chạy
vô,
Phe ô :
- Đụng phải thầy đồ,
cõng mẹ chạy ra.
Cứ thế và cứ thế… Những
tiếng cười lanh lảnh, trong suốt như pha lê, không hề chất
chứa một tí ti ý đồ đen tối nào cả vang lên giữa đêm khuya
thôn dã…
Còn gã, đang ngồi căng
mắt để đọc cho hết một chồng báo mới mua. Nói theo kiểu con
nhà có đạo thì :
- Đã trót ăn cơm Chúa,
thì phải múa tối ngày.
Còn nói theo kiểu mấy
ông cán bộ nhà nước thì :
- Làm ngày không đủ,
tranh thủ làm đêm.
Tiếng dế quyện lẫn với
tiếng muỗi vo ve tạo thành một bản hợp xướng tuyệt vời mà
dân thành thị bây giờ có nằm mơ cũng chẳng thấy. Bất ngờ gã
liếc qua một bài viết ngăn ngắn có tựa đề : “Chạy + Y = ?”
của tiến sĩ Phạm Văn Tình, đăng trên tờ “Tuổi trẻ Chủ Nhật”
số 44-03, ra ngày 02 tháng 11 năm 2003. Càng đọc, gã lại
càng cảm thấy “tâm đầu ý hợp” với tác giả, nên đã tự thưởng
cho mình, bằng cách vỗ đùi đánh đét một phát, rồi bắn một
điếu thuốc lào ba số tám và lẩm bẩm :
- Tuyệt…Thật là tuyệt
cú mèo!
Vì thế, hôm nay gã xin
mượn đỡ một vài ý tưởng của bài viết ấy, để tán dài tán rộng
hơn một chút xíu về động tác…chạy.
Động từ chạy trong ngôn
ngữ Việt Nam mang rất nhiều nghĩa, và có những nghĩa chẳng
liên quan gì tới chân, tới cẳng. Chẳng hạn :
Chạy có nghĩa là kéo
dài ra, như khi chúng ta nói :
- Dãy núi này chạy dài
từ Châu Đốc tới Tịnh Biên.
Chạy có nghĩa là chịu
thua, như khi chúng ta bảo :
- Bạc chửa thâu canh đã
chạy làng.
Chạy có nghĩa là lưu
loát, thông suốt, không vấp váp và cũng không ế ẩm, như khi
chúng ta xác quyết :
- Anh ấy nói chạy tiếng
Ăng Lê quá.
- Cô ta bán hàng chạy
đấy chứ.
Tuy nhiên, những nghĩa
trên đây chỉ là những nghĩa phụ thuộc, những nghĩa lẻ tẻ mà
thôi. Gã sẽ bàn đến những ý nghĩa chính yếu của động
tác…chạy.
Trước hết, chạy có
nghĩa là di chuyển thân thể với những sải bước nhanh, chân
này chưa kịp động tới đất thì chân kia đã giơ lên :
- Đường dài ngựa chạy
cát bay,
Ngỡi nhân thăm thẳm,
một ngày một xa.
Hồi còn bé, gã được học
trong sách “Quốc Âm Giáo Khoa Thư” về một câu đố như sau :
- Con gì ban sáng nó đi
bốn chân, ban trưa nó đi hai chân, còn ban chiều nó đi ba
chân.
Xin thưa rằng :
- Đó là con người. Ban
sáng có nghĩa là khi mới sinh ra, chúng ta bò bằng cả hai
tay lẫn hai chân, như vậy vị chi là bốn chân. Ban trưa có
nghĩa là khi trưởng thành, chúng ta đứng thẳng và đi bằng
hai chân. Còn ban chiều có nghĩa là khi đã về già, chúng ta
phải chống thêm một chiếc gậy, như vậy vị chi là ba chân.
Nếu dựa vào câu đố này,
thì chạy phải là một đặc tính của người trẻ. Trẻ về phần xác
cũng như trẻ về phần hồn, bởi vì trên thế gian này có nhiều
người “nhân lão, tâm bất lão”, hình dong bên ngoài thì già,
nhưng cõi lòng bên trong thì vẫn trẻ măng và phơi phới. Con
nít mới bảy tháng biết bò, thì không thể nào mà chạy. Còn
các cụ mang nặng tuổi đời, phải chống gậy mà đi, thì cũng
chẳng thể chạy nổi.
Tùy theo vận tốc, mà
người ta có những kiểu chạy khác nhau, chẳng hạn bon bon,
chạy như bay, chạy có cờ, chạy lút ga…Tùy theo hình hài vóc
dáng, người ta có những cách chạy chẳng giống ai, thí dụ
chạy cong đuôi, chạy cắm đầu, chạy đôn chạy đáo, chạy ngược
chạy xuôi, chạy sấp chạy ngửa, chạy dọc chạy ngang…Riêng
trong phạm vi máy móc, tùy theo nhiên liệu, người ta cũng có
những hình thức chạy riêng biệt, chẳng hạn chạy hơi nước,
chạy dầu, chạy điện…
Trên lãnh vực thể dục
và thể thao, ngày xưa cũng như hôm nay, chạy bộ đã trở
thành một môn có tên trong những cuộc thi đấu quốc tế. Và
người ta cũng có nhiều kiểu chạy, nhiều cách chạy và nhiều
hình thức chạy. Chẳng hạn trong lễ khai mạc thì có chạy
đuốc. Trong thi đấu, thì có chạy tiếp sức, chạy nhảy rào…
Tùy theo khoảng cách, thì có chạy 500 mét, chạy 1000 mét…Đối
với phong trào quần chúng, thì có chạy “việt dã”, tức là
chạy trong địa hình tự nhiên như chạy băng đồng hay băng
rừng. Còn chạy “marathon”, tức là chạy đường dài, những
người thi đấu phải chạy một khoảng đường dài chừng 42km195.
Ngoài ra, người ta còn
tham dự những cuộc chạy bộ với những lý do khác nhau, chẳng
hạn chạy bộ vì hòa bình và phản đối chiến tranh, chạy bộ vì
bệnh Aid và cổ võ cho một nếp sống lành mạnh.
Trong những thập niên
gần đây, thỉnh thoảng lại xuất hiện trên báo chí và truyền
hình, lác đác một vài “độc chiêu” của việc chạy, đó là
“truồng chạy”, nghĩa là người ta cởi truồng tô hô mà chạy
khơi khơi ngoài đường phố cốt để phản đối một chuyện gì đó.
Chẳng hạn cách đây mấy
năm ở bên Nhật mười mấy người cũng đã truồng chạy để phản
đối việc thiên hạ mặc áo da thú, bởi vì để được mặc như vậy,
người ta đã phải giết chết biết bao nhiêu nhiêu con vật đáng
thương và vô tội, lấy da mới may thành một chiếc áo…
Nếu chỉ có vậy mà thôi,
thì chạy vẫn còn là một việc làm lành mạnh và đem lại nhiều
lợi ích cho sức khỏe. Các bác sĩ vốn thường khuyên những
người đã lỡ mang nặng “tí tuổi” đời, cũng như những người
vốn mắc phải một chứng bệnh nan y nào đó, chẳng hạn như cao
huyết áp, tiểu đường, sạn thận…phải vận động bằng cách mỗi
ngày chạy bộ hay đi bộ ít phút cho máu huyết được lưu thông.
Tuy nhiên, chỉ có một
chút vẩn đục trong phạm vi này, đó là mấy chị vận động viên
hay mấy anh lực sĩ vì cá nhân quá ham thích những chiếc huy
chương vàng, hay vì màu cờ sắc áo, vì tự ái dân tộc thúc
đẩy, mới dại dột xơi “doping”, dùng chất kích thích để tăng
thêm sức lực, hầu đạt tới mục đích mong muốn, nhưng họ cũng
khó mà vượt qua được những xét nghiệm trước khi thi đấu.
Kinh nghiệm cho thấy
cuộc đời không đơn giản và trong suốt như pha lê. Trái lại,
luôn có những chữ “nhưng”, chữ “tại”, chữ “bởi vì”, chữ “ví
như”…làm cho trở nên thật nhiêu khê và rắc rối. Nếu chỉ cắm
đầu cắm cổ chạy thẳng một lèo, thì đâu còn chi phải nói,
đằng này người ta có thể chạy vòng vo tam quốc, thành thử
người ta cũng phát minh ra những kiểu chạy…trời ơi đất
hỡi!!!
Với trò chơi của xấp
nhỏ trong đêm trăng sáng, gã thấy được hai nhóm chạy :
- Nhóm thứ nhất là chạy
ra, nhóm thứ hai là chạy vô.
Còn trong việc giao
tiếp hằng ngày, gã cũng nhận ra hai nhóm chạy :
- Nhóm thứ nhất là chạy
lui, nhóm thứ hai là chạy tới.
Theo sự phân tích của
tiến sĩ Phạm Văn Tình, thì :
“Ở nhóm thứ nhất, người
ta “chạy” là để tránh xa một sự thể đang nói tới, như chạy
giặc có nghĩa là tránh xa vùng giặc giã, nguy hiểm…Còn ở
nhóm thứ hai, thì ngược lại, người ta “chạy” là để mong có
được cái đang nói tới, như chạy việc có nghĩa là lo liệu tìm
được việc làm như lòng mong muốn…”
Từ đó, chúng ta có thể
quả quyết : nhóm một chạy là để tránh xa hay thoát khỏi, còn
nhóm hai chạy là để có được hay xáp vô. Gã xin dừng lại, bàn
ngang tán dọc về hai nhóm này một chút.
Trước hết, nhóm thứ
nhất chạy là để tránh xa hay thoát khỏi. Gã xin đưa ra những
trường hợp điển hình.
Thí dụ thứ nhất, đó là
chạy mưa. Đang đi khơi khơi trên đường phố vào một buổi
chiều nhàn nhã, bỗng dưng trời đổ mưa. Một cơn ngoài dự
tính, như người ta vốn thường diễn tả :
- Trời Saigon, chợt mưa
và chợt nắng.
Và thế là phải ba chân
bốn cẳng mà “chạy mưa”, tìm một chỗ nào đó để trú cho khỏi
bị ướt. Tương tự như vậy là chạy lụt, chạy bão…Gã nhớ hồi
còn nhỏ, có một năm đồng bằng sông Cửu Long bị lụt lớn, nước
dâng cao ngập đường đi, cũng như ngập nền nhà. Mọi sự đều bị
nhận chìm trong biển nước bao la, cộng thêm vào đó, một cơn
bão thổi tới, tạo thành những con sóng “bạc đầu” giữa chốn
đồng không mông quạnh. Và để an toàn, cả nhà gã lập tức được
di tản lên thành phố, ở trọ nhà một người quen, chờ cho tới
khi nước rút mới trở về. Chỉ riêng một mình bố của gã là bám
trụ ở lại để trông coi nhà cửa, vật dụng cùng những thứ kỉnh
kỉnh khác nữa.
Thí dụ thứ hai, đó là
chạy loạn. Chuyện này thì gã đã hơn một lần kinh nghiệm. Gã
còn nhớ rất rõ, khoảng đầu năm 1975, gã đang sống yên ổn tại
Đalạt, một thành phố thơ mộng và xinh đẹp nhất Việt Nam. Rồi
bỗng dưng, con những ông lớn được gửi học tại đây, dần dần
được di tản “chiến thuật” về Saigon. Thế là dân chúng lập
tức ăn theo, cũng tìm cách chạy loạn, rút khỏi thành phố này
một cách êm ru bà rù, không kèn không trống. Tới khoảng giữa
tháng ba, thì thành phố này như đã trở nên một thành phố
chết. Xe cộ không còn. Người ngợm thưa thớt. Đến ngày 20
tháng 3, thì một tin đồn được tung ra :
- Việt Cộng sẽ chiếm
Đalạt nội trong đêm nay.
Lập tức một đợt di tản
cuối cùng được hình thành. Người ta hối hả chạy loạn, ra
khỏi thành phố này bằng bất cứ phương tiện nào, tạo nên một
chuỗi dài hàng cây số đủ thứ xe cộ, bò xuống đèo Ngoạn Mục,
miễn sao mình phải “biến” trước khi màn đêm buông rơi. Riêng
gã thì ngồi chung cùng với nhiều người khác trên một chếc xe
“ben”, thứ xe được dùng để chở cây rừng. Rất may tối hôm đó
cũng tới được Phan Rang và thở phào nhẹ nhõm. Rồi từ Phan
Rang tìm đường vô Phan Thiết. Rồi từ Phan Thiết, kiếm ghe
chạy vô Vũng Tàu.
Thí dụ thứ ba, đó là
chạy tội hay chạy án. Một công dân rất mực lương thiện,
nhưng chẳng may bị ma dẫn lối quỉ đưa đường, nghe theo những
lời dụ dỗ đường mật, khiến cho lòng tham nổi lên đùng đừng,
phạm vào một trọng tội, như cướp của, giết người, tham nhũng
hối lộ hay biển thủ công quĩ…Những tội này, chiếu theo luật
pháp, sẽ bị tử hình, hay ít nữa cũng vào nằm nhà đá mà đếm
lịch mệt nghỉ. Và thế là bèn vội vã chạy tội hay chạy án,
nghĩa là tìm cách làm sao cho thoát tội hay được giảm án
phạt, bằng cách thuê luật sư giỏi, gân cổ cãi cho mình, biến
đen thành trắng, hay mua đứt quí vị quan tòa, từ chánh án
cho đến anh long tong chạy giấy.
Tiếp đến, nhóm thứ hai,
đi ngược lại với nhóm thứ nhất. Trong nhóm này, người ta
chạy là để có được hay sáp vô. Gã cũng xin đưa ra những
trường hợp điển hình.
Thí dụ thứ nhất, đó là
chạy gạo hay hạy tiền. Gia đình lâm vào cơn túng quẫn, thì
vấn đề nổi cộm hiện ra trước mắt chính là vấn đề “cơm áo gạo
tiền”. Vì thế, bụng đói thì đầu gối phải bò, nghĩa là phải
vắt giò lên cổ, chạy gạo từng ngày, làm sao có được những
hạt cơm lấp đầy những cửa miệng, dường như lúc nào cũng sẵn
sàng ngoác tới tận mang tai để kêu đói như tàu…há mồm. Vì
thế, người xưa đã bảo :
- Ai ơi bưng bát cơm
đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng
cay muôn phần.
Giải quyết được chuyện
bao tử cũng chưa đủ, bởi vì muốn làm bất cứ việc gì, thì vấn
đề đầu tiên bao giờ cũng vẫn là vấn đề tiền đâu. Không có
tiền, thì cái khó bó cái khôn, đành phải thúc thủi chịu vậy
mà thôi. Có bột mới gột nên hồ. Có tiền thì mới có cơ may
phất lên. Vì thế, cũng phải vắt giò lên cổ mà chạy tiền, làm
sao để có được tiền, càng nhiều càng tốt, mới cảm thấy được
bảo đảm an toàn.
Thí dụ thứ hai là chạy
thày chạy thuốc. Phàm đã là người, thì ai cũng ham sống và
không muốn chết, vì thế chẳng may bị đau yếu hay bệnh hoạn,
thì lập tức phải chạy thày chạy thuốc, để chóng được bình
phục trở về với cuộc sống thường ngày.
Thí dụ thứ ba là chạy
điểm, chạy trường. Muốn cho con em mình được lên lớp, thì
phải lo chạy điểm, nghĩa là phải biết điều với thày cô để
con em mình có đủ số điểm cần thiết, không bị lưu lại lớp
cho năm học tới. Rồi trước ngày khai giảng, muốn cho con em
mình được học ở những trường nổi tiếng, bảo đảm chất lượng
giảng dạy, thì phải lo…chạy trường, bằng cách ký sổ vàng,
đóng góp kha khá cho ban giám hiệu thì mới hy vọng con em
mình được nhận.
Thứ tư là chạy việc.
Hiện thời tại Việt Nam, biết bao nhiêu sinh viên tốt nghiệp
với bằng cấp rủng rỉnh, thế mà vẫn cứ bị thất nghiệp, vẫn
cứ bị sao quả tạ chiếu tướng và vẫn cứ bị bà cả đọi viếng
thăm dài dài. Vì thế, trước khi thò chân bước xuống cuộc
đời, phải biết lo chạy việc, nghĩa là tìm cho mình một việc
làm phù hợp với khả năng, và hơn thế nữa một việc làm đem
lại tiền lương hậu hĩnh, khả dĩ nuôi sống bản thân và những
người trong gia đình…
Thứ năm là chạy lên
lương hay lên chức. Thực vậy, khi đã có việc làm ổn định,
thì phải lo chạy để lên lương hầu có thể rủng rỉnh chi tiêu,
mua sắm và trang bị cho mình những tiện nghi hiện đại, đỡ
tốn sức lao động và bớt phần nhọc nhằn cho cái thân thể gầy
còm ốm yếu. Trong khi đó nhiều người lại cắm đầu cắm cổ chạy
để được thăng chức, mà nghênh ngang với đời, chứ làm phó
thường dân, “vai nặng chân trơn” mãi cũng chán, đã đến lúc
phải có danh gì với núi sông, phải có một cái nhãn hiệu
trình tòa, một cái lon, cái chức nào đó gắn vào cái tên cúng
cơm của mình thì mới…oai và mới được thiên hạ kiêng nể!
Gã biết một thầy sáu,
được bề trên gọi tiến chức. Khi làm đơn nộp cho nhà nước xét
duyệt, thầy tự vấn lương tâm, thấy mình chẳng có tí công
trạng nào. Và thế là những người thân quen với thầy bèn làm
một màn chạy thật đẹp mắt, đó là chạy…bằng khen.
Ai quen cơ quan nào,
thì cố gắng khều cho thầy một bằng khen. Và cuối cùng thầy
đã có được một bề dày thành tích đáng kể đối với…cách mạng.
Những tấm bằng khen được nộp kèm theo đơn xin, tạo thành một
tập hồ sơ nạng ký. Từ bằng khen nuôi lợn, nuôi cá, đến bằng
khen cấy lúa, trồng cây. Từ bằng khen xóa đói giảm nghèo đến
bằng khen xóa nạn mù chữ. Thầy anh dũng bước đi với những
bằng khen che phía trước, chắn phía sau để tiến tới chức
thầy cả!!!
Nói tóm lại trên cõi
đời này, cái gì người ta cũng có thể chạy, hay nói cách
khác, người ta lao đầu vào chạy đủ thứ, chạy tuốt luốt, chạy
từ cái trường mẫu giáo cho con em đi học, chạy ngay cả đến
cái ghế tổng thống cho cá nhân được vinh thân phì gia, nở
mày nở mặt với bàn dân thiên hạ…tất tật đều có thể thực hiện
được bằng cách…chạy.
Qua sự phân tích trên,
gã thấy nguyên việc chạy mà thôi cũng đã gây nên biết bao
nhiêu điều rắc rối. Và nói theo kiểu dự báo thời tiết thì :
- Diễn biến còn nhiều
phức tạp, quí vị cần theo dõi.
Trong cả hai nhóm chạy,
nhóm chạy ra cũng như nhóm chạy vô, nhóm chạy lui cũng như
nhóm chạy tới, nhóm chạy để mong tránh khỏi cũng như nhóm
chạy để mong có được, đều xuất hiện những kiểu chạy chẳng
liên quan gì tới chân, tới cẳng, bởi vì người ta chạy bằng
những phương tiện khác nhau.
Chẳng hạn người ta chạy
bằng…ô dù, nghĩa là lợi dụng tình nghĩa thân quen, hay chức
quyền để tránh khỏi điều xấu và đạt được điều tốt.
Một ông bố quyền cao
chức trọng, chạy tội cho cậu ấm vì đã phóng xe vượt ẩu, gây
tai nạn chết người. Một bà mẹ làm lớn chạy việc cho cô chiêu
để có được một ghế ngồi vững chắc với lương tháng hậu hĩnh
trong công ty. Thật đúng như người xưa đã diễn tả :
- Con vua thì lại làm
vua,
Con nhà kẻ khó, bắt cua
tối ngày.
- Con vua thì lại làm
vua,
Con nhà thầy chùa, lại
quét lá đa.
Chẳng hạn người ta chạy
bằng…bao thư, bằng phong bì, nghĩa là dùng tiền bạc để thực
hiện điều mình mong muốn. Đưa bệnh nhân tới nhà thương cũng
phải sắp sẵn bao thư hay phong bì, dĩ nhiên trong đó phải có
nhân, có ruột, nghĩa là phải…có tiền. Tiền này được gọi là
tiền “bồi dưỡng” cho y tá, cho bác sĩ để bệnh nhân được
chăm sóc đến nơi đến chốn.
Muốn chạy tội và trắng
án, cũng phải lo lót bao thư hay phong bì cho chánh án, cho
thẩm phán.
Muốn con em có được một
nơi học tốt, cũng xùy bao thư hay phong bì ra cho ban giám
hiệu.
Thời buổi bây giờ, bao
thư hay phong bì đang nở rộ, như hoa đào khoe sắc vào mỗi độ
xuân về. Thật đúng như người xưa đã nói :
- Nén bạc đâm toạc tờ
giấy.
- Có tiền việc ấy mà
xong nhỉ.
Người ta còn có thể
chạy bằng những phương tiện “âm u” khác nữa, như chạy bằng
bửu, bằng sắc, nghĩa là giải quyết công việc bằng tiệc nhậu
hay bằng đờn bà con gái…Những cách chạy này, gã xin được
“nô-tế-bồn”, nghĩa là xin được miễn bàn tới ở đây, mong bàn
dân thiên hạ thông cảm cho gã.
Một khi đồng tiền đi
trước và chức quyền theo sau, người ta chẳng cần phải tốn
sức lao động mà chạy tới chạy lui, chạy ra chạy vô, chẳng
cần phải giơ chân nhấc cẳng bước một bước nào sốt, cứ việc
ung dung ngồi chơi xơi nước ở nhà, chỉ cần nói một lời nói
êm dịu, nhắc một cú “phôn” ngắn ngủi là xong. Khỏe re! Thế
nhưng, khỏe cho bản thân mình, nhưng lại phá vỡ các tiêu
chuẩn đạo đức và làm cho xã hội bị băng hoại.
Để kết luận, gã xin kể
lại hai mẩu chuyện tiêu biểu cho hai kiểu… chạy đáng chạy vì
chúng mang tích cách xây dựng.
Mẩu chuyện thứ nhất, đó
là cuộc chạy đua giữa rùa và thỏ.
Vào một buổi sáng đẹp
trời, thỏ rủ rùa ra đường chạy đua xem ai tới đích trước. Ỷ
vào tài chạy nhanh của mình, thỏ nằm dưới gốc cây cổ thụ.
Gió thổi hiu hiu đưa thỏ vào giấc ngủ. Trong khi đó, rùa
chậm chạp bò lê từng bước, từng bước một. Khi thỏ chợt tỉnh,
dụi mắt nhìn thì thấy rùa đã gần tới đích. Bấy giờ thỏ mới
ba chân bốn cẳng, chạy vắt giò lên cổ thế mà cũng chẳng đuổi
kịp, bèn thúc thủi chịu thua.
Chuyện này khuyên chúng
phải kiên nhẫn, bởi vì sự kiên nhẫn sẽ dẫn tới thành công :
- Nước chảy đá mòn.
- Kiến tha lâu cũng đầy
tổ.
- Có công mài sắt, có
ngày nên kim.
Mẩu chuyện thứ hai, đó
là chạy nhân chạy nghĩa.
Mạnh Thường Quân nhà
giàu cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Huyền sang đất
Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phụng Huyền hỏi :
- Tiền nợ thu được, có
định mua gì về không ?
Mạnh Thường Quân nói :
- Ngươi xem trong nhà
ta còn thiếu thứ gì thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng
Huyền cho gọi dân lại, bảo rằng :
- Các ngươi còn nợ bao
nhiêu, Mạnh Thường Quân đều tha cho cả.
Rồi đem văn tự ra đốt
sạch.
Lúc về, Phùng Huyền
thưa với Mạnh Thường Quân rằng :
- Nhà tướng công châu
báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy buồng,
không còn thiếu sự gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “nghĩa” mà
thôi, nên tôi trộm phép vì tướng công đã mua về.
Mạnh Thường Quân nghe
nói thế, cũng không hỏi han gì đến tiền bạc nữa.
Sau Mạnh Thường Quân bị
bãi quan, phải về ở đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa,
ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh
lại bảo Phùng Huyền rằng :
- Trước tiên sinh vì
tôi mua nghĩa, nghĩa ấy ngày nay tôi mới trông thấy.
Đúng là Phùng Huyền đã
mua nhân mua nghĩa, hay nói cách khác, đã “chạy nhân chạy
nghĩa” cho Mạnh Thường Quân. Thế nhưng, ngày hôm nay có được
bao nhiêu người cũng biết “chạy nhân chạy nghĩa” cho mình
như vậy ?
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|