Gaudium Et Spes |
Hiến Chế Mục Vụ
Về Giáo Hội
Trong Thế Giới Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Phần Thứ Hai
Chương III
Ðời Sống Kinh Tế Xã Hội
75*
63. Một vài khía cạnh của đời sống
kinh tế. Ngay trong đời sống kinh tế xã hội,
phẩm giá cũng như ơn gọi toàn diện của con người và lợi ích
của toàn thể xã hội cũng phải được tôn trọng và thăng tiến.
Vì con người là tác giả, là tâm điểm và là cứu cánh của tất
cả đời sống kinh tế xã hội.
Sau đây là
một vài đặc điểm của nền kinh tế hiện đại cũng như của các
lãnh vực khác trong đời sống xã hội: con người càng ngày
càng chế ngự thiên nhiên nhiều hơn, sự liên lạc và nương tựa
lẫn nhau giữa các công dân, đoàn thể, quốc gia càng ngày
càng nhiều và rộng lớn hơn, và mỗi ngày sự can thiệp của các
chính quyền càng trở thành thường xuyên; đồng thời, với đà
tiến bộ của các phương pháp sản xuất và trao đổi sản phẩm
cũng như dịch vụ, kinh tế đã trở thành một công cụ thích hợp
để thỏa mãn cách khả quan những nhu cầu chồng chất của gia
đình nhân loại.
Tuy nhiên,
không thiếu những lý do gây nên lo ngại. Nhiều người, nhất
là trong những miền có nền kinh tế tiến bộ, như bị đời sống
kinh tế chi phối hoàn toàn, đến nỗi trong các quốc gia theo
kinh tế tập sản cũng như trong các quốc gia khác, hầu như cả
đời sống cá nhân cũng như xã hội của họ đều bị thấm nhiễm
một thứ chủ nghĩa duy kinh tế. Trong thời đại mà sự phát
triển đời sống kinh tế nếu được điều khiển và phối hiệp cách
hợp lý và nhân đạo, có thể giảm thiểu những chênh lệch trong
xã hội, thì nhiều khi lại làm cho những chênh lệch ấy trở
thành trầm trọng hơn, hoặc ở một vài nơi còn trở thành sự
thoái hóa địa vị xã hội của những người yếu thế và miệt thị
những kẻ nghèo túng. Ngay trong những vùng kém mở mang, giữa
lúc đại đa số vẫn còn thiếu những nhu cầu thiết yếu, thì một
thiểu số lại sống dư dật, phung phí. Xa hoa và cùng cực kề
cận nhau. Trong khi một thiểu số được quyền định đoạt rất
lớn, thì đa số lại hầu như không thể hành động theo sáng
kiến riêng và không được thể hiện tinh thần trách nhiệm của
mình, nhiều khi còn phải chịu đựng trong những hoàn cảnh
sinh sống và làm việc bất xứng với phẩm giá con người
76*.
Giữa lãnh
vực nông nghiệp, kỹ nghệ, mậu dịch và ngay giữa những miền
khác nhau của cùng một quốc gia cũng có những chênh lệch
tương tự về kinh tế và xã hội. Sự tương phản giữa các cường
quốc kinh tế và các quốc gia khác càng ngày càng trở nên
trầm trọng và có thể đe dọa cả nền hòa bình thế giới.
Con người
thời đại chúng ta càng ngày càng ý thức mãnh liệt về những
chênh lệch ấy, vì họ thâm tín rằng những kỹ thuật tân tiến
và những năng lực kinh tế của thế giới ngày nay có thể và
phải sửa đổi được những tệ trạng kia. Muốn vậy, cần phải cải
tổ đời sống kinh tế, xã hội và mọi người phải đổi mới tâm
thức và thái độ của mình. Nhằm mục đích ấy, nên qua bao thế
hệ, với ánh sáng Phúc Âm, Giáo Hội đã nỗ lực minh dẫn những
nguyên tắc về công bình và quân bình trong đời sống cá nhân,
xã hội và quốc tế cho hợp với những đòi hỏi của lương tri
nhân loại, nhất là trong những ngày gần đây Giáo Hội càng
đưa ra những nguyên tắc ấy hơn. Trong khi đặc biệt nhìn vào
những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế, Thánh Công Ðồng
muốn củng cố lại những nguyên tắc đã nêu trên, đồng thời
vạch ra một vài hướng đi phù hợp với hoàn cảnh của thời đại
này
1.
Ðoạn 1: Phát Triển Kinh Tế
64. Phát triển kinh tế để phục vụ
con người. Ngày nay hơn bao giờ hết, để đối
phó với sự gia tăng dân số và thỏa mãn những nguyện vọng mỗi
lúc một nhiều của nhân loại, người ta được quyền nghĩ đến
việc tăng gia sản xuất nông nghiệp, kỹ nghệ, cũng như các
dịch vụ cung ứng. Do đó, cần phải cổ võ việc phát triển kỹ
thuật, tinh thần canh tân, cố gắng thiết lập và khuếch
trương các xí nghiệp; thích nghi các phương pháp sản xuất và
những cố gắng không ngừng của các nhà sản xuất, tóm lại, là
cổ võ tất cả những yếu tố dự phần vào việc phát triển này.
Tuy nhiên, mục đích căn bản của sự sản xuất không chỉ là gia
tăng sản lượng, lợi tức hoặc quyền lực, nhưng chính là phục
vụ con người, dĩ nhiên là con người toàn diện. Tuy nhiên,
phải duy trì đúng cấp bực giá trị của các nhu cầu vật chất
cũng như những đòi hỏi của đời sống tinh thần, luân lý, tu
đức và tôn giáo. Phải phục vụ tất cả mọi người, mọi đoàn thể,
mọi chủng tộc và mọi miền trên thế giới. Bởi thế, hoạt động
kinh tế, mặc dù theo phương pháp và luật lệ riêng, nhưng vẫn
phải nằm trong giới hạn của trật tự luân lý
2; Có như thế mới hoàn thành được kế hoạch Thiên
Chúa đã sắp đặt cho con người
3.
65. Phát triển kinh tế dưới sự
kiểm soát của con người. Con người phải kiểm
soát lại sự phát triển kinh tế; không được khoán trắng nó
cho sự định đoạt của một thiểu số hoặc của những tập thể nắm
trong tay quyền lực kinh tế quá lớn, hoặc của một cộng đoàn
chính trị hay một số quốc gia giàu mạnh. Ngược lại, trong
những dịch vụ quốc tế, mọi quốc gia đều phải tích cực dự
phần vào việc phát triển kinh tế, và càng nhiều người thuộc
mọi cấp bậc tham gia càng hay. Cũng vậy, phải phối hợp và
điều hòa một cách thích đáng và hợp lý những sáng kiến của
cá nhân và của các đoàn thể tự do với nỗ lực của chính
quyền.
Không thể
chỉ bỏ mặc việc phát triển cho sự diễn tiến gần như máy móc
của hoạt động kinh tế cá nhân hay cho một mình chính quyền
mà thôi. Do đó, phải tố giác những sai lầm của các học
thuyết đang nhân danh một thứ tự do ngụy tạo để ngăn cản
những cải tổ cần thiết; cũng phải tố giác những học thuyết
đòi hy sinh quyền lợi cá nhân và đoàn thể cho tổ chức sản
xuất tập thể
4.
Người công
dân nên nhớ rằng, bổn phận và quyền lợi của mình là tùy khả
năng đóng góp vào việc phát triển thực sự cộng đoàn mình.
Chính quyền cũng phải công nhận bổn phận và quyền lợi này.
Nhất là những miền còn kém mở mang, càng phải cấp bách tận
dụng mọi tài nguyên; do đó, những người để tài sản của mình
không sinh lợi, hoặc không trợ giúp cộng đoàn mình những
phương tiện vật chất và tinh thần cần thiết là gây nguy hại
trầm trọng cho công ích
77*, dĩ nhiên bao giờ cũng phải tôn trọng quyền di
cư của mỗi cá nhân.
66. Phải chấm dứt những chênh lệch
lớn lao trên bình diện kinh tế xã hội. Ðể
thỏa mãn những đòi hỏi của công bằng và lẽ phải mà vẫn tôn
trọng quyền lợi cá nhân và đặc tính của mỗi dân tộc, cần
phải hăng hái nỗ lực để sớm chấm dứt những chênh lệch kinh
tế lớn lao hiện nay và còn gia tăng mai ngày: những chênh
lệch này gắn liền với sự phân hóa cá nhân và xã hội. Cũng
vậy, trong nhiều vùng, việc sản xuất và bán nông phẩm đang
gặp nhiều trở ngại trầm trọng. Do đó, cần phải nâng đỡ nông
dân tăng gia và tiêu thụ được sản phẩm, lại phải thực hiện
những cuộc cải tổ và canh tân cần thiết hầu thâu được lợi
tức tương ứng. Như thế, họ sẽ không mãi ù lì trong thân phận
công dân hạ đẳng, như vẫn thường thấy. Còn các nông dân,
nhất là những người thuộc lớp trẻ, phải cố gắng kiện toàn
khả năng chuyên nghiệp, nếu không nông nghiệp không thể phát
triển
5.
Sự di
chuyển là điều cần thiết đối với nền kinh tế đang phát triển,
tuy nhiên, sự công bằng và quân bình đòi hỏi phải tổ chức sự
di chuyển ấy thế nào để đời sống cá nhân cũng như gia đình
không bị xáo trộn và bấp bênh. Những công nhân từ một quốc
gia hay một miền khác đến, cũng là những người góp công vào
việc phát triển kinh tế của một nước hay một miền, nên cần
phải cố gắng tránh mọi dị biệt về điều kiện lương bổng và
việc làm. Hơn nữa, mọi người, nhất là chính quyền, phải coi
họ như những nhân vị, chứ không phải chỉ như những công cụ
sản xuất; phải giúp đỡ để họ có thể đưa gia đình đến và có
thể kiếm được một nơi nương thân đàng hoàng; cũng phải cho
phép họ dễ dàng gia nhập đời sống xã hội của quốc gia hay
miền đất nào đón tiếp họ. Tuy nhiên, nếu có thể, nên tạo cho
họ có công ăn việc làm ngay tại nguyên quán của họ.
Trong những
trạng huống kinh tế đang biến chuyển cũng như trong những
hình thái mới mẻ của xã hội kỹ nghệ chẳng hạn hệ thống tự
động đang được phát triển, phải liệu sao cho mỗi người có
công việc đầy đủ và thích hợp, đồng thời hấp thụ được một sự
huấn luyện thích ứng về kỹ thuật và nghề nghiệp. Cũng cần
phải bảo đảm sự sống và nhân phẩm, nhất là của những người
vì bệnh tật, tuổi tác, phải sống trong những hoàn cảnh thật
khó khăn.
còn tiếp
Chú
Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo
trước)
75* Con người là trung
tâm điểm và mục đích của sinh hoạt kinh tế xã hội (số 63a).
Hiện nay các sinh hoạt này cũng đang phát triển (b), nhưng
không thiếu lý do để lo lắng (c), đặc biệt vì nhiều sự bất
bình đẳng giữa các nghề nghiệp, các địa phương và các quốc
gia (d), đòi hỏi phải được canh tân (e).
1) Sự phát
triển kinh tế.
A) Phải
phục dịch con người (số 64).
B) Và được
con người điều khiển (số 65): càng nhiều người và càng nhiều
quốc gia góp phần để tìm kế hoạch kinh tế thì càng tốt (a).
Không thể chấp nhận thái độ chống việc cải cách cũng như chế
độ tập trung, vì là xâm phạm đến nhân quyền (b). Tất cả có
nhiệm vụ góp phần vào sự phát triển (c).
C) Cần phải
loại trừ sự bất bình đẳng, bất công: đặc biệt đối với giới
nông dân (a), giới lao động di trú (b), phải giúp mọi người
tìm việc làm và huấn luyện họ (c).
2) Một vài
nguyên tắc chỉ đạo:
A) Giá trị
của việc làm (số 67a, b). Do đó mỗi người có nhiệm vụ và có
quyền làm việc với lương bổng xứng đáng (b). Qui tắc kinh tế
phải tùng phục con người để phát triển nhân phẩm trong việc
làm cũng như trong giờ nghỉ ngơi bắt buộc phải có (c).
B) Sự tham
gia vào tổ chức kinh tế trong xí nghiệp cũng như trong quốc
gia (số 68a). Quyền lập nghiệp đoàn (b). Làm thế nào để giải
quyết sự xung đột về công việc: Công Ðồng không loại trừ
việc đình công như phương tiện tối hậu (c).
C) Trong
bất cứ chế độ nào về quyền sở hữu, nguyên khởi của tài sản
cũng đòi hỏi tài sản phải được phân chia một cách công bằng
(69a). Trong các quốc gia kém mở mang hay tân tiến nguyên
tắc ấy có thể được thực hiện ra sao (b),
D) Chính
sách tiền tệ (số 70).
E) Cổ võ
quyền tư hữu: giá trị của quyền tư hữu (số 71abc). Quyền lợi
của chính quyền (d). Vai trò xã hội của quyền tư hữu (e).
Ðất tư quá rộng và sự cải cách điền địa. (f).
3) Kết luận:
Sinh hoạt kinh tế xã hội có thể làm thực hiện đức công bằng
và đức thương yêu. Các tín hữu phải làm gương: có thẩm quyền
và đem tinh thần Phúc Âm vào sinh hoạt đó (số 72).
76* Trong tình trạng
nhà ổ chuột, làm việc thiếu vệ sinh, thiếu nghỉ ngơi...
không hiếm ở Việt Nam, đã nói lên mức ảnh hưởng của chiến
tranh, nhưng chỉ đúng một phần thôi. Ðã lâu rồi, Ðức Piô XI
viết rằng đó là trách nhiệm của "nhiều người chỉ có một tư
tưởng là làm sao để gia tăng của cải cho mình" (Quadragesimo
Anno, AAS 23 (1931), trg 177-228). Kẻ ấy lơ là trước cảnh
huống khốn khổ của tha nhân như thái độ kẻ giàu có trong dụ
ngôn của Chúa Giêsu đối với Lazarô là kẻ nghèo nàn (Lc 16,
19-22).
77*
Công dân phải được giáo dục để ý thức về nhiệm vụ này. Giới
bình dân có thể góp phần gì? Dĩ nhiên sẽ có thể làm ít hay
nhiều tùy khả năng, địa vị và tài sản. Một người có thể làm
ít, nhưng cả nghiệp đoàn (số 68b) sẽ làm được nhiều. Công
Ðồng nhắc lại hai điều thiếu sót làm hại cho cộng đoàn quốc
gia: một là để tài nguyên vô dụng (ví du tích trử tiền bạc ở
nhà; chỉ mua vàng; không đầu tư vào những kế hoạch của cộng
đoàn), hai là không cho cộng đoàn hưởng dụng những phương
tiện vật chất (ví dụ khi đem tiền gởi ra ngoại quốc) và tinh
thần (khi người đi du học không chịu về nước). Công Ðồng
nhắc lại quyền di cư của mọi người (quyền lợi này và bổn
phận phục vụ quốc gia, bên nào khẩn cấp hơn, mạnh mẽ hơn,
thì phải xét theo hoàn cảnh thực tế của từng cá nhân).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CON NGƯỜI
ƠI, THÔI ĐỪNG NGẠO MẠN NỮA ! |
Quý độc giả Ephata và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,
Trong một, hai thập niên trở lại đây, không ai có thể phủ
nhận những thay đổi khả quan về mặt đời sống xã hội. Người
ta ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn, đi xe tốt và nhanh hơn, ở nhà
rộng và cao hơn, sử dụng những phương tiện hiện đại hơn,
hưởng thụ những thú vui giải trí phong phú hơn... Thế nhưng,
những tấm huy chương sáng chói ánh vàng hoặc bạc ấy đang tìm
cách giấu giếm che đậy cái mặt trái xám xịt, hợm hĩnh và đau
xót !
Đọc báo hằng ngày chúng ta có thể chỉ bàng hoàng với những
tin tức, sự cố, thiên tai địa họa, hết chỗ này này đến nơi
kia, liên tiếp. dồn dập, nhiều quá đến mức ta không kịp tổng
hợp và nghiệm sinh cho thấu đáo. Lắm lúc lại cứ tưởng tại
ông trời, tại thiên nhiên, tại con tạo đành hanh “bắt phong
trần phải phong trần”.
Thế nhưng, may quá, thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp một giọng
điệu, một kiểu viết và nói khác hẳn. Viết thẳng và nói bạo,
không tránh né hãi sợ thị phi. Viết cũng không phải chỉ để
viết cho bõ ghét, cho hả cơn giận, nhưng là có chủ ý xoáy
đến căn bệnh trầm kha hơn ẩn giấu phía sau, đó là sự phá sản
về lương tâm phát xuất từ thái độ ngạo mạn đối với Ông Trời.
Điều này thì rõ ràng các loại báo kia ngoài xã hội chắc là
cũng thấy hết, hiểu hết chứ, nhưng không được phép, hoặc chí
ít, chưa dám nói thật đấy thôi...
Xin chép toàn bộ bài viết của Ngọc Danh, Nhóm DOJ, để chia
sẻ cùng mọi người gần xa thay cho Lời Ngỏ kỳ này.
1.
Cuối tuần này, Liên Hiệp Quốc họp tìm cách giải quyết vấn đề
dân số già của thế giới. Thế giới bây giờ... già quá, thiếu
vắng tiếng cười trẻ con, thiếu lực lượng lao động…
Các ông Âu, Mỹ, Nhật, Hàn cậy vào
thuốc ngừa thai, “phát minh giải phóng phụ nữ”, và nhiều
biện pháp khác để nghỉ đẻ, để có nhiều thời gian hưởng thụ
hơn. Hưởng thụ chưa được bao lâu, đã thấy cảnh khổ. Lớp trẻ
không có đủ để tạo ra của cải vật chất, trong khi lớp già
hưởng tiền hưu và các loại bảo hiểm an sinh ngày càng nhiều.
Bây giờ cánh già đáng lẽ được về an hưởng tuổi già, vui vầy
với con cháu, lại phải è cổ ra đi làm kiếm cơm.
Ông Trung Quốc tin rằng bằng mệnh lệnh
hành chánh, bằng chính sách vô thần, ông có thể giải quyết
mọi sự. Do đó, bằng mọi giá ông ép con người ta kế hoạch. Lỡ
mang bầu đứa thứ hai thì phải chọn lựa một là mất việc, mất
thưởng, kỷ luật hai là giết đứa bé đi. Ông tưởng làm như vậy
ông sẽ giải quyết được chuyện dân số đông của ông. Ai dè,
chỉ vài thập kỷ sau, các con trai của ông phải đi khắp nơi
kiếm vợ, vì xứ ông không còn con gái, mà chỉ còn các bà các
thím già mà thôi. Và ông vẫn đứng đầu thế giới về dân số.
Ông Ấn Độ cũng tương tự.
Lạ thay, từ thuở Thiên Chúa tạo dựng
muôn loài cho đến nay, con người ta cứ đẻ như gà, vì không
biết ngừa thai, không biết chọn lựa giới tính. Ấy vậy mà dân
số thế giới cân bằng một cách kỳ lạ. Lớp già chết đi có lớp
trẻ kế thừa. Trai, gái, nam, nữ cân bằng.
Cũng không thấy dân tộc nào vì đông con mà chết đói. Nếu vì
đông dân mà chết đói, Trung Quốc và Ấn Độ có lẽ đã bị xoá sổ
trên bản đồ thế giới từ lâu. Mất cân bằng dân số và những bi
hài kịch của nó chỉ xảy ra từ khi con người ta tiến bộ, giàu
sang, loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài, con người giành quyền
kiểm soát dân số, sinh đẻ.
2.
Căn bệnh HIV/AIDS hoành
hành, chưa có thuốc chữa. Loay hoay mấy chục năm trời, cuối
cùng con người tìm ra biện pháp hữu hiệu nhất để phòng ngừa
bệnh này là “chung thủy”, “một chồng một vợ, khỏi sợ SIDA”.
Biện pháp này đâu có mới mẻ gì. Từ khi tạo dựng con người,
Thiên Chúa đã muốn con người như thế. “Sự gì Thiên Chúa đã
kết hợp, loài người không được phân ly” ( Mc 10, 5 – 9 ).
Nhưng từ khi tiến bộ, giàu sang, con người ta “rửng mỡ, đã
loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình để tự do hưởng
thụ truỵ lạc.
Đàn ông tự cho mình quyền làm chủ, làm
chúa để năm thê bảy thiếp. Đàn bà vùng lên để được như đàn
ông. Không ai chịu ai “ông ăn chả, bà ăn nem”. Tình dục, món
quà tặng của Thiên Chúa dành cho vợ chồng, để vợ chồng nên
một, để vợ chồng thể hiện tình yêu bỗng chốc bị biến thành
trò vui xác thịt. Ai cũng đòi có quyền được vui. Ai phản đối
bị cho là lạc hậu, bảo thủ, ai ủng hộ được khen là “thoáng”,
“hiện đại”…
Kết quả, các loại bệnh tha hồ có dịp
tung hoành. Tiêm la, giang mai, lậu, hột xoài… rồi đến
HIV/AIDS. Con người vẫn không chịu nhận ra lỗi của mình, và
tự bào chữa và sửa chữa. Thôi thì bao cao su các loại ra
đời. Kết quả HIV/AIDS vẫn tràn lan…
3.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ
thiên nhiên có cái hiền hoà, có cái hung dữ, có cái nhẹ
nhàng, có cái ào ạt…Nhưng tổng thể thiên nhiên hoà hợp một
cách tuyệt vời. Từ khi con người được mở mang trí tuệ, con
người giành quyền làm chủ, và đuổi Thiên Chúa ra khỏi nơi
Ngài đã tạo dựng.
Con người kiêu căng, ngạo mạn: “Thằng
Trời đứng qua một bên. Để cho thuỷ lợi đứng lên làm Trời”.
Khi con người làm trời, con người đắp đập, ngăn sông, dời
núi, lấp biển… theo ý con người. Thoạt đầu, dòng sông, dòng
thác, con suối, ngọn núi, đại dương ngoan ngoãn nghe lời con
người như đã từng nghe lời Trời trước đây. Con người càng
khoái trá, đấy thấy chưa: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng
không bền…” Chí lý quá !
Nhưng tiếng cười chưa kịp tắt, lũ lụt
đã quét sạch thành quả của con người. Sinh vật trong lòng
nước dần dần biến mất. Đất chuồi vùi lấp con người. Hạn hán
khắp nơi đốt cháy cổ họng khát khô của con người… Khi con
người làm trời, con người đã phá mọi sự cân bằng của thiên
nhiên.
Bây giờ nhận ra, con người lại í ới
nhau bảo vệ môi trường. Thực chất bảo vệ môi trường là trả
lại cho nó sự cân bằng vốn dĩ nó đã có từ khi Thiên Chúa tạo
dưng nên.
4.
Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự hài hoà trong trật tự, lớp
lang của nó một cách tuyệt vời. Và bất cứ thứ gì, con người
đòi đuổi Chúa ra, để làm một mình đều bung bét, hư hại. Đến
khi đó, con người luống cuống tìm cách sửa. Loay hoay tìm
kiếm một hồi, con người lại quay về cái ban đầu Thiên Chúa
đã tạo dựng.
Con người ơi, thôi đừng ngạo mạn nữa.
Xin lỗi Chúa đi !
EPHATA, Chúa Nhật 11.11.2007
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BÀI
GIẢNG TANG LỄ CHA TRẦN HỮU THANH, DCCT |
Kính thưa cộng đoàn Phụng Vụ,
Chúng ta
cùng tiễn đưa một cây Đại Thụ của Dòng Cứu Thế Việt Nam và
cũng là của hàng Giáo Sĩ Việt Nam. Với 92 tuổi đời và 65 năm
Linh mục, cha cố Giu-se quả thật đã cộng tác viết lên những
trang sử đẹp của Giáo Hội và Quê hương Việt Nam. Trang sử
của mồ hôi, nước mắt và cả máu nữa ! Quãng đường mà Ngài đã
đi trong hành trình làm người và làm con Chúa thật dài và
thật đẹp. Hôm nay Ngài đã kết thúc hành trình ấy. Chúng ta
tiễn đưa Ngài với sự ngưỡng mộ và yêu mến, đồng thời chúng
ta hiệp lời cầu nguyện xin Chúa đón nhận cha cố Giu-se vào
hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Phụng vụ của Hội Thánh không cho
phép chúng ta ca ngợi một con người chỉ vì một con người.
Tuy nhiên, hôm nay, trong giờ phút linh thiêng và cảm động
này, chúng ta cùng chiêm ngưỡng những nét đẹp cuộc đời của
ngài để qua đó, chúng ta biết tạ ơn Chúa vì những ơn huệ
người đã ban cho chúng ta qua cha cố Giu-se.
1.
Trước hết, chúng ta thấy nơi cuộc đời của cha cố Giu-se
một chứng nhân của Chân Lý. Sinh ra trong một gia đình
là hậu duệ của những chứng nhân Tin Mừng, vì có ông nội và
nhiều ngươi thân của ngài đã tử vì đạo năm 1885, cha cố
Giu-se đã sống như một chứng nhân của Chân Lý. Nếu chế độ
chính trị trước năm 1975 tại Miền Nam đã gây khó dễ vì ngài
đứng đầu một ủy ban chống tham nhũng với 301 Linh Mục cùng
ủng hộ, thì xã hội sau 1975 cũng không ưa gì ngài, vì sau
đó, từ năm 1980 đến năm 1984, ngài đã bị quản chế tại Ba Vì,
và rồi tại Trần Nội, thuộc Giáo Phận Hải Phòng cho đến năm
1988.
Vâng, Chân
Lý thì không phụ thuộc vào màu cờ sắc áo, Chân Lý không hệ
lụy vào sức mạnh, không xu thời, nhưng Chân Lý là tiếng nói
của lẽ phải, của lương tâm, phản ánh lề luật của chính Thiên
Chúa. Trong hoàn cảnh thuận lợi cũng như không thuận lợi,
cha cố Giu-se luôn rao giảng Lời Chân Lý của Đức Giê-su,
Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Việc loan
báo Lời Chân Lý đã là lý do dẫn đến những gian truân thử
thách, những lao nhọc vất vả, nhưng cha cố Giu-se đã vui vẻ
đón nhận, vì phẩm giá con người, vì Ơn Cứu Độ và phần rỗi
của anh em. Cha cố Giu-se đã cố gắng suốt đời để noi gương
Thầy Chí Thánh là Đức Giê-su, Đấng đã chấp nhận Thánh Giá để
thi hành Thánh ý của Chúa Cha và vì yêu mến nhân loại.
2.
Chúng ta còn thấy nơi cuộc đời của Cha cố Giu-se hình ảnh
một nhà Truyền Giáo miệt mài. Từ những năm 60, Ngài đã
phụ trách công tác đào tạo các Linh Mục Thừa Sai của Tỉnh
DCCT. Những hoạt động truyền giáo của cha cố Giu-se thật đa
dạng: dạy học, viết sách, gặp gỡ giao lưu với nhiều tầng lớp
xã hội khác nhau. Sau này, ngài không lùi bước trong hoàn
cảnh quản chế. Mặc dù thiếu thốn mọi phương tiện, cha cố Giu-se
vẫn miệt mài loan báo Đức Giê-su và tận tụy phục vụ Giáo Hội
của Người. Sống giữa những người nông dân nghèo của Giáo Hội
miền Bắc, tại Trần Nội, thuộc Giáo Phận Hải Phòng, ngài đã
trở nên người nghèo với họ, cùng họ cấy lúa, trồng rau, phát
triển nông nghiệp.
Với những
cố gắng ấy, ngài đã diễn tả hình ảnh một Đức Giê-su gần gũi
giới bình dân, đồng hành với họ, huấn luyện và giúp đỡ họ
giữa những điều bình dị của cuộc sống. Khi thực thi những
điều ấy, Cha cố Giu-se đã sống lý tưởng của DCCT, là đi đến
với người nghèo tại những nơi xa xôi để loan Tin Mừng cho
họ, như chính Đức Giê-su, Đấng đã được sai đi để “loan báo
Tin Mừng cho người nghèo khó” ( Lc 4, 8 ). Cha cố Giu-se đã
nỗ lực truyền giáo qua những chia sẻ đời thường, đơn giản mà
hiệu quả, bình dị mà sâu xa. Cha cố Giu-se đã ước muốn từ
nơi ngài quản chế, tức là tại Trần Nội, sẽ trở thành một
cộng đoàn của DCCT, và ước mơ của ngài hôm nay đã được thực
hiện.
3.
Và, mỗi ai
được gặp Cha cố Giu-se khi Ngài còn sống đều ghi nhận nơi
Ngài sự lạc quan, phó thác. Từ những câu chuyện vui,
hài ước và tinh tế, Ngài đã muốn đi vào lòng người và truyền
đạt kiến thức cho họ. Lạc quan, vui vẻ và phó thác là lẽ
sống của Ngài trong những năm tháng khó khăn. Ngay cả lúc
ngồi trên xe lăn, ngài vẫn có những mẩu chuyện vui, để lại
nơi người gặp gỡ những kỷ niệm tốt đẹp.
Những câu
chuyện vui phản ánh thực tế cuộc đời, phản ánh nỗi niềm nhân
thế, tặng cho mọi người những nụ cười và sự lạc quan. Một
tác giả đã nói: “Người lạc quan là người thấy ánh sáng trong
đếm tối dày đặc, người bi quan là người cố tắt ánh sáng ấy”
( William Faulkner ). Vâng Cha cố Giu-se của chúng ta đã
phụng sự Chúa và Giáo Hội trong niềm vui, với nụ cười. Ngài
đã cảm nghiệm được ánh sáng trong đêm tối của những thử
thách gian nan. ánh sáng ấy là Đức Giê-su, Đấng đã đến để
soi cho nhân loại đang bước đi trong u tối.
Kính thưa
cộng đoàn,
Chúng ta
vừa ôn lại một vài nét đặc biệt của cuộc đời cha cố Giu-se.
Những nét đặc biệt ấy cũng chính là sứ điệp mà Thiên Chúa
muốn nhắn gửi cho chúng ta qua cuộc đời của một vị Linh Mục
suốt đời đấu tranh cho Chân Lý, suốt đời tận tụy hy sinh để
đem Đức Giê-su cho mọi người, để giúp mọi người phụng sự
Chúa trong niềm vui, Đức Giê-su, trong giờ phút cảm động sau
bữa Tiệc Ly đã thưa với Chúa Cha: “Con muốn rằng Con ở đâu
thì những người Cha đã ban cho Con cũng sẽ ở đó với Con, để
họ chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con” ( Ga 17,
24 ).
Thật là xúc
động và tự hào khi ý thức rằng, mỗi người chúng ta là một
quà tặng Thiên Chúa Cha ban cho Con một mình là Đức Giê-su.
Vâng, mỗi người chúng ta là một món quà của Thiên Chúa. Món
quà này, chính Chúa Giê-su lĩnh nhận từ nơi Chúa Cha. Vì vậy
Người muốn chúng ta cũng ở đó. Cha cố Giu-se là một món
quà quý giá Chúa Cha ban cho Chúa Con để làm
những công việc Chúa Con đã làm. Hôm nay, ngài được lệnh ra
đi về Nhà Cha, về nơi Chúa Giê-su đang hưởng vinh quang bất
diệt. Xin cho ngài được gặp gỡ Đấng mà ngài đã suốt đời yêu
mến và tận tâm phụng sự.
Hôm nay,
cha cố Giu-se đã rời xa chúng ta. Ngài ra đi để đáp lại
tiếng gọi “Hãy theo Thầy” ( Mc 1, 17 ), tiếng gọi mà ngài đã
đáp trả từ khi lĩnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, rồi Bí Tích
Truyền Chức Thánh. Tiếng gọi ấy đã vang lên trong suốt cuộc
đời, đã hòa vào máu thịt của ngài để làm nên nghị lực Tông
Đồ. Xin Chúa cho chúng ta học nơi cha cố Giu-se những nhân
đức tốt lành để chúng ta xứng đáng là môn đệ của Đức Giê-su
trong cuộc sống hôm nay. Amen.
+ VŨ VĂN THIÊN,
Giám Mục Giáo Phận Hải Phòng,
Nhà
Thờ DCCT Thái Hà, Hà Nội thứ sáu 26.10.2007 |
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC: DẤU CHỈ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA CHO CÁC LINH HỒN |
Chúng ta đang ở trong tháng 11, tháng cầu nguyện đặc biệt
cho các linh hồn đã qua đời. Là những linh mục, những mục tử
của Chúa Giêsu, chúng ta luôn ý thức Thiên chức cao cả của
đời linh mục đó là làm sáng danh Chúa và để cứu rỗi các linh
hồn. Có thể nói, số phận của các linh hồn, dù còn tại thế
hay đang trong chốn luyện hình, đều có mối tương quan hết
sức mật thiết với đời sống và sứ mạng của người linh mục.
Hon ai hết, người linh mục được trở nên khí cụ hữu hiệu,
cánh tay nối dài của chính Đức Kitô [1], để chăm sóc và cứu
vớt các linh hồn, dù còn sống hay đã qua đời.
1. Linh Mục Trong Phận Người mong
manh
Có lẽ sứ điệp quan trọng mà các linh hồn gởi đến cho chúng
ta trong tháng 11 này đó là sự mong manh của cuộc sống con
người qua cái chết. Những khúc ca được cất lên trong thánh
lễ cầu hồn gợi nhớ cho chúng ta rằng“ đời sống con người,
chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng”
Đời sống ấy sẽ kết thúc như là một trạm dừng chân trước một
cây cầu định mệnh mà ai ai cũng phải bước qua. Suy nghĩ về
sự phù du của đời người, thi nhân Nguyễn Gia Thiều đã diễn
tả qua những cung điệu ai oán “…Kiếp phù sinh trông thấy mà
đau. Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh
rì.”[1] Đối với những người có đức tin, quan niệm về đời
sống con người không chỉ dừng lại ở sự bi quan, nuối tiếc ở
cuộc sống này, nhưng với tất cả ý thức của niềm hy vọng
hướng đến một kết quả chung cuộc do chính mình đã tự chuẩn
bị lấy cho mình: “ mọi sự biến tan giờ hạ huyệt, chỉ còn
công phúc đã lập xưa.”
Với nhiệm vụ giảng huấn trong Chúa Kitô, các linh mục sẽ
dâng nhiều thánh lễ hơn, sẽ chuẩn bị nhiều bài giảng hùng
hồn, đầy sức thuyết phục hơn, để khuyến khích các tín hữu
sống tinh thần tỉnh thức, hoán cải, tích cực lãnh nhận các
bí tích và tham dự những phụng vụ thánh và làm những việc
lành để cầu nguyện cho các linh hồn.
Chắc hẳn, không ai trong đời, có nhiều cơ hội hơn người linh
mục để suy nghĩ về sự sống và cái chết . Vì không biết bao
lần ngài là người chủ toạvà chứng kiến các linh hồn đến rồi
đi, khi cử các bí tích cho người sống lẫn kẻ chết. Ngài đón
chào những sự sống mới đến trần gian khi ban bí tích thanh
tẩy cho trẻ thơ chào đời, ngài trao Mình Thánh Chúa như của
ăn đàng và ban những bí tích sau hết cho người hấp hối và
ngài tiễn đưa những linh hồn đã hoàn tất cuộc lữ hành trần
thế để trở về nhà Cha.
Với nhiều nỗi lo toan và bận tậm vì các linh hồn như vậy,
một lúc nào đó “trông người mà nghĩ đến ta,” người linh mục
cũng có thể phần nào nghĩ đến chính thân phận của mình.
Đối với những vị linh mục cao niên hoặc trọng tuổi, khi biết
mình dần bước đến “ thất thập cổ lai hy” cũng là lúc ngài
ý thức rằng mình đã gần đến giây phút phải bàn giao sổ sách
lại cho người khác để chuẩn bị lên đường về nhà Cha. Vì “
tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được
tám mươi.”[1] Nhưng nếu như người linh mục còn trẻ, đang
tràn trề sức sống ở tuổi xuân phơi phới với đầy những hoài
bão và ước mơ, thì có lẽ là không mấy dễ dàng để ngài có thể
cảm nhận hay chấp nhận về giờ ra đi và hậu vận chung cuộc
đời mình ngay vào lúc này.
“Chị chết”[1] hình như không có luật trừ cho bất cứ ai hay ở
bất cứ độ tuổi nào. “Sinh -bệnh - lão -tử” vốn là sự
thường. Tuy nhiên, đôi lúc ta vẫn thấy xảy ra cảnh “ đầu
bạc tiễn đầu xanh.”
Dù suy nghĩ nhiều hay ít đến sự chết, có chuẩn bị tốt hay
chưa sẵn sàng để trình diện Chúa, thì cũng như tất cả mọi
người, đời linh mục cũng vẫn phải từng bước đi vào quy luật
tất yếu trong thận phận cát bụi của mình, để trải qua một
hành trình biến đổi, ví như hình ảnh của chú cá chép vàng
đang cố gắng hết sức mình, vượt qua chín tầng Vũ Môn để biến
thành rồng !
Lẽ tự nhiên, là người, ai cũng muốn mình được trường sinh
bất tử, cải lão hoàn đồng, nhưng lời kinh nguyện hằng ngày
vẫn như tiếng Chúa thì thầm bên tai lên nhắc nhở người linh
mục thức tỉnh về thận phận bụi đất của mình. “Người quá
biết ta được nhồi nắn bằng gì. Hẳn Người nhớ ta chỉ là cát
bụi. Kiếp phù sinh tháng ngày vắn vỏi. Tươi thắm như cỏ nội
hoa đồng. Một cơn gió thoảng là xong. Chốn xưa mình ở cũng
không biết mình.”[1]
2. Linh Mục: hạt bụi Thần Thánh
Trong ngày được lãnh nhận thánh chức, ta thường được nghe
các tân linh mục cùng với cả cộng đoàn dân Chúa say sưa cất
lên bài ca tạ ơn “Từ ngàn xưa Cha đã yêu con, Cha gọi con
giữa muôn người”. Và lời ca tạ ơn ấy dẫn người linh mục từng
bước đi vào chiều kích sâu thẳm nhất khi ý thức mình chỉ là
hạt bụi “ từ bụi tro, Chúa nâng con lên hàng khanh tướng
”[1]
Thánh Grê-gô-ri-ô thành Na-di-a-nô khi còn là một linh mục
trẻ, ngây ngất trước ơn thánh cao cả, ngài đã phải thốt lên
:“...Tôi biết chúng ta là thừa tác viên của ai, chúng ta ở
địa vị nào, chúng ta hướng về ai. Tôi biết Thiên Chúa cao cả
và con người yếu đuối, và biết cả sức lực của con người. Vậy
linh mục là ai ? Là người bảo vệ chân lý, được đứng chung
với các thiên thần, cùng ca hát với tổng lãnh thiên thần,
mang lễ vật lên bàn thờ thiên quốc, chia sẻ chức tư tế với
Đức Ki-tô, canh tân vạn vật, phục hồi hình ảnh Thiên Chúa
trong vũ trụ, tái tạo thế giới cho trời mới đất mới; nói cho
cùng, ngài được thần hoá và thần hoá kẻ khác.”[1]
Vâng ! Người linh mục ý thức tuy mình vẫn là hạt bụi nhưng
hạt bụi ?y tuy mang thân phận phải chết, nhưng nay đã được
lên ngôi thần thánh trong tình yêu hết sức kì diệu của Thiên
Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Chính vì thế, người linh mục không
những chẳng còn phải sợ thận phận bụi đất hèn yếu đè bẹp
trong cái chết nhưng đã được thần hoá. Không những họ được
chia sẻ tước vị làm con Thiên Chúa trong sự sống mới mà còn
được chia sẻ trọn vẹn cuộc sống và sứ mạng của Thầy Giêsu,
không còn bị coi làphận tôi tớ mà lại được trở thành banï
hữu thân thiết của Con Thiên Chúa làm người. “Thầy không
còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ
làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì
Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết.”
* Theo nhịp sống của Đức Kitô:
Đức Kitô là Đấng Hằng Sống, Người đã chiến thắng sự chết và
nắm giữ chìa khoá của cả tử thần và âm phu.û [1] Người không
phải là Chúa của kẻ chết mà là Chúa của kẻ sống.[1] Thế nên,
dù con người đang sống nơi thân xác hay đã ngủ yên trong
lòng đất thì vẫn sống động trước mắt Thiên Chúa. Vì lẽ vì
mỗi sinh linh ấy vẫn luôn mang lấy sự sống bất diệt của
Người.
Vì lòng thương xót mà Thiên Chúa đã kêu gọi con người cách
nhưng không để cộng tác vào chương trình cứu độ của người,
người linh mục tin tưởng hân hoan bước theo Đức Kitô Phục
Sinh, Thầy Chí Thánh của mình, mở rộng vòng tay yêu thương
của Đức Kitô đến anh chị em mình. Bước đi theo dấu chân vị
Mục Tử Nhân Lành, người linh mục học biết hy sinh vì đoàn
chiên, tiếp nối sứ mạng của Đấng đã đến thế gian là d? làm
cho các linh hồn “được sống và sống dồi dào”[1].
Khi cử hành các bí tích cũng là lúc mà người linh mục được
soi mình vào cuộc đời của Đức Kitô để hoạ lại đời sống của
Người để “cử hành bí tích cuộc đời mình.” Người linh mục
hiểu rõ hơn ai hết, cuộc đời mình cũng đang cưu mang chính
mầu nhiệm sự sống của Đức kitô được ẩn tàng ngay trong mầu
nhiệm sự chết. Người linh mụcï sống trong Đức Kitô và cử
hành các mầu nhiệm ấy mỗi ngày trong đời sống của mìnhï,
trong việc liên tục chết đi cho tội lỗi, cho những mối bận
tâm của trần thế, để có thể trở nên dấu chỉ của tình yêu
Chúa cho anh chị em mình.
3. Linh Mục: Dấu Chỉ Của Tình yêu
vàø Lòng Thương Xót Chúa
“Thương xót chính là yếu tính của việc nhập thể cứu chuộc và
thiên chức linh mục của Chúa Kitô. Tự bản chất, thiên chức
linh mục của Chúa Kitô là một công trình của lòng thương
xót, dựa trên giao ước Thiên Chúa đã thực hiện với nhân
loại.”[1]
Quả thực, khi người linh mục cử hành các Bí Tích, ngài như
luôn được sống cùng lúc hai vai trò trong cùng một thực tại
mầu nhiệm, ý thức mình vừa là dụng cụ, là thừa tác viên của
Đức Kitô, Đấng đầy quyền năng và tình yêu thương tha thứ,
người linh mục nhận biết rằng mình chỉ là một thọ tạo mỏng
dòn và yếu đuối đang đươc thừa hưởng hồng ân cứu độ.[1] Vì
thế, người linh mục không chỉ là thừa tác viên của lòng
thương xót Chúa mà còn là nhân chứng, là dấu chỉ sống động
của một tội nhân luôn được Chúa yêu thương. Có thể nói,
trước khi linh mục cử hành các Bí tích thì chính ngàiï đã là
kẻ đầu tiên đón nhận được ân sủng của lòng thương xót ấy.
Thánh Phaolô quả đã hết sức thấm thía về điều này khi ngài
nói “ Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: đó
là Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội
lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì
Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người
nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ
tin vào Người, để được sống muôn đời.”[1]
Trong lời kinh, khi cầu xin Chúa thương đến các linh hồn,
thì người linh mục cũng ý thức rằng mình cũng nằm trong số
những “ linh hồn cần nhờ đến lòng Chúa thương xót hơn”
Vì lẽ đó mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong Tông Huấn
Pastores Dabo Vobis, đã nhắc nhở các linh mục một cách đặc
biệt khi cử hành bí tích hoà giải “linh mục là thừa tác
viên bí tích Thống Hối nhưng đồng thời cũng phải là những
thụ nhân, từ đó họ trở nên những người làm chứng cho lòng
từ bi nhân ái của Thiên Chúa cho các tội nhân… Cũng như đời
sống của anh chị em giáo dân và tu sĩ, đời sống thiêng liêng
và mục vụ của người linh mục chỉ có thể giữ được phẩm chất
và lòng nhiệt thành nếu như cá nhân linh mục biết thực hành
bí tích thống hối một cách chuyên cần và nghiêm chỉnh.”[1]
* Loan Truyền Lòng Thương xót Chúa
Trong vai trò lãnh đạo cộng đoàn dân Chúa, tháng các linh
hồn là thời gian thuận tiện để người linh mục giúp các tín
hữu biết sống niềm xác tín của mình cách sâu xa hơn nữa khi
tuyên xưng đức tin vào sự sống lại, vào tín điều các thánh
cùng thông công, để tích cực đón nhận ân sủng của lòng
thương xót Chúa để chuyển cầu cho cho các linh hồn. Nhờ ơn
cứu độ của Đức Kitô mà mỗi thành phần trong Hội Thánh được
liên đới và chiasẻ những lợi ích thiêng liêng trong mối giây
hiệp thông giữa các thánh trong hội thánh khải hoàn, lữ hành
và thanh luyện.
Khi nhớ đến các linh hồn, giúp cho người linh mục, suy nghĩ
và ý thức hơn nữa về giây phút quyết định dứt khoát của sự
sống con người trên dương gian này, để chính ngài cũng biết
giúp cho các tín hữu biết tận dụng từng phút giây trong hiện
tại để có thể đón nhận được ân sủng của lòng thương xót
Chúa.
Chính Linh mục là người hiểu hơn ai hết, mỗi giây phút nơi
trần thế là thời giờ quý giá nhất của của ân sủng cứu độ.
Nói cách khác, mỗi giây phút của của cuộc đời này là “ giá
máu cứu chuộc của Đức Kitô” không ngừng tuôn trào để yêu
thương và cứu vớt con người. Vì thế, khi dâng những lời
kinh nguyện và thánh lễ cầu cho các linh hồn trong chốn
luyện hình thì cùng lúc người linh mục và cả cộng đoàn dân
Chúa cũng hướng đến vô số những linh hồn ở trần gian, đang
lạc xa Chúa, lạc nẻo đức tin, những linh hồn ơ thờ nguội
lạnh và chai đá đặc biệt là các tội nhân khốn khổ..
Cuộc sống của các linh hồn nơi chốn luyện hình như là một
câu trả lời cho mỗi người chúng ta. Một khi bước qua ngưỡng
cửa trút bỏ sự sống của thân xác mang sinh khí để mặc lấy sự
sống mới của Thần khí[1], là chúng ta đi vào một sự phân
định rạch ròi cuộc sống của mỗi cá nhân. Ngày giờ của con
người trần thế kết thúc dứt khoát một lần cho tất cả. Cơ
hội để đón nhận ân sủng cứu độ nơi lòng thương xót của Thiên
Chúa Nhân lành ở trần gian đã chấm dứt, và con người phải
đối diện với Thiên Chúa trong giờ phán xét riêng, với vị
thẩm phán chí công, trong giờ của sự công thẳng của Thiên
Chúa.
Thánh Phaolô đã luôn nhắc nhở các tín hữu rằng “ anh chị em
hãy biết run sợ để lo cho mình được ơn cứu độ. Vì chính
Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em
do lòng yêu thương của Người.”[1]
Là những người quản lý và phân phát các ân huệ của Thiên
Chúa, sứ vụ của các các linh mục có thể ví như những người
cứu hộ giữa biển trần gian với những phương tiện hiện đại do
chính Chúa Giêsu trang bị để cứu vớt các linh hồn đang bị
đe doạ hay đang bị tội lỗi nhấn chìm giữa những bão tố của
bóng tối thế tục.
Phận vụ của các linh mục là luôn hiến trọn thân mình, trở
nên những phương tiện hữu hiệu của Chúa, mang lại lợi ích
cho các linh hồn qua các nhiệm tích của ơn cứu độ, như những
chiếc phao cứu sinh thiêng liêng để cứu vớt họ. Hạnh phúc
thay cho các linh hồn nào khi họ gặp được những người cứu hộ
lành nghề và giàu lòng trắc ẩn. Trái lại sẽ là điều bất hạnh
cho những linh hồn nào không được người cứu hộ quan tâm.
Chúa Giêsu cũng đã nói với thánh Faustina “ ôi! có lẽ đã có
nhiều linh hồn thánh thiện hơn nếu như đã có nhiều cha giải
tội kinh nghiệm và thánh thiện hơn” [1]
* Tất cả vì Các linh hồn
Thánh Gioan M. Vianney đã nói “ một linh hồn còn quý trọng
hơn cả và thế gian này.” Và “ Chúa Giêsu thương linh hồn ta
hư đi đời đời nên đã chịu chết mà cứu chuộc chúng ta.”[1]
Mang lấy trái tim của Chúa Giêsu, mỗi linh mục cũng được mời
gọi yêu quý chăm lo cho các linh hồn như vậy.
Khi cử hành ngày lễ kính các thánh mục tử, chúng ta có
dịp suy gẫm về những mẫu gương các vị thánh đã sống cách
tròn đầy thánh chức linh mục khi hiến thân vì lợi ích các
linh hồn “ Đây linh mục những con người thánh hiến. Suốt
cuộc đời làm chủ tế trung kiên. Đem tình thương người Mục tử
nhân hiền. Dâng trọn vẹn cho đoàn chiên chẳng tiếc. “[1]
Có thể nói càng say mến Chúa kitô bao nhiêu thì người linh
mục càng trở nên giống Chúa Kitô trong việc say mê tìm
kiếm các linh hồn về cho Chúa bấy nhiêu. “Nhờ các ngài mà
biết bao nhiêu linh hồn đã được ơn cứu rỗi, đã được giúp đỡ
trong việc hoán cải, trong việc chiến đấu chống lại tội lỗi
và các chước cám dỗ”[1] Trong Giáo hội, đã và đang có rất
nhiều mẫu gương của đời linh mục thánh thiện, nhiệt thành
phục vụ các linh hồn, trong đó phải kể đến cha thánh Gioan
Maria Vianney, bổn mạng của các cha sở.
Cha sở họ Ars ấy nổi tiếng về lòng nhiệt thành say mê chăm
lo cho các linh hồn, đặc biệt trong việc cử hành Bí Tích
Giải Tội. Từ mờ sáng cho đến tối mịt, hàng đoàn người lũ
lượt kéo đến xứ Ars để được nghe giảng, xưng tội và được
tham dự Thánh lễ. Có thể nói, không hối nhân nào đến với
ngài mà phải về tay không[1]..Người ta nói rằng, hình như
linh hồn của các tội nhân đã choán hết tâm tư tình cảm cùng
với mọi hy sinh hãm mình của Cha Thánh.
Còn thánh Philíppe Nêri lại có trái tim đầy tràn tình yêu
khi nói đến các linh hồn. Ngài nói “ Nếu như tôi đã bước một
chân vào cửa Thiên Đàng mà có kẻ xin xưng tội thì tôi sẽ
hoãn phúc Thiên Đàng lại để giải tội cho hối nhân trước
đã.”[1]
Thánh Donbosco cũng đã thốt lên rằng “xin cho tôi các linh
hồn. Bao nhiêu thứ khác mất còn kể chi ”
KẾT
LUẬN
Chính vì bước theo mẫu gương của Đức Kitô mà người linh mục
sẵn sàng hiến thân để trở nên dấu chỉ ơn cứu độ, của tình
yêu và lòng thương xót Chúa cho các linh hồn. Vì thế mà đời
linh mục cũng chấp nhận phải trả giá vì tình yêu như đức
Kitô. Đó là đón lấy thập giá đời mình trong sứ mạng yêu
thương phục vụ để cứu vớt những người tội lỗi theo gương
Thầy Chí Thánh.[1]
Thánh nữ Faustina, qua thị kiến, đã được Chúa cho nhìn thấy:
Trong số các linh hồn chịu đóng đinh, đông đảo nhất là các
vị trong hàng giáo sĩ [1]
Trong cuốn “Thiên Chức Linh Mục” của Đức Giám Mục Quillard,
có đoạn “ Người đời hăng say kiếm tiền thế nào, thì các linh
mục cũng hăng say, cũng chỉ sống để thu phục các linh hồn
như vậy, người cứu nạn hãnh diện gắn trên ngực mình, huy
chương cứu nạn ; nhưng niềm vui của người cứu các linh hồn
còn cao trọng hơn biết bao, vinh hiển của ngài còn đáng được
thèm khát biết bao.”[1]
Mong ước, qua vài mảnh vụn suy tư trong tháng các linh hồn
này, có thể gợi lên trong chúng ta một chút cảm nghiệm về
cuộc đời qua chính thân phận hữu hạn của con người chúng
ta ở trần gian.
Và qua thân phận ấy mà chúng ta được mời gọi trở nên những
nhân chứng của Chúa Giêsu[1], để giới thiệu cho thế giới hôm
nay, “một thế giới đang sống trong sự trống rỗng nội tâm
thảm hại là sự vắng bóng Thiên Chúa”, về niềm hy vọng một
thực tại hạnh phúc vĩnh cửu trong nước Cha, nguồn hạnh phúc
viên mãn mà mọi người luôn khao khát tìm kiếm.
Cuộc tìm kiếm ấy đang diễn ra trong lúc này, ngay khi chúng
ta đang sống giữa biển trần gian. Cuộc tìm kiếm hạnh phúc
đích thực trong Thiên Chúa chỉ có thể đạt đích khi chúng ta
biết đón nhận và tỏ bày tình yêu và lòng thương xót của
Thiên Chúa cho anh chị em chúng ta trong ơn gọi đặc biệt của
mình.
Và rồi, lời kinh của thánh nữ Faustina cũng có thể là lời
dâng thiết tha của mỗi người linh mục, vọng lại nhịp đập
trái tim tình yêu của Chúa Giêsu cho anh chị em mình, trong
từng khoảnh khắc của cuộc đời hiến tế: “ Lạy Cha hằng có
đời đời. Con Xin dâng lên Cha, Mình, Máu, Linh hồn cùng
Thiên Tính của Con rất yêu dấu Cha là Đức Giêsu Kitô, để đền
tội chúng con và tội mọi người”
VẤN TÂM
1. Đức Giám Mục Bùi Tuần[1], trong bài suy niệm tháng các
linh hồn, đã gợi lên ý tưởng về cái chết rằng: Chết là một
phần hết sức quan trọng của cuộc sống. Chết kèm theo một sự
kết thúc một dòng đời và để lại một dấu ấn cho sự chọn lựa
của chúng ta: dấu ấn xinh đẹp của những chọn lựa tốt lành
đưa đến phần thưởng. Và dấu ấn kinh khủng của những chọn lựa
xấu xa, tội lỗi để tự lãnh lấy hậu quả của hình phạt. Người
linh mục cảm nghiệm thế nào về sự chết của đời mình ? Ngài
đã ý thức chuẩn bị cho cái chết của mình và giúp cho người
tín hữu biết chọn lựa để biết sống và biết chết ra sao?
2. Đức Maria đã nói với thánh nữ Faustina rằng : “Con hãy
nói với các linh hồn về lòng nhân lành của Thiên Chúa trong
khi vẫn còn thời gian ban phát lòng thương xót. Nếu lúc này
con im tiếng, con sẽ phải trả lẽ với vô số linh hồn trong
ngày kinh hoàng ấy…”[1]. Lời Mẹ Maria nhắc nhở Thánh
Faustina cũng có thể phù hợp với đời sống và sứ vụ của các
linh mục trong việc cứu rỗi các linh hồn. Vậy người linh mục
đã ý thức về trách nhiệm và có những nỗ lực nào trong việc
thi hành sứ vụ cao cả này ?
3. Lời của Chúa Giêsu nói với các Linh mục qua chị thánh
Faustina “Con hãy nói với các linh mục của Cha rằng các tội
nhân cứng lòng cũng sẽ hối cải khi nghe rao giảng về lòng
thương xót của Cha… Linh mục nào rao giảng về lòng thương
xót của Cha sẽ được ân thưởng một thần lực kỳ diệu; cha sẽ
xức dầu những lời của các ngài và đánh động tâm hồn những ai
nghe lời các ngài rao giảng”[1]
Qua việc cử hành các nhiệm tích, đặc biệt trong bí tích giải
tội và việc cử hành thánh lễ, người linh mục có nhiều cơ
hội tiếp cận với các tín hữu. Vậy, lời kêu mời gọi của Chúa
Giêsu có thực sự trở nên cần thiết và quan trọng trong việc
thi hành sứ vụ linh mục không ? Chúng ta đã cảm nghiệm về
lòng thương xót Chúa trong đời mình như thế nào và rao giảng
cho tín hữu về lòng thương xót ấy ra sao ?
HƯỚNG
VỀ VĨNH CỬU
Một lúc nào đó, cũng
như mọi người, người linh mục cũng bước vào hồi cuối cùng
của cuộc đời dương thế sau khi có thể nói như Thánh Phaolô “
Tôi đã thi đấu trong cuộc đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng
đường và đã giữ vững niềm tin.”[1] Mỗi người mục tử của Chúa
Giêsu chắc hẳn đều mong ước khi kết thúc hành cuộc lữ hành
trần gian cũng có thể được lãnh lấy triều thiên vinh hiển.
Mỗi ngày, người linh mục đều ý thức dâng cuộc đời mình lên
Chúa với lời kinh xin ơn thánh hoá “ …Khi xác chúng con đến
ngày tàn tạ, được Chúa làm phần thưởng đời đời trong nguồn
vinh sáng các thánh…”[1]
Hướng về vĩnh cửu là
hướng đến niềm hy vọng sống động về thực tại hạnh phúc viên
mãn trong Đức Kitô. Niềm hy vọng ấy đã được diễn tả cách
tuyệt vời nơi cuộc đời của Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn
Thuận, vị mục tử trung thành của Đức Kitô, người đã trở nên
mẫu gương sáng ngời, trước tiên cho anh em linh mục giữa
lòng Giáo Hội trong Thiên Niên Kỷ mới này. Cuộc đời của
ngài đã trở nên chứng tá sống động của niềm tin và hy vọng,
của tình yêu và lòng bao dung ngời sáng giữa muôn vàn thử
thách.
Nơi ngài luôn toả sáng
một đời sống tế hiến cho Chúa Kitô Linh mục Thượng Phẩm đời
đời. Giữa những cơn khốn cùng mong manh của phận người
trong cảnh tù đày, trong bóng tối sự chết đang đe doạ với
khổ đau cả về thể xác lẫn tâm hồn. Cuộc sống của Đức Hồng
y Phanxicô mỗi ngày vẫn hân hoan cất lên bài ca sự sống nơi
Đức Kitô. Sức sống Phục Sinh ấy vẫn bừng lên ngay trong đêm
đen. Ngài nói “ Tôi không chờ đợi. Tôi sống phút hiện tại
và làm cho nó đầy yêu thương”[1] Đức Hồng y như đã thấy mình
được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Linh mục
cách trọn vẹn hơn giữa anh em “ hằng ngày, cùng với Chúa
Giêsu, con dâng hiến mình con, sẵn sàng từng giây phút để
“bị nộp” vì anh em con, để đổ máu ra cho nhiều người được
tha tội”[1]
Có lẽ hình ảnh đẹp nhất,
chứa đựng ý nghĩa sâu xa nhất mà Đức Hồng y để lại cho Giáo
hội, cách riêng cho anh em linh mục, là khi đôi tay và cả
thân xác của ngài trở thành bàn thờ, thành của lễ sống động
đời mình dâng lên Thiên Chúa ngay trong nhà tù. Như Đức
Kitô, ngài vừa là tư tế và là lễ vật hy sinh cho Chúa. Đôi
tay ngài trở thành chén thánh đón lấy những giọt máu và
nước hồng ân của sự sống vĩnh cửu và đón lấy chính Thân Mình
Chúa Kitô.
Cuộc đời của người linh
mục như thế có thể diễn tả rất đúng với tâm tình của thánh
Phaolô “ tôi sống, không còn phải là tôi sống mà là Đức Kitô
sống trong tôi. Hiện nay, tôi sống trong xác phàm, là sống
trong niềm tin vào con Thiên Chúa. Đấng đã yêu mến tôi và
hiến mạng mình vì tôi.”[1]
Đức Hồng y Phanxiô đã đi
bước trước chúng ta. Ngài đã thực sự hoàn tất cuộc lữ hành
trên đường hy vọng và xứng đáng để lãnh nhận lấy phần phúc
mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho ngài.
Xin mượn lời cầu của
linh mục Gioan,J.Pasquini [1] trong Kinh sáng mỗi ngày, để
trở nên như một hành động luôn quy hướng tất cả cuộc đời và
sứ mạng của đời người linh mục về thực tại vĩnh cửu:
Lạy Chúa , xin cho Máu
Châu báu của Chúa, thanh tẩy, khai sáng và thánh hoá con để
con có thể thanh tẩy, khai sáng và thánh hoá người khác
trong Thánh Danh quyền năng Chúa. Xin giúp con trở nên đôi
tay, đôi chân , đôi mắt, tiếng nói, tâm hồn và lòng thương
xót của Chúa trong một thế giới đang đói khát Chúa.
Xin cho con được trở nên
một người mục tử tốt lành, một người cha thiêng liêng, một
người cha cầu nguyện với lòng nhiệt thành thánh thiện, lòng
nhiệt thành đã được diễn tả trong ngày con chịu chức, một
lòng nhiệt thành đã và đang làm cho con ao ước được hiền
lành và khiêm nhường trong lòng. Xin ban cho con ân sủng của
một tình yêu sâu xa, một lòng tin khiêm hạ, một niềm trông
cậy vững vàng, và một tình yêu bừng cháy để làm cho con hy
sinh cuộc sống mình, cách tự do, tự nguyện, vì đoàn chiên,
vì những người con thiêng liêng của con.
Ôi lạy Chúa Giêsu Kitô,
xin làm cho con trở nên người thừa tác viên xứng đáng của
các mầu Nhiệm thánh Chúa. Xin giúp thánh hiến tâm hồn con
cho Trái Tim Cực Thánh Chúa và Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ. Lạy Mẹ
Diễm Phúc của các Linh Mục, xin Mẹ hãy nhìn đến con như Mẹ
nhìn đến Con Mẹ. Xin Mẹ giúp con trở nên một Kitô khác trong
thế giới đang đói khát Chúa Kitô. Và đến giờ chết xin Mẹ hãy
ẵm lấy con và đưa con về nhà Con Mẹ. Amen
(Bài Suy Niệm Tĩnh
Tâm Linh Mục Giáo Phận Phú Cường)
Linh Mục Giuse Nguyễn Thanh Ngư,
DòngThừa Sai Đức Tin,
Gp. Phú Cường
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THUYẾT
PHỤC CỘNG TÁC |
Người ta thường nói: “Nhân chi sơ tính
bản thiện”, bản tính con người mới sinh đều tốt, và rồi xã
hội đã làm hư hỏng nó đi. Nhưng, thực tế cho chúng ta thấy
rằng nhiều đứa trẻ ngay từ nhỏ đã sinh phá phách, nghịch
ngợm, bướng bỉnh, khiến bố mẹ phải sinh bực bội, khó chịu.
Và đây là một trong những bằng chứng chúng ta nhìn thấy mỗi
ngày.
Trong khi bà mẹ thay tã, bé Uyên Mi 8
tháng tuổi, dãy dụa, lăn lộn, chống cự đến nỗi bà mẹ không
thể thay tã cho nó được. Bà mẹ chán nản, thở dài, giận dữ
đến nỗi bà đã phát cho nó một phát. Cô bé khóc to và khóc
một cách tức tưởi.
Lạ lùng là đứa bé mới 8 tháng, dựa trên
nhận thức và hoạt động không lời của nó, đã khám phá ra cách
thế làm bà mẹ chán nản. Thường chúng ta không nghĩ: một đứa
bé nhỏ như vậy có sự thông minh. Chúng ta có khuynh hướng
coi thường chúng, đối xử với chúng như là những đứa khờ
khạo, không biết gì. Nhưng bất cứ một người mẹ nào biết quan
sát, sẽ thấy những đứa bé dầu rất nhỏ cũng là những đứa
thông minh.
Vấn đề của bà mẹ bây giờ là: trước
nhất, phải biết huấn luyện cô bé cộng tác vào việc thay tã.
Bà mẹ sẽ đạt được sự cộng tác của cô bé nếu bà biết nhận ra
mục đích của nó và rồi biết phải làm gì để thoát khỏi sự
chán chường một cách thoải mái. Thứ đến, bà mẹ nên xếp đặt
lại chương trình để thêm thời gian huấn luyện cho cô bé. Mỗi
lần cô bé hành động trong cách thế cản trở công việc thay đồ
hay thay tã, bà mẹ nên im lặng và với nụ cười thân tình ôm
bé vào lòng và nói với nó: “Uyên Mi, con ngoan nhé! Con cần
phải học những chuyện nầy. Con giỏi và dễ thương lắm!” Không
thành vấn đề là nó không hiểu được lời mình nói, nhưng nó sẽ
hiểu được ý mình muốn nói. Nó cảm được điều mình muốn nhắn
nhủ và sẽ đáp lại. Nó cũng sẽ nhăn mày nhíu mặt để diễn tả
sự chán chường. Nhưng nếu bà mẹ không thấy khó chịu mà chỉ
có tình yêu, nó sẽ hiểu được điều đó. Bà mẹ có thể thả cô bé
ra bao lâu nó không còn kháng cự. Bất cứ khi nào cô bé có
hành động bất thường, bà mẹ có thể ôm giữ cô bé lại. Như
vậy, cô bé sẽ được huấn luyện cho việc cộng tác.
Trong một xã hội dân chủ, chúng ta cảm
thấy cần thiết để tái xác định điều chúng ta muốn bằng danh
từ chúng ta dùng. Cộng tác là một trong những danh từ nầy.
Ngày xưa, khi quyền hành được dành cho những người nắm
quyền, cộng tác có nghĩa là làm như người ta được sai bảo.
Cấp dưới được đòi hỏi phải cộng tác với cấp trên. Chế độ dân
chủ mang lại một ý nghĩa mới cho danh từ nầy. Chúng ta phải
làm việc cùng nhau để thỏa mãn nhu cầu của tình cảnh. Trong
xã hội dân chủ, chúng ta có sự bình quyền và tự do hơn nên
chúng ta cũng phải có trách nhiệm hơn. Không còn sức mạnh
của kẻ trên người dưới, chúng ta cần phải cộng tác với nhau
nhiều hơn. Chúng ta không thể đòi hỏi con trẻ cộng tác với
chúng ta, cũng không thể bảo trẻ con hãy làm như ta bảo.
Chúng ta phải nhận thấy nhu cầu cần phải thuyết phục chúng
cộng tác.
Thêm vào việc bảo chúng lo dọn dẹp
giường chiếu mỗi buổi sáng, bà mẹ cần phải phân chia công
tác cho mỗi đứa. Đứa nầy lau dọn nhà tắm, đứa khác hút bụi
phòng khách, đứa khác nữa lo đổ rác. Bà mẹ mỗi ngày trước
nhất nên nhắc nhở, sau đó mới quở trách, cuối cùng mới la
hét, và thông thường hình phạt là để cho công việc được xui
chạy. Một lời nhắn nhủ nên được dùng với những đứa con là:
“Tốt nhất các con nên cộng tác với nhau, nếu không các con
sẽ gặp nhiều khó khăn”.
Rõ ràng là người mẹ muốn nói: “Hãy làm
điều mà mẹ bảo các con phải làm”. Bà đã quyết định điều mà
mỗi đứa nên làm và cố gắng bảo chúng làm điều đó. Nhưng
thường thì những đứa con bị kích động nổi loạn chống lại
phương thức áp đặt đó và cùng lúc chúng xem ra thành công
trong việc kháng cự cách xử sự đó. Thái độ của bà mẹ khi
giao trách nhiệm cho con cái chứng tỏ quyết định của bà là
“chủ”. Con trẻ đáp trả với thái độ: “ Cứ thử xem đi”. Đây là
một sự tranh quyền, không phải là cộng tác. Bà mẹ đang áp
đặt ý muốn của mình trên con cái thay vì thuyết phục chúng
cộng tác trong cuộc sống chung với nhau. Làm cách nào bà mẹ
có thể thuyết phục được con cái chịu cộng tác thật? Bà có
thể từ từ thảo luận với tất cả mọi người trong gia đình.
Chúng có thể liệt kê các công việc cần phải làm. Bà mẹ nói
điều mà bà muốn và rồi yêu cầu họ hoàn thành những điều còn
lại. Ông bố và các con có thể chọn lấy những công việc mà họ
muốn làm. Trong cách thế đó, bà mẹ tỏ ra kính trọng các con
mình. Bà cho một sự lựa chọn và một quyết định. Nếu có ai
không chịu làm điều đã được chọn, không cần nói gì, cũng
không cần phải làm việc đó. Sau một tuần, bà mẹ có buổi họp
mặt. Bà mẹ sẽ bảo: “Cậu Hai đã chọn công việc dọn dẹp phòng
coi tivi và sắp đặt gọn gàng, nhưng đã không làm. Chúng ta
phải làm gì về vấn đề đó? Danh từ “chúng ta” đặt trách nhiệm
chúng ta vào trong nhóm chúng ta thuộc vào, lấy người mẹ ra
khỏi vai trò có quyền hành và đặt bà vào trong vai trò lãnh
đạo. Mọi đề nghị cần được xem xét cách cẩn thận và cần đạt
tới sự giải quyết chung của cả nhóm. Sự áp lực của nhóm tất
nhiên có hiệu quả trong khi sự áp lực của người lớn chỉ gây
thêm sự nổi loạn. Phương pháp đối phó với những trục trặc,
trở ngại nầy thường lấy hình thức của một hội đồng gia đình
mà chúng ta sẽ trình bày sau. Điểm mà chúng ta muốn trình
bày ở đây đó là: chức năng của gia đình là một nhóm. Một
nhóm như thế thúc giục mỗi cá nhân cộng tác với người khác
vì ích lợi của tất cả mọi người. Sự chú ý của mỗi phần tử
trong nhóm tập trung vào nhu cầu của gia đình như là một
toàn thể. Cộng tác có nghĩa là: mỗi người và mỗi phần tử
trong gia đình cùng hoạt động với nhau để hoàn thành cái tốt
nhất cho tất cả mọi người.
Sự cộng tác trong gia đình 4 người được
so sánh như một chiếc xe 4 bánh và mỗi người là một bánh xe.
Tất cả 4 bánh đều phải cùng nhau lăn để chiếc xe được chạy
cách tốt đẹp. Nếu một bánh bị trục trặc, cả chiếc xe sẽ
không di chuyển được hoặc có khi sẽ bị lật ngược. Mỗi bánh
xe đều quan trọng như nhau và không có bánh nào là hoàn toàn
quan trọng. Hướng đi mà chiếc xe hướng về được quyết định
bỡi cả 4 bánh cùng làm việc chung với nhau. Nếu một bánh
tách rời ra, cả chiếc xe sẽ vô dụng vì không xử dụng được.
Gia đình cũng vậy, nó cũng cần phải có sự cộng tác của tất
cả mỗi phần tử trong gia đình.
Khi chúng ta nói về việc huấn luyện con
trẻ cộng tác, chúng ta thử nghĩ sự cộng tác riêng của chúng
ta trước. Chúng ta không có ý nói rằng người nầy nên nhường
nhịn cho người khác, nhưng là có một cảm giác: mọi người
cùng nhau di chuyển trong một sự hòa hợp hướng về một mục
đích chung. Khi sự hoà hợp của cuộc sống gia đình rối loạn,
chúng ta có thể chắc chắn rằng sự cộng tác sẽ bị ngưng trệ,
hoặc bánh xe nầy hay bánh xe khác bị tắc nghẽn. Chúng ta
cũng có thể như vậy.
Mỗi một người trong gia đình đều có thể
học nghĩ đến cái gì là tốt nhất cho cả nhóm? Hoàn cảnh đòi
hỏi gì? Chúng ta không còn nghĩ đến điều tôi muốn người khác
làm. Điều đó áp đặt ý muốn chúng ta lên người khác và như
vậy không kính trọng người khác. Cũng không nên nhường nhịn
cho những đòi hỏi thái quá của người khác để có sự hòa bình,
vì điều nầy vi phạm sự trọng kính chính mình. Để giúp con
trẻ học cộng tác, chúng ta phải ý thức về ý nghĩa chính xác
của chữ cộng tác, nó ám chỉ sự chấp nhận những luật lệ căn
bản chung.
Một trong những trở ngại mà cha mẹ
thường gặp phải là quyết định: chúng ta muốn con cái ở tuổi
nào có thể giúp những công việc trong nhà. Khi một đứa bé
muốn giúp dọn bàn, chúng ta nói: “không được, con còn quá
bé. Lúc đó đứa bé nghĩ rằng chúng ta cùng cộng tác mà không
cần có nó, vì thế tại sao bây giờ lại nên giúp? Chúng ta
phung phí nhiều cơ hội cho phép con trẻ đóng góp. Tuy nhiên
nếu đứa trẻ được cho phép, không phải được yêu cầu, đóng góp
từ đầu, nó chắc chắn thích thú điều đó và có cảm giác vinh
dự về việc hoàn thành của nó.
Cu Quân 7 tuổi bi cảm cúm một tuần rồi.
Cô bé Hoài 5 tuổi rưỡi và Hường 4 tuổi đã chiếm phòng chơi
cho chúng nó. Sáng thứ 7 là thời gian lau dọn nhà cữa và mọi
người cùng làm việc cho tới khi công việc được làm xong. Hôm
nay là ngày đầu tiên cu Quân ngóc đầu dậy sau một tuần cảm
cúm. Lúc đến giờ dọn phòng chơi, cu Quân nói: “Con không
thấy lý do tại sao con phải giúp dọn phòng nầy. Cả tuần nay
con không xuống đây. Con đã không làm phòng nầy trở nên bừa
bãi, lộn xộn”. Bà mẹ nói: “Không, mẹ nghĩ là con đã không
làm nó nên bừa bãi, dơ dáy. Nhưng mẹ cá với con là bé Hoài
và bé Hường sẽ để con giúp nếu con muốn giúp các em con. Cu
Quân nghĩ một chặp và rồi đồng ý giúp các em dọn dẹp đồ chơi
và lau bụi trong khi bà mẹ dùng máy để hút bụi. Cậu bé nhìn
thấy trên chóp giá để đồ chơi mọi thứ được vất vãi lung tung,
nó mới đề nghị: “Chúng ta xếp đặt lại để nó xem ra gọn gàng
dễ coi hơn”. Và cả 3 đứa trẻ cùng cộng tác làm việc vui vẻ
với mẹ chúng. Khi chúng làm xong, bé Hoài tuyên bố: “Bây giờ
xem ra đẹp đẽ gọn gàng hơn ở trong nầy”. Cu Quân đồng ý đáp:
“Chắc chắn rồi. Và chúng ta đã giúp mẹ làm điều đó”.
Lúc đầu, cậu bé Quân có vẻ kháng cự và
sự kháng cự của nó có thể hiểu được. Nhưng gia đình đã có
một quan hệ tốt đẹp. Sáng kiến của bà mẹ đã giúp thuyết phục
được sự cộng tác của cậu bé vì bà biết được quan tâm của nó
và chuyển sự chú ý đó vào những nhu cầu của tình thế và nhu
cầu cần sự giúp đỡ của các em nó. Bà cũng ám chỉ rằng sự
giúp đỡ của nó cũng là một vinh dự cho nó vì nó là người anh
lớn nhất. Cậu bé khám phá ra rằng nó có thể đóng vai trò
lãnh đạo khi nó đề nghị cái giá để đồ chơi cần phải được xếp
đặt ngay thẳng gọn gàng. Mọi người đều có thời giờ thích thú,
vui vẻ với nhau, cùng nhau hoàn thành một cái gì tốt đẹp.
Lm. Lê Văn Quảng,
tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
Từ Đảng Viên Cộng Sản đến Việc Làm Linh Mục Chui |
Theo cơ
quan Tín Vụ Á Châu thì ơn gọi linh mục và tu sĩ ở Trung
Cộng đang tăng tiến, bất chấp việc tuyền truyền chủ
nghĩa cộng sản vô thần và tình hình mất tự do tôn giáo.
Một cuộc nghiên cứu được thực hiện bởi Viện Các Khoa Xã
Hội Học ở Bắc Kinh cho thấy trên 60% sinh viên ở Bắc
Kinh và Thượng Hải tỏ ra thiên về Kitô giáo. Ở vào một
thời điểm Đảng Cộng Sản ở Trung Hoa đang trải qua cơn
khủng hoảng về căn tính của nó thì chỉ còn một ít người
tin tưởng vào những lý tưởng của Mao Trạch Đông mà thôi,
chứ nhiều người thuộc đảng này đang âm thầm tỏ ra chú
trọng tới tôn giáo và đức tin Kitô giáo.
Sau đây
là một câu truyện có thật về một đảng viên cộng sản năng
nổ, một sinh viên thuộc miền bắc xứ sở này, đã trở thành
một vị linh mục Công giáo (vì mục đích an ninh nên các
địa danh và tên tuổi xin được giữ kín).
(Nhân dịp Thủ Tướng Phan Văn Khải của nhà
nước Việt Nam vừa chấm dứt chuyến viếng thăm Hoa Kỳ tuần thứ bốn của Tháng Sáu
2005 vừa rồi theo lời mời của Tổng Thống Bush, câu truyện đây được phổ biến vào
lúc này thật là thích hợp, để cho thấy rằng hạnh phúc đích thực của con người
nói riêng và của xã hội loài người nói chung không phải chỉ nguyên bởi bánh kinh
tế và chính trị mà chính là bởi niềm tin, bởi Đấng Tối Cao, bởi Đấng làm chủ
lịch sử loài người, Đấng được ĐTC GPII gọi là "Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần").
Tên
tôi là Bao Yuanjin và là một linh mục ở miền bắc Trung Hoa. Tôi làm linh mục mấy
năm trước đây. Tôi được rửa tội 11 năm trước. Trước đó, tôi là một người vô
thần, và thực sự là một tay năng nổ của Đảng Cộng Sản Trung Hoa. Ở đại học, tôi
đã lãnh đạo các thành viên Cộng Sản trẻ thuộc phân khoa của tôi. Lòng tôi có
nhiều dự án và tư tưởng cho tương lai, thế nhưng không có một sự nào trong những
thứ ấy liên quan tới Thiên Chúa hết, bởi vì, đối với tôi, Ngài thậm chí không
hiện hữu. Gia đình tôi chỉ có bà của tôi theo Tin
Lành mà thôi. Khi tôi còn là một đứa nhỏ, tôi đã có lần nghe bà nói về Giêsu: Bà
nói rằng Giêsu là con Thiên Chúa. Thế nhưng tôi chẳng có chú ý gì tới tôn giáo.
Vấn đề giáo dục theo vô thần là những gì bắt buộc ở Trung Hoa, từ tiểu học lên
đến đại học. Tâm trí của tôi đầy những lý thuyết về vô thần và tôi nghĩ rằng vấn
đề tin tưởng vào Thiên Chúa là một cái gì đó trẻ con, thậm chí là một cái gì đó
hơi ngu ngốc nữa.
Vào
năm thứ tư đại học của mình, tôi đã gia nhập đảng Cộng Sản. Dân chúng ở Trung
Hoa ghi danh nhập đảng này theo niềm xác tín chẳng có bao nhiêu, hầu hết để "làm
bạn" hầu một ngày kia có thể giúp họ tìm việc làm hay giúp họ khi họ gặp rắc
rối.
Đời
sống của tôi trong tổ Cộng Sản chẳng tốt cũng không xấu. Nhóm sinh viên chúng
tôi tỏ ra tử tế với mọi người, chăm chỉ chuyên cần và khéo léo tổ chức tất cả
mọi loại sinh hoạt.
Thế
nhưng, tôi đã bị dội lại bởi sự kiện là, ở Đảng Cộng Sản này, tất cả những vấn
đề ấy, cho dù là tốt đẹp đi nữa, vẫn thực hiện không phải cho người khác mà là
cho chính mình mà thôi, cho việc thăng tiến nghề nghiệp của mình mà thôi. Rồi
vấn đề dối trá nữa: đặc tính chính yếu của chúng tôi là dối trá, ở chỗ, hết mọi
người đều nói dối và hết mọi người đều biết đến những thứ dối trá ấy, song tất
cả chúng tôi vẫn cứ dối trá như nhau. Chẳng hạn, ở hết mọi cuộc họp tổ đều có
giây phút để thú nhận và tự kiểm (được gọi chính xác là "phê bình kẻ khác và phê
bình bản thân"). Thực ra chẳng có vấn đề tự kiểm gì cả và cũng chẳng có ai thực
sự là phê bình kẻ khác nữa.
Có
một loại trao đổi chính thức đã được ấn định, một thứ trao đổi thậm chí có thể
trở thành hình thức tâng bốc xua nịnh. Chẳng hạn, người ta có thể nói với người
trưởng tổ rằng: 'Thưa tổ trưởng, tôi cần phải phê bình một điều tổ trưởng không
làm đúng. Tổ trưởng đã làm quá nhiều cho chúng tôi. Đúng thế, làm việc là điều
quan trọng, nhưng sức khỏe của tổ trưởng cũng quan trọng nữa. Tổ trưởng cần phải
để ý đến sức khỏe để còn làm việc hơn nữa cho cộng đồng".
Vào
những lúc như thế, từ lòng tôi vang lên tiếng nói: "Thật là điêu ngoa, đúng là
dối trá!". Thế nhưng, tôi cũng phải làm như vậy thôi.
Sau
đó ít lâu tôi bị bệnh. Tôi thường có những cơn ác mộng làm tôi thức giấc. Vào
một đêm kia, tôi đã mơ thấy rằng tôi tìm thấy được một cái hộp; tôi đã mở ra và
thấy một cuốn sách trong đó. Đó là một cuốn Thánh Kinh, sáng rực. Tôi tỉnh dậy
và nhớ lại rằng bà của tôi là người duy nhất đã nói với tôi về Thánh Kinh. Tôi
nhớ lời bà nói rằng Giêsu là đấng toàn năng. Bởi thế tôi nghĩ rằng nếu Giêsu là
đấng toàn năng thì ngài có thể chữa tôi lành. Và vì vậy tôi đã tìm đến một nhà
thờ trong vùng và thấy một ngôi nhà thờ Tin Lành. Tuy nhiên, một đảng viên cộng
sản bị cấm không được tin tưởng vào bất cứ một tôn giáo nào. Nên tôi đã kín đáo
đi gặp những người Tin Lành. Vừa ra trường, nhờ Đảng đỡ đầu, tôi mau chóng tìm
được một việc làm ngon lành ở một thành phố lớn. Trước khi nhận nhiệm vụ, hãng
đó đã cho tôi lấy 1 tháng về thăm gia đình của tôi thuộc một miền khác. Vào cuối
tháng nghỉ hè này, có một người bạn – sau này tôi mới khám phá ra là Công giáo –
đã trao cho tôi 10 cuốn băng nhựa ghi những bài giảng của một vị linh mục Trung
Hoa. Sau khi nghe những cuộc băng nhựa ấy, một trận chiến đã bắt đầu giằng co
trong tâm khảm của tôi: tôi nghĩ rằng có lẽ Thiên Chúa thực sự hiện hữu; có lẽ
Công giáo thực sự là một đạo đích thật…Thế nhưng, đồng thời tôi nhớ đến tất cả
mọi lý thuyết về vô thần đã được học hỏi ở học đường và đại học. Tôi bị khống
chế bởi một cơn buồn thảm đồng thời sợ rằng nếu tôi chấp nhận đức tin Công giáo
tôi sẽ liều mình mất việc làm của tôi. Tôi không biết phải làm sao. Đó là ngày
tôi phải trở về thành phố để thi hành công việc của mình. Tôi đã mua vé xe buýt
rồi.
Lần đầu
tiên trong đời tôi hướng về Đức Bà và nói cùng người
rằng: "Hỡi Thánh Maria, nếu bà thực sự hiện hữu, nếu đức
tin Công giáo là những gì chân thực, nếu bà muốn tôi trở
thành người Công giáo, thì xin ban cho tôi một dấu hiệu,
đó là, ngày mai, trong chuyến đi của tôi, hãy để cho một
cái gì đó quan trọng xẩy ra, một tai nạn chẳng hạn, mà
tôi còn sống sót, thì tôi sẽ tin". Giờ đây, tôi nghĩ
rằng tôi đã rất ư là điên khùng khi thách đố Thiên Chúa,
đã thử ngài kiểu đó. Thế nhưng, vào lúc bấy giờ thì đó
là lời cầu nguyện duy nhất nẩy lên trong tâm trí tôi mà
thôi.
Ngày hôm
sau, một tai nạn thực sự đã xẩy ra, ở chỗ, bánh xe ở
đằng trước phía bên phải của chiếc xe buýt nổ tung khi
chúng tôi đang đi xuống dốc với tốc độ nhanh. Chiếc xe
buýt đâm vào lề và lật ngược bốn bánh lên trời. Tất cả
chúng tôi đều sống sót, thế nhưng chúng tôi đã phải gắng
gõi hết sức để chui ra khỏi chiếc xe bẹp dúm qua những
cửa sổ của nó. Tôi kinh hoàng trước tai nạn này, nhưng
tôi không chú ý lắm tới dấu hiệu đó. Sau vài tiếng đồng
hồ chờ đợi, hãng xe buýt cho một chiếc xe khác tới và
chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình của mình. Tuy nhiên,
tai nạn ấy đã làm cho chúng tôi mất thời gian tính. Khi
chúng tôi tới được trạm xe buýt – chuyến đi của tôi vẫn
phải tiếp tục bằng xe lửa – thì đã quá trễ và vé xe lửa
đã bán hết sạch. Người ta sắp hàng dài trước quay bán vé,
và mọi người nói với chúng tôi rằng chỉ còn có những vé
cho chuyến xe lửa trong vòng 3 ngày nữa thôi.
Tôi cảm thấy mất tinh thần và
chán nản, vì tôi quá trễ việc làm đầu tiên của mình và
vào ngày đầu tiên làm việc của mình. Tôi nghĩ đến việc
cầu nguyện cùng Đức Bà một lần nữa rằng: "Xin giúp tôi
mua được vé xe lửa. Nếu bà giúp tôi lần này nữa, tôi thề
sẽ theo bà!" Trong khi chờ đợi ở một hàng dài, tôi đã
mất hết hy vọng. Đùng một cái, một người đàn ông xuất
hiện hô to lên rằng: "Đây là vé cho thành phố … Vé cho
ngày hôm nay. Ai muốn mua tấm vé này?" Đó là điểm đến
của tôi. Tôi liên mua ngay lập tức. Người này nói rằng
ông ta vừa lấy được vé ấy cho một người bạn vừa gọi cho
ông ta nói rằng họ không thể đến đúng giờ. Người bạn ấy
xin ông ta hãy trả vé lại, thế nhưng, vì chuyến xe lửa
sẽ rời trong vòng 40 phút nên quá trễ để được hoàn tiền
lại do đó mà ông ta đã hỏi quanh quanh xem để cố gắng
bán tấm vé đó cho người nào đó. Đó là một dấu hiệu nhỏ,
nhưng là dấu hiệu ban đầu – bước đầu tiên cho cuộc trở
lại của tôi.
Sau khi
nhận việc, tôi đã tìm đến một Nhà Thờ Công Giáo để dự Lễ,
song bao giờ cũng âm thầm kín đáo. Dần dần, tôi hiểu
thêm về đức tin Công giáo, để rồi cuối cùng tôi đã xin
rửa tội. Khi tìm được đức tin Công Giáo, tôi đã tìm thấy
một cộng đoàn dân chúng đơn thành và tốt lành, nơi không
có gì là gian dối. Tôi đã tìm được một số bạn bè thực sự.
Tôi đã được giải thoát, ở chỗ, tôi không còn cần phải
dối trá nữa. Dân chúng thực sự kiểm điểm họ và thậm chí
nhận định về vị linh mục nữa. Tôi bắt đầu thấy được ánh
sáng và hiểu rằng tôi đã thấy được ý nghĩa của cuộc sống.
Tuy nhiên, để rửa tội, tôi cần phải thắng vượt một trở
ngại lớn, đó là việc tôi làm thành viên của Đảng Cộng
Sản.
Một
đảng viên Cộng Sản là một người vô thần; một Kitô hữu là người tin vào Thiên
Chúa: không thể nào vừa là người Công giáo vừa là đảng viên Cộng Sản. Ngay cả vị
linh mục dạy đạo cho tôi cũng nói rằng tôi cần phải rời bỏ Đảng Cộng Sản. Thế
nhưng, tôi không đủ can đảm để làm điều này, bởi vì, tôi sợ rằng việc rời bỏ
Đảng tôi sẽ phải chấp nhận những hậu quả khủng khiếp, ở chỗ có thể bị mất việc
làm hay thậm chí có thể bị bách hại nữa. Đảng Cộng Sản ở Trung Hoa kiểm soát tất
cả mọi sự, bởi thế, để dứt tình với nó có nghĩa là một cách nào đó làm mất đi
tất cả mọi niềm hy vọng được sống một cuộc đời yên hàn; có nghĩa là cảm thấy như
mình trở thành một kẻ xa lạ. Trong Đảng Cộng Sản Trung Hoa có một qui luật là
mỗi đảng viên đóng góp một số tiền hằng tháng nào đó cho Đảng. Nếu một người
không đóng góp trong vòng 6 tháng liền thì bị trừng phạt và đôi khi còn bị đuổi
ra khỏi Đảng nữa. Vì tôi không đủ can đảm để công khai rời bỏ Đảng nên tôi đã
nghĩ đến cách ra khỏi đảng bằng cách ấy, bởi thế tôi đã không đóng góp gì trong
vòng 6 tháng. Thế nhưng lại chẳng có gì xẩy ra cả, vì không hề cho tôi biết,
người tổ trưởng, vì thấy tôi không đóng đã đóng cho tôi! Tôi không biết tại sao anh ta lại làm thế.
Anh ta là một loại người bình thường, không tốt cũng chẳng xấu. Có lẽ anh ta
nghĩ rằng tôi đã quên và ứng trước để tôi trả lại cho anh ta sau chăng; có lẽ
anh ta không muốn các viên chức cấp trên của anh ta thấy rằng có những "kẻ chểnh
mảng" ở tổ của anh ta, khiến anh ta bị phê bình khiển trách hay chăng. Cuối
cùng, tôi chỉ còn một chọn lựa duy nhất đó là đi theo đường lối chính thức, và
tôi đã viết một bức thư để xin bỏ Đảng. Tuy nhiên, tôi đã không đủ can đảm để
nộp bức thư này. Tôi đã quyết định nhiều lần trình bức thư ấy, để rồi cuối cùng
tôi đã không thực hiện nổi. Có lần tôi đã vận dụng tất cả lòng can đảm của mình
để đi thẳng tới viên chức Đảng mà trao bức thư của mình cho người này. Ông ta
không nói được một lời nào, vì đó là lần đầu tiên ông ta thấy có một người dám
từ chối ở lại trong CCP (Đảng Cộng Sản Trung Hoa). Ông ta hoàn toàn không thể
nào hiểu nổi.
Cuối cùng tôi đã được lãnh nhận phép rửa.
Và với bí tích này, tôi đã bắt đầu hoan hưởng được niềm an bình sâu xa. Sau đó
ít lâu, tôi đã gặp một người bạn cũ trong tổ của mình. Chúng tôi đã là bạn với
nhau ngay cả trước khi gia nhập Đảng nữa. Anh ta nghe rằng tôi đã rời Đảng và
trở thành một Kitô hữu. Anh ta bảo tôi rằng tôi rất can đảm và thêm rằng anh ta
sẽ không bao giờ có thể can đảm như thế.
Sau
khi trở thành một người Công Giáo, tôi đã tiếp tục tham dự Thánh Lễ mỗi Chúa
Nhật, thế nhưng với một cộng đồng hầm trú không được chính quyền nhìn nhận. Có
lần một nữ tu nói với tôi rằng: Tại sao em không theo Chúa Giêsu trọn vẹn hơn để
làm linh mục? Tôi đáp ngay là "không". Không có ai tin tưởng ở trong gia đình
tôi cả và việc trở thành linh mục là việc khó khăn. Là người con trai đầu lòng,
theo truyền thống Trung Hoa, tôi buộc phải nâng đỡ cha mẹ tôi khi các vị về già.
Việc tôi vào chủng viện, thì kẻ thù đầu tiên của tôi sẽ là cha mẹ tôi.
Sáu
tháng sau, khi đang cầu nguyện trong phòng, tôi nghe thấy tiếng gọi: "Hãy theo
Ta". Bấy giờ không có ai trong phòng cả. Tận đáy lòng tôi hiểu rằng chính Chúa
Giêsu đã gọi tôi, thế nhưng tôi quá ư là run sợ, bởi vì, việc trở thành linh mục
– thuộc Giáo Hội hầm trú – nghĩa là từ bỏ tất cả mọi sự, từ bỏ gia đình, việc
làm, lao mình vào nguy hiểm, ôm lấy Thập Giá, chịu khổ ải, bị tù đầy. Tôi đã đáp
lại là không. Thế nhưng, vì việc từ chối này mà tôi không còn được bình an nữa,
khi tôi trở thành một kẻ khắc khoải khôn nguôi và mất đi tất cả mọi niềm vui.
Tôi không muốn theo Chúa Giêsu vì tôi có một công ăn việc làm tốt, một đời sống
bình lặng. Thế nhưng, tôi đã không thể nào chống cưỡng được tiếng Chúa gọi.
Thế là tôi đã cầu xin cho được một việc
làm khác ở một thành phố xa xôi. Có thế, tôi mới có thể bỏ việc làm của tôi một
cách âm thầm kín đáo hơn, và mới có thể nhập chủng viện. Tôi đã làm việc ở thành
phố ấy gần 2 năm trời, để kiếm được nhiều bao nhiêu có thể, dành dụm mọi sự để
giành tiền cho cha mẹ tôi, rồi cuối cùng theo tiếng gọi của Chúa Giêsu. Tôi biết
rằng tôi yếu đuối nên tôi đã nguyện cầu rằng: "Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa muốn,
Chúa có thể làm con trung thành sống đời môn đệ của Chúa đến muôn đời. Điều này
sẽ là một phép lạ rất cả thể".
T ôi đã sống 5 năm ở chủng viện thuộc Giáo
Hội hầm trú. Đời sống rất ư là khó khăn và nguy hiểm. Thức dậy vào lúc 5 giờ
sáng. Sau buổi suy niệm nửa tiếng, chúng tôi cử hành Thánh Lễ và nguyện kinh
thần vụ. Sau điểm tâm, chúng tôi thu dọn và bắt đầu học. Chúng tôi lên giường
nghỉ vào lúc 10 giờ đêm. Đời sống ở chủng viện chui là một đời sống khá khó
khăn, ở chỗ, chúng tôi sống ở một ngôi nhà miền quê của một tín hữu giành cho
chúng tôi.Thế nhưng, khi chúng tôi nghe tin cảnh sát khám phá ra chúng tôi thì
chúng tôi buộc phải thoát thân và định cư ở một nơi khác. Trong năm năm, chúng
tôi đã đổi chỗ tất cả là 3 lần. Chủng sinh chúng tôi chẳng những phải lo thu dọn
mà còn phải nấu nướng, dọn bữa cho mọi người nữa. Về vấn đề vật chất, cuộc sống
thật là khó khăn: lương thực thì ít, rau cũng ít, hiếm khi có thịt ăn; phòng ở
chật chội, không có chỗ nào là dư thừa cả. Thế nhưng, lòng tôi lại cảm thấy bằng
an, thậm chí hết sức vui vẻ, khác với những gì tôi cảm thấy trước đó. Chủng sinh
với nhau rất thân thiện và sống tình huynh đệ với nhau. Một khi mọi người lúc
nào cũng tỏ ra yêu thương nhau thì việc thắng vượt khó khăn thật là dễ dàng.
Sau 5 năm học hỏi, ngày chịu
chức linh mục đã tới. Bấy giờ tình hình căng thẳng xẩy
ra trong giáo phận của tôi, và chúng tôi liều mình bị
cảnh sát tống giam. Bởi thế chúng tôi đã cử hành lễ
truyền chức vào lúc 4 giờ sáng. Lúc ấy mọi người ở Trung
Hoa đang ngủ, kể cả cảnh sát nữa. Cho dù đời sống là
người Công Giáo có khó khăn, đức tin của chúng tôi thực
sự kiên cường. Điều này cũng là nhờ gương sáng của các
vị linh mục trong ngục tù. Một thí dụ nhỏ, đó là, ở tỉnh
của tôi, vào năm 1983, khi Trung Hoa bắt đầu thực hiện
những cải cách cả thể về kinh tế, chỉ có 3 gia đình Công
giáo. Giờ đây, sau gần 20 năm, con số đã lên tới trên 4
ngàn. Thật sự là máu tử đạo trở nên hạt giống mọc lên
các Kitô hữu mới. Đối với cả tôi nữa, sức mạnh của tôi
chính là Chúa Giêsu. Người đã nói rằng "Không phải các
con đã chọn Thày, song Thày đã chọn các con" (Jn 15:16
). Dọc theo con đường này, tôi gặp Thập Giá, nhưng cũng
gặp cả niềm vui và an bình nữa. Với ơn Người trợ giúp,
tôi mãi mãi theo Người, thắng vượt bất cứ những gì là
khó khăn xẩy ra cho tôi.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh,
BVL, dịch
theo Zenit ngày
26/6/2005
|
VỀ MỤC LỤC |
Ưu
tiên cho Lời Chúa. |
Tháng 11 hằng năm, trời
đã vào thu tự hồi nào, và lòng người se lạnh vì thời tiết
đổi thay thì ít, mà bồi hồi,
bâng khuâng thì
nhiều vì nhìn cảnh chiều đời mây tím phía trời tây, phía
nghĩa trang buồn, khu phố cuối cùng của những người đã ra đi
biền biệt. Tháng 11, tháng tưởng nhớ và cầu nguyện cho các
linh hồn. Và qua việc đạo đức của Đức Tin và Chữ Hiếu ấy,
người tín hữu có cơ hội nhìn lại và nhìn tới thân phận người
của mình.
Cũng vậy, vào mùa Chay,
người tín hữu bỗng nghe trong lòng một tiếng gọi thiêng
liêng vô hình: “Hãy trở về, hãy trở về với Thiên Chúa”. Và
với việc khai mạc mùa Chay bằng Lễ Tro, thì ý thức về thân
phận tro bụi của con người nếu lâu nay có ngủ quên trong
lòng cũng phải thức dậy mà khẩn xin lòng thương xót Chúa.
Không chỉ năm nay, mà đã
mấy năm rồi. Không chỉ có ngày 2-11 mà là suốt một tháng thu
chí, tôi đã thấy xuất hiện một hiện tượng lạ ở nhiều nơi
trong nước: “nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh được phong Thánh”. Nói
như thế có hàm hồ quá không? Hãy hỏi những người “phong
thánh” cho ông thì biết.
Trước tiên, phải công
minh mà nói nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã có nhiều suy tư thật
thâm trầm và chính xác về cuộc đời con người. Những suy tư
ấy có vẻ như được rút ra từ những giờ suy niệm thật sốt
sắng- còn có thể từ những trang Lời Chúa, những trang Kinh
Thánh. Những suy tư ấy để lại cho đời một dấu ấn rất riêng
về Trịnh Công Sơn, đến nỗi có người nói: “Trinh Công Sơn là
một nhà triết gia hơn là một nhạc sĩ”
Tôi cũng nhận thấy điều
nầy, qua những dòng ca trầm tư mà cuốn hút con người rồi
lắng đọng trong lòng người sâu thẳm đến nỗi có người xem như
là “chân lý”.
- “Hạt bụi nào hóa kiếp
thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi…..”
-“Bao nhiêu năm làm kiếp
con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi…”
-“Con chim ở trọ cành
tre, con cá ở trọ trong khe nước nguồn”
- “Em đi qua chuyến đò,
ối a biết đâu nguồn cội”
-“Bao nhiêu năm rồi còn
mãi ra đi…trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, rọi suốt
trăm năm một cõi đi về…”
-“Người chết nối linh
thiêng vào đời…”
-“Ngày sau sỏi đá cũng
cần có nhau…”
Vâng còn nhiều nữa, và có
thể nói hầu hết các ca khúc của “nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh”
đều chất chứa những suy tư tuyệt vời về cuộc nhân sinh.
Không phủ nhận những suy
tư tuyệt vời ấy, của một nhạc sĩ tài hoa ấy, nhưng điều tôi
muốn nói ở đây là những điều đáng tiếc:
1. Người nhạc sĩ ấy đã trăn trở về cuộc đời, đã
gửi lại cho đời những suy tư, những vấn nạn mà chính ông
cũng chưa tìm ra được giải đáp. Ông tự cuộn mình vào trong
một mớ vấn nạn của cõi đời thường, mà những vấn nạn ấy lại
là những vấn nạn muôn đời của bao nhiêu bậc tiền bối trước
kiếp nhân sinh. Những vấn nạn ấy nhờ cái tài hoa nghệ thuật
của ông đẩy cao lên vị trí của một trong những loại văn học
dễ thu hút lòng người. Tôi thì nghĩ rằng: Nhạc Sĩ Trịnh Công
Sơn chưa tìm được lối giải thoát cho chính mình , ông
chưa tìm được “con đường, sự thật, sự sống” và “sự sống
vĩnh cửu”, ông chưa tìm được Tin Mừng, chưa tìm được Chúa
Giêsu. Mỗi khi hát lên một ca khúc của ông, và đặt lòng mình
vào trong đó, chắc chắn sẽ thấy một điều xảy ra là người hát
dừng lại ở cái cảm thức buồn chán về cuộc đời nhiều hơn là
phát sinh một niềm hy vọng- nếu chúng ta không dùng đó làm
tiền đề để tiến sang một suy tư thần học về cuộc đời theo
cách nhìn Kitô Giáo. Đúng là “Tin buồn từ ngày Mẹ cho mang
nặng kiếp người” nghe có vẻ như “Mẹ con đã thai con trong
tội” nhưng không phù hợp với Tin Mừng vì Tin Mừng không chấp
nhận để con người dừng lại trong tình trạng tội lỗi, mà đòi
hỏi thăng tiến thoát vòng tội lỗi bằng cách “sám hối và tin
vào Đức Giêsu”. Đáng tiếc cho “người nhạc sĩ tài hoa” chưa
vượt lên tới Tin Mừng để siêu độ.
2. Một số người, kể cả người công giáo, yêu
thích nhạc sĩ tài hoa nầy, đã trân trọng lấy ra những câu ca
triết lý về cuộc đời làm kim chỉ nam hoặc làm ý lực sống cho
đời mình. Có người luôn gắn liền với những suy tư Trịnh công
Sơn đến nỗi đi đâu, ở đâu, và lúc nào cũng có thể sống và
trình bầy một cách sống bằng những tư tưởng ấy như là một
chân lý. Nét hào hoa, sức cuốn hút của một tư tưởng trần thế
gần gủi với những dấu hỏi của cuộc đời đã nhập hồn tín hữu
và chi phối mọi ý nghĩ, làm cho Lời của Thiên Chúa không còn
chổ chen vào…không những đã làm cho niềm tin của họ dừng lại
ở một trạm dừng lơ lững , mà còn có nguy cơ phát tán một
kiểu sống theo cái nhìn bi quan tiêu cực, vô định hướng được
cải cách dưới hình thức nghệ thuật âm nhạc.
3. Điều đáng tiếc hơn cả, là có một số người có
trách nhiệm giáo dục đức tin công giáo cho cộng đoàn dân
Chúa, cũng lại rơi vào cõi si mê “nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh”
này, đến nỗi đã trích dẫn, rồi phân tích giảng giải từng câu
từng từ và cuối cùng là rút ra một kết luận cho cộng đoàn
dân Chúa học và sống. Họ quên rằng người tín hữu rất cần
được nghe giảng dạy Lời của Thiên Chúa, nhất là Lời của Đức
Giêsu. Người tín hữu hôm nay có đủ khả năng nghe và nhận
thức mình đang nghe lời Chúa hay nghe lời người phàm. Ca từ
và những dòng tư tưởng của “Nhạc sĩ tài hoa họ trịnh” luôn
dừng lại ở mức “tư tưởng của người phàm”, “lời của người
phàm”. Ông ta không phải là vị thánh, nhưng ông dùng những
suy tư của các bậc thánh hiền trước ông và nhờ cái nghệ
thuật âm nhạc chuyển tải những tư tưởng của thánh hiền đến
con người một cách dễ đón nhận và rung cảm nhất. Vì thế,
việc đưa cả tư tưởng của một người phàm vào trong bài giảng
hay lời giáo huấn, vừa là cho thấy sự lệch lạc của chính
người thuyết giảng, vừa mất hiệu quả giáo dục đức tin cho
cộng đoàn. Vô tình, một cách nào đó, người ta đã phong thánh
cho một “văn nghệ sĩ” và lấy tư tưởng của ông ra mà học hỏi
như một “linh đạo”. Điều cần phải lưu ý hơn nữa là, không
thể quên rằng: Satan có thể nói Lời của Thiên Chúa- không
những biết nói, biết hát ,
mà còn nói đẹp,
hát hay- nhưng nó không sống theo Lời của Thiên Chúa.
Một em bé 13 tuổi, sau
khi dự một thánh lễ ở nghĩa trang, ra về nói với Mẹ: “ Mẹ
ơi, hôm nay Cha giảng về ông Trịnh công Sơn”. Nó chỉ hiểu
được như thế. Cha giảng lễ đã trích dẫn quá nhiều câu ca
trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn, , phân tích quá nhiều,
ca tụng nhạc sĩ tài hoa quá nhiều, làm cho phần lời Chúa bị
cắt xén đi, và cũng không dùng Lời Chúa để đưa cả ông Trịnh
công Sơn và Cộng đoàn về đến đích điểm mà ông nhạc sĩ ấy còn
lơ lững.
Trên đây, nhân tháng 11,
mới đề cập đến một nhạc sĩ họ Trịnh, chưa nói tới việc còn
có thể có những tư tưởng loài người khác được trích dẫn để
“soi sáng cho Lời Chúa” thay vì đưa Lời Chúa ra trước để học
hỏi và các suy tư theo lời Chúa, các chứng từ sống Lời Chúa
được đưa ra sau để minh họa.
Thiết nghĩ, nên nghiên
cứu kỷ chủ đề của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới khóa
XII 2008: “LINEAMENTA- LỜI THIÊN CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ
MẠNG CỦA HỘI THÁNH” để thấy được cái ưu tư to lớn của Giáo
Hội về việc giáo dục Đức Tin cho cộng đoàn dân Chúa qua Lời
của Thiên Chúa, Lời của Đức Giêsu. Và những người có trách
nhiệm giáo dục đức tin Kitô giáo, phải là người đi đầu trong
việc chọn cho mình cái đúng nhất, cái ưu tuyển nhất, chính
là Lời Chúa để giảng dạy.
Pm. Cao
Huy Hoàng |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÚNG CON THỢ GẶT
LÊN ĐƯỜNG ! |
Thân mến tặng
các anh chị thanh niên CGVN
trong
nước và hải ngoại.
1-
Chúa phán:”
Hãy rao truyền lời Chúa!”
Vâng, chúng con đội ngũ lên đường
Rao truyền Bác ái, tình thương
Rao truyền Chân lí là phương cứu đời!
2- Có vũ
khí: Phúc Âm, lời Chúa
Có trong hồn ngọn lửa Tin, Yêu
Giới răn Chúa dạy mười điều
Chúng con quyết gặt thực nhiều, Chúa ơi!
3- Gặt
tâm hồn người chưa biết Chúa
Để họ được nhuần thấm Phúc Âm
Rao truyền tới những người thân
Chân lí cuộc sống không phân vân gì!
4- Để
thực hành những điều Chúa dạy
Chúng con cần can đảm, kiên trung
Tuân theo Giáo huấn đến cùng
Cùng chung lí tưởng, cùng chung hợp đoàn!
5- Xin
đốt trong hồn con lửa Mến
Chúa Ngôi Ba thánh hóa chúng con
Cho hồn tinh khiết, trinh trong
Xứng đền Chúa ngự trong lòng chúng con!
6- Cho
chúng con giữ gìn lời nói
Tránh ngôn từ bất xứng, kiêu căng
Bỏ đi bao thói lăng nhăng
Làm tụt nhân phẩm, làm tăng suy đồi!
7- Giúp
chúng con sống đời đạo hạnh
Đó chính là sức mạnh trần gian
Với ơn Chúa giúp - Xiển dương
làm người dẫn lối con đường Chúa đi!
8- Chúa
ơi! Đời quá nhiều cạm bẫy!
Xin Chúa thương chỉ dạy chúng con
Trót đời son sắt như in
Yêu thương đồng loại, kính tin Chúa Trời!
Nhà Văn Xuân Vũ TRẦN ĐÌNH NGỌC |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÚA GIÊSU TÁI ĐÓNG ĐINH |
Nguyên tác: ”Lettres d’amour aux
prêtres” – “Thư tình
gửi các Linh mục”
của Catherine DE HUECK DOHERTY
Người chuyển ngữ, Đình Chẩn.
CHƯƠNG III
CHÚA GIÊSU TÁI ĐÓNG
ĐINH
Cha kính yêu, hình như có hai chiều
hướng trong cuộc sống của cha. Một xu hướng cũ, con nhớ rất
rõ, đó là khả năng chia sẻ của cha với Đức Giám mục của
mình. Hình như cha không thể, nói nôm na , “dốc bầu tâm
sự” với người. Nhưng Đức Giám mục là cha và là nơi cho
tâm hồn cha trú ngụ. Thái độ của ngài có thể có lúc nọ lúc
kia. Nhưng không hẳn là do điều đó mà có cái gì đó ngăn cản
không ít Linh mục đến cởi mở tâm hồn mình với Đức giám mục.
Tuy nhiên, con đã gặp một số Đức cha rất cởi mở. Bây giờ con
sẽ kể cho cha nghe điều gì đã xảy ra cho một Linh mục trước
Công đồng Vaticano II khá lâu. Cha đó muốn hồi tục. Ngài đến
nhà Hội chúng con, trong những ngày tự do để dạy giáo lý,
lau cửa kính hoặc là làm tất cả những gì ngài có thể. Vấn đề
của ngài rất đơn giản và ngài thường xuyên nói với con.
Ngài thuộc một giáo xứ nơi mà cha sở
quá quan tâm đến “ bộ mặt bên ngoài của giáo xứ”, nếu có thể
nói như vậy. Cha sở muốn làm cho nhà thờ của mình trở nên
hấp dẫn. Cha sở dùng loại đá cẩm thạch của carrare để làm
bàn thờ (đây là một trong những loại đá quý nhất ) nhưng
cha sở dùng một loại đá rẻ hơn trang trí phần chính điện.
Ngài trang bị bằng những đồ đắt tiền. Mỗi tuần Linh mục trẻ
tuổi kia đến uống cà phê với con và nói:” Tôi không thể chịu
đựng được cha đó. Thực sự tôi không thể chịu đựng được sự
lộng lẫy nơi nhà thờ này và tất cả những cái khác nữa trong
khi ở một góc của giáo xứ tôi- dù là một xứ khá giả cũng còn
thấy đám người đói khổ. Không ai để ý đến đó cả. Trong khi
tất cả những người nghèo ấy lại là người Công giáo”. Tôi
không nhớ họ là người Bồ đào nha hay là người Portô-ri-cô,
nhưng đó là những người Công giáo. Linh mục trẻ nói thêm:”
Cha sở đã nổi cáu khi tôi giúp họ với sứ vụ của tôi. Cha sở
muốn rằng tôi quan tâm đến công trình nhà thờ nhà xứ- điều
mà không cần thiết bằng việc mục vụ của tôi, rằng đó mới là
một mục tử tốt lành ưa thích tô đẹp. Có lẽ chẳng còn cách
nào hay hơn để rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo này.
Tôi không biết họ đón nhận thế nào, nhưng tôi không được xét
đoán: Thực sự tôi muốn hồi tục làm một người bình thường.
Con nói với Linh mục đó:” Cha hãy nghe
con nói. Tại sao cha không đến gặp Đức hồng y ở New York và
chân thành cởi mở tâm tình với ngài? Ngài là người tốt bụng.
Cũng không mấy quan trọng ngài là người tốt hay xấu, hay
lãnh đạm theo cách tự nhiên, nhưng ngài là cha linh hồn của
cha và cha không thể không cảm nhận được điều đó. Nhất là
chính ngài đã phong chức cho cha. Chính ngài là người mà cha
phải đến gặp! Cha đó đáp lại:’” Ôi Hồng y …!” và câu hỏi đã
bị gạt bỏ bằng một trong những từ kỳ quặc “Ôi” thở dài vô
tận. Thế là, như thường lệ, con quyết định không thể để im
chuyện đó! Con đã đến gặp Đức Hồng Y và thưa ngài rằng:”
Trọng kính Đức Hồng y, Đức Hồng Y sẽ mất một Linh mục vì
ngài không chịu đựng được khi mà cha chính xứ của ngài luôn
chăm lo làm đẹp bàn thờ, nhà thờ và nhà xứ mà không đoái
hoài gì đến người nghèo. Linh mục trẻ này muốn hồi tục, một
Linh mục tốt bụng và thánh thiện, nhưng đó cũng là một con
người. Đó là một Linh mục đã dành thời gian của mình cho
những người nghèo bị bỏ rơi trong xứ.”
Rất tự nhiên, con cho Đức Hồng y biết
tên Linh mục trẻ đó cùng với cha chính xứ. Con nói:” Đức
Hồng y là cha của Linh mục trẻ kia, nên cha cần xem xét và
uốn nắn cho cha đó”. Nói xong ngài nhìn con trìu mến và
nói:” Katie, trong những ngày này con và cha sẽ cùng nhau
lãnh đạo Giáo Phận”. Con trả lời:” Thưa Đức Hồng y con
không dám, con không thể xen vào việc của Đức Hồng y được.
Con chỉ có thể đi theo những đường mà Đức Hồng y chỉ dẫn
thôi.” Đức Hồng y cũng biết đấy, con còn trẻ và dại lắm,
người mỉm cười và nói:”Tuyệt! Tuyệt! Tuyệt!”.
Khoảng hai tuần sau, vị Linh mục trước
kia dạy giáo lý cho những người da đen , lau cửa kính trong
lúc rảnh rỗi, đến gặp con và nói:” Chị Katie, một phép lạ đã
xảy ra! Một phép lạ! Chị đừng nói với tôi rằng đó không
phải là một phép lạ! Đó là phép lạ ở New York. Con đáp lại:”
được rồi, cha kể cho con nghe đi! Con rất yêu thích những
phép lạ! Cha kể: Tôi đã được thay đổi như thế đấy! Tôi được
đổi đến giáo xứ nghèo hơn. Chị có hình dung ra không? Chị có
tin điều đó không? “ Có , thưa cha, thời gian diễn ra phép
lạ còn chưa hết, cha sẽ phải đến đó. Chắc đã có ai nói cho
cha biết. Ồ không, không có ai nói với tôi cả. Đó là một
phép lạ! Cha đã được linh hứng!
Vâng, con thưa lại, con tin rằng Linh
mục trẻ đó đã được linh hứng và câu chuyện dừng lại đó.
Thưa cha, trước Công đồng Vatican II
các Linh mục ít đến gặp Đức Giám mục địa phận vì sợ hoặc vì
e ngại hay vì lý do nào đó. Nhưng cha đừng trách ngài! Rất
có thể cha cho rằng ngài bận việc hay không mời cha đến hay
đại loại những lý do như vậy, nhưng cha đừng nói với con
rằng cha không thể đến gõ cửa nhà cha của cha được!
Giả sử lúc cha có việc cần kíp, cha có
thể gọi điện thậm chí lúc đêm khuya, để trình bày với ngài,
trao phó cho ngài. Nhưng cha đã không làm như vậy. Thời gian
trôi qua và đến thời Công Đồng Vatican II. Bây giờ nếu cha
chẳng muốn đến gặp Đức Giám mục thường xuyên nữa có lẽ khiến
người ta buồn cười.
Có thể cha không đến gặp Đức cha vì cha
tin rằng cha có thể tự giải quyết được vấn đề. Nhưng con cầu
xin cha, con tha thiết van nài cha. Con xin cha hãy hiểu.
Cha đừng quên rằng Chúa Kitô đã ban tràn đầy Thánh Thần của
Người cho Đức Giám mục. Cha đã lãnh nhận Chức Thánh từ tay
Đức Giám Mục.Cha là Linh mục nghĩa là cha được kết hiệp với
Đức Giám mục. Nếu cha là Linh mục dòng, thì cha cũng có Cha
Bề Trên đóng vai trò của vị Giám Mục. Nhưng cha không thể
được truyền chức từ ai đó không phải là Giám Mục và cha phải
vâng lời cách đặc biệt Đức Giám Mục Rôma.
Có thể cha không thích liên hệ với thứ
tự cấp bậc. Tuy nhiên, Đức Giám mục thực sự là Đấng duy nhất
có thể truyền đạt cho cha Thánh Ý Chúa. Ồ tất nhiên, lương
tâm của cha mách bảo cha bao điều, và các Đấng Bề Trên cũng
vậy, nhưng trong những trường hợp cần phải khiêm tốn tận đáy
lòng thì chính Đức Giám mục là người nói cho cha biết Thánh
Ý Chúa và điều đó không phải lúc nào cũng dễ nghe.
Biết bao thành tựu kỳ diệu được hoàn
tất dưới triều Đức Thánh Cha Phaolô VI. Thế mà con người anh
hùng này đã phải chịu biết bao đau thương, nhất là những vết
thương lòng khi người thi hành sứ vụ phục vụ Dân Chúa. Đôi
khi, ngài lại bị chính những người mà ngài yêu quý là các
Linh mục phê phán mạnh mẽ. Con biết rằng các cha cũng là
những con người, những con người được dựng nên từ đất và vì
vậy cha cũng có thể phạm bất cứ tội nào như chúng con. Tuy
nhiên, thật là khó hiểu cho con khi có nhiều người trong
các Linh mục, những Linh mục kính mến của con, lại lên tiếng
phê phán chống lại người Đại diện của Chúa- một con người
nghèo khó và dễ bị tổn thương này. Người đã bị “ném đá” dữ
dội từ cánh tả cánh hữu khiến người sửng sốt nhận ra rằng
Người không thể phục vụ Dân Chúa lâu dài hết mình như người
đã làm được.
Đôi khi, suốt đêm con linh cảm thấy có
điều gì thật là bi kịch đang diễn ra. Hình như, con nghe
thấy Quỷ dữ nó đang cười đắc chí. Ngày xưa, một phụ nữ đã bị
bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Chị bị người Do thái dẫn
đến Chúa Giêsu và suýt bị họ ném đá. Chúa Giêsu đưa mắt nhìn
những người kết tội chị và nói:” Ai trong các ông sạch
tội, hãy ném đá người này trước đi”. Họ đã lần lượt rút
lui hết vì thấy hổ thẹn. Họ đã ý thức được con người bất
toàn và tội lỗi của mình. Chẳng có gì ngạc nhiên rằng Hội
Thánh bao gồm những con người bất toàn dưới nhiều góc độ.
Tuy nhiên, Hội Thánh trung thành với Thiên Chúa trong từng
giáo huấn, trong giáo lý Đức tin của mình, và với tư cách
là Hiền Thê của Chúa Kitô, Hội Thánh hãy còn trinh khiết và
vô nhiễm nguyên tội. Thực vậy, người phụ nữ bị bắt quả
tang phạm tội ngoại tình đã bị những người Do thái lên án,
ngay khi chính họ cũng là những tội nhân và chị đã được Chúa
Giêsu -Đấng không hề có tội- đã tha thứ cho chị. Qua dòng
lịch sử, Giáo Hội Chúa Kitô hãy còn vô tội trong Giáo lý và
trong Đức tin. Chúng ta, với tư cách là những cá nhân, còn
cách xa sự trong trắng, do vậy chúng ta cần phải tránh ném
đá Hội Thánh-là Mẹ ban sự sống cho chúng ta.
Đức Thánh Cha yêu mến toàn thể Hội
Thánh và từng người trong đó. Ban đêm người cầu nguyện để
xin sự suy xét đúng đắn, ban ngày người lại xin ơn khôn
ngoan.
Thưa các cha kính mến, nếu các cha thực
sự yêu mến Hội Thánh, như con biết các cha yêu mến, thì các
cha sẽ cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện với Đức Giáo
Hoàng, cùng với người các cha sẽ không bao giờ cô đơn trong
sứ vụ phục vụ Dân Chúa. Tình yêu thì thiêng liêng và mầu
nhiệm. Do vậy, nó không thể bị ngăn cách bởi không gian. Nếu
cha cùng hiệp thông với vị Chủ chiên Rôma, thì chính các cha
sẽ trở thành những chủ chiên tốt lành nhất.
Chúng ta chúc tụng Chúa đã an ủi Dân
Chúa trong thời gian qua. Có lẽ Hội Thánh đang thu nhặt lại
những mảnh vụn mà con cái đã xâu xé và làm vương vãi khắp
nơi. Chắc chắn rằng những mảnh vụn này đang được liên kết
lại với nhau. Đức Tin của con thà thuộc về một Giáo hội bị
xâu xé còn hơn là làm cho Giáo hội tan ra từng mảnh như
những thần học gia đã làm.
Cha kính yêu, con xin cha hãy chia sẻ
nhận định này. Đây là cửa để đi vào Đức Tin. Đây là chìa
khoá vạn năng. Hãy mở ra! Hãy mở ra !!
Các cha đã trải qua nhiều năm nghiên
cứu, học hỏi tất cả những gì cần phải học để nhận biết Thiên
Chúa. Nhưng thưa cha, cha có biết rằng Thiên Chúa là Đấng
vượt trên tất cả sự hiểu biết , trí thông minh của loài
người hay không? Cha đã mở cánh cửa này chưa? Cha đã
vượt qua cái đó chưa? một khi cha đã đạt đến sự nhận biết đó
thì những lời nói của cha, những hành động của cha, tư tưởng
của cha sẽ được chín mùi và sẽ trở nên ngọt ngào êm dịu.
Con cầu xin các cha là những người đã
mở cửa ra và đi vào trong Đấng Thánh chí Thánh, thì cũng hãy
tỏ ra đáng kính. Ngày xưa, Thần học là chúa tể của mọi khoa
học và nó vẫn là như thế đối với những người biết hiểu.
Nhưng điều gì đã xảy ra? Điều gì đã làm dơ bẩn suối nguồn
trinh trong mà Chúa đã ban cho con người vậy?
Trước đây và cả ngày nay nữa, người ta
đã đưa cái trí thông minh giới hạn của mình vào suối nguồn
trinh trong này và đã làm cho ra ô uế! Chúng con cũng vẫn
khao khát Chúa như những người thế hệ trước chúng con. Các
cha kính mến, xin hãy trao cho chúng con Sự Thật. Đừng cho
chúng con thứ Thần học mà đã bị pha mắm muối vào! Thần học
ấy không mang lại ơn Cứu độ. Xin cha hãy trao cho chúng con
Thần Học của Thiên Chúa! Bởi Thần học là học biết về Thiên
Chúa. Thế nên, xin các cha cầu nguyện để Người ban Tình yêu
của Người cho các cha, khi đó các cha mới có thể ban lại cho
chúng con.
Con muốn nói với cha rằng rất nhiều
Linh mục không muốn đến gặp Đức Giám mục của mình. Một số
không đến bởi có thể ngài sẽ nói với các cha rằng các cha
không có quyền làm những gì mình muốn. Một số khác, lại
giống như những kẻ đua ngựa đang trong vòng đấu. Họ cứ chạy
mãi, quay mãi trong vòng quay:” Tôi muốn làm những gì làm
cho tôi thích thú, khi điều đó mang lại thích thú cho tôi,
như thế là tôi thích” .
Thế nên, thưa cha kính yêu, những người
trong vòng đua ngựa, nhìn chung sẽ chết đói và chết khát
Đấng mà duy chỉ có Người mới có thể nuôi họ sống.
Vào một đêm tháng 10, không rõ năm nào,
con đã trằn trọc năm canh mà không ngủ được. Con đã bị ám
ảnh bởi cái nhìn nội tâm sâu sắc xâm chiếm lòng con mãi.
Chạy theo vòng luẩn quẩn thật vô ích! Con đã bị dằn vặt bởi
nỗi buồn khôn tả, bởi sự lo lắng vô cớ, đờ đẫn thực sự và
cũng tỉnh táo kỳ lạ.
Ý tưởng xâm chiếm lòng con đó là Giáo
Hội Công Giáo đang trong sự nguy kịch trầm trọng. Chúng con
- Dân tộc của Chúa - như hạt tuyết rơi đang lăn trên sườn
núi. Càng lăn nó càng trở nên to hơn và dần dần nó sẽ đè bẹp
Hội Thánh. Thế nên, Hội Thánh đang bị tàn phá dưới lớp tuyết
lạnh, là chính những trái tim băng giá của những người tự
xưng mình là Kitô hữu.
Càng vào đêm sâu, con càng xác tín rằng
Giáo Hội đang ở giữa ngã ba đường và tất nhiên Giáo Hội bao
gồm tất cả chúng ta: Giám mục, Linh mục và Giáo dân, và Giáo
Hội là Hiền Thê của Chúa Kitô, là Thân Thể mầu nhiệm mà
Người là Đầu. Vâng, Giáo Hội còn hơn Dân riêng của Chúa như
thế đó. Hình như con thấy rằng Thân Thể mầu nhiệm này, Dân
riêng của Chúa này đã quên hay sao lãng việc nhìn nhận mầu
nhiệm của Chúa Kitô: Đầu của Thân Thể ấy. Sự thực, Giáo Hội
là Hiền Thê của Chúa Kitô.
Con có cảm giác rằng chúng ta đang đối
xử với Giáo Hội như thể với một thể chế của loài người.
Người ta chuyển Giáo Hội cho người nọ người kia như thể ném
quả bóng. Đồng thời, con cảm nhận thấy trong bóng đêm có rất
nhiều người con đang xâu xé những thành phần Dân Chúa. Người
ta không ngừng bàn tán về những sai lầm của Đức Giáo Hoàng,
của các Giám Mục, Linh mục, các Tu sĩ..vv…và của cả chúng
con nữa . Chính những cái nhìn lệch lạc của chúng ta cứ tìm
tòi để thay thế những gì chúng ta đã rời bỏ.
Trong suốt đêm dài lạ lùng ấy, con nhận
ra một cách nào đó không thể giải thích được, nếu chúng ta
xâu xé Thân Thể này, chúng ta sẽ khiến cho Đầu của Thân Thể
ấy phải chết. Con trộm nghĩ rằng Đầu - Chúa Kitô - sẽ lại
chết một lần nữa và chính chúng ta sẽ tái đóng đinh Người
trong chúng ta. Từ “tái đóng đinh” đã làm con choáng váng
đến nỗi có cảm giác như ngất đi, nhưng con tỉnh lại và tràn
ngập nỗi sợ ( sợ vì Giáo Hội bị đối xử một cách xa lạ ).
Nỗi sợ này cứ giày vò như cơn sốt, bởi con chợt nhận thấy
Chúa Cha nổi giận trước cảnh Con Một Chúa bị tái đóng đinh,
trước cảnh Giáo Hội- Hiền Thê của Con Một Người -bị lãng
quên.
Đức Tin dạy cho con biết rằng Thiên
Chúa cũng là Đấng đầy lòng thương xót. Người yêu thương
chúng ta, lo lắng cho chúng ta hạnh phúc đời sau cũng như sự
bình an và hạnh phúc ngay giây phút hiện tại, bởi Thiên Chúa
yêu thương con người đơn giản chỉ vì Thiên Chúa là Thiên
Chúa.
Con lại chợt nghĩ rằng Thiên Chúa nổi
giận bởi vì chính chúng ta đang xâu xé nhau, đang phá vỡ sự
bình an của chính chúng ta. Thiên Chúa nổi giận bởi vì chúng
ta đối xử cách mù quáng, phi lý cứng lòng và tệ bạc với Hồng
ân bao la của Chúa ban cho chúng ta qua Thánh Thần. Nhưng
cơn thịnh nộ của Thiên Chúa luôn luôn thể hiện lòng thương
xót của Người.
Ý nghĩ “ Thiên Chúa nói với chúng ta
qua những dấu chỉ” chợt đến trong đầu con.Người đang
viết những điều mầu nhiệm trên bức tường như xưa kia Người
đã làm trong Cựu Ước. Đó là những lời cảnh báo gợi lên những
tai ương khủng khiếp dội vào thế giới, như những trận lũ lụt
chẳng hạn. Nhưng còn hơn cả những điều có thể giải thích
được bằng khoa học. Người cho biết những điều nói đến những
cuộc chiến khủng khiếp, sự ô uế hoành hành trong tâm hồn con
người bởi chính từ trong thâm tâm con người mà nảy sinh
chiến tranh.
Những cảnh tượng Dân Chúa bị chia rẽ,
bị xâu xé, người này kình địch người kia, hay sự chối bỏ Tin
Mừng, tất cả cứ hiện lên trước mắt con rõ mồn một trong suốt
cả đêm dài đáng sợ này.
Tất nhiên, con biết rằng Giáo Hội tiếp
tục sống và cả hỏa ngục cũng không làm gì được. Tuy nhiên,
con run sợ và khóc than cho trách nhiệm của con, của anh chị
em con trong Chúa Kitô và của mỗi người. Bởi vì chính những
người ưu tú, những người được Thiên Chúa chúc phúc và phú
ban cho tài năng vượt trổi lại là những người gây chia rẽ
Giáo Hội Chúa.
Con đã run lên trước sự lạm dụng tài
năng của họ và nhất là có chính Linh mục lại chối bỏ trách
nhiệm đích thực của mình.” Khốn cho những ai làm cho
những kẻ bé mọn của Chúa Kitô vấp phạm!” Những lời này
cứ ám ảnh con suốt cả đêm. Thay vì đưa những kẻ bé mọn về
với Chúa hay chỉ cho họ con đường đến gặp Chúa thì có Linh
mục lại làm cho họ xa cách Chúa hoặc lại chỉ dẫn họ đến với
chính mình.
Vâng, gã khổng lồ Gôliath sẽ phải chết,
nhưng nó chỉ chết dưới tay một Đa- vít khác với những vũ khí
chống lại là Đức Ái, bằng những viên đá dăm là sự giản dị
khiêm nhường và một tinh thần đơn sơ. Con thấy các cha mặc
trang phục thờ phượng như những áo choàng tư tế của Chúa
Kitô. Bên cạnh vũ khí của các cha là lòng mến, sự đơn sơ
khiêm nhường, các cha còn có khăn thắt lưng, một bình nước
và một chậu nhỏ để rửa chân cho tất cả những ai đến với
mình. Người người đi từ núi Thánh xuống thung lũng trần gian
không mang gì khác ngoài Đức Ái, tinh thần đơn sơ khiêm
nhường. Con biết rằng các Linh mục đã được thắt khăn lưng,
các ngài sẽ có một bình nước, một chiếc chậu và những giọt
nước tinh tuyền của Tình yêu thương sẽ chảy mãi trong tâm
hồn các ngài bất cứ nơi nào các ngài đặt chân làm nhân chứng
cho Đức Kitô.
Vâng, thưa cha trên đây là những tâm
tình của con vào một đêm tháng mười mà con không nhớ năm
nào, một đêm thật lạ lùng, một đêm con thao thức chập chờn.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
Cầu Nguyện Cá Nhân: Bí quyết tình
yêu và vui sống |
Phần thứ nhất
Những chỉ dẫn tổng quát để thực
hiện tốt việc cầu nguyện cá nhân
một
Đến điểm hẹn với Chúa.
“Khi cầu nguyện, con hãy vào
phòng, đóng cửa lại và cầu nguyện với Cha con, Đấng đang ngự
trong nơi kín ẩn. Và Cha con, Đấng thấu suốt mọi kín ẩn, sẽ
trả công cho con’’ (Mt.6, 6)
Có phải Chúa Giêsu
đòi phải có một căn phòng riêng để cầu nguyện không? Nếu thế
thì những người nghèo, những người không thể có một căn
phòng riêng không thể cầu nguyện nội tâm với Chúa sao?
Không phải thế đâu, nhưng chính là trạng thái hồi tâm. Hay
nói rộng ra là sự giảm trừ thế giới ngoại tại để tránh sự
chia trí.
Như vậy là Chúa
Giêsu muốn nói với bạn: hãy vào trong chính mình bạn, hãy
hồi tâm, hãy chăm chú vào sự hiện diện vô hình và hãy cầu
nguyện với Chúa, Đấng ngự trong nơi kín ẩn. Chúa Giêsu không
yêu cầu bạn tạo nên sự trống rổng của chiêm niệm siêu vượt.
Ngài chỉ đề nghị bạn gặp gỡ một bản vị thần linh mà bạn phải
gọi là Cha, Cha của bạn.
Lời cầu nguyện luôn
luôn là một cuộc gặp gỡ, một đối thoại giữa hai bản vị, có
người nói và có người nghe. Do đó, bạn có thể đặt ra cho bạn
những vấn nạn: Tôi có thực sự có một người Cha đang mời gọi
tôi đi vào trong sự thân mật của tình yêu Người không? Tôi
có muốn thiết lập sự trao đổi tín cẩn với Người không? Tôi
có thể đặt cuộc đời tôi dưới cái nhìn của Người, hơn là dưới
cái nhìn của tôi hay của những người khác không?
Vâng, Cha của bạn
đang có mặt ở đó, trong nơi kín ẩn, trong cung thánh lòng
bạn. Bạn không nghe tiếng Ngài, bạn không cảm nhận được
Ngài. Bạn không biết được chính mình và bạn cũng không biết
Ngài đang ở trong bạn. Tuy nhiên, Ngài vẫn chờ đợi bạn, Ngài
vẫn nhìn thấy bạn trong kín ẩn, bằng một cái nhìn không đè
nặng, nhưng như sự ve vuốt của bàn tay trẻ thơ. Nếu bạn chấp
nhận đưa nội tâm bạn trở về với Ngài, Ngài sẽ ‘’trả công’’
cho bạn. Nhưng bạn đừng lo âu, ở đây không có gì là tính
toán, là mặc cả hết. Phần thưởng (trả công) mà Ngài chuẩn bị
cho bạn chính là sự khám phá ra Vương quốc Tình Yêu. Khi bạn
thông hiệp với Ngài, bạn sẽ thừa hưởng món quà vô giá Ngài
dành cho các bạn yêu dấu: thông dự vào sự sống thần linh của
Ngài, trong lửa yêu mến của Chúa Thánh Thần và trong ánh
sáng dẫn đường của Chúa Giêsu.
Có lẽ bạn sẽ nói
rằng việc cầu nguyện ‘’trong phòng’’ mỗi ngày như thế không
phải dễ. Đúng thế! Đâu đâu người ta cũng gặp cùng một khó
khăn tương tự, bởi vì sự hồi tâm tĩnh lặng làm cho người ta
buồn chán. Và để thoát khỏi buồn chán, người ta tìm trải
lướt trên bề mặt cuộc sống. Tính ham hoạt động không ngừng
đẩy chúng ta choán lấy thời gian hay giết chết thời gian. Xã
hội hưởng thụ tìm gia tăng thêm mãi những phương tiện kỹ
thuật và cơ hội để giải khuây. Người trẻ ngày càng bị lôi
cuốn bởi nhịp độ hấp dẫn của thời trang, của quảng cáo, của
vidéo, truyền hình, phim truyện, âm nhạc, thể thao. Một cơn
lốc mãnh liệt khó mà thoát ra được!
Chúa Giêsu đã nói
rằng các môn đệ của Ngài ở trong thế gian nhưng không thuộc
về thế gian (Jn.17: 14-18). Đó là vấn đề hệ trọng phải giải
quyết. Dĩ nhiên giới trẻ phải quan tâm khám phá đúng chiều
kích của thế giới hiện đại, làm quen với tin học và tất cả
những kỹ thuật cao cấp, theo đuổi những học hỏi đem lại địa
vị tốt, v.v. Nhưng cuối cùng nhìn lại thì thấy có một cái gì
đó không xuôi chảy, cần phải lìa bỏ một chút bề mặt để đi
vào chiều sâu của cuộc đời.
Cái đáng ngại nhất
là đời sống nội tâm có thể bị mắc bẩy bởi dáng vẻ giả tạo
bên ngoài của một chiều sâu. Viện cớ đào sâu những mầu nhiệm
của Thiên Chúa, người ta cẩn thận giam mình trong cái bong
bóng nước chỉ lướt sà trên bề mặt. Chẳng hạn nói là rút lui
về phòng riêng cách khôn ngoan để cầu nguyện với Chúa trong
kín ẩn, nhưng rất có thể bạn tìm được ở đó tiện nghi hay một
sự lôi cuốn mãnh liệt nào đó, hoặc bạn có tính khí co mình
lại khiến bạn thích thú sự thinh lặng, cô tịch, suy tư. Và
như thế, bạn có mọi điều kiện lý tưởng để tạo nên và ẩn núp
trong cái bong bóng nước của bạn! Thay vì cầu nguyện dưới
cái nhìn của Chúa, bạn có thể độc thoại dưới cái nhìn của
chính bạn, hay của những người khác.
Tới lúc phải thoát
ra khỏi cái bong bóng nước đó. Tất cả chúng ta đều có thể đã
phải ngang qua đó, bằng cách nầy hoặc bằng cách khác. Hãy
cẩn thận để không thích thú ở mãi trong đó. Dấu hiệu của một
lời cầu nguyện nội tâm đích thực là không bao giờ nó làm cho
chúng ta tự đóng mình lại, nhưng nhất thiết mở rộng chúng ta
ra với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân.
Bầu trời
trong phòng biệt giam
Một mình trong phòng biệt giam, mọi
sự trở nên đen tối vì thất vọng, vì thù hận, một sự tệ hại
còn lớn hơn sự tệ hại khiến người ta phải vào đó. Chúa Giêsu
đã nói tới ‘’phòng cầu nguyện.” Đây cũng là ‘’phòng’’, làm
sao có thể cầu nguyện trong nơi quên lãng nầy? Không phải để
lý tưởng hóa nhà tù, nhưng nhiều chứng từ cho hay phòng giam
cũng có thể là nơi cung thánh gặp gỡ Thiên Chúa. Phòng giam
bắt buộc tù nhân đối mặt với cái chính yếu của cuộc đời. Anh
tự do phủ nhận Ngài, chọn lăng mạ Ngài hay cầu nguyện với
Ngài. Nhưng anh bị đặt trần trụi trước sự chọn lựa căn để
nầy. Vì vậy mà anh khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa.
Đây là lời thố lộ của một tù nhân: “Dường như tôi không còn
cô đơn nữa trong phòng biệt giam. Vâng, tôi không diễn tả
được, có cái gì như một cuộc thăm viếng... Sự giam cầm đã
bắt tôi trực diện với cái chính yếu...’’
Trong phòng anh có một cuốn Kinh
Thánh do một linh mục bạn gởi cho. Sau nhiều thời gian tìm
kiếm và đối kháng, nhờ đọc Lời Chúa và thư người bạn linh
mục gởi hàng tháng, cuối cùng anh thách thức với vị Chúa
Không Biết ấy. Anh ra hẹn với Ngài vào hai giờ sáng, mà
chẳng tin tưởng chi bao nhiêu, đúng hơn là anh muốn thoát
khỏi một vấn nạn cứ quấy nhiểu đầu óc anh mãi.
Thế rồi vào đêm 18.6.1972, một tiếng
nói nội tâm dội lên trong anh như trong một đường hầm: “Hai
giờ rồi, chúng ta đã có hẹn!’’ Sau khi kiểm tra không phải
tiếng người canh tù, anh lại nghe tiếng ấy: “Đừng cứng tin.
Ta là Thiên Chúa của anh, Thiên Chúa của mọi người.’’ Anh kể
lại: ‘’phòng biệt giam nhỏ bé, tăm tối của tôi biến đi dần
dần, không còn nữa trần và tường ngục tù, mà là một bầu trời
trong phòng biệt giam. Một ánh sáng đẹp không thể diễn tả
soi chiếu cho tôi nhìn thấy Đấng Chịu Đóng Đinh, Ngài tỏ cho
tôi các vết thương và bảo: “Cũng là để cho anh nữa đó.’’ Từ
lúc ấy, tôi quỳ gối xuống và cầu nguyện lần thứ nhất trong
đời tôi. Cuối cùng tôi khám phá được niềm vui của ơn tha
thứ.’’ Và như thế, trong bốn bức tường của phòng biệt giam,
anh trở thành con người tự do mãi mãi, một người môn đệ Chúa
Kitô và là một con người cầu nguyện.
Phòng -
cuộc sống của bạn
Chúa đến tìm gặp bạn bất cứ bạn ở
đâu, bất kể bạn như thế nào, trong cuộc sống mọi ngày của
bạn. Bạn được tự do hoạt động, không bị đóng chặt trên
giường bệnh, cũng không bị nhốt vào trại giam, tiếng mời gọi
của Chúa vẫn vang lên cho bạn trong tất cả tự do: “Con hãy
vào phòng con, đóng cửa lại và cầu nguyện với Cha con đang
ngự trong kín ẩn, và Cha con thấu suốt mọi kín ẩn sẽ trả
công cho con.’’
Bạn hãy nhìn xem các thầy Dòng, họ
cũng học khám phá ‘’một bầu trời trong phòng tu’’. Họ đã tự
do chọn lựa ép mình trong một vòng rào, một giới hạn tự do
thể lý. Tuy nhiên, khi vào một tu viện, bạn sẽ bị đánh động
bởi sự tỏa chiếu của những người môn đệ Chúa Kitô đó, bạn sẽ
cảm thấy lời cầu nguyện đối với họ trở thành như khí thở.
Trong những Dòng chiêm niệm nhất, mỗi người cầu nguyện, ăn
uống, làm việc và ngủ nghỉ trong phòng riêng của mình, những
hoạt động chung rất ít. Đối với các tu sĩ nầy, phòng riêng
của họ trở thành một thánh địa, một nơi thánh để chết và
sống lại, như mộ của Chúa Kitô! Trong thinh lặng và cô tịch
có Thiên Chúa ngự trị, họ khám phá được bước khởi đầu của
Thiên Đàng.
Trong cuộc sống thường ngày giữa thế
gian thì khó hơn. Nhưng không có một nơi nào mà lời cầu
nguyện bị loại trừ, bởi vì căn phòng sâu thẳm chính là căn
phòng trái tim bạn. Bạn có thể cầu nguyện bất cứ ở đâu và
bất cứ lúc nào. Mỗi người bắt đầu khi nào và ở đâu mình có
thể, cho lời cầu nguyện dần dần xâm chiếm tất cả cuộc sống
mình.
Tôi rất xúc động khi đọc chứng từ
đẹp đẽ của một thiếu nữ được giáo dục trong một môi trường
hoàn toàn vô thần, nơi mọi biểu hiện tôn giáo đều bị cấm
triệt để, ấy thế mà nàng đã khám phá được sự hiện diện của
Thiên Chúa trong chùng lén. Nàng nói: ‘’Tôi đã sớm biết
nguyện gẫm khi thưa chuyện với Thiên Chúa Không Biết, vì lúc
đó không ai dạy cho tôi chút gì cả. Để làm việc đó, tôi vào
phòng vệ sinh và đóng cửa lại, tránh mọi tiếng động có thể,
vì ngay cả ở đó cũng bị cấm đoán. Tôi quỳ gối xuống sàn và
nói: “Chúa ơi, con yêu mến Chúa hết lòng con!’’
Một nhà tu đức đã viết: “Tìm lại con
đường về trái tim mình là nhiệm vụ quan trọng nhất của con
người.’’ Đáng buồn thay con đường đó nhiều khi đã biến mất,
giống như một con đường mòn trong rừng đã từ nhiều năm không
có người qua lại. Bây giờ, nhiều chướng ngại do tội lỗi đã
ngăn chặn lối đi. Vì thế, chúng ta cần đến những con người
đã thành công trong việc khai phá hành trình thiêng liêng
trong chính cuộc đời họ. Họ sẽ chỉ cho chúng ta con đường.
Họ sẽ dạy cho chúng ta giải tỏa nội tâm chúng ta mà không bị
lạc lối. Những nhà khai phá đó là các thánh.
Tôi nghĩ đến Thánh Gioan Thánh Giá.
Ngài đã so sánh cuộc sống cầu nguyện kết hợp với Chúa như
con đường trèo lên đỉnh núi. Ngài nhấn mạnh sự từ bỏ triệt
để mọi khát vọng nhân loại để giúp chúng ta chỉ tập trung
vào tình yêu của một mình Thiên Chúa. Ngài nói về linh hồn,
hình ảnh của Thiên Chúa. Ngài còn đi xa hơn nữa khi dám nói:
Trung tâm của linh hồn là chính Thiên Chúa. Ngài không đồng
hóa Tạo Hóa với tạo vật nhỏ bé của Người, nhưng ngài tin
rằng hạnh phúc lớn nhất của linh hồn là càng ngày càng tập
trung vào Thiên Chúa.
Hãy cùng nhấn mạnh đến mầu nhiệm bản
vị con người. Nơi mỗi con người đều có mặt biểu kiến bên
ngoài và mặt giấu ẩn bên trong, ngoại giới và nội tâm. Lời
cầu nguyện sống động lôi kéo bạn trên hành trình thiêng
liêng vào với ‘’con người ẩn giấu trong đáy lòng bạn’’
(1P.3:4). Mẹ Thánh Têrêxa nói: ‘’Nếu con đi đến tận cùng thế
giới, con sẽ gặp được dấu vết của Thiên Chúa; nhưng nếu con
đi vào tận đáy lòng con, con sẽ gặp được chính Ngài’’. Trong
sâu thẳm nhất của lương tâm bạn đang ẩn giấu một cung thánh,
ở đó Thiên Chúa đang nói với bạn. Ngài không ngừng thúc giục
bạn ‘’làm điều lành, tránh điều dữ’’. Đó là lời nói phổ quát
nhất, chung cho tất cả mọi người, cả những người không nhận
biết Thiên Chúa, ngay cả những người chống lại Ngài. Nhưng
Chúa còn muốn đi xa hơn nữa và nói với bạn lòng bên lòng.
‘’Làm sao đạt tới
được mức đó?’’
Chính Thiên Chúa sẽ cho bạn phương
tiện. Thần Trí của Ngài đến gặp lòng trí bạn, trong sự trao
đổi tình yêu, ngày càng mật thiết hơn. Tất cả tùy thuộc vào
phẩm chất tình yêu mà bạn đáp trả lại Ngài. Tình yêu mời gọi
tình yêu. Hầu như tất cả mọi người đều mơ tưởng đến tình
yêu, mong ước một tình yêu vừa biết cho đi vừa biết nhận
lãnh. Nhưng ai lại không thất vọng vì thiếu tình yêu? Chính
bạn, bạn có yêu thương như chính bạn mong ước không? Nhiều
cái giảm trừ tình yêu xuống thành một khát vọng ích kỷ, trái
với Tình Yêu. Ai mạc khải cho chúng ta tình yêu đích thực và
dạy cho chúng ta cách thực hành? Cho đến hôm nay, tôi chỉ
biết có một người, đó là Chúa Giêsu, ‘’Đấng đã yêu tôi và đã
hiến mình cho tôi’’.
Thực tế, tự mình, con người không
biết yêu thế nào cho phải. Con người cần đến sự huấn luyện
cấp tốc của Trường Cao Đẳng Tình Yêu. Trường cao đẳng do
Thiên Chúa sáng lập đó chỉ có một thầy dạy là Chúa Kitô, và
chỉ có một chương trình là Phúc Âm. Bạn có muốn vào trường
đó không? Trường miễn phí... tuy nhiên cũng có một giá phải
trả: trao ban trái tim bạn, cho đến cả sự sống của bạn trọn
vẹn nữa.
Hành trình thiêng liêng bạn đã đi
vào giả thiết phải có một sự tiến bộ liên tục trong tình
yêu: bạn nhận lãnh tình yêu của Chúa, bạn để Chúa biến đổi
bạn và bạn chia sẻ tình yêu đó với tha nhân. Lời cầu nguyện
của bạn chỉ thực sự có tính cách công giáo khi nó chấp nhận
chảy xuôi dòng tình yêu, đến từ Thiên Chúa và trở về với
Ngài, ngang qua con người. Như tiên tri Êdêkien thấy nước
chảy từ bên phải Đền Thờ và tưới gội cho tất cả mọi sự trên
dòng chảy của nó, bạn cũng sẽ thấy tình yêu lớn dần lên
trong cuộc đời bạn, và nó sẽ mang bạn đi đến nơi Chúa muốn.
Bấy giờ nếu có ai hỏi bí quyết của bạn thì bạn sẽ đáp lại:
Đó là tình yêu của Chúa được kín múc trong trái tim tôi bằng
lời cầu nguyện.
Ngỡ ngàng và tạ
ơn
Con cám ơn Chúa,
vì Chúa đã muốn canh giữ
cho cung thánh linh hồn con
khỏi những gì xấu xa nhơ bẩn xâm
nhập vào.
Con cám ơn Chúa,
vì Chúa đã không để
bất cứ vết thương nào con người gây
nên
làm biến dạng khu vườn kín đáo nầy,
để chỉ một mình Chúa bước vào.
Con cám ơn Chúa,
vì mỗi lần con vấp
ngã,
Chúa đã nhân từ chỉ
cho con rằng
Chúa vẫn ở trong
con,
vì tình yêu của Chúa
lớn hơn tội lỗi của con.
Con cám ơn Chúa,
vì Chúa đã không để
một ý tưởng xấu hay
nổi loạn nào của con
vượt qua được cánh
cửa
mà Thiên Thần Chúa
canh giữ.
Con cám ơn Chúa,
vì Chúa đã thương
thanh tẩy con,
và vẫn luôn chờ đợi
con
trong cuộc gặp gỡ
cuối cùng rạng rỡ tình yêu.
Lm. Micae-Phaolô Trần
Minh Huy, pss. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Lợi
Hại của Chất Béo |
Ngày 31 tháng 10, 2007
vừa qua truyền thông khắp nơi đều loan báo một tin quan
trọng liên quan tới sức khỏe,
bệnh tật. Đó là “Tiêu thụ quá nhiều chất béo đưa tới nhiều
bệnh ung thư”. “Chất béo đang trên đường chiếm đoạt
ngôi vị số một của thuốc lá trong việc gây ra bệnh ung thư
tại Hoa Kỳ”. “Dư chất béo là nguyên nhân gây ra 1/3 các
trường hợp ung thư”. “Các bác sĩ và nhà dinh dưỡng đều đồng
ý là có sự liên hệ giữa chất béo và ung thư”…
Đây là họ muốn nói đến
kết quả việc làm của 21 nhà khoa học nổi tiếng trên thế
giới, do Viện Nghiên cứu Ung Thư Hoa Kỳ và Quỹ Nghiên Cứu
Ung Thư Thế giới tài trợ.
Trong 5 năm tận tụy, họ
đã tỉ mỉ duyệt xét hơn 7000 nghiên cứu trên khắp thế giới kể
từ năm 1960 tới nay về sự liên hệ giữa chất béo với ung thư.
Kết quả phân tích dầy 517 trang
“Food, Nutrition, Physical Activity and the
Prevention of Cancer: a Global Perspective” được công bố tại
thủ đô Washington ngày thứ Tư 31-10-2007 và được lưu trữ
trên các mạng điện tử.
Bác sĩ Steven Zeisel,
Giám Đốc viện Nghiên Cứu Dinh Dưỡng Đại học North Carolina
đồng thời cũng là nhà chuyên môn của nhóm cho biết: “Điều
mới lạ của báo cáo này là các nhà khoa học lỗi lạc trên thế
giới đã duyệt xét các dữ kiện của nhiều nghiên cứu và khi
tổng hợp lại, chúng tôi nhận thấy dư thừa chất béo trong cơ
thể tăng rủi ro gây ra bệnh ung thư”.
Chính xác hơn, bác sĩ
Walter C. Willett của Đại học Y tế Công Cộng Harvard tuyên
bố: “Tiêu thụ chất béo quá mức độ hoặc quá số lượng hợp lý
sẽ tăng rủi ro các bệnh ung thư thận, đại tràng, tuyến tụy,
cuống họng, và niêm mạc tử cung và ung thư vú ở phụ nữ sau
tuổi mãn kinh”. Theo vị bác sĩ này, nếu chỉ ăn 600gr (18
ounces) thịt đỏ (thịt bò,
heo, cừu) mỗi tuần lễ thì an toàn, nhưng cứ mỗi 55gr
(1.7ounces) thịt đỏ ăn thêm thì rủi ro ung thư sẽ tăng 15%.
Giáo sư Sir Michael
Marmot, chủ tọa nhóm khoa học gia nghiên cứu khuyên: “Chúng
tôi đề nghị mọi người giữ một thân hình càng khỏe mạnh rắn
chắc càng tốt và tránh quá mập phì ở tuổi trưởng thành. Điều
này có vẻ như khó khăn, nhưng đấy là điều mà khoa học nói
cho ta hay một cách rõ ràng hơn bao giờ”.
Trong thời
gian từ 1990 tới 2005, tỷ
lệ béo phì tại nhiều quốc gia kỹ nghệ giầu có đã tăng gấp
đôi.
Thực ra, trước đây cũng
đã có nhiều nghiên cứu nói tới sự liên hệ giữa dinh dưỡng,
sức nặng cơ thể với ung thư, nhưng công bố này rất đáng
thuyết phục (convincing) vì nó là đúc kết của nhiều bằng
chứng khoa học về vấn đề này.
Các khoa học gia cũng bác
bỏ ý kiến dủng supplement để phòng tránh ung thư, vì nguồn
dinh dưỡng tốt nhất vẫn là từ thực phẩm nước uống tự nhiên,
chứ không phải từ thực phẩm phụ thêm.
Trước kết quả này, tiến
sĩ Randy Huffman, Phó Chủ tịch American Meat Institute, phản
bác “Kết luận của bản báo cáo rất cực đoan, không căn cứ và
trái ngược hoàn toàn với hướng dẫn về dinh dưỡng của chính
phủ Hoa Kỳ”. Ông bảo vệ ý kiến là thịt đỏ, thịt chế biến
không gây ra ung thư và cũng đề nghị mọi người nên ăn cân
bằng các chất dinh dưỡng, vận động cơ thể mỗi ngày và giữ
cân nặng trung bình để có sức khỏe tốt.
Chắc là sẽ còn nhiều
nghiên cứu và ý kiến khác về vấn đề này.
Trong khi chờ đợi kết
luận chung, xin cùng tìm hiểu về lợi hại của chất béo, qua
các dữ kiện đã có.
Chất
béo là gì
Về phương diện dinh
dưỡng, chất béo (lipid) là một
trong ba nhóm thực phẩm chính yếu và là nguồn năng lượng
quan trọng cho cơ thể. Chất béo là danh từ gọi chung cho mỡ
động vật, dầu ăn thực vật và sáp (wax).
Trong thực
phẩm, mỡ và dầu có cùng cấu trúc và hóa tính nhưng lý tính
khác nhau: ở nhiệt độ bình thường, dầu thì lỏng, mỡ lại đông
đặc.
Mỗi gram
chất béo đều cung cấp một số năng lượng như nhau là 9 Kcal.
Chất béo
được cấu tạo bởi các acid béo (fatty acid). Đây là những hợp
chất hữu cơ có carbon, hydrogen và oxygen. Số lượng hydrogen
trong mỗi phân tử quyết định đó là chất béo bão-hòa hoặc
bất- bão- hòa.
Acid béo
nào có số lượng hydrogen tối đa thì gọi là acid béo bão-hòa
(saturated).
Acid béo
nào thiếu một vài nguyên tử hydrogen thì gọi là acid béo
dạng đơn -bất-bão- hòa ; thiếu trên 4 nguyên tử hydrogen thì
là đa- bất- bão- hòa.
Ba dạng
acid béo này kết hợp với glycerol để tạo thành một chất hóa
học gọi là triglyceride. Triglycerids chiếm 98% tổng số acid
béo trong thực phẩm có chất béo, phần còn lại là cholesterol
và phospholipid.
Chất béo
bão-hòa có nhiều trong thịt động vật,
bơ, pho mát cứng, dầu cây cọ (palm), dầu dừa (coconut).
Chất béo đơn- bất- bão-
hòa có nhiều trong dầu olive, dầu cải (canola); trái bơ
(avocado), các loại hạt có vỏ
cứng (nut) và hạt giống (seed).
Chất béo đa-bất- bão- hòa
có nhiều trong ngô, dầu đậu nành, dầu cây rum (safflower),
dầu cá.
Chất béo bão- hòa có khả
năng tạo cholesterol trong máu cho nên người ta thường hạn
chế.
Chất béo đa- bất-bão- hòa
trong thực phẩm có khả năng hạ cholesterol trong máu nhưng
các chất béo bão hòa lại có khả năng tăng cholesterol lên
gấp đôi.
Vai trò
đối với cơ thể
Bốn phần trăm sức nặng cơ
thể là chất béo, trong các bộ phận, cơ bắp, hệ thần kinh
trung ương. Đó là các chất béo cần thiết (essential) vì các
cơ quan này sẽ ngưng hoạt động nếu không có chất béo.
Nam giới nên duy trì tỷ
lệ từ 8-25% chất béo, nữ từ 19-35%. Lực sĩ hơi thấp hơn,
nhưng nếu xuống dưới 5% cho nam và 16% nữ thì không tốt cho
sức khỏe và vận động kém đi.
Người mập phì có tỷ lệ chất béo trên 30%.
Chất béo
thường bị dư luận dân chúng cũng như một số nghiên cứu khoa
học cho là thành phần không tốt đối với sức khỏe con người,
nếu dùng quá nhiều.
Với mức
tiêu thụ vừa phải, chất béo rất cần cho cơ thể với các chức
năng sau đây:
a-
Chất béo là nguồn năng lượng quan trọng cho các chức năng
của cơ thể (ngoại trừ tế bào thần kinh não tủy mà đường
glucose là nguồn năng lượng chính yếu). Chỉ với 20 g chất
béo tồn trữ là ta có đủ năng lượng làm việc trong một ngày.
b-
Chất béo tham dự vào nhiều phản ứng sinh hóa học trong cơ
thể, cần thiết cho sự tăng trưởng của trẻ em, là thành phần
để tạo ra testosterone, estrogens, acid mật, là màng bọc của
các tế bào, làm trung gian chuyên chở các phần tử dinh
dưỡng, là dung môi hòa tan nhiều loại sinh tố như A, D, E,
K và giúp ruột hấp thụ các sinh tố này.
c-
Một acid béo rất cần thiết mà cơ thể không tự tổng hợp được
và phải được thực phẩm cung cấp là linoleic acid. Thiếu chất
này, da bị viêm và khô, bong vẩy, sự tăng trưởng cơ thể
giảm; nước tiêu thụ nhiều và bị ứ lại trong
cơ thể và khả năng sinh sản có thể gặp rối loạn.
d- Về ẩm thực, con người thích ăn chất béo vì
chúng làm tăng hương vị đậm đà cho món ăn, làm món ăn trông
hấp dẫn hơn. Nấu nướng với một miếng
thịt có nhiều vân mỡ tạo ra một
món ăn mềm ngon mà không phải nêm ướp.
e-
Chất béo lại chậm tiêu, no lâu đồng thời kích thích ruột
tiết ra hóa chất cholecystokinin. Chất này tác động lên não
bộ làm giảm khẩu vị, tạo ra một cảm giác no đủ, khiến cho ta
không muốn ăn nữa. Vì thế, nếu giảm số lượng chất béo xuống
dưới 20% tổng số năng lượng cung cấp để giảm cân, ta sẽ mau
đói và sẽ ăn nhiều hơn. Hậu quả là sẽ tăng cân thay vì giảm.
Muốn khắc
phục điều này, khẩu phần ăn cần được tăng cường chất xơ có
trong rau và trái cây để làm “chất độn”.
g- Mô mỡ có ở dưới da bảo vệ sự thất thoát nhiệt
của cơ thể; là lớp bao che và chống đỡ cho các cơ quan như
mắt, thận; hiện diện trong màng tế bào, trong các thớ thịt
Như vậy, với các vai trò
kể trên, ta thấy là chất béo cần thiết cho cơ thể.
Vấn đề là ta phải tổ chức
các buổi ăn như thế nào để cung cấp đủ năng lượng cho nhu
cầu của cơ thể, với một tỷ lệ chất béo hợp lý, vừa phải để
tránh hậu quả của dư thừa, mập phì..
Hậu quả
của dư thừa chất béo
Chất béo
chỉ trở thành có hại khi
con người lạm dụng
chúng hoặc ăn các chất dinh dưỡng khác quá với nhu cầu của
cơ thể mà lại không vận động, tiêu dùng. Năng lượng từ các
chất này sẽ tích tụ thành những lớp mỡ béo ở vùng mông, vùng
bụng, đưa tới mập phì.
Mập phì là là khi cân
nặng cơ thể quá mức trung bình khoảng 20%.
Chính
xác hơn, Viện Sức Khỏe Hoa Kỳ xác
định mập là khi chỉ số khối lượng cơ thể (body mass
index-BMI) ở mức 30 kg/m2 hoặc cao hơn, lý tưởng là trong
khoảng 21- 22 kg/m2.
Muốn tính
BMI, chia sức nặng kilo cho bình phương chiều cao tính theo
mét.
BMI dưới
18.5 là thiếu ký; từ 18.5- 24.9 là trung bình, từ 25- 29.9
là quá kí, trên 30 là béo phì bệnh hoạn.
Đo vòng
bụng cũng là một chỉ dẫn béo gầy: nam từ 102cm (37 inc)
trở lên, nữ từ 88cm (31.5 inc) là có nhiều rủi ro. Nên
đo ở eo/ thắt lưng, ngay trên xương hông là chính xác.
Ngoài ra
cũng có phương pháp để phân tích chất béo cơ thể như đo độ
dầy của da với thước cặp (skinfold caliper) hoặc bằng luồng
điện sinh học
(Bioelectrical Impedance- BEI).
Ngoài số lượng, địa điểm
mà chất béo trụ cũng quan trọng: ở nam giới chất béo thường
tụ chung quanh bụng với hình dạng như trái táo; nữ giới ở
vùng hông, có hình dạng như quả lê.
Béo phì ở vùng
bụng đưa tới nhiều rủi ro bệnh
tật hơn vì chúng tung những chất béo có hại vào mạch máu,
đưa tới cao huyết áp, tắc nghẽn động mạch rồi bệnh tim.
Quá nhiều
chất chất béo giữa các cơ quan trong bụng (visceral fat) là
rủi ro của tiểu đường loại 2, bệnh tim và cao cholesterol
trong máu.
JoAnn
Manson, một chuyên gia Dịch Tễ tại Đại học Harvard có ý kiến
là “Dù chỉ béo vừa phải cũng đưa tới nguy cơ sớm tử vong ”.
Người mập
phì thường hay mau mệt, hụt hơi thở nhất là trong khi ngủ
hoặc làm việc nặng; thiếu sức sống; đau nhức xương thịt. Họ
cũng hay bị bệnh tiêu hóa, bệnh tim, tiểu đường loại 2, xơ
gan, sưng phổi, viêm sỏi túi mật, giãn tĩnh mạch, cao huyết
áp, lâu lành vết thương, thống phong, hiếm muộn, giảm khả
năng đề kháng với bệnh tật, hội chứng Pickwickian với mập
phì, đỏ mặt, hụt hơi thở và chóng mặt...
Mập phì
cũng tăng nguy cơ ung thư vú, tử cung, nhiếp tuyến, ruột
già, thực quản. Riêng nguy cơ ung thư vú tăng rất cao ở phụ
nữ lên cân vào
tuổi đôi mươi và vào thời kỳ mãn kinh.
Ngoài ra cũng còn phải
nói tới ảnh hưởng tâm lý, buồn bực khi bị chế diễu mập thù
lù như cái cối xay lúa, không hấp dẫn hoặc kỳ thị trong việc
làm, ở trường học…
Phải
làm gì.
Trở lại với vấn đề ung
thư do quá nhiều chất béo trong cơ thể.
Sau khi trình bầy kết quả
nghiên cứu, 21 khoa học gia đưa ra 10 ý kiến để phòng tránh
rủi ro ung thư vì tích tụ quá nhiều
chất béo trong cơ thể:
1- Hãy cố gắng duy trì sức nặng cơ thể trung
bình;
2- Hãy vận động cơ thể đều đặn mỗi ngày;
3- Giới hạn tiêu thụ thực phẩm có nhiều calori,
tránh nước uống có đường, bánh ngọt bánh nướng, khoai tây
chiên, bơ gơ, thịt lườn lợn muối bacon;
4- Ăn nhiều thực phẩm gốc thực vật;
5- Giới hạn thịt đỏ và tránh thịt chế biến như
thịt nguội, bacon;
6- Giới hạn rượu;
7- Giới hạn tiêu thụ muối; tránh ngũ cốc mốc meo
(có chất độc aflatoxins).
8- Cố gắng đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng qua thực
phẩm tự nhiên
9- Phụ nữ trong thời kỳ sanh đẻ nên nuôi con bằng
sữa mẹ vì cho con bú giảm vài hormon có liên hệ tới ung thư
(báo cáo đầu tiên về ích lợi này) và giảm béo phì ở con;
10- Bệnh nhân thoát khỏi bệnh ung thư nên tuân
theo các hướng dẫn về dinh dưỡng, sức nặng và vận động để
phòng tránh ung thư mới cũng như bệnh mãn tính.
Mặc dù khuyến cáo này
nhắm vào dân chúng tại Hoa Kỳ, nhưng các ý kiến về ăn uống
và vận động có thể áp dụng cho mọi người tại mọi quốc gia.
Lý do là tại các quốc gia phát triển cũng như đang phát
triển, dịch mập phì đều trên đường gia tăng.
Giáo sư Martin Wiseman,
Giàm Đốc dự án nghiên cứu góp ý: “Nếu mọi người làm theo các
đề nghị của chúng tôi, họ có thể tin chắc rằng đã tuân theo
những lời khuyên quý giá nhất có thể có, căn cứ vào tất cả
các nghiên cứu khoa học đã được thực hiện cho tới thời điểm
này”.
Chúng ta hãy thử thực
hiện lời nhắc nhở của vị khoa học gia có tên Wiseman- “Người
Khôn Ngoan” này, biết đâu chẳng phòng tránh được căn bệnh
hiểm ác Ung thư.
Bác sĩ
Nguyễn Ý-Đức
Texas- Hoa Kỳ. |
VỀ MỤC LỤC |
|
ÐỨC ÔNG… CHỒNG Chuyện phiếm của Gã
Siêu |
Nếu có người nào mở miệng mà bảo :
- Đờn bà con gái khổ ơi là khổ.
Gã sẽ phùng má trợn mắt cực lực phản
đối cho tới cùng, bởi vì :
- Ai bảo đờn bà con gái là khổ, đờn bà
con gái sướng lắm chứ. Chỉ cánh đờn ông con giai mới thực sự
khổ mà thôi.
Trước hết, gã xin kể lể qua quít về nỗi
sướng của phe đờn bà con gái.
Trong những năm gần đây, một số những
ngày lễ của Tây phương đã được du nhập vào Việt Nam và phần
lớn những ngày lễ này chỉ làm lợi cho phe đờn bà con gái và
tôn vinh hình ảnh của người phụ nữ. Còn cánh đờn ông con
giai ấy hả ? Vào những ngày húy kỵ và hú…vía ấy, thì hãy cúi
đầu xuống như…muông chim.
Thứ nhất là ngày mười bốn tháng hai,
tục gọi là ngày lễ tình yêu, ngày hội tình nhân, tiếng Ăng
lê gọi đó là “St Valentine’s day”, ngày kính ông thánh
Valentinô. Còn giới trẻ thì gọi một cách ngắn gọn là ngày
Valentine.
Mở sách vở ra “ngâm kíu”, gã ghi nhận
có tới ba ông thánh Valentinô được mừng kính vào ngày mười
bốn tháng hai. Ông thánh Valentinô, linh mục tử đạo tại Rôma
vào năm 270. Ông thánh Valentinô, giám mục Terni, tử đạo vào
năm 273. Ông thánh Valentinô giám mục, vị tông đồ miền
Tyrol, qua đời vào năm 74. Chẳng biết vị thánh nào đã phò
trợ cho những người đang yêu, chỉ biết rằng trong ngày đáng
nhớ này, những anh con giai nào trót có bồ, thì liền phải ba
chân bốn cẳng chạy vội đi mua lấy ít nhất một bông hồng mà
tặng cho người yêu bé bỏng.
Và nếu trong ví còn rủng rỉnh tí tiền
còm thì cũng hãy nổi máu ga lăng, xin phép thầy bu đưa em đi
bát phố, ăn cơm tối ở nhà hàng, xơi chè chổm hổm ở quán đầu
ngõ, hay mần một tô…phở nhé, cả hai cùng húp sùm sụp. Ớt cay
xè, chảy cả nước mũi và nước mắt. Tình phải biết !
Ngày thứ hai là ngày mồng tám tháng ba,
được gọi là ngày quốc tế phụ nữ. Theo lịch sử, thì đó là
ngày đờn bà con gái đấu tranh, hay nói một cách nôm na, thì
đó là ngày phụ nữ vùng lên đòi quyền sống cũng như đòi
quyền…sướng.
Trong ngày ảm đạm và u ám này, những
anh chồng phải tỏ ra mềm nhũn trước bà xã của mình. Nào là
phải đi chợ đi búa, rồi lại còn phải nấu với nướng, giặt với
giũ, dọn với dẹp từ trong nhà cho ra đến tận ngoài ngõ… cho
đúng với cốt cách :
- Làm trai, rửa bát
quét nhà,
Vợ gọi thì dạ, bẩm
bà…em đây.
Sở dĩ có cảnh tréo
cẳng ngỗng như vậy vì trong ngày lịch sử này bà xã không
phải chỉ là nội tướng trong gia đình, mà còn lên ngôi nữ
hoàng thống trị, khiến ông chồng chỉ là…một con dân đáng
thương.
Ngày thứ ba là Chúa
nhật thứ hai trong tháng năm, tiếng Ăng lê gọi là “Mother’s
day”, tiếng Phú lãng sa gọi là “Fête des mères”, ngày lễ của
các bà mẹ, nhằm tôn vinh công đức của giới hiền mẫu.
Trong ngày êm ả này,
con cái thường quây quần bên người mẹ hiền, chúc mừng và
dâng quà để tỏ lòng hiếu kính đối với người đã vất vả nhọc
nhằn trong việc sinh thành cũng như dưỡng dục nên mình.
Nhiều nơi vẫn giữ tục
lệ này, đó là những người mà mẹ già còn sống, khi ra đường
thường cài một bông hồng trắng trên áo, để ám chỉ rằng người
ấy vẫn còn có được một diễm phúc tuyệt vời trên đời. Chẳng
thế mà Thượng tọa Thích Nhất Hạnh đã viết một cuốn sách nhỏ
trong mùa Vu lan báo hiếu. Cuốn sách mang tựa đề “Bông Hồng
Cài Áo”.
Giữa lúc phe đờn bà con
gái rôm rả và tưng bừng với những ngày lễ hội của mình :
cười cười nói nói, ấy là chưa kể tới thái độ vênh vênh váo
váo nữa là đàng khác, thì cánh đờn ông con giai cứ phải nín
khe, chẳng giành lấy được một ngày để tôn vinh giọt mồi hôi
và nỗi khổ cực của những anh chồng, của những ông bố.
Nghe đâu thiên hạ cũng
định chọn ngày mồng ba tháng tám để đối chọi lại với ngày
mồng tám tháng ba, nhưng xem ra ý đồ đen tối này đã bị thất
bại ngay từ trong trứng nước, vì chẳng ma dại nào nhớ tới
cái ngày chết tiệt ấy.
Về phương diện xã hội
phe đờn bà con gái vốn đã được bàn dân thiên hạ ưu đãi như
vậy, còn ca thán nỗi chi. Riêng về phương diện cá nhân, bản
tính của người phụ nữ cũng đã được Thượng đế cưng chiều và
gã có thể nói được rằng :
- Họ sướng từ trong bụng sướng ra.
Để diễn tả cái sự sướng ấy, một tác giả
nào đó đã đưa ra ba trường hợp điển hình, gã xin “copy” lại
như sau :
Trước hết, vừa mới sinh ra, họ liền
được xếp ngay vào “phái đẹp”, mà chẳng cần chờ ban giám khảo
các cuộc thi hoa hậu cân đo, săm soi gì hết. Rõ sướng ! Họ
khoái sắm đồ đẹp, thích đi mỹ viện, sửa đi, sửa lại : độn
cái này vô, lấy cái kia ra cũng được cho qua, bởi vì họ là
phái đẹp. Còn đờn ông con giai ấy hả ? Nếu làm như vậy thì
thiên hạ lập tức xì xào :
- Rõ là đồ bóng, đồ pêđê, đồ lại cái…
Tiếp đến, thử hỏi ở phòng khám béo phì
có bao nhiều bà bụng to cỡ “thùng nước lèo’, và bao nhiêu cô
hông bự cỡ “võ sĩ sumô”, kết mô đen : vòng tròn biết đi,
thùng phi di động ? Ấy vậy mà nếu đờn ông con giai lỡ có
bụng to đi chữa mập, thì liền bị các bà các cô nhòm nhòm,
ngó ngó, rồi ghé vào tai nhau phê cho một câu :
- Bụng bia, uống bia cho đẫy vào rồi
mới vậy.
Sau cùng, họ được phép quyến rũ ta, tức
cánh đờn ông con giai, bằng các độc chiêu như ánh mắt, nụ
cười, giọng nói, thôi thì lườm lườm nguýt nguýt, nhõng nhà
nhõng nhẽo…khiến bọn mày râu vốn được gọi là phái mạnh, phái
khỏe, bỗng trở nên yếu xìu : răm rắp làm theo ý muốn của họ,
cho dù có phải vào nhà đá mà nằm bóc lịch. Thế mà dư luận
lại còn lên tiếng chê bai ta là mất đạo đức, làm bại hoại
gia phong, làm tan nát cửa nhà.
Ngoài ra, họ lại còn rất tinh khôn, đó
là thích được người khác ôm, chứ nhất định không chịu bỏ
tiền ra để mà “ôm” ai bao giờ cả !!!
Với những so sánh khập khiễng kể trên,
gã bèn nghiệm ra rằng đờn bà con gái sướng ơi là sướng, còn
đờn ông con giai khổ ơi là khổ. Thân phận phái mày râu vốn
dĩ rẻ như bèo, đã thế lại còn khó mà thực hiện được cho
trọn vẹn vai trò của mình.
Càng nghĩ gã càng cảm thấy tủi cho cánh
đờn ông con giai. Đành phải thở dài thườn thượt mà ngán với
ngẩm :
- Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ.
Rồi giơ tay lên trời, lớn tiếng phân
bua :
- Chúng ta sinh ra đời dưới một ngôi
sao xấu.
Và cuối cùng, dứt khoát thề với đầu gối
mình mà rằng :
- Kiếp sau xin chớ làm chồng,
Làm cây thông đứng mà trông…đờn bà.
Bây giờ, gã xin bàn đến nỗi đoạn trường
đầy cơ cực, đầy cay đắng của cánh đờn ông con giai, nhất là
của những anh chồng trong cuộc đời bất hạnh của họ.
Mỗi khi có dịp gặp gỡ, trong câu chuyện
trao đổi, mấy cha dòng thường hay chê mấy cha triều như sau
:
- Các cha cứ việc xây rồi cất.
Cũng giống như mấy ông cán bộ nhà nước
:
- Có làm thời mới có ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Càng vẽ ra làm nhiều thì lại càng có
ăn, bởi vì mỗi dự án được thực hiện, thì mấy ông cán bộ cũng
bỏ vào túi riêng của mình chí ít là 30%.
Trong khi đó, mấy cha triều lại trách
mấy cha dòng như sau :
- Các cha cứ việc khấn hứa cho lắm vào,
rồi để tụi này phải giữ. Mặc dù bản thân các cha chẳng có gì
cả, nhưng khi cần thì lại có tất tật. Chẳng hạn các cha
không có xe riêng, nhưng nếu đi đâu, cần xe hai bánh thì có
xe hai bánh, cần xe bốn bánh thì có xe bốn bánh. Hơn thế
nữa, tiền xăng dầu khỏi phải lo vì đã có nhà dòng “bao cấp”,
trang trải từ A đến Z. Sống như vậy, thì quả thực cũng
“khó…mà nghèo”.
Trong khoảng thời gian gần đây, thiên
hạ thường hay nói đến hai chữ “linh đạo” tức là con đường tu
đức, con đường nên thánh. Có linh đạo dành cho đời tu, thì
cũng có linh đạo dành cho đời thường. Có linh đạo dành cho
các cha dòng thì cũng có linh đạo dành cho những ông bố. Có
linh đạo dành cho các sư huynh, thì cũng có linh đạo dành
cho những anh chồng. Có linh đạo các bà phước thì cũng có
linh đạo dành cho các bà mẹ. Có linh đạo dành cho các ma xơ
thì cũng có linh đạo dành cho các chị vợ. Thôi thì trăm hoa
đua nở, đúng như người Việt Nam chúng ta đã diễn tả :
- Chữ tu kia cũng có dăm bảy đường :
Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu…dòng.
Ngồi nghĩ vẩn nghĩ vơ,
gã thử so sánh đời sống của các thầy dòng với đời sống của
những anh chồng, gã bỗng nghiệm ra rằng đời sống của mấy anh
chồng gian nan hơn gấp bội so với đời sống của các thầy
dòng. Mặc dù chẳng phải khấn với hứa, thề với thốt về ba lời
khuyên Phúc âm, thế mà những anh chồng sống giữa đời, bên vợ
bên con, bên xã hội bên gia đình, đã phải tuân giữ một cách
“nghiêm văn chỉnh” những lời khuyên quí giá ấy, bởi vì nếu
buông lơi đi một tí, thì sẽ kéo theo những hậu quả trầm
trọng, đến nỗi quỉ thần cũng không lường nổi.
Thứ nhất là lời
khấn khó nghèo.
Nhìn vào thực tế, gã
nhận thấy vấn đề “đầu tiên” bao giờ cũng vẫn là vấn đề “tiền
đâu”. Nỗi ưu tư số một của nhiều người là gì nếu không phải
là nỗi ưu tư về “cơm áo gạo tiền”. Tiêu chuẩn để đánh giá sự
thành đạt của một người, ngày nay thiên hạ không còn dựa vào
nhân đức hay kiến thức, mà dựa vào lương bổng người ấy nhận
được. Càng kiếm được nhiều tiền, thì càng được coi là thành
công.
Và tiền bạc đã chi phối
mọi lãnh vực, từ bản thân đến gia đình, từ tình cảm cá nhân
đến chức tước ngoài xã hội, đúng như bàn dân thiên hạ đã
diễn tả :
- Tiền là tiên là Phật,
Là sức bật của người
già,
Là cái đà của danh
vọng,
Là cái lọng để che
thân,
Là cán cân của công
lý.
Như có lần gã đã nói
tới chiếc vòng luẩn quẩn :
- Người ta lấy tiền để
nhử đờn bà. Người ta lấy đờn bà để nhử đờn ông. Và người ta
lấy đờn ông để…nhử ra tiền.
Đúng thế, tự bản chất
Thượng đế đã phú bẩm cho anh con giai một thân thể “cốt xì
tô”, một thân thể cường tráng. Vì thế, anh con giai có bổn
phận phải dùng nó để lao động sản xuất, hầu đảm bảo một cuộc
sống ấm no cho bản thân cũng như cho vợ con. Tắt một lời,
cánh đờn ông có bổn phận, có nghĩa vụ phải kiếm ra…tiền!
Mặc dù không khấn khó
nghèo, nhưng thực sự phần lớn các anh chồng đều phải giữ đức
khó nghèo một cách triệt để, thậm chí còn phải giao nộp cho
tới đồng xu cuối cùng.
Nếu các thầy dòng không
được phép giữ tiền riêng cũng như không được phép tự do
hưởng dùng thoải mái những của cải vật chất, thì những anh
chồng cũng rứa và còn hơn thế nữa.
Đúng vậy, suốt năm suốt
tháng, anh chồng phải lao động cực nhọc, đổ mồ hôi sôi nước
mắt, mới kiếm được tí tiền còm. Thế nhưng với số tiền còm
này, anh chồng đừng hòng tơ tưởng mà trích ra một phần nhỏ
để làm quĩ riêng hay để nhậu nhẹt đàn đúm với bầu bạn bốn
phương. Trái lại, phải mau mắn đem về nộp cả cho chị vợ,
không thiếu một đồng, không hụt một xu.
Cái “đài” của chị vợ
suốt ngày ca đi ca lại bản nhạc vật giá leo thang, gạo châu
củi quế : tiền chợ tiền búa, tiền điện tiền nước, tiền mắm
tiền muối, tiền thuốc tiền thang, tiền học tiền phí…thôi thì
trăm thứ lỉnh kỉnh, khiến anh chồng chẳng còn dám “của chung
ai khéo vẫy vùng thành riêng”, bằng cách ăn bớt, ăn xén…
Mà chị vợ thì lại rất
giống kho bạc của nhà nước. Giao tiền thì hồ hởi, còn lấy
tiền thì nhăn nhó. Nộp tiền dễ dàng, còn rút tiền thì nhiêu
khê. Nghĩa là có đầu vào mà chẳng có đầu ra. Thậm chí ngay
cả đến những nhu cầu chính đáng như tiền cà phê, tiền xăng
dầu…anh chồng cũng phải gãi đầu gãi tai bẩm báo và xin xỏ
với bà xã. Và thế là đi đoong tất cả, ta mất luôn chủ quyền
trên cái ta đã chắt chiu…mần ra.
Thứ hai là lời
khấn trong sạch và khiết tịnh.
Chuyện rằng : Có một
cậu bé được vị ẩn sĩ đưa lên núi từ thưở nhỏ. Ngày ngày tu
hành học đạo, xa tránh cuộc sống trần gian. Cho đến ngày
kia, cậu bé trở thành một thanh niên khỏe mạnh và cường
tráng. Vị ẩn sĩ mới quyết định đem cậu ta xuống núi để thử
thách.
Cuộc sống phàm tục có
nhiều điều mới lạ khiến cậu ta hết sức ngạc nhiên và thích
thú. Gặp bất cứ điều gì, cậu ta cũng ngắm nghía và hỏi han
thầy mình.
Trên đường về, gặp mấy
cô gái vừa cấy lúa vừa cất tiếng cười trong trẻo, cậu ta
liền hỏi :
- Thưa thầy, cái gì thế
?
Vị ẩn sĩ ngước nhìn và
thấy mấy chiếc nón các cô đang đội, liền ôn tồn trả lời :
- Ồ, đó chỉ là mấy
chiếc nón mà thôi con ạ.
Về đến núi, tự nhiên
cậu ta đâm ra ngẩn ngơ như người mất hồn. Thấy vậy, vị ẩn sĩ
mới hỏi :
- Con đau bệnh hay sao ?
Cậu ta buồn bã trả lời :
- Chẳng biết tại sao con nhớ mấy chiếc
nón ấy quá, con thương mấy chiếc nón ấy lắm.
Câu chuyện dí dỏm này muốn nói lên một
sự thật, đó là nam và nữ, trai và gái thường lôi cuốn và hấp
dẫn lẫn nhau. Đó là điều hết sức tự nhiên và bình thường,
như tục ngữ vốn diễn tả :
- Trai thấy gái lạ, như quạ thấy gà
con.
Mặc dù không khấn trong sạch, nhưng
phần lớn các anh chồng đều phải giữ đức trong sạch đến từng
ly từng tí. Hai chữ “trong sạch” ở đây không được hiểu theo
nghĩa hẹp, nói tới việc giữ phép vệ sinh nơi thân xác, chẳng
hạn mỗi buổi sáng khi thức dậy phải lấy nước đánh răng và
rửa mặt, mỗi ngày phải tắm rửa và kỳ cọ cho sạch sẽ, râu tóc
phải cho tươm tất và áo quần phải cho gọn ghẽ :
- Đói cho sạch, rách cho thơm…
Cũng không được hiểu theo nghĩa rộng,
nói tới tình trạng tâm hồn không vướng mắc tội lỗi.
Trái lại, phải được hiểu theo một nghĩa
đặc biệt. Với nghĩa đặc biệt này thì trong sạch là nhân đức
giúp chúng ta xa tránh những vui thú thể xác bất chính,
không được phép. Cao điểm của đức trong sạch chính là đức
khiết tịnh, hoàn toàn xa tránh những vui thú xác thịt, kể cả
những vui thú chính đáng và được phép, bằng việc tự nguyện
khước từ hôn nhân. Cao điểm này được dành cho bậc tu trì.
Vì dây hôn phối đòi buộc phải chung
thủy, vì hạnh phúc của bản thân và sự bền vững của gia đình,
kể từ khi đưa nàng về…dinh, thì anh chồng lập tức phải chấm
hết những mối liên hệ bất chính, chớ có mà lơ tơ mơ hay mèo
chuột linh tinh thì có lúc phải…chết với bà.
Về khoản nào gã không biết, chứ về
khoản này thì các chị vợ rất ư là nhạy bén. Hở ra một tí,
thì cũng đủ tiêu tùng. Ấy là chưa nói tới khi sự thật bé tẻo
teo như con cóc, lại được các chị vợ phóng đại tô màu thành
to như con bò.
Ngoài ra, các chị vợ còn được hỗ trợ
bởi những “vệ tinh do thám”, những quan sát viên quốc tế,
như cô em, cô chị, bà thím, bà bác…Nhất cử nhất động đều
được tường trình và báo cáo. Nên chớ có mà dại dột.
Một tác giả nào đó đã giãi bày tâm
sự…buồn về việc làm chồng của mình bằng cách than ngắn thở
dài như sau :
- Chiều chiều bìm bịp kêu chiều,
Lấy vợ thì cũng lấy liều mà thôi.
Ban ngày làm việc tả tơi,
Ban đêm hầu vợ, phận tôi đêm trường.
Nằm chung thì bảo…chật giường,
Nằm riêng thì bảo…tơ vương con nào.
Lãng mạn thì bảo…tào lao,
Nghiêm trang lại bảo…người sao hững
hờ.
Khù khờ thì bảo…giai tơ,
Khôn lanh thì bảo…hái mơ bao lần.
Cả đời cứ mãi phân vân,
Tơ lòng bà xã biết mần sao đây.
Tính ghen của chị vợ là như một thứ rào
cản, khiến cho anh chồng bất nhóc nhách. Xem ti vi thì đừng
có mở mồm khen ca sĩ này đẹp, ca sĩ kia tươi mát. Ra đường
thì đừng có láo liên con mắt, nhìn bên nọ ngó bên kia, nhưng
phải cúi xuống, bước đều thẳng tắp một mạch. Gã xin ghi lại
nơi đây “lời vợ dặn” để phe ta cùng suy gẫm :
- Lái xe ra khỏi cổng nhà,
Vợ kêu giật ngược, diết da dặn rằng
:
Một đừng mơ mộng thơ trăng,
Đụng xe thi sĩ gẫy răng u đầu.
Hai đừng giữ ống nghe lâu,
Gái tơ õng ẹo ghẹo đầu dây kia.
Ba đừng ghé quán rượu bia,
Bốc men tơ tưởng nọ kia khó lường.
Bốn đừng mua báo dọc đường,
Bìa in hoa hậu soi gương liếc cười.
Năm đừng liến láo con ngươi,
Đồng nghiệp váy ngắn ẹo người đi qua.
Sáu đừng hoang phí thời gian,
Ngồi lâu trộm nghía cô hàng cà phê.
Bảy đừng thấy phở mà mê,
Bột ngọt loét dạ lại chê cơm nhà.
Tám đừng hò hát lang thang,
Tiếp viên ca sĩ giả ma hớp hồn.
Chín đừng dạo bước hoàng hôn,
Công viên hóa lá cô hồn rủ rê.
Mười đừng ghé rạp xi nê,
Ti vi nhà sẵn, lẹ về coi phim.
Rõ chưa, vợ hét đứng tim,
Đừng hòng tưởng bở như chim sổ lồng.
Nhắc đi nhắc lại cho thông,
Nếu không…tui quyết nhốt ông ở nhà.
Thứ ba là lời khấn vâng lời.
Người ta hỏi một em nhỏ
:
- Cháu muốn gì bây giờ
?
Em nhỏ trả lời ngay :
- Cháu muốn làm người
lớn ?
Người ta hỏi tiếp :
- Tại sao cháu lại muốn
làm người lớn ?
Em nhỏ đơn sơ nói :
- Cháu muốn làm người
lớn để được thoải mái nằm ngủ nướng mà không bị gọi dậy đi
lễ, để được vô tư chửi tục mà không bị la mắng, như…bố cháu
ấy!
Câu trả lời của em nhỏ,
tuy ngây ngô, nhưng cũng phản ảnh được phần nào ước vọng của
con người, đó là muốn có tí chức, tí quyền để được ra lệnh
và không phải vâng lời.
Phải chăng đây cũng
chính là một cơn cám dỗ mà con người thường gặp phải ở mọi
nơi và trong mọi lúc. Ngày xưa nơi vườn địa đàng, ông bà
nguyên tổ đã bị cám đỗ muốn được trở nên ngang hàng với
Thiên Chúa, nên đã không vâng lời Ngài, giơ tay hái trái cấm
mà ăn, để rồi phải cúi đầu lãnh nhận án phạt của đau khổ và
chết chóc.
Khi khấn giữ đức vâng
lời, thầy dòng tự nguyện từ bỏ ý riêng để chu toàn ý Chúa. Ý
Chúa ấy một phần nào đó được biểu lộ qua những lệnh truyền
của bề trên.
Cũng thế, bước vào đời
sống hôn nhân anh chồng tuy không khấn vâng lời, nhưng đã
thực sự giữ đức vâng lời một cách tối mặt ở mọi nơi, trong
mọi lúc và qua bất kỳ công việc gì, nhớn cũng như nhỏ, to
cũng như bé. Gã có thể suy diễn về đức vâng lời của anh
chồng như sau :
- Ta từ bỏ ý riêng, để
chu toàn ý trời. Ý trời ấy một phần nào được biểu lộ qua
những lệnh truyền của vợ ta.
Đây không phải là một
điều chi mới lạ do gã bịa ra, nhưng là một sự thật ngàn đời,
đã được cha ông chúng ta tôi luyện bằng những kinh nghiệm
xương máu, khi phát biểu :
- Nhất vợ nhì trời.
- Vợ muốn là trời muốn.
- Lệnh vua thua lệnh
bà.
- Lệnh ông không bằng
cồng bà.
Nếu ngày xưa : trai
thời trung hiếu làm đầu, thì hôm nay anh chồng cũng phải
trung với vợ và hiếu với bố mẹ. Nếu ngày xưa : quân xử thần
tử, thần bất tử bất trung, có nghĩa là vua xử bày tôi phải
chết, mà nếu bày tôi không chết, thì đó là bầy tôi bất
trung. Còn hôm nay, dù chị vợ có bảo anh chồng phải chết,
thì anh chồng cũng rất hoan hỉ vâng lời chị vợ mà ngạo nghễ
đi vào chỗ…tiêu tán đường !
Chẳng thế mà không
thiếu gì những vị tai to mặt lớn, vì chiều theo ý vợ cũng
như vì vâng lời vợ, mà mở rộng vòng tay đón nhận quà cáp,
sẵn sàng tham nhũng, vô tư xơi hối hộ, để rồi cuối cùng thân
bại danh liệt, nằm vắt tay lên trán mà ngẫm nghĩ chuyện đời
ở trong chốn lao tù.
Như thế mới biết đức
vâng lời của những anh chồng quả là cao vòi vọi :
- Lời nàng dạy phải
lắng nghe,
Mai sau khôn lớn mà
khoe mọi người.
- Vợ mình, mình sợ mới
khôn,
Vợ người mà sợ có hôm
què giò.
Vợ ta, ta sợ chẳng
lo,
Vợ người mà sợ, đồ bò
đồ trâu.
Thật tội nghiệp cho
những ông chồng, không tu ở nhà dòng nhưng lúc nào cũng tu ở
nhà mình. Không thề không hứa, nhưng lúc nào cũng phải tuân
phải giũ ba lời khấn : khó nghèo, trong sạch và vâng lời.
Quả là những vị thánh giữa đời thường.
Riêng gã, gã rất tâm phục
khẩu phục cuộc sống đầy cam go thử thách của họ, nên xin được
tôn phong họ lên làm “Đức ông…chồng”.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|