Gaudium Et Spes: Phải Ðề Cao Phẩm Giá Của Hôn Nhân Và Gia
Ðình |
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Chương I (tiếp theo)
Phải Ðề Cao Phẩm Giá Của Hôn Nhân
Và Gia Ðình
51*
50. Sự sinh sản trong hôn nhân.
Hôn nhân và tình yêu vợ chồng, tự bản tính qui hướng về sự
sinh sản và giáo dục con cái
58*. Con cái là ơn huệ cao quí nhất của hôn nhân
và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc của cha mẹ.
Thiên Chúa đã phán: "Ðàn ông ở một mình không tốt" (Stk
2,18). Ngài là Ðấng "...từ buổi đầu, đã dựng nên một người
nam và một người nữ" (Mt 19,4); chính Ngài muốn thông ban
cho con người cộng tác một phần đặc biệt vào công việc tạo
dựng của Ngài, Ngài đã chúc lành cho người nam và người nữ
rồi nói: "Các ngươi hãy tăng gia, sinh sản" (Stk 1,28). Do
đó, việc thể hiện đích thực tình yêu vợ chồng cũng như toàn
thể tổ chức đời sống gia đình phát sinh từ việc thể hiện ấy,
đều nhằm giúp đôi vợ chồng can đảm sẵn sàng cộng tác với
tình yêu của Ðấng Tạo Hóa và Cứu Thế, mặc dù không loại bỏ
các mục đích khác của hôn nhân. Nhờ đời sống lứa đôi, Ngài
làm cho gia đình Ngài ngày càng bành trướng và phong phú hơn
59*.
Bổn phận
truyền sinh và giáo dục phải được coi là sứ mệnh riêng biệt
của vợ chồng. Trong khi thi hành bổn phận ấy, họ biết rằng
mình cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa Tạo Hóa và như trở
thành những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài. Bởi vậy, họ sẽ
chu toàn bổn phận mình với trách nhiệm của con người và của
con người Kitô hữu
60*. Tôn trọng, tuân phục Thiên Chúa, đồng tâm
hiệp lực với nhau, họ sẽ tạo được cho mình một phán đoán
ngay thẳng: biết xét đến lợi ích riêng của họ cũng như của
con cái đã sinh hay tiên liệu sẽ có, nhận định về các hoàn
cảnh vật chất hay tinh thần của thời đại và bậc sống, sau
hết biết nghĩ đến lợi ích của gia đình, của xã hội trần gian
và của chính Giáo Hội. Sự phán đoán ấy, sau cùng chính đôi
vợ chồng phải chọn lựa lấy trước mặt Thiên Chúa. Trong cách
thế hành động, vợ chồng Kitô hữu hãy ý thức là mình không
thể làm theo sở thích, nhưng phải luôn luôn tuân theo tiếng
nói của một lương tâm phải được khuôn đúc theo luật Chúa,
hãy vâng phục Giáo huấn của Giáo Hội, vì Giáo Hội có thẩm
quyền giải thích luật Chúa dưới ánh sáng Phúc Âm.
Luật Chúa tỏ
rõ ý nghĩa đầy đủ của tình vợ chồng, bảo vệ và khích lệ mối
tình ấy đến mức hoàn thiện trên bình diện đích thực nhân
loại. Bởi thế mà các vợ chồng Kitô hữu tôn vinh Ðấng Tạo Hóa
và tiến tới sự hoàn thiện trong Chúa Kitô, trong khi tin
tưởng vào Chúa Quan Phòng và trau dồi tinh thần hy sinh
12, để chu toàn bổn phận sinh sản cách quảng đại
trong tinh thần trách nhiệm của con người và của con người
Kitô hữu. Trong số những đôi vợ chồng theo phương thức ấy để
chu toàn bổn phận Thiên Chúa trao phó, phải đặc biệt kể đến
những người, sau khi suy xét khôn ngoan và đồng chấp thuận,
đã can đảm nhận lãnh trách nhiệm dưỡng dục con cái cách xứng
đáng, dẫu số con cái ấy khá đông
13.
Tuy nhiên,
hôn nhân không phải chỉ được thiết lập để mưu sự truyền sinh
mà thôi, nhưng chính đặc tính giao ước bất khả phân ly giữa
hai người và lợi ích con cái đòi hỏi tình yêu hỗ tương của
hai vợ chồng phải được phát biểu, thăng tiến và nẩy nở cách
chính đáng. Cho nên, ngay trong trường hợp không có con như
hằng tha thiết mong mỏi, hôn nhân vẫn tồn tại như một cuộc
sống chung và vẫn giữ được giá trị cùng đặc tính bất khả
phân ly của mình.
51. Hòa hợp tình yêu vợ chồng với
việc tôn trọng sự sống con người. Công Ðồng
biết rằng: muốn tổ chức đời sống vợ chồng cho thuận hòa, đôi
bạn thường vấp phải một số tình trạng sinh sống khó khăn
hiện đại và có thể lâm vào những hoàn cảnh khiến họ không
thể gia tăng số con cái, ít là trong một thời gian; đó là
lúc phải khó khăn lắm mới duy trì được tình yêu trung thành
và sự chung sống trọn vẹn. Một khi đời sống thân mật vợ
chồng bị gián đoạn, sự chung thủy thường bị đe dọa và lợi
ích con cái có thể bị sút giảm; vì trong trường hợp này,
việc giáo dục cũng như lòng can đảm sinh thêm con cái đều bị
thương tổn
61*.
Có những
người dám đưa ra những giải pháp bất lương để giải quyết vấn
đề trên đây, họ không ngần ngại xử dụng cả những hành động
sát nhân. Nhưng Giáo Hội nhắc lại rằng không thể có mâu
thuẫn thực sự giữa những lề luật của Thiên Chúa liên quan
đến việc truyền sinh và những luật liên quan đến việc phát
triển tình yêu vợ chồng đích thực.
Thực vậy,
Thiên Chúa là Chúa sự sống, đã trao cho con người nhiệm vụ
cao cả là bảo tồn sự sống, và họ phải chu toàn bổn phận ấy
cách xứng hợp với con người. Do đó, sự sống ngay từ lúc thụ
thai phải được giữ gìn hết sức cẩn thận; phá thai và sát nhi
là những tội ác ghê tởm. Dục tính cũng như khả năng sinh sản
của con người trổi vượt một cách kỳ diệu hơn những gì thấy
được ở những cấp sinh vật thấp hơn. Bởi vậy, chính những
hành vi đặc thù của đời sống vợ chồng, được thực hiện đúng
theo phẩm giá đích thực của con người, đều phải được kính
cẩn tôn trọng. Vì thế, khi cần hòa hợp tình vợ chồng với
việc truyền sinh trong một tinh thần trách nhiệm, phải ý
thức rằng giá trị luân lý của hành động không chỉ lệ thuộc
vào ý muốn thành thực và việc cân nhắc các lý do, nhưng phải
được thẩm định theo những tiêu chuẩn khách quan suy diễn từ
bản tính của nhân vị và của hành động nơi nhân vị; những
tiêu chuẩn ấy sẽ tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn của sự trao hiến
và sinh sản con cái trong khung cảnh tình yêu đích thực. Ðó
là điều không thể thực hiện được nếu không thực tâm vun
trồng đức khiết tịnh trong bậc vợ chồng. Trong việc điều hòa
sinh sản, con cái của Giáo Hội trung thành với những nguyên
tắc vừa viện dẫn, không được dùng những phương pháp mà Giáo
Huấn đã bác bỏ khi giải thích luật Thiên Chúa
14.
62*
Ngoài ra, mọi
người đều phải ý thức rằng: đời sống nhân loại và bổn phận
lưu truyền sự sống ấy không chỉ giới hạn ở đời này cũng như
không thể hiểu và đo lường được ở đời này, nhưng luôn qui
chiếu về định mệnh vĩnh cửu của con người.
52. Bổn phận của mọi người trong
việc thăng tiến hôn nhân và gia đình. Gia
đình là một trường học phát triển nhân tính. Nhưng để gia
đình có thể sống trọn vẹn và chu toàn sứ mệnh mình, cần phải
biết hòa hợp tâm hồn: vợ chồng phải cùng nhau bàn định cũng
như cha mẹ phải ân cần cộng tác trong việc giáo dục con cái.
Sự hiện diện tích cực của người cha giúp ích rất nhiều cho
việc đào tạo con cái, nhưng cũng phải làm sao giữ được cho
người mẹ vai trò chăm sóc gia đình, vì con cái, nhất là khi
thơ bé, rất cần đến sự chăm sóc ấy; tuy nhiên, vẫn không
được coi thường sự thăng tiến hợp lý của người phụ nữ trên
bình diện xã hội. Phải giáo dục con cái thế nào để khi đến
tuổi trưởng thành chúng có thể chọn bậc sống và theo ơn gọi,
ngay cả ơn gọi tu trì, với ý thức trách nhiệm đầy đủ; và nếu
kết hôn, chúng có thể lập gia đình riêng trong những điều
kiện luân lý, xã hội và kinh tế thuận lợi. Bổn phận của cha
mẹ hay người giám hộ là hướng dẫn những người trẻ khi lập
gia đình, dùng lời khuyên nhủ khôn ngoan sao cho họ sẵn sàng
nghe theo; tuy nhiên, phải cẩn thận, không dùng áp lực trực
tiếp hay gián tiếp ép buộc họ kết hôn hay chọn bạn đường
63*.
Như thế, gia
đình trở thành nền tảng của xã hội vì là nơi mà nhiều thế hệ
gặp gỡ và giúp nhau nên khôn ngoan đầy đủ hơn cũng như giúp
nhau hòa hợp những quyền lợi cá nhân với những đòi hỏi khác
của cuộc sống xã hội. Bởi đó, tất cả những ai có ảnh hưởng
trên các cộng đoàn và tập thể xã hội phải góp công hữu hiệu
thăng tiến hôn nhân và gia đình. Chính quyền phải nhìn nhận,
bênh vực và phát huy tính chất đích thực của hôn nhân và gia
đình, phải bảo vệ nền luân lý chung và giúp cho gia đình
được sung túc, vì đó là những bổn phận mà chính quyền phải
coi như một sứ mệnh thiêng liêng phải chu toàn. Lại phải bảo
đảm cho cha mẹ quyền sinh sản và giáo dục con cái trong
khung cảnh gia đình. Phải soạn thảo được những bộ luật biết
tiên liệu và đề ra được nhiều sáng kiến để bảo vệ và nâng đỡ
cả những người vì rủi ro mà không có gia đình.
Người Kitô
hữu biết lợi dụng thời đại
15 và phân biệt những gì trường tồn với những hình
thức hay thay đổi, phải nhiệt thành đề cao những giá trị hôn
nhân và gia đình bằng chứng tá của chính đời sống mình cũng
như bằng hành động hợp tác với những người thiện chí. Như
vậy, sau khi vượt qua các trở ngại, họ sẽ thỏa mãn được
những nhu cầu của gia đình và cung cấp cho gia đình những
tiện nghi hợp với thời đại mới. Muốn đạt được mục đích ấy,
rất cần đến ý thức Kitô giáo của các tín hữu, lương tâm luân
lý ngay thẳng của mọi người cũng như sự khôn ngoan và khả
năng chuyên môn của những ai am tường các môn học đạo.
Các vị thông
thạo khoa học, nhất là các khoa sinh vật học, y học, xã hội
và tâm lý học, có thể giúp ích rất nhiều cho hôn nhân, gia
đình cũng như sự an bình lương tâm, nếu họ hiệp lực nghiên
cứu và cố gắng làm sáng tỏ hơn nữa về những điều kiện khác
nhau giúp con người điều hòa sinh sản cách lương thiên.
Sau khi được
học hỏi đầy đủ về các vấn đề thuộc phạm vi gia đình, các
linh mục có bổn phận nâng đỡ ơn gọi của vợ chồng trong đời
sống hôn nhân và gia đình bằng những phương tiện mục vụ khác
nhau, như rao giảng lời Chúa, lễ nghi phụng vụ hay những trợ
lực thiêng liêng khác. Các ngài cũng phải nhân hậu và nhẫn
nại nâng đỡ họ trong lúc gặp khó khăn, và khích lệ họ trong
tình bác ái để họ tạo nên những gia đình thực gương mẫu rạng
ngời
64*.
Các tổ chức
hoạt động tông đồ, nhất là những hiệp hội gia đình, phải cố
gắng bằng lý thuyết và hành động nâng đỡ các thanh thiếu
niên và chính các đôi vợ chồng, nhất là những đôi mới kết
hôn, đồng thời huấn luyện cho họ về đời sống gia đình, xã
hội và việc tông đồ.
Sau hết chính
các đôi vợ chồng, được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa
và được an định trong cấp bực của các nhân vị, hãy kết hợp
trong tình tương thân tương ai, đồng tâm hiệp ý và thánh hóa
lẫn nhau
16, để trong khi theo Chúa Kitô là nguyên lý sự
sống
17, giữa những nỗi vui mừng và hy sinh của ơn gọi
và qua tình yêu chung thủy, họ trở nên chứng nhân của mầu
nhiệm tình thương mà Chúa đã tỏ ra cho thế giới qua sự chết
và sự sống lại của Người
18.
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo
trước)
58* Hôn nhân là để hai
vợ chồng yêu nhau, hiệp nhất với nhau, bổ túc cho nhau, hay
là để sinh sản con cái? Trước khi có Công Ðồng, giáo lý công
giáo trả lời: mục đích thứ nhất là để sinh sản con cái. Còn
việc vợ chồng giúp đỡ nhau và việc kết hiệp tính dục với
nhau là mục đích thứ nhì và phụ thuộc. Trong ghi chú 1 (số
48a) Công Ðồng nhắc lại vài tài liệu phân biệt các mục đích
như thế. Dĩ nhiên giáo lý đã không coi thường tình yêu vợ
chồng, bởi vì ba mục đích ấy đều phải được thực hành trong
bầu không khí yêu nhau. Nhưng Công Ðồng đã nhấn mạnh đến
tình yêu trong khi không chỉ lưu ý đến khía cạnh pháp lý của
hôn nhân, nhưng đã đề cao phương diện nhân vị. Nên, bây giờ
ta phải nói rằng hôn nhân là để hai bên yêu nhau và tự hiến
cho nhau, nhờ đó mà sinh sản con cái, vì chính tình yêu vợ
chồng cũng như hôn nhân đều hướng về việc sinh sản. Giữa
tình yêu vợ chồng và việc sinh sản con cái không có sự mâu
thuẫn gì cả, trái lại nếu bỏ một trong hai, thì sẽ không thể
hiểu điều kia được. Yêu nhau với tình yêu này (hôn nhân) mà
lại cố gắng ngăn cản việc sinh sản con cái đấy là điều mâu
thuẫn. Trái lại, muốn có con mà không chịu yêu nhau thì
không xứng hợp với phẩm giá con người. Tự hiến cho nhau,
nhưng cùng một lúc cố ý loại trừ khả năng cao quí nhất của
mình là khả năng làm cha làm mẹ, có phải tự hiến mình trọn
vẹn không? có phải yêu thật không?
59* Công Ðồng không
bằng lòng phân biệt các mục đích như cũ. Chỉ nhắc lại hai
mục đích quan trọng nhất là tự hiến cho nhau và sinh sản con
cái. Thực ra, hai mục đích này (và nhiều mục đích khác để
phát triển nhân phẩm về mọi phương diện...) đều là chính
yếu, nghĩa là hôn nhân đòi hỏi quyền lợi để hai bên có thể
nhờ nhau mà đạt tới những mục đích ấy. Lập khế ước hôn nhân,
nhưng loại trừ quyền lợi để sinh sản con cái thật là vô lý
và khế ước không thành. Vậy thì, cố ý loại trừ quyền lợi để
yêu nhau và để tự hiến cho nhau, cũng là vô lý, vì khế ước
này cốt để trao đổi cho nhau.
60* Ở đây Công Ðồng dạy
một giáo lý mới mẻ: lập gia đình để (nhờ tình yêu nhau) làm
cha và làm mẹ; nói như thế thì chưa đủ. Phải nói thêm: để
làm bậc cha mẹ có trách nhiệm! Như thế có nghĩ a gì? Công
Ðồng dạy: 1) sinh sản con cái là sứ mệnh của vợ chồng, 2)
phải thực hành như là cộng tác viên của Chúa và là "thông
ngôn viên" cho tình yêu của Chúa (nghĩa là: tình yêu Chúa
luôn luôn muốn dựng nên con người mới, nhưng hai vợ chồng
phải tìm hiểu ý Chúa trong hoàn cảnh thực tế của họ), 3)
thực hành với lòng kính trọng Thiên Chúa, 4) và tin cậy
Ngài, 5) cũng như với tinh thần hy sinh, 6) để vinh danh
Chúa, 7) và thánh hóa bản thân.
Theo các
nguyên tắc ấy, vợ chồng nên sinh hạ bao nhiêu con cái? Trước
đây những tín hữu đạo đức có lẽ đã trả lời: "Chúa muốn bao
nhiêu thì chúng con sẽ sinh ra bấy nhiêu". Nhưng câu đó
không hợp với giáo lý như Công Ðồng dạy. Không khác gì với
lập trường của người chỉ ham mê khoái lạc và do đó sẽ áp
dụng các phương pháp để ngăn cản sự sinh sản, câu ấy có thể
tỏ ra ý muốn đề cao nguyên tắc "phải thỏa mãn tính dục"
trước đã! Như vậy chưa phải là có trách nhiệm. Bởi đó Công
Ðồng ngợi khen những vợ chồng sẵn sàng có đông con, nhưng
rồi dạy rằng họ phải quyết định số con cái có thể có theo
những nguyên tắc sau đây: 1) ích lợi về mọi phương diện của
hai vợ chồng (ví dụ: người mẹ có đủ sức không?) 2) ích lợi
của con cái (ví dụ gia đình có đủ phương tiện để giáo dục
chúng nó không?) 3) tùy theo thời gian, hoàn cảnh vật chất
và tinh thần, 4) tùy theo ích lợi của đại gia đình, của xã
hội và của Giáo Hội.
Chính vợ
chồng phải quyết định số con, chứ không phải chỉ người chồng
hay ông bà. Họ sẽ quyết định theo lương tâm của họ: một
lương tâm cố gắng hiểu biết luật Chúa như Giáo Hội trình
bày.
Ðức Phaolô VI
(Humanae Vitae số 10) nhấn mạnh rằng chính tình yêu hôn nhân
đòi hỏi trách nhiệm này. Ngài cũng cắt nghĩa trách nhiệm: 1)
theo phương diện sinh lý là tôn trọng lề luật của các tiến
triển sinh lý (nó cũng thuộc về nhân vị), 2) theo phương
pháp chế ngự các xu hướng bản năng và dục vọng, đó là biết
tự chủ theo lý trí, 3) theo phương diện hoàn cảnh vật lý,
kinh tế, tâm lý, xã hội, đó là quyết định tùy theo hoàn cảnh
cho phép thêm con, hay không, 4) theo phương diện luân lý,
có trách nhiệm là quyết định và thực hiện quyết định đó một
cách thích hợp với nhiệm vụ đối với Chúa, đối với chính
mình, đối với gia đình và xã hội. Lương tâm của hai vợ chồng
không tự ý tạo ra con đường tốt đẹp cho mình, nhưng nó phải
khám phá ra con đường ấy nơi bản tính hôn nhân và nơi bản
tính các hoạt động hôn nhân, theo như Giáo Hội cắt nghĩa.
Về phương
pháp cụ thể khi vợ chồng cần hạn chế sinh sản, xin coi số
51.
61*
Vấn đề hạn chế sinh sản là vấn đề về các phương pháp. Vợ
chồng muốn sống hợp với lý tưởng hôn nhân đã được trình bày
ở trên, lắm lúc sẽ phải hạn chế số con. Nhưng không gần gũi
nhau, hay chỉ theo chu kỳ của người vợ, có thể làm hại cho
tình yêu nhau, do đó cũng làm hại cho đời sống hôn nhân và
cho con cái nữa. Công Ðồng không giấu kín sự kiện này. Vậy
khi cần hạn chế số con, có thể áp dụng phương pháp nào? Công
Ðồng chỉ trả lời một cách đại cương mà thôi: phải loại trừ
phương pháp xấu xa, như giết người (số 51b), phá thai và
giết trẻ em (số 51c). Rồi Công Ðồng dạy nguyên tắc phải áp
dụng trong việc chọn lựa phương pháp. Phương pháp bao giờ
cũng phải 1) tôn trọng giá trị của sứ mệnh lưu truyền sự
sống và tôn trọng phẩm giá con người, 2) nó không thể trái
ngược lề luật của Chúa về việc lưu truyền mạng sống, 3) vợ
chồng phải có ý ngay lành, nhưng chưa đủ, 4) chính phương
pháp phải xứng hợp với các qui tắc khách quan về luân lý, 5)
đó là những qui tắc dựa trên bản tính con người và tác động
của con người, 6) nên phương pháp phải không được xâm phạm ý
nghĩa tình yêu hôn nhân là tự hiến cho nhau, và tính cách
nhân bản của việc sinh sản con cái, 7) bởi đó, đức trinh
khiết hôn nhân là cần thiết, 8) cũng như lòng trung thành
với Giáo Huấn của Giáo Hội.
62*
Ghi chú 14 trình bày lý do tại sao Công Ðồng không phát biểu
ý kiến về phương pháp cụ thể do khoa học đã khám phá ra, như
thuốc viên, vòng xoắn, v.v... Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI đã
nhờ ủy ban do Ðức Gioan XXIII thiết lập nhằm học hỏi về các
vấn đề gia đình, để nghiên cứu vấn đề hạn chế sinh sản. Ủy
ban gồm có các nhà thần học, xã hội học, bác sĩ, các đôi vợ
chồng (trên 70 hội viên) đã làm việc từ năm 1963 đến cuối
năm 1967. Theo như chính Ðức Giáo Hoàng xác nhận (Humanae
Vitae số 6) đa số các hội viên bênh vực lập trường chấp nhận
bất cứ phương pháp nào để hạn chế sinh sản. Không nhắc đến
lòng ích kỷ, ham khoái lạc, sợ trách nhiệm nặng nề trong
việc sinh sản và giáo dục con cái, kể cả lập trường chống
đối Giáo Hội cũng như lập trường kinh tế và chính trị của
một số quốc gia, Ấn Ðộ chẳng hạn..., chính Ðức Giáo Hoàng đã
chỉ nhắc lại lý do của đa số trong ủy ban: 1) Có lý do ngoại
tại, nghĩa là những lý do không trực tiếp quan hệ tới vấn
đề, như việc dân số gia tăng quá mau; những hoàn cảnh làm
việc, nhà ở, kinh tế; quan niệm mới mẻ về nhân phẩm phụ nữ
và vai trò của phụ nữ trong xã hội; việc sinh sản con cái
đòi hỏi hy sinh đôi khi tới mức độ anh hùng (Humanae Vitae
số 2-3). 2) Cũng có lý do nội tại như quan niệm về giá trị
tình yêu hôn nhân và cử chỉ xác thịt; quyền năng của con
người trên thiên nhiên và bản thân; nguyên tắc toàn diện,
nghĩa là hôn nhân hướng về con cái nhưng không phải từng
hoạt động vợ chồng phải trực tiếp hướng về nó; nguyên tắc
phải chọn sự xấu nhẹ hơn, nghĩa là thà áp dụng phương pháp
nhân tạo để hạn chế sinh sản còn hơn là mất tình yêu vợ
chồng và hạnh phúc gia đình (Humanae Vitae số 2-3; 14,
16-17).
Ngày 25-7-1968 Ðức Phaolô VI "nhận sứ mệnh
Chúa Kitô đã trao phó" (Humanae Vitae số 6) công bố câu trả
lời về vấn đề các phương pháp cụ thể: "Cấm bất cứ hành động
nào nhằm ngăn chặn sự sinh sản, dù như một mục đích hay chỉ
như phương tiện, dù có hành động như vậy trước việc vợ
chồng, hay là khi việc vợ chồng đang tiến tới hậu quả tự
nhiên của nó" (Humanae Vitae số 14). Nghĩa là không được
phép dùng thuốc viên ngăn cản thụ thai (nó có thể giết tinh
trùng, giết trứng, ngăn cản trứng chín rụng, ngăn cản tinh
trùng vào trong trứng), cấm dùng thuốc viên phá thai, đặt
vòng xoắn vào tử cung, dùng bao cao su của đàn ông hay đồ
giữ bộ phận của đàn bà, giải phẫu để cắt hay buộc các ống
dẫn tinh dịch hay trứng, hoạt động như Onan (Stk 38,9: cố ý
xuất tinh ở ngoài), cấm phá thai... Vì mỗi khi vợ chồng giao
hợp với nhau, việc hôn nhân phải được mở ngỏ để "có thể lưu
truyền mạng sống" (Humanae Vitae số 11).
Ðức Giáo Hoàng "nhận sứ mệnh Chúa Kitô đã
trao phó" mà dạy con cái Giáo Hội phải bỏ ý kiến riêng
(Humanae Vitae số 28) và hơn nữa phải vâng lời mặc dù có thể
là rất khó (Humanae Vitae số 19-20) bởi vì phải vâng theo
luật của Giáo Hội và luật của Chúa (Humanae Vitae số 18).
Ðức Giáo Hoàng đã áp dụng nguyên tắc Công
Ðồng Vaticanô II lập ra và đã công nhận rằng nếu cố ý ngăn
cản việc thụ thai khi vợ chồng ăn ở với nhau, hành động đó
không còn giữ ý nghĩa sâu xa của tình yêu và của hôn nhân,
cũng như của tác động hôn nhân như Thiên Chúa đã muốn
(Humanae Vitae số 9-13).
63*
Các gia đình và đại gia đình (kể cả các linh mục lo cho đôi
tân hôn) nên lưu ý tới câu này của Công Ðồng. Vì ép duyên
không những là tội bất công đối với thanh niên thiếu nữ có
quyền lợi bất khả xâm phạm để lập gia đình và chọn người
bạn, mà còn gây nên nhiều khó khăn và nhiều dịp tội lỗi,
không kể trường hợp hôn nhân bất thành vì mặc dầu hai bên đã
ưng thuận, nhưng chỉ vì sợ hãi quá đáng (Giáo luật, khoản
1087). Lạm dụng lòng hiếu thảo của con mình để ép duyên là
điều không thích hợp với giáo lý công giáo.
64*
Công Ðồng lập lại hai nhiệm vụ chính của các linh mục lo cho
đôi tân hôn là: 1) giáo dục đôi bên về ơn kêu gọi, về lý
tưởng, về đời sống gia đình, về những khó khăn, v.v..., 2)
nâng đỡ các cặp vợ chồng gặp khó khăn với lòng nhân từ và
kiên nhẫn. Do đó việc khảo kinh hai bên sắp lập gia đình và
sau đó chỉ lo việc rửa tội cho con cái và dạy giáo lý, ban
bí tích cho kẻ liệt... thì chưa đủ.
Các ngài nên đặc biệt lưu ý tới tinh thần
mới trong việc mục vụ (khi ngồi tòa chẳng hạn). "Trong việc
này (tức việc dạy toàn bộ giáo lý, bất chấp những khó khăn
sẽ gặp phải như khi đề cập tới vấn đề nghiêm cấm sự áp dụng
các phương pháp hạn chế sinh sản chẳng hạn), cần phải giữ
đức nhẫn nại và nhân từ như chính Chúa đã làm gương trong
cách đối xử với mọi người. Chúa... đã giữ thái độ quyết liệt
đối với tội lỗi, nhưng đồng thời đã tỏ lòng thương xót đối
với con người. Khi gặp khó khăn, chớ gì các đôi vợ chồng
luôn luôn tìm thấy nơi lời nói và nơi tâm hồn của các linh
mục, tiếng vang lời nói và tình yêu của Chúa Cứu Thế"
(Humanae Vitae số 29). Chúa không đuổi kẻ sa ngã vì yếu
đuối... |
VỀ MỤC LỤC |
|
HIỆP THÔNG VÀ TRUYỀN GIÁO KHÔNG THỂ TÁCH RỜI NHAU |
Sự hiệp thông của Giáo hội với Đức
Giêsu sinh ra sự hiệp thông giữa các Kitô hữu với nhau. Sự
hiệp thông này là điều kiện cần thiết để sinh hoa trái. Sự
hiệp thông với nhau, một ân huệ của Chúa Kitô và Thần Khí
của Người, là hoa trái tốt đẹp nhất mà các cành có thể cho :
“Một đòi hỏi thiết yếu của cuộc sống
trong Đức Kitô là hễ ai hiệp thông với Chúa thì phải sinh
hoa kết quả : “Ai ở trong Thày và Thày ở trong người ấy,
người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái.” (Gio 15,5). Như thế, thật
là đúng khi bảo rằng những ai không sinh hoa kết quả, thì ấy
là người đã không sống trong sự hiệp thông : “Cành nào không
sinh hoa trái, thì Cha Thày sẽ tỉa đi”. (Gio 15,2). Hiệp
thông với Đức Kitô và từ đó phát sinh sự hiệp thông giữa các
Kitô hữu với nhau chính là điều kiện cần thiết để sinh hoa
kết quả.” (Ecclesia in Asia, số 24).
Theo nghĩa này, hiệp thông và truyền
giáo liên kết với nhau không thể phân ly. Sự hiệp thông vừa
là nguồn suối, vừa là hoa trái của việc truyền giáo: sự hiệp
thông phát sinh việc truyền giáo và truyền giáo hoàn thành
trong hiệp thông :
“Hiểu như thế thì hiệp thông và truyền
giáo là hai việc không thể tách rời nhau. Chúng thẩm thấu và
bao hàm nhau, đến nỗi có thể nói “hiệp thông vừa là gốc vừa
là trái của việc truyền giáo : hiệp thông đưa tới truyền
giáo và truyền giáo được hoàn thành trong sự hiệp thông.
“(Ecclesia in Asia, số 24).
“Sự hiệp nhât là
một yếu tố cơ bản và cần thiết cho chứng tá của các Kitô hữu
trong thế giới và cho tính khả tín của công việc truyền giáo
(x. Ga 13,35; 17,21). Sự hiệp nhất này biểu lộ cách ưu việt
trong sự hiệp thông giữa các giám mục với nhau và với Đấng
kế vị thánh Phê-rô, Đấng đã được giao phó quyền hành trên
Hội Thánh hoàn vũ: “Cũng như, do Thiên Chúa đã thiết định,
thánh Phê-rô và các tông đồ khác đã tạo thành một tập đoàn,
thì Đức Thánh Cha, kế vị Phê-rô và các giám mục, kế vị các
Tông Đồ, cũng liên kết lại với nhau cách tương tự như vậy”
(Giáo Luật 330)
Các Giám Mục, Hiệp Nhất Với Giám Mục
Rô-Ma, Tạo Thành Giám Mục Đoàn kế vị tập đoàn các Tông Đồ đã
được Đức Kitô sai đi. Đối với các giám mục, trung thành với
sự hiệp thông này là một đòi hỏi đặc biệt quan trọng và là
một sự khẩn thiết đối với sự thật và đối với sự phong nhiêu
thừa tác vụ của các ngài. Bởi vì, chính khi hiệp nhất với
vị giám mục của họ và với Đức Giáo Hoàng mà các Kitô hữu
thuộc về sự hiệp thông phổ quát và có thể được thừa hưởng
những hoa quả của sự hiệp thông đó. Trong một Hội Thánh địa
phương hay trong giáo phận, sự hiệp thông được sống bằng
nhiều cách thức khác nhau qua việc tham dự vào đời sống bí
tích, qua việc làm chứng tá, qua việc truyền giáo và qua các
trách vụ được đảm nhận ở trong cộng đoàn tín hữu.
Như vậy, sống trong sự hiệp nhất, Hội
thánh làm chứng cho tình yêu của Đức Kitô đối với mọi người
và cộng tác vào sự hiệp nhất của nhân loại.” (Giáo lý của
Hội đồng Giám mục Pháp, số 302- 303).
Sự hiệp thông được diễn tả cách cụ thể
qua việc các giám mục hiệp thông với Đấng kế vị thánh Phêrô
và giữa lòng Giáo hội địa phương với chủ chăn. Mỗi Giáo hội
địa phương phải được đặt nền móng trên chứng từ của sự hiệp
thông, vì sự hiệp thông cấu tạo nên chính bản chất của Giáo
hội. Giáo hội địa phương như là “sự hiệp thông các cộng
đoàn” chung quanh vị chủ chăn. Chính trong Giáo hội địa
phương mà sự hiệp thông các cộng đoàn được thực hiện giữa
những thực tại phức tạp xã hội, chính trị, tôn giáo, văn hóa
và kinh tế tại Á Châu. Như vậy, trong Giáo hội địa phương,
hiệp thông và truyền giáo không thể tách rời nhau (Ecclesia
in Asia, số 24).
Việc tham dự vào sự hiệp thông của Chúa
Ba Ngôi liên kết mọi thành phần của Giáo hội vào trong sự
hiệp thông duy nhất mà ta gọi là Thân Thể của Chúa Kitô.
Nhưng Giáo hội cũng là những con người yếu đuối, mỏng dòn,
nên không tránh khỏi những chia rẽ. Có nhiều chia rẽ trong
lịch sử đã làm tổn thương đến sự hiệp thông của các Giáo hội
đặc thù ở Á Châu.
Vì thế, những mối liên hệ mang tính
liên Giáo hội đã bị phá hỏng trong nhiều thế kỷ giữa các
Giáo hội thuộc nhiều truyền thống phụng vụ và Giáo hội khác
nhau, những quyền tài thẩm của giáo sĩ, những phương pháp
truyền giáo, và mối lưu tâm mục vụ. Những vết thương này đã
được chữa lành từng phần, nhưng việc chữa lành hoàn toàn còn
phải đến trong tương lai. Khắp nơi, chỗ nào sự hiệp thông bị
yếu đi, thì việc làm chứng nhân của Giáo hội, quyền năng
loan báo Tin mừng và tính hiệu năng của Giáo hội bị suy yếu
theo. Đức Kitô đã mong muốn các Kitô hữu hiệp nhất với nhau
để nên dấu chỉ cho chân lý Phúc âm trước mặt thế gian (Gio
17,21). Vì vậy sự chia rẽ đã làm tê liệt nỗ lực truyền giáo.
Sự hiệp thông còn thể hiện trong tình
liên đới giữa các Giáo hội địa phương với nhau qua việc cởi
mở đón tiếp nhau và cộng tác với nhau. Hiệp thông tiến tới
việc truyền giáo mà không xung khắc với sự độc lập của các
Giáo hội (Ecclesia in Asia, số 26). Hiệp thông trong khác
biệt, thống nhất trong đa dạng. Sự khác biệt sẽ làm phong
phú và bổ túc cho nhau. Đây là một đòi hỏi của đức tin, bắt
nguồn từ chính mầu nhiệm Ba Ngôi (duy nhất về bản tính, khác
biệt về ngôi vị), từ mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa.
Giáo hội là dân Chúa đang hành hương,
một dân mà không dân nào không có liên hệ cách này hay cách
khác (GH số 16). Trên cơ sở đó, các Nghị phụ Thượng Hội
đồng nhấn mạnh mối liên hệ nhiệm mầu giữa Giáo hội và tín đồ
các tôn giáo khác của Châu Á, ghi nhận rằng các tín đồ ấy
“có liên hệ (với Giáo hội) bằng nhiều cách và ở nhiều mức độ
khác nhau”. Giữa đông đảo các dân tộc, các nền văn hóa và
các tôn giáo khác nhau như thế, “càng thấy đời sống Giáo hội
như một sự hiệp thông quan trọng thế nào”. Thật ra, công tác
phục vụ sự hiệp nhất do Giáo hội thực hiện có một tầm quan
trọng đặc biệt tại Á Châu, vì tại đây có quá nhiều căng
thẳng, chia rẽ và xung đột, do những khác biệt về chủng tộc,
xã hội, văn hóa, ngôn ngữ, kinh tế và tôn giáo gây ra. Chính
trong bối cảnh ấy, các Giáo hội địa phương ở Châu Á hiệp
thông với Đấng kế vị thánh Phêrô cần cổ võ sự hiệp thông
nhiều hơn nữa trong tâm trí cũng như trong tâm hồn bằng sự
cộng tác mật thiết hơn giữa các Giáo hội với nhau. Một điều
cũng quan trọng không kém đối với sứ mạng Phúc âm hóa của họ
là xây dựng các mối quan hệ với các Giáo hội và các cộng
đồng Kitô khác, cũng như với tín đồ các tôn giáo khác
(Ecclesia in Asia, số 24).
Giáo hội tại Á Châu sống giữa hàng
trăm, hàng ngàn anh em Ấn giáo, Phật giáo, Hồi giáo và những
tín đồ theo tôn giáo truyền thống. Giáo hội tại Á Châu có
trách nhiệm đặc biệt làm bí tích cho sự hiệp nhất giữa các
tín đồ của mọi tôn giáo. Giáo hội phải thực sự trở nên phổ
quát, Công giáo. Đây là một ân huệ của Chúa. Dầu Giáo hội có
một sự hiệp thông rất đặc thù và sự hiệp nhất của riêng
mình, nhưng không phải là sự hiệp thông và hiệp nhất độc
quyền. Nó phải là sự hiệp nhất bao gồm, bởi vì Chúa Thánh
Thần và Lời Chúa đã hiện diện trong thế giới, dẫn đưa mọi sự
tới mục tiêu cuối cùng. : “Giáo hội kính trọng và yêu mến
những tôn giáo không phải là Kitô giáo vì những tôn giáo ấy
là sự diễn tả sinh động tâm hồn của đám đông nhân loại rộng
lớn, mang trong mình âm hưởng hàng ngàn năm của việc tìm
kiếm Thiên Chúa, có một di sản đầy ấn tượng với những bản
văn tôn giáo sâu sắc. Qua các thế hệ, những tôn giáo ấy dạy
con người cầu nguyện” (Phaolô VI, Tông huấn Evangelii
nuntiandi, số 53).
Trong hoạt động rao giảng Tin mừng,
Giáo hội tìm cách chữa lành những chia rẽ ngàn đời trong xã
hội tại Á Châu, nhờ vào mẫu gương sống hiệp thông của riêng
mình. Như thế, Giáo hội tỏ cho thấy sự hiệp nhất là có thể
được. Cũng thế, Giáo hội tìm những phương tiện làm thăng
tiến một sự hiệp thông như thế giữa các dân tộc nhờ sự đối
thoại và cộng tác. Mục tiêu cuối cùng của truyền giáo là sự
hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân. “Mục đích cuối
cùng của việc truyền giáo là làm cho con người tham dự vào
sự hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con” (RM, số 23).
Sự hiệp thông giữa các Kitô hữu là bằng
chứng sống động, là điều kiện để thiên hạ nhận biết Đức Kitô
là Con Thiên Chúa, Đấng được Chúa Cha sai đến với loài
người. Chúng ta không thể loan báo về một Đức Kitô bị chia
năm xẻ bảy và không ai lại muốn gia nhập một tổ chức chia
rẽ, lục đục. Đức Kitô đã hy sinh đến phải đổ máu mình ra và
chết nhục nhã trên thập giá là để qui tụ chúng ta lại (Gio
11,52), liên kết chúng ta trong một giao ước mới (Mt 26, 27-
28), thì chúng ta lại càng không thể nào thờ ơ trước cảnh
tượng Giáo hội vẫn tiếp tục bị chia rẽ, phân ly.
Khát vọng hiệp nhất không gì khác hơn
là sự đáp trả đối với lời cầu xin tha thiết của Đức Kitô cho
Giáo hội được hiệp nhất (Gio 17,11). Nếu các cộng đoàn Kitô
hữu còn muốn làm một điểm quy chiếu cho thế giới thì không
thể nào không tìm kiếm và sống mối ưu tư về hiệp nhất này ở
trong nội bộ và đối với các Giáo hội anh em. Mọi sự chia rẽ
chắc chắn không phải là dấu hiệu của Thánh Thần, mà là của
ma qủy.
KẾT LUẬN
Nếu truyền giáo là đem Chúa đến cho
người khác, thì hiệp thông chính là điều kiện để chúng ta có
Chúa. Trong Tin mừng Chúa đã phán : “Vì ở đâu có hai ba
người họp nhau lại nhân danh Thày, thì có Thày ở đấy, giữa
họ.” (Mt 18,20).
Thánh Gioan cũng xác quyết : “Nếu chúng
ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và
tình yêu của Ngài nơi chúng ta mới nên hoàn hảo.” (1Gio
4,16).
Một khi đã thực sự có Chúa rồi, chúng
ta mới có thể đem Chúa đến cho người khác, bởi vì chúng ta
chỉ có thể cho cái mình có. Và như vậy, việc truyền giáo
không thể tách biệt khỏi tinh thần hiệp thông. Hơn thế nữa,
chính sự hiệp thông sẽ bảo đảm cho những kết quả của việc
truyền giáo.
Cộng đoàn Giêrusalem thuở ban đầu là
một chứng tá hùng hồn nhất. Sách Công vụ Tông đồ đã ghi nhận
như sau : Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự
làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho
mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày
chuyên cần đến Đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ
dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và
được toàn dân thương mến.” (CVTĐ 2,41-47).
Và sách Tông Đồ Công Vụ đã kết luận :
“Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu
độ.” (CVTĐ 3,47).
Sự thật trên đã chứng tỏ điều Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II đã viết trong tông huấn “Giáo hội tại Á
Châu” như sau :
“Hiểu như thế thì hiệp thông và chuyên
giáo là hai việc không thể tách rời nhau. Chúng thẩm thấy và
bao hàm nhau, đến nỗi có thể nói : hiệp thông vừa là gốc vừa
là trái của việc truyền giáo; hiệp thông đưa tới truyền giáo
và truyền giáo được hoàn thành trong sự hiệp thông.”
(Ecclesia in Asia số 24).
GSVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
Vài
kỷ niệm sống động về hồng y Thuận |
Tổng giám mục Ph.X. Nguyễn Văn Thuận muốn dùng
lời của Đức thánh cha Gioan Phaolô II như lời gởi
gắm riêng cho người trẻ Việt Nam
"Thành công lớn nhất của một
cuộc đời là nên thánh".
Trong bài này, tôi mong ghi lại một vài ký ức về
linh mục Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận, luôn linh động
trong cuộc sống hàng ngày của tôi, thực sự chi phối
những bước đi của đời tôi.
Tôi vào Tiểu chủng viện Phú Xuân khóa 1959, còn linh
mục Thuận đổi đến đây thay cho linh mục Nghĩa vào
đầu niên khóa 1960-61, và tôi là một trong những
chủng sinh chọn ngài làm cha linh hướng.
Ngài xuất hiện ra trước mắt tôi lúc đó nhưng một
hình ảnh gầy, cao, thẳng, đi nhanh, luôn luôn ăn mặc
chỉnh tề, sạch sẽ và hay cười.
Ngay khi đi nghỉ hè thoải mái chung với chúng tôi,
ngài vẫn nghiêm túc trong cách ăn mặc, thường nhắc
lại "mình ăn mặc chỉnh tề là biểu lộ đức bác ái
của Chúa, là tỏ lòng kính trọng người khác, hãy
nghĩ rằng nếu người ta chớp bóng quay phim lại cách
ăn mặc của mình, nếu mình không xấu hổ gì là tốt".
Trước đây, sau khi có việc 'hô điểm" cuối mỗi kỳ họp
các cha, và sau khi vào gặp cha bề trên để nghe "tin
dữ", chú nào bị "đuổi" ra khỏi chủng viện thì thấy
đời mình như "cùi hủi" rồi, một sự thất bại ê chề
trong cuộc đời, cha mẹ sẽ buồn, bạn bè e ngại đứng
xa xa mà nhìn, làm như phút chốc mình trở thành kẻ
"tội lỗi".
Từ ngày cha Thuận làm bề trên, cựu chủng sinh như
được cha thương riêng, có lúc làm cho kẻ ở lại phải
nêu thành câu hỏi, ngài hay nói câu tiếng Pháp vào
dịp này, đi tu "c'est une chance" mà ra đời "c'est une
autre chance".
Bề trên Nguyễn Văn Thuận đã đồng hành với giáo huấn
Vaticanô II để đưa kitô giáo vào trong cuộc sống con
người, theo lối giáo dục mới, mời gọi những linh
mục tương lai nên thực thi mục vụ trong tinh thần dấn
thân phục vụ làm đầy tớ, ưu tiên cho những người
nghèo.
Năm 1966, một năm trước khi nhận chức giám mục, có
lần ngài nói với lớp chúng tôi "Cha có dự án xây
rộng thêm bên ngoài nhà khách các chú để mở một
xưởng nghề, các chú mình tương lai phải học một
nghề nghiệp để sinh sống, vì xã hội đang biến đổi,
giáo hội cần linh mục có lối sống khác hơn phong
cách sống xưa nay".
Quan trọng hơn cả, đức cha là con người cầu nguyện,
nếu tôi nói với bạn là trong suốt sáu năm tôi được
ở dưới sự hướng dẫn của ngài, nhưng chưa một lần
tôi thấy có một cử chỉ nhỏ nào sơ suất khi ngài
dâng thánh lễ hay trong lúc đọc kinh, nguyện gẫm...
chắc bạn thấy thường thôi, nhưng qua kinh nghiệm riêng
của tôi về cuộc sống tôn giáo, đây là dấu chỉ đích
thực của một cuộc sống nội tâm sâu dày và kiên trì
hiếm có.
Tất cả thư từ ngài gửi cho tôi khi tôi còn tu hay đã
xuất tu, ngài luôn nói câu cuối cùng nhắn nhủ "Chúng
ta phó thác mọi sự cho Mẹ Maria của chúng ta", ngài
tha thiết sùng kính Mẹ, và đặt ngay tượng Mẹ ở
giữa trung tâm các tòa nhà chủng viện.
Có lúc tôi hỏi về ý nghĩa kiến trúc chủng viện
Hoan Thiện và đặc biệt về nhà nguyện tròn và có
hồ nước chung quanh, ngài giải thích rằng nhà thờ
là nơi gặp gỡ Chúa, và gặp gỡ người anh em, nhưng
không phải gặp gỡ ào ào theo kiểu thế gian, những
lối xây cất chùa chiền trong văn hóa của dân tộc
mình nhắc mình nhớ là phải "bước qua bên kia bờ" để
có thể cầu nguyện.
Hè năm 1967, tôi dự định xuất tu, ngài kêu riêng và
nhắn nhủ "tu cũng tốt mà về cũng là một ơn gọi
riêng, nhưng con nhớ điều này trong đời mình: điều tệ
hại trong cuộc đời không phải phạm tội, nhưng là mất
đi ý thức tội lỗi".
Năm 1975, tôi bị "cải tạo", vợ tôi ở nhà một mình
với cháu nhỏ mới sinh được mấy tháng, ngày đang gặp
khó khăn trăm bề khi mới nhậm chức phó tổng giám
mục ở Sài Gòn, nhưng đã nhớ đến tôi như đã nhớ đến
trăm ngàn đứa học trò khác của ngài, và nhờ người
đem đến cho vợ con tôi 30.000 đồng để mua gạo.
Năm 1998 khi ghé Quốc hội Âu châu dự lễ gắn huy chương
cho bà Chiara Lubich, khi ra sân bay Entzheim, ngài chỉ
chiếc nhẫn giám mục thật lớn có vẻ quí giá mang ở
ngón tay, và hỏi Sr Nguyễn Thị Hường, cha Lê Phú
Hải, cô Lâm Phương Mai và vợ chồng chúng tôi "đoán xem
cha mua bao nhiêu".
Không ai trả lời liền, nhưng nghĩ bụng chắc cũng trên
nghìn mỹ kim.
Ngài nói: "mới đây cha có dịp đi Israel, thấy người
ta bán ngoài lề đường, cha mua nó một mỹ kim, rồi
nhờ người khắc trong nhẫn chữ nada, ngó cũng được
và là kỷ niệm quí".
Nada nghĩa là hư không, lời của thánh Têrêsa Avila, hư
vô trở về hư vô với bao chức vụ có tơ vương màu sắc
trần thế.
Nhưng nếu nhớ đến linh mục Ph.X. Nguyễn Văn Thuận để
giúp nhau nên thánh, thì trên Thiên đàng hẳn người anh
Phanxico Xavie ấy cũng đồng ý và mỉm cười với anh
chị em còn lại của chúng ta.
Nguyễn
Đăng Trúc
GS thần học ở
Strassbourg, Pháp |
VỀ MỤC LỤC |
|
CUỘC SỐNG LÀ MỘT QUÀ
TẶNG |
Nguyên Tác
IN STEP
WITH GOD
LM Vincent Travers,
OP
HƯƠNG VĨNH
chuyển ngữ
CUỘC SỐNG LÀ MỘT
QUÀ TẶNG
(Lc 12, 32-48)
***
Phần lớn đoạn Phúc Âm nầy nói về sự
đánh giá đúng mức đối với quà tặng của cuộc sống,
đừng hoang phí hay để trôi mất.
Nhiều năm trước đây, Thornton Wilder
đã sáng tác một vỡ kịch hay, nhan đề là “Our
Town” (“Thành Phố Chúng Ta”). Cảnh trí sau
cùng của vở kịch là một nghĩa địa ở New England. Ngồi trên
những chiếc ghế đong đưa là những người dân thị thành đã
chết, trẻ có, già có. Họ có thể thấy và nghe người sống,
nhưng người sống không thể thấy và nghe họ được.
Một em bé gái tên là Emily nhập
bọn với họ. Em vừa mới chết và phải xa cách gia đình một
cách đau đớn. Em chào hỏi những người bạn mới và cho biết
ước nguyện đầu tiên của em là được trở về nơi chốn người
sống, nhưng họ đã mạnh mẽ khuyến khích em không nên trở về.
Họ bảo: “Những người sống không quí trọng cuộc sống. Tất
cả những tặng phẩm của Chúa trên trần gian đều bị đánh giá
thấp: những buổi hoàng hôn, sinh hoạt nghệ thuật, tự do hát
xướng, sức khỏe và tình bạn.”
Tuy nhiên, mặc cho những lời cảnh cáo,
Emily vẫn rời xa họ. Em được Chúa cho sống lại một ngày
trong đời em. Ngày mà em chọn lựa là sinh nhật thứ mười hai
của mình. Trong thời gian mười mấy tiếng đồng hồ trong ngày
đó, em nhận thấy không ai xem ra để ý tới em hết. Họ rất bận
rộn để chuẩn bị cho ngày sinh nhật của em. Em đã khóc lên: “Tôi
không thể tiếp tục được nữa. Thời gian trôi qua rất nhanh.
Chúng ta không có thời giờ để nhìn mặt nhau nữa.”
Rồi em nói tiếp: “Quả địa cầu ơi,
ngươi quá đẹp đối với ai biết thưởng thức.” Và rồi với
đôi mắt đẫm lệ, em đặt câu hỏi: “Có bao giờ loài người
nhận ra cuộc sống như thế nào khi họ đang sống trong đó
không?” Một tiếng nói đáp lại: “Không có. Có thể các
Thánh hay các thi sĩ mà thôi.”
Sau đó em trở về với những bạn bè đã
chết, dao động bởi nhận thức mới là những kẻ ra đi, mới là
những người biết nhận chân giá trị đích thực của cuộc sống.
Vở kịch muốn nói lên điều nầy: phần đông người ta “không
sống” mà “chỉ hiện hữu” thôi. Cuộc sống đã đi qua
bên cạnh họ như một con thuyền trôi lờ lững trong đêm tối.
Cuộc sống là để
sống
Henry David Thoreau đã
viết lên giòng chữ tuyệt vời nầy: “Chúa ôi, khi đạt
tới đích điểm sự chết, chính lúc đó người ta mới nhận ra
mình chưa sống bao giờ.” Thật buồn biết bao và đúng
là một cuộc sống đã bị hoang phí!
Phúc Âm còn mạnh mẽ dứt khoát hơn. Chúa
phán: “Hãy thắc lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn”.
Hãy ăn mặc chỉnh tề vì cuộc sống. Cuộc sống là để sống. Ngài
muốn chúng ta vui hưởng tất cả những gì Ngài đã trao ban cho
chúng ta.
Triết gia Aristote có lần
đã mô tả “học giả là người có thể tiêu khiển với
một tư tưởng, với một người bạn và với chính mình.”
Nhiều người đã đánh mất khả năng thích thú, khoái trá. Giống
như những người trong vở kịch “Thành Phố Chúng Ta”,
họ không biết làm thế nào để vui hưởng những chuyện tầm
thường trong cuộc sống.
Họ giống những người rất bận rộn, để ra
nhiều tháng lập nên kế hoạch nghỉ hè. Họ vừa đến nơi và ở đó
chẳng bao lâu, lại lo lắng giữ chỗ máy bay để trở về nhà. Họ
đi đó đây, chụp thật nhiều hình. Về sau, họ phô bày những
hình ảnh về những nơi mà họ chưa bao giờ thấy, nhưng chỉ
chụp được mà thôi.
Tôi nhớ lại đã trò chuyện với một chị
đang hấp hối, ở lứa tuổi đôi mươi. Chị nói một điều tôi
không bao giờ có thể quên được: “Con thà chết trẻ mà biết
sống, còn hơn sống già mà không bao giờ biết quý trọng cuộc
sống.” Đó là sự thách đố đối với đoạn Phúc Âm hôm nay.
Quà tặng phải được
chia sẻ
Cuộc sống là một quà tặng vay mượn.
Chúng ta không trao tặng cuộc sống cho chính chúng ta. Nếu
được, có thể chúng ta muốn sống mãi và trẻ mãi không già.
Điều rắc rối là phần đông chúng ta tự xem mình là sở hữu chủ
cuộc sống chúng ta, thay vì xem đó là quà tặng được Thiên
Chúa trao phó cho chúng ta.
Chúng ta thường nói: “Đây là cuộc
sống của tôi. Tôi có thể sử dụng tùy thích. Đây là thân xác
của tôi. Tôi có thể dùng nó để làm bất cứ điều gì mà tôi
chọn lựa. Đây là sức khỏe của tôi. Tôi có thể tiêm vào mình
bất cứ chất gì tôi thích.” Chúng ta thường nói là
nhà cửa của tôi, phòng ốc của tôi, xe cộ của tôi, nhà thờ
của tôi, giáo xứ của tôi, thành phố của tôi…tất cả là “của
tôi, của tôi và của tôi”.
Chúng ta nói như thể chúng ta là sở hữu
chủ những thứ đó. Nhưng chúng ta không phải là sở hữu chủ,
như cuộc sống đã nhắc nhở chúng ta. Những thứ đó chỉ được
cho chúng ta mượn tạm trong chốc lát. Đó là một quà
tặng phải được sử dụng một cách có trách nhiệm và đầy tinh
thần sáng tạo.
Vậy đích thực Chúa Giêsu muốn dạy chúng
ta điều gì? Ngài muốn truyền đạt điều nầy: Bạn phải
thương yêu mọi người! Mọi người là anh em chị em của bạn.
Mọi người là con cái của Chúa. Tôi không phải quan tâm
họ như thế nào, tình trạng pháp lý của họ ra sao, cũng như
trình độ trí thức, màu da, tôn giáo hay chủng tộc của họ.
Bạn hãy nhìn thế giới nầy như một quà
tặng để được san sẻ và không phài là một giải thưởng phải
chiếm đoạt. Mọi điều bạn có là quà tặng và người ta trông
mong bạn chia sẻ tài năng, tiền bạc cùng thời giờ của bạn.
Chúng ta là những tạo vật. Tất cả những gì chúng ta có là
quà tặng của Cha trên trời. Chúng ta không sở hữu chúng.
Chúng ta chỉ chia sẻ chúng.
Nữ Thánh Catherine Sienna là một
trong số ít nữ tiến sĩ Giáo Hội, có lần đã nói về cuộc sống
như sau: “Đó là thiên đàng thì tất cả mọi đường đều đưa
tới thiên đàng; hoặc đó là hỏa ngục thì tất cả mọi đường đều
đưa tới hỏa ngục.” Sự lựa chọn tùy thuộc chúng ta.
Ngay Đấng Trao Ban Mọi Tặng Phẩm Tốt
Đẹp không nghĩ tưởng là không chia sẻ cho chúng ta. Nhưng
đối lại, Ngài đòi hỏi điều gì? Thật đơn giản, Ngài chỉ muốn
chúng ta là những ủy viên quản trị tốt đẹp cho cuộc sống,
chứ không phải là những sở hữu chủ của cuộc sống.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TRÁNH PHÊ BÌNH – CHÚ TRỌNG ƯU ĐIỂM HƠN LÀ KHUYẾT ĐIỂM
Bài 04 |
Thùy Vân 6 tuổi rưỡi, có
người anh 8 tuổi tên là Vinh, một đứa con trai xinh đẹp,
tươi tắn, và hạnh phúc. Cô bé Thùy Vân hay khóc nên bố mẹ và
anh trai đặt cho bé cái tên là “bé nhè”. Anh nó hay chọc nó,
làm nó khóc mãi, và tỏ ra thiếu sự trọng kính. Một ngày kia,
gia đình đi hồ bơi. Cả hai đứa nhảy ra khỏi xe và chạy đua
về phía trước. Không may, cô bé té xuống và trầy chút da ở
đầu gối. Cô bé khóc nhè, không ai dỗ được. Cu Vinh nói: “Nó
luôn luôn khóc”, nó vừa nói vừa bước đi. Ông bố an ủi: “Thùy
Vân, không đến nỗi đau lắm con ơi. Thôi đừng khóc nữa. Chúng
ta đi về hồ tắm”. Cô bé vẫn khóc trong khi ôm chân và bảo:
“Đau lắm, lấy cái gì đắp vào đó cho con”. Ông bố bảo: “ Thôi
đừng khóc nữa. Không đến nỗi phải đắp gì lên đó. Một khi con
đi vào hồ tắm, con sẽ quên hết mọi sự. Bà mẹ thêm vào với sự
bực tức: “Thùy Vân, con bỏ tật hay khóc đi. Lại đây, chúng
ta cùng đi bơi”. Nhưng cô bé vẫn tiếp tục khóc và từ chối di
động. Dì nó bấy giờ cũng vừa đến và được nhiệt tình chào
đón. Cô bé càng khóc to hơn. Dì nó chú ý đến nó, cuối xuống
vỗ về, và hỏi nó lý do tại sao. Cô bé vẫn không chịu nín.
Cuối cùng, ông bố mở miệng: “Dì ơi, dì có thể ngồi đó,
thương hại nó suốt mấy tiếng đồng hồ được không? Đó là điều
nó muốn. Nó là một cô bé khóc nhè. Chúng ta hãy xuống tắm và
để nó ở đó tùy thích”. Gia đình nhảy xuống hồ và bỏ cô bé ở
đó. Một lúc sau, cô bé cũng nhập theo gia đình. Lúc đầu xem
có vẻ cưỡng ép, nhưng sau đó thì quên hết mọi chuyện.
Đứa bé hay khóc thường
muốn lấy cảm tình. Tim chúng ta thường xúc động bỡi sự đau
khổ của một đứa bé. Cô bé khám phá ra điều đó từ buổi ban
đầu. Vấn đề ở đây là: cô bé đã làm thái quá nên cả gia đình
sinh ra bực bội. Tuy nhiên, khóc vẫn có cái lợi của nó. Mọi
người thấy rằng la rầy hay khuyên nhủ tất cả chỉ đều vô ích.
Cô bé cũng chỉ lè nhè khóc suốt. Thật ra, cái nhìn của nó về
chính nó được củng cố mỗi khi có người gọi nó là “bé nhè”.
Cuối cùng, gia đình đã hiểu được nên bỏ nó ở đó và đi bơi.
Thế rồi, mọi sự đã trở lại bình thường.
Nếu bố mẹ muốn giúp cô bé
lớn lên và không khóc nhè nữa, họ phải biết rõ mục đích của
việc khóc: muốn chiếm sự chú ý không cần thiết. Bấy giờ họ
phải ngưng việc nói đến khóc, ngưng việc coi cô bé là đứa
khóc nhè, và hãy quên hẳn điều đó đi. Trong trường hợp nầy,
người bố hoặc bà mẹ có thể đến xem vết thương của đứa bé,
coi thử nặng hay nhẹ, nếu nhẹ thì nói: “Bố (hay me)ï xin
lỗi, con đã vấp té. Chút xíu nữa thì nó sẽ hết đau nhé con!
Đi vào hồ bơi khi con sẵn sàng”. Và tất cả họ đều đi vào. Cô
bé sẽ thấy rằng có khóc cũng không sinh kết quả gì nên tự
mình quyết định thay đổi hành vi. Tiến trình như thế nên
tuân giữ mỗi khi nó khóc. Kỷ thuật nầy phải được kèm theo
với sự chú ý khi thấy đứa trẻ tỏ ra cộng tác và hạnh phúc.
Chúng ta phải cố gắng
phân biệt hành động ra khỏi người làm hành động ấy. Điều nầy
rất quan trọng vì chúng ta đã có những danh từ phức tạp
chẳng hạn như đứa bé hay khóc, hay nói dối, hoặc hỗn láo.
Trẻ con cần được nhận thức như là những đứa trẻ tốt nhưng có
những hành vi sai lầm vì đời chúng không có hạnh phúc. Khi
chúng ta gắn nhãn hiệu cho một đứa trẻ, chẳng hạn như “bé
nhè”, chúng ta thấy nó như cái tên chúng ta đã gắn, nên nó
dễ trở thành như thế. Nó nhận ra nó như danh hiệu đó. Điều
đó càng củng cố quan niệm sai lầm của nó và ngăn cản nó
hướng về chiều hướng khác. Khi chúng ta nhận thức rằng không
phải là đứa trẻ xấu nhưng chỉ điều nó làm là xấu, bấy giờ
đứa trẻ sẽ cảm thấy được điều đó và nó sẽ đáp lại sự phân
biệt nầy. Nó ý thức và cảm được niềm tin của chúng ta vào
nó, điều đó cho nó một sự khuyến khích đối với việc khuất
phục những khó khăn của nó và giúp nó trở thành một đứa con
ngoan như chúng ta mong ước.
lm.lêvănquảng, tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÂM THƯ GỬI CÁC LINH MỤC |
Nguyên tác: ”Lettres d’amour aux
prêtres” – “Thư tình
gửi các Linh mục”
của Catherine DE HUECK DOHERTY
Người chuyển ngữ, Đình Chẩn.
Kính tặng cha,
Và những tâm hồn đã, đang hoặc sẽ yêu mến Thiên chức Linh
mục.
Một buổi chiều ngày 9 tháng 7 năm 2005, đang khi lang thang
trên con phố Trường Chinh - Sài Gòn để tìm cửa hàng
internet, con chợt nhìn thấy có một cửa hàng sách cũ bên
đường và liền ghé vào xem với ý nghĩ biết đâu lại tìm được
viên ngọc ẩn giấu trong đống sách cũ kia. Giữa những cuốn
sách còn khá mới với bìa màu hấp dẫn, con lại phát hiện ra
một cuốn nhỏ màu hồng nhạt đã phai màu với hàng chữ gây tò
mò:” Lettres d’amour aux prêtres” –“ Thư tình gửi các Linh
mục” của Catherine DE HUECK DOHERTY- một cây viết con chưa
từng nghe đến.
Catherine chỉ là một tín hữu bình thường như bao người khác
nhưng đã đốt lên trong tâm hồn mình ngọn lửa yêu mến Thiên
chức Linh mục. Và suy cho cùng thì tình yêu thương không
thể thiếu được trong đời sống một con người mang danh là
Kitô hữu theo đúng nghĩa, nhất là tình yêu đối với Linh
mục- người cha linh hồn của mình. Như vậy, các Linh mục
và những người đang hướng đến Thiên chức này lại càng không
cần phải thắp lên trong tâm hồn mình ngọn lửa yêu mến Thiên
chức ấy sao?
Càng đọc con càng thấy bị lôi cuốn bởi những lời tâm huyết
cháy bỏng yêu thương Thiên chức Linh mục phát ra từ con tim
nhỏ bé đến nỗi trong lòng con cũng nổi lên ước muốn nói hộ
Catherine những lời này một lần nữa bằng chính những lời lẽ
lủng củng của mình ( con nghe nói cuốn sách này đã được
dịch ra tiếng Việt ). Nhưng xin cha hiểu rằng đó cũng là
những lời con cũng dứt ra từ con tim. Con chẳng phải là
chuyên gia biên phiên dịch, thậm chí mới bập bẹ chút ngoại
ngữ, cũng chẳng phải là người am hiểu các lĩnh vực Thần học,
Triết học hay Giáo lý, mà chỉ là một Kitô hữu bình thường.
Ước mong cha hiểu rằng đó là những lời lẽ chân thành! Chắc
chắn không tránh khỏi những thiếu sót khi chuyển ngữ những
trang thư này, con thầm mong nhận được những lời góp ý chỉ
dạy, nhất là được biết thêm nhiều tâm hồn rực lửa yêu mến
như Catherine.
Người chuyển ngữ, Đình Chẩn.
********
LỜI TỰA
(Cha Thierry de
ROUCY)
Trong Giáo hội luôn có những vấn đề nảy sinh
theo thời đại. Trong những năm gần đây, người ta đề cập
nhiều đến vấn đề tục hoá. Từ những năm 1979, khi cuốn sách
này được xuất bản lần đầu, điều làm xôn xao dư luận, đó là
« Căn tính của các Linh mục ». Nhưng khi càng chất
vấn về bản chất và sứ vụ của Linh mục, người ta càng gây
tổn thương cho Thiên chức ấy.
Ít nhất, cần hy vọng rằng vết trọng thương
đó đáng cho người ta phải suy nghĩ.
Vấn đề mà bấy lâu tưởng chừng như không còn
mấy nhạy cảm này, đã được xem xét lại và đã trở nên nóng
bỏng, trong Hội nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1990.
« Linh mục là ai ? » Cách chung câu
hỏi này vẫn chưa thoát ra khỏi quỹ đạo những người mang
Thiên chức ấy. Chính các linh mục tự xác định cho mình những
quan điểm và phác họa nên những nét về bản chất của mình.
Tác giả cuốn sách này chỉ là một tín hữu bình thường, như
bà đã tự bạch đôi lần. Bà đã chân thành bày tỏ những suy tư
trăn trở của mình về Thiên Chức Linh mục, cũng như những
điều mà bà chờ mong ở các Ngài. Và Các Linh mục không thể bỏ
ngoài tai những lời tâm huyết ấy. Thực vậy,nếu các ngài luôn
tự xác định cho mình là người phục vụ dân Chúa, há ngài lại
không cần phải chăm chú lắng nghe những lời kêu cầu của dân
chúng sao ? Nếu không, các ngài lại không có nguy cơ rơi vào
sự xê dịch ư ? Và chao ôi, vô tình chúng ta có cái nhìn thái
quá so với niềm mong đợi ở các ngài ?
Tác phẩm của Catherine Hueck Doherty không
phải của những người mà để hiểu được, ta phải tra cứu từ
điển bác học hay phải có vốn hiểu biết Thần học hay linh
đạo sâu rộng. Đó cũng không phải là công trình của một nhà
văn dùng nghệ thuật ngôn từ để che đậy đi cái nghèo nàn của
nội dung.
Trong «Tâm thư gửi các Linh mục”, tác
giả đã không đi tìm cho mình một phong cách, cũng chẳng hề
phô trương tầm hiểu biết. Tất cả chỉ là những lời mộc mạc
chân thành. Đó thực sự không phải là cuốn sách, mà là những
tiếng kêu- Những tiếng kêu từ sâu thẳm con tim của một phụ
nữ được nung nấu bởi Tình yêu Thiên Chức Linh mục, khiến bà
chỉ có thể thốt lên : « Cha kính yêu, con yêu mến cha vô
bờ bến ! » Và đó là những tiếng kêu thống thiết: «Cha
ơi, hãy trao Chúa cho chúng con ! ».
Catherine là một phụ nữ đầy nhiệt huyết. Đó
là người luôn rực cháy ước muốn Thiên Chúa. Chúng ta sẽ thấy
điều đó ngay thôi. Bà không lên án, không chỉ trích phê phán
mà đầy lòng trắc ẩn trao ban. Ngọn lửa yêu mến của người phụ
nữ ấy đã vén mở ra mầu nhiệm lạ lùng của Thiên Chức Linh
mục.
Như rất nhiều tín hữu khác, tiếng kêu và lời
mời gọi của Catherine còn bao la hơn cả những tiếng kêu mà
nhiều người có thể mới chỉ chợt nghĩ đến. Cuối cùng,
Catherine- người sáng lập hội Madonna đã đưa ra một định
nghĩa về linh mục : Linh mục là Người trao ban
Chúa, Người trao ban Thánh Thể, Người trao ban niềm vui.
Một Linh mục biết hát hay, coi sóc giáo xứ thành công , hay
sử dụng các phương tiện nghe nhìn như một chuyên gia ư ? Tất
cả những cái biết ấy, đối với Catherine, chỉ xếp hàng thứ
yếu. Bởi trước tiên, giáo dân không mong đợi Linh mục là một
kỹ thuật viên, nhưng là : một người phục vụ, một người
cầu nguyện, một người yêu mến Chúa, yêu mến tha nhân, một
cuốn sách Tin Mừng sống động. Thật vậy, điều đó còn
vượt trên cả sự đòi hỏi.
Tôi hy vọng, bức thư này luôn là cuốn sách
đầu giường của tất cả các chủng sinh, của tất cả các Linh
mục, các Đức Giám mục. Mỗi tối đến, các ngài đọc một đoạn để
tự nhắc nhở mình được các tín hữu yêu mến vô bờ bến. Khi
bình minh thức dậy, các ngài lại cầm lấy cuốn sách này để
lắng nghe tiếng kêu của những con chiên đang chờ đợi các
ngài : « Xin hãy gần chúng con ! Xin hãy đến thăm
chúng con ! Hãy giúp chúng con sống cuộc đời trần thế một
cách siêu nhiên ! hãy nâng chúng con lên tới Chúa ! Hãy
đồng cam cộng khổ với chúng con !
Sau hết, qua tiếng đáp lại những tiếng
kêu ấy, ta thấy rằng : Loài người cần đến Ngôi Lời nhập thể
cứu chuộc, Người hiện diện qua khuôn mặt Giáo Hội, Người
đến, trong sự giải thoát các Linh mục, Người nhập thể trong
hạnh phúc của con người. Chắc chắn rằng, tiếng kêu của
Catherine không phải là tiếng kêu bồng bột mà là tiếng ngôn
sứ.
Lm. Thierry de Roucy
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
|
CHỌN LỐI GẬP
GHỀNH
“Nếu ai muốn đi sau Ta thì hãy
chối bỏ chính mình,
hãy vác lấy khổ giá của mình mỗi
ngày và hãy theo Ta.”
(Luca 9: 23)
Nếu ai muốn theo ta thì vác!
Khổ giá mình đang chịu ngày đêm
Nhọc nhằn, nhưng hãy vác lên
Kiên trì phó thác đi trên đường
dài!
Trước hết chối bỏ mình như Chúa!
Ngài hủy mình đến độ thành không
Ngài là tôi tớ Cộng đồng
Ngài quì, nghiêm túc rửa chân môn
đồ!
Cuộc đời nhiều xa hoa, cám dỗ!
Hủy chính mình đâu dễ xưa nay?
Khiêm nhu, cẩn trọng, mê say
theo con đường Chúa đêm ngày chớ
quên!
Xưa Thánh giá Chúa lên núi Sọ!
Vì loài người Chúa chịu chết thay
Thì nay ta bắt chước Thày
Vác lên, đi mãi đến ngày quang
vinh!
Lời Ngài: Phải hủy chính mình!
Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC
|
VỀ MỤC LỤC |
|
DỰ ĐOÁN
TƯƠNG LAI CỦA ƠN GỌI LINH MỤC |
Tác phẩm Giáo Hội Cần Loại Linh Mục
Nào? (tiếp theo)
Lm Giuse Lê Công Đức chuyển ngữ từ
bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD IMPERILED, Tác giả:
Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.
Câu hỏi về tương lai của ơn gọi linh
mục có thể là một câu hỏi vô cùng nhức nhối nếu sự bàn luận
chỉ hoàn toàn xoáy vào tình trạng khan hiếm linh mục – và
không dành sự lưu tâm đến các dấu chỉ của thời đại và đến ơn
gọi căn bản của mọi Kitôhữu. Một nhãn giới như thế sẽ quá
chật hẹp, thậm chí có thể tai hại cho sứ mạng của Giáo Hội.
Vì thế, tôi nghĩ rằng chúng ta phải dám có một cái nhìn mới
đối với ơn gọi Kitôhữu mà mọi người chúng ta đều đang đảm
nhận, nhất là nhìn trong ánh sáng của phép rửa mà Đức Giêsu
nhận lãnh bởi tay Gioan ở sông Giođan.
một nhãn quan hoàn
toàn mới
Ơn gọi của Đức Kitô – mà chúng ta được
mời gọi tham dự vào – tiên vàn là ơn gọi của Người Tôi Tớ
phi bạo lực của Giavê nhằm đem lại ơn cứu độ và hòa bình cho
thế giới. Đời sống công khai của Đức Giêsu – qui hướng đến
việc công bố tin mừng về cuộc khổ nạn, cái chết và sự Phục
Sinh của Ngài – là một đời sống được xây dựng từ mối quan hệ
của Ngài với Chúa Cha: “Con là Con Yêu Dấu của Ta” (Mc
1,11). Đức Giêsu được gọi và được xức dầu để gánh lấy tất cả
gánh nặng của nhân loại trong mối liên đới có năng lực
cứu độ - để giải phóng nhân loại khỏi mối liên đới trong tội
lỗi, một mối liên đới hủy diệt. Người là vị ngôn sứ bước đi
trước chúng ta, giới thiệu cho chúng ta con đường hòa bình,
phi bạo lực và chỉ cho chúng ta thấy sức mạnh của tình yêu
nhằm chuyển hóa những kẻ thù địch thành bạn hữu.
Ngay sau biến cố phép rửa của Đức
Giêsu, Tin Mừng Matthêu đưa ra cho chúng ta một trong những
chìa khóa chính yếu để hiểu nhiệm cục cứu độ. Đó là việc lột
trần những cám dỗ quỉ quyệt nhất của Satan bằng cách cho
thấy rõ những kỳ vọng sai lạc về một Mêsia đầy cường quyền
và bạo lực, và bằng cách phơi trần những sự lạm dụng tôn
giáo nhằm tranh thủ lợi lộc, quyền thế và danh vọng trần
gian. Mặc dù các cám dỗ vây kín Đức Giêsu từ mọi phía, chúng
hoàn toàn không có quyền lực nào trên Ngài. Chính vì ích lợi
của chúng ta mà Đức Giêsu đã – một lần cho tất cả – vạch mặt
tất cả các cám dỗ ấy xuyên qua sự trung thành tuyệt đối với
ơn gọi của Ngài trong tư cách là Người Con và Người Tôi Tớ
đau khổ, phi bạo lực của Thiên Chúa.
Nhận thức nói trên về ơn gọi của Đức
Giêsu thiết yếu có quan hệ với nhận thức của chúng ta về ơn
gọi Kitôhữu của mình. Vì thế, có thể thấy rõ rằng tướng lai
của tất cả các ơn gọi Kitôhữu tùy thuộc vào mức độ trung
thành của chúng ta trong việc đi theo bước chân của Người
Tôi Tớ Giavê trong bối cảnh mới này. Từ thời đại
Constantine, và gần như cho đến tận hôm nay, phần đông người
ta là Kitôhữu do huyết thống, tức ‘cha nào con nấy’. Ngày
nay, kiểu thức mới rõ ràng thúc giục chúng ta trở thành
Kitôhữu do chọn lựa, do ơn gọi. Điều này có nghĩa rằng tương
lai của Giáo Hội sẽ được ấn định không chỉ bởi những “ơn
gọi” của một tầng lớp đặc thù nào đó, mà nhất là bởi tất cả
những ai – với ý thức của chính mình – quyết định chọn lựa
đi theo Đức Giêsu, Người Tôi Tớ phi bạo lực của Thiên Chúa.
Sự khác biệt giữa một bên là những người sống một cách ý
thức và thuyết phục chuẩn mực của phép rửa Đức Giêsu ở sông
Giođan bằng Thánh Thần và bằng máu và bên kia là những người
Công Giáo do di truyền vốn chỉ theo Chúa một cách uể oải và
thụ động – sự khác biệt ấy mới đáng kể hơn nhiều so với sự
khác biệt giữa chức linh mục phổ quát và chức linh mục thừa
tác. Điều thật sự đặc trưng người Kitôhữu là chiều sâu ý
thức của họ về ý nghĩa của việc mình được Đức Kitô kêu gọi
để phục vụ cho Vương Quốc của Người Tôi Tớ Giavê, và sự kiên
vững của họ trong việc đảm nhận ơn gọi căn bản này.
Nhãn quan nói trên là nền tảng chắc
chắn cho mọi ơn gọi Kitôhữu, bao gồm cả đời sống linh mục
theo nghĩa hẹp hơn. Đây không phải là một ý tưởng hoàn toàn
mới mẻ. Bố mẹ tôi là những Kitôhữu do di truyền, song qua
cuộc sống của mình, các ngài đã trở thành Kitôhữu do chọn
lựa – và trong khi các ngài sống tận lực ơn gọi làm vợ
chồng và làm cha mẹ của mình, các ngài cũng dấn thân một
cách đầy sáng tạo vào đời sống của Giáo Hội. Các ngài là
những nông dân trong ánh nhìn của Đấng Sáng Tạo, là bạn hữu
của những người nghèo, và đồng thời các ngài cũng đương đầu
với bao nguy hiểm lớn lao trong sự phản kháng đầy dũng cảm
và kiên quyết đối với chế độ Hitler.
Robert Schuman, bạn đồng sự của Alcide
De Gaspari và Konrad Adenauer, là một trong những nhà hòa
giải hàng đầu của Trung Âu, đã từng trải qua một thời gian
phân vân giữa hai sự chọn lựa: làm linh mục hay trở thành
một chính trị gia chuyên nghiệp! Một linh mục đã góp ý với
anh rằng trong lãnh vực chính trị anh sẽ chu toàn ơn gọi
Kitôhữu của mình tốt hơn là trong chức linh mục thừa tác –
và thế giới cũng như Giáo Hội phải đặc biệt mang ơn vị linh
mục tư vấn ấy. Hồi còn là một giáo sư trẻ, tôi có dịp quen
biết De Gaspari và gia đình anh ta. Với thái độ đơn sơ không
ngờ, anh đã giúp lễ cho tôi trong rất nhiều lần tôi dâng lễ.
Đó là những con người tuyệt diệu! Họ chu toàn ơn gọi Kitôhữu
của mình qua việc làm chứng cho Người Tôi Tớ phi bạo lực của
Giavê.
Tôi không hề có ý làm giảm giá trị của
ơn gọi linh mục – vì những giá trị này vốn quá rõ ràng! Tuy
nhiên tôi dám nói rằng tương lai của Giáo Hội và của các ơn
gọi linh mục tùy thuộc vào một bước chuyển biến triệt để từ
kiểu thức Constantine sang kiểu thức một ơn gọi được tự
nguyện chọn lựa – một ơn gọi mà trong đó người ta xua đuổi
bằng mọi giá bất cứ ý tưởng tham quyền cố vị nào. Một bước
chuyển biến như thế đương nhiên bao hàm trong đó một cái
nhìn mới về ơn gọi linh mục thừa tác. Sẽ có đủ số ơn gọi
linh mục, nếu tiêu điểm chính yếu được nhắm vào ơn gọi theo
một ý nghĩa rộng hơn nhưng có tính chuyên biệt Kitôgiáo hơn,
và dĩ nhiên luôn luôn ở trong nhãn quan về ơn cứu độ của thế
giới.
Thật sung sướng biết bao khi chúng ta
gặp được những bác sĩ y khoa và những chuyên viên trị liệu
thể hiện ơn gọi Kitôhữu một cách thuyết phục trong tư cách
là những thầy thuốc và, đồng thời, làm chứng cho Đức Kitô
Đấng Chữa Trị! Cũng vậy, chúng ta kỳ vọng gặp được các luật
sư là những người làm việc cách tận tụy và khôn ngoan để xây
dựng những luật pháp nhân văn hơn và ứng dụng luật một cách
tốt hơn – và đồng thời là những người, qua nghề nghiệp của
mình, giới thiệu được Đức Kitô Đấng đã đến không phải để xét
xử nhưng là để chữa trị.
Ở đây tôi nghĩ đến một cựu sinh viên
của mình – anh rất mê học thần học nhưng không cảm thấy mình
được gọi sống độc thân. Trong tư cách là một thẩm phán của
tòa án xét xử người vị thành niên, anh đã phát triển được
một khả năng chữa trị đầy sáng tạo. Thay vì gửi những người
trẻ phạm pháp vào tù, anh đã cung ứng cho họ các cơ hội trị
liệu – qua việc phục vụ cộng đồng - để giúp họ đổi đời.
Chẳng hạn, những người trẻ này được yêu cầu đi thăm viếng
các bệnh nhân và các người già lão, đôi khi mang theo hoa để
tặng và tự đề xuất các công việc khác nhau mình có thể làm
để phục vụ. Những người trẻ này được yêu cầu không cho những
người mà họ thăm viếng biết rằng luật pháp đòi họ làm công
việc này như biện pháp sửa chữa sự sai quấy của họ, nhất là
– như trong trường hợp này - chính vị thẩm phán cũng không
đưa qui chế này ra như một hình phạt.
Có thể viết cả một quyển sách về những
nghề nghiệp khác nhau và những phương thức khác nhau mà qua
đó người ta có thể sống triệt để ơn gọi Kitôhữu của mình
nhằm phục vụ cho ơn cứu độ của thế giới – và trong một cách
thế mà trong đó kiểu thức mới “Kitôhữu do chọn lựa” có thể
đi vào cụ thể trong xác thịt. Tôi không hề ái ngại rằng một
nhãn quan như thế có thể làm phương hại cho ơn gọi linh mục
hiểu theo nghĩa chuyên biệt. Trái lại, tôi tin rằng tính
đích thực của ơn gọi linh mục có thể được củng cố rất nhiều
nhờ một nhãn quan như vậy.
Giáo Hội có nên nhìn
nhận tính bí tích nơi các ơn gọi sứ vụ khác nhau không?
Qua việc canh tân giáo thuyết về chức
linh mục phổ quát của các tín hữu và qua việc minh nhiên ủy
trao nhiều hoạt động tông đồ khác nhau của Giáo Hội cho các
giáo dân nam cũng như nữ, Công Đồng Vatican II có một sự
đóng góp đúng đắn và hợp thời vào vấn đề ơn gọi. Trên khắp
thế giới, mặc dù trong những mức độ khác nhau và bằng những
phương thức khác nhau, một tầng lớp “giáo sĩ” mới, vốn không
phải là giáo sĩ, đã xuất hiện.
Tôi đã ghi nhận sự phát triển này, đặc
biệt ở Phi Châu, với niềm vui mừng và tin tưởng dạt dào.
Hàng ngàn giảng viên giáo lý được huấn luyện chu đáo cùng
với các người vợ đầy quảng đại của họ đang thực tế đảm nhận
mọi công việc của giáo xứ: dạy giáo lý, huấn giáo cho người
lớn, hòa giải, xây dựng cộng đoàn, săn sóc bệnh nhân và
người nghèo, cử hành rửa tội và, vào các Chúa Nhật, cử hành
phụng vụ Lời Chúa và chủ tọa việc rước lễ. Đấy là chỉ liệt
kê một số có tính tượng trưng!
Trong ánh sáng của những đóng góp thật
đáng nể ấy, tôi tự hỏi: Có nên đòi hỏi những người này phải
vượt qua những quãng đường dài – đi bộ hoặc bằng xe đạp – để
nhận Bánh Thánh đã được truyền phép? Xem xét tất cả những gì
những người này đã làm từ quan điểm luật, ta thấy họ vẫn
không thông dự vào chức linh mục được thiết định theo bí
tích. Đa số những người này không có ý định lãnh chức phó
tế, vì điều đó có nghĩa rằng họ phải đảm nhận đời sống độc
thân nếu vợ họ qua đời. Hơn nữa, trong văn hóa Phi Châu hiện
nay, làm sao người ta có thể quan niệm được một sự độc thân
như vậy?
Họ không thể cử hành Bí Tích Xức Dầu,
một bí tích có ý nghĩa rất thâm sâu trong văn hóa Phi Châu.
Trong quan điểm cá nhân của mình, tôi không thấy có gì trở
ngại để thay đổi trong vấn đề này. Chẳng phải cuộc đời của
Đức Giêsu và hoạt động của Chúa Thánh Thần vẫn mời gọi Giáo
Hội: “Hãy biết sáng tạo!” đó sao?
Chưa bao giờ trong lịch sử Giáo Hội đã
từng có nhiều người nam nữ giàu khả năng và có căn bản thần
học như ngày nay. Hiện nay, con số người có năng lực trong
Giáo Hội còn đông hơn cả mười tám thế kỷ trước đây gộp lại.
Vậy thì, tại sao chúng ta lại than vãn về tình trạng thiếu
các ơn gọi Kitôhữu trong Giáo Hội?
Cùng với vị đương kim giáo hoàng, chúng
ta vẫn sốt sắng cầu nguyện cho các ơn gọi linh mục độc thân.
Nhiều người đã buông trôi nhiệt tình này do không tìm thấy
câu trả lời cho những suy nghĩ và những vấn nạn hợp lý –
chẳng hạn: Tại sao chúng ta bảo Chúa Thánh Thần rằng các
linh mục chỉ nên được ban cho Giáo Hội xuyên qua ngả đường
độc thân? Phải chăng chúng ta nghĩ rằng Chúa Thánh Thần vui
sướng khi chúng ta, những người trong Giáo Hội, ấn định độ
rộng của lỗ kim để qua đó Chúa Thánh Thần sẽ chuyển
trao cho Giáo Hội những ơn gọi cần kíp nhất? Có còn ngẫu
tượng nào quái gở hơn là áp đặt ý muốn của con người cho
Chúa Thánh Thần hoặc ‘đóng hộp’ Chúa Thánh Thần trong những
phạm trù chật hẹp của tư tưởng chúng ta không? Nếu các Tông
Đồ và những vị kế nhiệm đầu tiên của các ngài hành động như
vậy – nghĩa là áp đặt những loại qui định ấy cho Chúa Thánh
Thần – thì hẳn các ngài đã phải bỏ vợ và, nhất là, hẳn các
ngài đã phải bỏ mặc gần như tất cả các cộng đoàn Kitôhữu
chơ vơ không có Thánh Thể.
Tôi muốn nhắc lại ở đây: Độc thân, xét
như là một đặc sủng được ban phát nhưng không của Chúa Thánh
Thần, là một ân huệ cao quí, nhưng các giới thẩm quyền Giáo
Hội phải chọn lựa với đầy đủ cân nhắc và sáng suốt giữa một
bên là sự trung thành trọn vẹn với di chúc và lệnh truyền
của Đức Giêsu – “Tất cả các con hãy lãnh nhận mà ăn, ... hãy
cầm lấy mà uống” – và bên kia là một truyền thống chỉ của
con người. Chúng ta không được quên rằng những người lãnh
đạo trong Giáo Hội có thể trở thành mồi ngon không chỉ cho
dị giáo mà còn có nguy cơ “đánh mất tính chính thống trong
thực hành” (heteropraxy). Trong thời gian của Tòa Truy Tà,
Giáo Hội đã từng tra tấn tàn bạo và thiêu sống những phụ nữ
vô tội mà Giáo Hội cho là phù thủy. Lên án những thực hành
kinh khủng ấy của quá khứ mà không tra vấn kỹ lưỡng những gì
mình đang làm trong hiện tại, thì đó chỉ là một sự lấp liếm
và đánh lận con đen mà thôi.
Độc thân, một đặc sủng cao quí và một
chứng tá cho Nước Thiên Chúa, không thể rút giá trị của nó
ra từ số lượng, nhưng đúng hơn là từ việc nó được sống một
cách đích thực. Độc thân cũng không chủ yếu được hiểu trong
chiều kích luật. Trái lại, hơn bất cứ gì khác, độc thân phải
được đặt trong viễn tượng lời tuyên bố của Thánh Phao-lô:
“Anh em không còn thuộc về Lề Luật nữa, nhưng là thuộc
về ân sủng” (Rm 6,14).
ơn gọi tối thượng
của Kitôhữu: nêu chứng tá phi bạo lực
Các ý tưởng của tôi ở đây đã được ghi
ra vào ngày hôm sau cuộc tiếp xúc của tôi với một phụ nữ can
đảm tại một cuộc đại hội các thành viên của Phong Trào Pax
Christi (Hòa Bình Đức Kitô). Chúng tôi đã nói chuyện về ơn
gọi cao quí của những người sống chứng tá phi bạo lực vì
niềm tin của mình vào Đức Giêsu Người Tôi Tớ Giavê. Câu
chuyện riêng của người phụ nữ này đã làm tôi vô cùng cảm
kích. Tôi đã từng đề cập đến câu chuyện này trong một chương
trước, nhưng thiển nghĩ cũng rất nên nhắc lại ở đây. Chồng
chị, một anh bõ nhà thờ, quyết định rằng mình thà chết trong
tay chế độ Hitler chứ không tham gia vào cuộc giết hại những
người khác trong một cuộc chiến tranh rõ ràng phi nghĩa. Cha
sở và giám mục không ủng hộ anh. Trái lại, các vị ấy cố can
gián anh với lập luận rằng, để tuân giữ luật, anh phải sẵn
sàng gia nhập quân đội. Tuy nhiên, vợ anh hoàn toàn ủng hộ
anh, vì chị cùng chia sẻ cách suy nghĩ của anh. Những lá thư
mà anh viết cho vợ trong những ngày cuối cùng của đời mình
thật vô cùng cảm động và hết sức thách đố đối với tất cả
chúng ta là những người tuyên bố rằng mình tin vào tình yêu
phi bạo lực của Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa. Trong
một lá thư, anh viết:
Em yêu quí,
Không có cách nào chia sớt cho em
những khổ đau của anh. Làm sao Đấng Cứu Chuộc chúng ta cảm
nhận được nỗi lòng tan nát của Mẹ Người trong cuộc thương
khó của Người! Chúa Giêsu và Mẹ Maria đau khổ vì yêu chúng
ta. Anh cám ơn Chúa vì Người cho phép anh chịu đau khổ và
chịu chết vì yêu Người.
Mahatma Gandhi, khuôn mặt sáng ngời của
tinh thần phi bạo lực, đã lập ra những ashrams, những mái
nhà để người ta cùng học hỏi và chia sẻ tinh thần phi bạo
lực, nhất là theo tinh thần của Các Mối Phúc. Vì thế, há
chúng ta không được phép kỳ vọng rằng những con người như
Gandhi và Martin Luther King, Jr. đã nhìn cái chết của họ
như một dấu ấn cho ơn gọi và sứ mạng của họ sao?
Lần đầu tiên trong lịch sử, chúng ta có
khả năng hủy diệt hành tinh của chúng ta, hoặc ngay lập tức
bằng một cuộc chiến tranh nguyên tử hoặc một cách từ từ bằng
sự bào mòn mọi hình thức sự sống xuyên qua những tội cá nhân
và tập thể liên tục của chúng ta – qua thái độ vô trách
nhiệm đối với môi trường sinh thái. Thế giới đang khẩn thiết
cần có những con người như vợ chồng anh bõ nhà thờ nói trên,
như Mahatma Gandhi, Martin Luther King, Jr. và Dorothy Day –
tất cả họ đã nghiêm túc đảm nhận ơn gọi của mình. Nếu những
cuộc cử hành Thánh Thể của chúng ta không làm tuôn trào năng
lực và nhiệt tâm nêu chứng tá triệt để cho công lý, hòa bình
và tinh thần phi bạo lực, thì chúng ta phải xót xa kết luận
rằng quá nhiều ơn gọi Kitôhữu linh mục và giáo dân của chúng
ta chẳng đích thực tí nào.
Tôi cho đây mới 1à mối quan tâm khẩn
thiết hơn nhiều so với mối quan tâm về con số linh mục độc
thân. Sự quan tâm lo lắng của chúng ta càng gò bó chật hẹp
bao nhiêu thì chúng ta càng ít chú ý đến những vấn đề thiết
yếu và bao quát bấy nhiêu.
phụ nữ và chức linh
mục
Những biến cố và những tiến trình lịch
sử đang diễn ra dồn dập hiện nay được ghi nhận đặc biệt rõ
ràng trong liên quan với khuôn mặt mới mẻ và những vai trò
xã hội của người phụ nữ. Giáo Hội sẽ thích nghi với những
thay đổi này hay là sẽ tà tà chậm rãi lê gót theo sau? Trong
thời đại này, cuộc phát triển của phụ nữ là một trắc nghiệm
đúng lúc và có tầm quyết định đối với nhiệt tâm làm muối đất
của Giáo Hội trong lịch sử nhân loại và đây cũng là một
chiều kích quan trọng trong sứ vụ của Giáo Hội.
Một cái nhìn có tính đàn ông trị và
nhân tạo của Giáo Hội đã gây ra nhiều vấn đề khó khăn. Chỉ
cách đây vài thế kỷ, như thể một phép lạ việc Thánh Vincent
de Paul cho phép các nữ tu rời khỏi nội cấm để phục vụ các
bệnh nhân và các người nghèo mà không bị sự cản trở và can
thiệp thô bạo của bản quyền Giáo Hội.
Tại thời điểm cuối thiên niên kỷ thứ
hai này, đâu là tình trạng của phụ nữ trong Giáo Hội? Kinh
nghiệm của phụ nữ bước đi trước rất xa so với nhãn quan có
tính cơ chế hiện nay về Giáo Hội. Đã có hàng trăm, nếu không
phải hàng ngàn, nữ thần học gia đầy năng lực – con số này
đông đảo hơn cả tất cả các thế kỷ trước đây gộp lại. Tuy
nhiên, Vatican vẫn gây nhiều khó khăn cho phụ nữ trong việc
đảm nhận các ghế ở những đại học do Giáo Hội Công Giáo đỡ
đầu, nhất là nếu họ ủng hộ phong trào nữ quyền và đặt ra
những chất vấn và những vấn đề thần học, chưa nói là chất
vấn các giáo thuyết của Giáo Hội. Bất chấp tình trạng này,
nhiều phụ nữ đã tạo được rất nhiều ảnh hưởng trong việc xâm
nhập vào các đại học không bị kiểm soát bởi Rôma – và hơn
thế nữa, vào các ngành thần học đại kết.
Nhiều nơi trên thế giới, phụ nữ đang
được ủy thác nhiều vai trò mục vụ rất quan trọng và, trong
thực tiễn, họ đã chia sẻ nhiều vai trò lãnh đạo trong Giáo
Hội. Người ta thấy nhiều phụ nữ giảng tĩnh tâm và chủ tọa
các khóa hội thảo ngay cả cho các linh mục – và năng lực của
họ được mọi người trân trọng.
Ở bình diện giáo xứ, nhiều phụ nữ là
các trợ lý mục vụ – họ đảm nhận những trách nhiệm khác nhau,
trong đó gồm cả việc thăm viếng, an ủi và đem Mình Thánh
Chúa cho bệnh nhân. Hơn nữa, họ giúp thăng tiến giáo dân qua
việc huấn luyện và đào tạo các nhóm mục vụ giáo dân để thi
hành sứ vụ đối với các bệnh nhân, một sứ vụ không dừng lại ở
chỉ việc thăm viếng tại các bệnh viện. Họ tổ chức và huấn
luyện các nhóm giáo dân hoạt động cho công bằng xã hội nhằm
mục đích thúc đẩy giáo xứ mở rộng tầm nhìn và dấn thân vào
các lãnh vực xã hội đặc biệt có liên hệ tới người nghèo và
những người bị áp bức. Nhiều phụ nữ làm việc trong các nhóm
học hỏi Thánh Kinh tại các giáo xứ hay tại các gia đình nhằm
mục đích đào sâu sự hiểu biết của người giáo dân đối với
Thánh Kinh, nhất là xét như một nguồn phát triển linh đạo,
và nhằm giúp các giáo dân khám phá ra con đường cụ thể để
sống ơn gọi Kitôhữu của mình. Tất cả những điều nói trên
đang diễn ra trong các giáo xứ nơi mà người ta đề cao tính
cộng tác trong vai trò lãnh đạo mục vụ – nghĩa là nơi mà các
mục tử không có cái tôi lớn quá và biết cương quyết đề kháng
lại cơn cám dỗ nắm toàn quyền kiểm soát bằng cách từ chối sử
dụng quyền hành trên những người khác. Thay vào đó, các mục
tử này chia sẻ sức mạnh của Chúa Thánh Thần với những người
khác qua việc nhìn nhận, khích lệ và vận dụng năng lực phong
phú của những tín hữu đã được đào tạo tốt ngày nay.
Phụ nữ có thể cử hành Bí Tích Hòa Giải
không? Nhiều phụ nữ, trong đời sống và trong sứ vụ của mình,
vẫn phục vụ như những dấu hiệu bí tích của hòa bình và hòa
giải. Phụ nữ được ban cho đặc ân về lòng quảng đại tha thứ,
và họ có nhiều thuận lợi lớn lao trong việc quan hệ và tiếp
xúc với các bệnh nhân, các người già yếu và những người hấp
hối. Thật vậy, không thể kể hết ở đây những ‘thế mạnh’của
phụ nữ trong lãnh vực này. Tôi có biết nhiều phụ nữ giàu đặc
sủng được giám mục bổ nhiệm làm các tuyên úy bệnh viện. Dĩ
nhiên, chúng ta chưa được nhìn thấy một phụ nữ ngồi ở tòa
giải tội chờ các hối nhân đến xin xá giải. Thế nhưng, xưa
nay vẫn không thiếu những người – cả các bệnh nhân lẫn những
người lành mạnh - trong nhu cầu và trong lòng khao khát sám
hối và hòa giải –tiếp tục tin tưởng và cởi mở lương tâm của
họ với các phụ nữ giàu tấm lòng.
Về vấn đề này, tôi muốn chia sẻ hai ví
dụ từ kinh nghiệm riêng của mình. Sau Chiến Tranh Thế Giới
Thứ Hai, một bệnh viện dành cho các binh sĩ Đức Quốc Xã được
thiết lập ở Gars, nơi hiện nay tôi đang sống. Những người
lính này vốn là tù nhân chiến tranh của Mỹ. Họ lầm lì cứng
cỏi, nhưng một số trong họ cảm thấy nhu cầu cần thố lộ các
tội lỗi - và thậm chí các tội ác – trước đây của mình cho
một nữ tu đang phụ trách săn sóc họ. Nữ tu này cầu nguyện
với họ, và chị hướng dẫn họ mang nỗi khổ sở ấy của mình đến
với Thiên Chúa trong tâm tình khiêm tốn và phó thác. Tôi
không thể không nghĩ rằng tất cả những gì diễn ra ở đây quả
thật là một khoảnh khắc bí tích còn thâm sâu hơn cả những
trường hợp người ta xưng tội với các linh mục khe khắt nệ
luật.
Một ví dụ khác, đó là câu chuyện về một
nữ tu cao niên được bổ nhiệm làm tuyên úy tại một bệnh viện.
Tại đây, chị được mọi người coi là con người đáng tín nhiệm
nhất. Nhiều bệnh nhân tự nguyện cởi mở nỗi lòng với chị và
trang trải cho chị nghe những gì mà lương tâm họ cho là
trọng tội. Trớ trêu là có một khúc mắc ở đây. Các bệnh nhân
kể cho chị biết về một linh mục tại địa phương vốn thường
đến bệnh viện này hằng tuần hoặc mỗi tháng hai lần để nghe
họ xưng tội – và ông ta luôn hạch sách họ về loại tội và về
số lần phạm tội một cách chi li quá đáng. Giờ đây, nếu vị nữ
tu tuyên úy này nói với các bệnh nhân rằng họ phải xưng tội
với một linh mục – (trong nhiều trường hợp, yêu cầu này
thường có nghĩa là phải xưng thú với một người cứng cỏi, khó
ưa!) – thì việc xảy ra một phản ứng thất vọng nơi các bệnh
nhân của chị sẽ là điều rất bình thường, dễ hiểu. Các bệnh
nhân hoặc sẽ giận, từ chối xưng tội, hay tệ hơn, họ sẽ
‘phòng thủ’ và ‘bưng bít’ hơn mỗi khi họ xưng tội với vị
linh mục kia.
Vấn đề không nằm ở chỗ: “Một phụ nữ có
thể cử hành được nghi thức hòa giải hay không?” Cho tới nay,
chưa bao giờ phụ nữ có cơ hội thử làm nghi thức này. Tôi chỉ
biết về những gì họ thực sự làm. Họ lắng nghe các bệnh nhân,
cầu nguyện với các bệnh nhân, họ ca ngợi lòng quảng đại thứ
tha của Thiên Chúa, họ cầu xin Chúa khắc ghi một dấu biết ơn
trong cõi lòng các bệnh nhân, để rồi dấu ấn này sẽ giúp các
bệnh nhân biết sẵn sàng hơn để thứ tha cho những người xúc
phạm đến mình.
Phụ nữ có thể cử hành Bí Tích Xức Dầu
Bệnh Nhân không? Cho tới nay việc này cũng không được giao
cho họ, nhưng thiển nghĩ thẩm quyền Giáo Hội có thể mạnh dạn
trao cho các phụ nữ sứ vụ này. Tôi biết một nữ tu rất ân cần
và được mọi người yêu mến, với dầu đã thánh hóa, chị xức cho
bệnh nhân nếu được yêu cầu, và đồng thời chị cùng cầu nguyện
với họ. Tuy nhiên, chị không dùng những công thức được qui
định trong phụng vụ. Như vậy có phải chị đang cử hành bí
tích không? Một cách chính thức thì câu trả lời là “không”,
nhưng sự hiện diện sốt sắng và việc xức dầu đầy cảm kích của
chị có thể đem lại ơn phúc dồi dào hơn là trường hợp một
‘ông cha’vội vã bước vào phòng, xức dầu cho bệnh nhân đúng
theo sách nghi thức, rồi vội vã biến đi mất!
Theo giáo huấn “dứt khoát” của Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II, phụ nữ không bao giờ có thể cử hành
Thánh Thể trong tư cách là chủ tọa - hay nói một cách chuyên
môn hơn: phụ nữ không bao giờ có thể truyền phép Thánh Thể.
Thế nhưng, vị kế nhiệm của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II rất có
thể sẽ cảm thấy mình không bị ràng buộc bởi một lời tuyên bố
như thế, nếu vị ấy biết chịu khó lắng nghe hơn không chỉ đối
với các nhà thần học có năng lực và đáng tin cậy mà cả đối
với cảm thức chung của những tín hữu được nhìn nhận là
trưởng thành và có khả năng biện phân.
Đôi khi có người hỏi tôi: “Này, cha
giải thích thế nào về sự kiện một linh mục đang mắc tội
trọng vẫn có thể truyền phép Thánh Thể cách thành sự, trong
khi đó một phụ nữ thánh thiện không bao giờ có thể truyền
phép như thế?” Tôi thường trả lời bằng cách đặt một câu hỏi
chìa khóa: “Truyền phép Thánh Thể, điều đó có nghĩa là gì?
Không phải chúng tôi, các linh mục, là người truyền phép –
tức làm cho cái vốn là bánh trở thành sự hiện diện của Đức
Kitô. Mầu nhiệm này xảy ra qua epiklesis,[1] bởi
quyền năng của Chúa Thánh Thần.” Thế tại sao lời cầu nguyện
long trọng kêu xin Chúa Thánh Thần “xuống trên những lễ
vật này và thánh hóa chúng” lại không được thốt lên từ môi
miệng một phụ nữ thánh thiện, trong khi thực tế có những
người đàn ông không được nhìn nhận là thánh thiện lắm lại
làm được điều đó? Một đàng, tình trạng “tội chất cao như
núi” của một linh mục cũng không làm cho khả năng “truyền
phép” của anh ta suy suyển đi chút nào - và đàng khác, một
phụ nữ, dù thánh thiện đến mấy, cũng không thể có được khả
năng nói trên – tôi cảm thấy hình như nhiều người muốn coi
hai điều ấy là tất nhiên như nhau. Nói cách khác, tôi tự
hỏi: Phải chăng duy chỉ sự kiện người ta là phụ nữ đã là một
cản trở không thể vượt qua đối với tính hiệu lực (của việc
truyền phép), trong khi tình trạng tội trọng của một người
đàn ông thì không liên can gì? Đây là những lấn cấn mà chúng
ta không thể hòa hợp một cách thỏa mãn.
Một điều ngày nay nói chung không ai
chối cãi, đó là giới thẩm quyền Giáo Hội không thể đưa ra
một lý do chính đáng nào để loại trừ phụ nữ ra khỏi tất cả
những cuộc thảo luận và những quyết định cốt yếu có liên
quan tới nữ giới không kém chi nam giới. Phụ nữ là một nửa
năng động của Giáo Hội; trước khi quyết định dứt khoát về
chuyện có thể trao những tác vụ nào cho phụ nữ, thì cần phải
quan tâm mời họ tham gia một cách tích cực vào trong các
tiến trình thảo luận và biểu quyết tập thể. Hồi năm 1994,
trong kỳ Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về đời sống thánh
hiến, một giám mục đã đề nghị rằng phụ nữ nên tham gia vào
trong cuộc bầu chọn giáo hoàng! Đó không phải là một đề nghị
có ý nghĩa sao?
Về vấn đề truyền chức linh mục cho phụ
nữ, có đủ tư liệu để cho thấy rằng lập luận truyền thống
chống lại việc này không chỉ sai lạc mà còn đáng xấu hổ nữa,
chưa nói là nó rất nguy hiểm về mặt thần học. Văn kiện Inter
Insigniores (15-10-1976) của triều Giáo Hoàng Phao-lô VI
tham chiếu đến nhiều nhà thần học Trung Cổ (thay vì là những
nhà thần học hiện đại) như Bonaventura, Duns Scotus và
Durandus. Tất cả những tên tuổi ấy đều đã đưa ra cùng những
lập luận giống nhau và do đó cùng sai lầm như nhau. Quan
điểm của Scotus được thấy là đặc biệt “cạn tàu ráo máng”:
Chức thánh là một cấp bậc cao trọng
vượt trên những người khác trong Giáo Hội và dành cho một
vai trò ưu việt vốn, một cách nào đó, phải được biểu hiện
bởi địa vị và thế giá cao trọng. Nhưng phụ nữ tự bản chất ở
trong tình trạng lệ thuộc đối với nam giới, và do đó không
thể chiếm một phẩm vị cao trọng trên bất cứ người đàn ông
nào ... Nếu phụ nữ có thể nhận chức thánh trong Giáo Hội, họ
sẽ có thể đứng đầu và điều khiển, một điều hoàn toàn trái
nghịch với tình trạng của họ ... Vì thế, phụ nữ không phải
là một thứ có khả năng nhận bí tích này (Scotus, In IV sent.
d. 25, Scholion Opus
Oxoniense).
Như vậy, chúng ta có thể thấy cách mà
mặc cảm tự tôn nam giới dễ dàng tự động chuyển thành mặc
cảm tự tôn linh mục. Mặc cảm tự tôn ấy là một sự đối nghịch
khủng khiếp với sự thật cốt lõi và khuôn mặt của Đức
Kitô Người Tôi Tớ. Chúng ta cũng thấy rõ rằng toàn bộ vấn đề
truyền chức linh mục cho phụ nữ không thể được giải quyết
thỏa đáng bao lâu chức linh mục Công Giáo – trong lý thuyết
và thực hành – vẫn còn được hiểu như một bậc sống ‘chức
trọng quyền cao’. Một não trạng trọng nam khinh nữ và nặng
tính phân chia cấp bậc như thế cũng đồng thời có chiều hướng
loại trừ phụ nữ ra khỏi mọi tiến trình bàn bạc và thảo luận
quan trọng trong Giáo Hội (x. Dennis Michael Ferrara, “The
Ordination of Women: Tradition and Meaning,” Theological
Studies 55 [1994], tr. 706-719).
những điều kiện cần
thiết để chủ tọa cuộc cử hành Thánh Thể
Đức Kitô đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể
như một quà tặng đặc biệt của tình yêu cho Giáo Hội lữ hành
mọi nơi và mọi thời. Tôi cho rằng từ sự thật căn bản này,
chúng ta dễ dàng rút ra kết luận rằng bất cứ sự đòi hỏi nào
trong thực tế tước đoạt khỏi các cộng đoàn Kitôhữu việc cử
hành Thánh Thể đều đặn thì đều là những đòi hỏi không có cơ
sở, và do đó cần phải được xét lại.
Đây là một sự thật có tầm rất hệ trọng
đối với những ai đang nắm giữ quyền bính. Chúng ta hãy đọc
lại tuyên bố của Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo:
Việc cử hành Ngày của Chúa và Hy Lễ
Tạ Ơn của Ngài vào ngày Chúa Nhật là trung tâm của đời sống
Giáo Hội (2177). Thánh Lễ Chúa Nhật là nền móng và là nguồn
lực củng cố của mọi thực hành Kitô giáo. Vì vậy tín hữu có
bổn phận phải tham dự Thánh Lễ vào những ngày buộc trừ phi
được miễn chước vì một lý do hệ trọng. Những ai cố ý bỏ bổn
phận này thì mắc tội trọng (2181).
Trong một thần học luân lý nhắm đến
không chỉ những người dưới quyền bính mà còn nhắm đến cách
đặc biệt những người nắm quyền bính, thì có thể thấy rõ rằng
nếu vì quá nhiều điều kiện nhân tạo làm cản trở không cho
nhiều cá nhân và cộng đoàn Kitôhữu đều đặn tham dự Hy Lễ Tạ
Ơn thì những vị lãnh đạo Giáo Hội đặt ra cac điều kiện đó sẽ
“mắc tội trọng” (xem số 2181 trên). Người ta không thể nói
rằng bao nhiêu Thánh Lễ họ bị tước đoạt do các qui định nhân
tạo như thế thì chính các nhà hữu trách Giáo Hội cũng mắc
bấy nhiêu tội đó sao? Để bắt đầu một cuộc thẩm xét xa hơn,
thiển nghĩ nên xuất phát từ những cộng đoàn dùng bữa của
Giáo Hội Kitô giáo thời sơ khai.
linh mục thợ - xin
chân thành cám ơn các bạn!
Không nghi ngờ gì nữa, các linh mục thợ
xứng đáng được chúng ta tri ân sâu xa. Họ đã và vẫn đang là
những nhà tiên phong dũng cảm trong việc thám hiểm các chân
trời mới cho một nhận thức đúng đắn hơn về hội nhập văn hóa
và về chức linh mục thừa tác. Nói một cách ẩn dụ, bước nhảy
của họ là một bước nhảy vĩ đại qua một vực thẳm vừa sâu vừa
rộng. Nhiều linh mục và giám mục nổi tiếng về lòng nhiệt
thành mục vụ và về sự sáng suốt đã dám đương đầu với vấn đề
nóng bỏng là sự lảng xa của tầng lớp lao động bình dân
đối với một Giáo Hội không chỉ rề rà đi sau lịch sử mà
đồng thời còn rề rà đi sau Tin Mừng của “Thiên Chúa ở cùng
chúng ta” nữa. Các linh mục này hiểu rằng xì-căng-đan đã nổi
lên khi người ta mất liên lạc với giới lao động, cũng như
ngày nay nhiều Kitô hữu sáng suốt đang lo ngại Giáo Hội có
thể đánh mất nhiều người trong số các phụ nữ đầy tiềm năng
nhất của mình.
Các thông điệp của Giáo Hoàng Lêô XIII
và Piô XI về vấn đề xã hội của giai cấp thợ thuyền chắc chắn
là những ví dụ về một bước đi đúng hướng; Nhưng chúng không
thể lấp đầy cái vực thẳm giữa những thực hành của Giáo Hội
và nền văn hóa của giai cấp thợ thuyền. Paul Gauthier, trong
tư cách là một trong những linh mục sáng suốt trỗi vượt về
mục vụ, đã có đủ dũng cảm và tinh tế để diễn tả điều đó một
cách thẳng thắn như sau: “Nước Pháp đã trở thành một xứ
truyền giáo.” Tuy nhiên, dù có thiện chí đến mấy đi nữa, các
linh mục được sai đến với giới thợ thuyền vẫn mang dấu ấn
khác biệt về văn hóa và giai cấp – đó là kiểu thức linh mục
theo Triđentinô, được biểu tượng bởi chiếc áo chùng đen. Đa
số các linh mục hoàn toàn không thể nhận ra tầm mức của sự
khác biệt và sự xa lạ về văn hóa. Ở đây chúng ta không cần
phải chứng minh về sự xa lạ của giới thợ thuyền hay của Giáo
Hội, vì cả hai đều đã quá sáng tỏ.
Hồng Y Emmanuel Suhard vĩ đại - cùng
với các nhà tư vấn và tuyên úy của giới trẻ Công Giáo như
Jacques Loew, OP, Henri Godin và Yves Daniel - là những
người đã có sáng kiến thực hiện cuốn sách gây xôn xao dư
luận: Nước Pháp, Xứ Truyền Giáo? (tác giả của cuốn sách là
hai danh tánh sau cùng
nêu trên).
Trong thời gian sửa soạn cho Công Đồng,
tôi có dịp tiếp xúc và cộng tác với Jacques Loew và Giám Mục
A. Ancel, người vẫn đường đường là một linh mục thợ ngay cả
khi đã trở thành giám mục. Tất cả những khuôn mặt ấy đều
toát ra tinh thần Tin Mừng một cách tuyệt vời, để lại ấn
tượng rất sâu sắc cho tôi.
Chắc độc giả sẵn lòng thứ lỗi cho tôi
vì tôi hơi lang bang một chút để nhắc lại câu chuyện mà tôi
đã nghe từ Giám Mục Ancel; dù sao câu chuyện cũng rất đặc
trưng cho vấn đề ở đây. Số là văn kiện Veterum Sapienta,
được thông qua bởi các giới chức già nua trong giáo triều,
nêu nghị quyết rằng nhân Công Đồng sắp tới, cần phải cố
gắng để duy trì “văn hóa Latinh” và, nhằm mục đích ấy, mọi
triết học và thần học sẽ mãi mãi cần phải được giảng dạy
bằng tiếng Latinh trên khắp thế giới. Sau khi văn kiện ấy
được ban hành, Giám Mục Ancel, thay mặt các giám mục Pháp,
đã đến gặp giáo hoàng và thẳng thắn bày tỏ sự phản đối. Giáo
Hoàng Gioan XXIII không chút ngạc nhiên. Ngài nói: “Thưa Đức
Cha, tôi đón nhận sự phản đối này. Và tôi hiểu tại sao.
Nhưng hãy cho phép tôi kể một câu chuyện để giải thích vấn
đề này:
Giorgio,
một nông dân ở miền núi Bergamo, đến gặp giám mục của mình
và xin ngài đặt mình làm linh mục, vì suốt mùa đông dài
chẳng linh mục nào có thể đi tới thị trấn bé nhỏ ấy, vì thế
mọi người ở đó phải sống không có Thánh Lễ. Giorgio nói:
“Thưa Đức Cha, con bảo đảm rằng con có thể làm lễ bằng tiếng
Latinh nghiêm chỉnh, mặc dù con không hiểu ất giáp gì về thứ
tiếng ấy. Nhưng con cũng có thể phỏng đoán ý nghĩa cách đại
khái được.” Vị giám mục rất cảm động, nhưng ngài trả lời anh
ta: “Rất tiếc, vì anh là người đã kết hôn, tôi không được
phép truyền chức linh mục cho anh.”
Một năm
sau, Giorgio lại đến gặp giám mục và thưa: “Margaret, người
vợ thánh thiện của con, đã được Chúa gọi về, và con không có
ý định cưới vợ lần nữa. Vậy, thưa Đức Cha, con có thể lãnh
chức linh mục không ạ?” Giorgio trải qua một cuộc khảo hạch
ngắn, và anh tỏ ra rất xuất sắc trong việc nắm hiểu các nghi
thức. Thế là anh được phong chức linh mục. Làng anh ai nấy
đều phấn khởi.
Sau đó,
Giorgio có một chuyến về thành phố vài ngày, cử hành Thánh
Lễ tại nhà thờ chính tòa. Trong phòng áo, tất cả các linh
mục khác đều nói “Prosit!” để chào anh. Giorgio hỏi một cha
già xem tiếng chào ấy có nghĩa là gì. Vị linh mục ấy, vốn
tính ranh ma, trả lời: “Prosit nghĩa là thằng đểu” . Ngày
hôm sau, khi Giorgio lại được chào “Prosit!”, anh nổi khùng
lên, đấm thẳng một cú vào mặt kẻ chào mình, và thét lớn:
“Ông cũng là một prosit!”
Kể tới đây, Giáo Hoàng Gioan XXIII dừng
lại, đăm chiêu, rồi nói với Giám Mục Ancel: “Có lẽ tôi chỉ
muốn rằng anh chàng Giorgio ấy cần phải biết từ Latinh
Prosit có nghĩa là gì!” Rồi ngài thở dài, thú nhận: “Ôi, tôi
hy vọng Chúa sẽ tha thứ cho tôi vì tôi đã nhân nhượng một
điều như thế này đối với giáo triều.”
Sự sùng bái tiếng Latinh như vậy không
phải là một biểu tượng của sự lảng xa sao? Cũng vào giai
đoạn đó, một hồng y tên tuổi khác đã viết trong tờ
Osservatore Romano rằng Rôma sẽ mãi mãi có bổn phận phải
khai hóa các dân man di bằng “siêu văn hóa” Latinh. Trong
cùng hướng suy nghĩ này, Hồng Y Giuseppe Pizzardo, bấy giờ
là người đứng đầu thánh bộ của Tòa Thánh, trong một cố gắng
trấn áp phong trào các linh mục thợ, đã đưa ra quan điểm như
sau: Việc đứng vào hàng ngũ của tầng lớp lao động lệ
thuộc xem ra không xứng đáng với địa vị của một linh mục.
Thật lạ! Tại sao vị hồng y ấy không nhận ra rằng việc
mình khoác vào người bộ áo đỏ tía diêm dúa ấy và việc mình
đê mê với những tước hiệu kệch cỡm kia thì hoàn toàn tương
phản với Đức Giêsu Người Thợ Mộc?
Năm 1963, năm đầu tiên triều giáo hoàng
của ngài, Giáo Hoàng Phao-lô VI nói chuyện với tôi về vấn đề
linh mục thợ, ngài bày tỏ với tôi mối cảm thông và quan tâm
mục vụ sâu sắc của ngài. Ngài trao cho tôi một tập hồ sơ dày
và yêu cầu tôi đúc kết một nhận định về vấn đề đang rất thời
sự này. Quyết định của Giáo Hoàng Phao-lô VI về việc tiếp
tục cuộc “thử nghiệm” các linh mục thợ đã nhận được sự đồng
tình ủng hộ của Công Đồng qua văn kiện về “Sứ Vụ Và Đời Sống
Linh Mục” (đoạn 8).
Bất chấp mọi khốân đốn và hiểu lầm, cơ
chế linh mục thợ đã nhận được sự phê chuẩn cuối cùng – và
đây là một dấu hiệu “mở cửa” để đón lấy ngọn gió trong lành.
Chúng ta được mở mắt ra để thấy một vấn đề còn rộng lớn hơn
– đó là, sự xa cách thăm thẳm được tạo ra bởi nền giáo dục
và văn hóa của các linh mục được định hình cách đồng nhất
theo kiểu thức chủng viện Triđentinô, nhất là trong sắc thái
Rôma, vốn vẫn còn rất phổ biến cho tới Công Đồng Vatican II.
Công việc của Giáo Hội xét toàn thể và đặc biệt của các giám
mục và linh mục là phải tiếp tục tiến trình hội nhập văn hóa
về thần học và sứ vụ, để tôn vinh Đức Giêsu Người Thợ Mộc,
Đấng là “Con Người”, là “một người ở giữa chúng ta” và giống
chúng ta trong mọi sự chỉ trừ tội lỗi.
Sự hiện diện của các linh mục thợ gần
như trên khắp thế giới ngày nay là một dấu hiệu của hy vọng
và của sự thách đố còn tiếp tục đặt ra cho toàn thể Giáo Hội
- nhằm xích lại gần Đức Giêsu hơn trong chính lịch sử nhân
loại ở đây và bây giờ, cũng như trong mọi nền văn hóa. Câu
hỏi căn bản của chúng ta là: “Giáo Hội và thế giới đang cần
loại linh mục nào?” Chính mối ưu tư này đã cho tôi sự can
đảm và động lực để viết quyển sách nhỏ này.
trong hoàn cảnh bị
thách đố về thể lý
Nhìn lại hoàn cảnh hiện nay của mình,
tôi không thể không nghĩ rằng mình là một người tàn tật và
bị rất nhiều thách đố về thể lý. Vấn đề thanh quản chỉ là
một trong rất nhiều khó khăn khác nữa của tôi. Mở rộng tầm
nhìn hơn, hướng nhìn đến Đấng Emmanuel, Ngôi Lời Nhập Thể,
và đồng thời nhìn đến đà thay đổi nhanh chóng trong lịch sử
thời đại chúng ta, chúng ta có thể thành thực nói rằng tất
cả chúng ta đang gặp vướng víu và đang bị làm cho tàn phế
trong cả hai phương diện, chúng ta vừa chậm chạp không bắt
kịp sự gần gũi của Đức Giêsu đối với dân Người vừa trôi tụt
lại phía sau trên con đường tốc hành của lịch sử hiện đại.
Các linh mục chúng ta mang sâu trong
mình những vết thương không chỉ mới hình thành trong hiện
tại. Trên đôi vai yếu ớt của mình, chúng ta còn phải gánh
lấy gánh nặng của lịch sử Giáo Hội. Nếu chúng ta cho phép
mình nhận thức được các thương tích lớn lao ấy của mình, nếu
chúng ta nhận thức được tình trạng lạc hậu và què quặt của
mình trong vô số phương diện, thì rất có thể chính những
khiếm khuyết của chúng ta sẽ trở nên nẻo đường ẩn tàng cho
chúng ta đón nhận dồi dào ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta
có thể trở thành dấu chỉ và biểu hiệu của Người Tôi Tớ tang
thương của Thiên Chúa. “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ,
là người Ta tuyển chọn và quí mến hết lòng” (Is 42,1). “Bao
kẻ sửng sốt khi thấy tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng
ra người” (Is 52,14). “Người bị đời khinh khi ruồng rẫy,
phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật; người như kẻ ai
thấy cũng che mặt không nhìn”
(Is 53,3).
Những suy niệm này của tôi bật ra khi
tôi đọc câu chuyện về một vị mục sư Tin Lành bị tàn phế nặng
nề nhưng đã hết lòng quảng đại dấn thân phục vụ cho những kẻ
tàn tật thuộc mọi loại và mọi mức độ. Thật chẳng hợp tí nào
với qui định của giáo luật cũ của chúng ta rằng không được
truyền chức linh mục cho những người bị khiếm khuyết thân
thể trầm trọng! Toàn bộ tình hình của chúng ta hiện nay có
thể được cải thiện rất nhiều nếu Giáo Hội mời gọi các ơn gọi
linh mục từ những con người đau khổ này, đặc biệt để phục vụ
cho những anh chị em tàn tật. Đời sống của các linh mục tàn
tật sẽ là sự nhắc nhở sống động cho chúng ta về Người Tôi Tớ
Đau Khổ của Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU HÂN HOAN VÌ
CHÂN LÝ |
Tác
phẩm 13 Nét Mặt Tình Yêu -
Dominique AUZENET
Lm.
Micae-Phaolo Trần Minh Huy chuyển ngữ
Chương Mười Một
TÌNH YÊU HÂN HOAN VÌ CHÂN LÝ
1. Tình yêu vui mừng vì điều thiện :
Bài ca đức ái đặt đối nghịch bất công (sự dữ) với chân
lý. Tình yêu không thể vui mừng vì sự dữ mà không phủ nhận
chính mình. Trái lại, chính bản chất tự nhiên của tình yêu
là vui mừng vì chân lý và chia sẻ niềm vui ấy. Theo nghĩa
Kinh Thánh, chân lý chính là sự trung tín của Thiên Chúa với
những gì Ngài đã hứa. Nhưng ở đây, khi được đặt đối nghịch
với bất công, từ ngữ nầy có lẽ có nghĩa là một sự thật luân
lý, là sự ngay thẳng trong cuộc sống.
Tình yêu vui mừng về tất cả những gì nó tìm thấy là ngay
thẳng, là đẹp đẻ, là tốt lành chung quanh nó. Chúng ta có
thể nói rằng vấn đề quan trọng là có một cái nhìn tích cực
về tất cả những gì ở quanh chúng ta.
Thực ra còn hơn thế nữa : Đó chính là được nuôi dưỡng cách
sâu xa bởi tất cả những hạt giống của Thánh Thần mà chúng ta
có thể nhận lãnh không ngừng trên suốt những ngày sống của
chúng ta. Đó là điều mà Thánh Phaolô đã nói :
"Thưa anh em, những gì là chân thật cao quí, những gì
là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại
danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen, thì xin
anh em hãy để ý" (Ph 4, 8).
Chung quanh chúng ta diễn ra lẫn lộn sự dữ và sự lành, bất
công và chân lý. Tình yêu ở với chúng ta canh tân chúng ta
từ bên trong. Tình yêu ấy lôi kéo chúng ta đến điều thiện,
đến công bằng hầu làm cho chúng ta tìm được niềm vui.
"Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống
xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối.
Anh em phải để Thánh Thần đổi mới anh em và phải mặc lấy con
người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên
Chúa, để thật sự sống công chính và thánh thiện" (Ep 4, 22-24).
"Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa, anh
em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh
sáng, mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện,
công chính và chân thật" (Ep 5,
8-9).
"Vậy hãy đứng vững : lưng thắt đai là chân lý, mình mặc
áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan
báo tin mừng bình an" (Ep 6, 14-15).
Chúng ta có ít nhất một điểm qui chiếu, đó là cách mà các
phương tiện truyền thông, báo chí, truyền thanh, truyền hình
quan tâm trước hết đến những gì không xuôi, đến cái xấu hiện
tại trong thế giới... Mỗi người có thể hơi hơi giống như thế
: bi quan về những cái bên lề, và vạch lá tìm sâu... Thực
ra, thái độ của người tín hữu được Chúa Thánh Thần canh tân
là hoàn toàn ngược lại : một đàng khám phá ra và làm nổi bật
giá trị của những gì là thiện, là mỹ trong những cái ở chung
quanh chúng ta, vui mừng thấy Thiên Chúa đang hành động,
ngay cả ở nơi chúng ta không chờ đợi... và đàng khác lại
gieo rắc điều thiện :
"Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa
chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng. Vậy bao lâu còn
thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là
cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin" (Gal 6,
9-10).
2. Thánh Thần giúp tìm ra con đường chân lý :
Có lẽ bạn nghĩ rằng điều vừa viết có thể là lý tưởng đấy,
nhưng thực sự không phải là cái bạn thấy ! Bạn có lý, bởi vì
chúng ta luôn ở bên nầy cái mà Chúa đang chờ đợi nơi chúng
ta. Chính vì thế mà chúng ta cần phải phó mình cho Chúa
Thánh Thần đang ngự trong chúng ta :
"Khi nào Thánh Thần Chân lý đến, Người sẽ dẫn anh em
đến sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì,
nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại và loan
báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến" (Jn 6, 13).
Chúng ta phải không ngừng cầu xin Chúa Thánh Thần : Lạy Chúa
Thánh Thần, xin soi sáng cho con, xin hướng dẫn con, xin làm
cho con khám phá ra và yêu mến sự hiện diện của Chúa là Tình
Yêu, Chúa là Đấng luôn hiện diện trong lòng thế giới nầy ...
"Chúng ta càng kêu xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho
chúng ta về Chân Lý, Ngài càng dẫn dắt chúng ta khám phá
được cái bên kia của các biểu diện bên ngoài. Trí khôn được
Chúa Thánh Thần Tình Yêu soi dẫn sẽ biện phân được sự thật
ẩn chứa sâu xa trong các con người, các tình huống, các sự
vật và sẽ được hân hoan vì nó. Trí khôn sẽ hưởng nếm sự khôn
ngoan ẩn dấu của Thiên Chúa, vốn hằng tỏ mình ra. Trí khôn
con người từ bỏ chính mình khi không tìm kiếm chân lý, cũng
như nó từ bỏ chính mình khi tự mãn về ý ngay lành, sự chân
thật của mình và khi không đón nhận những gì Chúa đã nói qua
mạc khải, cũng như các con người và các biến cố"[1]
Chúa Giêsu đã giáo dục các môn đệ cái nhìn biết thấy xa hơn
những biểu diện bên ngoài, dù xem ra tốt lành. Chỉ có cái
nhìn nầy cho ta đón nhận được niềm vui chân thật vốn là một
hoa quả của Chúa Thánh Thần. Chẳng hạn đoạn Tin Mừng nói về
việc 72 môn đệ được sai đi truyền giáo từng hai người một,
lúc trở về vui mừng khẳng định :
"Thưa Thầy, nghe đến Danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải
khuất phục chúng con. Chúa Giêsu bảo các ông : Thầy đã thấy
Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy ban cho
anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực
Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên, anh
em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy
mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời" (Lc 10, 17-20).
Có lẽ các môn đệ hơi bị ngây ngất vì đã kinh nghiệm được
quyền năng nhiệm mầu của Chúa Thánh Thần trong khi họ thi
hành nhiệm vụ. Chúa Giêsu kéo họ về với những thực tại sâu
xa hơn : người môn đệ không xác định mình bởi hành động phục
vụ Thầy, dù hành động đó mạnh mẽ đến đâu, nhưng là bởi ân
sủng được dự phần nhận lãnh vinh quang bên cạnh Chúa Cha...
Đó mới thật là Chân lý, đó mới thật là niềm vui đích thực...
Và chính Chúa Giêsu cũng cảm kích trước vẻ đẹp của sự khôn
ngoan của Thiên Chúa mà kinh ngạc :
"Ngay giờ ấy, được Chúa Thánh Thần tác động, Chúa
Giêsu vui mừng hớn hở nói : Lạy Cha là chúa tể trời đất, con
xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn
ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mặc khải cho
những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha"
(Lc 10, 21).
Nếu chúng ta đặt lại lời cầu nguyện nầy trong lòng tình
huống của Chúa Giêsu lúc bấy giờ, chúng ta thấy được rằng sứ
điệp của Chúa Giêsu không được các thành phố quanh biển hồ
Tibêria đón nhận, chỉ có những người nghèo hèn và bé nhỏ mở
lòng ra với những phong phú mà Ngài đã lãnh nhận từ Chúa Cha
để trao ban cho mọi người... Tuy nhiên, sự khôn ngoan của
Tình Yêu Thiên Chúa được tỏ lộ ra trong lòng sự thất bại nầy
: Tình Yêu bị đóng đinh của Chúa Cha và Chúa Con chỉ được
đón nhận bởi một tâm hồn khiêm tốn và tước bỏ hết mọi tự phụ
cao ngạo...
Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh tương tự trong thư gởi tín hữu
Rôma, khi nói về sự đau khổ của ngài vì các anh em Dothái từ
chối Đức Giêsu như là Đấng Thiên Sai :
"Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa
sâu thẳm dường nào ! Quyết định của Người ai dò cho thấu !
Đường lối của Người ai theo dõi được ! Thật vậy, ai đã biết
tư tưởng của Chúa ? Ai đã làm cố vấn cho Người ? Ai đã cho
Người trước để Người phải trả lại sau ? Vì muôn vật đều do
Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và qui hướng về Người. Xin
tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời. Amen"
(Rm 11, 33-36).
Như Chúa Giêsu và thánh Phaolô, chúng ta cũng có thể nhảy
lên vui mừng khi để Chúa Thánh Thần cho chúng ta biện phân
được sự có mặt của Chân Lý của Thiên Chúa... Với Mẹ Maria,
Đấng mà tâm trí "nhảy mừng
trong Thiên Chúa cứu độ" (Lc 1, 47), chúng ta sẽ sống
lời cầu nguyện tạ ơn.
3. Tình yêu làm chứng niềm vui chân lý ban tặng :
"Tất cả mọi người đều lo tìm kiếm chân lý, nhất là trong
những gì liên quan đến Thiên Chúa và Giáo Hội của Người. Và
một khi đã nhận biết chân lý thì họ ôm chặt chân lý và luôn
trung thành với chân lý. Bổn phận ấy xuất phát tự "chính bản
chất của con người". Bổn phận nầy không nói nghịch lại "sự
tôn trọng chân thành" đối với các tôn giáo khác nhau "thường
mang lại một tia sáng chân lý chiếu soi cho mọi người", cũng
chẳng nghịch lại yêu sách bác ái vốn thúc đẩy các kitô hữu
"hành động với tình yêu thương, cẩn trọng, nhẫn nại đối với
những ai đang ở trong lầm lạc hoặc trong sự vô tri đối với
đức tin".[1]
"Chính vì thế mỗi người chúng ta, nhờ bí tích Rửa tội và
Thêm sức, được thiết lập làm chứng nhân chân lý. Chúa Giêsu
nói về Gioan Tẩy Giả : "Ông đã làm chứng cho Chân Lý" (Jn
5,33). Và Chúa Giêsu khẳng định về chính Người trước mặt
Philatô : Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích nầy
là làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe
tiếng tôi" (Jn 18, 37). "Người tín hữu không được hổ thẹn
làm chứng cho Chúa" (cf 2 Tim 1,8). Trong những tình huống
đòi hỏi xác nhận đức tin, người tín hữu phải dứt khoát tuyên
xưng đức tin chứ không lập lờ, theo gương thánh Phaolô trước
các quan tòa. Người tín hữu phải giữ "một lương tâm không có
gì khiển trách được trước mặt Thiên Chúa lẫn người đời"(Ac
24, 16)".[1]
Việc làm chứng cho Chúa Giêsu đã luôn khó khăn. Ngay từ
những buỗi đầu Phúc Âm, các kitô hữu đã phải đương đầu với
thực tại tử đạo, là hình thức cao nhất của việc làm chứng
tá. Chúng ta cần nhớ lại điều đó khi chúng ta biểu lộ những
do dự để tuyên bố thuộc về Chúa trong những tình huống cụ
thể. Vì thế, chúng ta cần mở rộng lòng chúng ta ra với sức
mạnh của Chúa Thánh Thần, trong thời gian cầu nguyện hằng
ngày, đều đặn và bền vững, để trở nên những chứng nhân bạo
dạn cho Chân Lý.
"Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần trí
làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thánh Thần
mang đến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương và biết tự
chủ" (2 Tim 1, 7).
"Điều người ta chờ đợi nơi mọi người rao giảng Phúc
Âm là họ có lòng tôn kính chân lý, càng hơn thế vì chân lý
mà họ đào sâu và truyền thông không là gì khác hơn là chân
lý đã được mạc khải và do đó, hơn hết tất cả, mà chân lý đệ
nhất là chính Thiên Chúa. Vậy người rao giảng Phúc Âm sẽ là
người luôn luôn tìm kiếm chân lý mà mình phải chuyển đạt lại
cho kẻ khác, dù có phải trả giá bằng sự từ bỏ bản thân và
đau khổ. Người rao giảng Phúc Âm không bao giờ phản bội lại
hay che giấu chân lý vì nỗi lo muốn làm vui lòng con người,
sợ làm ngạc nhiên hay va chạm, mà cũng chẳng vì tính độc đáo
hay ước muốn xuất hiện nổi hơn người. Người không từ chối
chân lý. Người không làm chân lý mạc khải ra tối tăm, vì
lười biếng tìm kiếm chân lý, vì tiện nghi, vì sợ sệt. Người
không quên lãng việc học hỏi chân lý. Người quảng đại phục
vụ chân lý, chứ không nô lệ hóa chân lý"[1]
"Nếu chúng ta sống niềm vui nội tâm làm cho cuộc đời
chúng ta phù hợp với chân lý, chúng ta cũng sẽ biết chuyển
đạt niềm vui ấy cho kẻ khác."Chớ gì mọi người của thời đại
chúng ta đang tìm kiếm, khi thì trong lo âu, lúc lại trong
hy vọng, có thể lãnh nhận được Tin Mừng, không phải bởi
những người rao giảng Phúc Âm buồn phiền và chán nãn, thiếu
nhẫn nại và lo âu, nhưng là từ những thừa tác viên của Phúc
Âm mà đời sống tỏa rạng lòng nhiệt thành, họ là những người
đầu tiên nhận lãnh trong mình niềm vui của Chúa Kitô và chấp
nhận cống hiến cuộc đời mình để Nước Trời được loan báo và
Giáo Hội được bén rễ vào lòng thế giới"[1]
4. Tình yêu từ chối sự dối trá :
Trong bài suy niệm về cách thức mà Tình Yêu chia sẻ niềm vui
của chân lý nầy, ta không thể nào được quên nói về sự dối
trá. Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ tình yêu vô điều kiện
đối với chân lý : "Lời các con phải
có thì nói có, không thì nói không" (Mt 5, 37). Sách
Giáo Lý Công Giáo dành cả một chương chú giải điều răn thứ
tám nhấn mạnh tầm quan trọng của chân lý trong tương quan
với tha nhân (số 2464-2513). Một đoạn liên quan đến nói dối
và nêu lên các trích dẫn là điều tốt, bởi vì chúng ta cần
nắm rõ tác động của việc nói dối trên cuộc sống xã hội của
chúng ta[1]
:
"Khi nói dối, người ta trực tiếp xúc phạm đến chân lý.
Nói dối là nói hay hành động nghịch với chân lý để lừa gạt.
Nói dối làm hại đến tương quan giữa con người với chân lý và
con người với nhau, nên kẻ nói dối xúc phạm đến tương quan
nguyên thủy giữa con người và lời nói của con người với
Thiên Chúa" (Giáo
Lý Công Giáo số 2483).
"Nói dối, (vì xúc phạm đến đức tính chân thật), thực sự
là một hành vi thô bạo đối với kẻ khác, xâm phạm đến khả
năng nhận thức là điều kiện để họ phán đoán và quyết định.
Nói dối gây chia rẽ giữa người với người, và mọi tệ hại do
chia rẽ mà ra. Nói dối là tai họa cho mọi xã hội, làm cho
người ta không còn tin tưởng nhau, và phá hoại những mối
tương giao trong xã hội" (số 2486).
"Ai lỗi phạm đến công bình và chân lý đều phải đền bù,
dù đã được thứ tha. Khi không thể đền bù cách công khai thì
phải làm kín đáo ; nếu không thể đền bù cách trực tiếp cho
người bị hại thì phải đền bù về tinh thần và đức ái. Ai lỗi
phạm đến thanh danh kẻ khác cũng phải đền bù như thế. Phải
đền bù tinh thần và đôi khi về mặt vật chất tương xứng với
thiệt hại đã gây ra. Đây là nghĩa vụ lương tâm" (số 2487).
Phải kết thúc rồi chăng ? - Không, vì chủ đề nầy cần phải
được khai triển thêm nhiều. Nhưng trong khi kết thúc bài suy
niệm nầy, cùng với thánh Catarina đệ Siêna, chúng ta cầu
mong Lời Chúa đánh thức chúng ta :
"Thiên Chúa không muốn và không tìm kiếm cái gì khác
ngoài sự thánh hóa chúng ta. Chính vì điều đó mà Ngài đã tạo
dựng chúng ta theo hình ảnh và nên giống Ngài, và Ngôi Lời
dịu dàng đã muốn trao ban mạng sống Ngài với biết bao yêu
thương, và như thế Ngài đã tỏ chân lý của Ngài cho chúng ta.
Linh hồn nhìn ngắm chân lý cách rõ ràng thì không còn mê ngủ
nữa, nhưng sẽ tỉnh dậy và hăm hở tìm kiếm cách thức, con
đường và thời giờ để kiện toàn chân lý. Linh hồn không để
việc ấy qua ngày mai, vì nó không chắc có được chân lý"[1]
Suy niệm
để lần hạt Mân Côi
1. Tình yêu vui mừng vì sự thật. "Thưa anh em, những gì
là chân thật, cao quí, những gì là chính trực tinh tuyền,
những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những
gì là đức hạnh, đáng khen, thì anh em hãy để ý" (Phil 4,8).
Người tín hữu
được Chúa Thánh Thần đổi mới khám phá ra được và coi trọng
tất cả những gì là thiện là mỹ ở chung quanh mình, người hân
hoan nhận thấy Chúa làm việc ở cả những nơi mà người chẳng
hề chờ đợi. Chúng ta hãy cầu xin ơn nầy cho chúng ta để gieo
vải niềm vui trong gia đình chúng ta.
2. Tình yêu vui mừng vì sự thật. Trước mặt bà Isave, Mẹ
Maria vui mừng cách sâu xa vì ơn đã làm cho Mẹ trở thành Mẹ
Thiên Chúa : "Linh hồn tôi
ngợi khen Thiên Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên
Chúa, Đấng cứu độ tôi" (Lc 1,46-47).
Mẹ Maria đón nhận Chân lý sứ mệnh mình, và Mẹ đã không sợ tỏ
lộ niềm vui vì nó một cách công khai. Chúng ta hãy xin ơn ca
tụng trong khiêm tốn, vì khiêm nhường chính là chân lý.
3. Tình yêu vui mừng vì sự thật. Chúa Giêsu đã nói : "Thầy
là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Jn 14,6). Ngài cũng nói
: "Ai thuộc về Chân Lý thì nghe
tôi" (Jn 18,37). Chúng ta hãy cầu nguyện cho
mọi người nam cũng như nữ đang tìm kiếm Chân Lý. Chúng ta
hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đánh động lòng họ nhờ ơn soi
sáng của Ngài.
4. Tình yêu vui mừng vì sự thật. Trước mặt Philatô, Chúa
Giêsu khẳng định : "Tôi sinh ra và đến trong
thế gian nầy chỉ để làm chứng cho Chân Lý"
(Jn 18,37). Chúng ta hãy cầu nguyện để chúng ta là những
chứng nhân đích thực cho Chân Lý là Chúa Giêsu và đang được
Giáo Hội truyền đạt.
5. Tình yêu vui mừng vì sự thật. Chúa Giêsu đã dạy tình yêu
vô điều kiện đối với chân lý cho các môn đệ của Người : "Lời
của các con phải có thì nói có,
không thì nói không" (Mt 5,37). Chúng ta hãy cầu
nguyện cho những người chúng ta quen biết được tình yêu chân
lý nầy, hầu nó làm cho họ biết từ chối dối trá. Chúng ta
cũng hãy cầu nguyện để trổi lên những ngôn sứ giữa những
người có trách nhiệm chính trị hầu họ mang lại ánh sáng chân
lý.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Ngộ Độc với
Chì |
Trong tháng vừa qua,
nhiều chục triệu đồ chơi dành cho trẻ em sản xuất từ Trung
quốc đã bị Cơ quan An toàn Tiêu
thụ Hoa Kỳ ra lệnh thu hồi vì vi phạm tiêu chuẩn an toàn, có
thể gây rủi ro sức khỏe cho các em. Các đồ chơi này được hào
nhoáng làm đẹp bề ngoài với sơn có hàm lượng chì quá cao.
Nhà nhập cảng tỏ vẻ rất bất mãn với việc làm cẩu thả và
không đúng yêu cầu của các công ty sản xuất. Khoảng 75% đồ
chơi của trẻ em trên thị trường Hoa kỳ do Trung Hoa thực
hiện. Các đồ chơi này gồm có dây chuyền cổ, vòng tay, bông
tai, nhẫn, trống nhỏ, phấn viết, xe và đường rầy xe lửa, đồ
chơi bắng nhựa…
Theo tiêu
chuẩn Hoa Kỳ, các
sản phẩm có quá .06% chì đều bị thu hồi.
Giới sản xuất biện hộ,
nói lỗi là tại quý vị không chịu thanh tra kiểm soát kỹ càng
các món hàng trước khi đưa ra thị trường. Ngoài ra, quý vị
đặt mua đồ chơi với giá quá rẻ thì làm sao chúng tôi sử dụng
nguyên liệu tốt được. Sơn không chì đắt gấp ba lần sơn pha
chì. Tiền nào của nấy mà.
Và cũng để “ăn miếng trả
miếng”, ông “siêu nhân- số” buộc tội ông “siêu- tiêu- thụ
dầu- hỏa” rằng, đậu nành của quý quốc cũng gây nhiều độc hại
cho giới tiêu thụ chúng tôi lắm vì có quá nhiều thuốc diệt
sâu bọ, cỏ dại nguy hiểm và đôi khi lại lẫn cả đất. Họ yêu
cầu Hoa Kỳ điều tra nội vụ và áp dụng các biện pháp hữu
hiệu, tránh tái diễn. Hàng năm Trung quốc nhập cảng nhiều tỷ
mỹ kim đậu nành từ Hoa Kỳ.
Vấn đề quan trọng đến nỗi
vị Giám đốc một công ty chế tạo đồ chơi tại Trung quốc tự
vẫn.
Tổng Thống Hiệp Chủng
Quốc George W. Bush phải trực tiếp than phiền với Chủ tịch
Trung quốc Hồ Cẩm Đào tại Hội Nghị APEC tuần vừa qua tại Úc
Châu.
Và lưỡng viện quốc hội
Hoa Kỳ cũng yêu cầu nhà nhập cảng đồ chơi nhiễm chì ra điều
trần nội vụ. Vì chì trong lớp sơn đồ chơi có thể gây ngộ độc
cho trẻ em khi tiếp xúc cầm chơi lâu ngày.
Sơn pha chì để có độ bóng
được dùng rất phổ biến cho tới thập niên 1960, giảm dần tới
thập niên 1970 và hầu như không được phép dùng từ năm 1978.
Nhờ đó, theo Cơ quan Kiểm soát Bệnh Tật Hoa Kỳ (CDC),
vào năm 1978 có khoảng 13.5 triệu trẻ em ở Hoa Kỳ có hàm
lượng chì trong máu rất cao, trên 10µg/dl. Tới năm 2002, con
số này giảm xuống còn 310.000 em sau khi có các kiểm soát,
biện pháp giới hạn dùng chì trong vài
ngành kỹ nghệ.
Trước nhiều áp lực, ngày
11 tháng 9 năm 2007, Trung quốc đã ký bản cam kết, cấm không
cho dùng sơn có chì với các đồ chơi trẻ em nhập cảng vào Hoa
Kỳ.
Thực là điều vạn hạnh, vì
sức khỏe con em nơi đây được bảo vệ quá chu đáo.
Chì là
gì
Chì là một kim loại nặng
màu xám xanh có nhiều trong vỏ trái đất. Khi gặp không khí
và nước, một lớp hợp kim
được tạo ra, bao che chì khỏi bị gỉ sét, ăn mòn.
Chì hiện diện tự nhiên
trong môi trường và nhất là qua sự sử dụng chì trong kỹ
nghệ.
Chì có nhiều trong các
loại ống dẫn nước hoặc hơi đốt, quả cân, đạn dược, bao dây
cáp, chế tạo bình điện xe hơi, chất mầu trong sơn, thuốc
nhuộm, men bóng đồ gốm. Đã có thời kỳ, xăng dầu được pha
thêm chì để tăng hiệu năng và phẩm chất. Tuy nhiên, từ tháng
1 năm 1996, Hoa Kỳ đã cấm pha thêm chì vào xăng chạy xe hơi,
ngoại trừ xăng dùng cho máy bay và các xe không lưu hành
trên trục lộ giao thông. Một số quốc gia đang phát triển vẫn
tiếp tục pha chì trong xăng.
Khi vào môi trường, các
phân tử chì lan tỏa rất xa trong không khí. Mưa làm chì rớt
xuống mặt đất và nước.
Nguồn
gốc ngộ độc chì
Nguồn gốc đưa tới nhiễm
độc chì gồm có:
- Sơn nhà. Tại Hoa Kỳ, đa
số nhà xây cất trước năm 1978 đều dùng sơn pha chì, nhưng
sau đó, chính quyền liên bang đã cấm dùng. Hiện nay, vẫn còn
khoảng 38 triệu căn nhà được sơn với sơn pha chì.
Chì bám ở tường, trần
nhà, sàn nhà, khuôn cửa của các ngôi nhà cũ này. Nếu lớp sơn
bị
tróc, chì rơi ra ngoài và
gây ngộ độc, nhất là khi trẻ em chơi dưới đất, vô tình ăn
phải.
Theo quy luật của liên
bang, người bán nhà phải cho người mua biết nếu có dư sản
chì trên kiến trúc hay không.
- Đất chung quanh nhà
nhiễm chì từ các lớp sơn cũ
- Bụi bậm trong nhà có
chì từ sơn tường cũ hoặc đất theo
giầy dép mang vào nhà.
- Chì trong nước nếu dùng
ống dẫn nước bằng kim loại có chất chì. Từ thập niên 1980,
Hoa kỳ đã cấm sử dụng ống nước có chì và hàn chì trong hệ
thống dẫn nước công cộng. Các ống kim loại hàn bằng chì có
thể nhả các phân tử chì
vào nước.
- Chì có nhiều trong đất,
nhất là gần trục lộ giao thông, nhà xây cất từ lâu, vườn
hoang, hầm mỏ, khu kỹ nghệ, khu chứa rác, lò đốt. Làm việc
hoặc sinh sống ở gần các khu vực này có thể bị nhiễm chì qua
nước uống, thực phẩm, không khí.
- Công nhân làm việc
trong kỹ nghệ luyện chì, làm dụng cụ bằng nhựa plastic, hàn
cắt thép, làm bình điện xe tự động, kỹ nghệ đồ gốm, đập phá
nhà cũ, tu bổ bình tản nhiệt xe hơi…đều dễ dàng nhiễm chì.
- Chì trong xăng xe hơi.
Đây là nguồn chì khá lớn phát ra từ ống khói xe. May mắn là
từ năm 1980, Hoa Kỳ đã dần dần loại bỏ chì ra khỏi xăng dầu.
- Đồ chơi trẻ em, xích
đu hoặc bàn ghế cũ quét với sơn có nhiều chì.
- Thực phẩm nước uống
đựng trong bát đĩa, bình chứa phủ
men bóng.
- Rau, trái cây đôi khi
có bụi chì bám vào, nên cần được rửa sạch trước khi ăn.
- Rượu
whisky sản xuất
lậu với máy chưng cất hàn bằng chì cũng có thể có chì.
- Thuốc lá nhả ra một
lượng chì đáng kể.
- Hộp kim loại hàn bằng
chì để đựng thực phẩm.
- Trong một vài mỹ phẩm (Kohl)
hoặc thuốc nhuộm tóc, keo xịt tóc sản xuất từ các
quốc gia Đông Nam Á châu, Ấn độ có hàm lượng chì khá cao
Tại Việt Nam, ngộ độc chì
là vấn đề thường thấy và gây ra nhiều ảnh hưởng xấu cho sức
khỏe mọi người. Tuy nhiên, dường như dân chúng chưa ý thức
được sự hiện diện và nguy hại của rủi ro này, vì thiếu hướng
dẫn cũng như vì môi trường nơi đây còn quá ô nhiễm với mọi
tác nhân gây bệnh.
Ngoài các nguồn chì kể
trên, chì còn đến từ thực phẩm thực vật như rau muống, rau
rút, cần nước, ngó sen…được trồng ở nơi có nguồn chất thải
kỹ nghệ chứa nhiều kim loại như chì, kẽm.
Các loại bình thiếc chứa
nước, chưng cất và đựng rượu có hàm lượng chì khá cao.
Khói
thuốc lá cũng có nhiều chì, mà bà
con mình tiêu thụ thuốc lá có hạng trên thế giới.
Ở vùng nông
thôn, các em chơi bi làm các viên bi tròn bằng chì, đánh đáo
với các cục chì dẹp, đúc chì làm vật nặng kéo dây câu cá
hoặc phụ việc tại các cơ sở làm bình điện xe hơi, sửa xe…thường
xuyên tiếp cận với chì.
Các loại đồ chơi ngoài
vườn làm bằng kim loại hàn chì rồi sơn với nước sơn pha chì,
các bàn ghế nhỏ cho trẻ em chơi làm bằng nhựa phủ mầu sơn
chì.
Hàng ngày, trên các trục
giao thông đô thị, xe cộ tắc nghẽn, khói xăng
dầu thả ra rất nhiều bụi,
khói chì vào khách qua đường, ngồi xe…
Mực viết cũng có chì, rồi
lại còn bút chì, đồ sứ như chén đĩa ly tách mẫu mã đẹp vẽ
nhiều mầu sắc rực rỡ với chất mầu có nhiều chì phụ gia. Khi
tiếp xúc với thức ăn nóng, thức ăn có chất acit như dưa
chua, nước hoa quả, sữa, rượu bia, chì trong bột mầu sẽ thôi
ra.
Nhìn đâu cũng thấy chì….
Chì vào
cơ thể bằng cách nào
Chì nhiễm
vào cơ thể qua:
- Qua đường hô hấp, khi
bụi bặm và không khí theo hơi thở vào phổi rồi mau chóng
chuyển sang máu.
- Qua ăn uống thực phẩm
có chì hoặc tay dính chì đưa lên miệng trong khi làm việc.
Hàm lượng chì hấp
thụ vào máu tùy theo tuổi
và tùy theo lượng thực phẩm trong dạ dày. Khi ăn no, chỉ có
6% chì chuyển sang máu, còn lúc đói bụng thì có tới 60% chì
vào máu.
Với cùng số lượng chì ăn
vào, trẻ em hấp thụ sang máu nhiều hơn người lớn.
- Qua lớp da, tuy ít khi
xẩy ra, đặc biệt là khi da bị trầy trụa, thương tích.
Từ máu, chì chuyển vào
các cơ quan như gan, thận, não,
lá lách, cơ bắp, tim…
Sau vài tuần lễ, đa số
chì xâm nhập xương và răng và ở đó cả vài chục năm. Phần còn
lại theo nước tiểu thải ra ngoài.
Nếu thường xuyên tiếp cận
với chì, hàm lượng chì trong cơ thể sẽ tích tụ mỗi ngày một
nhiều.
Ảnh
hưởng của chì với sức khỏe
Dấu hiệu của ngộ độc chì
thường thường xuất hiện rất âm thầm, khó mà sớm phát giác.
Chỉ khi nào chì tích tụ tới mức độ cao, bệnh mới rõ rệt
nhưng các triệu chứng cũng không có gì đặc biệt.
Ở trẻ em, nhiễm độc cấp
tính khiến cho các em trở nên cáu kỉnh, kém tập trung, ói
mửa, dáng đi không vững, lên cơn kinh phong. Trường hợp mãn
tính, các em có dấu hiệu chậm trí, hay gây gổ, lên kinh
thường xuyên, đau bụng, thiếu máu, suy nhược cơ bắp, suy
thận, đôi khi có thể đưa tới tử vong.
Thường thường, trẻ em bị
tác hại của chì trầm trọng hơn ở người trưởng thành, đặc
biệt là dưới 6 tuổi vì hệ thần kinh còn non yếu và khả năng
thải độc chất của cơ thể chưa hoàn chỉnh. Một số em có thể
bị nhiễm ngay từ khi còn ở trong lòng mẹ hoặc bú sữa mẹ có
hàm lượng chì cao. Tới khi lớn, các em tiêu thụ thực phẩm có
chì, nuốt chì lẫn trong đất, bụi khi bò chơi trên mặt đất
hoặc ăn các mảnh vụn sơn tường nhà cũ.
Khi ngộ độc chì, người
lớn hay than phiền đau tê ở đầu
ngón chân, tay; bắp thịt mỏi yếu; nhức đầu, đau bụng,
tăng huyết áp, thiếu máu, giảm trí nhớ, thay đổi tâm trạng,
xảy thai, kém sản xuất tinh trùng…
Lâu ngày, bệnh trở thành
mãn tính, đưa tới suy thận, tổn thương thần kinh ngoại vi,
giảm chức năng não bộ.
Chẩn
đoán
Thử máu là phương thức
hữu hiệu để đo mức độ chì trong
máu. Chỉ cần lấy một chút xíu máu ở tĩnh mạch hoặc
đầu ngón tay là đủ.
Mức độ không an toàn của
chì trong máu là từ 10mcg/dl trở lên.
Điều
trị
Điều tiên quyết trong
chữa trị ngộ độc chì là phải chấm dứt tiếp cận với nguồn
phát sinh ra kim loại này để giảm nồng độ chì trong máu.
Ngộ độc trầm trọng được
điều trị với một loại thuốc đặc biệt mà khi vào cơ thể,
thuốc sẽ bám vào chì để
thải ra ngoài theo nước tiểu.
Phòng
ngừa ngộ độc chì
Sau đây là mấy biện pháp
để giảm thiểu và bảo vệ với ngộ độc chì:
1. Nhờ một chuyên viên hóa chất kiểm soát coi căn
nhà mình đang ở có tàn dư chì hay không, đặc biệt nếu là nhà
xây cất trước năm 1978.
2. Nếu sinh sống tại vùng có rủi do ngộ độc chì,
nên áp dụng các phương thức phòng tránh như sau:
- Rửa tay trước khi ăn và
trước khi đi ngủ, đặc biệt là với trẻ em chơi dưới đất.
- Thường xuyên lau sạch
sàn nhà, bàn ghế với khăn ướt
- Đừng cho con trẻ chơi
gần trục lộ giao thông, cầu cống
- Ăn uống đầy đủ chất
dinh dưỡng, đặc biệt là nhiều sắt và calci, để giảm thiểu sự
hấp thụ của chì từ bao tử vào máu.
- Nếu trong nhà có hệ
thống ống dẫn nước bằng chì, hãy để nước chẩy tự do từ 30-60
giây trước khi dùng để loại các vẩn chì. Nên uống nước lạnh
từ ống, vì nước nóng hấp thụ chì nhiều hơn, nhất là không
nên dùng nước nóng trong vòi nước để pha sữa cho trẻ em.
Ta có thể hỏi cơ quan y
tế tại địa phương hoặc công ty cung cấp nước để coi xem có
thể thử nghiệm chì trong nước. Trong nước, chì không cho mùi
vị hoặc mầu sắc nên khó biết
- Tắm rửa, thay quần áo,
dày dép trước khi về nhà, nếu làm việc nơi có chì.
3. Tu sửa nhà cũ có sơn pha chì:
- Mang thiết bị và mặc
quần áo bảo vệ trong khi làm việc.
- Không ăn uống nơi nghi
có chì
- Dùng giấy nhám đặc biệt
để loại bỏ sơn có chì trên tường hoặc cửa.
Kết
luận
Tiếp cận ngắn hạn với sơn
có pha một số lượng rất nhỏ chì ít khi đưa đến ngộ độc. Tuy
nhiên nếu tiếp cận lâu ngày dù rằng ít một, e rằng sẽ có
nhiều nguy hại, đặc biệt là với trẻ em.
Đồ chơi trẻ em nhập cảng
từ Trung quốc bị thu hồi trong thời gian vừa qua không đáp
ứng đòi hỏi an toàn của Hoa Kỳ, vì được làm đẹp với loại sơn
pha chì quá cao. Do đó xin các bậc phụ huynh vứt bỏ ngay các
đồ chơi này. Nếu các em đã chơi với chúng từ lâu ngày, nên
hỏi ý kiến bác sĩ gia đình coi có cần thử mức độ chì trong
máu các em.
Bác sĩ
Nguyễn Ý-Đức
Texas-Hoa Kỳ. |
VỀ MỤC LỤC |
|
CÓ TIỀN Chuyện
phiếm của Gã Siêu. |
Năm nay tết đến hơi
sớm, vỏn vẹn sau Giáng sinh có một tháng, thành thử gây nên
nhiều nỗi truân chuyên, bất tiện cho gã.
Chuyện là trong số báo
trước, gã đã long trọng cầu chúc quí vị một năm mới đầy hạnh
phúc. Thế là yên chí “nhớn” mà nhởn nhơ phè phỡn theo kiểu
“hưởng xuân kẻo hết xuân đi”.
Ai dè trong lúc thả hồn
theo điếu thuốc lào mà mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây, thì
cụ chủ nhiệm ra lệnh qua điện thoại :
- Số tháng hai, chú mày
phải tán hiêu tán vượn cho một bài nữa mang hơi hướm tết
đấy.
Gã bèn gân cổ cãi lại,
thì cụ ấy bèn cà kê dê ngỗng :
- Này nhé, báo đề số
tháng hai thì phải ra lò và trình làng vào cuối tháng giêng
tây, tức là còn ở “trong mùng” ta đứt đuôi con nòng nọc rồi
chứ gì. Hơn thế nữa các cụ ta vốn thường bảo: tháng giêng là
tháng ăn chơi kia mà.
Rồi cụ bồi thêm một màn
năn nỉ ỉ ôi và một cú đắc nhân tâm nữa làm gã ngọng luôn.
Cụ bảo :
- Thôi mờ, chịu khó
viết đi nhé. Bài của chú mày bắt khứa lắm đấy.
Thế là gã bèn tịt ngòi,
thầm “khẩu phục tâm phục” cụ chủ nhiệm thật là… quá đáng.
Mà đúng thế, đang khi
thiên hạ ăn tết, thì có lẽ cụ chủ nhiệm lại hò hét, đốc thúc
những người cộng tác với mình ráo riết lên khuôn và xuất
xưởng số Mục vụ tháng hai theo khẩu hiệu :
- Làm ngày không đủ,
tranh thủ làm đêm…Xong xuôi rồi mình ăn tết muộn, có chết
thằng tây đen nào đâu.
Giống như vua Quang
Trung ngày xưa, thần tốc hành quân, đi ngày đi đêm, hẹn thề
với binh tướng sẽ ăn tết vào ngày mồng năm tại đất Thăng
long.
Và quả thực, đúng ngày
mồng năm tết năm Kỷ dậu 1789, vua Quang trung cùng với binh
tướng của mình, đã chiến thắng quân nhà Thanh sang lấn chiếm
nước ta lấy cớ phù Lê. Tướng nhà Thanh là Sầm nghi Đống phải
thắt cổ mà chết.
Tết năm nay là tết Tân
tỵ, cầm tinh con rắn. Đáng lý ra theo thói quen vốn có từ
lâu trong nghề làm báo và viết lách, gã phải xông đất vào
hang ổ và làm một bài về loài rắn, mới đúng điệu.
Vì thế, gã cố công tích
lũy được một mớ những sự việc liên quan tới loài rắn.
Trước hết là trong Kinh
thánh. Ma quỉ đội lốt con rắn để mà cám dỗ ông bà nguyên tổ.
Rồi nạn rắn độc đã giết hại dân Do thái trong sa mạc. Có lẽ
vì thế mà người ta thâm thù loài rắn. Hễ thấy rắn là phải
đập liền tù tì .
Thế nhưng, vâng lệnh
Đức Chúa Trời, Mai sen đã đúc con rắn đồng và treo lên cao
nơi hoang địa, để những ai bị rắn độc cắn, chỉ cần nhìn lên
con rắn đồng là bèn được khỏi. Có lẽ vì thế mà ngành dược đã
lấy cho mình biểu tượng con rắn.
Tiếp đến là trong ngôn
ngữ bình dân. Tục ngữ Việt Nam đã để lại khá nhiều câu nói
về loài rắn :
Chẳng hạn : rắn đến
nhà, chẳng đánh thời quái. Nghĩa là gặp rắn đâu là phải
phang ngay lập tức.
Chẳng hạn : cõng rắn
cắn gà nhà. Nghĩa là mượn tay người ngoài mà giết hại anh
em, đồng bào của mình.
Chẳng hạn : Rắn già rắn
lột, người già người chui tọt vào săng. Nghĩa là rắn già có
thể nhờ lột mà trẻ lại, còn người già thì chỉ có nước mặc
cho mình chiếc “chemise gỗ” mà thôi.
Chẳng hạn : Rắn rết bò
vào, cóc nhái bò rai. Nghĩa là bọn hung dữ đi tới đâu, thì
người hiền lành yếu kém phải lo mà chạy cho xa.
Còn nhiều nhiều nữa
những câu tục ngữ nói về loài rắn.
Và sau cùng là trong
đời thường. Phải, trong đời thường thì tại Việt Nam rắn là
món nhậu đặc sản thật quí hiếm. Người ta không bỏ đi cái gì
của rắn cả.
Này nhé, da rắn mà
nướng lên xơi cũng dòn dòn. Bằng không thì lột ra để mà làm
bóp, làm ví cho mấy bà mấy cô.
Nọc rắn tuy có thể làm
chết người, nhưng lại là một dược liệu có giá trị. Người ta
thường nuôi rắn độc để lấy nọc và nọc rắn còn đắt hơn cả
vàng ròng.
Máu rắn có sức tăng
cường sinh lực, chống đau lưng nhức mỏi. Vì thế, dân bợm
nhậu thường hay treo rắn lên, chặt cái đuôi và kê mồm vào
mút lấy mút để, uống lấy từng giọt máu của nó, hay cho nhỏ
xuống cốc rượu mà…tu.
Thịt rắn thì làm món
nhậu. Phải có tiền nhiều thì mới dám bước chân vô nhà hàng
đặc sản mà kêu món rắn.
Riêng các cụ có tí tuổi
thì thường khoái món “tửu xà” nghĩa là rượu ngâm rắn, hay
rắn ngâm rượu. Phải có đủ bảy hay chín loại rắn độc ngâm
trong keo rượu thì mới đúng là “tửu xà” thứ thiệc. Uống vào
dãn gân dãn cốt, không bổ ngang thì cũng bổ dọc. Không bổ
nháo bổ nhào thì cũng bổ chẩng.
Theo thiên hạ cho hay :
- Rắn càng độc thì càng
quí, càng đắt và càng có hậu quả bổ dưỡng cao.
Tuy nhiên, người Việt
Nam ta ở nước ngoài lâu ngày lây nhiễm thói tục phương tây.
Rất hiếm người còn khoái món thịt chó.
Vì thế, nếu gã có trình
bày về những món rắn, thì e rằng quí bà quí cô, con cháu Evà
sẽ kêu lên oang oác :
- Eo ơi, đồ ma đồ quỉ.
Vì thế, gã xin chuyển
hệ qua một đề tài khác vui vẻ hơn và tươi mát hơn trong lúc
trà dư tửu hậu của mấy ngày tết. Đó là đề tài “Có tiền”.
Trước hết, gã xin cầu
chúc bàn dân thiên hạ trong năm con rắn này , nếu là thương
gia thì được buôn may bán đắt và tiền chất đầy nhà, còn nếu
là viên chức hay lao động thì vớ được một cái “job”, một
công việc với đồng lương khấm khớ một chút.
Hay như Tú Xương đã
long trọng :
- Nó lại mừng nhau cái
sự giàu,
Trăm ngàn vạn mớ để vào
đâu ?
Phen nay ắt hẳn gà ăn
bạc,
Đồng rụng, đồng rơi, lọ
phải cầu.
Thế nhưng, có tiền nên
buồn hay nên vui ?
Trước câu hỏi này, chắc
chắn nhiều người cho rằng gã là kẻ khù khờ, bởi vì chỉ những
kẻ khù khờ mới hỏi như vậy mà thôi. Còn những người khôn
ngoan sành đời, hẳn phải mừng húm khi đồng tiền rủng rỉnh
trong túi.
Cách đây không lâu, gã
nhận được một cái “meo” của đứa cháu gái bên Mỹ. Chẳng hiểu
nó thuổng ở đâu cái câu “ranh ngôn” thuộc phái thực dung như
sau :
- Thiên đàng là lãnh
lương Mỹ, ở nhà Anh, đi xe Đức, ăn món Tàu và lấy vợ Việt.
- Còn hỏa ngục là đi xe
Mỹ, lấy vợ Anh, ăn món Đức, ở nhà Tàu và lãnh lương Việt.
Xem như thế, lấy được
một cô vợ Việt quả là hạnh phúc bảy mươi đời, bởi vì người
đàn bà Việt nam vốn dịu hiền, chung thủy, biết dạy con
và…chiều chồng. Được khen như thế, hẳn quí bà quí cô sẽ rất
lấy làm hãnh diện, phổng cả cái lỗ mũi lên ấy. Chứ còn lạnh
lùng và phớt tỉnh như đờn bà Ăng lê thì ai mà thèm ham.
Còn lương Mỹ thì khỏi
phải chê vừa nhiều lại vừa được tính bằng đô la, thấy mà
ham. Đem cái lương Mỹ ấy về Việt nam thì tha hồ mà ăn tiêu
vung vít. Chứ còn “bèo” như lương Việt, thì chỉ có nước chết
đói.
Nhìn vào cuộc sống, mọi
người bất kể già trẻ lớn bé, nam phụ lão ấu và ngay cả người
mù cũng vẫn hiểu được giá trị của đồng tiền, ngay cả người
điếc cũng vẫn nghe được âm thanh của bản nhạc chỉ có hai nốt
đô và la.
Về vấn đề này, gã xin
“no table”, nghĩa là “không bàn” đến vì có một lần gã đã nói
tới, và hơn thế nữa nó lại quá rõ ràng và minh bạch, như hai
với hai là bốn. Gã chỉ xin ghi lại nơi đây một vài tư tưởng
lẩm cẩm được đăng rải rắc trên các báo tại Việt Nam :
- Tiền trước tiên tôn
ta thành thần, thành tiên, thành thánh…Tiền tạo thành tích.
Tiền trong túi, ta trở thành tiên tiến, ta trở thành tài
trí, thân thế ta tăng trưởng, tên tuổi ta thăng tiến, thình
thương ta thêm thắm thiết, tất thảy trân trọng ta. Tay thủ
tập tiền, tôn ti trật tự tiêu tán. Tù tội tiêu tan, tội thì
thành trong trắng, tù thì tha thứ. Thua thành thắng. Thất
thu thành thành tựu. Thấy tiền, ta tựa thấy tiên, thấy trước
tất thảy. Tiền trợ thủ ta trên tất tật.
Túng tiền, tư tưởng
tinh thần tiêu tùng. Trên thiếu tin, thắng thành thua, tài
tình thành tai tiếng. Túng tiền, tất thua thiệt. Tình thương
tan tác. Trong trắng thành tối tăm. Thiếu tiền, thân thế tựa
tre tàn. Tủi thân, trở thành ti tiện. Tham thì thâm thủng
tiền tỷ, tiến tới tù tội, tư tưởng thiếu tự tin, tìm thang
thuốc tự tử. Thôi, túng thiếu tiền thì tiêu tan, tiêu tán,
tiêu tùng tất tật. Thật thảm thiết.
Một tác giả khác thì
viết :
- Đồng tiền mạnh mẽ
xiết bao,
Bẻ cong chân lý, lật nhào công minh.
“Vàng”, “Lầu”, “Đô”, “Xế”…hiển linh.
Có bây, “ pháp luật nghiêm ninh” trò
đùa.
Buồn thay ! “Vật chất” làm vua.
“Đức”, “Trí”, “Lễ”, “Nghĩa” phải thua
đồng tiền.
Còn trên báo Tuổi trẻ Cười, số “Xuân
Canh Ngọ” gã đọc được :
- Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên,
Ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn !
Tiền nhiều, mặc kệ…vẫn hơn.
Dẫu cho nhân sự ngả nghiêng tứ bề,
Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo.
Phất tay một cái, nhằm nhè gì ông.
Hay như thiên hạ bây giờ thường bảo :
- Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi
trẻ,
Là sức khỏe của tuổi
già,
Là cái đà của danh
vọng,
Là cái lọng để che
thân,
Là cán cân của công lý.
Ý thức được giá trị
tuyệt vời như vậy của tiền bạc, cho nên thiên hạ ai cũng
tham tiền tham bạc. Hình như cái con “virus tham tiền” đã
tiềm ẩn trong mạch máu, trong tim gan phèo phổi, trong lục
phủ ngũ tạng của mọi người, đờn ông cũng như đờn bà, từ lúc
cha sinh mẹ đẻ tới lúc nhắm mắt buông tay thở hơi cuối cùng.
Chuyện xảy ra bên nước
Đức cách đây vài chục năm.
Số là hôm ấy các đội
banh quốc tế đang tranh giải vô địch. Sân vận động chặt ních
như nêm. Kẻ hèn có, người sang có. Các vị tai to mặt lớn lại
càng nhiều.
Khi tan cuộc, mọi người
hối hả kéo nhau ra về, thì bỗng thấy ở ngay giữa lối ra vào
có rải rắc nhiều tờ giấy bạc năm trăm của một hay nhiều khán
giả hớ hênh nào đó đánh rơi.
Ai cũng lấm la lấm lét,
ngó trước nhìn sau…Thế rồi, kẻ trước người sau, tất cả đoàn
người đều lần lượt cúi xuống…sửa giày. Có kẻ sửa giày nhiều
lần.
Người sang cũng như kẻ
hèn. Thượng lưu cũng như hạ cấp. Không ai trao đổi với ai
một tiếng, nhưng ai cũng cảm thấy vui như mở cờ trong bụng.
Đi xem đấu bóng lần này không ngờ mà được thần tài đưa đón.
Về đến nhà, xoa tay cho
sạch, bẻ ngón tay cho mềm, thò vào túi, rút xấp bạc ra, sung
sướng, hí hửng.
Thế nhưng, dưới ánh đèn
sáng, nhìn kỹ lại thì ôi thôi, khóc vì hổ ngươi, cười ra
nước mắt. Vừa tức lại vừa nhục. Tức cho ai mà cũng nhục cho
ai. Các ngài đã bị sập bẫy trong một cuộc chơi trắc nghiệm
của một tổ chức oái oăm nào đó.
Thì ra toàn là tiền
giả, toàn là bạc dổm.
Ý thức được giá trị
tuyệt vời như vậy của tiền bạc, cho nên thiên hạ lao mình
vào việc tìm tiền kiếm bạc, như con thiêu thân lao mình vào
lửa, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, bất chấp mọi thủ đoạn
mánh mung, cho dù phải chà đạp lên người khác bằng những
phương thế bóc lột và bất công, miễn sao vơ vét về cho đầy
túi tham của mình.
Ngày xưa, có người ở
nước Tề thích vàng đến mê vàng. Sáng sớm thay áo quần đi ra
chợ. Tới hàng đổi tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi
chạy đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi :
- Tại sao giữa đám đông
mà anh lại dám đoạt vàng của kẻ khác như thế ?
Anh ta trả lời :
- Lúc thấy vàng, tôi
đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa. Trước mặt tôi, chỉ có
vàng mà thôi.
Nhất là những kẻ có tí
chức tí quyền, nếu để cho lòng tham thao túng, thì quan lớn
đớp miếng to, quan nhỏ xơi miếng bé, chẳng trừ một miếng nào
cả, khiến cho bọn dân đen, khố rách áo ôm nhiều phen phải
lao đao, xất bất xang bang.
Đang lúc gã ngồi hý
hoáy viết những hàng chữ này, thì đài truyền hình loan tin
về vụ Tổng thống Phi luật tân, ông Estrada, bị tố giác tội
danh tham nhũng, nếu không khéo thì sẽ đi đoong, bị mất chức
như chơi.
Cách đây mấy năm, tuần
báo Newsweek đã dành những trang chính để đăng tải hồ sơ
tham nhũng của cựu tổng thống Nam hàn Ro Te Wu, người trước
đó đã công khai thú tội đã nhận tiền hối lộ của nhiều công
ty.
Các biện lý đã thẩm vấn
36 nhà doanh nghiệp hàng đầu trong nước có dính líu tới vụ
tham nhũng này. Kết quả điều tra, người ta thấy đa số các
công ty lớn nhất của Nam hàn đều ít nhiều đã bỏ tiền ra mua
chuộc ông tổng thống này, chẳng hạn công ty Huyndai, công ty
Samsung...Tổng cộng trong 5 năm làm tổng thống, ông Ro Te Wu
đã nhận tất cả 307 triệu đô la tiền hối lộ của 30 nhà doanh
nghiệp.
Rồi tạp chí Time, số ra
ngày 25 tháng 3 năm 1999, cũng đã cho công bố một tài liệu,
theo đó tổng thống Suharto và gia đình ông đã vơ vét được 15
tỷ mỹ kim trong 32 năm cầm quyền của ông tại Indonesia.
Tạp chí Time còn cho
biết là ngay sau khi từ chức, ông đã cho chuyển một số tiền
là 9 tỳ mỹ kim từ ngân hàng Thụy sĩ sang một ngân hàng khác
ít được biết đến tại Áo…
Còn những kẻ vai nặng
chân trơn, trong tay chẳng có tí chức tí quyền, thì sẽ phải
hùng hục kéo cày, làm ngày làm đêm miễn sao kiếm được một mớ
tiền đem về nuôi vợ nuôi con. Thậm chí có kẻ mê kiếm tiền
đến nỗi quên cả vợ, bỏ cả con, không ngó ngàng chi tới gia
đình, khiến vợ tủi thân đi tìm an ủi nơi vòng tay người
khác, còn con cái thì ngán ngẩm với bầu khí lạnh nhạt của
gia đình nên tìm lãng quên trong xì ke ma túy, lang thang đi
bụi đời.
Một khi đã có tiền,
người ta liền nghĩ ngay tới chuyện “mua tiên”, bởi vì như
các cụ ta thường nói :
- Có tiền mua tiên cũng
được.
Thế nhưng, chính cái
chuyện “mua tiên” này mới thực là nhiêu khê, rắc rối và gây
nên lắm nỗi thương đau.
Thực vậy, có những ông
chồng thừa tiền về Việt Nam ăn chơi phè phỡn, lại còn kiếm
thêm tí tình còm vắt vai bằng cách tung tiền ra đổi lấy một
“cô tiên bé bỏng”. Vừa đỡ hao tốn, lại vừa bảo đảm an toàn
trước sida, cơn bệnh thảm khốc của thế kỷ.
Còn ở Việt Nam, mấy ông
quan thừa tiền nhưng hay rửng mỡ, thường tìm đến những quán
bia ôm, cà phê ôm, thậm chí có cả…thịt chó ôm để mà du hí.
Tới lúc bị những “con gà móng đỏ” chém đẹp, thì chỉ còn
nước ngửa mặt lên mà than thở cả tiếng :
- Bắc thang lên hỏi ông
trời,
Đem tiền cho gái có đòi
được không ?
Những chuyện tình còm
trên đây mà đổ bể, thì bảo đảm ”chăm phần chăm”, chắc ăn như
bắp là nhà tan cửa nát.
Có những ông thừa tiền,
bèn đi tìm “nàng tiên nâu” để giải sầu. Lúc đầu thì hút,
hít. Lúc sau thì chích choác. Chỉ một thời gian là thân tàn
ma dại vì bị “nàng tiên nâu” là xì ke, ma túy, bạch phiến nó
vật đến xùi cả bòn bọt mép, lòi cả xương sống xương sườn
phơi ra.
Có những ông vác tiền
về Việt Nam đầu tư, bởi vì lòng tham của con người thì không
đáy. Không thì muốn cho có. Có ít thì muốn cho có nhiều. Có
nhiều thì muốn có nhiều hơn nữa. Chẳng biết đàng nào mà mò.
Đầu tư vào công chuyện
nghiêm chỉnh chưa chắc đã ăn ai, lại còn đầu tư vào những
chuyện lem nhem mờ ám khiến cho tiền mất tật mang, thân bại
danh liệt. Đô la vàng bạc thì bị ông nhà nước tịch thu, còn
bản thân thì bị chiếu cố ngồi tù. Chẳng cái dại nào bằng cái
dại này.
Nếu hai chữ “mua tiên”
ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, là mua lấy những phương
tiện để hưởng thụ, thì quả là bao la, khó mà xác định cho
được, có viết mãi viết hoài cũng chẳng bao giờ hết.
Kinh nghiệm đời thường
cho thấy tiền bạc có thể mua được nhiều thứ, nhưng cũng có
nhiều thứ tiền bạc chẳng thể nào mua được. Bởi đó, H. Ibsen
đã viết như sau :
- Tiền bạc có thể cho
ta lớp vỏ bên ngoài của thân xác, chứ không thể cho ta thực
chất bên trong của tâm hồn. Tiền bạc có thể mua cho ta nhiều
đồ ăn, nhưng không thể mua cho ta sự ngon miệng. Tiền bạc có
thể đem lại cho ta nhiều quen biết, nhưng không thể đem lại
cho ta tình thân. Tiền bạc có thể mướn cho ta nhiều kẻ hầu
hạ, nhưng không thể mướn cho ta những người trung thành.
Tiền bạc có thể tạo nên cho ta nhiều cuộc vui, nhưng không
thể tạo nên cho ta hạnh phúc.
Chính vì thế mà trên
cõi đời này, không phải chỉ kẻ nghèo mới khổ và mới khóc,
bởi vì không thiếu những người giàu cũng khổ và cũng khóc.
Thực vậy, Paul Getty là
chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh quốc. Cơ sở của ông rộng
trên bốn mươi mẫu tây. Mỗi năm thu nhập hàng tỷ mỹ kim. Thế
nhưng, ông phải làm việc rất vất vả và cực nhọc từ ba giờ
sáng tới tận khuya. Chung quanh ông có đến mười thám tử hộ
vệ, bởi vì ông thường xuyên nhận được những bức thư tống
tiền và hăm dọa.
Ông than :
- Tôi là người chẳng
bao giờ biết hạnh phúc là gì cả.
Và cay đắng hơn nữa là
khi giờ chết đến, chúng ta chẳng mang được tiền bạc đã chắt
chiu kiếm tìm sang thế giới bên kia để mà hưởng dùng, đúng
như tục ngữ đã bảo :
- Vua Ngô ba mươi sáu
tấn vàng,
Chết xuống âm phủ,
chẳng mang được gì.
Tiền bạc ấy sẽ bị chia
năm xẻ bảy cho con cho cháu, lắm khi chúng ta chưa chết mà
chúng nó đã cãi nhau chí chóe và hạch sách nhau về chúc thư
chúc thiếc.
Tiền bạc ấy có khi lại
rơi vào tay nhà nước hay những kẻ xa lạ. Quả là :
- Dạ tràng xe cát bể
Đông,
Nhọc nhằn mà chẳng nên
công cái gì.
Ở bên Mỹ có một bà lão
ăn mày. Bà ta quanh năm vất vả rảo qua các lối ngõ để ăn
xin. Không kể chi tiết đông giá lạnh, bà ta chỉ mặc phong
phanh một manh áo rách, vá trên vá dưới, vá chằng vá đụp. Bà
van xin thảm thiết, kể lể cảnh túng cực của mình. Người
thương tình bố thí, kẻ quen mặt xua đuổi, nhưng bà vẫn kiên
tâm.
Tối đến, bà trở về túp
lều gỗ che bằng những thùng giấy. Bà chỉ ăn những mẩu bánh
thừa người ta bố thí cho. Khi đau yếu, bà cũng chẳng dám
uống thuốc. Vì sống quá kham khổ như vậy, bà ngã bệnh và
chết.
Nhà chức trách thuộc sở
vệ sinh được tin liền tới nơi. Chui vào căn lều nhỏ, người
ta thấy bà ta nằm chết cứng đơ, nhưng tay vẫn chỉ vào góc
nhà. Theo hướng tay của bà, người ta đào bới góc nhà ấy và
đã tìm thấy một cái hộp, trong đó đựng 127.000 đô la, tính
ra gần hai tỷ đồng Việt Nam bây giờ. Thật là một món tiền
khổng lồ những lại vô ích cho chủ nó.
Để kết luận, gã xin
mượn tạm nơi đây một tư tưởng thật độc đáo, mà gã cũng chẳng
rõ xuất xứ từ đâu :
- Tiền có thể mua được
một ngôi nhà, nhưng không mua được một mái ấm.
Tiền có thể mua được
một cái giường êm ấm, nhưng không mua được một giấc ngủ ngon
lành.
Tiền có thể mua được
một chiếc đồng hồ, nhưng không mua được thời gian.
Tiền có thể mua được
một cuốn sách, nhưng không mua được kiến thức.
Tiền có thể mua được
một địa vị, nhưng không mua được lòng trọng kính.
Tiền có thể mua được
thuốc men, nhưng không mua được sức khỏe.
Tiền có thể mua được
mua được máu, nhưng không mua được sự sống.
Tiền có thể mua được
tình dục, nhưng không mua được tình yêu.
Bạn thấy đấy, tiền bạc
chẳng phải là tất cả. Nó không những vô nghĩa mà còn mang
lại cho con người đủ loại thống khổ.
Gã nói với bạn tất cả
những điều này, bởi vì gã là bạn của bạn.
Và vì là bạn của bạn,
gã muốn mang lấy nỗi đớn đau và thống khổ của bạn.
Vì thế, bạn hãy gửi hết
tiền của bạn cho gã và gã sẽ gánh chịu nỗi khổ đau thay cho
bạn.
Bạn sẽ không bao giờ
tìm được một người bạn nào đúng nghĩa hơn gã.
Tái
bút : phải tiền mặt đấy.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|