Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 51, Chúa Nhật 07.10.2007


MỤC LỤC 

Gaudium Et Spes   Cổ Võ Việc Phát triển Văn Hóa                                                Vatican 2

Tâm Thư Gởi Các Linh Mục (tiếp theo)                                             Đình Chẩn chuyển ngữ

LINH MỤC GIUSE MARIA NGUYỄN VĂN THÍCH (1891-1978)          Nhà Văn Hương Vĩnh

MẸ MARIA-NGƯỜI NỮ TỰ DO                                                              Pm. Cao Huy Hoàng

BA LOẠI CÁM DỖ TRONG LÒNG HỘI THÁNH VIỆT NAM                 Gs. Nguyễn Văn Thành

TRUYỀN HÌNH                                                                                         Lm. Lê Văn Quảng

NHỮNG CON VẬT TRÊN TÀU NÔ-E HÔM NAY                       Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

Một mình cứu 11 người                                                                                       Minh Giáng

TÌNH YÊU THA THỨ TẤT CẢ VÀ LUÔN TIN TƯỞNG           Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy chuyển ngữ

TƯ VẤN về Tâm Bệnh                                                                         Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức

NÓI CHUYỆN… DÊ                                                                      Chuyện phiếm của Gã Siêu


Gaudium Et Spes

Phần Thứ Hai

Chương II

Cổ Võ Việc Phát triển Văn Hóa 65*

 

53. Nhập đề. Ðặc điểm của một nhân vị là chỉ đạt tới nhân tính đích thực và trọn vẹn nhờ văn hóa, nghĩa là nhờ việc trau giồi những ưu phẩm và giá trị của bản tính. Vì vậy, mỗi khi đề cập đến cuộc sống nhân loại, bản tính và văn hóa liên kết với nhau hết sức chặt chẽ.

Theo nghĩa tổng quát, chữ "văn hóa" chỉ tất cả những gì con người dùng để trao dồi và phát triển các năng khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác; cố gắng chế ngự cả trái đất bằng trí thức và lao động; làm cho đời sống xã hội, đời sống gia đình cũng như đời sống chính trị trở thành nhân đạo hơn, nhờ sự tiến bộ trong các tập tục và định chế; sau hết, diễn tả, thông truyền và bảo tồn trong các công trình của mình, những kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn lao của các thời đại, để giúp cho nhiều người và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn.

Vì vậy, văn hóa nhân loại thiết yếu mang tính cách lịch sử và xã hội, và chữ "văn hóa" thường mặc thêm một ý nghĩa xã hội học cũng như dân chủng học. Chính vì ý nghĩa này mà người ta nói đến sự đa tạp của các nền văn hóa. Thực vậy, có nhiều cách xử dụng sự vật, nhiều cách làm việc và diễn tả tư tưởng, nhiều cách phụng tự và tạo nên thuần phong mỹ tục, nhiều cách thiết lập luật lệ và định chế pháp lý, nhiều cách phát triển khoa học, nghệ thuật và trau giồi thẩm mỹ, nên mới phát sinh nhiều cách chung sống và nhiều hình thức hòa hợp các giá trị của cuộc sống. Như thế, từ các định chế lưu truyền, hình thành một di sản riêng cho mỗi cộng đoàn nhân loại. Cũng do cách thức ấy mà hình thành một môi trường lịch sử nhất định của con người, bất cứ dân tộc nào hay thời đại nào, để từ môi trường đó con người rút ra những giá trị hầu thăng tiến nền văn minh nhân loại.

Ðoạn 1: Tình Trạng Văn Hóa Trong Thế Giới Ngày Nay 66*

54. Những lối sống mới. Tình trạng sinh sống của con người hiện đại về phương diện xã hội và văn hóa đã biến đổi sâu đậm, khiến con người có thể nói đến một kỷ nguyên mới của lịch sử nhân loại 1. Từ đó, mở ra những con đường mới để hoàn bị và bành trướng văn hóa rộng rãi hơn. Những con đường này đã được khai phá nhờ sự lớn mạnh của các ngành khoa học thiên nhiên, nhân văn và xã hội, nhờ sự phát triển kỹ thuật cũng như sự tiến bộ trong công cuộc khám phá và khéo léo tổ chức những phương tiện giúp con người liên lạc với nhau. Bởi đó, nền văn hóa hiện đại mang những đặc điểm này: các khoa học mệnh danh là khoa học chính xác phát triển tối đa óc phê bình; những nghiên cứu mới nhất về tâm lý học cắt nghĩa hoạt động của con người sâu xa hơn; các bộ môn sử học góp phần lớn lao giúp con người nhận định sự vật dưới khía cạnh biến đổi và tiến hóa; tập tục và cách sống ngày càng đồng nhất; hiện tượng kỹ nghệ và đô thị hóa cộng với những nguyên nhân khác đang phát huy đời sống tập thể tạo nên những hình thức văn hóa mới (văn hóa đại chúng), từ đó, phát sinh những cách cảm nghĩ, hành động và giải trí mới. Ðồng thời, sự phát triển trao đổi giữa các dân tộc và các tập thể khác nhau cũng mở rộng hơn cho mọi người và mỗi người các kho tàng của những hình thức văn hóa khác nhau. Và cứ thế, sẽ dần dần xuất hiện một hình thức văn hóa nhân loại đại đồng hơn, nhờ đó, nếu càng tôn trọng những điểm của các nền văn hóa khác nhau, càng diễn đạt và tiến gần đến sự hiệp nhất nhân loại hơn.

55. Con người, tác giả của văn hóa. Càng ngày càng có nhiều người, nam cũng như nữ, thuộc bất cứ tập thể hay quốc gia nào, ý thức được chính họ và những người xây dựng và sáng tạo văn hóa của cộng đoàn mình. Trên toàn thế giới, ngày càng gia tăng ý thức tự trị cũng như trách nhiệm. Ðó là điều rất cần để nhân loại trưởng thành trên bình diện tinh thần và luân lý. Ðó là điều sẽ xuất hiện rõ ràng hơn, nếu chúng ta quan tâm đến sự thống nhất thế giới và đến bổn phận chúng ta là phải kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn trong chân lý và công bằng. Do đó, chúng ta là chứng nhân của sự hình thành một nền nhân bản mới trong đó con người được định nghĩa trước hết tùy theo trách nhiệm của mình đối với anh em và đối với lịch sử.

56. Trở ngại và bổn phận. Trong những hoàn cảnh ấy, không còn gì đáng ngạc nhiên nếu con người vì cảm thức được trách nhiệm của mình trong việc phát triển văn hóa, nên nuôi những hoài bão cao xa, đồng thời cũng lo âu nhìn đến muôn ngàn mâu thuẫn trước mắt mình phải giải quyết:

Phải làm gì để sự trao đổi văn hóa phồn thịnh kia tạo được sự đối thoại đích thực và kiến hiệu giữa các tập thể và các quốc gia khác nhau mà không xáo trộn cuộc sống của các cộng đoàn, không phá hoại sự khôn ngoan của tiền nhân cũng như không làm tổn thương những đặc tính riêng của các dân tộc? 67*

Phải làm thế nào để phát huy sự truyền bá và sức linh động của nền văn hóa mới, mà không hủy diệt lòng trung thành gắn bó với di sản truyền thống? 68* Ðó là vấn đề đặc biệt khẩn cấp khi phải dung hòa văn hóa phát sinh từ sự tiến bộ lớn lao của khoa học và kỹ thuật với văn hóa được nuôi dưỡng bằng nền học vấn cổ điển theo những truyền thống khác nhau.

Làm sao có thể dung hòa sự phân tán rất nhanh chóng và ngày càng gia tăng của các bộ môn chuyên biệt với nhu cầu tổng hợp các bộ môn ấy và nhu cầu duy trì nơi con người khả năng chiêm ngưỡng và thán phục là những khả năng giúp con người đạt tới sự khôn ngoan?

Phải làm gì để mọi người trên thế giới cùng được hưởng ích lợi của văn hóa trong khi kiến thức của các nhà thông thái luôn cao siêu và phức tạp hơn?

Sau hết, phải làm sao để vừa công nhận sự tự trị mà văn hóa đòi hỏi là chính đáng, vừa không rơi vào một nền nhân bản trần tục thuần túy hoặc đối nghịch với tôn giáo nữa?

Ngày nay, phải phát triển văn hóa nhân loại giữa bấy nhiêu mâu thuẫn, sao cho nhân vị được nẩy nở trọn vẹn, điều hòa đồng thời giúp con người trong những bổn phận mà mọi người đều được kêu gọi để chu toàn, nhất là những Kitô hữu liên kết huynh đệ trong gia đình nhân loại duy nhất. 69*


 

Chú Thích:

(lưu ý: những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)

 

65* Văn hóa giúp con người phát triển (số 53a), vậy văn hóa là thế nào? (b). Có thể có nhiều hình thức theo lịch sử và xã hội cũng như theo xã hội học và nhân chủng học (c).

1) Thực trạng của văn hóa hiện tại: Văn hóa được đổi mới và quốc tế hóa do ảnh hưởng khoa học gây nên (số 54). Ðồng thời con người ý thức về quyền tự trị và về trách nhiệm trong lãnh vực văn hóa (số 55).

Ðàng khác con người cũng nhận thấy nhiều xung đột (số 56a); giữa văn hóa do ảnh hưởng khoa học gây nên (số 54). Ðồng thời con người ý thức về quyền tự trị và về trách nhiệm trong lãnh vực văn hóa (số 55).

Ðàng khác con người cũng nhận thấy nhiều xung đột (số 56a); giữa văn hóa mới và nếp sống cũ của các cộng đoàn (b), giữa sự phát triển và thông truyền (c), giữa sự học biết càng ngày càng nhiều và quan niệm tổng quát cần thiết (d), giữa văn hóa ngày một phức tạp và việc quần chúng phải tham dự vào văn hóa (e), giữa quyền tự trị và đòi hỏi tôn giáo (f), dù vậy văn hóa phải giúp con người lớn lên về mọi phương diện (g).

2) Nguyên tắc để phát triển văn hóa:

A) Ðức tin và văn hóa: Ðức tin giúp ta phát triển văn hóa (số 57a); vì khiến ta tự hoàn thiện hóa và phục vụ đồng loại (b), vì cổ võ sự chân, thiện, mỹ và giúp ta hiểu vũ trụ hơn (c). Văn hóa giúp ta thờ phượng Chúa và đón nhận đức tin (d). Ðàng khác tinh thần khoa học quá đáng có thể nguy hiểm (e). Nhưng ta không vì thế mà phủ nhận các giá trị của khoa học (f).

B) Phúc Âm và văn hóa: Chúa đã dùng văn hóa của dân Do thái để tự tỏ mình ra (số 58a). Giáo Hội đã dùng các nền văn hóa khác nhau để loan truyền Phúc Âm (b), và khi tiếp xúc với tất cả các nền văn hóa ấy thì đã mưu ích cho nó cũng như cho mình (c). Những lợi ích Phúc Âm mang lại (d).

C) Ðiều kiện giúp văn hóa phát triển để mưu ích cho con người biết chiêm ngưỡng và phán đoán (số 59a) là văn hóa phải hưởng thụ tự do (b). Giáo hội xác nhận quyền tự do văn hóa (c). Tự do nghiên cứu, tự do tư tưởng và phát biểu ý kiến, tự do thông tri (d). Vai trò của chính quyền (e).

3) Nhiệm vụ của Kitô hữu: Mọi người phải được hưởng thụ văn hóa (số 60a), phải có thể vào các Trường Cao Ðẳng (b). Và mỗi người cũng có nhiệm vụ về văn hóa; để lập nên điều kiện thuận tiện cho mọi người, để giúp phụ nữ đóng một vai trò trong xã hội (c).

4) Giáo dục là cần thiết: Phải đề cao nhân vị (số 61a) và sứ mệnh gia đình (b). Việc sử dụng phương tiện truyền thông xã hội cũng như việc sử dụng các giờ rảnh đều quan trọng (c). Cần phải tìm hiểu ý nghĩa chính xác của văn hóa (d).

5) Vai trò của Giáo Hội: Có thể rất khó khăn khi phát triển văn hóa và đồng thời gìn giữ tinh thần Kitô giáo (số 62a). Phần đóng góp của các nhà thần học (b), văn chương và mỹ thuật (c). Lập trường của Giáo Hội đối với nhà văn và nghệ sĩ (d). Phải tìm hiểu thời đại và điều hòa văn hóa với giáo lý (e), đó là việc riêng của các nhà thần học (f).

66* Trong phần này Công Ðồng nói về một thứ văn hóa "Âu Mỹ", của các quốc gia tiền tiến. Nhưng các quốc gia đang mở mang cũng hướng về thứ văn hóa giống như thế nhờ sự kỹ nghệ hóa; đồng thời cũng nhờ người trí thức trong các quốc gia đang mở mang hoặc đã theo học trong các học đường Âu Mỹ, hoặc đã theo học những chương trình Tây Phương tại các Viện Ðại Học của nước mình. Bởi thế, ước gì kinh nghiệm của những quốc gia Âu Mỹ có thể giúp đỡ các quốc gia đang mở mang để tránh được những khuyết điểm mà văn hóa Tây Phương đã không tránh khỏi.

67* Giới trí thức và lãnh đạo ở các quốc gia đang mở mang có nhiệm vụ rất lớn lao và khó nhọc về vấn đề này.

68* Vấn đề này không chỉ có trong các quốc gia đang mở mang mà thôi. Các phong trào chống đối bên Âu Mỹ cũng đe dọa những giá trị truyền thống.

69* Một cách tóm tắt và thực tế, trong việc phát triển văn hóa chúng ta phải làm sao để điều hòa mọi giá trị: để duy trì sự quân bình giữa các điều cũ và điều mới, giữa lý trí và tình cảm, giữa trí óc khoa học và trí óc chiêm ngưỡng thiên nhiên, thưởng thức văn chương và mỹ thuật. Phải làm sao để giúp đỡ mỗi cá nhân và các dân tộc phát triển song song: nếu không, nhiều hình thức nô lệ mới có thể xuất hiện: chẳng hạn sự nô lệ kinh tế và văn hóa của cả một quốc gia.

 
VỀ MỤC LỤC
Tâm Thư Gởi Các Linh Mục (tiếp theo)

 

Nguyên tác: ”Lettres d’amour aux prêtres” –  “Thư tình gửi các Linh mục”

của Catherine DE HUECK DOHERTY

Người chuyển ngữ, Đình Chẩn.

 

LỜI GIỚI THIỆU 

Từ lâu, Eddie, chồng của Catherine, nhận được bức thư, trong đó có câu hỏi :

 «  Linh mục là ai ? ». Ông nói với tôi rằng ông đã bóp trán suy nghĩ để trả lời cho câu hỏi ấy, sau đó ông đến gặp Catherine trong phòng đánh máy. Ông lên tiếng « Có ai đó hỏi anh rằng Linh mục là ai, em có biết không ? »Chẳng nói một lời, Catherine vội cầm lấy cây chì viết lên một mảnh giấy : 

Linh mục là ai ?

Là người yêu Chúa dạt dào,

Và yêu đồng loại khác nào Chúa yêu.

Là con người toát lên thánh thiện,

Bởi bước đi trước  Đấng tối cao.

Linh mục thấu hiểu tất cả,

Linh mục tha thứ tất cả,

Linh mục ôm trọn tất cả.

 

Trái tim cha như trái tim của Chúa,

Bị thâu qua bởi lưỡi giáo tình yêu.

Trái tim cha như trái tim của Chúa,

Được mở ra cho  thế giới đi vào.

Trái tim cha bao la  trắc ẩn,

Như đài hoa chứa đựng tình yêu.

Trái tim cha là nơi  hò hẹn,

Nơi giao hoà giữa đất với trời.

Giữa con người với Tình yêu Thiên Chúa.

 Linh mục là con  người,

Với mục đích trở thành Kitô khác,

Là người sống đời phục vụ,

Để trở nên giống Đức Kitô,

Là người tự đóng thân mình,

Vào cây Thập giá vì tình mến yêu,

Để ngài cũng được treo lên,

Và kéo mọi người lên cùng Chúa Kitô.

Linh mục là tình nhân của Chúa,

Là quà tặng Thượng Đế thương ban,

Cho con người trên nơi trần thế.

Là lễ vật hy sinh hiến tế,

Con người dâng Thiên Chúa tình yêu.

 

Là dấu chỉ Ngôi Lời nhập thể,

Là lưỡi gươm công lý Thiên sai,

Là cánh tay nhân từ cứu độ,

Là bộ mặt Thiên Chúa Tình yêu.

Chẳng còn gì trên nơi dương  thế,

Cao quý bằng  Linh mục Kitô.

Chẳng còn gì, ngoại trừ Thiên Chúa ?

  

Bài thơ đáng chú ý này đã được khắc vào gỗ treo trên tường của nhà nguyện Vianney-nơi tiếp đón các Linh mục trước khi đến nhà Madonna  (Combermere)  vùng Octario Canada. Bài thơ này cũng đã được in dưới dạng tờ rơi và thường xuyên được tái bản theo yêu cầu. 

Đó là những lời viết ra từ con tim thổn thức của Catherine, cũng như «  Tâm thư gửi các Linh mục » để gửi tới các Linh mục trên khắp thế giới. Cả cuốn sách cũng như bài thơ này chứa đựng một nguồn  yêu thương vừa kính trọng, trong sáng vừa sâu sắc và đanh thép đối với các Linh mục, để qua đó những người có niềm tin thực sự, đi vào mầu nhiệm đức tin và biết rằng mỗi Linh mục là một Kitô khác. 

Bài thơ và cuốn sách này là những món quà tuyệt vời từ sâu thẳm con tim  Catherine dâng tặng các Linh mục và  các tín hữu, nhưng theo cách hiểu nào đó, đây chỉ là sản phẩm phụ của món quà hư ảo. 

Nhóm tông đồ Madonna,  là một cộng đoàn Kitô hữu ( tác giả quen dùng từ gia đình hơn) bao gồm giáo dân nam nữ và các Linh mục : Đó là hội tông đồ Madonna . Trong suốt nhiều năm qua, Catherine luôn nhấn mạnh đến vai trò  Đấng sáng lập hội này, chính là Đức Mẹ, còn Bà chỉ là người được uỷ thác. 

Trung tâm của hội tông đồ Madonna cũng bao gồm một đền kính  Đức Maria được Giáo Hội thừa nhận với tước hiệu « Đức Bà Combermere » . Theo số liệu tháng 7 năm 1978, cộng đoàn này có khoảng 130 thành viên : 90  nữ, 40 nam trong số đó có 13 Linh mục và một Giám mục.Ngoài ra có 51 Linh mục khác tự nguyện sống ở Madonna House như những hội viên, tất cả đều phục tùng sự lãnh đạo của Đức Giám mục.

Sau đó ít lâu, Hội đã phát triển ra 15 chi hội truyền giáo nhỏ. (Đến 1988, Hội Madonna đã có 234 hội viên gồm 120 nữ và 100 nam trong đó có 66 Linh mục và một Giám mục với 65  nhà).

Thế đâu là mối dây liên kết giữa các hội viên của Hội Madonna ?  Đó là sự cam kết chung để tạo ra một cộng đoàn yêu thương trong Chúa Kitô và nhằm diễn tả tình yêu ấy qua những hoạt động tông đồ. Catherine coi mỗi người chúng ta như ” khách lữ hành trên dương trần đi loan báo ngày Chúa Kitô sẽ đến trong vinh quang khi tất cả mọi sự được hoàn tất nơi Người ». 

Như các lữ hành Kitô hữu khác, những hội viên của cộng đoàn này bước đi trong sự nghèo  khó để tìm được sự bình an duy nhất trong Chúa  Kitô ; tiến lên trong Đức khiết tịnh để phục vụ và yêu mến Chúa Kitô trong người anh em ; sống trong sự vâng phục để chỉ lo lắng tuân theo Thánh Ý Chúa. Sứ vụ tông đồ là đưa con người trở lại cùng Chúa Kitô qua việc chu toàn luật yêu thương của Người và sống Tin Mừng của Chúa trong cuộc sống hàng ngày.

Cách sống chính của Madonna House gửi đến chúng ta qua những lời mà Catherine đã nghe từ sâu thẳm tâm hồn vào cuối những năm tuổi 20, khi Chúa gọi chị sáng lập Hội này. Những lời này chứa đựng những điều cốt yếu của Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, và những lời ấy thật cụ thể ngay trên tấm card nhỏ như là một mệnh lệnh nhỏ.Nhưng bởi vì mệnh lệnh nhỏ này là trung tâm điểm của Tin Mừng, mà chính Chúa đã trao cho Catherine, không chỉ dành riêng Madonna House mà cho cả Giáo Hội, và thực sự cho cả thế giới.

Hãy đứng dậy và đi !

Bán những gì con có,

Đem chia cho người nghèo,

Rồi vác lấy Thập Giá,

Mà tiến bước theo Ta.

Hãy là người nghèo khó,

Trở nên một với họ,

Và nên một với Ta.

Nhỏ bé...hãy luôn nhỏ bé...

Hãy sống thật giản dị,

Với tinh thần khó nghèo,

Và nên như trẻ nhỏ.

Hãy loan báo Tin Mừng,

Bằng cuộc sống của con,

Chẳng cần chi thoả ước.

Hãy lắng nghe Thần khí,

Âm thầm hướng dẫn con.

Hãy làm điều nhỏ mọn,

Một cách thật phi thường,

Bằng chính tình yêu thương,

Con dâng tặng cho Cha .

 

Hãy yêu. Hãy yêu. Hãy yêu.

Dù chẳng được đáp nhiều.

Hãy đi ra phố chợ,

Và ở đó với Ta,

Hãy cầu nguyện. Ăn chay. Cầu nguyện luôn !

Sống ẩn dật âm thầm,

Nên ngọn đèn soi bước,

Hãy can đảm tiến lên,

Ta sẽ đi bên con,

Đến ngõ ngách tâm hồn,

Của con người dương thế.

Hãy cầu nguyện luôn,

Đừng trễ !

Để an nghỉ trong Ta.

  

Catherine đã dành rất nhiều thời gian trao đổi tâm tình với các Linh mục của Madonna House, với các Linh mục đến đây và với những vị mà Bà đã gặp trong khắp cả lục địa này.

Thông điệp mà bà gửi tới các Linh  mục thật đơn giản: Loan truyền mệnh lệnh  nhỏ bằng cách thực thi mệnh lệnh ấy trong chính cuộc sống của bạn” Bà đã nhấn mạnh rằng chỉ có một cách duy nhất để thi hành điều đó là : Hãy trở nên gương mẫu.

Cách đây 25 năm, Thiên Chúa đã gọi tôi rời bỏ dòng Basiliens ( Baxiliô) để vào hội tông đồ Madonna và hiện nay tôi đang thi hành năm thứ 42 trong Thiên chức của mình.

Tôi đã trải qua 32 năm ở dòng Baxiliô, bắt đầu là sinh viên rồi tập tu, tiếp theo là chủng sinh và trở thành Linh mục, tôi gần như hoàn toàn bị chi phối bởi việc học ở trường đại học và từ năm lên 9 tuổi tôi đã khá quen với lối sống khá thoải mái trong những trường học Công giáo. Tôi cũng chìm đắm trong mệnh lệnh nhỏ mà đối với tôi đó là sự việc hết sức náo động, có thể nói một cú sốc gây tổn thương, nhưng đó cũng là một kho tàng thực sự được ẩn dấu trong sa mạc. 

Kể từ năm lên 25 tuổi, trái tim tôi luôn tràn ngập tâm tình chúc tụng và tạ ơn Chúa Giêsu và Mẹ Người, cả hai Đấng đã gọi tôi vào Thiên chức Linh mục rất mới mẻ và lạ lùng này. 

Những hội viên Madonna đeo một cây Thánh Giá  bằng bạc như là dấu chỉ sự cam kết của họ. Trên cây Thánh Giá ấy có khắc hai chữ” Pax và Caritas” nghĩa là “Bình An và Yêu thương” . Tôi là một trong số những Linh mục đầu tiên được đeo cây Thánh giá ấy. Cha bề trên, John Callahan trao cho tôi và nói một câu thật giản dị:” Accipe Crucem” –“Hãy nhận lấy Thánh Giá” và người nhận đáp lại:”Deo Gratias” nghĩa là “Tạ ơn Chúa”. Đó là một trong những giây phút hạnh phúc nhất, xúc động nhất đời tôi. Đó thực sự là giây phút thiêng liêng, một khoảnh khắc tuyệt vời, giống như tích tắc tràn ngập ánh sáng.Tôi đã cố chộp lấy một tia , một đốm lửa này qua những vần thơ du dương thốt lên từ sâu thẳm trái tim tôi:

 

ACCIPE CRUCEM 

Hai từ vừa được thốt ra,

Như là luồng sáng xuyên qua con ngườI,

Xua tan bóng tối hồn tôi,

Không gian chốc lát mắt tôi như loà,

Khiến tôi chẳng  thể nhận ra,

Cũng không biết  Cha đưa ra cái gì.

 

ACCIPE CRUCEM

Hai từ cuốn quyện,

Tạo nên Thập Tự.

Một cành thẳng tắp,

Hướng tới Trời cao,

Một cành  vươn xa ,

Xua tan đêm tối,   

Ở tận chân trời,

Và trong cuộc đời,

Tôi sống nơi đây,

Trong gia đình này.

 

ACCIPE CRUCEM

Hãy vác lấy Thánh Giá,

Rồi bước đi theo Ta,

Đừng có sợ chi mà,

Vì Ta là Đức Chúa,

Sẽ hoạt động trong con.

Con chỉ là khí cụ,

Làm vang vọng Lời Ta.

Trên đồi pa-les-tina,

Để hôm nay Ta nghỉ,

Trong trái tim Linh mục.

Quả tim bằng đất sét,

XưaTa đã nhào luyện,

Và Ta đã thổi hơi.

Trái tim này Ta nối,

Với quả tim của Người,

Đã ban nó cho Ta,

Đó là Mẹ Thiên Chúa.

 

ACCIPE CRUCEM !

Hãy mang lấy ! Vác lấy !

Thập Giá của Mẹ Ta.

Ta muốn đó chính là :

Dấu chỉ cho thế giới,                

Để trần gian được thấy,            

Con cũng giống như Ta,

Sinh ra từ lòng mẹ.

Đó chính là dấu chỉ,

Ghi khắc trong tim con,

Tình Yêu Ta với Mẹ,

Và Tình Mẹ với Ta,        

Một Tình yêu bao la,      

Ôm trọn cả loài người,    

Là sức mạnh tuyệt vời,

Dẫn Ta và đưa Mẹ,

Lên đỉnh đồi Can-vê !

 

ACCIPE CRUCEM!    

Hãy vác lấy Thập Giá,

Trèo lên nơi cao, xa,

Như xưa Ta đã làm.

Hỡi anh em Linh mục,

Hãy nên giống như Ta.   

Ước chi Thánh Giá là:

Biểu tượng tình hiệp nhất,         

Các linh mục của Ta,

Và là một với chiên,

Như xưa từ Bê-lem,

Thánh Giá liền với Ta,

Đến tận cùng Can-vê.

 

ACCIPE CRUCEM !            

Hãy vác lấy Thánh Giá,

Là con đường duy nhất,

Dẫn con tới Tình yêu.     

Là con đường duy nhất,

Dẫn con tới bình an.       

Là con đường duy nhất,  

Dẫn con tới niềm vui.

Là con đường duy nhất,

Dẫn con đến với Cha.

Là suối nguồn duy nhất,

Của tất cả niềm vui.

 

Qua Đức trinh nữ Maria và nhờ Đặc sủng của Chúa Thánh Thần, nhiều Linh mục không ngừng được Chúa chọn cách đặc biệt và được lôi cuốn vào trật tự mới của tình huynh đệ anh em Linh mục : Họ là những anh em của Chúa theo đúng nghĩa ; các Linh mục thông phần vào sự kết hiệp mật thiết của Chúa Giêsu với Chúa Cha và Mẹ Maria ; Các ngài là những người anh em theo một trật tự mới, được sinh ra trong ngày mới, là những chủ chiên của ánh sáng giữa bóng tối, là những người chuộc tội. Bàn tay của chúng ta và tất cả con người chúng ta là những bầu rượu chứa đựng rượu mới. Chúng ta là những tấm bánh làm của nuôi để những vị thánh mới được sinh ra. Chúng ta là sự khởi đầu của một  đại gia đình, nơi hiệp nhất các tâm hồn. Chúng ta được mời gọi dẫn dắt, thúc đẩy những « viên đá nhỏ » của Chúa tiến lên. Chúng ta được Chúa trao quyền lực để đập tan quân thù của Ngài và chúng ta sẽ thực thi việc đó. 

Tôi cầu nguyện cho từng người trong các Linh mục khi đọc cuốn sách này sẽ nhận được ơn hiểu biết và đào sâu hơn nữa. Các anh em Linh mục thân mến, Thiên Chúa nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức nhớ lại chúng ta là ai. Thiên Chúa muốn rằng chúng ta khấn hứa đức khó nghèo và vâng lời. Chúa muốn chúng ta trao cho Chúa tất cả để Chúa biến đổi chúng ta thành đuốc sáng chiếu vào bóng tối của trần gian, chiếu vào những con người mà Chúa yêu thương và những con người đang chết vì đói ; chúng ta được phong chức chính là để phục vụ những người đó. 

Thiên Chúa nói mạnh mẽ với anh em Linh mục chúng ta qua những trang thư này của Catherine. Catherine là một người đã không chỉ cầu nguyện cho các Linh mục ngay khi còn ở tuổi thơ ấu mà người phụ nữ ấy đã dâng cả cuộc đời mình cho các ngài. Những Linh mục của Madonna House chúng tôi muốn chuyển tới tất cả các Linh mục, những người anh em trong chức thánh, những gì mà Thiên Chúa nói với chúng tôi qua Catherine. Chúng tôi muốn làm việc đó bằng cách thực thi đến cùng “ mệnh lệnh nhỏ”, theo những lời chỉ dẫn mà Chúa đã trao cho chúng ta:

 

VỀ MỤC LỤC

LINH MỤC GIUSE MARIA NGUYỄN VĂN THÍCH (1891-1978)

 

Trước đây, linh mục Nguyễn Văn Thích thường đạp chiếc xe đạp cổ lỗ sỉ của thời xa xưa – được gọi là “con ngựa sắt” – qua các phố phường ở cố đô Huế. Thật đúng là con ngựa sắt, vì loại xe đạp đó làm bằng sắt rất nặng, để lộ màu “đen sì”, nhưng rất chắc và không phải sơn lại bao giờ. Trái lại xe đạp mới sau nầy thì bằng nhôm, nhẹ hơn, nhưng mỏng dòn hơn và một hai năm phải sơn lại.

 

Thuở nhỏ, tôi có gặp cha Thích một vài lần, với một số bạn bè cũng còn nhỏ tuổi như tôi. Vào thời đó, chúng tôi không biết thưa hỏi điều gì, chỉ biết “dựa cột mà nghe” và nhiều khi không thấu hiểu ý nghĩa những gì ngài nói. Trông ngài có vẻ nghiêm nghị, ít nói, chẳng khác nào một cụ đồ nho. Nhìn dáng dấp bề ngoài, cha Thích mặc áo dòng chùng thâm, còn các cụ đồ nho mặc áo dài đen, mang quần dài trắng và đội khăn đóng.

       

Trong tập sách nhỏ “Từ Ánh Sáng Mặt Trời Tình Yêu” (tập II), nữ tu Mai Thành, Dòng Đức Bà, đã tóm tắt cuộc đời của Linh Mục Sảng Đình Nguyễn văn Thích (1891-1978) như sau: Các môn sinh của linh mục Giáo sư Nguyễn văn Thích đã kính cẩn gọi người Cha và người Thầy kiệt xuất của mình bằng danh hiệu “Hiền nhân của thời đại”. Đó là một danh hiệu mà tất cả môn sinh của ngài ở Việt Nam cũng như trên khắp thế giới – hàng trăm nghìn người – đều biểu đồng tình.

 

Tôi xin toát lược cuộc đời của LM Nguyễn Văn Thích được nữ tu Mai Thành sưu tập như dưới đây.

 

TIẾT MỘT CẬU ẤM NGUYỄN VĂN THÍCH

Hai cụ thân sinh

Cậu ấm Nguyễn Văn Thích chào đời ngày 22/9/1891, là con thứ hai của cụ Lô Giang Tiểu Cao Nguyễn văn Mại, người làng Niêm Phò cũng là làng Kẻ Lừ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên.

Cụ Nguyễn văn Mại đỗ thủ khoa thi Hương, rồi Phó Bảng khoa Kỷ Sửu (1889) Thừa Thiên, được bổ dụng Tri Phủ An Nhơn (Bình Định), làm quan đến chức Thượng Thư. Cụ Thượng Mại đã từng làm Chánh chủ khảo các khóa thi Hương, thi Hội và Quản giáo môn Hán tự tại trường Quốc học. Cụ đã tháp tùng vua Khải Định qua Pháp với tư cách là một danh sĩ của Triều đình. Trước khi về hưu, Cụ được thăng tước Hiệp Tá Đại học sĩ.

Cụ bà là Thân Thị Vỹ (1862- 1946), họ Thân Trọng, ở làng Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, một dòng họ danh tiếng với các bậc khoa bảng như Cụ Thân Trọng Huề, Thượng Thư dưới triều Đồng Khánh, Khải Định.

Trường Dòng Pellerin

Từ 4 tuổi, cậu ấm Thích đã được thân phụ dạy chữ Hán rồi lớn lên vác lều chõng thi Hương, đến trường ba thì hỏng (chuẩn bị bằng Cử nhân). Thời gian nầy, cậu Thích cũng học chữ quốc ngữchữ Pháp rồi vào học trường Pellerin gọi là «Trường Dòng», ở Huế, do các Sư Huynh Lasan (Saint Jean Baptiste de La Salle) điều khiển và giảng dạy.

Trường nầy được thành lập năm 1904 và cậu học sinh Nguyễn văn Thích thuộc thế hệ đầu tiên được các Sư Huynh truyền dạy kiến thức cả đời lẫn đạo. Nơi đây cậu ấm được học hỏi, trau dồi tiếng Pháp và được khai tâm về Giáo lý Kitô giáo. Không chỉ những lời giảng dạy mà còn gương sống hy sinh tận tụy của các “Thầy Dòng” đã giúp cậu học sinh con nhà Nho thấy được phần hòa âm tuyệt diệu giữa Nho giáo và ánh sáng Tin Mừng.

Nho Giáo và Kitô Giáo

Sau nầy, khi Thân Phụ là Cụ Thượng Mại chống đối mạnh mẽ Đạo Công giáo thì cậu ấm Thích trình bày cho Thân Phụ rằng chữ TRỜI là THIÊN của Khổng giáo cũng là THIÊN CHÚA của Đạo Công giáo. Sau khi trưng dẫn 30 câu trong các sách Nho về chữ THIÊN, thầy Nguyễn Văn Thích giải bày: chữ Thiên đây không phải là bầu trời với trăng sao vằng vặc hay mặt trời chói lọi mà là một Ngôi Vị thiêng liêng, là Đấng Tạo Hóa Tối Cao và Toàn Năng Toàn Ái.

Ngài là Thượng Đế sáng tạo vũ trụ, Đấng chí Mỹ, chí Thiện, chí Ái. Quan trọng hơn nữa là Ngài sáng tạo con người theo hình ảnh của Ngài. Phải chăng Nho giáo cũng đã linh cảm điều đó khi khẳng định: “nhân chi sơ tánh bổn thiện”, con người phải hướng về Đấng Thiện Hảo, phải sống cho hợp với Thiên Đạo, với Thiên Mệnh và Thiên Lý… Đạo Nhân của Nho giáo không xa đạo Ái của Tin Mừng với tình yêu không ranh giới: Tứ hải giai huynh đệ.

Trong thời gian học tại Pellerin, cậu học sinh Nguyễn Văn Thích lại có những liên hệ ngày càng mật thiết với linh mục Tuyên Úy Léculier hay Cố Lựu, nên đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa làm Người được thấu hiểu ngày càng thấm đậm trong tâm thức và trí tuệ của chàng thư sinh khao khát Chân, Thiện, Mỹ.

Thờ cúng tổ tiên

Nhưng từ lòng Tin vào Đấng Tối Thiện đến thể hiện niềm Tin ấy đối với người con một gia đình thâm nho như gia đình cụ Thượng Mại là Thượng Thư Bộ Lễ, không phải là chuyện đơn giản tí nào.

Thời đó Giáo hội Công giáo không chấp nhận việc thờ cúng tổ tiên, ngăn cấm người Công giáo thi hành nghi lễ nầy. Trong khi đó đối với truyền thống đạo đức Việt Nam, chữ HIẾU, với lòng thảo kính Tổ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ là thiêng liêng, là nền tảng của đạo làm người. Do đó, Thầy Thích vô cùng khắc khoải vì trở nên Công giáo sẽ bị xem là bất hiếu, nhất là trong một gia đình nổi tiếng, vị vọng của đất Thần Kinh. Ông Bà Nguyễn văn Mại khi biết con mình muốn theo đạo Công giáo thì quyết liệt ngăn cản.

TIẾT HAI MỘT CUỘC ĐỔI ĐỜI QUYẾT LIỆT

Nhận lãnh Bí Tích Rửa Tội

Sau 3 năm suy tư, trăn trở và cầu nguyện, cậu ấm Thích chờ thời điểm thuận lợi. Với bằng Cao Đẳng Tiểu Học và một năm Sư Phạm, Thầy Thích được bổ làm trợ giáo tỉnh Khánh Hòa tháng 2/1911.

Bốn tháng sau, ánh sáng Đức Tin tỏ rạng trong tâm hồn, thúc giục thầy quyết định nhận bí tích Rửa Tội để trở nên con cái Thiên Chúa. Linh mục Charles Eugène Saulcoy, tên Việt là Cố Ngoan, ngày 29 tháng 6, tại Nhà thờ Bình Cang, xã Vĩnh Trung, Thành phố Nha Trang, đã ban phép Thánh Tẩy cho thầy giáo Thích với tên thánh là Giuse Maria. Cụ Nguyễn Sen là ông Nội của Linh mục Nguyễn Hữu Phú, Dòng Chúa Cứu Thế, làm Cha đỡ đầu.

Đây là một bước ngoặt đổi đời quyết liệt như vị tân tòng Giuse Maria Nguyễn Văn Thích đã ghi lại trong bài thơ sau đây:

 

Bỉ cực rồi thì đến thái lai,
Nỗi mừng nửa khóc nửa vui cười.
Muôn vàn cảm đội công ơn Chúa,
Bao xiết cao rao phước phận tôi.

 

Mấy độ gian nan còn để dạ,
Ba năm cầu nguyện đã như lời.
Thôi thôi đừng bạn cùng ta nữa,
Ôi sự công danh phú quý ôi!

 

Được tin sét đánh nầy, cụ Thượng không cầm nổi tức giận, dùng roi gậy đánh nhừ tử «đứa con bất hiếu», như bà em Thiếu Hải thuật lại mấy chục năm về sau, ngày mừng lễ thất tuần «Anh Thích»:

 

Trong nhà dùi, gậy, ba toong,
Rút ra đánh hết, chẳng còn cái mô!
Chị em, ai nấy sững sờ,
Lính tráng, vú bõ, không ai rờ đến cơm…

 

Thụ phong linh mục

 

Khi cơn “gia biến” dịu dần với thời gian, Cụ Thượng thân phụ nghĩ đến việc lập gia đình cho con trai đã 26 tuổi. Cụ mời Đức Cha Lý (Cố Allys) đến nhà, xin Đức Cha can thiệp làm mai mối với con gái Cụ Thượng Công giáo Nguyễn Hữu Bài để con mình yên số phận, không còn gây thêm tai biến nữa. Nào ngờ đâu, khi được “hung tín” nầy, môn đệ của Chúa Giêsu lấy quyết định từ giã gia đình qúy tộc…

 

Một đêm thanh vắng, thầy Giuse Maria Nguyễn Văn Thích hoá trang làm cô gái đội nón lá, mặc áo dài tha thướt ra đi, sáng sớm tháng 9/1917, trực chỉ đến Tiểu Chủng Viện An Ninh tại Cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị. Một trường hợp chưa từng có: muốn được nhận vào Tiểu chủng viện thường là 12 đến 14 tuổi, nhưng thầy Thích đã 26 tuổi thì phải làm sao đây?

 

May mắn là Đức Cha Lý (Allys) nắm rõ hoàn cảnh nên nhận ngay người chủng sinh rất độc đáo nầy, vừa học tiếng Latinh và chương trình đào tạo linh mục, vừa được mời làm giáo sư Pháp văn, Hán văn, Quốc văn cho chủng sinh. Giáo sư chủng viện lúc đó có linh mục Henri Denis còn gọi là Cố Thuận – vị linh mục thành lập Đan Viện Xitô Phước Sơn sau nầy – gửi thư về Pháp cho Mẹ để kể lại sự kiện nầy như sau:

 

Kính thăm Mẹ yêu quý,

 

Học trò con đã tề tựu rồi. Năm nay có một chủng sinh xuất sắc. Thường thì học sinh mới vào còn nhỏ tuổi, nhưng người nầy đã trên 26 tuổi. Đó là một giáo sư Pháp văn trường Trung học Nhà Nước, đã xin từ chức để nhập chủng viện. Luật chung không cho phép nhận như thế vì vừa lớn tuổi vừa theo đạo mới được 6 năm. Nhưng Đức Giám Mục đã thi hành một biệt lệ.

 

Sau 2 năm tu tập vừa làm trò vừa làm thầy nơi đây, thầy giáo «tiểu chủng sinh» được gửi vào Đại Chủng Viện Phú Xuân, Huế, và 6 năm sau được thụ phong linh mục ngày 18/12/1926.

 

TIẾT BA THEO ANH, EM CŨNG ĐI TU

 

Pháp danh “Như Ngộ”

 

Ảnh hưởng của Linh mục Giuse Maria Nguyễn Văn Thích trên gia đình ngấm ngầm chiếu tỏa. Em gái của cha, pháp danh Như Ngộ, học chữ Hán lúc 6 tuổi, 9 tuổi học chữ Pháp, chữ Quốc ngữ, rồi làm trợ giáo ở Khánh Hòa cùng một trường với anh. Nhờ sự gần gũi và cảm phục gương sống của anh, cô được hiểu biết và mến Đạo Thiên Chúa.

 

Sau khi Cha Thích đi tu, cô rời Khánh Hoà, ra dạy ở Hà Tĩnh rồi về gia đình nghỉ hè. Tiếng gọi thiêng liêng thúc bách, một hôm vào 11 giờ trưa, cô từ giã gia đình ra đi, chỉ mang theo một bộ áo quần, để lại một bức thư với tất cả nữ trang… Thật là đau đớn cho cha mẹ khi biết con gái trưởng thành đã dứt khoát ra đi vào Dòng Cát Minh (Carmel) Kim Long, Huế.

 

Tên Dòng “Marie de l’Eucharistie”

 

Mẹ Bề Trên Aimée de Marie, thừa sai Cát-Minh người Pháp, đã đón nhận ứng sinh từ nay mang tên là Agnès Nguyễn thị Ngọc. Cụ Bà Nguyễn văn Mại đến Nhà kín chửi mắng, bắt cô trở về gia đình. Cụ Ông cũng đến lôi con gái về, nhưng cô tu sinh khóc to và nằm trì xuống đất, hai cụ thân sinh đều phải thối lui.

 

Ngày 29/9/1921, nữ tu Agnès Ngọc được mặc áo Dòng với tên Marie de l'Eucharistie. Nhà Dòng mời gia đình cụ Thượng Mại, thầy Thích, các em, các cháu, gia đình cụ Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài, các quan, linh mục, giáo dân đến tham dự. Nghi lễ tiến hành rất trọng thể, uy nghi, khiến cụ Ông và cụ Bà Nguyễn Văn Mại rất xúc động và mến phục chí khí của hai người con dũng cảm, đạo hạnh. Từ đó Hai Cụ có cảm tình với đạo Công giáo.

 

Mối xúc động của người anh Nguyễn Văn Thích trong dịp nầy, đã được diễn tả trong hai bài thơ dưới đây:

 

I

Cởi lốt trần gian vào Dòng Kín,
Từ nay sự thế thế là xong,
Lìa nhà chi quản muôn hàng lụy,
Thờ Chúa xin dâng trọn tấc lòng.
Nhẹ gót bước vào nơi tịch mạc,
Vui tình chôn lấp cái hình dong,
Bây giờ ngoảnh lại xem trần thế,
Một bước mà xa mấy vạn trùng.

 

II

 

Bên lầu rang rảng tiếng chuông vang,
Trên gối đêm xuân giấc mới tan.
Bảng lảng mắt còn nhìn cõi tịnh,
Bơ vơ lòng những nghĩ thiên đàng.
Quen mùi đạo đức quên mùi tục,
Thoát chữ công danh đặng chữ nhàn.
Mới biết một ngày trong phúc Kín,
Hơn trăm nghìn kiếp phúc trần gian.

(Phú Xuân chủng viện, 29/9/1921)

 

TIẾT BỐN SỰ NGHIỆP CỦA LINH MỤC NGUYỄN VĂN THÍCH

 

Một nhà giáo xuất chúng

 

Linh mục Nguyễn Văn Thích là một nhà giáo từ tuổi đôi mươi đến ngoài 80. Ngài đã dạy tiểu học ở Khánh Hòa, rồi Huế (1911-1917), Dòng Thánh Tâm Huế (1927-1933), trường Providence Huế (1933-1937), Tiểu Chủng Viện An Ninh Quảng Trị (1937-1942), Trung Học Khải Định (1942-1946), Quốc Học và các trường tư thục Công Giáo Huế (1950-1958).

 

Từ 1958, cha dạy Đại Học Dalat, Huế, Saigon. Từ năm 1959, cha dạy Hán văn và Triết Đông tại Viện Hán Học Huế. Năm 1963, cha mở một nhà trẻ ở Việt Nam (có lẽ là nhà trẻ đầu tiên ở đây), với tên gọi là Hương Linh, trong khuôn viên trường Bình Linh (Pellerin). Ngoài ra, cha cũng rất quan tâm đến việc giáo dục thanh thiếu nữ.

 

Một nhà thơ, một nhà báo lỗi lạc

 

Linh mục Nguyễn Văn Thích đã sáng tác thi ca, được sưu tập trong “Sảng Đình Thi tập, gồm 153 bài thơ Việt văn, Hán văn và Pháp văn. Thơ của cha rất đa dạng, từ những câu vè 4 chữ, những câu thơ lục bát, tứ tuyệt và thơ Đường, đến những bài Thánh ca, Thánh thi ca tụng Đức Mẹ.

 

Cha còn là sáng lập viên tuần báo “Vì Chúa”, xuất bản từ 1936, với tam ngữ Việt-Hán-Pháp, được nhiều cộng tác viên như cụ Ưng Trình, cụ Phan Bội Châu, cụ Huỳnh Thúc Kháng, Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn…Ngoài ra, cha còn cộng tác với báo “Nguồn Sống”, tạp chí Đại Học Huế hay “Cổ Học Quí San”…

 

Họa sĩ và nhạc sĩ thời danh

 

Cha Thích có biệt tài về cổ họa. Một vài bức họa trong báo Vì Chúa, được in lại trong Sảng Đình Thi Tập, như bức “Thác Lớn Bạch Mã” rất tinh vi điêu luyện, bức tự họa “Trầm ngâm chiếc bóng dựa bên tường”, các bức “Đức Từ Mẫu”, “Chân dung Thánh Gioan Vianê”, “Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu”.

 

Về âm nhạc, cha Thích sử dụng thành thạo các nhạc khí dân tộc như đàn nhị, đàn cò, đàn nguyệt, đàn bầu, đàn tì bà…kể cả các nhạc cụ Tây phương.

 

Về Thánh ca, bài “Magnificat” Việt ngữ hiện vẫn còn được hát trong các giờ kinh phụng vụ.

 

Linh mục tuyên úy hướng đạo sinh

 

Từ 1941, cha Thích sinh hoạt với một trung đoàn ở Huế và năm 1949, giáo quyền địa phận Huế bổ nhiệm ngài làm Tuyên Úy Hướng Đạo Công Giáo Huế. Vào giữa năm 1953, ngài đại diện giáo quyền làm Tổng Tuyên Úy Toàn Quốc. Ngài đã đóng vai trò tích cực và uyển chuyển giữa nhiều khuynh hướng khác nhau của các Huynh Trưởng và Tuyên Úy 3 miền Trung, Nam, Bắc.

 

Một tâm hồn nghèo khó và yêu thương

 

Cha Thích làm giáo sư lâu năm, dạy đại học nhiều nơi, với lương bổng rất cao, nhưng ngài không giữ lại chút gì cho mình. Khi nhắm mắt lìa đời, ngài chỉ còn vài bộ áo đã sờn cũ.

 

Viện Dục Anh nuôi trẻ mồ côi ở Huế luôn được cha quan tâm và trao nhiều tiền bạc cho các nữ tu phụ trách. Cha còn là Tuyên Úy Pellerin và Viện Bài Lao. Cha thường đến bệnh viện dâng Thánh Lễ, luôn đem tiền và quà đến cho bệnh nhân.

 

Cho tiền người ăn trộm chuối

 

Bao nhiêu năm làm giáo sư, cha vẫn đi một chiếc xe đạp duy nhất. Một hôm, cha đạp xe đạp đến dạy học tại Chủng Viện Kim Long, tình cờ bắt gặp một người đàn ông áo quần xơ xác đang chặt trộm buồng chuối của Chủng Viện.

 

Thấy cha, ông ấy hoảng hốt toan bỏ chạy. Cha ôn tồn gọi người đó lại, móc túi đưa thêm ít tiền rồi nói: “Bác có muốn ăn chuối non nầy thì phải thêm cái gì để nấu ăn chứ. Bác cầm lấy chút tiền nầy mua tôm tép gì thêm cho dễ ăn”. Vừa nói, cha vừa đưa tiền rồi đi vào dạy học.

 

Còn má nầy nữa, xin ngài hãy đánh…

 

Một chuyện xảy ra làm rung động thành phố Huế. Năm 1950, một bác sĩ tổ chức hội chợ từ thiện, với sự cộng tác của cha Thích. Giữa mấy gian hàng bày trò chơi lại có một sòng bạc thu hút nhiều khách. Cha Thích phản đối: “Cờ bạc không thể đi đôi với việc từ thiện”.

 

Trưởng ban tổ chức không chịu nghe, cha Thích liền lấy micro khuyến cáo dẹp sòng bạc đó. Bác sĩ tổ chức giật micro trong tay cha. Trong lúc giằng co, bác sĩ tát vào má cha. Hồn nhiên và khiêm tốn, cha liền đưa má kia và nói: “Còn má nầy nữa, xin ngài hãy đánh cho đỡ giận”. Mọi người vây quanh đều sửng sốt ngỡ ngàng. Có người đã thốt lên: “Phải là một đấng thánh mới làm được như vậy!

 

Tất cả vì Chúa

 

Vì Chúa” không phải chỉ là tên tuần báo nổi danh ở cố đô Huế mà chính là châm ngôn cuộc sống của cha, với tôn chỉ:

 

Suy tư vì Chúa,

Ngôn luận vì Chúa,

Hành động vì Chúa.

Vì Chúa, ta gắng công,

Ta thẳng lên vì Chúa!

(Số 1, ngày 18/9/1936)

 

Đấng Mỹ Nhân của lòng tôi

 

Trong bài “Một buổi sáng sớm” đăng trong “Vì Chúa” số 5, 1936, cha Thích tự thuật về chính mình là chàng thanh niên mỗi sáng sớm ôm sách, xách nón đi bộ đến nhà thờ Gia Hội tham dự Thánh Lễ và rước Thánh Thể.

 

Đến văn phòng làm việc, thấy anh vui tươi, người bạn hỏi anh đã gặp mỹ nhân nào mà vui thế? Anh mỉm cười không trả lời, nhưng thầm nói: “Phải, tôi đã tìm được một Đấng Mỹ Nhân. Đấng lòng tôi yêu mến mà không có một thế lực nào trên trời hay dưới đất có thể phân ly. Sớm nay, tôi đã rước Đấng Mỹ Nhân ấy vào lòng tôi”.

 

TIẾT NĂM

VĨNH BIỆT HIỀN NHÂN NGUYỄN VĂN THÍCH

 

Ra đi êm ái

 

Ngày 10/12/1978, linh mục Giuse Maria Nguyễn Văn Thích với tuổi hạc 87, giã từ trần thế để về cõi trường sinh, hội ngộ cùng Đấng Mỹ Nhân Chân-Thiện-Mỹ mà cha đã hiến thân phục vụ đến trọn đời, trọn tình và trọn nghĩa, với tầm vóc cao siêu hiếm có… Phút lâm chung, cha còn vui vẻ hát ca. Chắc hẳn là những ngày, những giây phút chuẩn bị cuộc ra đi, cha đã ngắm nhìn bức tranh Đức Mẹ Maria mà chính tay cha đã kính cẩn họa ra với lời ca chính cha sáng tác:

 

Bao giờ tôi được lên trời,

Ở cùng Đức Mẹ thì tôi phỉ nguyền.

 

Giáo Hội Việt Nam và đất nước Việt Nam đã dâng lên Thiên Chúa một người con chí hiếu, một linh mục gương mẫu, một nhân tài sáng giá, một hiền nhân hiếm có. Phải chăng linh mục Nguyễn Văn Thích là tổng hợp của tinh hoa văn hóa Nho Giáo hòa quyện với Hồng Ân dạt dào của Thiên Chúa Tình Yêu.

 

Những điều tôi yêu

 

Trong những thi ca của linh mục Nguyễn văn Thích, bài thơ “Những điều tôi yêu”, trích dịch từ bài “Ce que j’aimais” của nữ Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, thật tuyệt vời, để lại những nét đẹp dễ thương trong tâm hồn độc giả. Bài nầy trích từ thi phẩm “Sảng Đình Thi Tập”.

 

Tôi yêu đồng lúa chín vàng,

Tôi yêu núi tía, nẻo đàng xa xa.

Chị em đua chạy hái hoa,

Khí trong đầy ngực, gió hòa đưa chân.

Tôi yêu cúc trắng ủ sương,

Chiều hôm Chúa nhật, dọc đường dạo chơi.

Trên ngành chim hót thảnh tơi,

Bóng trời sáng quắc, nền trời thẩm xanh.

Tôi yêu đi bẻ chủi rành,

Trên rêu chơn chạy lanh chanh nhẹ nhàng.

Đuổi theo con bướm bướm vàng,

Liệng bay xấp xới trên làn cỏ xanh.

Tôi yêu giọt nước long lanh,

Hột châu ban sáng, trên ngành mân khôi.

Trên hoa dưới yến mặt trời,

Ong trinh làm mật, bồi hồi ngày xuân.

Tôi yêu từ chốn Thánh đàng,

Chuông vàng rải tiếng như gần như xa.

Tôi yêu hơi gió thoảng qua,

Chiều chiều ngồi ngắm bóng tà bên non.

Tôi yêu lửa đốm hoàng hôn,

Tôi yêu sao nháy muôn chòm trên không.

Canh vắng vẻ, cảnh mơ mồng,

Tôi yêu trăng bạc, bóng lồng đêm thanh.

Tôi yêu con én liệng vành,

Tôi yêu cưu gáy bên gành dễ thương.

Tôi yêu tiếng dế đêm trường,

Tiếng lằng vỗ cánh, canh sương vừa tàn.

Tôi yêu tiếng suối vỉ van,

Tôi yêu tiếng sét nổ vang giữa lừng.

Tôi yêu thanh vắng đêm trăng,

Họa mi thánh thót, khoảng rừng thanh u.

Tôi yêu đứng ở chốn cao,

Nắng chiều giải ánh giọi vào mặt ta.

Nâng niu mái tóc cha già,

Lòng con nao nức mặn mà cái hôn.

Tôi yêu mắt mẹ ôn tồn,

Miệng cười như nói cùng con mấy lời:

“Mẹ mong ước phước đời đời,

Mẹ mong thấy Chúa cõi trời xanh xanh.”

 

VỀ MỤC LỤC
MẸ MARIA-NGƯỜI NỮ TỰ DO

 

“Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phước lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”.

Kính lạy Mẹ, “Mẹ có phước hơn mọi người nữ” Vì Mẹ là Người Nữ Tự Do, còn chúng con: cả một trần gian nô lệ.

Cả một trần gian nô lệ

Khi dùng hai từ nô lệ, tôi rất ngại và đắn đo lắm, vì sợ xúc phạm đến cả và loài người, trong đó có thể có những người thánh thiện lắm, tự do lắm… nhưng không còn cách nào hơn, vì tôi muốn nói đến sự nô lệ do hậu quả của tội nguyên tổ. Chính hậu quả nầy làm cho chúng ta luôn nghiêng chiều về thế lực của Satan, luôn kìm hảm chúng ta trong vòng nô lệ- ban đầu là nô lệ những thực tại hư ảo mang dáng vẻ rất giá trị cho cuộc sống, rồi từ ấy, dẫn chúng ta đến việc đặt vào những giá tri ấy một niềm tin, và cuôi cùng là đến tình trạng phạm tội chống lại Thiên Chúa.

Thử nghiêm túc đặt lại vấn đề với cõi lòng mình, dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, ta có thể thấy rõ ràng chúng ta đang bị mất tự do, hay đúng hơn là bị nô lệ. Nô lệ quyền lực, nô lệ lý trí, nô lệ tài năng, nô lệ tiền bạc, nô lệ sắc đẹp, nô lệ xác thịt, nô lệ tiện nghi…

Chúng ta không nô lệ quyền lực sao, khi chúng ta vẫn còn cố tìm cho mình một danh xưng, một địa vị, một vai trò và cố giữ cho mình một cung cách gia trưởng trong xã hội, giáo hội và gia đình? Không bị nô lệ sao, khi chúng ta là bề dưới không chấp nhận quyền bính của bề trên và nghĩ rằng bề trên không biết làm việc-một cách nào đó, nói lên lòng ghen tỵ vô độ trong ta. Chúng ta không nô lệ lý trí sao, khi vẫn tự cho rằng cái tư duy của mình luôn luôn là duy nhất đúng, và yêu cầu mọi người phải chấp nhận sửa sai theo cách nghĩ của mình? Chúng ta không nô lệ tài năng của mình sao, khi vẫn miệt mài sáng tạo để rồi nghênh ngang kênh kiệu với những thành tích và thèm thuồng những lời tung hô vô bổ. Nô lệ tiền bạc dễ nhận ra hơn cả, vì cần có tiền mà con người ta không kể gì mọi mưu mánh, mọi thủ đoạn. Và còn hơn thế nữa, đâu chỉ có người giàu mới bị đồng tiền cuốn hút, mà cả người nghèo không chấp nhận nổi cảnh nghèo cũng bị nó khống chế từng giờ từng phút. Bạn có buồn phiền, chán nản, thất vọng vì không tiền không bạc, vì thua bạn thua bè không? Bạn không bị nô lệ đồng tiền đấy sao? Về sắc đẹp, ngày nay không chỉ phái nữ, mà cả phái nam, quá lo lắng về sắc đẹp của mình, tìm mọi cách để trau chuốt, làm mới, làm tươi trẻ làn da mái tóc, để sức quyến rủ luôn không những còn mà phải còn mãnh liệt hơn..Chúng ta không bị nô lệ tính xác thịt sao, khi vẫn chủ trương sống theo cách “con” không mang tính “người” hòa nhịp với những trào lưu hiện sinh duy vật đang tràn lan khắp thế giới. Chấp nhận những phương pháp hổ trợ tình dục, hổ trợ tránh thai, hạn chế sinh sản và giết người không có sức tự vệ không phải là chúng ta đang làm nô lệ cho tà thần dục lạc trong ta sao? Và tiện nghi trong thời đại văn minh tột bậc của loài người đang cuốn chúng ta vào thị trường mua sắm để có mà phục vụ cho một cuộc sống trần thế an nhàn thoải mái, để bù đắp cho mình những ngày cùng cực và quên đi bao nhiêu con người cùng khốn quanh ta. Chúng ta không làm nô lệ tiện nghi đấy sao? Nhất là những tiện nghi không cần thiết.

Sự nô lệ cho Satan và các tà thần do tội nguyên tổ để lại, không loại trừ một ai và cũng không loại trừ ở chế độ nào, đất nước nào. Không hẳn ở đất nước tự do mà bạn và tôi không bị nô lệ, có khi còn bị nô lệ hơn người. Không hẳn ở một đất nước mất tự do hoặc kém tự do, mà chúng ta không được tự do, có khi lại còn tự do hơn người. Ách thống trị của Satan tài tình đến nỗi làm cho chúng ta tưởng mình thật sự tự do trong khi mình đang bị nô lệ. Sau biến cố 1975, người công giáo Việt Nam sống trong một chế độ gần như mất tự do tôn giáo, nhưng ít bị nô lệ tội lỗi hơn là lúc nền kinh tế thị trường mở toang cửa để hội nhập với các nền văn minh tự do. Đâu đâu người ta cũng biểu tình, xuống đường đòi hỏi yêu sách cho có tự do, nhưng chưa thấy cuộc biểu tình chống nô lệ tội lỗi. Một số giáo dân Việt Nam lớn tuổi đang lấy làm tiếc cho một thế hệ thanh thiếu niên đang lao mình vào cuộc sống “mất tự do” mà không hề hay biết-cứ tưởng là ta đang trên đà phát triển một cách tự do. Vâng, thứ tự do mà con người yêu thích thời nay, cũng là thứ tự do mà các tà thần chống lại Thiên Chúa rất hài lòng và hổ trợ bằng nhiều cách ranh khôn. Thứ tự do đưa đẩy con người đến chổ xa dần Thiên Chúa.Thứ tự do bằng lòng làm nô lệ cho mọi thực tại hữu hạn, tự do đến mức tôn vinh những thực tại ấy như là thần tượng cần thiết không thể thiếu trong cuộc đời. Không đổ thừa đổ lỗi cho ai vì “không ai làm ta mất tự do, chỉ vì ta bằng lòng làm nô lệ”

Mẹ Maria - Người Nữ Tự Do

Trong thế giới loài người từ ngàn xưa đến ngàn sau, không ai có được diễm phúc như Mẹ Maria, vì Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ, vì Mẹ được vinh dự cưu mang Con Thiên Chúa. Và từ hai  hồng phúc nầy, Thánh Irene đã cảm thấy trước đặc ân vô nhiễm nguyên tội của Mẹ khi Ngài ca tụng Mẹ Maria là “Evà mới” trong công cuộc tạo dựng  mới của Thiên Chúa Cha, qua Ngôi Con của Người. Qua những cảm nghiệm trong đời sống đức tin của Giáo Hội về vai trò đặc biệt duy nhất của Mẹ Maria, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã long trọng công bố Tín Điều Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội ngày 8-12-1854. Với ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng ta có thể gọi Mẹ Maria là Người Nữ Tự Do duy nhất trên trần gian nầy, vì không có thế lực tà thần nào có thể khống chế Mẹ được.

Mẹ Maria, người nữ tự do, luôn luôn thuộc về Thiên Chúa Cha, và làm theo chương trình của Thiên Chúa Cha. Sức mạnh quyền lực trong phận hèn liễu yếu đào tơ ấy là sức mạnh quyền lực của Thiên Chúa. Vì thế, chỉ với hai từ khe khẻ “xin vâng” mà rung chuyển cả địa cầu, mà xôn xao muôn dân nước, mà khiếp kinh bao thế lực quỷ thần. Và sau lời đáp “xin vâng” là “xin vâng một lần cho một đời”. Cả lý trí, tài năng, con người và tất cả cuộc đời Mẹ thuộc về Thiên Chúa. Mẹ Maria hoàn toàn tự do cho một lần xin vâng và hoàn toàn tự do trong suốt cuộc đời, và như thế, không có một giá trị trần gian nào làm lay chuyển lòng Mẹ. Mẹ được tự do đích thực: tự do tương quan với Thiên Chúa và tự do thực hiện ý định của Ngài cho công cuộc cứu rỗi nhân loại. Như vậy việc chấp nhận đồng hành với Chúa Giêsu Cứu Thế là chấp nhận theo sự tự do thuộc về Thiên Chúa, cho chương trình Thiên Chúa, dù dưới con mắt trần gian, Mẹ cùng Con “như thân phận tôi đòi, nô lệ”, nhưng là “tôi đòi cho Thiên Chúa”, không phải cho Satan và tội lỗi. Và chính bằng lòng làm nô lệ cho Thiên Chúa để một lần tạ tội thay cho cả và con người chúng ta, mà chúng ta dược cứu chuộc.

Mẹ Maria, người nữ tự do, vì Mẹ mặc lấy uy quyền của Thiên Chúa. Satan, một mặt luôn khiếp sợ Mẹ, mặt khác, luôn sợ các linh hồn yêu mến tôn sùng Mẹ, nên chúng luôn tìm mọi cách lôi chúng ta ra xa Mẹ, càng xa càng tốt. Nhưng đáng vui mừng thay, mỗi năm có cả hai tháng năm và mười để chúng ta suy tôn Mẹ, mỗi tuần có ngày thứ bảy kính Đức Mẹ, và có thể nói, kinh nguyện mỗi ngày vẫn luôn hướng lòng con cái Chúa lên với Mẹ để nhắc nhớ cho chúng ta rằng: chúng ta là con cháu E và, thân phận nô lệ bao điều hư ảo, ngước trông lên người nữ tự do, cầu Mẹ cứu giúp chúng ta được tự do, được thoát vòng tục lụy. 

Kinh Mân Côi-Giải Phóng Nô Lệ

Kinh Mân côi là lời chúc tụng Mẹ xứng đáng nhất “Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phước lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu Con lòng Bà gồm phúc lạ”; và cũng là lời khẩn xin tha thiết nhất “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. A men”.

Khi đọc kinh Kính Mừng thật sốt sắng, ta có thể thấy được lòng thành khẩn trong ta muốn tìm về với Thiên Chúa, khiêm tốn nhận mình kẻ có tội, và muốn thoát vòng nô lệ của tội lỗi, ngay lúc nầy và nhất là lúc giã từ cuộc đời.

Liên kết kinh kính mừng  với chuỗi Mân Côi cho ta suy gẩm cả cuộc đời Chúa cứu thế, và cùng với Mẹ Maria, chúng ta kết hiệp đồng hành với Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời. Chỉ nghe lời “xin vâng” của Mẹ thôi, ma quỉ đã rụng rời khiếp hãi. Huống chi là có Mẹ Maria đang cùng Đức Giêsu , Con của Cha trên trời, đồng hành với ta trong cuộc đời qua chuỗi Mân côi, thì ta tin chắc rằng không có thế lực nào lôi kéo nổi chúng ta về phía nô lệ tội lỗi. Như vậy chuỗi Mân Côi đem ta về với Thiên Chúa, giữ cho ta luôn được tự do, giúp ta chiến thắng trong cuộc chiến với những lời mời gọi của những giá trị hư ảo. Chuỗi Mân Côi giải phóng chúng ta khỏi những nô lệ tà thần, tội lỗi.

Lúc trước, các ông ngại lần chuỗi, nay thì thấy đã nhiều hơn rồi.Các bà thường lần chuỗi hơn và điều đáng tiếc là thanh thiếu niên thời nay hầu như ít lần chuỗi. Trách nhiệm thuộc về gương sáng và giáo dục đức tin nơi các gia đình. Có người bảo cần phải xem lại lần chuỗi là lần chuỗi,  hay suy gẩm mầu nhiệm cứu chuộc. Vâng thật đúng, thật chính xác vì lần chuỗi là suy gẩm mầu nhiệm cứu chuộc. Nhưng trong thực tế, tôi vẫn nghĩ đièu quan trọng là hãy bắt đầu lần chuỗi, và rất đơn giản là ai lần chuỗi với lòng thành tâm nhờ Đức Mẹ can thiệp vào cuộc đời là đã được ơn ích rồi. Không thiếu những người không biết chữ đang lần chuỗi. Không thiếu những người chưa học giáo lý đang lần chuỗi ở các trung tâm hành hương Đức Mẹ. Kể cả những người chưa rửa tội, họ thành tâm đến với Mẹ. Thần học về Mẹ Maria không phải là một mớ lý thuyết , nhưng chính là việc khám phá dần dần những điều huyền nhiệm nơi Mẹ qua việc lần chuỗi. Mẹ ban ơn cho người lần chuỗi Mân Côi cảm nghiệm được tình thương của Chúa, không phải một ngày một bữa mà là cả một đời. Hãy cứ mạnh dạn đến với Mẹ, hãy bắt đầu lần chuỗi; người người lần chuỗi, nhà nhà lần chuỗi, một chục, năm chục….Hãy bắt đầu lần chuỗi Mân côi như bắt đầu công cuộc tìm lại sự tự do, bắt đầu một lối thoát khỏi vòng nô lệ tội lỗi.

Ông Bảy Thận ở giáo xứ Hiệp Đức tôi, bị xơ gan cổ trướng, nằm một chỗ đau đớn la ó om sòm. Một hôm nọ, có anh rượu đã ngà ngà đi qua nghe la ó, dừng lại hét vào nhà:

-“Ông la đấy hả! quỉ ám đấy hả! tui kêu ông Cha xuống trói đầu ông bây giờ”

-“Cái thằng mất dạy, mầy tưởng tao sợ ông Cha hả, tao quen ông Cha từ hồi còn ở Qui Nhơn nghe mầy, tao còn thuộc kinh Kính Mừng nữa nghe mầy, đừng có hù tao, thằng mất dạy”

Một hội viên Legio nghe vậy, lên nói chuyện với Cha xứ. Ngài đã xuống thăm. Và đúng như thế, ông Bảy thuộc kinh Kính Mừng hồi còn thiếu nhi theo đi kiệu ở Qui Nhơn. Sau mấy lần Cha thăm viếng, ông đã được ơn trở lại, được rửa tội. Các hội đoàn liên tục đọc kinh cầu nguyện cho ông. Một tháng sau, Ông Giacôbê Bảy Thận ra đi bình an lắm. Ngày Giỗ một năm của ông, cũng là ngày cả nhà ông được ơn trở lại. 

Lạy Mẹ Maria, chúng con tin tưởng Mẹ, là Mẹ Đức Chúa Trời, Mẹ của chúng con, Mẹ của những con người muốn tìm tự do đích thực. Đến với Mẹ, và cùng Mẹ, chúng con bước theo Chúa Giêsu con Mẹ, vượt qua cuộc lữ hành chiến đấu và chiến thắng ở trần gian, để cùng dự phần phúc vinh với Chúa Giêsu con Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng chúng con.

Pm. Cao Huy Hoàng

VỀ MỤC LỤC
BA LOẠI CÁM DỖ TRONG LÒNG HỘI THÁNH VIỆT NAM
 

 

Trước khi bắt đầu cuộc đời Rao Giảng Tin Mừng, Đức Kitô đã được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đi vào Hoang Địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Ngài cảm thấy đói. Lợi dụng cơn đói đang hoành hành trong thân xác của Ngài, quỉ vương Xatan đã xuất hiện,  mon men lại gần với ba chiêu bài (Mt 4, 1-11):

 

- Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy biến những viên đá sỏi nầy thành bánh mà ăn,

 

- Nếu Ông cần thuyết phục đoàn lũ quần chúng đông đảo đi theo và nghe lời Ông, hãy nhào lộn từ chóp đỉnh Đền Thờ, làm những trò múa máy, nhào lộn, ảo thuật…Mọi người lúc bấy giờ sẽ vỗ tay hoan hô, chúc tụng và ngưỡng mộ,

 

- Nếu Ông cần những phương tiện như vàng bạc, danh vọng và quyền lực, để mở mang bờ cõi và lấn chiếm các thuộc địa cho Nước Trời, hãy sụp lạy sát đất trước mặt tôi.

 

Từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người tín hữu, không trừ sót một ai, cũng đang ngày ngày được gọi mời đi lại con đường của Đức Kitô. Trong từng lời ăn, tiếng nói và hơi thở, phải chăng chúng ta cũng có thể can trường khẳng định như Thánh Phaolô:

 

- “Tôi sống, nhưng không phải là tôi. Chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 30),

 

- “Sống đối với tôi là Đức Kitô” (Pl 1, 21),

 

- “Tôi mang trách nhiệm bổ túc những gì đang thiếu sót trong con người và cuộc đời của Đức Kitô” (Cl 1, 24).

           

Một cách đặc biệt, giống như Ngài, chúng ta đang thực thi ba tác vụ “Vương đế, Ngôn sứ và Tư tế”, để nối dài và mở rộng sứ mệnh hay là công trình của Ngài, trong mọi hang cùng ngõ hẻm của nhân loại (Mt 28, 19):

 

“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”

 

Chính vì lý do này, ngày hôm nay, cũng như trải dài qua các thời đại, cùng với Hội Thánh, mỗi người trong chúng ta đang được Chúa Thánh Thần thúc đẩy và hướng dẫn, để đi vào Hoang địa. Ở đó, giống như Đức Kitô, chúng ta sẽ bị Quỉ Vương Xatan cám dỗ, trong ba lãnh vực khác nhau:

 

Thứ nhất là những cám dỗ trong vai trò làm “Vương đế”

 

Thay vì lắng nghe và thực hiện Lời Chúa: “Ai lớn nhất trong anh em, là người nhỏ nhất, Thầy đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ…” phải chăng chúng ta đang ngày ngày đi lại lối mòn của Gioan và Giacôbê, muốn được “ngồi bên hữu và bên tả của Thầy, trên Nước Trời”?

 

Chúng ta đang bị cám dỗ “làm phép lạ hóa đá thành bánh”, để vinh thân phì gia hay là tiến cử bạn bè thiết cốt vào những vị trí lãnh đạo quan trọng trong lòng Hội Thánh.

 

Thay vì sở hữu hóa thái độ của Đức Kitô: “Thầy không kết án ai cả”, chúng ta đang làm tất cả mọi điều trái ngược lại, là “thấy hạt bụi nho nhỏ trong con mắt của anh chị em hai bên cạnh, và không bao giờ nhận ra cái xà đang nằm chình inh giữa con mắt của bản thân mình”. Ngoài ra, khi người anh chị em có một vài lỗi lầm hoặc sơ sót, phản ứng tự động của chúng ta là phê phán, tố cáo, loại trừ, tẩy chay, cắt đứt mọi quan hệ…ép buộc họ trầm mình trong “Thất Vọng”.

 

Nói tóm lại, chúng ta nhập khẩu vào Nước Trời những thói tục “làm vương đế” của thế gian, của quỉ vương Xatan. Chúng ta đang tuyên xưng chỉ bằng mồm miệng Đức tin vào Đức Kitô, nhưng có bao giờ chúng ta can đảm soi bóng lòng mình vào tấm gương của đời Ngài, và hỏi Ngài: Con đang sử dụng đồng tiền của ai? Của các vì vua chúa và lãnh đạo trong thế gian, đang tranh giành nhau “ngồi trên ăn trước”, hay là của Đức Kitô đang bị đóng đinh và hấp hối trên Thánh Giá?

 

Thứ hai là những cám dỗ, đang đe dọa vai trò làm “Ngôn Sứ”của chúng ta.

 

Trong lòng Hội Thánh, làm Ngôn sứ có nghĩa là gì, nếu không phải là đi lại con đường của Thánh Gioan Tiền Hô: “Ngài phải lớn lên, còn tôi càng ngày càng trở nên bé nhỏ”. Một cách cụ thể, làm Ngôn sứ là trùng tuyên Lời Chúa khắp mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, trước mặt mọi người, xuyên qua tất cả bốn lãnh vực sinh hoạt là hành động và tư duy, xúc động và quan hệ trao đổi qua lại.

 

Nếu cần, người Ngôn sứ luôn luôn sẵn sàng đưa tay cho địch thù trói lại và dẫn độ vào ngục tù tăm tối hay là bị đày ải đến tận những nơi rừng thiêng nước độc, như các Tiên tri Êlya, Giêrêmia, Đanien…

 

Ai làm Ngôn Sứ cho Tin Mừng Thứ Tha của Thiên Chúa Ngôi Cha, cho bằng Đức Kitô trên Thánh Giá: “Xin Cha tha cho họ, vì họ lầm, chẳng biết….” Cũng vì đảm nhiệm vai trò làm Ngôn sứ, Thánh Gioan Tẩy giả đã bị mất đầu, khi lên tiếng vạch trần những hành vi lượn lẹo, thiếu cương thường đạo lý của vua Hêrođê.

 

Thay vì làm xướng ngôn viên cho Lời Chúa, trong những hoàn cảnh có lợi, cũng như bất lợi, chúng ta đua đòi những trò chơi ảo thuật như: “xây cất rùm beng, vinh thăng và háo thắng, chiêng trống ồn ào, áo quần lòe lẹt, chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13, 1). Trong mỗi đường đi nước bước, Quỉ vương Satan luôn luôn rình rập, khuyến khích mỗi người trong chúng ta thao tác những trò chơi ảo thuật, là nhào lộn từ đỉnh cao của Đền Thờ, để mọi người xa gần vỗ tay hoan hô, ngợi khen, chúc tụng, với những huy chương hay là văn thư khen thưởng thuộc nhiều cấp bậc chính quyền lớn bé khác nhau.

 

Thứ ba là những cám dỗ đang ngày ngày tấn công vai trò làm tư tế của Hội Thánh và của mỗi đồ đệ đi theo Đức Kitô.

 

Phải chăng tất cả chúng ta chỉ là những cánh tay tiếp tục và nối dài sứ mệnh làm tư tế của Đức Kitô? Ở trên Bàn Thờ Thánh Giá, Ngài vừa là Người Dâng Lễ, vừa là Của Lễ Toàn Thiêu, trước mặt của Thiên Chúa Ngôi Cha. Ngài đang câu bàu Hồng Ân Thứ Tha cho toàn thể anh chị em của mình, trong lòng nhận loại. Vàng bạc, hương đèn, trâu bò, gà vịt và bao nhiêu ngôi đền nguy nga tráng lệ, làm bằng gạch đá hay là xi măng cốt sắt… có nghĩa là gì, trước Mình và Máu của Con Chiên Thiên Chúa?

 

Bao lâu tâm hồn chúng ta chưa phải là Cung Đền ngự trị của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta đang sụp lạy, trước con bò vàng, do chúng ta làm nên, với bao nhiêu đặc ân, đặc huệ, do quỉ vương Xatan ban phát.

 

Nói một cách vắn gọn, bao lâu chúng ta chưa ngày ngày Chết và Sống Lại với Đức Kitô, những công trình hào nhoáng, lòe loẹt bên ngoài, do chúng ta xây dựng lên, với mồ hôi và xương máu của anh chị em đồng hương và đồng loại, chúng ta chỉ là những tên lý hình đang quất roi sắt vào lưng của Đức Kitô, trên những chặng đường vác Thánh Giá, leo lên ngọn đồi Gôngôtha.

 

***

 

Nhận diện ba loại cám dỗ trên đây đang ngày ngày rình rập và đe dọa Hội Thánh Việt Nam, cũng như mỗi người trong chúng ta, vẫn còn chưa đủ. Chúng ta còn phải đối diện vấn đề, một cách hiên ngang và can trường, trong cuộc sống Đức Tin hằng ngày của chúng ta.

 

Đối diện có nghĩa là Lắng Nghe và Thực Hiện Lời Chúa. Phải chăng đó là cách làm của Đức Kitô, mỗi lần phải đương đầu với quỉ vương Xatan, trong Hoang địa (Mt 4:1-11)?

 

Lời thứ nhất: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ Lời miệng Thiên Chúa phán ra.”

 

Lời thứ hai: “Người chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”

 

Lời thứ ba: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của người, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.

 

Phải chăng ngày hôm nay, trong thời đại Nghìn Năm Thứ Ba, Lời Chúa vẫn còn là “khuôn vàng thước ngọc”, cho Hội Thánh Việt Nam và cho mỗi một người tín hữu trong chúng ta, ở trong Nước cũng như ở ngoài Nước?

 

Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 2007

 

Gs. Nguyễn văn Thành

 

VỀ MỤC LỤC
TRUYỀN HÌNH
 

Trong hầu hết mọi gia đình, truyền hình tạo nên nhiều chuyện lủng củng. Chuyện tranh cãi coi đài nào. Bố mẹ lo ngại về những ấn tượng xấu để lại trong đầu óc con cái. Họ quan tâm về những chương trình giải trí thụ động tiêu phí nhiều thời giờ vô ích. Bài vở ở nhà nhiều lúc bị sao nhãng bỡi những chương trình tivi. Giờ đi ngủ không còn chú trọng bỡi những chương trình hấp dẫn thường hay đến trễ. Giờ cơm thì thay đổi lung tung cũng bỡi chương trình tivi. Nhiều gia đình đã phải thay đổi thói quen ăn tối để ăn trước giàn máy tivi, và rồi mỗi phần tử bị cô lập bỡi sự say mê vào chương trình. Bố mẹ lo lắng vì giờ cơm không còn là một sinh hoạt chung để thăng tiến sự đoàn kết của gia đình. Chiến tranh và bất đồng xảy ra. Một số bố mẹ không cho để tivi trong nhà, kết quả là con trẻ hoặc đi sang hàng xóm coi, hoặc tiếp tục phàn nàn rằng chúng bi chối từ điều mà những trẻ nhỏ khác được.

Truyền hình là một cái gì phổ thông. Nó trình bày những vấn đề mà chúng ta phải học hỏi hơn là thù hận. Khi con trẻ cãi vả về chương trình phải xem, bố mẹ không nên can thiệp vào, cho đến khi con cái đạt được một sự đồng ý. Khi sự cãi vả liên quan đến bố mẹ và con cái, tình hình xem ra phức tạp hơn. Nhưng đó không phải là vấn đề: bố mẹ được quyền xem chương trình hay con cái có quyền xem cái mà chúng muốn. Đây là vấn đề gia đình và phải giải quyết bỡi hết mọi người. Vấn đề trở thành: chúng ta sẽ làm gì về chuyện đó? Không phải bố, cũng không phải mẹ nói: tôi phải làm gì để xếp đặt việc xem tivi? Nhưng tất cả mọi phần tử trong gia đình phải đi đến một sự đồng ý với nhau. Đây thường là chủ đề cho hội đồng gia đình. Nếu sự bất đồng rất nghiêm trọng, bố mẹ có thể tắt máy tivi, và không ai ngay cả bố mẹ được xem tivi cho đến khi đạt được một sự thõa thuận. 

Bao lâu việc bài tập ở nhà bị xao lãng đến độ đáng quan tâm, chúng ta có thể cảm thông được với đứa trẻ nhờ việc thảo luận. Nó có thể chọn cho nó giờ nào làm bài tập và giờ nào coi tivi. Bà mẹ nên cứng rắn và giúp nó tuân giữ điều nó đã đồng ý, bằøng hành động không bằng lời nói. Nếu con trẻ muốn xem tivi sau giờ đi ngủ, bố mẹ phải cứng rắn để giữ thói quen. Nếu đứa trẻ còn nhỏ, bố mẹ nên bế nó vào giường mà không phải nói lời nào.

Không có chiến tranh xảy ra nếu bà mẹ không có điểm gì khiến nó để ý. Nếu bà cứng rắn trong việc giữ trật tự và theo những đòi hỏi của tình thế, bà chỉ mang nó vào giường. Nếu đứa trẻ đã lớn, chúng ta phải làm một sự thõa thuận với nó, và rồi cố gắng theo tới cùng điều đã được thõa thuận. Tất cả không phải dễ nếu chúng ta không phát triển mối giao hảo tốt trong sự tin tưởng và cộng tác với con cái chúng ta. Thật ra, tivi tự nó không phải là vấn đề, nó chỉ cho thấy sự thiếu cộng tác giữa cha mẹ và con cái.

Phẩm chất và nội dung của chương trình tivi là chủ đề của sự quan tâm quốc gia. Tuy nhyiên, chúng ta khó ngồi đó mà chờ đợi nhà nước giải quyết vấn đề cho chúng ta. Đó là vấn đề của chúng ta và chúng ta phải hành động.

Quang 11 tuổi, Vân 8 tuổi, và Quận 7 tuổi thưởng thức một cách thích thú một chương trình phù thủy đầy kinh dị. Bố mẹ cảm thấy rằng đó không phải là chương trình cho con trẻ. Nhưng họ càng phản đối thì con trẻ càng đòi hỏi. “Có cái gì sai đâu? Đó là một chương trình tốt. Mọi đứa trẻ khác đều xem nó.” Vì thế, mỗi tuần đều xảy ra một trận chiến trong gia đình về chương trình nầy.

Khi chúng ta nhấn mạnh rằng một đứa trẻ không nên xem một chương trình được phép, chúng ta mời nó đi vào một cuộc chiến “tranh chấp quyền hành”. Đứa trẻ sẽ thắng. Không có lý luận nào mạnh hơn: “những đứa khác được phép tại sao con không?” Và nếu chúng ta vẫn khước từ chương trình, đứa trẻ sẽ tìm sự trả thù trong cách khác. Giải quyết cách nào? Chúng ta không thể bảo vệ con trẻ chúng ta khỏi ảnh hưởng tivi cũng như những ấn tượng mà chúng nhận được. Tuy nhiên, chúng ta có thể giúp con trẻ phát triển sự đề phòng ảnh hưởng xấu và sự phê phán nghèo nàn. Điều nầy không thể được làm bỡi sự giáo huấn. Lời nói trong thế giới ngày nay được dùng như một vũ khí hơn là phương tiện đối thoại. Đứa trẻ trở nên điếc khi cha mẹ dạy đời. Tuy nhiên, một sự thảo luận trong đó bố mẹ hỏi rồi lắng nghe, xem ra có lợi hơn nhiều. Bố mẹ có thể xem những chương trình với con cái và rồi chia xẻ ấn tượng của họ trong một bầu khí thân mật như đặt câu hỏi: “Con nghĩ gì về phim đó? Nhân vật đó làm gì cách khôn ngoan? Con nghĩ những người khác cảm thấy thế nào? Tại sao? Con nghĩ họ có thể làm gì khác hơn?” Trong cách thế đó, bố mẹ giúp đứa trẻ nghĩ cho chính nó và có một cái nhìn chín chắn về chương trình về phía nó. Nếu bố mẹ lắng nghe, đứa trẻ sẽ khám phá khả năng diễn tả ý kiến của nó – một khám phá thích thú nhất của đứa trẻ. Bố mẹ không nên làm hỏng chương trình bằng cách cố gắng sửa sai những ấn tượng mà đứa trẻ diễn tả. Chúng ta chấp nhận những gì mà đứa trẻ nói. Và hãy theo dõi, chúng ta sẽ thấy một sự tiến triển với thời gian, và đứa trẻ tự nó sẽ phát triển cái nhìn chín chắn hơn. Nếu bố mẹ bất thường muốn đóng góp ý tưởng của mình, họ có thể làm điều đó dưới hình thức một câu hỏi được nêu ra: “Con nghĩ là cái gì xảy ra nếu…” Hoặc sau một phim cao bồi, bố mẹ có thể hỏi: “Con có biết ai tốt trong phim không? Đánh đập một người có phải là vui không?” 

Trong những thảo luận như thế, chúng ta tránh áp đặt những ý tưởng riêng của chúng ta và khuyến khích đứa trẻ nên có những suy nghĩ cho chính nó. Chúng ta phát triển một tương quan tốt đẹp với con trẻ. Trẻ con không bao giờ học suy nghĩ cho chính mình nếu chúng ta làm hết mọi sự cho chúng. Nếu có một sự quan hệ tốt đẹp, đứa trẻ sẽ thành thật đáp lại những điều mong ước của chúng ta, sẽ nói với chúng ta nó nghĩ gì – điều đó có nghĩa là nếu nó không mang một thương tích nào trong đầu. Và chúng ta có thể hoàn toàn ngạc nhiên khi thấy con trẻ có một sự phán đoán thông minh và một kiến thức nhạy bén về cách xử thế công bình và cao đẹp mà con trẻ cho thấy.

Với cách hành động trên đây, chúng ta cũng sẽ khám phá ra rằng hầu hết con trẻ lấy chương trình tivi tùy theo sự thăng tiến của chúng. Nếu đó không là nguồn cho sự cạnh tranh quyền bính, sự thích thú thường không phải là vấn đề quan trọng. Vấn đề quan tâm về chương trình giải trí quá thụ động có thể được làm quân bình nếu chúng ta nghĩ rằng đây cũng là một hình thức vui khác mà gia đình cùng nhau quây quần. Chúng ta không thể lấy một cái gì khỏi đứa trẻ. Đây là một hình thức áp đặt ý muốn chúng ta. Chúng ta cần đưa ra một cái gì có lợi lớn hơn kích động và ảnh hưởng đứa trẻ để nó tự nguyện bỏ điều ít lợi hơn.

Tivi thật ra không phải là nguyên do của nhiều lo lắng nếu chúng ta biết phải làm gì và biết tự tin vào khả năng của chúng ta để đối phó với những vấn đề trục trặc hàng ngày luôn gặp phải.

Lm. Lê Văn Quảng, tiến sĩ tâm lý

VỀ MỤC LỤC

NHỮNG CON VẬT TRÊN TÀU NÔ-E HÔM NAY

 

Tác phẩm Giáo Hội Cần Loại Linh Mục Nào? (tiếp theo)

Lm Giuse Lê Công Đức chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:

PRIESTHOOD IMPERILED,   Tác giả: Lm. BERNARD HARING, C.SS.R. 

 

NHỮNG CON VẬT TRÊN TÀU NÔ-E HÔM NAY

Trong khi quả thật Giáo Hội đang có những linh mục và giám mục mà Giáo Hội đáng có, thì có một câu hỏi quan trọng là: Phải chăng các linh mục đang có được loại Giáo Hội mà họ đáng có? Một câu hỏi thật gay go! Tất cả chúng ta, từ những Kitôhữu bình dân chất phác nhất cho tới giáo hoàng, đang là những người hưởng dụng bao kho tàng quí báu của lịch sử Giáo Hội, nhưng chúng ta cũng là những kẻ kế thừa các gánh nặng của Giáo Hội để lại nữa -  đây là một điểm mà tôi muốn đề cập qua suốt quyển sách này. Lịch sử của chúng ta là một lịch sử nhập nhằng, vì chúng ta cưu mang trong lòng mình nhiều ký ức phấn khởi đan quyện với vô số những dấu ấn của thương tích. Với tất cả những điều đó trong tâm tư mình, tôi muốn nhận định ở đây về các loại linh mục khác nhau trong Giáo Hội chúng ta, nhất là vì câu hỏi căn bản của chúng ta - “Giáo Hội cần loại  linh mục nào?” – có quan hệ trực tiếp với loại Giáo Hội mà chúng ta sẽ có.

con tàu Nô-e: nguồn cảm hứng cho chức linh mục

Ở đây tôi mạn phép bạn đọc để cố gắng mô tả những loại linh mục khác nhau đang trong hành trình với đoàn dân lữ hành của Thiên Chúa mà chúng ta gọi là Giáo Hội. Nhằm mục đích đó, tôi sẽ sử dụng biểu tượng con tàu Nô-e như con tàu của chúng ta, đặc biệt bởi vì con tàu ấy là hình ảnh báo trước con tàu của ơn cứu độ do Đức Giê-su Kitô đem lại.

Một hôm, Nô-e trở nên chán nản, buồn phiền và trong nước mắt ràn rụa ông đến gặp Chủ của con tàu và thưa: “Lạy Chúa, tại sao Chúa giam con trong con tàu này với quá nhiều những con vật kinh khủng như thế này – nào là những con khỉ ngu ngốc, nào là những con heo hôi hám, nào là ...?” Ông kể một danh sách dài ngoẵng những thứ tồi tệ. Thiên Chúa lắng nghe đầy thương cảm, rồi Ngài ôn tồn nói: “Này Nô-e thân mến, ngươi đừng quên rằng con tàu này là ơn cứu độ của ngươi ở đây và lúc này. Chúng ta cứu sống những con vật tội nghiệp ấy nữa thì càng hay đấy chứ, phải không?”

con gà trống: vừa kiêu hãnh vừa trịch thượng

Một số linh mục dường như chọn con gà trống làm bổn mạng. Họ đứng chễm chệ trên cao, tự ca ngợi vinh quang và quyền lực của mình: “Lạy Chúa, hãy nhìn và hãy lắng nghe con đây! Con là chúa tể trong lãnh địa của con. Vâng, Chúa hãy bảo đám gà mái và gà con ấy biết lắng nghe và vâng lời con, vì ích lợi của chính chúng nó!”

Rất nhiều cám dỗ tồi tệ khiến người ta kiêu ngạo – những cám dỗ này dễ dàng dấy lên trong hàng ngũ giáo sĩ, nhất là những vị có chức tước cao. Tôi tin rằng Thiên Chúa của chúng ta, Đấng vô cùng kiên nhẫn, phải bụm miệng cười và nhân hậu chịu đựng những con gà trống quái đản này. Thật vậy, tôi tin rằng Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn tha thứ cho họ, bởi vì nếu tôi – chỉ là một con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa – mà có thể phì cười vào những trò cao ngạo ấy, trong một số chừng mực nào đó, thì Thiên Chúa còn có thể cười thấm thía hơn biết  chừng nào!

Dù sao, cứ nhìn cho kỹ, người ta sẽ thấy rằng cái toát ra từ những linh mục tự mãn không phải là hương thơm thánh đức mà đúng hơn chỉ là mùi tanh hôi. Để tự vệ, các linh mục này có thể không ngần ngại đưa ra những giải thích rất quờ quạng để biện minh cho tính cách tự mãn của mình. Chẳng hạn, chẳng phải họ là những vận động viên khỏe nhất và đã vượt qua những kẻ khác trong cuộc chạy đua tranh giành địa vị đó sao? Chẳng phải rõ ràng là họ rất có tài trong việc cai quản và tổ chức những “sân nuôi gà vịt” của họ đó sao? Họ chẳng xác quyết rằng họ - với quyền Thiên Chúa ban cho và với những chức tước hẳn hoi - mới có sự tinh thông để giảng dạy và cai quản đó sao? Rồi, với tất cả những hào quang đó, họ chẳng bước đi một cách ‘hách xì xằng’ trong những rừng màu sắc, ánh sáng, biểu ngữ ... xứng đáng với địa vị của họ đó sao?

Nhưng câu hỏi lồ lộ nhất vãn còn nguyên đó. Thật sự các vị đó đang làm gì trong con tàu cứu độ này? Không phải do bởi lòng khiêm nhường vô hạn mà Thiên Chúa, qua Đức Giê-su Kitô, đã nhập thể và hiện thực hóa chương trình cứu độ đó sao? Không phải Thiên Chúa là Đấng đã bác bỏ mọi sự gán ghép chức linh mục với thói trịch thượng kiểu gà trống đó sao? Người Tôi Tớ của Thiên Chúa đã không cảnh giác tất cả chúng ta qua lời cầu nguyện của Đức Maria, người Nữ Tì khiêm tốn đó sao?: “Ngài đập tan những ai lòng trí kiêu căng. / Ngài hạ những người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, / và nâng lên những người bé mọn” (Lc 1,52)

Chúc tụng Ngài, lạy Chúa, vì trên con tàu của Ngài có nhiều linh mục, giám mục, giáo hoàng không khoe khoang hợm hĩnh, bên cạnh những con người thấp hèn, cô thân cô thế của Ngài – đó là những người anawim, những người chú tâm lắng nghe Lời Ngài và thể hiện cuộc sống khiêm nhường của Đức Giêsu Người Thợ Mộc. Trong sự thấp hèn của họ, Ngài đã mạc khải cho họ vinh quang đích thực của Ngài!

những con chim sơn ca 

Một trong những ca sĩ dễ thương và được ngưỡng mộ nhất trong các loài chim, đó là chim sơn ca. Tôi thường lắng nghe tiếng hót trong trẻo của sơn ca vào giờ kinh sáng của mình, mặc dù tôi chưa bao giờ nhìn thấy một chú sơn ca nào. Chim sơn ca giúp tôi suy niệm về một khía cạnh đặc biệt nói lên tính đích thực của Kitôhữu và của người linh mục. Thật kỳ lạ, chim sơn ca vừa giấu mình không cho người ta nhìn thấy, vừa tự bộc lộ mình qua tiếng hót rộn rã giữa trời đêm. Dù chúng ta có nghèo khả năng suy tư đến mấy đi nữa, tiếng hót thánh thót của loài chim này cũng có thể nhắc chúng ta nhớ rằng thật quan trọng biết bao việc xây dựng một đời sống linh mục đích thực có sức cuốn hút người ta hướng đến sứ điệp chan hòa niềm vui của Thiên Chúa và ca tụng Ngài, chứ không phải thu hút sự chú ý về phía người sứ giả. Chim sơn ca nhắc chúng ta rằng cái tôi của chúng ta không thể bành trướng và che lấp sứ điệp niềm vui giải phóng của Thiên Chúa hay hoàn toàn làm tắc nghẽn không cho người tín hữu nghe được sứ điệp ấy. Người linh mục đích thực là người linh mục thể hiện bản ngã thực của mình, bằng cách hướng chỉ cho người khác thấy Thiên Chúa – chứ không phải thấy chính mình. Người linh mục đích thực là người sứ giả không bao giờ đứng chình ình cản lối sứ điệp. Đây chính là ý nghĩa cốt yếu của câu châm ngôn I-nhã: Mọi sự để vinh danh Chúa hơn!

Có một kinh nghiệm mà tôi thường ôn lại trong tâm trí mình giúp minh họa rất rõ ơn gọi của loài chim sơn ca. Năm 1950, tôi có dịp giảng tuần đại phúc tại một giáo xứ trong vùng, chị giúp việc cha sở đã kể cho tôi một câu chuyện rất ấn tượng – nhân vì lúc ấy tôi đang sôi nổi khen ngợi mối quan hệ tốt lành giữa vị cha sở cao niên của chị và linh mục phụ tá của ngài. Được biết trước đó chị chưa bao giờ kể câu chuyện này với bất cứ ai, vì cha sở đã bắt chị thề phải giữ kín. Tuy nhiên, chị quyết định kể cho tôi, tin tưởng rằng tôi sẽ không xì nó ra cho mọi người trong giáo xứ biết. Và câu chuyện về chim sơn ca ấy của chúng ta như sau:

Sau khi trải qua 5 năm với tư cách là một sĩ quan quân y trong quân đội hồi Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, người linh mục trẻ ấy được bổ nhiệm về làm phụ tá mục vụ ở giáo xứ, và ngay lập tức, chinh phục được trái tim của mọi người. Bực bội về điều này, ông cha sở luôn luôn nhắc cho cha phụ tá mới của mình nhớ rằng ông mới là người trách nhiệm giáo xứ chứ không phải anh ta. Đong đưa giữa lòng ganh tị và sự thán phục, ông cha sở dần dần nhận ra rằng nên chăng mình học hỏi một điều gì đó từ cha phụ tá trong việc phục vụ giáo xứ của mình, một giáo xứ vốn có rất nhiều dân tị nạn nghèo khổ.

Một bữa nọ, cha phụ tá yêu cầu chị giúp việc sắp xếp để đưa chiếc giường ngủ của mình tới cho gia đình nghèo nhất mà ngài vừa ghé thăm. Ngài cũng cấm chị không được nói cho ai biết rằng đó là chiếc giường duy nhất của ngài. Thế rồi, điều xảy ra là có một sự ngộ nhận dần dần được lan truyền giữa các giáo dân trong giáo xứ. Người ta nói với nhau rằng cha sở đã gửi tặng chiếc giường của ngài cho một gia đình nghèo – và ai nấy tỏ niềm trân trọng đối với nghĩa cử ấy của cha sở. Cha sở không thể đính chính gì được cả. Tuy nhiên, ông tìm ra một cách giải quyết khá hay: ông quyết định tặng hai trong số những cái giường thừa không dùng đến của ông cho những người nghèo nhất trong giáo xứ.  Kết quả là một mối quan hệ hoàn toàn mới đã được hình thành giữa cha sở và cha phụ tá, và cả giữa cha sở và giáo xứ nữa. Hơn nữa, chị giúp việc còn cho biết thêm rằng câu chuyện này cũng là một bài học hết sức ấn tượng cho bản thân chị.

Tôi tin rằng vị linh mục trẻ ấy có thể sẽ phàn nàn chị giúp việc của mình nếu ngài biết chị ấy đã kể cho tôi nghe câu chuyện, nhưng tôi đã hứa với chị rằng tôi sẽ giữ kín câu chuyện ấy khi tôi còn lưu lại tại giáo xứ. Tuy nhiên, về sau khi đi phục vụ tại nhiều quốc gia khác nhau, tôi đã kể câu chuyện này cho rất nhiều linh mục. Đây cũng là một câu chuyện mà tôi tự ôn lại trong tâm trí mình thường xuyên – vì nó nêu bật một khuôn mặt linh mục khiêm nhường, biết giấu mình đi để người ta có thể thật sự quy hướng về Chúa và Tin Mừng của Ngài.

nhà luân lý khắt khe

Không thể đếm được đã bao nhiêu lần tôi được giới thiệu là “một nhà luân lý tên tuổi” mỗi khi tôi được mời nói chuyện với một cử tọa. Aùy náy trong lòng, tôi tự hỏi tại sao người ta lại gán cho mình cái tước hiệu sỉ nhục này; vì phần đông người ta hiểu mấy chữ “nhà luân lý” theo một nghĩa rất tiêu cực. Một nhà luân lý là một con người luôn luôn xét đoán và khiển trách người ta. Ông ta luôn luôn cố nhồi nhét cho người ta tất cả những điều luật và những quy định cấm “nghiêm ngặt”, mà không mấy lưu tâm đến những hoàn cảnh có thể cho phép các ngoại lệ. Ông ta dồn cho thiên hạ những nỗi sợ hãi. Thật là kinh khủng! Nếu nền luân lý kỳ quặc ấy là tiêu chuẩn ơn cứu độ của Thiên Chúa, thì hẳn là con tàu Nô-e sẽ nhanh chóng bị bỏ phế, và hỏa ngục sẽ trở thành nhung nhúc dân cư!

Nhà luân lý – theo nghĩa đặc trưng – là người chuyên tâm nhắm kiểm soát hoàn toàn lương tâm người ta, một phần qua việc đòi hỏi người ta xác định chính xác các tội theo thứ loại và theo số lượng. Trong khung cảnh tòa giải tội, vị linh mục thường vô tình biến cuộc gặp gỡ ấy thành một nơi tra khảo và xét nét, chủ yếu bằng những câu hỏi đại loại như: Anh đã phạm tội thủ dâm kinh khủng ấy bao nhiêu lần? Chị đã nuôi dưỡng trong lòng những ý tưởng không trong sạch ấy bao nhiêu lần, và chị hãy nói rõ đó là những ý tưởng không trong sạch thuộc loại nào?...

Rất may, các tín hữu Công Giáo ngày nay đã biết chọn lựa cha giải tội cho mình, và phần đông có thể tìm ra những linh mục biết nhận thức – như Thánh An-phong-sô – rằng vai trò chủ yếu của cha giải tội là trở thành tấm gương phản chiếu khuôn mặt của Thiên Chúa vô cùng thương xót, khuôn mặt của Đức Giêsu Đấng Chữa Trị. Những linh mục này hiểu rằng việc “xét xử” (trong chừng mực mà con người có thể làm) tiên vàn có nghĩa là việc biện phân giữa đâu là tình yêu đích thực và đâu là tình yêu giả mạo.

Phúc cho những hành khách nào ở trên con tàu Giáo Hội – trong tiếp xúc với các linh mục và các Kitôhữu khác – có thể cảm nghiệm được không chỉ quyền năng giải phóng của Thiên Chúa theo lời Thánh Phao-lô: “Anh em không còn thuộc về Lề Luật, nhưng là thuộc về ân sủng của Thiên Chúa” (Rm 6,14), mà họ còn – nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần – có thể giúp đỡ nhau một cách đầy khích lệ. Hãy cút đi, hỡi các nhà luân lý, và đừng bao giờ quay trở lại bao lâu các người chưa có đủ lòng khiêm tốn thực sự để biết suy ngẫm về sự quảng đại và ân cần thứ  tha của Đấng đã sáng tạo nên các người!

những người lính gác 

Làm một lính gác, hay một người bảo vệ, tự nó không phải là cái gì xấu, nếu các linh mục nhận hiểu trách nhiệm của mình là bảo vệ các quyền chính đáng và sự tự do của mọi người, chống lại những xâm phạm bất công. Tuy nhiên, những người bảo vệ đức tin rất dễ tìm thấy sự khoái trá trong quyền lực và trong việc hành sử vai trò kiểm soát, nhất là nếu họ tóm cổ được một kẻ nào đó đang sai quấy. Leo thang tới một mức thái quá, các linh mục như thế sẽ hùng hổ tố cáo người ta dù chỉ do một vi phạm nhỏ nhặt nhất đối với một điều luật ít quan trọng nhất – mà không bao giờ kiểm tra xem chính bản thân điều luật đó có thực sự chính đáng không.

Thật đáng ngạc nhiên để nhận thấy rằng trong Giáo Hội hôm nay, các nhà bảo vệ thường sử dụng quyền cao chức trọng của mình để thi hành sự kiểm soát thái quá trên mọi vấn đề về chính thuyết (orthodoxy), nhất là về những giáo thuyết không được mạc khải - trong khi đó, họ hoàn toàn không có khả năng thuyết phục ngay cả những Kitôhữu nghiêm túc nhất tin rằng những giáo thuyết ấy đến từ Thiên Chúa. Đó là chưa kể đến những sự kiểm soát mà họ áp đặt trên người ta về những vấn đề chẳng có liên quan gì đến chính thuyết cả! Một hệ thống kiểm soát gần như toàn bộ là một hệ thống thoát thai từ sự nghi ngờ, và nó tạo ra một bầu khí không lành mạnh cho các mối quan hệ con người – điều này rõ ràng tương phản với sứ mạng của Giáo Hội là chữa trị chứ không phải xét xử.

Trong một nền văn hóa ngày càng có nhiều khả năng nhồi sọ, nắn ép công luận, nắn ép cả gien của con người, thì câu hỏi nóng bỏng được đặt ra là: Ai kiểm soát những nhà kiểm soát? Thực vậy, những nhà-kiểm-soát-không-được-ai-kiểm-soát có thể ví như một cơn dịch tàn khốc mà chúng ta cần phải luôn luôn cảnh giác.

Trong lịch sử, chúng ta thấy rằng tất cả những chế độ độc tài chuyên chế, như chế độ của Hitler và của Stalin, đã không ngừng đẩy mạnh một hệ thống kiểm soát ngày càng tinh vi hơn. Sau sự sụp đổ của chế độ theo đường lối Stalin ở Đông Đức, người ta phải giật mình khám phá ra rằng vô số người đã bị kiểm soát một cách âm thầm bởi những kẻ khác ngồi trên chóp bu và không bị ai kiểm soát – và rồi đến lượt mình, chính những người bị kiểm soát này đã trở thành những người kiểm soát. Điều đáng ghi nhận nữa là nhiều nhà kiểm soát như thế là những con người vốn có nhiều tiếng tăm! Ngay cả những tù nhân trong các trại tập trung cũng sẽ được đãi ngộ tốt hơn nếu họ nhận công việc kiểm soát và tố cáo các bạn tù của mình. Rốt cục, hầu như mọi người đều trở thành tù nhân của chính mình cách này hay cách khác do bởi hệ thống kiểm soát có tính thanh trừng, lừa gạt và phản phé ấy.

Giáo Hội, ở mọi cấp, phải ghê tởm và xa lánh một hệ thống kiểm soát như thế. Thay vào đó, chúng ta hy vọng rằng Giáo Hội sẽ chọn con đường “khoan nhượng lẫn nhau về lương tâm” – nghĩa là trong thực tiễn Giáo Hội sẽ tích cực hậu thuẫn một công luận lành mạnh đồng thời thúc đẩy sự đối thoại trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau.

Giới thẩm quyền trong Giáo Hội không bao giờ được phép nhân nhượng trước cám dỗ a dua chấp nhận những xu hướng thoát thai từ các ý thức hệ kinh khủng mà chúng ta đã kinh nghiệm trong thế kỷ này. Trong tư cách là người hướng dẫn người ta đến với chân lý và ánh sáng, Giáo Hội phải luôn luôn cảnh giác để chống lại những khẩu hiệu hồ đồ và rỗng tuếch kiểu như: “Hitler muôn năm! Hitler luôn luôn đúng!”

Hơn nữa, một Giáo Hội đảm nhận sứ mạng thể hiện công lý và sự khiêm nhường của Đức Kitô cũng cần phải thận trọng phòng tránh những ý thức hệ sai lầm và thiên lệch quá mức của chính mình nữa. Trong tiến trình này, mọi linh mục – dù là giáo hoàng, hồng y, giám mục, cha sở hay phụ tá mục vụ – đều có thể đóng góp rất nhiều cho Giáo Hội bằng cách biết đưa ra cũng như biết đón nhận những sự phê bình có tính xây dựng, xét như một phương thế để nhận thức sâu hơn về chân lý. Trong thời đại này, lịch sử đặc biệt nhắc chúng ta về ý nghĩa và giá trị của việc thực thi nhân đức phê bình – qua việc suy tư thần học và chia sẻ kinh nghiệm. Nhân đức này giả thiết rằng tất cả chúng ta, ở bất cứ vị trí nào trong Giáo Hội, cũng đón nhận và cống hiến cho nhau sự phê bình trong tinh thần xây dựng.

Việc tiếp nhận nhãn quan của Công Đồng Vatican II có thể là một kinh nghiệm giải phóng lớn lao và là một cơ hội tuyệt vời cho chúng ta tiến xa hơn trong nỗ lực đại kết – nhất là kể từ khi Giáo Hoàng Gioan XXIII đã mở đường cho chúng ta qua việc ngài đột phá cách ngoạn mục vào cuộc đối thoại chân thành và cởûi mở.

Sự nhấn mạnh của Công Đồng về việc thúc đẩy tính tập đoàn và về việc phát triển các cơ cấu phân nhánh (subsidiary) cần phải vượt thắng trên các khuynh hướng tập quyền, chuyên chế và o ép. Não trạng “cha chú” và việc hành sử kiểm soát thái quá cần phải bị vạch mặt rõ để mọi người thấy rằng nó là một kẻ thù của sự tự do và của năng lực sáng tạo mà Đức Kitô đã đem lại cho tất cả mọi người chúng ta.

Một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất để đo lường tính đích thực của một ơn gọi linh mục, đó là sự cắm rễ sâu xa trong tinh thần phi bạo lực và sự thể hiện tinh thần này trong thực tiễn. Trước Vatican II, tại một số nơi trong Giáo Hội, có tồn tại một thứ thần học luân lý đặt nền trên sự khống chế (để trang bị cho các nhà kiểm soát khác nhau) – và thứ thần học này đã sản sinh ra cả loạt những linh-mục-nhà-bảo-vệ rất tiêu cực. Trong khi tôi hy vọng não trạng khống chế ấy, vì lợi ích của Giáo Hội, sẽ lụi tàn đi, thì tôi vẫn nghĩ rằng cần nêu ra ở đây ít nhất hai ví dụ về thứ não trạng này như một cảnh tỉnh cho những ai còn có xu hướng tơ tưởng đến nó.

Sau khi từ Nga trở về vào năm 1945, tôi giảng tĩnh tâm Mùa Vọng tại một giáo xứ. Theo lời đề nghị của tất cả các nhà thừa sai, tôi đã mời mọi người, không trừ ai, đến lãnh Bí Tích Hòa Giải hoặc đến để trao đổi – vì theo lòng thương xót vô hạn của Đức Kitô, mọi người đều được mời gọi lãnh nhận ơn bình an của bí tích này. Nhiều người, gồm cả những người li dị và tái hôn, đã can đảm hưởng ứng lời mời ấy của tôi. Thế nhưng, cha sở của giáo xứ đã không giấu giếm sự bực bội đối với tôi; ông bảo là ông rất “quan tâm đến kỷ luật Giáo Hội”. Bữa nọ, cha sở không chỉ từ chối không cho một phụ nữ rước lễ mà ông còn quát mắng chị cách thậm tệ trước mặt các tín hữu khác. 

Tại bữa cơm tối, không dằn được sự bức xúc, ông đã thẳng thắn chỉ trích tôi: “Anh đã giải tội cho những người đang sống trong tình trạng rối” (rõ ràng cha sở ám chỉ những người đã li dị và tái hôn). Đúng lúc ấy, chồng của người phụ nữ nói trên bước vào và cho cha sở biết rằng vợ của anh ta không phải là một người li dị. Anh chồng này yêu cầu cha sở phải thanh minh lại chuyện này và phải xin cộng đoàn giáo xứ tha thứ. Tối hôm ấy, cha sở đã nói lên lời xin lỗi cả với tôi! Điều kỳ diệu nhất là chính kinh nghiệm choáng váng này đã trở thành một kinh nghiệm hết sức ích lợi cho chính vị cha sở ấy.

Rồi, trong Mùa Chay, tôi phụ trách “ngồi tòa” suốt ba ngày tại một giáo xứ khác, nơi mà tôi nhận ra rằng rất ít người chọn xưng tội với cha sở. Và một sự việc xảy ra đã giúp tôi hiểu tại sao. Hôm ấy, đang bước vào tòa giải tội, tôi trông thấy cha sở bạt tai một phụ nữ. Liền sau đó, người phụ nữ này đến gặp tôi và than thở rằng chị chẳng làm gì nên tội ngoại trừ việc chị nghiêng qua nhắn một câu ngắn cho một phụ nữ khác ngồi bên cạnh trong nhà thờ. Trong nhận thức của mình, vị cha sở này tự cảm thấy ông là một linh mục nhiệt thành, chu toàn mọi bổn phận. Trong lương tâm, hẳn ông không có gì áy náy – nhưng vấn đề vẫn còn đó: Lương tâm của ông là loại lương tâm nào? Rõ ràng là quan điểm của vị cha sở này về vai trò canh gác (để bảo vệ kỷ luật của Giáo Hội) đã phát xuất từ một lương tâm được hướng dẫn cách sai lạc.

Hỡi các linh-mục-nhà-canh-gác tội nghiệp! Có lẽ các anh đã đơn sơ hấp thụ một loại giáo huấn và kỷ luật luân lý vừa bệnh hoạn vừa là mầm rắc gieo bệnh hoạn. Xin các anh đừng để cho hàng ngàn khoản luật và khoản cấm đoán nhân tạo dựa trên một hệ thống cứng ngắt giam hãm các anh! Trong đáy tâm hồn mình, các anh há không cảm thấy xấu hổ về tình trạng nô lệ dưới ách luật của mình sao? Tình trạng nô lệ này nhiễm vào các anh, rồi qua các anh, những người khác cũng bị nhiễm độc; còn đâu nữa sự tự do của con cái Thiên Chúa! Nếu các anh nhìn kỹ trong các tín hữu – mà các anh cho là bọn thất học và dốt nát – các anh sẽ gặp thấy rất nhiều nhà chữa trị tuyệt vời, nhiều chứng nhân của niềm vui và niềm an bình nội tâm. Các anh hãy đến gặp họ, vì chắc chắn họ có thể giúp ích nhiều cho các anh đấy!

Rất may là con số các linh mục khắt khe thái quá đang có chiều hướng giảm dần, nhưng vẫn còn khá nhiều nhà cực đoan trẻ tiếp tục xuất hiện – đó là những linh mục có thái độ cực đoan bảo thủ, vì họ đã được dạy để tin vào luật lệ và kỷ luật - cơ hồ như đó là những giá trị tối thượng của chức linh mục và của sứ vụ của họ vậy.

Đối với các linh-mục-nhà-canh-gác, được khống chế bởi những luật lệ và qui định, thì sự độc thân không phải là một kinh nghiệm tự do trong mức độ mà nó được hiểu như một phần của “cơ cấu luật thánh”. Vì vậy, các linh mục này không cảm nếm được kinh nghiệm chan hòa niềm vui của đặc sủng độc thân.

Nhiều linh mục khắt khe và nệ luật là những con người nói chung tốt lành và thành tâm, nhưng do bị hướng dẫn sai lạc nên đã có nhận thức không đúng đắn về thế nào là một nhà bảo vệ chân lý. Lẽ ra họ có thể đắc lực hơn rất nhiều nếu như họ sẵn lòng hơn để được dẫn dắt bởi Đức Kitô để đi vào trong miền đất hứa của năng lực sáng tạo và của tính đích thực, thay vì cố bám chặt vào những lan can luật lệ vốn bảo đảm cho họ một thứ cảm giác ổn định giả tạo mà thôi!

Như tôi đã từng đề cập, trong chúng ta có nhiều bạn trẻ thiết tha phục vụ Thiên Chúa trong chức linh mục nhưng không dám dứt khoát dấn thân – không chỉ vì họ sợ sẽ tới lúc nhận ra mình không thể sống đời độc thân, mà còn vì họ sợ sẽ bị khai trừ khỏi hàng linh mục một cách nhục nhã. Tôi đã phải bao lần ứa nước mắt với các linh mục vốn đã thành tâm dấn thân và vốn giàu các khả năng nhân bản, nhưng bị dồn tới đường cùng bởi các nhà bảo vệ luật cứng cỏi của Giáo Hội. Những kinh nghiệm thuộc loại này trở thành một phản chứng tá đối với niềm vui của đời sống độc thân.

Tuy nhiên, tôi vẫn không hoàn toàn tẩy chay vai trò người canh gác của chức linh mục thừa tác. Chỉ mong rằng vai trò này được nhận hiểu trong ý thức rộng hơn về “một người giữa chúng ta”. Nếu các linh-mục-nhà-canh-gác hành động một cách hoàn toàn phi bạo lực, họ có thể trở thành những nhà tiên phong của một nền văn hóa phi bạo lực. Những người cảnh sát mẫu mực và phi vũ trang làm công việc bảo vệ tự do và trật tự cộng cộng – đó chắc chắn là một bước đột phá tuyệt vời về văn hóa.

những kẻ nệ nghi thức

Trong con tàu của ơn cứu độ, con số những nhà nệ nghi thức luôn bối rối và luôn gây bối rối cho kẻ khác cũng đã giảm dần. Cách đây khoảng năm mươi năm, tinh thần nệ nghi thức là một trong những đại dịch trong Giáo Hội. Không phải là họa hiếm việc người ta nhìn thấy – chẳng hạn - những linh mục quá lo lắng về vấn đề thành sự hay không thành sự của bí tích, phải vã mồ hôi mỗi khi đọc lời truyền phép. Ngay cả những linh mục giàu năng lực và được đặt vào những chức vụ quan trọng cũng bị hoang mang do nỗi nghi ngờ về chức thánh của mình. Họ tự hỏi lúc mình được truyền chức, mình có đã đồng thời chạm vào chén thánh, đĩa thánh và bánh thánh hay không (bởi theo luật, nếu không vậy thì việc truyền chức ấy không thành sự!)? May là Giáo Hoàng Piô XII đã chấm dứt bi hài kịch này bằng việc chính thức tuyên bố rằng đó không phải là một điều kiện cho hiệu lực của việc truyền chức.

Tinh thần nệ nghi thức trong bất cứ dạng nào cũng có thể trở thành một chứng bệnh vừa tự mãn về mình vừa xem thường kẻ khác. Việc xét nét chi li, ngay cả trong những qui định nghi thức nhỏ nhặt nhất, có thể trở thành một thứ lô cốt an toàn đối với những linh mục cắm rễ trong thái độ khư khư vâng lời tối mặt. Trong viễn ảnh đó, ta thấy các nhà nệ nghi thức dễ dàng trở thành những con chó canh cửa hung dữ. Xin dẫn ở đây một ví dụ. Hồi đó, là một linh mục trẻ Dòng Chúa Cứu Thế đang lưu lại tại một trong những cơ sở của dòng, tôi hỏi vị bề trên xem liệu mình có thể làm lễ trước khi mình ra đi vào sáng ngày mai hay không. Vị bề trên trả lời một cách đầy ẩn ý: “Nếu anh dám!” Sau Thánh Lễ, khi tôi đang gấp rút sửa soạn ra đi cho kịp chuyến tàu, một đàn anh trong nhà chặn tôi lại và nói: “Này, Bernard! Anh đã phạm hai sai sót về phụng vụ, và chúng tôi ở đây rất kiêng kỵ điều đó.” Sau khi nghe giải thích về hai điểm ấy, tôi nói với anh rằng chẳng có luật Giáo Hội nào đề cập đến những điều mà anh quan tâm cả. Để trả lời tôi, anh trưng ra một thủ bản được viết bởi một tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, trong đó có đề cập rõ vấn đề mà anh ta đang khiếu nại. Rồi anh kết luận: “Chúng ta phải tuyệt đối giữ luật, vì sự hiệp nhất của chúng ta!”

Cho dù những trường hợp nệ nghi thức quá quắt và những sự kiểm soát đầy ác ý đã giảm thiểu rất nhiều, song chủ nghĩa nệ nghi thức vẫn còn tồn tại giữa chúng ta. Ngay cả giữa những vị lãnh đạo trong Giáo Hội, tinh thần này vẫn còn là một cản trở nghiêm trọng đối với việc hội nhập văn hóa và đối với tính thanh thoát trong phụng vụ.

Luật độc thân hiện nay, ít nhất một phần nào, không đang góp phần xúi quẩy cho não trạng về sự trong sạch của nghi thức vốn gây phương hại đến mệnh lệnh quan trọng của Chúa - “Tất cả anh em, hãy làm việc này để nhớ đến Thầy!” – đó sao? Nói cách khác, luật nhân tạo về độc thân có thể trở thành một cản trở đối với quyền cử hành Thánh Thể của người tín hữu, một quyền được chính Chúa bảo hộ.

kẻ nhút nhát

Thật đáng thương cho các bạn! Ai đã thiến hoạn các bạn và tước khỏi các bạn mọi năng lực sáng tạo, mọi sự dũng cảm và nhiệt tình? Hàng bao thế kỷ, Giáo Hội ở Rôma đã thiến hoạn các chàng trai trẻ nhằm mục đích giữ lại âm giọng cao của họ, vì phụ nữ không được phép hát trong nhà thờ. Thật là một thực hành kinh khủng tự bản thân nó; thứ nữa, lý do của thực hành ấy cũng hết sức sai lầm. Tôi cho đây chỉ là một ví dụ về việc tước đoạt khỏi các linh mục năng lực sáng tạo và sự thẳng thắn.

Những linh mục nhút nhát há đã không được Thiên Chúa ban cho - cũng như mọi người khác – một tinh thần can đảm và một lòng trung thực đó sao? Người linh mục nhút nhát là một người đã không may hấp thu một não trạng đầy tính áp đặt và đe dọa về quyền lực. Thay vì vạch mặt loại quyền lực này để thấy rõ bản chất của nó, các linh mục nhút nhát – xuất phát từ một cảm thức khiêm tốn sai lầm – lại hành hạ kẻ khác, và trong tiến trình đó làm ách tắc những khả năng phát triển sự vững mạnh nội tâm nơi chính mình.

Việc vượt qua tính nhút nhát đòi phải có một sự đánh giá trung thực và một sự huy động những tiềm năng nội tâm, nhất là sự khôi phục tính mềm mỏng bẩm sinh. Trong quá trình này, các linh mục và các thừa tác viên giáo dân có thể được chữa trị và được giải phóng khỏi sự áp chế chính mình – một sự chữa trị có thể đem lại cho họ khả năng chữa trị kẻ khác nữa. Thận trọng sáng suốt là nhân đức giúp phòng tránh cho các linh mục khỏi làm nhiễm độc kẻ khác do việc áp đặt cho họ cảm thức và thực hành sai lầm của mình về thái độ lụy phục một cách nô lệ.

Này bạn nhút nhát, hãy để cho Tin Mừng âm vang trong cõi lòng bạn, và hãy để cho dầu hoan lạc thấm vào mọi lỗ chân lông của bạn để giải phóng bạn! Hãy cho phép mình đón nhận sự dũng cảm và sức mạnh của Đấng Bảo Trợ, và bạn sẽ sinh hoa trái dồi dào! Hãy thành khẩn cầu xin Chúa Thánh Thần đổ tràn cho bạn đặc sủng can đảm và niềm vui, nhờ đó bạn có thể an ủi và khích lệ kẻ khác! Hãy nỗ lực đào sâu nhận thức của bạn về Paraklesis của Thánh Kinh, vì chính Chúa Thánh Thần là Đấng Bào Chữa cho bạn trước Đấng Sáng Tạo! Chính năng lực giải phóng của Chúa Thánh Thần – nếu được bạn sẵn sàng đón nhận – sẽ giải phóng bạn khỏi sự rụt rè và nhút nhát, sẽ đem lại cho bạn tràn trề niềm vui và đổ đầy trong bạn ngọn lửa tự do, quà tặng quí báu của Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần dũng cảm và sáng tạo của Đức Kitô, Vị Ngôn Sứ và là Người Tôi Tớ Giavê, sẽ đem lại cho bạn tinh thần phi bạo lực, sự tự do, lòng tin tưởng và nghị lực trong tâm hồn.

kẻ bi quan

Những người bi quan thâm căn cố đế có thể được ví với những sinh vật xem ra gây phiền toái nhất trên con tàu Nô-e. Họ trút toàn những sự quấy rầy trên kẻ khác. Một số trong họ là “những ngôn sứ của thời cuối cùng”, thường xuyên quấy nhiễu thiên hạ, như Giáo Hoàng Gioan XXIII đã nhắc đến hồi đầu Công Đồng. Thật không may cho chúng ta, những kẻ bi quan ghê gớm ấy vẫn còn khả năng tác động một cách tiêu cực cho bầu khí Giáo Hội.

Nhiều khi loanh quanh Vatican tôi bắt gặp những linh mục với khuôn mặt nhăn nhó cách thảm hại, trong những bộ áo thụng đen viền sọc tía, tôi thường tự hỏi không biết có cách nào để làm cho những khuôn mặt ấy tươi tắn lại không. Trong Giáo Hội không có chỗ nào có thể giúp trị liệu cho những con người ấy sao? Hay, ít nhất, không có chỗ nào để những con người ấy lánh mặt đi cho tới khi – nhờ ơn Chúa – họ vượt qua được tính cách bi quan của họ và không gây lây nhiễm cho kẻ khác sao?

Trong chính ơn gọi của mình, người linh mục là dấu chỉ và là chứng tá của niềm vui cứu độ. Linh mục được mời gọi trở thành một bài ca ngợi khen, một nguồn phấn khích và hy vọng, ngay cả dù anh ta thuộc loại tính cách sầu muộn. Nếu có được những điều kiện thích hợp, có lẽ những người sầu muộn bẩm sinh có thể trở thành những Kitôhữu chiêm niệm sâu sắc – một số thậm chí có thể nhận được những kinh nghiệm thần nhiệm.

Tuy nhiên, những linh mục khác đã hình thành một thái độ bi quan do bởi áp lực quá tải của công việc và của những trách nhiệm vượt quá khả năng đáp ứng của mình, nhất là những người nằm trong các môi trường quá nhấn mạnh đến tính hiệu năng và sự thành công. Do các xu hướng tự nhiên của mình, những người bi quan có thể dễ dàng trở thành bị chán nản do bởi những môi trường căng thẳng và những cơ cấu thiếu lành mạnh. Nếu họ có cơ hội sống và làm việc trong một môi trường vui vẻ, bình an, thì họ có thể trở thành những nguồn an bình và khích lệ cho nhiều người khác. Còn trong những hoàn cảnh éo le nhất, rượu nồng trong tính cách riêng của họ dễ dàng hóa thành giấm chua. Và đây quả là một bi kịch!

Con chồn hôi là biểu tượng của những người bi quan trầm kha. Tướng dạng của nó cũng được mắt, nhưng nó là một nỗi kinh hoàng cho ai ở gần, đặc biệt khi nó cảm thấy bị đe dọa! Lần nọ khi đang có mặt ở Mỹ, tôi ghé thăm Martin, em trai mình. Nhà của Martin thật xinh xắn, nhưng bị bao vây bởi một mùi hôi rất khó chịu. Chú ấy kể: “Em trông thấy một con chồn hôi ngoài vườn và, thật không may, em đã cố xua đuổi nó. Bị đe dọa, nó tiết ra thứ mùi hôi ngào ngạt lì lợm như thế đấy. Bây giờ em phải chờ mùa mưa đến, may ra cái mùi khủng khiếp này mới được gột rửa đi.”

Nếu chồn hôi biết cầu nguyện, có lẽ nó sẽ thưa: “Lạy Chúa là Chúa của mọi tạo vật, gồm cả con nữa. Tướng mạo con cũng khá đẹp đẽ, nhưng chẳng ai thích nổi con. Lạy Chúa, tại sao Chúa ban cho con thứ mùi này, một vũ khí tự vệ quá lợi hại đến nỗi khi thoáng ngửi ấy mùi của con, mọi người đều chạy tránh xa và con phải lủi thủi một mình? Lạy Chúa, con sẽ cần phải trải qua cuộc khủng hoảng nào về căn tính, để có thể tống khứ được thứ mùi này?”

Bạn là người bi quan? Biết đâu đó, khi đọc lời nguyện này của chồn hôi, bạn chợt nhận hiểu chính mình đầy đủ hơn, và bạn sẽ bắt tay vào một cuộc đổi thay chính mình.

anh hề

Mới đây, tôi đọc thấy trên báo chí câu chuyện về những nhóm hài thường xuyên ghé đến giúp vui miễn phí tại khoa nhi của các bệnh viện. Những nghệ sĩ hài này, với khả năng trời cho, là nguồn vui tuyệt vời của các em. Các bác sĩ nói rằng các trò hài hước có tác dụng tích cực cho tiến trình trị liệu, nhất là đối với những bệnh nhân mắc chứng căng thẳng thần kinh. Tôi có quen biết một anh hề rất dễ thương. Anh là cha của ba đứa trẻ, và có thể dễ dàng nhận một ghế giáo sư đại học. Thế nhưng, anh chọn công việc của một nghệ sĩ hài, và anh gieo tiếng cười khắp mọi nơi. Tôi thấy rõ ràng từ nơi anh toát ra một cái nhìn lạc quan đối với cuộc đời. Tôi cho hình ảnh người nghệ sĩ hài là một hình ảnh rất gần gũi với ơn gọi linh mục. Phải chăng những con người hài hước như anh bạn ấy của tôi – với tâm hồn rất mực dễ thương – không thể được Giáo Hội sai đi để làm mục tử cho những nghệ sĩ hài khác, cho các gia đình, cho các bạn bè, và nhất là cho những người ốm đau ủ dột và đang cần đến dầu hoan lạc?

Đã có thời các vị vua khôn ngoan thuê những anh hề giúp vui cho triều đình. Những anh chàng ngớ ngẩn một cách tinh tế này được trao cho đặc quyền được nói bất cứ gì mình thích, một cách khôi hài và thường đồng thời một cách trào lộng, nhằm mục đích vạch ra những cái dở và những chiều hướng nguy hiểm trong triều đình. Như vậy, nhà vua cho thấy ông hiểu được ý nghĩa của sự tín nhiệm trước, một sự tín nhiệm rốt cục đem lại ích lợi cho ông. Nhìn thoạt qua, trò hề có vẻ chỉ là trò hề thuần túy, nhưng ẩn bên dưới thường có một sứ điệp đầy ý nghĩa. Những tuồng “táo bạo” nhất của các anh hề trong hoàng cung thường nhằm mục đích trách cứ hay cảnh giác nhà vua và quần thần về những tiêu cực và sai sót, một sự đóng góp rất có giá trị cho sự ổn định của triều đại, nếu nhà vua biết khôn ngoan sẵn sàng lắng nghe.

Về một phương diện nào đó, trò hề có thể là một cách phản kháng lại những sai trái; và về một phương diện khác, nó có thể loan báo Tin Mừng rằng tình hình có thể thay đổi để nên tốt hơn, miễn là chúng ta đủ khôn ngoan, như vị vua kia, biết mở tai nghe và mở mắt nhìn. Tôi tin rằng không chỉ một mình tôi nghĩ đến nhu cầu phải có một số anh hề thật “độc” ở Vatican và ở nhiều nơi khác. Họ sẽ góp phần lớn để biến những nơi đó thành hấp dẫn hơn, lành mạnh hơn và có tính xây dựng hơn. Những anh hề thanh nhã, thâm thúy xứng đáng được chúng ta biết ơn sâu xa, vì họ không chỉ giúp chúng ta cười mà họ còn giúp chúng ta nhận thức về mình một cách nghiêm túc. Tôi cho rằng một Giáo Hội không trân trọng tiếng cười và không đánh giá cao một cảm thức hài hước thâm sâu thì quả là một Giáo Hội không nghiêm túc – theo ý nghĩa đích thực của hai tiếng “nghiêm túc”.

người nhạc sĩ

Trên con tàu Nô-e, chúng ta được nhắc nhớ rằng Thiên Chúa đã thương yêu cứu sống hàng ngàn loài chim chóc và những côn trùng biết bay; chúng không chỉ đóng góp vào hệ sinh thái mà sự sống chúng ta cần đến, nhưng còn giúp chúng ta vui tươi với những khúc nhạc của chúng, giúp chúng ta biết cách thông truyền cho nhau niềm vui cuộc sống.

Trong cuộc sống mình, nên chăng các linh mục trở thành những nhạc sĩ tấu lên những khúc ca và giúp người khác hát lên lời ngợi ca Thiên Chúa? Nói rộng hơn, nên chăng tất cả chúng ta là những Kitôhữu cùng tấu vang những khúc nhạc mừng Đấng Tác Thành mọi sự hòa điệu? Việc chúng ta diễn tả niềm vui ra bên ngoài và việc chia sẻ niềm vui trong Chúa sẽ có tác dụng khích lệ lẫn nhau một cách diệu kỳ. Cả trái đất này cần phải biết lên lời ca vang tận trời cao những bài ca yêu thương như một lời đáp trả tình yêu muôn trùng cao cả của Thiên Chúa. Tin Mừng và tất cả tạo vật tự chúng là những bài ca tình yêu kiều diễm, là niềm vui bất tuyệt cho chúng ta.

Đã có thời, vì đặc biệt nhấn mạnh đến việc xướng hát của linh mục trong phụng vụ, chỉ những người được đào tạo tốt về mặt này mới được truyền chức linh mục. Rất may, tôi không rơi vào cái thời như thế – nếu không, chắc hẳn tôi đã gặp không ít rắc rối. Dù sao, trong tình trạng mất tiếng nói của mình hiện nay, tôi vẫn rất yêu âm nhạc. Âm nhạc của Beethoven, Mozart, Handel và Bach đem lại cho tôi những nguồn cảm hứng sâu xa, vì những tác phẩm ấy – cũng như âm nhạc chuyên biệt phụng vụ ngày nay – vừa là kết tinh vừa là sự diễn tả trái tim sáng tạo của Thiên Chúa. Âm nhạc là tin mừng và là lời cầu nguyện trác tuyệt luôn luôn có sức nâng tâm hồn tôi bay bổng.

Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là: Trong toàn bộ cuộc sống của mình, các linh mục cần phải trở thành những bài ca ngợi khen đích thực, mời gọi mọi người dâng lời ca ngợi bất tận lên Thiên Chúa. Dù gặp phải cảnh ngộ nào trong cuộc sống, chúng ta vẫn có hàng ngàn lý do để vui mừng ca tụng và tạ ơn Ngài.

nhà chữa trị  

Trong nhiều tôn giáo, nhất là những tôn giáo sơ khai, tư tế cũng đồng thời là thầy thuốc, dù đó là nam hay nữ. Sự thánh thiện rút ý nghĩa của nó ra từ sự lành mạnh,[1] và như vậy hai từ ngữ trên có quan hệ hỗ tương mật thiết với nhau. Một cách vô song, Đức Giê-su Kitô vừa là Đấng Mạc Khải vừa là Nhà Chữa Trị – là Người Tôn Thờ hoàn hảo của Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ và Nhà Chữa Trị duy nhất của mọi người và mọi tạo vật.

Nhờ chính sự hiện diện của Ngài, nhờ tình yêu và lòng nhân hậu tuyệt đỉnh của Ngài, nhờ sự tín nhiệm và niềm hy vọng đầy sức cảm kích thể hiện trong các mối quan hệ của Ngài, Đức Giêsu phát tỏa ra và thông truyền sự lành mạnh hiểu trong mọi ý nghĩa của từ ngữ này. Ngài chữa trị bằng một cách thế mà những kẻ được chữa trị sẽ dâng lời ca ngợi Thiên Chúa và – đến lượt mình – họ mang niềm hy vọng tới cho người khác. Trong toàn thể con người mình và một cách vô điều kiện, Đức Giêsu là Tin Mừng sống động của sự chữa trị.

Trong khi không phải mọi linh mục đều phải trở thành những nhà tâm lý trị liệu chuyên nghiệp hoặc trở thành những bác sĩ y khoa, thì các ngài vẫn cần phải có một sự thấu hiểu sâu xa về những yếu tố làm nên sự lành mạnh toàn vẹn của con người, cũng như phải nhận hiểu những gì có sức hỗ trợ cho các mối quan hệ lành mạnh.

Các nhà thần học luân lý có bổn phận kiểm tra mọi quan điểm và giáo huấn luân lý để xem chúng có giúp thăng tiến sức khỏe, sự lành mạnh và sự chữa trị hay không, trong khi vẫn luôn trung thành phản ảnh khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa. Cũng thế, các chuyên viên giáo luật được ủy thác sứ mạng kiểm tra việc xây dựng bộ giáo luật để xem nó có thăng tiến các cơ cấu và các mối quan hệ lành mạnh có sức chữa trị hay không. Hơn nữa, các nhà giáo luật có trách nhiệm cảnh báo đề phòng việc sử dụng luật theo chiều hướng gây ra sự mất lòng tin lẫn nhau, gây ra những mặc cảm tự tôn và các hệ quả tiêu cực khác.

Trong việc chọn lựa các ứng viên có tiềm năng cho chức linh mục, cần phải dành quan tâm thích đáng đến sự lành mạnh tâm lý nói chung và đến khả năng của ứng viên trong việc khai mở và dưỡng nuôi những mối quan hệ tín nhiệm nhau giữa người với người. Điều quan trọng là các linh mục và chủng sinh phải đầy tràn niềm vui trong Chúa và có một tâm hồn lạc quan, thể hiện nơi tình yêu đối với mọi người. Đây là những nhà chữa trị đích thực, dù không phải lúc nào họ cũng cho thấy rõ ràng điều này trong sứ vụ của họ.

người ngôn sứ

Các linh mục tốt lành không một cách tự động có đặc sủng giải mã các biến cố tương lai, nhưng là trong mối hiệp nhất với các tín hữu, chắc chắn họ phải học để biết cách diễn dịch những “dấu chỉ của thời đại”. Điều này có thể được thực hiện qua việc không ngừng tập chú trước hết đến những dấu hiệu đầy khích lệ về sự hiện diện của Thiên Chúa và, trong mức độ thích đáng, qua việc chú trọng đến các dấu chỉ có tính báo động. Những ai chủ yếu chú ý tới những lộn xộn trục trặc sẽ có nguy cơ biến thành “những ngôn sứ của thời cuối cùng” – đối nghịch hoàn toàn với bổn phận của người linh mục là rao giảng tin mừng của Đức Kitô Cứu Độ. 

Con người ngôn sứ có một nhãn quan toàn diện, họ không bị lún vào những chi tiết nhỏ. Họ là những con người biện phân các biến cố hiện tại, bày tỏ niềm biết ơn đối với những tốt đẹp của quá khứ, và đảm nhận trách nhiệm về tương lai. Trước hết, những con người ngôn sứ ở giữa chúng ta là những con người hoàn toàn sẵn sàng để nắm bắt các cơ hội mới (những khoảnh khắc kairos) đem lại niềm hy vọng tươi sáng hơn cho con người. Con người ngôn sứ không bao giờ dung túng mối kết hợp ma quỉ của “nếu’ và “nhưng”. Chính sự qui phục sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa sẽ trao cho người ngôn sứ sự sáng suốt đặc biệt để nhận định những gì đang xảy ra ở đây và bây giờ và để biết rõ phải làm gì. Người ngôn sứ chia sẻ nhãn quan lành mạnh của mình cho người khác và tác động người khác bằng năng lực sáng tạo của mình.

Các ngôn sứ qua mọi thời đại đã lay động lương tâm tập thể và cá nhân của chúng ta và vạch rõ những cám dỗ tinh vi và giấu ẩn. Tuy nhiên, đặc sủng vén mở những gì xấu xa và nguy hiểm chỉ có được dồi dào trong mức độ mà nó cắm rễ trong sự đón nhận với lòng biết ơn về tất cả những điều tốt lành được ban cho chúng ta, đặc sủng này cũng có thể được nhân lên bởi chính chúng ta.

hối nhân thánh thiện 

Trên con tàu của ơn cứu độ, Phê-rô được vây quanh bởi những hối nhân thánh thiện mà ông kính phục sâu sắc. Nhiều người đã sa ngã không nghiêm trọng như ông, và chính Phê-rô hẳn cũng nhìn nhận rằng họ vượt qua ông cả về lòng khiêm nhường lẫn về thái độ ăn năn thống hối.

Karl Rahner nói rằng Giáo Hội thánh thiện trong mức độ mà Giáo Hội là một hối nhân thánh thiện. Điều này cũng áp dụng cho các linh mục. Nếu chúng ta tự cho mình là công chính và tự mãn về những thành tích của mình, chúng ta vẫn còn đứng trên đỉnh đống phân cao ngạo, và tiếng gà gáy cho Phê-rô – trước khi ông sám hối – cũng gáy cho cả chúng ta nữa.

Con số ngày càng tăng các linh mục sa ngã về đức khiết tịnh ngày nay đã gây cho Giáo Hội nhiều khổ sở và – trong nhiều trường hợp – đã tạo ra gương xấu cho các tín hữu cũng như cho những người không tin. Chẳng hạn, việc dư luận tố cáo ầm ĩ về những xì căng đan tình dục với trẻ em ngày hôm nay không chỉ làm tổn thương đến các nạn nhân bị lạm dụng, vốn rất đông đảo, mà còn làm tổn thương đến các linh mục tốt phải bị điều tra nhũng nhiễu. Tuy nhiên, tôi muốn khích lệ các linh mục đã lỡ sa ngã về đức khiết tịnh, dù sa ngã trong trường hợp nào đi nữa, hãy nhìn ngắm và bắt chước mẫu gương của các hối nhân thánh thiện. Đồng thời, chúng ta đừng bao giờ quên rằng dù tội lỗi về khiết tịnh có kinh khủng đến mấy, thì vẫn có nhiều dạng sa ngã khác - không kém trầm trọng hơn và không kém tàn phá hơn - cần được chúng ta ý thức và hoán cải không ngừng trong cả đời mình.

Vào thời mà luật buộc tất cả các linh mục địa phận phải tĩnh tâm ít nhất hai năm một lần, một linh mục đã đến gặp tôi và tâm sự: “Thưa cha, việc xưng tội còn có ý nghĩa gì cho con nữa, khi mà con biết rằng tình trạng của mình đã hoàn toàn hết hy vọng rồi? Con đã phạm hình như hết mọi thứ tội liên quan đến Điều Răn Thứ Sáu!” Chúng tôi đã có một cuộc trao đổi tốt đẹp và cặn kẽ với nhau. Tôi kết luận rằng nếu ước mơ của anh ta không gì hơn là trở thành một kẻ giữ luật một cách xoàng xoàng như bao kẻ xoàng xoàng khác, thì tôi không có mấy hy vọng đặt nơi anh. Đàng khác, tôi nói: “Anh còn một chọn lựa khác nữa: Anh có thể trở thành một vị thánh!” Anh ta rất đỗi ngạc nhiên, và trong ràn rụa nước mắt, anh trả lời tôi: “Thưa cha, với ơn Chúa giúp, con sẽ cố gắng!” Trong nhiều năm, anh vẫn giữ liên lạc với tôi – và kỳ thực, nhờ ơn Chúa, anh đã triệt để đổi đời. Thỉnh thoảng, anh viết cho tôi những giòng này: “Vâng, thưa cha, mọi sự đang diễn tiến tốt đẹp cho con, bao lâu con còn can đảm sống đời sống của một hối nhân thánh thiện.” Và dĩ nhiên, trong các cuộc trao đổi giữa chúng tôi, chúng tôi thường đề cập đến những cách thế mà trong đời sống hằng ngày mình có thể chứng tỏ rằng mình là một hối nhân thánh thiện. Nhiều năm sau nữa, anh bạn linh mục ấy khẩn thiết nói với tôi: “Cha nên kể lại sự thật đầy thách đố đã biến đổi đời con này cho tất cả những ai trong hoàn cảnh tương tự.” Và, bạn đọc thân mến, tôi đã kể cho bạn đấy.

Một lần khác, tôi ghé thăm một linh mục vừa bị kết án hai năm tù về tội khai man trước tòa. Số là anh ta đã thề mà chối tội dụ dỗ và lạm dụng tình dục một đứa trẻ. Tôi trao cho anh sứ điệp hy vọng: “Anh hãy quyết định đi! Anh có thể nên thánh đấy. Song, sẽ chẳng thể có chút hy vọng nào cho anh, nếu anh chỉ nhắm làm một con người tà tà loại thường.” Trong thời gian chấp hành án tù, với lòng khiêm tốn và tốt bụng của mình, anh đã thật  sự trở thành một tông đồ cho các bạn tù của anh. Về sau, anh được cử đi làm mục vụ ở nước  ngoài, và vị giám mục của giáo phận đó – vốn nắm hiểu tất cả những gì đã xảy ra – đã trao cho anh một cơ hội khác. Nhiều năm sau nữa, tôi có dịp gặp một số tín hữu thuộc giáo xứ anh. Không biết gì về quá khứ của cha sở mình, họ trầm trồ rằng cha sở của họ là một mục tử thánh thiện, một mục tử khiêm nhường và có đời sống cầu nguyện thâm sâu, một mục tử sống đời sống giản dị đơn sơ tận cùng.

Tôi nghĩ đến tất cả những linh mục được xem là hoàn toàn gãy đổ trước con mắt của nhiều người. Sự hiện diện và sức mạnh của Thiên Chúa vẫn luôn luôn có sẵn cho các linh mục ấy, nếu họ biết tích cực đón nhận Ngài và quyết tâm phấn đấu để trở thành một hối nhân thánh thiện. Nếu họ có thể thành thật dứt khoát chọn lựa sự đổi đời, và nếu – trong tiến trình đó – họ được giúp đỡ bởi một người bạn đầy quan tâm khích lệ, họ hoàn toàn có thể thành công. Hơn nữa, trong cuộc phấn đấu để hoàn thiện bản thân, họ chuyển tải cho tất cả chúng ta chân lý thâm sâu rằng Giáo Hội chỉ thánh thiện trong mức độ các phần tử trong Giáo Hội là những hối nhân thánh thiện.

Tôi cũng nghĩ đến các linh mục khác – những linh mục mà chính niềm quyết tâm muốn phấn đấu trở thành một hối nhân thánh thiện đã dẫn họ tới chỗ khiêm tốn quyết định trở về bậc sống giáo dân. Chỉ có Chúa mới biết rõ về vô số “cựu linh mục” đã trở thành những mẫu gương sống động tuyệt vời qua lòng khiêm nhường và nhiệt tâm của họ.

 

VỀ MỤC LỤC
Một mình cứu 11 người

 

TT - Hai nhịp cầu Cần Thơ đổ sập trong tích tắc. Cả trăm con người đang bình yên bỗng gặp nạn. Trong thảm họa này, anh nông dân Lê Tấn Thành (ấp Mỹ Hưng, xã Mỹ Hòa, Bình Minh, Vĩnh Long) đã đưa được 11 người ra khỏi đống bêtông đổ nát. 

Nhà anh Thành cách hiện trường vụ sập cầu chưa đầy 300m. Sáng 26-9, vừa đưa chén cơm lên miệng chưa kịp ăn thì nghe tiếng ầm ầm. Mọi người nói sập cầu, chết nhiều người. Bỏ chén cơm, anh mặc quần đùi chạy đi luôn. Mới ra tới đầu ngõ đã thấy người nhà công nhân vừa chạy vừa khóc kêu tên chồng, con thảm thiết. 

Tới hiện trường, mọi thứ tan hoang. Nhiều người bị gỗ, sắt và các khối bêtông đè lên. Không chút đắn đo, anh nhấc thanh sắt đè trên người hai nạn nhân nhưng không nổi, anh quýnh quáng lấy chiếc xe máy của ai dựng gần đó chạy về nhà lấy cái cưa gỗ và balăng (như một cái ròng rọc) quay lại hiện trường. Lúc đó chưa có lực lượng cứu hộ, anh cùng với công nhân và người dân vào cứu nạn nhân ra khỏi hiện trường. 

Chết cũng phải cứu người 

"Chỗ tấm bêtông sụp xuống, hàng chục người nằm la liệt, máu me khắp người. Một anh nằm ngửa bị cây gỗ đè ngang ngực. Tui tới kêu ảnh còn sống không nhưng không thấy trả lời. Tui nghĩ có chết cũng phải lấy được xác nên cưa thanh gỗ để đưa ảnh ra. Thanh gỗ vừa nhấc lên thì ảnh thở è một cái, tui mừng rơn. Không biết ảnh trẻ hay già nữa, mặt mày đầy máu, chân bị gãy. Hai người nằm cạnh anh này đã bị một khối bêtông đè chết" - anh Thành kể.  

Gần đó, một nạn nhân khác nằm sấp bị một mảng bêtông đè ngang thắt lưng, chỉ còn cái đầu ngọ nguậy. Cố sức bình sinh để nâng mảng bêtông này nhưng không được, anh Thành dùng một thanh sắt kê vào khối bêtông gần đấy để bẩy lên. Nạn nhân được đưa ra. "Anh này nặng phải hơn 60kg, bình thường khiêng không nổi vậy mà bữa đó tui cõng khỏe re. Vừa đưa ra ngoài thì ảnh tỉnh dậy đòi uống nước. Chạy vô nhà dân thấy cái ca, tui quờ múc nước lạnh cho ảnh uống luôn và giao cho người khác chăm sóc" - anh Thành nhớ lại. 

Để cứu những công nhân khác vẫn còn mắc kẹt ở các khung giàn giáo, anh Thành cùng nhiều người bám vào những mảng bêtông sắt thép lởm chởm trèo lên trụ cầu, cưa các cây đà gỗ để vào các khoang bên trong. "Có ai ở đây không, ai còn sống không để chúng tôi đưa ra ngoài?" - anh Thành gào to. Đáp lại là tiếng gọi "Cứu tôi với", tiếng rên rỉ hoặc những tiếng thều thào không nên lời. Khoang đầu tiên anh Thành và những người cùng đi cứu được năm người, một người đã chết. "Bạn tui ở khoang bên cạnh, bên đó còn chín người nữa" - một nạn nhân thều thào.  

Anh Thành bèn tụt xuống khoang dưới, khoang này đã bị lún sâu xuống đất mấy mét. "Tui cưa cửa vào nhưng không thấy ai hết. Trong rất khó thở. Khui thêm hầm số 8 bên cạnh, chỉ có tám cái nón, máu me bê bết nhưng cũng không thấy người nào. Khoang này bị nước ngập sâu. Nghĩ là mọi người bị chìm dưới nước nên tui xuống mò tìm xác. Nước ngập tới cổ, hai chân quơ quào khắp nơi nhưng vẫn chưa tới đáy, màu nước bùn sền sệt và đỏ tươi! Không tìm được ai..." - anh nghẹn ngào kể lại. Tại hầm số 8, anh phải dùng mỏ lết mở các cùm khóa cửa mới vào được bên trong. "Mấy người cùng đi nói coi chừng bị sập chết. Tui nói không mở cửa thì không vào được bên trong, biết đâu người ta chờ mình cứu trong đó. Mà nếu có sập chết cũng còn... lời vì đã cứu được mấy mạng người" - anh Thành nói tỉnh bơ. 

Từ hầm số 8 lên, anh thấy nhức đầu, người ngây ngây khó thở nên xin bác sĩ viên thuốc nhức đầu. Bác sĩ kêu xuống phía dưới nghỉ ngơi. Sau khi được chích mũi thuốc khỏe, bác sĩ đưa cho anh chai nước và ổ bánh mì dằn bụng. "Cắn một miếng mà nuốt không vô. Cảnh máu me, tang thương như vậy sao mà nuốt nổi. Tui xin bác sĩ leo lên cứu người nữa, chứ ngồi dưới nóng ruột không chịu được. Đến sẩm tối, hai tay mỏi nhừ không nhấc lên nổi để thay áo, tui mặc luôn cái áo đầy máu về nhà” - anh Thành nói thêm. 

Không thể làm ngơ...

Anh Thành cho biết trong đời chưa bao giờ chứng kiến một cảnh tượng kinh hoàng như thế. "Nếu cho lựa chọn lại, anh có làm như vậy không?" - chúng tôi hỏi. Anh nói: "Bây giờ chỉ cần nghĩ lại thôi tui đã lạnh xương sống rồi. Thế nhưng nếu lại có chuyện như vậy xảy ra chắc tui cũng không thể đứng làm ngơ. Họ là bà con hàng xóm của mình cả... Đi đò gặp người bị nạn mình còn không thể làm ngơ nói chi là nhiều người bị nạn như thế, đau đớn như thế...".

Căn nhà cấp 4 của anh nằm khuất trong một con đường mòn ngoằn ngoèo sình lầy. Hằng ngày anh mưu sinh bằng việc đi mua cây, cưa thành khúc đem bán, vì thế mà nhà có cái cưa máy. Chúng tôi đến nhà đúng lúc anh vừa đi cưa cây về, quần áo lem luốc, cái cưa nằm trên vai. Anh nói mấy bữa nay nghỉ nên nhà hết tiền, phải đi làm lại. Hai bàn chân bị sưng tấy, một vết thương dưới cằm và nhiều vết thâm tím hai bên đùi. Đó là dấu tích của một ngày xông xáo cứu hộ tại hiện trường. "Lúc đó đâu có biết đau, cũng không biết mình bị thương. Về nhà rồi mới thấy người ê ẩm, rờ lên cằm thấy đau mới biết" - anh Thành cho biết.

Rít một hơi thuốc, anh trầm tư: "Chưa bao giờ cái xóm nghèo này lại tang thương như lúc này...".

Minh Giáng     Báo tuổi trẻ 01.10.2007

VỀ MỤC LỤC

TÌNH YÊU THA THỨ TẤT CẢ VÀ LUÔN TIN TƯỞNG

 

Tác phẩm 13 Nét Mặt Tình Yêu -  Dominique AUZENET

Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy chuyển ngữ

Chương Mười Hai

TÌNH YÊU THA THỨ TẤT CẢ VÀ LUÔN TIN TƯỞNG

Bây giờ chúng ta đã tới cuối bài ca Đức Ái mà thánh Phaolô kết luận bằng bốn khẳng định : tình yêu tha thứ tất cả, tình yêu tin tưởng tất cả, tình yêu hy vọng tất cả, tình yêu chịu đựng tất cả. Chúng ta nhận thấy các khẳng định nầy liên kết với nhau bởi cùng một chữ tất cả, mà chúng ta có thể hiểu trong nghĩa trạng từ là trong tất cả mọi cảnh ngộ, là luôn luôn...

Và trong bốn khẳng định nầy, thánh Phaolô nhấn mạnh rằng tình yêu đến làm sống động từ bên trong đức tin và niềm hy vọng. Vậy chúng ta có thể gộp các khẳng định nầy thành từng đôi :

- Tình yêu tha thứ tất cả và luôn luôn tin tưởng,

- Tình yêu luôn hy vọng và chịu đựng tất cả.

Sự giải thoát do đức ái thực hiện cho phép đưa đức tin và niềm hy vọng vào họat động. Đức tin vào Thiên Chúa và lòng tin tưởng vào tha nhân, Hy vọng nơi Thiên Chúa và tha nhân là những công trình chính yếu của đức ái. Tình yêu phát sinh "tha thứ  và trung tín" trong các hành động hướng về tha nhân : tha thứ  và vẫn trung thành dù việc gì xảy đến đi nữa.

Trước tiên, chúng ta hãy đề cập đến sự tha thứ, được phát sinh từ lòng tin tưởng và nuôi dưỡng lòng tin tưởng.

1. Tình yêu tha thứ :

Trong Phúc Âm theo thánh Luca, khi Chúa Giêsu công khai tỏ mình ra là Đấng Thiên Sai, Ngài bắt đầu từ Nazareth. Chính là trong một buổi phụng tự ở hội đường, lúc Chúa Giêsu đọc một đoạn sách tiên tri Isaia :

"Thánh Thần ngự xuống trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa... Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người" (Lc 4,16-22).

Chúa Giêsu đến loan báo tình yêu, sự từ tâm, lòng tốt, lòng nhân hậu, ân sủng của Thiên Chúa... như thánh Gioan đã viết trong lời tựa Phúc Âm của ngài :

"Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn nầy đến ơn khác" (Jn 1,16).

Với cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, chúng ta được ân huệ tha thứ của Thiên Chúa :

"Ngài đã xóa bỏ văn tự nợ của chúng ta. Ngài đã xóa bỏ nó bằng cách đóng đinh nó vào thập giá"[1]

Ơn tha thứ nầy đều như nhau cho tất cả mọi người, vì tất cả chúng ta đều là người có tội. Chúng ta còn phải đón nhận ơn tha thứ nầy với lòng biết ơn, ý thức rằng chúng ta cần đến ơn tha thứ đó. Đó là điều đã khiến Chúa Giêsu nói với ông biệt phái Simon, vì ông đã nhìn quàng xiên người đàn bà có tội công khai đến tỏ lòng biết ơn đối với Chúa Giêsu :

"Một chủ nợ kia có hai con nợ, một người nợ năm trăm quan tiền, một người nợ năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy ai trong hai người đó mếân chủ nợ hơn ? Ông Simon đáp : tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn. Chúa Giêsu bảo : Ông xét đúng lắm" (Lc 7, 41-43).

Chúng ta bị mắc nợ không thể cứu chữa đối với tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta luôn luôn ở bên nầy những gì mà Ngài chờ đợi ở chúng ta, nên ít nhiều chi chúng ta đều cần được tha thứ...

Chúa Giêsu ban ơn nầy cho những ai mở lòng ra. Ngài cũng loan báo ân huệ ấy xuyên qua các dụ ngôn làm hoang mang cả những hào phóng phong phú nhất của chúng ta. Chúng ta hãy nhớ lại dụ ngôn hai người con và sự đón tiếp người cha dành cho đứa con trở về nhà sau khi đã phung phí hết phần gia tài của nó trong một cuộc sống trụy lạc :

"Lúc anh ta còn ở đàng xa, người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương chạy ra ôm lấy và âu yếm hôn anh ta. Bấy giờ người con mới nói rằng : Thưa cha, con đã đắc tội với Trời và với cha, con chẳng đáng được gọi là con cha nữa... Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ : Mau mang áo đẹp nhất ra đây mà mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay cậu, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng, vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy" (Lc 15, 20-24).

"Tình yêu ban tặng tất cả và thổ lộ tâm tình. Nhưng chúng ta thường chỉ cho đi sau khi được giải thoát, chúng ta do dự hy sinh những lợi ích tạm thời cũng như thiêng liêng. Đó không phải là tình yêu. Tình yêu là mù quáng, là một dòng suối chẳng để lại gì trên đường nó đi qua !"[1]

2. Tình yêu phủ lấp mọi lầm lỗi.

Động từ "phủ lấp" mà thánh Phaolô dùng trong bài ca đức ái nầy có nghĩa là tình yêu đặt một mái che trên tội lỗi, cả đến như nhốt tội lỗi trong một nấm mồ... Đó là lý do khiến một số người dịch là tình yêu phủ lấp mọi sự hoặc tình yêu che giấu mọi sự... Để tránh mọi hàm nghĩa khiến người ta nghĩ rằng bác ái đòi phải làm cho mình nên đồng lõa với sự dữ, tôi thích lối dịch nầy hơn : tình yêu tha thứ tất cả.

Chúa Giêsu vạch rõ cho chúng ta tấm lòng của Chúa Cha : ân sủng và lòng nhân hậu vượt quá mọi mức độ... Vì vậy chúng ta không được tự biến thành những phán quan tôn giáo pháp đình đối với những người chung quanh, bằng cách duy trì một chút ngờ vực ... ("Điều đó chẳng làm tôi ngạc nhiên về nó..."). Tình yêu là kín đáo, thánh Phaolô viết  như vậy trong bài ca đức ái. Và điều đó cũng có giá trị đối với tội lỗi, những sai sót, những bất công, những lỗi lầm của tha nhân đối với chúng ta. Chúng ta hãy tìm lấy Tình Yêu mà che lấp chúng đi.

Thánh Phêrô viết : "Anh em hãy hết tình yêu thương nhau, vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi" ( I Pet 4,8), khi trích dẫn sách Châm ngôn : "Ghen ghét sinh cãi vã, tình yêu khỏa lấp mọi lỗi lầm" (Cn 10, 12). Sự khoan dung nầy của tình yêu góp phần vào cái nhìn tái tạo mà Thiên Chúa mang lại cho mỗi người chúng ta. Thiên Chúa là Cha và coi chúng ta là con cái của Ngài. Chúa không nhìn thấy trước hết các lỗi lầm của chúng ta đối với Ngài. Sự khoan dung của tình yêu cũng là một đòi hỏi thanh tẩy : cái mà chúng ta phải bận tâm và làm nên đối tượng những chia sẻ của chúng ta, chính là điều thiện chứ không phải là điều dữ. Chúng ta đừng làm cho mình trở thành những phát ngôn viên của sự dữ... Chúng ta đừng đến nhà người khác để vạch trần ra những lầm lỗi mà chúng ta là nạn nhân. Chúng ta hãy che lấp chúng đi. Dĩ nhiên tìm cho mình được xót thương là cái rất là con người. Nhưng sau đó, chính chúng ta sẽ liều mình bị rối rắm vì đã tỏ lộ chúng ra.

"Khi nhớ rằng "bác ái che lấp muôn vàn tội lỗi", tôi kín múc nơi kho phong phú nầy mà Chúa Giêsu mở ra trước mặt tôi"[1].

"Yêu sách nầy của đức ái liên quan đến cả việc nhớ đến điều dữ mà chúng ta liều mình bảo lưu và nhắc đi nhắc lại mãi. Thánh François de Paule, ẩn sĩ người Ý, sáng lập Dòng Hèn Mọn, chết năm 1507 ở Plessis-les-Tours, đã viết : "Anh em hãy tha thứ lẫn cho nhau để sau đó không còn nhớ đến lỗi lầm của anh em nữa. Giữ lại ký ức về điều xấu chính là một lầm lỗi, chính là kiệt tác của giận dữ, là duy trì điều tội, là thù hận công chính... Đó là một mũi tên rĩ sét, là độc dược của tâm hồn, là sự băng hoại nhân đức, là con sâu gậm nhấm tinh thần, là xáo trộn việc cầu nguyện, là sự hủy bỏ những lời kêu xin dâng lên Thiên Chúa, là sự đánh mất đức ái, là sự bất chính luôn tỉnh thức, là tội lỗi luôn có mặt và là cái chết rình rập mỗi ngày"[1]

"Nếu các bạn biết được những gì tôi cảm nhận ! Tôi cũng không bao giờ hiểu được với tình yêu dường bao mà Chúa Giêsu đã đón nhận chúng ta khi chúng ta xin lỗi Ngài sau một lầm lỗi ! Nếu tôi, vốn là một tạo vật nhỏ bé nghèo hèn của Ngài, mà đã cảm nhận bao nhiêu dịu dàng đối với các bạn lúc các bạn đến với tôi, thì cái gì phải xảy ra trong trái tim của Thiên Chúa nhân lành khi chúng ta trở về với Ngài ! Vâng, chắc chắn Ngài hành động còn nhanh hơn nữa điều tôi vừa làm : Ngài sẽ quên đi tất cả mọi điều bất chính của chúng ta để không bao giờ còn nhớ đến chúng nữa... Ngài sẽ làm hơn thế nữa : Ngài sẽ yêu thương chúng ta còn hơn cả trước khi chúng ta phạm lỗi !"[1]

3. Tình yêu mở ra một tương lai :

Trực giác của thánh nữ Têrêsa thật tuyệt vời :

"Chúa sẽ làm hơn thế nữa : Ngài sẽ yêu thương chúng ta còn hơn cả trước khi chúng ta phạm lỗi !"

Tình yêu không ngừng tái tạo lại cái mà Sự Dữ lôi kéo về phía hư vô... Chỉ có tình yêu kéo sự lành ra từ sự dữ... Do đó, tình yêu không bao giờ đóng lại, nhưng ngược lại, tình yêu mở ra một tương lai. Chỉ cần nhìn ngắm Chúa Giêsu, vốn là Tình yêu làm người, để nắm bắt được cách sâu xa tính năng động của Thánh Thần hằng linh họat cái nhìn của chúng ta về tha nhân.

Đây là ba trong số nhiều thí dụ khác :

* Sau việc hóa bánh ra nhiều, là "dấu hiệu" hùng hồn chỉ rõ Đấng Thiên Sai cho những ai có tâm hồn rộng mở, Chúa Giêsu đổi hướng tình hình. Thánh Gioan viết : "Chúa Giêsu biết dân chúng sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, Người liền lánh mặt đi lên núi một mình" (Jn 6,15). Và Matthêu thì viết : "Chúa Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng" (Mt 14,22). Có lẽ các môn đệ thất vọng dường nào trước sự quyết định đó của Thầy mình : một cơ hội tốt như thế bị bỏ qua ! Và giờ đây họ ở trên biển hồ chống chọi với gió ngược... Không gì tiến xa hơn được... Ngõ cụt... Và chính giữa lòng sự thanh tẩy đức tin nầy, cũng như Ngài sẽ làm cho các môn đệ trên đường Ê-mau, Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến với các ông : "Hãy vững lòng, chính Thầy đây, đừng sợ". Chúng ta biết rõ những gì tiếp theo : Phêrô bước đi trên nước... biển lặng... Điều mà Chúa Giêsu chờ đợi, chính là phó thác trọn vẹn cho tình yêu Ngài, một đức tin mãnh liệt (mà Phêrô đã thiếu) đến đỗi Ngài có thể mở ra một tương lai được Ý Cha chiếu sáng và không bị tối tăm bởi những ảo ảnh của những khát vọng nhân thế.

* Khi bị đặt trước người đàn bà ngoại tình, Chúa Giêsu đã tháo cởi nỗi kìm kẹp mà những kẻ tố cáo đã cột buộc bà : khai trừ khỏi cộng đồng vì tội công khai. "Không ai kết án chị cả ư ?... Thầy cũng không, Thầy không kết án chị. Chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa" (Jn 8,10-11). Tình yêu trả lại tự do, không phải để trở lại với tội lỗi, nhưng để thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi... Tương lai của người đàn bà nầy được trao phó cho sự tự do hoàn toàn mới mẻ của bà...

* Trong buổi chiều Thứ Năm Thánh, Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ của Ngài rằng Ngài sắp bị một người trong họ phản bội và trao nộp. Ngài kín đáo trả lời cho Gioan hỏi Ngài : "Chính là kẻ Thầy sắp chấm miếng bánh và trao cho" (Jn 13,26). Theo tập tục của người Đông phương, gắp thức ăn cho một khách mời là một dấu ân cần. Một cử chỉ tuyệt vời ! Đó không phải là để nhắc nhở cho Giuđa lần cuối cùng rằng y luôn luôn được thương yêu và y cần phải mở lòng mình ra với tình yêu đó hầu có thể từ bỏ dự tính của y chăng ? Thảm hại thay Giuđa đóng lòng mình lại cho tình yêu, y không lấy tình yêu đáp trả tình yêu, không lấy lòng tín nhiệm đáp trả lại lòng tín nhiệm, và sự khước từ nầy dứt khoát phó nộp y cho Quỷ Dữ : "Nhận miếng bánh xong, Xa-tan liền nhập vào y" (Jn 13,27)...

4. Tình yêu luôn luôn tin tưởng :

"Cho dù tôi có thể phạm mọi thứ tội ác, tôi vẫn luôn tin tưởng. Tôi nghĩ rằng cả đống vô số xúc phạm đó cũng chỉ như một giọt nước ném vào một lò lửa cháy bừng"[1]

Têrêsa dẫn chúng ta đến lòng Chúa. Thiên Chúa luôn luôn tín nhiệm chúng ta và Ngài tiếp tục yêu thương chúng ta. Chỉ có sự thiếu tín nhiệm về phía chúng ta có thể giới hạn hậu quả của tình yêu Ngài trong cuộc đời chúng ta :

"Cái xúc phạm Chúa Giêsu, cái làm cho lòng Ngài bị thương tổn, chính là sự thiếu tín nhiệm"[1]

Nguyện xin Chúa Thánh Thần giải thoát chúng ta khỏi mọi sợ hãi đối với Chúa ngõ hầu chúng ta được sống trọn vẹn trong tình phụ tử của Ngài : 

"Trong tình yêu không có sợ hãi; trái lại, tình yêu trọn hảo san bằng sợ hãi, vì sợ hãi bao hàm một án phạt, và kẻ sợ hãi không đến được với sự trọn hảo của tình yêu" (1 Jn 4,18).

Khi dừng lại vì những tiếng kêu của người mù Bartimê ăn xin ở cửa thành Giêricô, Chúa Giêsu xin : "Hãy gọi anh ta". Người ta gọi người mù và bảo anh ta: "Hãy tin tưởng, đứng dậy đi, Ngài gọi anh" (Mc 10,48-49). Tình yêu lên tiếng gọi. Tình yêu ăn xin lòng tín nhiệm để mở ra tính năng động giải phóng mãnh liệt: anh hãy đứng dậy đi.

"Bạn hãy giữ vững lòng tín nhiệm của bạn. Thiên Chúa nhân lành không thể nào không đáp lại, bởi vì Ngài luôn luôn đo lường các ân huệ của Ngài theo lòng tín nhiệm của chúng ta"[1]

Nếu chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần ơn được nhìn thấy sự bao la của tình yêu và lòng tín nhiệm của Thiên Chúa đối với mỗi con cái Ngài, thì đến lượt mình, chúng ta có thể thông truyền chúng cho những người chung quanh bằng các hành động của chúng ta. Quả đó là ý nghĩa những lời của Chúa Giêsu nói ở trên Núi :

"Còn Thầy, Thầy bảo anh em : hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì anh em nào có công chi đáng thưởng ?" (Mt 5,44-46).

Tình yêu tha thứ tất cả, tình yêu luôn luôn tín nhiệm... 

Suy niệm để lần hạt Mân Côi

1. Tình yêu tha thứ tất cả và luôn luôn tin tưởng. "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người, là Con Một đầy ân sủng và sự thật... Vâng, từ nguồn ân sủng của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn nầy đến ơn khác" (Jn 1,14.16). Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi cõi lòng biết mở ra với ân sủng, với tình yêu ngọt ngào của Thiên Chúa hằng đến với chúng ta, mà nếu không có tình yêu đó thì chẳng ai được cứu rỗi. Chúng ta hãy cầu nguyện cách riêng cho ông ... nầy, bà ... kia.

2. Tình yêu tha thứ tất cả và luôn luôn tin tưởng. "Anh em hãy hết tình yêu thương nhau, vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi" (1 Pet 4,8). Chúng ta hãy cầu xin lòng bác ái không kết án, nhưng tha thứ và che lấp hết mọi lỗi lầm nầy... Nó là cội rẽ căn nguyên của bình an. Chúng ta hãy cầu xin lòng bác ái nầy cho gia đình chúng ta, cho cộng đòan chúng ta, cho nhóm làm việc của chúng ta...

3. Tình yêu tha thứ tất cả và luôn luôn tin tưởng. "Không ai kết án chị cả ư ?... Thầy cũng không, Thầy không kết án chị đâu. Chị hãy ra đi và từ nay đừng phạm tội nữa" (Jn 8,10-11). Chúa Giêsu tự do và mang lại tự do... Đó là một hoa trái của Thánh Thần. Tình yêu mở ra một tương lai... Chúng ta hãy cầu xin ơn tha thứ cho những xét đoán giam nhốt của chúng ta. Chúng ta hãy xin ơn làm cho những người chung quanh chúng ta được tự do, nhờ tình thương mà chúng ta chứng tỏ ra cho họ.

4. Tình yêu tha thứ tất cả và luôn luôn tin tưởng. "Một người trong các con sẽ nộp Thầy... Thưa Thầy, ai vậy ? Đó là kẻ mà Thầy sắp chấm miếng bánh trao cho" (Jn 13,21-26). Trong tập tục của người Đông phương, trao một miếng thức ăn cho khách mời là một dấu chứng tỏ lòng ân cần... Nếu Chúa Giêsu đã chứng tỏ lòng ân cần của Ngài với Giuđa cho đến cùng, thì chớ gì đừng bao giờ chúng ta làm cho người khác phải tuyệt vọng, nhất là những ai gần gũi với chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin ơn có một tình yêu biết cho đi đến tận cùng.

 5. Tình yêu tha thứ tất cả và luôn luôn tin tưởng. "Anh hãy tin tưởng, đứng dậy đi, Ngài đang gọi anh" (Mc 10,48-49). Tình yêu lên tiếng gọi. Tình yêu ăn xin lòng tín nhiệm để giải tỏa tính năng động giải phóng mãnh liệt của mình : anh hãy đứng dậy. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một thái độ tâm hồn luôn luôn là một lời mời gọi tin tưởng đối với tha nhân, ngõ hầu họ có thể lớn lên trong đời sống làm người và làm tín hữu của họ.

 

VỀ MỤC LỤC
TƯ VẤN về Tâm Bệnh

Câu Chuyện Thầy Lang

Bác sĩ Nguyễn Ý- Ðức

TƯ VẤN về Tâm Bệnh                               

Rối loạn tinh thần là chuyện thường xảy ra.

Tại Hoa Kỳ, có tới trên 20% dân chúng gặp những chuyện khó khăn này trong suốt cuộc đời khiến cho nếp sống của họ không được yên vui. Và tại Việt Nam, tâm bệnh cũng có chiều hướng ngày một gia tăng với sự phát triển kinh tế, kỹ nghệ.

Một số không nhỏ những người này chấp nhận tình trạng, không tìm kiếm hỗ trợ, giải quyết. Vì, không biết đi đâu dể điều trị hoặc ngại ngùng “vạch áo cho người xem lưng”, nói chuyện riêng tư cho người khác, rồi người ta đồn đại, rêu rao nói xấu...

Tuy nhiên, như cổ nhân đã nói ”có bệnh thì vái tứ phương”. Có vấn đề, thì ta cứ tìm giúp đỡ. Đó là một quyền hạn của mọi công dân.

Nhưng tìm ở đâu?

Xin mời đọc tiếp…

1- Vậy thì khi cần tư vấn về tinh thần, tôi phải đi đâu?

Thưa, tại mỗi địa phương mà ta sinh sống đều có các trung tâm chuyên lo về tâm bệnh.

Các trung tâm này đều có các nhà chuyên môn với nhiều khả năng và kinh nghiệm để giúp đỡ những ai có các bệnh như trầm cảm, buồn phiền, rối loạn suy tư, hành động, lo lắng, hoảng hốt, có ý định tự vẫn quyên sinh...

Trung tâm cũng có người chuyên môn cho từng sắc dân, từng lớp tuổi, tỵ nạn, di dân, những người suy sụp tinh thần vì mắc bệnh kinh niên như nhiễm HIV, những người chẳng may rơi vào vòng nghiện ngập hút xách...

2- Tôi lại chẳng có bảo hiểm, không trợ cấp, không tiền bạc thì lấy đâu ra tiền trả cho chuyên gia?

* Xin đừng lo. Các trung tâm này thường được quỹ của tiểu bang hoặc địa phương tài trợ, nên chi phí mà bệnh nhân phải trả rất nhẹ, tùy theo lợi tức của mỗi người. Vì vậy, dù có thể trả nhiều ít thế nào thì người bệnh vẫn nhận được sự giúp đỡ, điều trị.

Ngoài ra nếu mình có đi làm, thì chủ nhân cũng có các chương trình bảo hiểm sức khỏe để giúp đỡ trang trải chi  phí cho tư vấn tinh thần cá nhân hoặc gia đình, cai trừ nghiện ngập...

3- Ngoài các trung tâm “miễn phí” vừa kể, còn nơi nào khác không?

Có chứ. Bệnh nhân có thể tới các trung tâm tư vấn điều trị tư nhân như phòng  khám bệnh, phòng tư vấn tâm lý trị liệu, các bệnh viện tâm trí....Nhưng xin thưa là tới các nơi này cũng tốn tiền lắm đấy, vì mình phải trả số tiền sai biệt mà bảo hiểm sức khỏe không trả.

4- Nói thực là, tính tôi lại không thích làm phiền lòng người khác về chuyện khó khăn riêng tư của mình. Có lẽ tốt hơn là cứ để tôi từ từ tự giải quyết vấn đề, có được không?

Nói vậy thì chẳng khác chi mình đang có cái răng sâu đau nhức, chẳng chịu đi nha sĩ khám chữa, mà lại nói để từ từ rồi tự nó lành.

Tương tự như trường hợp răng sâu, nếu mình không giải quyết khó khăn tinh thần ngay thì e rằng ‘chuyện trong lòng’ trở nên phức tạp trầm trọng hơn.

:

“Sầu đong, càng lắc càng đầy’

hoặc:

Giết nhau chẳng cái lưu cầu

Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa”!!!!!

5- Giả thử rằng tôi quyết định tới trung tâm tư vấn, thì chuyện gì sẽ xảy ra?

* Khi tới đó, một nhân viên có kinh nghiệm, kiến thức về vấn đề tinh thần sẽ lắng nghe và thảo luận về vấn đề đang quấy rầy mình.

6- Bộ tôi phải trả tiền để nói cho họ biết về khó khăn của tôi hay sao? Tôi có thể kể cho bạn bè mà chẳng tốn đồng xu nào!!!

* Quý vị nói đúng. Nếu có một người bạn tốt, có nhiều kinh nghiệm, sẵn sàng nghe bầu tâm sự rồi góp ý để giải quyết thì tuyệt, mình chẳng cần tới “chuyên gia, chuyên dô” làm gì.

Nhưng, nhiều khi ta có những khó khăn mà chỉ người chuyên môn mới khám phá ra được. Và khi họ cung cấp dịch vụ cho mình thì họ cũng phải được trả tiền, để sinh sống chứ.

Liệu người bạn của quý vị có khả năng làm công việc đó không?

7- Tài nhỉ! Làm sao mà chỉ ‘nói’ thôi mà cũng giải quyết được khó khăn à?!!

* Tài cán gì đâu! Chẳng qua là khi mình nói với một người đã được huấn luyện chuyên môn, lại có kinh nghiệm tiếp xúc với nhiều trường hợp tương tự như của mình, thì người đó có thể nhìn rõ cái ‘khó khăn’ nó đang hành hạ mình.

Mục tiêu của điều trị là làm sao giúp cho bệnh nhân nhận ra khó khăn và thay đổi, giảm thiểu hoặc loại bỏ khó khăn đó.

Ðôi khi cũng cần phối hợp cả điều trị bằng lời nói và điều trị bằng dược phẩm với nhau.

8- Như vậy chỉ có bác sĩ tâm trí mới chữa được bệnh của tôi hay sao?

* Ðâu phải vậy. Chuyên viên trị liệu không bắt buộc phải là bác sĩ về tâm trí. Nhiều nhà tâm lý học, chuyên viên xã hội, điều dưỡng viên, tư vấn ...đều được huấn luyện tới nơi tới chốn và có bằng hành nghề để chăm sóc, điều trị mọi người có khó khăn về tâm tình, xúc động.

Bác sĩ tâm bệnh học là y khoa bác sĩ có huấn luyện thêm về lãnh vực tâm lý và có thể biên toa cho thuốc trị bệnh.

9- Tôi làm việc suốt ngày, khó mà tới trung tâm vào giờ làm việc. Vậy có nơi nào mở cửa buổi tối không?

* Có nhiều trung tâm mở cửa trễ vào buổi chiều hoặc mở cửa vào ngày cuối tuần. Xin cứ liên lạc với các trung tâm và xin hẹn vào giờ thuận tiện cho mỗi người và trung tâm.

10- Còn các chuyên viên hành nghề tư, liệu họ có tiếp khách ngoài giờ làm việc ban ngày không?

* Có nhiều chuyên viên tiếp khách trễ vào buổi chiều hoặc lúc sáng sớm để giúp bệnh nhân không đến được vào ban ngày.

11- Tôi nghĩ rằng vấn đề của tôi có thể giải quyết được khi tôi đến trung tâm tư vấn tâm thần. Và tôi nghĩ rằng người bạn đường của tôi cũng có thể giúp tôi giải quyết. Nhưng cứ nói tới ‘trung tâm tâm thần’ là người ấy e ngại rồi. Vậy thì liệu tôi có nên nói với người ấy là tôi tới đó vì một chuyện khác nào đó.

* Không nên làm như vậy. Thà cứ nói thực cho người ấy hay chứ không nên nói dối, kẻo mà mất lòng tin của nhau. Hơn nữa, vấn đề của mình cũng liên can tới cả hai người, cho nên đôi khi cần giải quyết chung với tư vấn gia đình, với nhóm.

12- Nếu tới trung tâm thì tôi sẽ được điều trị bằng cách nào?

* Có nhiều cách điều trị lắm.

Một nhân viên kinh nghiệm của trung tâm sẽ thảo luận với mình để chọn lựa cách nào thích hợp với vấn đề của mình. Có thể chỉ bằng lời nói hoặc có thể phải phối hợp với dược phẩm, tùy theo sự nặng nhẹ của khó khăn.

Những người có khó khăn giống nhau có thể ngồi chung để cùng tìm hiểu vấn đề của nhau rồi cùng góp ý, giải quyết.

Ðôi khi chỉ giữa chuyên viên với người bệnh nói với nhau mà thôi.

13- Nói suông như vậy mà cũng trị được bệnh hay sao?

* Ở đời làm gì có hoàn toàn 100%, phải không thưa quý vị. Cho nên trị liệu bằng lời nói cũng có lúc hữu hiệu, có lúc không. Vả lại, kết quả còn tùy thuộc ở người bệnh, chuyên viên, và loại bệnh.

Ðiều cần thiết là nên thẳng thắn, cởi mở, dốc hết bầu tâm sự, kể hết khó khăn của mình với chuyên viên, bác sĩ, để họ hiểu rõ vấn đề và tư vấn, giúp đỡ mình.

14- Giả thử rằng tôi đã cố gắng hết sức nhưng vẫn không cảm thấy thoải mái nói chuyện với chuyên viên này, thì tôi phải làm gì?

* Ồ, dễ giải quyết mà!

Mình có thể yêu cầu người đó giới thiệu cho một chuyên viên khác có sẵn ở trung tâm hoặc là mời một chuyên viên từ trung tâm nào đó ở trong vùng.

Nhưng, nên cố gắng hợp tác với chuyên viên này trước đã.

15- Tôi phải nói gì với chuyên viên tư vấn khi gặp nhau lần đầu?

* Trước hết là khi liên lạc với trung tâm tư vấn, nói chuyện với chuyên gia, hãy tìm hiểu cách điều trị của họ ra sao. Nếu cảm thấy có thể thổ lộ tâm tư với người này thì xin hẹn gặp.

 Với lần gặp gỡ đầu tiên, chuyên gia sẽ đặt ra một số câu hỏi về dấu hiệu bệnh, về tình trạng cá nhân và gia đình, thân hữu. Các chi tiết này giúp chuyên gia phác họa một phương thức trị liệu.

 Sau vài lần gặp gỡ, để ý coi xem tình trạng của mình có khả quan không. Nếu cảm thấy không thuyên giảm, đặt vấn đề với chuyên viên và cố gắng hợp tác với họ.

 Nếu không thỏa mãn, đừng ngần ngại yêu cầu có một chuyên viên khác. Ðiều trị chỉ có kết quả khi giữa người bệnh và chuyên gia có mối giao hảo tốt.

16- Tôi phải làm gì khi uống thuốc mà bệnh có vẻ như không thay đổi?* Nếu sau khi uống thuốc dăm tuần lễ mà bệnh không thuyên giảm thì mình phải cho bác sĩ hay ngay, để thử thuốc khác.

Mỗi người đáp ứng với thuốc khác nhau. Ðôi khi lại phải kết hợp chữa bằng thuốc với các phương thức trị liệu khác.

17- Các trung tâm tâm bệnh có tiếp nhận điều trị cho trẻ em không?

* Có chứ. Cung cấp điều trị cho các em là một phần việc rất quan trọng của bất cứ một trung tâm tư vấn tâm lý nào. Nếu không có các vấn đề trầm trọng, các em thường mau bình phục với trị liệu ngắn hạn.   

Nhiều khi, thân nhân được mời để tham khảo góp ý nếu các em có vấn đề trầm trọng như trầm cảm, tự kỷ, ám ảnh, thiếu tập trung, quá năng động, chán ăn. Trong các trường hợp này, điều trị thường kéo dài lâu hơn.

18- Khi chữa bệnh tại Trung Tâm, liệu họ có kể chuyện riêng của tôi cho người khác không?

* Xin đừng lo, bệnh tình của mình sẽ được giữ kín. Ðây là điều rất quan trọng trong việc điều trị và là căn bản trong mối liên hệ giữa người cung cấp điều trị với bệnh nhân.

Hơn nữa luật pháp cũng như quy luật nghề nghiệp đều nhấn mạnh về việc giữ bí mật nghề nghiệp này. Ngay cả khi một vài công ty bảo hiểm muốn biết cách điều trị để trả y phí, cũng phải có sự đồng ý bằng chữ viết của bệnh nhân thì trung tâm mới được tiết lộ hồ sơ.

19- Tôi có người quen, mắc tâm bệnh trầm trọng. Liệu tôi có nên khuyên người đó vào nhà thương để trị bệnh không?

* Một người bị tâm bệnh chỉ nhập viện khi nào thật cần thiết mà thôi.

Các chuyên viên trị bệnh tâm lý đều đồng ý rằng người có rối loạn tinh thần nên sống chung với gia đình, cộng đồng và được điều trị ờ các trung tâm. Ðó là mục đích sự hiện diện của trung tâm tư vấn tâm lý: để phối hợp với cộng đống, hỗ trợ chăm sóc người bệnh.

Trung tâm có nhiều chương trình khác nhau như chăm sóc ban ngày, ban đêm, cuối tuần với điều trị ngoại chẩn...

20- Có phải các trường hợp khẩn cấp đều phải vào bệnh viện tâm thần điều trị trong một thời gian lâu?

Không đúng hẳn như vậy.

Ngày nay, bệnh viện tâm thần chỉ được sử dụng ngắn hạn khi không có phương tiện điều trị ở cộng đồng hoặc khi người bệnh cần nằm một thời gian ngắn để điều chỉnh thuốc men.

Ngoài ra, bệnh viện cũng cung cấp chăm sóc cho một số người ví tình trạng sức khỏe kém, cần theo dõi, bảo vệ. 

21- Nhập viện ngoài ý muốn có nghĩa là gì?

* Trong trường hợp khẩn cấp, một người được coi như nguy hiểm cho bản thân hoặc cho người khác, thì người đó có thể được nhập viện trong một thời gian ngắn, ngoài ý muốn của họ.

Thủ tục nhập viện ngoài ý muốn này thay đổi tùy theo luật lệ tại địa phương.

Sau thời kỳ nhập viện khẩn cấp, người ký giấy phải thu hồi lệnh nhập viện, trả tự do cho người bệnh.

Nếu thấy người bệnh còn trầm trọng, nhân viên y tế phải yêu cầu họ tự ý nằm lại bệnh viện hoặc phải xin phép cơ quan pháp luật để tiếp tục giữ người bệnh trong bệnh viện để điều trị.

Tại nhiều địa phương, luật lệ không cho phép nhập viên ngoài ý muốn của bệnh nhân quá 4 ngày.

22- Khi quyền hạn của tôi bị vi phạm hoặc khi muốn thông báo bị lạm dụng, bỏ bê, tôi phải làm gì?

* Bên Mỹ, luật lệ liên bang quyết định mỗi tiểu bang đều phải có một cơ quan bảo vệ quyền lợi của bệnh nhân. Cơ quan này sẽ điều tra mọi khiếu nại của bệnh nhân đang điều trị hoặc mới xuất viện được 90 ngày về các lạm dụng, đối xử không tốt tại trung tâm tư vấn công tư hoặc tại các cơ sở trị bệnh.

Thành ra, người bệnh bao giờ cũng được pháp luật bảo vệ và hưởng tất cả các quyền lợi một công dân, như những nguời không bệnh tật.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức, Texas-Hoa Kỳ

(Phỏng theo tài liệu của National Institute of Mental Health-Hoa Kỳ)

VỀ MỤC LỤC

NÓI CHUYỆN… DÊ   Chuyện phiếm của Gã Siêu.

 

Cho đến bây giờ gã vẫn chưa có dịp tìm hiểu tại sao người Á đông chúng ta, dưới ảnh hưởng của mấy chú ba Tàu, lại chia vòng thời gian thành từng chu kỳ, mỗi chu kỳ kéo dài mười hai năm và được gọi là một can hay một con giáp.

Chẳng hạn khi nói :

- Vợ nó hơn nó một con giáp.

Câu nói này  nghĩa là :

- Nó kém vợ nó những mười hai tuổi. Đúng theo cái mốt “vợ già chồng trẻ là duyên con…bò”.

Tất cả có mười can, đó là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm và Quí.

Mỗi năm trong một can hay trong một con giáp được gọi là chi. Tất cả có mười hai chi, đó là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi. Mỗi chi lại được biểu tượng bằng một con vật nào đó.

Thí dụ năm nay là năm Quí Mùi. Quí là can chót, can thứ mười. Còn Mùi là vị thứ tám trong mười hai chi và thuộc về con Dê. Năm tới 2004, sẽ trở lại can đầu là Giáp và chi thứ chín là Thân. Như thế năm 2004 sẽ được gọi là năm Giáp Thân, cầm tinh con khỉ.

Theo tục lệ tốt lành vốn có từ lâu trong nghề viết lách, hôm nay gã xin bàn rộng bàn dài, tán hươu tán vượn về con dê, để bàn dân thiên hạ được xả hơi trong những ngày đầu năm, mà quên đi những căng thẳng của công ăn việc làm và những khủng bố đang xảy ra khắp đó đây trên cả và trái đất.

Sách “ Cổ Học Tinh Hoa” kể lại như sau :

Người láng giềng nhà Dương Chu mất một con dê, bèn sai hết cả nhà đi tìm, lại sang nói với Dương Chu cho mượn một người đi tìm hộ.

Dương Chu nói :

- Ôi ! Sao mất có một con dê mà cho những bao nhiêu người đi tìm.

Người láng giềng đáp :

- Vì đường có lắm ngã ba.

Khi các người tìm dê đã về, Dương Chu hỏi :

- Có tìm thấy dê không ?

Người láng giềng nói :

- Không.

- Sao lại không tìm thấy ?

- Tại đường đã lắm ngã ba, theo các ngã ba đi một chốc lại có nhiều ngã ba khác. Thành thử không biết đi vào đường nào để tìm thấy dê, phải chịu về không cả.

Ấy đường cái chỉ vì lắm ngã ba mà dê mất  không tìm thấy. Người đi học cũng vậy, chỉ vì  mê muội mà mất cả lương tâm.

Theo “Việt Nam Tự điển” của Lê Văn Đức, thì :

“Dê là loài thú có sừng, có râu, lông nhiều và hôi, bốn móng thon nhọn, thích chồm phá để kiếm cỏ và dây leo để ăn.”

Khi con dê đực mang nặng tuổi đời và trở về già, lúc bấy giờ râu cằm dài, lông nhiều và mùi hôi thật đậm đặc, người ta gọi nó là dê…xồm.

Riêng những kẻ muốn bắt chước dê, để một chòm râu ở cằm, thì bộ râu ấy liền được bàn dân thiên hạ tặng phong cho danh hiệu là bộ râu dê.

Trong chữ Tàu, dê được gọi là dương. Chẳng hạn cao dương là dê con, sơn dương là dê núi.

Tại Việt Nam có một thời người ta đua nhau nuôi dê để lấy sữa bởi vì theo các nhà phân tích, thì sữa dê có nhiều chất bổ dưỡng. Thậm chí các cụ già thường xuyên uống sữa dê thì sẽ trẻ ra vài chục tuổi, còn quí bà quí cô ấy hở, nếu thường xuyên tắm sữa dê, thì da dẻ lúc nào cũng cứ trắng nuốt như trứng gà bóc vậy !!!

Xem ra các chú ba Tàu, cũng như dân bợm nhậu rất khoái món thịt dê, bộ phận nào của dê cũng được liệt vào hàng quí hiếm và được chiếu cố tận tình, chẳng hạn như : dương trường là ruột dê, dương can là gan dê, dương huyết là máu dê, dương nhục là thịt dê, dương thận là thận dê…Mỗi thứ này được tẩm liệm và chế biến theo một cách thức riêng để trở thành món đặc sản của những nhà hàng tại  Chợ Lớn.

Những người chuyên nghiệp làm dê, tức là mần thịt dê, cho  hay : 

- Để khử cái mùi hoi của dê, người ta thường phải đuổi cho dê chạy thật lâu, hay cho dê uống rượu cốt để cho dê say  đến toát cả mồ hôi hột, rồi sau đó mới chọc tiết. Thịt sẽ không còn hoi nữa.

Có một thời ở Saigon, dân bợm nhậu rất ghiền  cái món lẩu dê, đi tới chỗ nào cũng thấy những bảng hiệu quảng cáo và mời gọi cho lẩu dê. Thậm chí cả một dẫy phố, nhà nhà đều trở thành quán nhậu với món lẩu dê. Sau thời đại của lẩu dê, tới thời đại của lẩu mắm. Còn bây giờ tại các đám tiệc, cái “mốt” lẩu tươi sống đang rất được  thịnh hành.

Ngày nọ, gã về Saigon và được mấy tên bạn cùng lớp rủ đi nhậu lẩu dê. Quán nhậu chỉ gồm vỏn vẹn mấy chiếc bàn và một ít ghế thấp lè tè được bày ngay trên  lề đường vào ban tối. Khi món nhậu được bưng ra, gã nhận thấy có một cái niêu đựng thịt dê đã được nấu sẵn với chao, đặt trên bếp than và đang sôi sùng sục. Đi kèm với nó là hai đĩa mì vắt và hai đĩa cải đắng. Mì và cải đắng được nhúng vào lẩu trước khi ăn.

Dân nhậu chính hiệu con nai vàng, khi xơi lẩu dê, thì phải uống rượu huyết dê, nghĩa là rượu đế được pha với máu dê. Uống chừng dăm cốc thì bầu khí bỗng trở nên vui vẻ, ai cũng thích nói to và nói dài. Dường như mình là người duy nhất nắm được chân lý trên đời.

Riêng  phần gã, dù bị dị ứng với mùi tanh của máu, cũng phải nhắm mắt nhắm mũi làm vài cốc cho vui lòng bè bạn. Ăn miếng thịt dê mà vẫn cứ phân vân không biết dê hay chó, bởi vì dê đâu mà lắm thế !

Nhậu lẩu dê là một hình thức nhậu bình dân và rẻ tiền nhất. Chẳng thế mà quán lẩu dê nào cũng đông khách. Mấy anh tài xế xe ôm, mấy bác đạp xích lô, sau một ngày lao động cực nhọc, ban tối rủ nhau làm một cái lẩu dê với vài xị rượu huyết dê là sẽ quên tuốt  những vất vả và khốn khổ của mình.

Nhiều khi không có thịt dê, dần ghiền bèn phệu ra món “giả dê”, tương tự như món “giả cầy” để được tưởng nhớ mùi hương. Người ta dùng chân giò heo, nướng lên rồi thái nhỏ và bóp với riềng. Khi thưởng thức, miệng thì ăn nhưng lòng thì phải mường tượng ra đó là thịt dê chính gốc.

Có một điều gã ghi nhận được khi suy gẫm về loài dê, đó là từ đông sang tây, từ cổ chí kim, người ta đều nhìn dê bằng một cặp mắt khinh bỉ, gán cho dê những thói hư tật xấu và đồng hóa dê với tội lỗi. Chẳng hiểu có oan cho dê lắm không ?

Thực vậy, sách Lêvi của Cựu ước đã mô tả về nghi thức của ngày lễ xá tội như sau :

Người ta dẫn tới trước mặt Aaron một con dê đực còn sống. Ông ta sẽ đặt hai tay lên đầu nó mà xưng thú hết mọi sai lầm, hết  mọi phản nghịch, nghĩa là hết mọi tội lỗi của con dân Israel, như thể trút tất tật lên đầu nó, rồi dùng tay một người đang chờ sẵn mà đuổi nó vào sa mạc. Ở đó chẳng có sự hiện diện đầy yêu thương của Đức Giavê, mà chỉ có sự hiện diện của ma quỉ độc dữ mà thôi.

Con dê này được người Do thái gọi là “oan dương”, con dê gánh tội, con vật hy sinh.

Trong Tân ước, gã lại còn thấy rõ điều ấy hơn nữa.

Thực vậy, hoạt cảnh vể ngày phán xét chung đã được Kinh thánh  mô tả như sau :

Bấy giờ các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Ngài, và Ngài sẽ tách biệt họ ra, như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài sẽ cho chiên đứng bên phải, còn dê thì ở bên trái.

Như thế, dê là biểu tượng cho những kẻ đứng bên trái, tức là những kẻ tội lỗi, những kẻ sẽ bị trừng phạt đời đời kiếp kiếp chẳng cùng. Thật là đại họa và vô phúc cho chúng ta nếu như trong ngày định mệnh ấy chúng ta bị đứng ở bên trái và lầm lũi bước theo dấu chân dê mà đi xuống hỏa ngục.

Chẳng biết có phải vì dê tượng trưng cho tội lỗi và ngoại diện của nó không được bắt mắt  cho lắm mà người ta rất ngại vẽ dê.

Năm ngoái cầm tinh con ngựa, thì hình ảnh về ngựa thật là ê hề, từ hình chụp đến hình vẽ, từ ngựa đực đến ngựa cái, từ ngựa mẹ đến ngưa con, thậm chí có cả ngựa đang mang bầu.

Còn năm nay cầm tinh con dê, gã đã phải chạy đôn chay đáo, chạy ngược chạy xuôi, thậm chí còn vắt cả giò lên cổ mà chạy để tìm cho ra một tấm lịch có hình con dê, hầu làm thiệp đón mừng xuân mới, gửi cho bè bạn khắp bốn phương trời, thế nhưng bạc mắt tìm mà cũng chẳng thấy.

Riêng đối với người Việt Nam, nết xấu nổi bật nhất nơi con dê đực, chính là cái  “tính thích đờn bà con gái”, chính là cái “thói ve vãn, chọc ghẹo đờn bà con gái”.

Cái tính và cái thói này nhiều khi nằm sẵn trong huyết quản vì thế những kẻ mắc phải cái tính và cái thói này thường được gọi là kẻ có…máu dê, hay máu băm nhăm.

Khi cái tính và cái thói này liên tục phát triển và lên tới tột đỉnh của nó, thì kẻ ấy nghiễm nhiên được bàn dân thiên hạ phong cho cái chức…”dê xồm”, tức là kẻ cả gan dám dê một cách trắng trợn, ngay cả giữa ban ngày ban mặt, giữa thanh thiên bạch nhật, chẳng kể gì đến những lời bàn ra tán vào. Kẻ ấy giống như “dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”, mà Hồ Xuân Hương đã diễn tả.

Ngày xửa ngày xưa, vua Tấn Võ Đế có rất nhiều cung phi mỹ nữ. Ban đêm, nhà vua ngồi trên chiếc xe khảm vàng khảm ngọc, do một đàn dê kéo đi khắp trong cung, tự ý dê muốn đi đâu tùy thích. Xe dừng ở nơi nào, nhà vua sẽ nghỉ đêm tại đó.

Vì thế, các cung phi liền lấy lá dâu treo ở ngoài cửa và dùng nước muối rắc, để cho dê thấy lá dâu và ngửi mùi nước muối thì thèm ăn, mà kéo xe đi vào cửa cung.

Chẳng hiểu có phải vì vậy mà dê bị gán cho cái tác phong  “thiếu đứng đắn” khi giao tiếp với “phe địch” hay không ? Nếu chỉ vì thèm ăn nắm lá dâu mà dê bị kết tội dê, tức là “táy máy với đờn bà con gái”, thì thật hơi oan cho dê một tí.

Cái tội dê này, báo chí phương tây hiện giờ đã mặc cho nó một danh xưng nhẹ nhàng và mỹ miều hơn, đó là cái tội “quấy rối tình dục”. Và theo những nhà tâm lý, thì từ “quấy rối tình dục” đến “lạm dụng tình dục” chỉ cách nhau có một đốt ngón tay. Mấy ông quan tòa bên đó đã dành cho những kẻ quấy rối tình dục những bản án nặng nề, nhưng chẳng biết  có  “sì tốp” được cái tính và cái thói dê ấy chút xíu nào hay không ?

Trong ngôn ngữ, gã ghi nhận được một vài câu tục ngữ, nói lên tính cách giả dối của người đời liên quan tới dê.

Trước hết các cụ đồ sính chữ nho hay những người thuộc vào hàng nho chùm vốn thường bảo :

- Dương chất hổ bì.

Câu này có nghĩa là :

- Cốt là cốt dê, mà da lại là da cọp.

Từ đó ám chỉ những kẻ dùng thế lực giả tạo bên ngoài để lòe bịp hay hù dọa thiên hạ.

Họ là những kẻ :

- Mượn đầu heo nấu cháo.

Hay :

- Mượn hoa cúng Phật.

Họ giống như :

- Cáo mượn oai hùm.

Chứ thực  chất bên trong của họ chẳng đáng giá một đồng xu cắc bạc nào cả.

Chuyện xưa kể rằng :

Tuyên Vương làm vua cả nước Sở. Còn Chiêu Hề Tuất chỉ là một người bầy tôi của Tuyên Vương. Thế mà người phương bắc ai nghe thấy nói Chiêu Hề Tuất cũng phải kính sợ. Vua lấy làm lạ, một hôm hỏi quần thần vì cớ làm sao ? Không ai trả lời nổi. Chỉ có Giang Nhất thưa được rằng :

- Con hổ hay bắt các giống thú để ăn thịt. Một hôm bắt được một con cáo. Cáo bảo : Liệu đó! Chớ  đụng chạm đến ta mà chết ngay bây giờ. Ta là trời sai xuống, cầm quyền coi hết cả bách thú. Ngươi ăn thịt ta, là ngươi trái mệnh trời, hại đến thân tức khắc… Không tin, thử để ta đi trước, ngươi theo hầu sau, xem có con thú nào trông thấy ta mà lại không sợ hãi tìm đường trốn mau hay không ? Hổ cho là cáo nói thật, bèn đi theo cáo. Quả nhiên bách thú trông thấy đều sợ mà chạy cả. Hổ vẫn không biết bách thú sợ mình mà chạy, cứ tưởng là sợ cáo. Nay nhà vua nước mạnh, quân nhiều mà vua giao cả quyền thế cho Chiêu Hề Tuất, người phương bắc sợ Hề Tuất, nhưng kỳ thực là sợ vua, cũng như bách thú sợ hổ vậy.

Câu chuyện trên ám chỉ kẻ dưới thích mượn quyền thế  “bề trên” để hống hách và dọa nạt. Nếu không biết, người ta còn sợ, chứ khi “lừa đã thò tai” thì chẳng những người ta đem lòng khinh bỉ, mà còn làm đê nhục để cho bõ ghét.

Tiếp đến, người bình dân trong ngôn ngữ thường ngày vốn thường hay nói :

- Treo đầu dê, bán thịt chó.

Cửa hàng treo bảng hiệu bán thịt dê, nhưng thực chất bên trong chỉ toàn chó với chó.

Cũng giống như gã đã trình bày ở trên : khi ngồi nhậu lẩu dê với bè bạn mà lòng cứ thắc thỏm không hiểu là thịt dê hay thịt chó, bởi vì dê đâu mà nhiều thế.

Câu tục ngữ ngắn gọn này cũng đủ diễn tả tác phong của kẻ giả hình, họ nói vậy mà không phải vậy, họ nói một đàng nhưng làm quàng một nẻo. 

Kinh thánh đã bảo :

- Họ giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, nhưng bên trong thì đầy dòi bọ cùng mọi thứ xú khí.

Tục ngữ Việt Nam đã liệt họ vào hạng :

- Khẩu Phật, tâm xà.

- Miệng na mô, bụng bồ dao băm.

- Ngoài thì thơn thớt nói cười,

Mà trong nham hiểm giết người không gươm.

Như thế, họ không làm đã đành, mà thậm chí còn làm ngược lại những gì họ đã nói :

- Na mô, một bồ dao găm,

Một trăm dao mác,

Một vác dao bầu,

Một xâu thịt chó.

- Na mô, một bồ dao găm,

Một trăm con chó,

Một lọ mắm tôm,

Một ôm rau húng,

Một thúng rau răm.

Bàn về hạng người giả nhân giả nghĩa ấy, thiết tưởng còn nhiều điều phải nói. Tuy nhiên để kết thúc những sự việc lỉnh kỉnh về con dê, gã xin mượn một mẩu chuyện trong sách “Cổ Học Tinh Hoa”. Mẩu chuyện ấy mang tựa đề là “Người bán thịt dê” :

Vua Chiêu Vương nước Sở bị mất nước, phải bỏ chạy.  Có người bán thịt dê tên là Duyệt, cũng chạy theo vua.

Thời gian sau, vua Chiêu Vương  trở về, lấy lại được nước. Vua bèn thưởng cho những người chạy theo mình khi trước, trong số đó có cả người bán thịt dê nữa.

Ai cũng nhận phần thưởng, chỉ một mình người bán thịt dê từ chối và nói :

- Trước nhà vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê. Nay nhà vua còn nước, tôi còn nghề bán thịt dê. Thế là tôi giữ được nghiệp cũ đủ ăn rồi, còn đâu dám mong thưởng.

Vua cố ép. Người bán thịt dê thưa rằng :

- Nhà vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi không dám liều chết. Nhà vua lấy lại được nước, không phải do công tôi, nên tôi không dám lĩnh thưởng.

Vua bảo :

- Để rồi ta đến nhà ngươi chơi vậy.

Người bán thịt dê nói :

- Theo phép nước Sở, phàm người nào có công to, được trọng thưởng thì vua mới đến nhà. Nay tôi xét mình tôi mưu trí không đủ giữ được nước, dũng cảm không đủ giết được giặc. Quân giặc vào trong nước, tôi chạy đi lánh nạn, phải theo nhà vua, chớ có phải là cốt ý theo nhà vua đâu ! Nay nhà vua muốn bỏ phép nước đến chơi nhà tôi, e thiên hạ nghe thấy lại chê cười chăng.

Chiêu Vương thấy nói, ngoảnh lại bảo Tư Mã Tử Kỳ rằng :

- Người bán thịt dê này tuy làm nghề vi tiện mà giãi bày nghĩa lý rất cao xa. Nhà ngươi làm thế nào mời được người ấy ra nhận chức tam công cho ta.

Người bán thịt dê nghe thế bèn nói :

- Tôi biết chức tam công là quí hơn cửa hàng bán thịt dê, bổng lộc nghìn vạn, giàu hơn tiền lãi bán thịt dê. Nhưng tôi đâu dám tham tước lộc mà để nhà vua mang tiếng là gia ơn không phải nghĩa. Tôi thực không dám nhận. Xin cho về giữ lấy nghề bàn thịt dê.

Nói đoạn, người ấy lùi ra ngay.

Tác giả sách “Cổ Học Tinh Hoa” đã góp thêm lời bàn như sau :

“Vua Chiêu Vương muốn thưởng, là lấy cái ý khí mình gặp bước lưu vong mà người ta đi theo mình là người ta có lòng trung thành với mình. Người bán thịt dê không nhận thưởng là lấy cái nghĩa không đáng nhận, vì không có công cán gì.”

“Nếu ai cũng biết an phận thủ thường, quí trọng nghề nghiệp như người bán thịt dê, thì còn ai là kẻ ham mê phú quí, quyền thế và sự thưởng phạt ở đời chẳng là công minh lắn ru ! Thực đáng làm gương cho những kẻ không biết liêm sỉ, tài năng công đức chẳng có gì mà cũng cố cày cục, chạy chọt lấy chút phẩm hàm chức vụ để lòe đời vậy.”

Theo ý gã, nếu các vị tai to mặt lớn mà không tham sân si, tiền của, bổng lộc, để cho tệ tạn tham nhũng lộng lành, thì đất nước này đã phất lên từ lâu.

Và trước khi giã từ để…ăn tết, gã xin :

Long trọng… kính chúc… Quí vị… năm con… dê nhiều… may mắn !!!

Gã Siêu    gasieu@gmail.com

      

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Được chọn giữa loài người và cho loài người; GÍAO SĨ: Xuất phát từ gíao dân, hiện diện vì gíao dân và cậy dựa vào gíao dân, để cùng làm VINH DANH THIÊN CHÚA

*************