Ðời Sống Cộng Ðoàn
Chính Trị |
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội
Trong Thế Giới Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Phần Thứ Hai
Chương IV
Ðời Sống Cộng Ðoàn Chính Trị
85*
73. Ðời sống cộng đoàn ngày nay.
Thời đại chúng ta đã được đánh dấu bằng những biến đổi sâu
rộng ngay trong cơ cấu và các tổ chức của các dân tộc. Những
biến đổi này chính là kết quả của tiến bộ về văn hóa, kinh
tế và xã hội. Những thay đổi này ảnh hưởng nhiều đến đời
sống của cộng đoàn chính trị, nhất là trong những vấn đề
liên quan tới quyền lợi và bổn phận của mọi người trong việc
hành xử quyền tự do công dân và theo đuổi công ích, cũng như
trong vấn đề điều hòa những mối tương quan giữa các công dân
với nhau cũng như với chính quyền.
Nhờ ý thức
mãnh liệt hơn về phẩm giá con người, ngày nay tại nhiều nước
trên thế giới, người ta cố gắng thiết lập một thể chế chính
trị pháp lý để bảo vệ hữu hiệu hơn quyền lợi của cá nhân
trong đời sống công cộng, chẳng hạn quyền được tự do hội
họp, tự do lập hội, tự do phát biểu ý kiến và tự do tuyên
xưng tín ngưỡng cách riêng tư hoặc công khai: vì việc đảm
bảo những quyền lợi của con người là điều kiện thiết yếu để
người công dân, với tư cách cá nhân hay đoàn thể, có thể
tham gia cách tích cực vào đời sống và vào guồng máy quốc
gia.
Song song
với tiến bộ về văn hóa, kinh tế và xã hội, nhiều người còn
khao khát mãnh liệt muốn đảm nhận một phần lớn trách nhiệm
trong việc tổ chức cộng đoàn chính trị. Nhiều người đã ý
thức được mối quan tâm mỗi ngày một lớn là phải bảo vệ quyền
lợi của các dân tộc thiểu số trong một quốc gia, nhưng không
vì thế mà làm cho các thành phần thiểu số ấy xao lãng bổn
phận của họ đối với cộng đoàn chính trị. Hơn nữa, càng ngày
người ta càng tôn trọng những người có tư tưởng hay tôn giáo
khác với mình. Ðồng thời một sự cộng tác rộng rãi hơn cũng
được thiết lập để mọi công dân có thể thực sự được hưởng
những quyền lợi của con người chứ không riêng gì một số
người được ưu đãi.
Trái lại,
người ta lên án bất cứ thể chế chính trị nào, như hiện có ở
một vài nước, nếu nó ngăn chặn tự do công dân hoặc tôn giáo,
nếu nó làm gia tăng con số nạn nhân của tham lam và của tội
ác chính trị, nếu nó làm cho việc cai trị đi lệch đường,
thay vì mưu cầu công ích lại phục vụ cho một tập đoàn hay
chính những người cầm quyền.
Ðể xây dựng
một đời sống chính trị thực sự nhân đạo,
86* không gì tốt hơn là gây nơi thâm tâm mỗi người
ý thức về công bằng, lòng nhân ái, và tinh thần phục vụ công
ích. Cũng không gì tốt đẹp hơn là củng cố nơi mọi người
những xác tín căn bản về bản chất thích thực của cộng đoàn
chính trị cũng như về mục đích, về việc thi hành đúng và về
những giới hạn của công quyền.
74. Bản chất và mục đích của cộng
đoàn chính trị. Cá nhân, gia đình và tập thể,
tức là mọi thành phần của cộng đoàn công dân, đều ý thức
rằng tự sức mình không một thành phần nào có thể xây dựng
được một đời sống thực sự nhân bản, và đều nhận thấy cần
phải có một cộng đoàn rộng lớn hơn, trong đó tất cả mọi
người hằng ngày hợp lực để mưu cầu công ích mỗi lúc một tốt
đẹp hơn
1. Do đó họ thành lập nên cộng đoàn chính trị dưới
nhiều hình thức khác nhau. Vì thế cộng đoàn chính trị chỉ
hiện hữu là vì công ích. Chính công ích là lý do tồn tại, ý
nghĩa và là căn bản pháp lý cho cộng đoàn chính trị. Công
ích nói đây bao gồm tất cả những điều kiện của đời sống xã
hội; nhờ những điều kiện này, cá nhân, gia đình và đoàn thể
có thể triển nở cách trọn vẹn và dễ dàng hơn
2.
Tuy nhiên,
trong một cộng đoàn chính trị gồm nhiều người thuộc đủ mọi
thành phần, do đó họ có thể có nhiều quan điểm khác nhau một
cách chính đáng. Vì mỗi cá nhân đều bênh vực quan điểm riêng
của mình, nên để tránh cho cộng đoàn chính trị khỏi tan rã,
thì cần phải có một quyền bính để hướng dẫn nỗ lực của mọi
công dân nhằm tới công ích. Không phải hướng dẫn cách máy
móc hay độc đoán, nhưng tiên vàn như một sức mạnh tinh thần
dựa trên tự do và ý thức về nghĩa vụ và trách nhiệm.
Ðã hẳn cộng
đoàn chính trị và công quyền xây nền tảng trên bản tính con
người, cho nên cũng nằm trong trật tự do Chúa an bài, nhưng
việc định đoạt một thể chế chính trị hay cắt cử người cầm
quyền vẫn là quyền tự do của mọi công dân
3.
Cũng thế,
việc hành xử quyền bính chính trị trong chính cộng đoàn hoặc
trong các cơ quan đại diện cho quốc gia luôn luôn phải nằm
trong giới hạn của trật tự luân lý để đem lại kết quả và mưu
cầu công ích - công ích ở đây phải hiểu cách năng động - tùy
theo trật tự pháp lý đã hoặc sẽ được thiết lập cách hợp
pháp. Trong trường hợp đó mọi công dân buộc phải theo lương
tâm mà tuân phục
4.
87* Và do đó, những người lãnh đạo đương nhiên có
trách nhiệm, có thế giá và có uy quyền.
Tuy nhiên,
khi công quyền vượt quá quyền hạn của mình mà đàn áp công
dân, thì lúc đó chính công dân cũng không nên từ chối những
gì khách quan xét thấy phù hợp với đòi hỏi của công ích.
Nhưng họ được phép bênh vực quyền lợi của riêng mình cũng
như của đồng bào chống lại những lạm dụng của công quyền,
tuy nhiên phải tôn trọng những giới hạn của luật tự nhiên
cũng như luật Phúc Âm.
Những
phương thức cụ thể mà mỗi cộng đoàn chính trị áp dụng để tổ
chức cơ cấu và phân phối quyền hành có thể khác nhau tùy đặc
tính và bước tiến lịch sử của mỗi dân tộc. Dầu sao những
phương thức này phải luôn luôn nhằm đào tạo cho con người có
văn hóa, yêu chuộng hòa bình và có lòng yêu thương đối với
mọi người để giúp ích cho toàn thể gia đình nhân loại.
75. Sự cộng tác của mọi người
trong đời sống cộng đoàn. Thiết lập những cơ
cấu chính trị pháp lý là điều phù hợp với bản tính con
người, vì nhờ đó tất cả mọi công dân, không phân biệt ai, có
thể mỗi ngày một có cơ hội tham gia cách tự do và tích cực
vào việc thiết lập nền tảng pháp lý của cộng đoàn chính trị,
tham gia vào việc điều hành quốc gia và xác định mục tiêu và
phạm vi của những cơ quan khác nhau cũng như tham gia vào
việc lựa chọn người cầm quyền
5. Vậy mọi công dân cần phải nhớ tới quyền lợi và
đồng thời là bổn phận của họ trong việc tự do xử dụng lá
phiếu của mình để mưu cầu công ích. Giáo Hội ca ngợi và quí
trọng việc làm của những người vì lợi ích quốc gia mà dấn
thân phục vụ con người cùng nhận lãnh gánh nặng của trách
nhiệm này.
Ðể việc
cộng tác của các công dân có ý thức trách nhiệm về nhiệm vụ
đem lại kết quả tốt đẹp trong đời sống chính trị thường
ngày, cần phải có một nền pháp lý thiết định. Nền pháp lý
này giúp phân phối hợp lý các nhiệm vụ và các cơ quan công
quyền và đồng thời giúp bảo vệ một cách hữu hiệu quyền lợi
công dân mà không lệ thuộc vào ai. Quyền lợi của cá nhân,
gia đình và đoàn thể cũng như việc xử dụng những quyền đó
phải được công nhận, tôn trọng và cổ võ
6. Nhưng đồng thời cũng phải chú trọng tới bổn
phận công dân của họ. Nói đến bổn phận công dân, cần phải
nhắc tới nghĩa vụ phải đóng góp cho quốc gia những dịch vụ
về tài lực cũng như nhân lực mà công ích đòi hỏi. Chính
quyền không nên ngăn cản những hiệp hội có tính cách gia
đình, xã hội hay văn hóa, những đoàn thể hay tổ chức trung
gian. Cũng không nên cấm chế những hoạt động hữu hiệu và
chính đáng của các tổ chức ấy, nhưng tốt hơn nên sẵn sàng cổ
võ và phải có đường lối trong việc cổ võ
88*. Về phía người công dân, cá nhân hay đoàn thể
không nên trao cho chính quyền một quyền hành quá lớn, cũng
đừng đòi hỏi ở chính quyền những giúp đỡ cũng như những đặc
ân quá đáng không phải lúc, vì như thế là làm giảm trách
nhiệm của cá nhân, gia đình và cả các đoàn thể xã hội.
Ngày nay
hoàn cảnh mỗi ngày một phức tạp, buộc chính quyền nhiều lúc
phải can thiệp vào các vấn đề xã hội, kinh tế và cả lãnh vục
văn hóa để tạo điều kiện thuận lợi cho các công dân cũng như
các đoàn thể được tự do phát triển toàn diện con người cách
hữu hiệu hơn. Dĩ nhiên tùy địa phương và tùy theo sự tiến
hóa của mỗi dân tộc, mối tương quan giữa việc xã hội hóa
7 và sự tự trị cùng sự phát triển của con người có
thể hiểu theo nhiều cách. Nhưng nếu vì công ích mà phải tạm
thời hạn chế việc xử dụng các quyền công dân, thì khi hoàn
cảnh đã thay đổi, cần phải tái lập tự do càng sớm càng hay.
Song nếu chính quyền đi vào những hình thức chuyên chế hoặc
độc tài phạm đến quyền lợi cá nhân hay các đoàn thể thì thật
là vô nhân đạo.
Công dân
phải nung nấu tinh thần ái quốc với lòng đại lượng và trung
kiên chứ không hẹp hòi, nghĩa là làm sao để đồng thời vẫn
quan tâm đến ích lợi của toàn thể gia đình nhân loại, một
gia đình được liên kết lại bằng nhiều ràng buộc giữa các nòi
giống, chủng tộc và quốc gia.
Tất cả mọi
Kitô hữu phải ý thức về sứ mệnh đặc biệt của mình trong cộng
đoàn chính trị. Họ phải nêu gương sáng bằng cách phát biểu ý
thức trách nhiệm nơi chính mình và tận tâm phục vụ công ích.
Nhờ thế, qua hành động, họ cũng chứng minh cho thấy rằng làm
sao dung hòa được quyền bính với tự do, sáng kiến cá nhân
với sự liên đới và những đòi hỏi của toàn thể xã hội, dung
hòa được sự hiệp nhất sinh ích với những dị biệt phong phú.
Trong việc tổ chức trần thế, họ phải nhìn nhận những quan
điểm chính đáng dầu đối chọi nhau. Họ phải tôn trọng các
công dân khác hay các đoàn thể khi những người này bênh vực
quan điểm của mình cách thẳng thắn. Những đảng phái chính
trị có bổn phận cổ võ những gì họ xét thấy cần cho công ích,
chứ không bao giờ được đặt quyền lợi riêng trên công ích.
Muốn cho
mọi công dân xứng đáng nắm giữ vai trò của họ trong đời sống
của cộng đoàn chính trị, cần phải hết sức quan tâm đến việc
giáo dục cả về công dân và về chính trị. Việc giáo dục này
ngày nay rất cần thiết cho mọi người nhất là cho giới trẻ.
Những ai có khả năng hoặc có thể có khả năng làm chính trị,
một nghệ thuật khó khăn nhưng đồng thời rất cao cả
8, cần phải được chuẩn bị trước và họ phải hăng
hái hoạt động và không màng tới tư lợi hay lợi lộc vật chất.
Họ phải đem đời sống thanh liêm và sự khôn ngoan chống lại
bất công và áp bức, chống độc tài và ngoan cố của một cá
nhân hay một đảng phái chính trị. Họ phải đem lòng chân
thành và chính trực, hơn nữa tình thương và lòng dũng cảm
phải có trong hoạt động chính trị để tận tâm phục vụ ích lợi
của mọi người.
76. Cộng đoàn chính trị và Giáo
Hội. Ðiều rất quan trọng là cần nhận thức
chính xác về mối tương quan giữa cộng đoàn chính trị và Giáo
Hội, nhất là trong một xã hội gồm nhiều thành phần. Cũng cần
phải phân biệt minh bạch giữa những hành động của các tín
hữu hoặc cá nhân hoặc đoàn thể với danh nghĩa công dân dưới
sự hướng dẫn của lương tâm Kitô giáo và những hành động của
các tín hữu khi họ nhân danh Giáo Hội và hợp nhất với các vị
chủ chăn của họ.
Vì lý do
chức vụ và thẩm quyền của mình, Giáo Hội không cách nào bị
đồng hóa với một cộng đoàn chính trị, và cũng không hề cấu
kết với bất cứ hệ thống chính trị nào vì Giáo Hội vừa là dấu
chỉ vừa là đảm bảo cho tính cách siêu việt của con người.
Cộng đoàn
chính trị và Giáo Hội, mỗi bên với lãnh vực riêng của mình,
đều độc lập và tự trị. Tuy nhiên, dầu dưới danh hiệu khác
nhau, cả hai cũng đồng phục vụ cho con người trong sứ mệnh
cá nhân và xã hội. Tùy theo hoàn cảnh và địa phương, nếu cả
hai càng duy trì được sự cộng tác lành mạnh, thì cả hai càng
phục vụ lợi ích của con người một cách hữu hiệu hơn. Bởi vì
con người không phải chỉ thu hẹp trong nhãn giới trần gian.
Nhưng tuy sống trong lịch sử nhân loại, con người vẫn mang
một sứ mệnh trường cửu. Ðược thiết lập trong tình yêu của
Chúa Cứu Thế, Giáo Hội có sứ mệnh làm cho công bằng và bác
ái lan tràn trong mỗi dân tộc và giữa các dân tộc. Khi rao
giảng chân lý Phúc Âm và lấy giáo lý và chứng tá của cuộc
sống các Kitô hữu soi sáng mọi lãnh vực của sinh hoạt con
người, Giáo Hội cũng tôn trọng và cổ võ tự do chính trị cũng
như trách nhiệm của các công dân.
Và được sai
đi để loan báo Chúa Kitô là Ðấng Cứu Thế cho mọi người, các
Tông Ðồ và các Ðấng kế vị cũng như những cộng tác viên của
các ngài đều dựa vào quyền lực của Thiên Chúa để làm việc
tông đồ; còn Thiên Chúa thường tỏ rõ sức mạnh của Phúc Âm
trong chính sự yếu hèn của các chứng nhân. Vậy bất cứ ai
hiến thân phục vụ lời Chúa đều phải dùng đến đường lối cũng
như phương thế riêng của Phúc Âm. Những đường lối và phương
thế này khác biệt ở nhiều điểm với đường lối và phương thế
của trần gian.
Thực thế,
các thực tại trần thế và những thực tại siêu phàm nơi con
người đều liên kết mật thiết với nhau. Và chính Giáo Hội
cũng xử dụng các thực tại trần thế tùy mức độ mà sứ mệnh
riêng của mình đòi hỏi. Tuy nhiên, Giáo Hội không cậy nhờ
vào những đặc ân của thế quyền
89*. Hơn thế nữa, Giáo Hội cũng sẽ từ chối việc xử
dụng một số quyền lợi đã được hưởng một cách chính đáng khi
thấy rằng việc xử dụng những quyền lợi đó làm cho người ta
nghi ngờ về lòng thành thực muốn làm chứng nhân của mình,
hoặc trước những hoàn cảnh mới đòi hỏi phải xử sự cách khác.
Tuy nhiên, bất cứ ở đâu và bất cứ thời nào Giáo Hội cũng
phải được tự do rao giảng đức tin, truyền bá học thuyết xã
hội của mình cũng như được dễ dàng chu toàn sứ mệnh của mình
giữa loài người. Giáo Hội cũng phải được quyền nói lên nhận
định luân lý của mình về cả những vấn đề liên quan đến lãnh
vực chính trị khi quyền lợi căn bản của con người hay phần
rỗi các linh hồn đòi hỏi. Nhằm mục đích trên, Giáo Hội xử
dụng mọi phương tiện và chỉ những phương tiện nào phù hợp
với Phúc Âm và lợi ích của mọi người tùy theo thời đại và
hoàn cảnh khác nhau.
Trung thành
theo sát Phúc Âm và thi hành sứ mệnh của mình trong thế
giới, Giáo Hội phải cổ võ và nâng cao bất cứ điều gì là
chân, thiện, mỹ trong cộng đoàn nhân loại
9. Làm như thế tức là Giáo Hội xây dựng hòa bình
cho con người để làm vinh danh Thiên Chúa
10.
Chú
Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo
trước)
85* 1) Ðời sống chính
trị hiện nay: đang thay đổi (số 73a). Sự ý thức về nhân phẩm
khiến con người đi tìm một chế độ chính trị biết bảo đảm
nhân quyền (b), bảo đảm việc tham gia của nhiều người vào
chính trị và sự tôn trọng dân tộc thiểu số cũng như những kẻ
phát biểu ý kiến khác với mình (c). Do đó con người lên án
chế độ xâm phạm quyền tự do và chỉ tìm kiếm ích lợi riêng
(d). Muốn thành công phải đổi mới tâm trạng (e).
2) Cộng
đoàn chính trị: Nguyên khởi và mục đích là công ích (số
74a). Cần thiết phải có chính quyền (b). Cộng đoàn chính trị
và chính quyền đều bởi Thiên Chúa Tạo Hóa mà có. Còn chế độ
chính trị thì trái lại phải chọn lựa cách tự do (c). Khi
chính quyền tìm kiếm công ích hợp với luân lý, thì lương tâm
buộc phải vâng theo luật pháp (d). Chế độ chính trị, dưới
bất cứ hình thức nào, tùy theo đặc tính của từng dân tộc,
bao giờ cũng phải phục vụ con người và nhân loại (e).
3) Sự cộng
tác vào đời sống chính trị: thích hợp với bản tính con
người: hai phương tiện cụ thể là quyền bỏ phiếu và hoạt động
chính trị (số 75a). Xã hội phải có trật tự pháp lý: công
ích. Công dân không nên nhượng quyền quá đáng cho chính
quyền, đàng khác cũng không nên đợi chờ chính quyền làm quá
nhiều (b). Qui tắc về việc chính quyền can thiệp và chế tài
quyền lợi (c). Lòng yêu quê hương (d). Vai trò của tín hữu
trong cộng đoàn chính trị (e). Giáo dục chính trị (f).
4) Cộng
đoàn chính trị và Giáo Hội: Phân biệt hoạt động riêng của
tín hữu và của Giáo Hội (số 76a). Giáo Hội không chủ trương
một chế độ chính trị nào (b), nhưng cả hai có lãnh vực và
thẩm quyền riêng và nên cộng tác với nhau (c). Giáo Hội
không nhờ quyền thế phàm trần (d), và dù phải xử dụng của
cải trong khi thi hành sứ mệnh riêng nhưng không tìm kiếm
đặc ân; chỉ đòi hỏi tự do để rao giảng đức tin và bảo vệ
nhân quyền cũng như sứ mệnh của mình (e), do đó góp phần cho
hòa bình và vinh danh Thiên Chúa (f).
86* Muốn canh tân xã
hội qua phạm vi chính trị, con người phải bắt đầu từ nội
tâm: ở đây và trong số 75d-f, Công Ðồng phác họa một chương
trình căn bản về giáo dục công dân:
1) Những
đức tính chính yếu: công bằng, lòng tử tế đối với đồng bào,
ý muốn phục vụ công ích, lòng yêu quê hương, sự ý thức về ơn
gọi của tín hữu trong cộng đoàn. Tín hữu phải làm gương hoạt
động vì lương tâm, vâng lời với tinh thần tự do, có sáng
kiến trong khi phải tôn trọng đồng bào, biết cộng tác với
người khác cả với những ai không đồng ý với mình.
2) Phải
hiểu rõ đặc tính cộng đoàn chính trị; mục đích của chính
quyền cũng như cách thức hành động trong những giới hạn phải
có.
3) Về hoạt
động trong cộng đoàn, phải biết chấp nhận sự kiện có người
không đồng ý với mình nghĩa là tôn trọng công dân và đảng
phái có đường lối khác. Giáo dân có thể hoạt động trong
những đảng phái chính trị nào mưu ích chung. Và khi có đủ
khả năng để dấn thân vào cuộc đấu tranh chính trị, phải
chuẩn bị trước (cần phải học biết lịch sử, kinh tế, xã hội
học, pháp lý, v.v...), phải từ bỏ tư lợi (kẻo dễ bị mua
chuộc). Phải trong sạch và khôn ngoan chống lại moị bất công
và áp bức cũng như sự thống trị chuyên chế và ngoan cố, bất
cứ là của một cá nhân hay của một đảng phái. Chính trị gia
phải phát triển nhân đức thành thật, thanh liêm, thương yêu
và can đảm để phục vụ mọi người.
87* Phải chăng người
công giáo còn chưa ý thức đầy đủ về điều này? Vâng, tuân
theo lề luật quốc gia không phải vì sợ chính quyền, cũng
không phải vì nhìn nhận rằng muốn hưởng thụ tự do thì phải
tôn trọng tự do kẻ khác. Nhưng vâng theo luật vì lương tâm:
vì biết rằng chính quyền là do Thiên Chúa muốn có và vì
nhiệm vụ phải phục vụ công ích. Dĩ nhiên các luật đó phải là
luật công bằng và phục vụ cho công ích; dĩ nhiên có trường
hợp các luật lệ không bó buộc một người nào đó vì những
nguyên nhân "thác miễn" hay vì "thể ý pháp"; dĩ nhiên có nhà
thần học chủ trương rằng một số luật chỉ có tính cách hình
luật thuần túy (một lập trường mà các nhà thần học càng ngày
càng từ bỏ...), nhưng nếu chúng ta chỉ biết đề cao trường
hợp luật trừ thay vì nhấn mạnh tính cách bó buộc của luật
pháp, e rằng chúng ta sẽ góp phần quá nhỏ vào việc canh tân
xã hội.
88* Ðức Piô XI
(Quadragesimo anno, x. Dz 3738/2265-2266) tuyên bố nguyên
tắc bổ trợ dạy rằng, những cộng đoàn cấp trên không được giữ
riêng cho mình tất cả những việc mà các cộng đoàn cấp dưới
có thể thực hiện được. Nguyên tắc có giá trị cho quốc gia và
các cộng đoàn trong quốc gia (trong Tuyên Ngôn về Giáo Dục
Kitô giáo Công Ðồng nhắc lại rằng phải áp dụng nguyên tắc
trong phạm vi giáo dục, số 3b), cho các quốc gia và xã hội
quốc tế Pacem in terris, AAS 55 (1963), trg 294; và số 86c
sau này), cũng như cho các hội đoàn giáo dân và Giáo Hội
(Piô XII, diễn văn cho hội đồng các Ðức Hồng Y ngày
20-2-1946: AAS 38 (1946), trg 145). Sở dĩ ta phải công nhận
nguyên tắc trên là vì phẩm giá con người, cũng như vì bản
thể của xã hội là nhằm phục vụ công ích, chứ không phải chỉ
vì lý do thực tế để tránh xa những lạm dụng của các cộng
đoàn trên.
Phải lưu ý:
nguyên tắc không chỉ cấm các cộng đoàn cấp trên, nhất là
quốc gia, làm thay công việc của các cộng đoàn cấp dưới một
cách vô lý, mà còn nêu ra phương diện tích cực: trước hết là
quốc gia phải cung cấp cho công ích mọi điều các cộng đoàn
cấp dưới không đủ khả năng để làm (Populorum progressio, 33;
37; - Mater et Magistra: AAS 53 (1961), trg 414), hơn nữa,
quốc gia phải làm sao để giúp sức và phương tiện cho các
cộng đoàn cấp dưới (Mater et Magistra, n.v.t., trg 438-439).
Câu tiếp
theo của Công Ðồng nhắc lại cho chúng ta rằng sở dĩ quốc gia
nhiều khi không tôn trọng nguyên tắc bổ trợ là vì thái độ
thiếu trách nhiệm của công dân.
89*
Lịch sử gần đây của nước nhà có thể nhắc lại cho chúng ta
rằng thái độ ngược lại, nghĩa là trông nhờ vào đặc ân của
chính quyền, rất nguy hại cho chính sứ mệnh của Giáo Hội.
Hơn thế nữa, tìm kiếm đặc ân cho mình có thể vi phạm công
bằng phân phối. Vả lại, dù có thể không phạm lỗi gì nhưng
việc tìm kiếm đặc ân đó không thích hợp với sứ mệnh của Giáo
Hội là phải phục vụ mọi người theo gương của Chúa Giêsu,
Ðấng đã không đến để được hầu hạ (Mc 10,45). Thái độ siêu
thoát và quảng đại như thế càng khó tìm thấy ở những xã hội
thấm nhuần tinh thần kính trọng các tôn giáo và các vị đại
diện tôn giáo.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
Truyền giáo hôm nay theo từng lứa tuổi
|
Nguyễn Thảo Nam & Lê An Hòa
Institute for Human
Development,
Seattle University,
Washington
Vấn Đề Vĩ
Đại & Khẩn Thiết
Mối quan tâm hàng đầu đối với Giáo Hội Hoa Kỳ trong những
năm gần đây đó là số tín hữu Công Giáo rời bỏ Giáo Hội quá
đông. Theo tài liệu thống kê trong những thập niên 80, có
khoảng 15 triệu người Công Giáo tại Hoa Kỳ rời bỏ Giáo Hội.
Những anh chị em này thuộc mọi tầng lớp khác nhau, nhưng
phần đông là ở lứa tuổi từ 18 đến 24. Một khi họ đă ra đi,
thật khó mong họ trở về. Nếu có ai đó ước mong trở lại, thì
thường phải đến mấy chục năm sau.
Chẳng hạn một người bỏ Giáo Hội vào năm 1980, và lúc đó anh
ta 20 tuổi, thì năm nay anh đă là 43 tuổi rồi, và vẫn c̣òn ở
ngoài Giáo Hội. Số người ra đi từ những năm trước, lại cộng
thêm nhiều người trẻ ra đi hàng năm, nên con số cứ măi tăng
dần.
Hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ cũng như các chủ chăn băn khoăn, cố
gắng tìm mọi cách níu kéo, và hy vọng con số lớn lao ấy ngày
sẽ giảm đi trong những thập niên tới. Nhưng buồn thay, con
số ấy chẳng những không giảm đi, mà lại vẫn tiếp tục gia
tăng trong những năm gần đây. Cho đến nay, số anh chị em rời
bỏ Giáo Hội tại Hoa Kỳ đă lên đến khoảng mười bảy triệu
(17.000.000). Một con số khủng khiếp, một mất mát lớn lao.
Sự ra đi của họ làm chúng ta đau ḷòng Giả sử nhóm người này
gom lại thành một giáo phái, thì giáo phái này sẽ có con số
đông thứ hai so với tất cả các giáo phái trên đất Mỹ, và
nhóm này đông gấp hai lần số người Công Giáo Việt Nam tại
quê nhà cũng như rải rác khắp nơi trên thế giới. Cho đến
nay, người ta ước tính có khoảng hơn 65 triệu người Công
Giáo trong Giáo Hội Hoa Kỳ, nhưng lại mất đi hơn một phần tư
-17 triệu - không còn tham dự vào đời sống Giáo Hội. Người
ta “ước tính” khoảng 48 triệu người Công Giáo tại Hoa Kỳ
c̣òn sống đạo, có nghĩa là còn thỉnh thoảng lui tới nhà thờ
và tham dự bí tích. Và trong số những người c̣òn đến với
Giáo Hội, có lẽ lại c̣òn có rất nhiều người đang gặp khủng
hoảng về đức tin, hoặc sống đạo hời hợt. Thực trạng này gợi
cho chúng ta những suy tư về đối tượng truyền giáo hôm nay.
Nếu truyền giáo xưa nay làm theo mệnh lệnh của Đức Kitô: rao
giảng tin mừng cho muôn dân, rửa tội cho họ, đem anh em
“lương dân” trở về với Chúa, th́ì truyền giáo ngày nay lại
đ̣òi hỏi một nhu cầu mới, đó là làm như Đức Kitô đă làm: “đi
t́ìm con chiên lạc,” “t́ìm đồng bạc bị đánh rơi,” là mở rộng
ṿòng tay của người cha trong dụ ngôn “người con hoang đàng”
để đón nhận cả đứa con đi hoang, lẫn người con càm ràm về
trong tổ ấm gia đình của cha ḿình.
Có người nói đùa, nếu có ai hỏi rằng trong năm qua các công
ty sản xuất được bao nhiêu triệu cây tăm xỉa răng, thì họ sẽ
cho bạn biết con số chính xác không trật một cây. Hoặc nếu
bạn hỏi có bao nhiêu điếu thuốc lá được tiêu thụ trong mười
năm qua, thì bạn cũng sẽ nhận được câu trả lời chính xác như
thế. Nhưng khi hỏi có bao nhiêu triệu người Công Giáo, th́ì
người ta chỉ có thể ước tính với con số gần đúng mà thôi.
Điều này cũng gợi lên một vấn đề đáng lưu tâm hôm nay, đó là
sự gắn bó trong các cộng đoàn xứ đạo đang rời rạc lắm rồi.
Trong các Hội Thánh Tin Lành có chương tŕinh membership, họ
sinh hoạt từng Hội Thánh tương đối nhỏ và phải đóng tiền quỹ
hàng năm, nên các Mục sư có thể biết rơ ai c̣òn sống đạo
hoặc ai đã bỏ đi. Trong khi đó, các giáo xứ Công Giáo khá
lớn mà lại ít linh mục cũng như tu sĩ nam nữ, sinh hoạt cộng
đồng chỉ nổi bật ở một số nhóm và đoàn thể, nên số đông cọ̀n
lại, đến hay đi mà chẳng mấy ai biết tới. Người có thể biết
rõ nhất ai c̣òn, ai bỏ đó là người thân thuộc trong gia
đ́ình hoặc bạn bè thân hữu.
Thế thì những người bỏ Giáo Hội này chẳng là ai xa lạ, mà có
khi là con em của chúng ta, là bè bạn, là xóm giềng, là đồng
nghiệp, là những người ḿình gặp gỡ mỗi ngày nơi công sở, là
đứa bạn ngồi chung một bàn trong lớp học, là đứa bạn cùng
chơi thể thao với ḿình mỗi chiều, v.v... Họ có mối quan hệ
thân thiết với chúng ta trong gia đì́nh, trong ḍòng tộc,
trong tình người. Họ có mối quan hệ với chúng ta trong Thân
Thể Mầu Nhiêm Đức Kitô--Giáo Hội. Nên khi họ ra đi, mình cảm
thấy nhói đau.
Nguyên
Nhân Đa Dạng
Theo lối nói Việt Nam chúng ta, có người cho rằng những anh
chị em này đă bỏ đạo chăng! Không, họ không bỏ đạo, họ không
chối bỏ niềm tin. Họ chỉ không c̣òn tha thiết gì với Giáo
Hội, với cộng đoàn, với đời sống bí tích. Hàng ngàn cuộc
phỏng vấn cho biết có khoảng tám mươi lăm phần trăm số người
này vẫn nghĩ đến việc lo cho con cái học hành các lớp ở nhà
thờ trong tương lai. Như thế, họ không phải là những người
khủng hoảng niềm tin. Họ khủng khoảng vì cơ chế, vì luật lệ,
và xung khắc với những con người trong cơ chế ấy.
Vì sao họ ra đi? Hàng loạt cuộc nghiên cứu tiến hành trong
vài chục năm qua cho biết có nhiều nguyên nhân khiến họ bỏ
Giáo Hội. Đơn cử một số nguyên nhân do Hội Đồng Truyền Giáo
Hoa Kỳ nêu lên, có thể đó là những xung đột trong gia đ́ình.
Những người này là một số bạn trẻ,
lớn lên trong một nền văn hóa tương đối tự do và cởi mở.
Họ có khuynh hướng “giữ đạo” theo chiều hướng cá nhân hơn là
bị ép buộc bởi lối sống đạo đức truyền thống của bố mẹ. Bắt
nguồn từ một lối sống nặng tính cá nhân, nên cách sống đạo
cũng thiên về sống đạo cá nhân. Họ cho rằng tôn giáo là mối
quan hệ giữa cá nhân với Thiên Chúa, không nhất thiết phải
lệ thuộc vào một cơ chế của Giáo Hội. Do đó, những bạn trẻ
này thường phản ứng mạnh mẽ trước những lời khuyên răn nặng
tính luân lý của bố mẹ. Những phản ứng này thường tạo nên
bầu khí căng thẳng giữa hai thế hệ, và kết quả cuối cùng dẫn
đến là thôi việc đến nhà thờ hoặc nghỉ luôn các sinh hoạt
tôn giáo. Một số bạn trẻ khi rời tổ ấm gia đình vì xung đột,
thì cũng là lúc họ bỏ luôn cả Giáo Hội. Tuy nhiên, không
phải ai bỏ nhà ra đi cũng bỏ luôn Giáo Hội. Nhưng nếu những
bạn trẻ nào có xung khắc về vấn đề tôn giáo ngay trong gia
đ́ình, thì họ có khuynh hướng thôi việc giữ đạo.
Nhóm người thứ hai, không bất kỳ ở lứa tuổi nào,
một khi bị tổn thương do Linh mục, tu sĩ hoặc những người
lănh đạo gây nên, thường có khuynh hướng bất măn và dẫn đến
bỏ luôn Giáo Hội. Có khi là những kinh nghiệm đau lọ̀ng từ
những lớp giáo lý, sinh hoạt đoàn thể. Có khi là những vấn
nạn cá nhân, thay vì cần được nâng đỡ thì lại bị xúc phạm.
Hoặc có khi chính các mục tử không nhạy bén với những hoàn
cảnh đặc biệt của họ, hoặc gây thêm khó khăn cho họ trong
một số trường hợp như tang chế, cưới hỏi, rửa tội v.v...
Những anh chị em này cần được lắng nghe từ phía Giáo Hội. Có
khi trong sự khiêm tốn của Đức Kitô, các vị lănh đạo có thể
gởi lời xin lỗi, thông cảm, giao hảo và mời gọi chính đương
sự trở về với cộng đoàn Giáo Hội. Đây là những phút giây ân
sủng quí báu, và chính các mục tử hay những người cộng tác
là khí cụ của dạng ân sủng đó.
Nhóm người thứ ba là các bạn trẻ,
những người không cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong
các cộng đoàn giáo xứ bởi vì phụng vụ buồn tẻ, bài giảng
lạnh nhạt không hồn hoặc nặng tính luân lý. Trong khi người
trẻ muốn cảm nghiệm được có sự hiện diện thực sự của Thiên
Chúa trong một cộng đoàn đức tin, thì họ lại gặp phải những
kinh nghiệm ngược lại. Họ không cảm thấy những người chung
quanh có sự gắn bó sâu đậm với Đức Kitô. Họ cảm thấy thánh
lễ như một thói quen, hoặc đến nhà thờ v́ì lề luật chứ không
thấm sâu trong đời sống tâm linh. Các bạn không cảm thấy
thánh lễ lôi cuốn họ đủ. Theo các cuộc phỏng vấn với các bạn
trẻ đă bỏ thánh lễ lâu ngày, phần đông phản ứng mạnh mẽ với
các bài giảng buồn tẻ, và phụng vụ nhàm chán. Vấn đề này cần
được đặt ra từ cả hai phía. Một mặt, nhiều người Công Giáo
hôm nay không được đào tạo để có ý thức xây dựng cộng đoàn.
Họ đến với cộng đoàn để nhận lănh, nhưng lại thiếu ý thức
đóng góp. Chính vì vậy, khi cộng đoàn không đáp ứng nhu cầu
tâm linh cho họ là họ rút lui hoặc đi tìm đến các giáo phái
Tin Lành. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tiêu cực từ phía
những người bỏ đi, những người ở lại cũng cần suy tư xem thử
ḿình nên làm gì để bầu khí thờ phượng cũng như các sinh
hoạt cộng đoàn trở nên sinh động hơn. Chẳng hạn một bài
giảng có chiều sâu và thấm chất Tin Mừng sẽ thu hút được
nhiều bạn trẻ, vì chính họ đang khao khát cuộc sống tâm
linh. Một ca đoàn chuẩn bị chu đáo và hát xướng tâm tình sẽ
lôi kéo được nhiều bạn trẻ đến với giáo xứ mình. Theo những
cuộc nghiên cứu mới nhất với giới trẻ tại Hoa Kỳ trong năm
qua, các bạn cho biết có hai điều
lôi cuốn họ đến với thánh lễ: đó là bài giảng sâu sắc và
thánh nhạc sinh động.
Bên cạnh nội dung và chất lượng của phụng vụ, nhiều người
cần đến bầu khí thân mật, gần gũi và gắn bó của những người
trong cùng họ đạo. Sự gắn bó này đóng một vai tṛò thiết yếu
trong việc giúp người khác ở lại với cộng đoàn Giáo Hội.
Hiện nay, phần đông giáo hữu tây phương sống đạo theo lối cá
nhân, nên khi đến với Giáo Hội họ cũng đến với thái độ cá
nhân. Chính vì lối sống đạo cá nhân, ḿình ít khi để ý đến
người chung quanh, những người cùng tham dự phụng vụ và sinh
hoạt tôn giáo với mình. Đôi khi một cái bắt tay trong khi
chúc b́ình an cũng gượng ép, lạnh lùng. Từ một thực trạng
như thế, một số người cảm thấy họ quá xa lạ với cộng đoàn.
Họ cảm thấy mì́nh là một khán giả vô danh trong một nhà hát
nhàm chán. Chính lý do này cũng khiến một số người không
c̣òn hào hứng đến với cộng đoàn. Một số trong họ t́ìm đến
các Hội Thánh Tin Lành, nơi mà họ cảm thấy được ân cần tiếp
đón và có bầu khí thân mật t́ình người. Họ cảm thấy ḿình
được quan tâm và có giá trị trong một cộng đoàn tôn giáo.
Điều này thật dễ hiểu, bởi vì chẳng ai muốn tham gia vào một
tổ chức mà nơi đó tất cả đều xa lạ với nhau. Có lẽ đây cũng
là vấn đề gợi cho chúng ta suy tư.
Đôi khi mình “sốt sắng quá”, chỉ nghĩ đến Chúa mà quên người
anh em bên cạnh chăng! Thái độ nghiêm trang thái
quá đôi khi lại trở thành dửng dưng lạnh lùng. Lối sống đạo
xưa nay khắt khe đến độ ngại nở một nụ cười ở trong nhà thờ,
nên hôm nay ḿình cũng nhì́n nhau bằng ánh mắt tôn giáo
nghiêm nghị với nhau. Những anh chị em rời Giáo Hội vì lý do
này có lẽ đang khao khát một nụ cười, hay một lời chào đón
từ những người trong Giáo Hội. Họ sẽ sẵn sàng quay về, nếu
có ai đó thực sự quan tâm đến họ.
Ngoài những vấn đề nêu trên, có một vấn đề tương đối gai góc
hiện nay đó là vấn đề giáo huấn về luân lý của Giáo Hội. Một
số đông bạn trẻ giằng co với những giáo huấn của Giáo Hội về
vấn đề tính dục trước hôn nhân, ngừa thai nhân tạo, li dị,
v.v... Nhiều bạn trẻ phản ứng lại quyền giảng dạy của Giáo
Hội về những vấn đề này. Một số khác không phản đối mạnh mẽ,
nhưng khi đă quan hệ tính dục ngoài hôn nhân, hoặc ngừa thai
nhân tạo, thường ngại đến xưng tội và lănh nhận bí tích. Khi
không được nuôi dưỡng bằng đời sống bí tích, các bạn trẻ
thường có khuynh hướng xa dần đời sống đạo và cuối cùng
quyết định thôi hẳn. Bên cạnh những người độc thân, một số
người trong đời sống gia đình khi áp dụng ngừa thai nhân tạo
cũng có phản ứng mạnh với huấn quyền Giáo Hội. Họ yêu cầu
Giáo Hội cần thay đổi lối giảng dạy về luân lý. Thật vậy,
đây là một vấn đề tương đối phức tạp trong vấn đề sống đạo
giữa một nền văn hóa tự do tại Hoa Kỳ và các nước Châu Âu.
Thật ra, trên bình diện luân lý, có những vẫn đề Giáo Hội
không thể thay đổi theo não trạng của người đương thời. Có
những vấn đề Giáo Hội có thể thay đổi, nhưng không thể thay
đổi trong ngày một ngày hai. Cơ cấu của Giáo Hội như một
guồng máy hoạt động trên cả hoàn vũ, nên có khi phải mất cả
thế kỷ để thay đổi một vấn đề nào đó. Chúng ta có thể nhận
ra sự phức tạp này khi trong chính xứ đạo ḿình có sự thay
đổi. Ngay việc đơn giản nhất là khi thay đổi giờ giấc Thánh
lễ đă làm xáo trộn sinh hoạt của một giáo xứ, và gây nên
phản ứng của biết bao người.
Tuy vậy, nhiều người trẻ hôm nay không chấp nhận quyền giảng
dạy về luân lý của Giáo Hội, nên họ từ từ rút lui khỏi Giáo
Hội. Vấn đề này cần đặt ra cho những nhà giáo dục trong Giáo
Hội hôm nay. Một mặt mình phải
trình bày huấn quyền của Giáo Hội, nhưng mặt khác phải nên
trình bày vấn đề luân lý dựa trên tính nhân bản và phẩm giá
con người để thuyết phục các bạn trẻ về vấn đề luân lý. Do
đó, các nhà giáo dục cần đào sâu thêm những tài liệu về nhân
bản để đi kèm với Giáo huấn của Giáo Hội trong khi giảng
dạy.
Một nhóm người khác thôi giữ đạo vì không có nền tảng căn
bản về tôn giáo, nên dễ bị tấn công và bị lôi kéo sai đường
do chính bè bạn của mình. Bên cạnh đó, có một số bạn trẻ cặp
bạn rồi chung sống hoặc kết hôn với người ngoài Công Giáo,
rồi dần dần cảm thấy nguội lạnh khô khan, hoặc chính bạn
ḿình thuyết phục từ bỏ Giáo Hội. Một số người khác rời bỏ
cộng đoàn v́ì phải thay đổi nếp sống và chỗ ở, nên mất liên
đới với cộng đoàn cũ của mình và ngại tìm tới cộng đoàn mới.
Biết đâu những anh chị em này lại là người đang sống loanh
quanh trong lối xóm của ḿình và họ cần một ai đó bắc nhịp
cầu đê liên kết với một cộng đoàn mới.
Truyền giáo hôm nay là thế, là bắc một nhịp cầu để anh em
mình trở về, là cố gắng xóa đi những rào chắn ngăn cách vô
hình giữa những anh em trong cùng một tôn giáo. Một khi họ
nhận ra có một cộng đoàn nào đó yêu thương và đón nhận, họ
sẽ sẵn sàng gia nhập và trở về với Giáo Hội.
Bao nhiêu lí do nêu trên, c̣òn có một lí do dễ hiểu nhất,
nhưng lại lôi cuốn nhiều người nhất đó là vấn đề thiếu hiểu
biết nên không cố gắng đủ, không tha thiết với đời sống tâm
linh. Những anh chị em này một phần vì quá bận bịu công việc
làm ăn, lại cảm thấy chán chường với đời sống đạo nên có
nhiều lí do để thoái thác việc đến nhà thờ. Mặc dù những anh
chị em này vẫn có những trăn trở vì đã bỏ bê sống đạo, nhưng
họ vẫn không vươn nổi ra khỏi cái nặng nề của công việc và
bóng tối. Họ cần người khác nâng đỡ, khuyến khích, và mời
gọi họ trở lại với đời sống tâm linh. Vấn đê này ông bà cha
mẹ mình thường gọi là “ma quỷ níu kéo.” Tuy có những người
không tin vào ma quỷ, nhưng thực tế dường như lại luôn có
một sức mạnh vô h́ình nào đó níu kéo chúng ta trì trệ trong
việc sống đạo, và dần dần xa Chúa.
Phương
Pháp Chữa Trị và Ngăn Ngừa: Bắc Cầu Tình Thương
Trên đây là những vấn đề của Giáo Hội hôm nay, và nó cũng là
vấn đề thiết thực đặt ra trong việc truyền giáo nơi chúng ta
đang sống tại đất Mỹ này. Thực trạng này mời gọi chúng ta
suy tư sâu hơn đê cùng thao thức với Giáo Hội trong việc
truyền giáo. Đừng kết án những anh chị em đă bỏ đi, bởi vì
mỗi người có một lí do riêng khiến họ ra đi. Hăy cùng cảm
thông và lắng nghe những trăn trở và nỗi ḷòng của họ, và
cùng suy nghĩ xem Giáo Hội, cộng đoàn, gia đ́ình và chính
mỗi cá nhân nên làm gì và cần thay đổi những gì để mời gọi
anh chị em mình trở về. Chúng ta có tọ̀a nhà Giáo Hội, nhưng
muốn tọ̀a nhà ấy trở thành tổ ấm thì cần đến bầu khí yêu
thương. Do đó, việc truyền giáo
nhiều khi lại đọ̀i hỏi trước hết là sự hoán cải của chính
Giáo Hội và thay đổi con tim của mỗi cá nhân, là phúc âm hóa
đời sống nội tâm của ḿình trước đã. Bởi vì muốn
làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Chúa Kitô, thì trước
hết chính ḿình phải là người môn đệ của Chúa Kitô, thấm
đượm cái chất Kitô trong đời sống đạo của ḿình.
Mặc dù truyền giáo trong thời đại hôm nay thật đa dạng và
phong phú, mỗi một Kitô Hữu có thể làm tốt công việc truyền
giáo trong chính môi trường và hoàn cảnh của mình với sự
thúc đẩy và gợi ý của Chúa Thánh Thần. Tất cả gợi ý và kết
quả của công việc truyền giáo là cho chính Thánh Thần hướng
dẫn và chính Ngài mang lại hoa trái. Do đó, chúng ta có lí
do để hy vọng vào những công việc của mì́nh, bởi vì Thánh
Thần sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự trong ḷòng chúng
ta hôm nay. Những năm qua, sự hiện diện của người Công Giáo
Việt Nam trên đất Mỹ này đă là một hành vi truyền giáo hết
sức ý nghĩa. Sự hiện diện ấy dù âm thầm hay sôi nổi cũng đă
làm thay đổi biết bao tâm hồn. Chúng ta không biến đổi người
khác, nhưng chính Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn họ qua sự
hiện diện và sống đạo của chính mình. Hôm nay, bên cạnh sự
hiện diện của người Công Giáo Việt Nam như một hành vi
truyền giáo, Chúa Thánh Thần lại tiếp tục gợi ý và mời gọi
chúng ta nối dài sự hiện diện ấy bằng những việc làm cụ thể,
thiết thực, và cấp bách hơn. Mỗi một hoàn cảnh sống mới, lại
sinh ra những nhu cầu mới, và chính Thánh Thần đang mời gọi
chúng ta đáp ứng những nhu cầu mới này.
Có năm đối tượng chính mà hội đồng truyền giáo Hoa Kỳ đặt
ra, đó là truyền giáo cho chính các kitô hữu trong Giáo Hội,
mời gọi tất cả các tín hữu làm một cuộc hoán cải nội tâm và
canh tân niềm tin trong Đức Kitô; rồi truyền giáo cho những
anh chị em đă rời bỏ Giáo Hội, những người đang sống bên lề
của đời sống bí tích và đời sống cộng đoàn. Mời gọi họ trở
về giao ḥòa với chính Thiên Chúa và với Giáo Hội. Rồi
truyền giáo cho chính các em, những môn đệ “tí hon” của Đức
Kitô, giúp các em tập sống đức tin và gắn bó với Chúa Kitô
ngay từ nhỏ. Đây là công việc trọng tâm của gia đì́nh và của
các giáo lý viên trong giáo xứ. Kế đến là truyền giáo cho
những anh chị em thuộc Kitô Giáo nhưng không cùng truyền
thống với Công Giáo, giúp họ nhận ra sự sung mãn của truyền
thống Công Giáo và tiến đến sự hiệp thông Kitô Giáo qua đối
thoại và cảm thông. Và cuối cùng là truyền giáo cho những
anh chị em không có niềm tin vào Đức Kitô.
Trong số đối tượng truyền giáo của hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ
nêu trên, vấn đề truyền giáo cho những anh chị em đă rời bỏ
Giáo Hội vẫn là mối quan tâm sâu xa, vẫn là nỗi trăn trở ưu
tư của các mục tử, và đó cũng chính là lời mời gọi của mỗi
một người trong chúng ta hôm nay. Vì thế, truyền giáo hôm
nay là lưu tâm đến những anh chị em đó; họ là con em, là
người thân, là bạn hữu của mình. Cố gắng yêu thương và tìm
cách mời họ trở về. Trong nhiều cuộc phỏng vấn được thực
hiện trong những năm gần đây, dấu hiệu hy vọng cho biết phần
đông trong họ muốn quay trở về với Giáo Hội, miễn là có ai
đó yêu thương và sẵn lọ̀ng dẫn đưa họ về. Thật ra, họ chẳng
cọ̀n là trẻ thơ để đợi người khác đưa dẫn, nhưng vì khi họ
ra đi, chiếc cầu năm xưa đã một lần mục gẫy, và nay họ cần
một chiếc cầu mới để nối lại nhịp xưa. Chiếc cầu đó là chính
mỗi người Kitô Hữu, là bạn bè, là người thân, là đồng nghiệp
của họ. Đừng giảng giải cho họ
nhiều điều, nhưng lắng nghe, thông cảm và yêu thương. Chỉ có
tì́nh thương chân thành mới cảm hóa được ḷòng người. Đó
cũng chính là bí quyết truyền giáo của Đức Kitô.
Dấu chỉ hy vọng cho thấy đă có hàng trăm ngàn người trở về
trong những năm qua. Một khi họ trở về, đời sống đạo của họ
sâu sắc hơn và nhiều người trong họ đă trở thành những nhà
truyền giáo nhiệt thành. Đời sống của họ sung măn và hạnh
phúc hơn so với những năm tháng sống ng̣òai Giáo Hội.
Mỗi tín hữu Kitô, hơn ai hết, là chiếc cầu hữu hiệu nhất
giúp người khác trở về. Phải thành thật rằng, phần đông các
mục tử không làm nổi chuyện này. Phần thì các mục tử không
biết nổi hết các con chiên, phần khác mối liên hệ giữa các
mục tử và đa số những chiên lạc này chẳng mấy thắm thiết-nếu
thắm thiết th́ì họ đă chẳng ra đi, chưa kể những người ra đi
vì xung khắc với mục tử. Những người này khi trở lại thường
gia nhập ở một cộng đoàn khác. Dù gia nhập cộng đoàn nào đi
nữa, việc họ quay trở về là một nỗi vui cho cả Giáo Hội. Đó
là hình ảnh vui mừng của người chủ chiên cõng con chiên lạc
trên vai trở về. Chính vì thế, việc “đi tìm anh chị em” gợi
cho chúng ta một ưu tư mới trong vấn đề truyền giáo hôm nay.
Qua nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy, phải đến từ 65% đến 90%
người ngoài Kitô giáo trở lại là do tiếp xúc cá nhân với
người Kitô Hữu. Phần đông họ không trở về với một
Thiên Chúa mơ hồ, một Giáo Hội có nề nếp. Họ cũng chẳng trở
về v́i một nền thần học hấp dẫn, mà là họ trở về trước hết
với những con người cụ thể trong cộng đoàn, trong từng mối
liên hệ mật thiết mà họ cảm nghiệm được t́ình yêu thương.
Chữa bệnh không bằng pḥòng bệnh. Mặc dù số lớn rời bỏ Giáo
Hội khi các em lên 18 tuổi, chúng ta cần sửa soạn cho các em
ngay từ tuổi thơ. Chúng ta cần xây dựng cộng đoàn yêu thương
cho mỗi người và mỗi lứa tuổi, dùng mọi phương cách mà Chúa
ban. Cả cộng đoàn cần làm việc với nhau, và chính cách làm
việc chung này có thể xây dựng t́nh thân ái nếu chúng ta làm
với Chúa và với nhau, hơn là với công việc hay danh tiếng.
Ngay trong lớp giáo lí, một “môn học” chính trong mọi lớp là
các em có thể cảm nhận được và diễn tả được tình thương. Các
em được “chích ngừa” bằng thuốc yêu thương nên sẽ khó bỏ
cộng đoàn, bỏ Giáo Hội rồi chính gương sáng của các em này,
cùng với tình thương các em có với người khác, cũng sẽ níu
kéo người khác trở về và ở lại trong Giáo Hội. Ngoài lớp
giáo lí, các đoàn thể trẻ như Thiếu Nhi Thánh Thể, Hướng Đạo
Công Giáo, hay lớp Việt Ngữ cũng là những nơi truyền giáo
hữu hiệu và cần thiết. Và dĩ nhiên gia đình là nơi quan
trọng nhất, và cộng đoàn có thể giúp cho các gia đ́ình qua
các hội đoàn thích hợp như Bà Mẹ Công Giáo và Liên Minh
Thánh Tâm, cũng như các buổi cấm pḥòng giáo xứ và giáo lí
cho người lớn.
Cách pḥòng bệnh này cần được thi hành ngay từ khi lọt lọ̀ng
mẹ, và phải thích ứng với nhu cầu và sở thích của từng lứa
tuổi và từng văn hóa. Một số khá lớn các mục sư Mỹ vừa trao
dồi kiến thức về quá trình phát triển con người cũng như
phát triển đức tin theo từng lứa tuổi, vừa chuyên cần học
hỏi về vấn đề đa văn hóa. Chúng ta lầm to nếu chúng ta nghĩ
chúng ta hiểu các em Việt Nam với chúng ta cùng một văn hóa.
Ngay trên đất Mỹ cũng có những văn hóa khác nhau, mà nếu chỉ
nhìn mặt, nhìn tên không thì không biết được. Ngay cả một cô
giáo Việt Nam trẻ sanh ra tại Mỹ, học giỏi, đạo đức, đã có
một khoảng cách đáng kể với các em Việt Nam học kém trong
lớp, huống chi là những người như chúng tôi, sinh trưởng tại
Việt Nam. Khoảng cách càng xa ta càng cần tìm hiểu và cố
gắng để bắc cầu được với tâm hồn các em. Rồi chính các em
này sẽ là những nhà truyền giáo hữu hiệu, ngay bây giờ hay
sau này, cho những em khác cùng văn hóa với chúng. Với một
cộng đoàn CGViệt Nam tại hải ngoại rất đa diện và phức tạp,
nên cần rất nhiều người, nhiều giới cộng tác.
Trong khung cảnh liên tôn, bắc cầu tình thương với các anh
chị em ngoài Công Giáo lại càng cần thiết hơn. Đại Sư Thích
Nhất Hạnh viết trong cuốn Living Buddha, Living Christ
là từ những nhịp cầu thương yêu của các bạn Thiên Chúa
Giáo mà Đại Sư đă đổi từ ác cảm đối với Thiên Chúa Giáo qua
thiện cảm, và dự thánh lễ Công Giáo nữa.
Xin Chúa Thánh Thần tiếp tục hướng dẫn và gợi lên trong
ḷòng mỗi Kitô hữu sự nhiệt thành truyền giáo và lưu tâm đến
những anh chị em sống chung quanh ḿnh. Bởi với chia sẽ niềm
tin cho người khác chính là cũng cố niềm tin của ḿình. Bao
lâu cộng đoàn giáo xứ hay mỗi một cá nhân không chia sẽ niềm
tin, hoặc không cổ võ việc truyền giáo theo niềm tin của
chúng ta sẽ dần phai nhạt và khô héo. Chính công việc truyền
giáo đã nuôi dưỡng sức sống của Giáo Hội. Như Đức Thánh Cha
Phao-lô VI nhấn mạnh, Giáo Hội
không những sinh ra để truyền giáo, nhưng chính công việc
truyền giáo đă khai sinh Giáo Hội. Thật thế, Đức
Kitô đă rao giảng tin mừng trước khi Ngài thành lập Giáo
Hội, và Giáo Hội đă không ngừng tiếp tục sứ mạng của Đức
Kitô qua mọi thời đại. Xin cho mỗi người chúng ta cũng luôn
mang tâm t́nh và ḷng nhiệt thành của Đức Kitô, để Tin mừng
được rao giảng, để tình thương của Ngài được chạm đến mỗi
một con tim trong gia đ́nh nhân loại.
Sách Thao Khảo
Boyack, K. (Ed.). (1987). Catholic evangelization today:
A new Pentecost for the
United States
. Mahwah, NJ: Paulist
Press.
Boyack, K. (Ed.). (1992). The new Catholic evangelization.
Mahwah, NJ: Paulist Press.
Boyack, K. (1995). “Go
and make disciple: The
United States Bishops’
National plan for Catholic evangelization.”
In W. Houck, P.
Williamson, & M. Ralph (Eds.) John Paul II and the new
evangelization: How you can bring the Good News to others.
Ft. Collins, CO: Ignatius Press.
Emmons, R.A., & Paloutzian, R. F. (2003). The psychology of
religion. Annual Review of Psychology, 54:377-402.
Fowler, J. (1981). Stages of faith: The psychology of
human development and the quest for meaning. New York:
Harper Collins Publisher.
Nhất Hạnh. (1997). Living Buddha, living Christ. New
York: Riverhead Books.
Hoge, D. (1981).
Converts, dropouts, returnees: A study of religious change
among Catholics. Cleveland, OH: Pilgrim Press.
Houck, W., Williamson, P., & Ralph, M. (Eds.). (1995).
John Paul II and the new evangelization: How you can bring
the Good News to others. Ft. Collins, CO: Ignatius
Press.
United States Conference
Catholic Bishops (USCCB) Committee on Evangelization.
(1998). A time to listen, a time to heal: A resource
directory for reaching out to inactive Catholics.
Washington, DC: USCCB. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Ý Chúa ??? |
Sau Thánh Lễ sang, một nhóm các bà đạo
đức quây quần cầu nguyện bên Đức Mẹ. Thấy tôi đi ngang, một
bà trong nhóm lên tiếng : “Thầy ơi ! Nhờ quý Thầy cầu nguyện
cho chúng con. Chúng con đang cầu nguyện cho một cô kia bị
ung thư nặng lắm, gia đình cô theo Phật, cô cũng đã quy y”.
Tôi chưa kịp phản ứng gì thì một bà khác lại tiếp : “Bố mẹ
của cô ấy nói, nếu chúng con cầu nguyện cho cô ấy lành bệnh
thì gia đình cô ấy sẽ tháo bàn thờ Phật xuống để theo Chúa
!”.
Nghe xong lời của hai bà đạo đức ấy,
bỗng dưng tôi nghẹn lời và tôi chắp tay xá các bà và vội
vàng cất bước ra đi chứ chẳng dám đứng lại đó để nghe các bà
nói thêm.
Sau khi nghe các lời ấy, lòng tôi cảm
thấy có cái gì đó nhoi nhói trong lòng. Tội nghiệp Chúa quá
! Chúa đã chết hơn 2000 năm rồi mà vẫn còn chưa yên.
Chiều nay nhìn lên thập tự, thấy sao mà
thương Chúa quá ! Chúa đã chết rồi mà người ta vẫn chưa để
cho Chúa được yên. Cái gì người ta cũng đổ cho Chúa cả, mà
thật ra Chúa có muốn như thế đâu.
Chuyện cái cô gì đó bị bệnh ung thư như
người đang đứng trước bờ vực của lưỡi hái tử thần, được các
bà đạo đức đến thăm nom trong cơn đau đớn ấy như vớ được một
cái phao để bám vào. Còn hơn nữa là những lời cầu nguyện
mang hơi hám sặc mùi đạo đức vì Chúa được đưa vào. Các bà
đạo đức cảm thấy ăn chắc khi giao cho Chúa chuyện khó khăn
này.
Tôi cảm thấy buồn cười là những bà đạo
đức chơi trò đánh đố với Chúa chứ không phải để cho thánh ý
Chúa thể hiện trong cuộc đời này. Giả như Chúa cho lành bệnh
ung thư thì sẽ bỏ Phật để theo Chúa và sau đó chẳng may bị
tiểu đường mà Phật chữa thì lại bỏ Chúa theo Phật chăng ?
Chúa nào mà đấu đá với Phật, Phật nào mà giành giật với Chúa
một cách thua đủ như thế ! Chẳng lẽ vì chuyện của một người
mà Phật phải buồn Chúa khi có một đệ tử bỏ mình theo Chúa
sao ? Và nếu như thế thì Chúa cũng chẳng muốn để cho Phật
buồn. Hoá ra người ta theo Chúa, theo Phật để rồi bảo Chúa
và Phật theo ý của họ chứ họ không xin Chúa, Phật giúp cho
họ đón nhận thánh ý của Chúa hay Phật. Làm Chúa, làm Phật để
người ta điều khiển theo ý của người ta thì bảo tôi làm Chúa
làm Phật tôi cũng chẳng dám làm.
Trở lại chuyện thường ngày ở huyện.
Chúa chẳng làm gì nên tình nên tội cả
mà lúc nào họ cũng bảo “ý Chúa”. Thực tế thì chẳng thấy ý
Chúa đâu cả mà toàn là ý của con người và áp đặt vào cho
Chúa. Đây là chuyện thường xảy ra trong đời thường khi họ
thấy biến cố nào đó xảy đến. Lẽ ra họ phải chìm đắm trong
sâu lắng để đọc ra Chúa muốn nói cái gì với họ qua biến cố
đó, đàng này họ chỉ nhìn bề mặt của biến cố và phán quyết “ý
Chúa”.
Tôi không phủ nhận việc tốt lành của
các bà đạo đức và nhiều nhóm đạo đức ngày đêm chuyên cần cầu
nguyện. Thế nhưng phải cẩn thận đừng biến ý của mình thành ý
của Chúa. Ta xin Chúa ban sức cho ta sống theo Thánh ý Chúa
chứ đừng bảo Chúa sống theo ý của ta !
Buồn cười một chuyện nữa về chuyện “ý
Chúa” xảy đến trong các nhà tu. Phải nhìn nhận thẳng một
chuyện khá đau lòng đó là bất cứ chuyện gì người ta cũng quy
cho Chúa cả. Cũng có lý thôi vì những người tu sống gần Chúa
hơn người đời mà.
Thế nhưng đau một chỗ là nhiều khi
người tu nhân danh Chúa để thoả mãn ý riêng của mình mà lại
quy cho Chúa. Nếu thực sự nghiêm túc đưa vấn đề dưới ánh
sáng của lương tâm thì những người có lương tâm ngay thẳng
không bao giờ xử sự với nhau như thế đàng này người ta có
thể theo ý riêng của mình mà gạt lương tâm ra để giải quyết
vấn đề và lại quy cho Chúa. Có những chuyện rõ rõ rành rành
thế nhưng để bảo vệ cho phe cánh mình, cho ý riêng mình và
người ta lại đùn cho Chúa. Tội nghiệp Chúa quá !
Có lẽ đến lúc giáo dân cũng như những
người sống trong nhà tu phải nghiêm chỉnh duyệt xét lại cách
hành xử của mình theo tiếng nói lương tâm chứ đừng bao giờ
lèo lái ý của mình xong rồi lại đổ cho Chúa.
Nhớ lại lời của một Cha giáo : “Anh em
khoan hãy nghĩ đến chuyện bác ái trong đời tu. Trước khi
nghĩ đến bác ái hãy nghĩ đến và sống công bằng đi ! Tại sao
sống trong cộng đoàn mà người lại được hưởng chế độ này,
người bị chèn ép theo phe cánh kia !”
Thế đấy ! sống không công bằng với
nhau, xử với nhau theo ý riêng của mình, thoả mãn cho dục
vọng của mình cuối cùng lại đổ thừa ý Chúa. Đâu phải thấy
Chúa hiền lành và khiêm nhường, Chúa lúc nào cũng im hơi
lặng tiếng nơi nhà Chầu bé nhỏ, Chúa ngao ngán trên thập giá
để rồi ta muốn làm gì thì làm, ta muốn nói gì nói. Hãy coi
chừng ! Chúa còn sống cơ mà !
Đời tạm này ta có thể lấp liếm nhau, ta
có thể chơi trò hai mặt với Chúa nhưng một ngày nào đó diện
đối diện với Chúa ta sẽ tra lời sao vì biết bao lần ta cứ đổ
thừa “ý Chúa”.
Anmai, C.Ss.R. |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU
NHIỆM MÀU |
“......Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng
Tối Cao sẽ rợp bóng Bà, vì thế người con sinh ra sẽ là Thánh
và được gọi là Con Thiên Chúa” (Luca I, 35).
Đây là màu nhiệm nhập thể do bàn tay quyền năng của Thiên
Chúa tạo thành không qua phương cách bình thường giữa người
nam và người nữ. Huyền nhiệm này cũng chỉ có Thiên Chúa mới
mật bí cho chúng ta được mà thôi. Đó là NIỀM TIN. Giáng sinh
phải chăng là một Niềm Tin? Niềm Tin này sẽ khởi phát và mở
tung vào thế giới tình yêu đích thực vô biên của con người
với bản chất Nhân chi sơ tính bản thiện.
Chỉ
còn ba tuần lễ nữa thì Giáng Sinh. Mọi người, mọi dân tộc
trên khắp thế giới đều bận rộn, ngóng chờ những giây phút
trọng đại ấy. Có người nói nó sẽ rất huy hoàng, có người nói
có thể rất đen tối vì xã hội sẽ rối loạn hoặc tận thế. Giáo
Hội chọn năm 2000 là năm thánh. Tất cả là bí mật, giống như
một đống quà được gói cẩn thận đẹp đẽ đang đặt dưới gốc cây
Giáng Sinh trong mỗi gia đình. Những đứa trẻ nôn nóng muốn
biết bí mật ở bên trong. Chúng muốn cầm lên và lắc thử xem
nó là cái gì. Chúng sẽ hỏi cha mẹ “Cái gì ở trong này hử bố
mẹ?”.....có ăn được không? ...có mặc được không?..có đi được
không?..có chơi được không? Sáng ngày Giáng Sinh, mọi tặng
vật đều được mở ra thì bí mật không còn là bí mật nữa.
Có
những bí mật không thể giải quyết một cách dễ dàng như vậy.
Có những bí mật không thể giải quyết bằng giác quan, hình
thù mạo diện bên ngoài hoặc lý luận bằng trí khôn bất toàn
hay khoa học hạn hẹp của con người, mà đòi hỏi phải có những
kinh nghiệm nội tại phát xuất từ đáy lòng tâm tư của mình.
Trực giác, trực cảm, cảm thông, hiệp thông. Tình yêu là một
bí mật. Yêu mình thì dễ mà yêu người thì thật là khó. Chúng
ta không thể cắt nghĩa được tình yêu nhưng nó là một sự thực
hiển nhiên. Chúng ta cảm thấy và chẳng cần phải có ai cắt
nghĩa. Có cố gắng cắt nghĩa thì cũng chỉ dùng thể so sánh
“Tình yêu đẹp và dịu dàng như mặt nước mùa thu, như trăng mờ
bên suối, hoặc tình yêu mãnh liệt như thác đổ mây ngàn...”
Khi cha mẹ hay người yêu của ta mất, cái đớn đau thương cảm
của ta nó xót xa thế nào thì chỉ có ta hiểu và thấm thía,
chẳng có ai có thể cắt nghĩa và cảm thông được, có chăng là
suy diễn do kinh nghiệm tâm tư của mỗi người. Thánh Phao Lô
trong thư gửi dân thành Roma đã nhắc đến loại màu nhiệm bí
mật này: “Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm
cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi
rao giảng Đức Giê Su Kitô. Tin Mừng đó mặc khải màu nhiệm
vốn được giữ kín từ ngàn xưa nhưng nay lại được biểu lộ như
lời các Ngôn Sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa,
Đấng hằng có đời đời, màu nhiệm này được thông báo cho muôn
dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa.” (Roma
16: 25,26) . Màu nhiệm được giữ kín từ ngàn xưa theo kế
hoạch của Thiên Chúa được mặc khải trong thời gian qua lịch
sử Do Thái; các ngôn sứ đã thông báo nhưng người ta không
thể hiểu được kế hoạch ấy. Đức Giê Su đã đến và cho người ta
thấy rồi các tông đồ loan báo sứ điệp cứu độ ấy.
Đây
là một loại màu nhiệm mà chúng ta chỉ có thể biết được do
trực cảm từ đáy lòng tâm tư ta. Màu nhiệm này đã được Thánh
Phao Lô làm nổi bật qua bàn tay huyền diệu của Thiên Chúa
thể hiện trong lịch sử loài người. Tình yêu của Chúa đối với
con người và con người đối với tha nhân. Tình yêu này chúng
ta không tài nào hiểu nổi bằng lý luận, giác quan...mà chỉ
có thể hiểu được một khi chúng ta tự mở rộng lòng chúng ta,
cái tâm thiện của chúng ta và đem san sẻ với tha nhân, những
người anh em huynh đệ không phân biệt màu da, tiếng nói, tôn
giáo, địa phương...Tha Nhân đây chính là Thiên Chúa
(Mt..25:40&45) Có nhiều người không ưa dùng từ “màu
nhiệm” bởi nó nói lên cái khả năng hiểu biết giới hạn của
con người và do đó người ta không thể kiểm chứng nổi. Nhưng
thực ra đây không phải là cái mà ta có thể biết được một
cách rõ ràng như khi ta tin vào một bí mật trong khoa học
thực nghiệm. Màu nhiệm này đòi hỏi sự tôn thờ và kính sợ ở
ngay chính trong tâm chúng ta, trong kinh nghiệm niềm tin
tín ngưỡng đích thực. Mỗi khi chúng ta thực tâm tin chọn và
ấp ủ nhiệm màu đích thực đó từ đáy lòng ta thì ta đã được mở
toang lòng để bước vào thế giới huyền diệu trong cuộc sống
mới của loài người. Khi chúng ta làm một việc thiện, gửi
10$, 50$, 100$ hay 200$...vào quĩ cứu trợ nạn lụt miền Trung
để chia sẻ, cảm thông sự khốn cùng hoạn nạn với những người
kém may mắn ở quê nhà mà không nghĩ đến phải cho người công
giáo, phật giáo, cao đài, dân quê tôi, làng tôi, họ đạo tôi,
địa phận tôi...hoặc vì ẩn ý cá nhân phe nhóm nào mà lòng cảm
thấy hứng khởi vui mừng thì bạn đã có được Kinh nghiệm Niềm
Tin Nhiệm Màu Tình Yêu Thiên Chúa đối với loài người và loài
người đối với tha nhân.
Tha nhân quanh ta chính là Thiên Chúa. (Mt. 25: 40 & 45)
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
Pace Islands, Florida
Giáng
Sinh 2007
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÀI KHOẢN VÔ GIÁ |
Không rõ tác
giả
Có một
ngân hàng, mỗi buổi sáng,cung cấp vào tài khoản của bạn
86400USD.
Số dư trong tài khoản không được phép chuyển từ ngày này qua
ngày khác.
Mỗi
buổi chiều, ngân hàng sẽ hủy bỏ hết số dư còn lại mà bạn đã
không dùng hết trong ngày.
Bạn sẽ
phải làm gì?
Sử dụng
hết số tiền đó, dĩ nhiên !
Mỗi
người trong chúng ta đều có một ngân hàng như vậy.
Tên
ngân hàng là
THỜI GIAN.
Mỗi
buổi sáng, ngân hàng này cung cấp cho bạn
86.400 giây.
Vào mỗi
buổi tối, ngân hàng sẽ xóa bỏ, coi như bạn mất, thời gian mà
bạn không đầu tư được vào các mục đích tốt.
Ngân
hàng không cho phép bạn được để lại số dư trong tài khoản.
Cũng
không cho phép bạn bội chi.
Mỗi
ngày, ngân hàng lại mở một tài khoản mới cho bạn.
Mỗi tối
nó lại hủy hết những gì còn lại trong ngày.
Nếu bạn
không dùng được hết thời gian mà bạn có trong ngày, người bị
mất chính là bạn.
Không có
chuyện quay lại ngày hôm qua.
Không
có chuyện tiêu trước cho "ngày
mai"
Bạn
phải sống bằng những gì bạn có trong tài khoản ngày hôm
nay.
Hãy đầu
tư vào đấy bằng cách nào đó, để bạn có thể nhận được nhiều
sức khỏe, hạnh phúc, và thành công nhất !
Đồng hồ
vẫn đang chạy.
Hãy cố
thực hiện thật nhiều trong ngày hôm nay.
Để biết được giá trị của
MỘT NĂM,
hãy hỏi một học sinh bị ở lại một lớp.
Để biết được giá trị của
MỘT THÁNG,
hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.
Để biết được giá trị của
MỘT TUẦN,
hãy hỏi biên tập viên của một tuần báo.
Để biết được giá trị của
MỘT GIỜ,
hãy hỏi những người yêu nhau đang mong chờ được gặp nhau.
Để biết được giá trị của
MỘT PHÚT,
hãy hỏi một người bị lỡ chuyến tàu.
Để biết được giá trị của
MỘT GIÂY,
hãy hỏi một người vừa thoát khỏi một tai nạn.
Để biết được giá trị của
MỘT PHẦN NGÀN
GIÂY,
hãy hỏi người vừa nhận được huy chương bạc trong kỳ thi
Olympic.
Hãy quý trọng từng giây phút mà bạn có !
Và hãy nên quý thời gian hơn nữa
bởi vì bạn đang chia sẻ thời gian đó với ai đấy thật đặc
biệtđốivớibạn,
đủ đặc biệt để có thể chia sẻ thời gian của bạn.
Và hãy nhớ rằng thời gian chẳng chờ đợi ai cả.
Ngày hôm qua dã là lịch sử. Ngày mai là một bí ẩn.
Hôm nay là quà tặng. Cũng vì vậy mà nó được gọi là
PRESENT
!
(có nghĩa là
HIỆN TẠI,
mà cũng có nghĩa là
QUÀ TẶNG
).
Bạn bè
thật sự là một loại nữ trang quý hiếm.
Họ
khiến bạn mĩm cười và khuyến khích bạn thành công.
Họ lắng
nghe bạn, họ chia sẻ với bạn những lời khen tặng, và họ luôn
muốn mở trái tim ra với chúng ta.
Hãy gởi
những lời này đến với ai mà bạn xem như
BẠN MÌNH,
Và nếu
những dòng này lại trở về với bạn,
Bạn ắt biết rằng
bạn đang có một vòng tròn bạn hữu |
VỀ MỤC LỤC |
|
Sợ điều đáng sợ |
Anh trưởng phòng đièu hành phong trào
Cursillo bảo tôi viết bài cho phong trào. Vì trách nhiệm và
vì mến anh, tôi muốn viết lắm, viết trong lúc rảnh rỗi,
nhưng vừa nhận công việc mới nên tôi sợ không dám cài đặt
Vietkey vào máy tính, cũng sợ đồng nghiệp thấy tôi viết
tiếng Việt trong giờ làm việc, và lại sợ xếp của tôi thấy
mặt tôi suy tư ‘khác’ với kiểu suy nghĩ của việc làm. Tôi sợ
là phải vì “làm việc” là điều quan trọng nhất trong sở làm
và “việc làm” lại là một trong những điều quan trọng nhất
cho riêng tôi và cho gia đình.
Tuần trước, tôi phải bay sang thành phố
Carthage, tiểu bang Misssouri để dự đám tang người thân. Phi
trường Japlin của thành phố Carthage không có nhiều chuyến
bay nên tôi phải đi một chặng đường bằng máy bay nhỏ với 19
chỗ ngồi. Máy bay chao đảo nhiều lần khi gặp gió lớn làm tôi
sợ, sợ lắm. Tôi vốn sợ chiều cao và sợ đi roller coaster nên
tôi sợ máy bay nhỏ là phải.
Thật vây, có nhiều cái sợ chính đáng và
do bản tính không thể tránh được, nhưng hình như cũng có
những cái sợ không đáng sợ.
Tôi xin mở một cái ngoặc trước khi viết
tiếp: khi chiếc máy bay nhỏ sắp cất cánh rời phi trường
Chicago thì anh hành khách bên cạnh tôi nghiêm trang làm dấu
thánh giá và cúi đầu cầu nguyện. Anh không phải nhà tu hành,
nhưng là chủ một tờ báo nhỏ. Anh trở về sau chuyến công tác
ở San Jose. Sự cầu nguyện của anh làm tôi ngượng với chính
tôi. Thực ra tôi cũng đã cầu nguyện đấy, nhưng có lẽ tôi
không cầu nguyện… như anh nên tôi không mấy bình an… như
anh. Xin đóng ngoặc.
Nàng nhà tôi rất sạch sẽ (tôi khen đấy
nhá), chén bát trong nhà lúc nào cũng phải rửa bằng xà phòng
loại mắc tiền, có nhiều bọt, và thơm phức vì nàng sợ chén
bát dơ, sợ mỡ đường, thức ăn dính vào chén bát sẽ lên men,
từ đó có vi trùng sinh bệnh tật. Vì qúa sợ vi trùng, vi
khuẩn, nàng dùng nhiều xà phòng, nhưng đôi khi lại không xả
nước kỹ nên xà phòng còn dính vào ly cốc. Vài lần, tôi đã
chỉ cho nàng thấy ly nước có bọt vì còn dính xà phòng. Vài
lần thôi rồi. Để khỏi ‘mất lòng nhau’, tôi không nói nữa,
nhưng cám ơn Chúa sự cố ấy đã qua.
Nàng nhà tôi sợ vi khuẩn từ mỡ đường
dính ở chén bát, nhưng lại không sợ những chất hóa học độc
hại từ những sản phẩm dùng hằng ngày như các loại keo sơn,
thuốc tẩy, thuốc gội đầu…
Cũng như có nhiều người quá sợ mùi hôi
trong nhà vệ sinh, nhưng lại không sợ chất độc từ những bình
gọi là fresh air nên cứ vô tư xịt khắp nhà, trắng như tuyết
rơi. Lại có nhiều người sợ bụi bặm từ ngoài bay vào nhà nên
đóng kín các cửa nhà, cửa to cửa bé, cửa trước cửa sau. Đóng
hết. Họ sợ chút bụi bặm, nhưng lại không sợ nhà thiếu không
khí trong lành của một ngày mới, hoặc thanh khí của những
đêm gió mát vì cửa nhà… đóng kín.
Đúng là sợ quá lố và sợ những cái không
đáng sợ.
Tôi cũng thấy có những người rất sợ
thức ăn rơi xuống sàn nhà dù những thức ăn ấy chẳng dễ dính
bụi dơ như một miếng bánh mì. Và sàn nhà thì cũng rất sạch.
Vậy mà bất cứ thức ăn nào rơi xuống sàn nhà là họ quẳng vào
thùng rác ngay. Cả một tờ napskin gió bay xuống sàn nhà cũng
thế. Họ sợ mất vệ sinh, sợ bị đau bụng, sợ bệnh tật, nhưng
lại chẳng sợ tí nào khi ăn cả tô thịt béo ngậy hoặc xơi cả
nửa lít cà rem đầy đường.
Với thế hệ người Việt thứ hai, sinh ra
ở Mỹ, có những người rất sợ các loại côn trùng như con kiến,
con mối, hoặc con ruồi, nhưng lại chẳng sợ tí nào khi phóng
xe bạt mạng trên xa lộ hoặc vừa lái xe, vừa ăn uống, và vừa
chơi giỡn hoặc nói truyện bằng điện thoại.
Còn với thế hệ baby boomer ở Việt Nam
thì tôi thấy có nhiều người cứ hay sợ người khác ám hại, sợ
người khác dành đường, sợ cúm gà H5N1, và đã phần nào ý thức
nên cũng sợ môi sinh ô nhiễm…nhưng lại chẳng sợ lách xe qua
phố đông người khi đã uống say bí tỉ hoặc ngồi cả giờ trong
quán đầy khói thuốc.
Có những người trẻ Việt cũng như Mỹ rất
sợ khi nói về chiến tranh, sợ máu chảy, và sợ không dám nhìn
người khác giết một con gà hay con vịt, nhưng lại chẳng sợ
khi chở nhau đến những trung tâm phá thai để giết đi chính
đứa con trong bụng của mình. Mà chẳng phải chỉ người trẻ
tuổi đâu, có những người lớn cũng sợ mất ‘tí mặt’, mất tí
danh dự trước người đời, nhưng lại chẳng sợ tí nào khi bước
vào những trung tâm nạo thai. Những người này sợ mất một
chút danh hão mau qua, nhưng lại chẳng sợ khi giết đi một
mạng người. Tôi vô cùng cảm phục chị Sáu trong xóm đạo của
tôi, lớn tuổi rồi mà chị vẫn hằng tuần âm thầm chở đứa cháu
ngoại đi học kinh xưng tội vì mẹ nó tuổi chưa đầy 20 và bố
của nó chẳng biết giờ đã trôi dạt phương nào. Gặp tôi chị
hay cười như khóc: “buồn lắm chú ơi”. Chị buồn nhưng thật
can đảm.
Tôi lại thấy (thấy chứ không phải viễn
kiến như thánh Gioan) có những linh mục còn trẻ mà đã sợ cho
tuổi già cô đơn, không có người chăm sóc, sợ lúc bệnh hoạn
không có tiền bạc để tiêu dùng. Các Ngài sợ cô đơn cho một
tương lai chưa tới mà lại không sợ khi tự cô lập mình khỏi
tập thể linh mục lúc tuổi còn trẻ, khi không dám chia sẻ
buồn vui với những đồng môn lúc tuổi chưa già. “Không lo cho
mình thì ai lo cho đây?” “Thưa cha, con chưa thấy một vị
linh mục nào sống trọn vẹn tuổi trẻ cho giáo dân mà lại
thiếu thốn túng quẫn lúc về già”.
Có những quí ông chồng lúc nào cũng sợ
“mất vợ”, nhưng lại chẳng sợ tí nào khi làm “mất lòng vợ”
bằng những lớn tiếng hống hách hoặc những ươn lười vô ích .
Ngược lại thì có những quí bà vợ chỉ sợ “chồng không thương”
mình, nhưng lại chẳng sợ tí nào khi mình “không thương
chồng” cho đủ và cho đúng. Các bà sợ chồng không thương,
nhưng lại chẳng sợ khi cứ ôm lấy cái định nghĩa sai lầm ‘yêu
em là phải làm những gì em yêu’. Thật Chúa cũng phải thua:
“Thà cho Ta bác cây cầu một nhịp từ bờ biển San Diego sang
đến tận Hawaii còn dễ hơn con ạ”.
Rồi tôi cũng lại thấy có nhiều người sợ
ma là loài hư hư thực thực, lúc có lúc không, hoặc chỉ là
những hiện tượng vật lý, nhưng lại chẳng sợ quỉ là loài có
thực. Họ sợ ma là loài chẳng làm gì hại được người còn sống,
nhưng lại không sợ loài quỉ là loài luôn tìm cách ám hại và
bắt đi linh hồn của mình. Có lẽ tại quỉ ít khi xuất hiện như
loài ‘quỉ’ thật chăng?
Riêng tôi thì sao?
Ấy, tôi hay sợ người khác hơn là sợ
chính tôi. Tôi sợ người khác nhìn thấy điều xấu tôi làm,
nhưng lại chẳng sợ tôi nhìn thấy tôi. Tôi hay sợ người khác
lừa dối, tham lam, trổi vượt hơn tôi…dù người khác ở xa tôi,
nhưng tôi lại chăng sợ cái tôi đầy tham vọng, đầy đam mê,
đầy dục vọng, háo sắc… nó ở ngay trong tôi.
Thế đấy. Thôi. Tôi không viết về tôi
nữa vì càng viết tôi càng thấy sợ mình hơn.
Tôi cũng không viết về cái sợ nữa vì
càng viết tôi càng thấy có nhiều cái sợ không đáng sợ và
ngược lại.
Tối nay, khi ở nhà tập thể dục đi về.
Lên xe, tôi chưa gài dây an toàn thì đèn xanh đã lên. Đèn
xanh thì chạy, nhưng một chiếc pickup lớn vượt đèn đỏ cắt
ngay trước xe của tôi trong gang tấc với tốc độ khủng khiếp
đến độ tôi không nhận ra loại xe gì vì trời vừa sập tối. Tôi
xững sờ như vừa thấy lưỡi kiếm sắc vút qua cổ mình cho đến
khi người bạn lái xe phía sau gọi điện thoại: “ Oh Gohs,
you’re so lucky. Ìf you move secs early you die instantly”.
“Yeah, God saved me”.
Chúa đã cứu tôi? Chắc thế vì hôm nay là
ngày 27 tháng 11, năm 2007, ngày tôi cưới nàng của tôi 20
năm trước. Chúa đã cứu tôi? Chắc thế và đã cho tôi thấy:
“Tuần trước máy bay của con chao đảo trong gió mà không sao,
tối nay ở trên xe SUV, như rất an toàn mà con lại suýt toi
mạng đấy”.
Chẳng biết có sự trùng hợp hay Chúa
muốn dậy thêm tôi một bài học, một extra homework mà khi đọc
kinh tối nay thì lại có đoạn Tin Mừng: Chúa đến lúc con
người ta không ngờ, và theo cách thế con người không biết
được vì “hai người đàn ông đang chăm chú chơi game trong
khu Phúc Lộc Thọ thì một người còn và một người mất, hai
người đàn bà đang mải mê vắt sổ trong chợ Tầu thì cũng một
người còn, một người bị đem đi…”
Lạy Chúa, xin cho
con biết sợ điều đáng sợ, chứ đừng sợ điều không đáng.
Xin cho con biết sợ
điều hèn, điều xấu, và sợ tội, chứ đừng sợ cái nghèo vật
chất.
Xin cho biết sợ cái
tham trong con, chứ đừng sợ những tay mafia chủ những sòng
bài.
Xin cho con biết sợ
lòng ích kỷ trong con, chứ đừng sợ cô đơn nhỏ bé không đáng.
Joseph Vũ |
VỀ MỤC LỤC |
|
THỐNG HỐI |
Trong Phúc Âm Thánh Luca (3, 2-6),
Thánh Gioan Bao-ti-xi-ta được giao phó sứ mệnh như sau: “…có
lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gioan
trong hoang địa. Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao
giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để
được ơn tha tội, như có lời chép trong sách ngôn sứ I-sai-a
rằng: ‘Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con
đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung
lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc
quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho
phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa.’”
***
Đó là một công việc khá vất vả.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã rảo bước khắp miền
Palestine. Sứ điệp của ngài thật đơn giản nhưng cấp bách:
Đấng Thiên Sai sẽ đến. Hãy chuẩn bị tâm hồn. Hãy sửa sang
lại những con đường khúc khuỷu quanh co. Hãy thống hối!
Những biến cố sau đó cho thấy một số
người nghe theo và một số người không nghe. Về sau, Chúa
Giêsu cũng băng qua những con đường đó cùng với một sứ điệp
như thế: Hãy thống hối! Hãy thay đổi cuộc
sống. Hãy trở nên môn đệ của tôi.
Lời kêu gọi của Gioan đôi khi có tính
cách bộc trực và hăm dọa. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu có tính
cách ân cần, đầy lòng nhân ái, ít gây tức giận, đầy tình
thương và giàu lòng mẫn cảm. Chúa Giêsu giúp dân chúng hoán
cải. Ngài không bao giờ cố tình bắt nạt hay bức bách bất cứ
ai thống hối. Một số người nghe theo và một số người không
nghe.
Kể từ đó có nhiều thay đổi. Nhưng một
câu ngạn ngữ đã nói: sự việc càng đổi thay,
càng giữ nguyên trạng.
Oscar Wilde
Sau khi xem trình diễn lần đầu tiên một
trong những kịch bản của mình, Oscar Wilde lui về câu
lạc bộ nghỉ ngơi. Một người bạn hỏi ông: “Vở kịch tối nay
như thế nào?” Oscar trả lời: “Vở kịch thành công lớn,
nhưng khán giả thật thảm bại.”
Câu chuyện cứu rỗi mang đến cho chúng
ta hai phần vẫn còn chưa biểu lộ hết: Những gì Chúa làm
cho chúng ta và sự đáp trả của chúng ta đối với những điều
Chúa đã làm.
Tôi hình dung Chúa Cha nói với Chúa
Giêsu như sau: “Con ơi, hãy nói cho Cha biết sứ vụ của
con trên trần thế diễn tiến như thế nào?” Tôi hình dung
Chúa Giêsu nhìn xuống trần thế và trả lời: “Cha ơi, sứ vụ
của con thành công mỹ mãn, nhưng còn người trần thế…”
Không phải phần việc của tôi phải nói
cho hết câu. Chính Chúa Giêsu mới nói cho trọn câu. Điều
chúng ta có thể nói là lời kêu gọi thống hối không bao giờ
thay đổi. Nhưng có những người lắng nghe và những người
không quan tâm.
Hình ảnh nghèo nàn
Bất hạnh thay, từ ngữ “thống hối”
gợi lên một hình ảnh nghèo nàn, mang lại một hậu quả tiêu
cực. Từ ngữ đó có âm bội cổ lổ sĩ, mang tính cách sùng đạo
mê muội khiến dân chúng quay lưng lại. Từ ngữ đó gây nên một
âm hưởng như sau: bạn phải đè bẹp mình xuống. Bạn
phải ép mình vào một thứ tôn giáo cổ xưa.
Ngôn từ giống như trận chiến
Nói đúng hơn, nếu từ ngữ chính xác, tức
trận chiến đã thắng. Nếu từ ngữ không minh bạch sẽ chuốc lấy
thảm bại. Từ ngữ “thống hối” gây ra ấn tượng thất
bại. Tuy nhiên, chúng ta không thể kéo cờ trắng đầu hàng.
Chúng ta không thể vứt bỏ từ ngữ đó được.
Chúng ta đang sống trong một thời đại
mà nhiều người hổ thẹn về sự thống hối và không thấy có lý
do để thú nhận tội lỗi mình. Tuy nhiên, những người trẻ cũng
như già – và phần đông trẻ nhiều hơn già – đã chia sẻ trên
những băng tầng phát thanh hay truyền hình khắp nơi để thú
nhận những điều riêng tư nhất – có khi đầy dơ bẩn xấu xa –
về cuộc sống của chính cá nhân họ.
Tất cả những điều đó đã xảy ra vào một
thời điểm mà tâm lý học và tâm lý trị liệu đã tái khám phá
giá trị của sự thống hối. Vài người trong họ
đã van xin như Thánh Gioan Bao-ti-xi-ta ngày xưa. Họ không
uốn lưỡi. Họ nói thẳng thừng với thính giả: Nếu bạn không
thống hối những lỗi lầm quá khứ, bạn sẽ tái phạm và khi tái
phạm mãi, bạn trở nên bệnh hoạn.
Nếu bạn không thống hối…nói cách khác,
nếu bạn không hoán cãi, chắc chắn bạn phải chết. Bạn trở
thành một cái xác không hồn, tuy bạn vẫn đi đứng như người
bình thường. Ở một giai tầng nào đó, có thể bạn hoạt động
rất hữu hiệu và thành công trong xã hội. Nhưng ở một mức độ
cao hơn, ở trong sâu thẳm nội tâm của bạn mới là vấn đề. Bạn
có thể trở thành một con người tuy vẫn đi đứng, cử động,
nhưng đã chết về mặt tinh thần.
Mười hai bước tiến
Trong xã hội của giới nghiện ngập,
người ta hiểu rõ tầm mức quan trọng của việc thống hối hơn
những người ngày nay thường lui tới nhà thờ. Điều đó có lạ
lùng không? Chương trình “mười hai bước tiến”
áp dụng cho giới nghiện ngập cho thấy người ta phải thống
hối, phải chấm dứt cách sống mang lại sự huỷ diệt, nếu
không, người ta tự huỷ hoại lấy mình, rồi rơi xuống hố sâu
và còn kéo theo nhiều người khác xuống hố với mình.
Nếu tôi, trong tư cách là một linh mục,
lên tiếng kêu gọi “thống hối”, người ta không cho điều đó
quan trọng lắm. Tôi bị tố cáo là qui tội cho
kẻ khác. Nếu điều đó xảy ra, tôi cũng sẵn sàng chấp nhận.
Tôi thiết tưởng điều đó cũng nằm trong lãnh vực trách nhiệm
của một linh mục trong xã hội ngày nay.
Công việc của tôi không
nhằm thuyết phục bạn, nhưng để làm chứng tá cho chân lý. Nếu
bạn hiểu được điều đó thì thật tuyệt vời! Nếu bạn không hiểu
được, thật quá tồi tệ. Một số người nghe theo, nhưng một số
khác không nghe. Như người Ả-rập thường nói:
Bản chất của nước mưa thì giống nhau. Mưa làm cho gai góc
mọc lên ở trong đầm lầy nhưng cũng làm cho bông hoa nở rộ
trong ngôi vườn.
Tiền bạc hay cuộc
sống
Thực tế là khi chúng ta
không nhận ra những gì sái quấy trong hành động chúng ta và
tại sao lại sái quấy, và khi chúng ta không chấp nhận đó là
sái quấy thì chúng ta cứ tiếp tục tái phạm mãi mãi. Chúng ta
trở thành quen thói rồi. Điều đó trở nên bản tính thứ hai
và không làm cho chúng ta áy náy nữa.
Một cách vô thức, chúng
ta bắt đầu đánh mất ý niệm về giá trị và ý thức về tội lỗi.
Điều đó xảy tới một cách vô ý thức, bởi vì tôi không
tin bất cứ ai có chủ tâm vứt bỏ hệ thống giá trị ra ngoài
cửa sổ. Thật đáng buồn, không có tinh thần thống hối, chúng
ta bị lạc đường. Chúng ta bị rối loạn, không nhận ra điều gì
đang xảy tới.
Đối với nhiều người,
chân lý chỉ là trò giễu cợt, như trong câu chuyện nói về tên
cướp ngân hàng kê súng vào đầu anh Jack và nói: “Đưa tiền
đây hay bị mất mạng.” Jack đáp: “Để tôi suy nghĩ! Để
tôi suy nghĩ!”
Lòng tham muốn những
của cải vật chất đã khiến Jack quên thực tế khẩn trương. Anh
nên kiềm chế lòng tham lam và kềm chế như thế nào?
Thần học và sự lành
mạnh hóa
Lòng tham có thể là vấn
nạn đối với bạn hay không thành vấn đề. Bất cứ điều gì dẫn
bạn đi lạc lối thì nền thần học cũng như tinh thần lành mạnh
đòi hỏi chúng ta phải nhận dạng điều gì cần thiết để thống
hối. Vậy điều gì chúng ta cần phải thay đổi để cuộc sống
được đồng điệu hầu trở nên môn đệ Chúa Giêsu? Công việc của
tôi không phải nói cho bạn điều gì phải làm, đúng hơn là chỉ
cho bạn một hướng đi. Rồi tùy bạn tự lo liệu lấy!
Tommy, cho ngựa ăn
đi
Cho phép tôi kết thúc
bằng câu chuyện về một em bé tên Tommy, rất sợ bóng
tối. Em sống trong một trang trại, ở nơi đèo heo hút gió,
vào thời kỳ chưa phát minh điện lực. Vào một buổi tối mùa
đông, cha em sai em ra chuồng ngựa để cho ngựa ăn. Chuồng
ngựa ở nơi tối tăm nhất trong trang trại.
Cha em biết em sợ bóng
tối nên trao cho em một cây đèn lồng và nói:
“Tommy ạ, con cầm
đèn đi và cho ba biết con thấy gì?”
- Ba ơi, con thấy
nửa đường đi qua sân trại!
- Tốt, bây giờ con
hãy đi thật xa mà con có thể thấy được.
Tommy lấy hết gan dạ đi
khoảng cách đó. Ba em lại kêu:
“Tommy, cầm đèn lồng
cao hơn và cho ba biết con thấy gì?”
- Con thấy chuồng
ngựa.
- Tommy, con hãy đi
thật xa hơn nữa mà con có thể thấy được.
Em bé lấy hết can đảm
để bước đi trong ánh đèn dầu. Khi em đến chuồng ngựa, ba em
gọi em:
“Bây giờ con thấy gì?”
- Ba ơi, con thấy những con ngựa.
- Tommy, giờ con cho ngựa ăn đi.
Và em bé đã làm như người cha nói.
Đèn lồng là hình ảnh Phúc Âm.
Điều tôi nói cho bạn, tôi cũng nói cho chính tôi: Hãy cầm
đèn lồng lên và lấy hết can đảm đi càng xa càng tốt để
có thể thống hối và có can đảm thay đổi những gì cần phải
thay đổi và sống những điều trường tồn miên viễn.
Chân thiện mỹ
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã
nói như sau: “Chân thiện mỹ sẽ giải thoát thế giới.”
Thống hối là chân thiện mỹ. Khi chúng ta ôm ấp “chân thiện
mỹ”, chúng ta giải thoát thế giới.
Linh Mục Vincent Travers, OP
Hương Vĩnh chuyển ngữ |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU
DÂNG HIẾN |
Nguyên tác: ”Lettres d’amour aux
prêtres” – “Thư tình
gửi các Linh mục”
của Catherine DE HUECK DOHERTY
Người chuyển ngữ, Đình Chẩn.
CHƯƠNG V
TÌNH YÊU DÂNG HIẾN
Con đã nói với cha về dấu chỉ niềm vui và
niềm hy vọng như thế nào, nhưng con chưa nói đến cha cũng là
dấu chỉ của Tình yêu dâng hiến.
Tình yêu là một cái gì đó thật huyền diệu.
Thánh Phaolô đã đưa ra một định nghĩa về Tình Yêu (Đức Ái)
chưa từng có từ xưa đến nay. Ngài bắt đầu bằng những lời lẽ
giản dị về thứ bậc các đặc sủng:” Trong các ân huệ của
Thiên Chúa, anh em hãy tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng
đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả”.
Vậy nên, thưa cha kính yêu, đó không phải là điều đáng nói
sao? Thánh Phaolô đã chỉ cho chúng ta thấy một con đường
trổi vượt hơn cả. Người tách Tình yêu ra khỏi tất cả những
gì không thuộc về Thiên Chúa; Người thanh tẩy và thánh hoá
Tình yêu. Người nâng Tình yêu lên. Cha hãy lắng nghe những
lời ngài muốn nói :
“ Giả như tôi có nói được các thứ
tiếng của loài người và của các Thiên Thần đi nữa mà tôi
không có Đức Mến ( Tình yêu) thì tôi cũng chỉ là thanh la
phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng”. Ước chi các
Kitô hữu biểu lộ đúng điều ấy! Ước chi điều ấy đúng với cha,
thưa cha kính yêu! Những câu chữ chau chuốt, những bài
giảng đầy sức thuyết phục, làm sao lại xảy ra chuyện người
ta không xúm đến với cha, không cám ơn cha, không vây quanh
cha như người ta vây quanh Chúa Kitô? Người ta đến gần cha
và khen:” Cha giảng rất hay, thật đáng ngưỡng mộ! Nhưng
người ta buồn khi ra về . Tại sao vậy?
“Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và
được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có
được Đức Tin đến chuyển núi dời non mà tôi không có Đức Mến
thì tôi cũng chẳng là gì cả”. Cha có thể hình dung
ra điều đó không? Cha có thể hình dung ra với ơn chữa lành,
ơn nói tiên tri, ơn suy xét, và tất nhiên hơn thế nữa, bảy
Đặc Sủng của Thánh Thần? Nhưng nếu cha thực thi những ơn đó
mà không có Đức Mến, thì như Thánh Phaolô nói:” …Thì
tôi cũng chẳng là gì”.
Những lời này nghe thật khiếp sợ phải không
cha? Bởi có nhiều người trong chúng ta lợi dụng những Đặc
Sủng của Thánh Thần ban cho để được nổi danh. Những ơn đó
làm rạng ngời vinh quang của chúng ta. Điều đó còn bi kịch
hơn. Chúng ta được trao ban những ơn này là để dẫn đưa anh
em về với Chúa, chúng ta cất giữ những ơn đó, và cách nào
đó, chúng ta bo bo giữ cho mình và kiêu ngạo khi có những ơn
đó.
Chính vì vậy, Thánh Phaolô nói rất chí lý:”
Chúng ta chẳng là gì cả”.“ Giả như tôi
có đem hết tài sản mà bố thí hay nộp cả thân xác để chịu
thiêu đốt mà tôi không có Đức Mến, thì cũng chẳng ích gì cho
tôi”. Những lời lẽ thật đanh thép phải không cha?
Chính vì vậy, Tình yêu hay Đức Mến, như
thánh Phaolô gọi, có đủ mọi cung bậc, là bản chất của sinh
linh con người. Bởi vì khi cha có Chúa trong mình là cha có
Tình yêu. Cha được tấn phong là để thực hành sứ vụ thánh
thiện của Ngài, nhưng còn hơn thế nữa, cha được phong chức ở
trong Chúa bởi vì Chúa ở trong cha và cha là Đại diện của
Chúa, cái duy nhất cha có thể trao ban là Tình Yêu. Cha phải
trao ban Tình yêu thật nhiều không tiếc tay. Thực vậy, bàn
tay cha múc lấy nguồn Tình yêu vô tận của Đức Kitô, từng
giờ từng phút từng giây. Cha phải trao ban Tình yêu mà cha
nhận được từ Thiên Chúa cho chúng con, Tình yêu mà Chúa đã
hiến dâng qua sự nhập thể , qua cuộc thương khó và chịu đóng
đinh của Người. Tình yêu ấy thuộc về cha! Là của cha! Để mà
cha có dược Tình yêu ấy và giữ lại trong một giây, chỉ một
giây thôi! Và để cha có thể rộng tay ban phát Tình yêu ấy,
bởi vì Tình yêu ấy sẽ trở lại với cha từ chính suối nguồn nó
đã vọt lên khi cha được phong chức Linh mục. Chính vì vậy,
Đức Mến là điều cha cần phải trao ban luôn luôn.
Nhưng cha hãy đọc kỹ hơn một chút nữa:”
Đức Mến thì nhẫn nhục, hiền hậu”. Con nhớ đến những năm
60: Hành động độc ác viện dẫn những tranh biếm họa về Đức
Thánh Cha và các Đấng bậc đã biến thành những sự nhạo báng,
những điều mà chẳng thể cười được dù chỉ trong giây lát.
“Đức Mến luôn luôn nhẫn nhục và hiền hậu”.
Liệu con có thể khẳng định với lương tâm mình rằng con là
người hoàn hảo, đáng yêu đối với Bề trên đối với anh chị em,
đối với những người được gọi là dưới con, đối với người
nghèo, đối với những người nhỏ mọn và đối với tất cả mọi
người? Tuy nhiên, thưa cha kính yêu, Thiên Chúa luôn luôn
kiên nhẫn với chúng ta, Thiên Chúa nhẫn nhục vô cùng. Bằng
những phương cách trong các bài Thần học, cha chứng tỏ điều
đó và lại hủy bỏ trong những bài Thần học khác. Tại sao vậy?
Suối nguồn Đức Mến phải chăng nay cạn kiệt? Tất cả những
việc cha có thể làm bây giờ là hãy ngước mắt nhìn lên Chúa
và khẩn xin Ngài vì Thiên Chúa luôn xót thương, ngay cả khi
Chúa bị ta xúc phạm thì Chúa vẫn luôn tha thứ và làm hoà
với ta.
“Đức Mến không bao giờ ghen tương vênh
vang hay tự đắc”. Tuy nhiên,
cách mà con cái đối xử với Giáo Hội Mẹ thật bi thảm phải
không cha? Và trong khi hành động như vậy thì cảm giác tội
lỗi đã xâm chiếm chúng ta. Chúng ta đã chế giễu, cha không
tin sao? Chúng ta đã quá tin tưởng vào lời gièm pha, du nhập
vào nhóm quân nhạo báng. Nhưng cha không thấy rằng những
nhóm ấy vừa cười vừa khóc sao? Cha không nhìn thấy nước mắt
chúng sao? Những giọt nước mắt ấy cứ uẩn khúc trong tim họ,
nhưng cha là người có được ơn nhận biết phân định, và cha có
thể trao ban bình an cho quân nhạo báng Thiên Chúa và những
người Đại diện Chúa. Người ta không chế giễu Thiên Chúa
nhưng có nhiều người không nhớ đến Thiên Chúa.
“Đức Mến không nóng giận không nuôi
hận thù”. Thật rõ ràng! Thế
mà tại sao có Linh mục lại còn tìm cách tranh cãi về Thiên
Chúa? Tại sao họ không quỳ gối xuống? Tại sao họ không cúi
đầu vào tận thẳm sâu lòng mình và kêu lên:” Lạy Chúa,
xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi!”?
“Đức Mến không mừng khi thấy sự gian
ác nhưng vui khi thấy điều chân thật, Đức Mến tha thứ tất
cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”.
Xin cha hãy ngẫm lại những lời ấy bởi nó thật quan trọng.
“Đức Mến không vui mừng khi thấy kẻ khác phạm tội!” Đức mến
không bao giờ chế giễu ai mà tự thú tội mình. Lẽ tự nhiên,
Đức Mến vui mừng trong sự thật bởi vì không phải chỉ nghĩ và
nói sự thật, nhưng còn bởi vì Đức Mến tự biết rõ mình và
biết rằng Thiên Chúa luôn luôn sẵn lòng tha thứ. Cha thường
nhìn thấy người con trở về với Người cha và trong phép Giải
tội, cha nhân danh Chúa Kitô tha thứ và xoá bỏ mọi lỗi lầm.
“ Ego te absolve…” Không phải cha là người
tha tội mà đó là Thiên Chúa! Nhưng qua cha mà sự tha thứ của
Thiên Chúa được lặp lại. Nếu Thiên Chúa còn tha thứ tội lỗi
cho tất cả những người đến xưng tội với cha, há Thiên Chúa
lại không tha thứ cho cha, cũng là hối nhân dưới chân Chúa
Giêsu sao?. Con chắc chắn rằng Thiên Chúa có tha vì Thiên
Chúa là Tình yêu.
“Đức Mến hy vọng, tin tưởng, chịu đựng
tất cả!” Tất nhiên, Đức Mến
tin tưởng. Nhất là Đức Mến tin tưởng những người không đáng
tin tưởng đơn giản chỉ vì Đức Mến tin tưởng chúng ta, cha và
con. Thế mà cha không nghĩ rằng chúng ta đáng tin tưởng dù
chút ít thôi sao? Nhưng dẫu cho mọi lời chúc phúc, mọi điều
kỳ diệu được thực hiện nơi chúng ta, thì chúng ta cũng không
đáng tin tưởng, phải không cha? Vậy nên, nếu Thiên Chúa tin
tưởng chúng ta, thì chúng ta cũng cần phải tin tưởng anh em
mình, nhất là những người không đáng tin tưởng. Chúng ta
không thể nói:” Ôi, tôi vừa cho ông này một đôla và ông ta
lại quay lại xin cũng với những lý do như vậy”. Nhưng Chúa
Kitô đã dạy:” Nếu ai xin áo ngoài của anh em thì hãy đưa
luôn cả áo trong nữa!” Thực vậy, họ có thể đem áo đi bán lấy
hai xu và đi uống, nhưng ai cũng biết rằng ngày nay đồ uống
là một căn bệnh, và cha sẽ không từ chối cho chiếc áo ngoài
cho một người bệnh phải không?
Thánh Phaolô tiếp tục nói với chúng ta rằng
ngay cả khi tôi tự hiến thân mình mà tôi không có Đức Mến
thì tôi cũng chỉ như thanh la phèng phèng chũm chọe trong
một “ sa mạc” không có Thiên Chúa.
Ít nhất, Đức Mến trao ban những cử chỉ đẹp
và thánh thiện. Ước chi mọi người biết chia sẻ từ que diêm
đến trao ban chính mạng sống mình, biết giang tay đón tha
nhân, biết chia sẻ nơi ăn chốn ở, tiền bạc, nếu chúng ta làm
với Tình yêu thương thì những việc làm ấy sẽ trở thành những
hành động của Chúa Giêsu. Khi đó, cha sẽ giống như Chúa
Giêsu và không có ai biết được điều gì đã xảy đến cho người
mà cha đã cho chiếc áo, những đồng xu, hay que diêm ấy.
Không , không có gì biết được.
Còn hiển nhiên hơn nữa, Chúa Giêsu đã trao
cho chúng con- những tín hữu,cho các cha-những Linh mục,
cho Đức Thánh Cha, rồi đến những người ăn xin, những cô gái
điếm, một giới răn là: Chúng ta hãy yêu thương nhau,
vì khi chúng ta yêu thương nhau chính là khi chúng ta yêu
mến Chúa. Chính vì Đức Mến vượt trên tất cả, nên Đức Mến
phải là trung tâm của Linh mục.
Nhưng thánh nhân còn nói tiếp:” Ơn nói
tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời thôi. Ơn ngôn ngữ ư? Chẳng
kéo dài mãi mãi; ơn hiểu biết ư? Cũng có ngày sẽ hết. Vì
chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn tiên tri có hạn; một khi
cái hoàn hảo đến thì những cái có hạn sẽ biến đi.
Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ
con, suy nghĩ như trẻ con, nhưng khi tôi đã lớn thì tôi bỏ
tất cả những gì là trẻ con. Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ qua
tấm gương, mai sau chúng ta sẽ thấy rõ trước mặt. Bây giờ sự
hiểu biết của tôi có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết
hết như Thiên Chúa biết tôi”. Tất cả các Ân Sủng của
Thánh Linh sẽ biến mất chỉ có Đức Mến là tồn tại. Con hy
vọng rằng khi ra trước mặt Chúa cha sẽ mặc chiếc áo khoác
bằng Đức Mến. Con hy vọng rằng đó không phải là chiếc áo
khoác bị rách nhưng mềm mại phải chiếu hào quang mặt trời.
Thưa cha kính mến, đời sống Linh mục của cha
là đời sống yêu thương, Tình yêu mà con đang nói ở đây được
thánh Phaolô miêu tả rất gần với tình yêu của thế gian. Nó
có thể kết hợp cách dễ dàng bởi vì cha đã được nếm thử Tình
yêu của Chúa Cha. Cha được chìm đắm trong biển Yêu thương từ
ngày cha lãnh nhận chức Linh mục. Đây là mầu nhiệm của Đức
khiết tịnh: Khả năng yêu thương như Chúa yêu. Đó là bí mật
của Đức khiết tịnh. Xin cha hãy nhớ lại điều này mỗi khi cám
dỗ nổi lên chống lại Đức Mến bởi nó chống lại mầu nhiệm yêu
thương mà cha đã được đắm chìm trong đó qua việc thánh hiến
lời khấn hứa. Cha chỉ có thể hiểu được Đức khiết tịnh trong
bối cảnh ấy, nếu không thì nhân đức này không tồn tại. Thưa
cha kính mến, cha không thấy điều gì đã đến với cha sao?
Cha được khoác lên mình chiếc áo nhuộm máu
đào của Chúa. Đó là chiếc áo nhuộm máu đào bởi vì Chúa Kitô
đã chết cho cha và cho con, nhưng cách riêng cho cha. Cha
được mặc chiếc áo ấy như là lớp da bảo vệ cho cha. Cha có
thể đi trên con đường Chúa đã đi trong sự bình an. Con hình
dung ra sự bình an lạ lùng ấy đã choán hết con người cha
khi cha nhận thấy những gì mà Thiên chức Linh mục mang lại
cho cha.
Cha có hiểu Đức khiết tịnh của cha thể hiện
nơi chúng con-người trần tục như thế nào không? Con không
muốn nhắc lại rằng những người trẻ đã xì xào nhau trong
những năm 1960, 1970 và cả sau này nữa:” Cam kết sống đời
tận hiến làm gì khi người ta chứng kiến cha này hay sơ kia
đi lạc đường?”
Vâng, cha là dấu chỉ niềm hy vọng bất cứ nơi
đâu cha đặt chân đến, nhưng cha sẽ nâng tâm hồn người ta lên
khi cha sống đời khiết tịnh. Khi đó người ta sẽ hiểu được
thế nào là sự thánh thiện và nhất là tại sao tất cả mọi
người chúng ta được rửa tội trong sự chết và Phục sinh của
Chúa Kitô, nếu đó không phải là để nên thánh sao? Tất cả mọi
người cần nên thánh khi xác tín nhìn lên Thầy chí thánh của
chúng ta, nhưng đặc biệt hơn cha là người bước đi trong
chiếc áo choàng thấm máu đào mà Chúa Kitô đã trao ban cho
cha ngày cha lãnh nhận chức Linh mục. Như vậy, chúng con
cũng có thể chạm tới chiếc áo choàng nhuộm máu đào ấy. Khi
đó, chúng con cũng có thể trở nên khiết tịnh tuỳ theo bậc
sống của mỗi người. Chúng con cũng có thể cảm nhận được Đức
khiết tịnh mà chúng con đã vứt bỏ như đồ trang sức cũ kỹ
ấy. Cha ơi, Đức khiết tịnh của cha là cốt lõi của sự thánh
thiện.
Đang suy nghĩ miên man về Đức khiết tịnh và
Đức Mến con chợt nghe thấy hai từ khác chen vào. Đó là : sự
trắc ẩn hay lòng thương xót. Rất tự nhiên con nghĩ nó phái
sinh từ “Đức khiết tịnh”. Con bắt đầu suy niệm về hai từ
đẹp tuyệt ấy.
Đối với con, nhân đức là sự dạt dào của con
tim. Cha có tin rằng gọi một nhân đức là sự dạt dào của
con tim thì đúng theo phương diện Thần học không?
Con phải thú nhận rằng sự trắc ẩn và lòng
thương xót đã được kết dính một cách chặt chẽ trong trái tim
con. Hình ảnh hai từ đó giống như hai anh em sinh đôi, nếu
như cha thấy được điều con muốn nói. Nhưng đang khi con nghĩ
đến lòng trắc ẩn và thương xót, con nghĩ ngay đến Chúa. Thực
vậy, há Người chẳng phải là Đấng đầy lòng trắc ẩn và hay
thương xót đó sao?
Con lại nghĩ ra một điều khác: Con không
biết con tim nhân loại có thể chứa đựng cả một đại dương
lòng trắc ẩn không! Có thể nhiều lắm cũng chỉ là một dòng
suối hay dòng sông. Nhưng một đại dương ư? Không, không,
con không tin rằng con tim nhỏ bé của con người có thể chứa
đựng cả đại dương bao la lòng trắc ẩn và thương xót. Nhưng
gần đây, con khám phá ra rằng trái tim nhỏ bé của con có thể
chứa được.
Một đêm kia, đang khi cầu nguyện, con chợt
nhìn thấy bức tường gỗ căn nhà con biến mất ( khi đó con
đang nửa tỉnh nửa mê); dù thế nào thì túp lều cũng đã biến
mất, và nhà con ở dù bé nhỏ, nhưng bất chợt các Linh mục
đứng chật nhà! Đó là những Linh mục sống trong sự hồ nghi.
Đó là những Linh mục sống trong sự quằn quại. Một nỗi đau
thầm kín. Đó là những Linh mục đang mong chờ hồi tục. Đó là
những Linh mục đang mong muốn kết hôn. Đó là những Linh mục
đang nghĩ đến sự chia cắt. Đó là những Linh mục vẫn còn là
Linh mục nhưng tỏ ra mệt mỏi. Vâng, thậm chí có những Linh
mục trong số đó đã hoàn toàn kiệt quệ!
Ngay khi đó, lòng con nổi lên ước muốn kết
tội bất cứ một Linh mục nào trong số đó vì yếu đức tin, yếu
đuối hay vì còn non nớt. Nhưng bất ngờ thay, lúc đó tâm hồn
con lại tràn ngập tình yêu thương và lòng trắc ẩn. Con muốn
ôm các ngài vào lòng như thể con đã là người mẹ hay chị gái
của các ngài. Con muốn an ủi các ngài biết bao! Con ước ao
muốn nói với các ngài rằng con cũng như tất cả các con chiên
khác cần đến các ngài biết bao. Nhưng ngay cả khi những nhu
cầu của chúng con biến mất thì tình yêu thương và lòng trắc
ẩn ấy vẫn tràn đầy trong con. Ước gì con có thể nói, viết
hay làm cách nào đó cho từng Linh mục nước Mỹ và Canada,
những người đang sống trong sự dằn vặt của nghi ngờ, của sự
xáo động nội tâm và của sự chán chường để các ngài hiểu rằng
các ngài không cô đơn, rằng ở nơi xa xôi của đất nước Canađa
kia có một thiếu phụ kỳ lạ, yêu Thiên chức Linh mục đến nỗi
bà không thể hiểu nổi chính mình, bởi tình yêu ấy vượt quá
trí hiểu của bà, nhưng con tim người phụ nữ ấy tràn ngập
biển trời yêu thương và lòng trắc ẩn.
Con ước ao có thể viết thư cho từng Linh mục
nước Mỹ, Canađa để chia sẻ nỗi đau của từng người, chia sẻ
trọn vẹn nỗi khổ ấy, dù nỗi đau ấy thế nào đi nữa, bởi vì
con yêu Thiên chức Linh mục của họ. Các Linh mục là những
người cha, người anh, và ngày nay họ đang bị cô đơn và bị
lãng quên biết bao! Nhưng con không thể viết thư cho tất cả
các Linh mục Mỹ được. Con chỉ có thể nhắc lại những gì đã
viết: Cánh cửa nhà Madonna luôn rộng mở. Chúng con dành cho
các ngài căn nhà giản dị khiêm tốn. Chúng con có những nơi
cô tịch, những căn nhà ổ chuột tầm thường, nơi đó người ta
có thể sống một mình với Thiên Chúa, và đó là nơi để học lại
cầu nguyện nếu cần.
Các Linh mục là những người được Thiên Chúa
cất nhắc lên hai lần. Các Linh mục là những người đã đáp lời
mời gọi của Thiên Chúa hai lần( lần một khi chịu phép Rửa
tội, và lần hai vào ngày chịu chức) để trở nên một Kitô
khác. Thiên Chúa đã gọi các ngài đứng dậy và lên đường để đi
đến tận cùng vực thẳm của ngục tù trần gian do con người xây
dựng và sống ở đó cho đến chết, chết cho chính mình, chết về
xác thịt, chết đi những ước muốn xa hoa, chết đi tất cả
những ước muốn của thế gian này và chết đi tất cả những gì
mà thế gian ưa thích.
Vâng, đứng dậy đi vào trong những vực thẳm
ngục tù do con người gây ra, nơi mà chỉ ít người biết được
danh Thánh vĩ đại của Thiên Chúa, Danh xưng êm dịu có sức
chữa lành. Vào nơi đó để gặp Đức Maria, Đấng hằng ở trong
các ngục tù và trong tất cả các sào huyệt của trần gian, vì
Mẹ là Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ của nhân loại. Duy có Mẹ chỉ
cho các Linh mục thấy chốn nương náu yêu thương của Mẹ và ở
lại đó. Có hề chi, dù nơi nương náu ấy chỉ là ngôi nhà giản
dị, tĩnh lặng, xa lánh tất cả những gì thế gian chạy theo.
Hay thậm chí một túp lều tranh, một túp lều chống tuyết vùng
bắc cực hay chiếc lều dựng trong sa mạc. Mẹ luôn luôn ở lại
trong ngôi nhà Tình yêu của Mẹ và các Linh mục phải ở lại
đó.
Những Linh mục này sẽ sống ở đó như những
chiên sát tế đối diện với tất cả những Linh mục không sống
kiểu Bethlehem, nơi vườn Giệtsimani hay ở Golgotha. Những
Linh mục ấy sẽ là những mẫu gương sống đời dâng hiến cho
những Linh mục chỉ ưa sống sung túc, thích những nụ cười
ngọt ngào, với những lời nói bóng bẩy phát ra từ những miệng
lưỡi giả hình, cho những người nhận lấy những đồng xu của bà
goá nghèo mua sắm những đồ sa hoa và đi du ngoạn tốn kém.
Những Linh mục ấy sẽ trở nên của lễ toàn thiêu thay cho
những Linh mục chỉ kính sợ loài người mà không kính sợ Thiên
Chúa, thay cho những ai đang say đắm trong phù hoa và danh
vọng thế trần.
Họ sẽ bắt đầu cuộc sống của mình trong sự
hiến dâng chính mình. Hiến tế là sự hy sinh trọn vẹn đến nỗi
không còn lại gì hết. Với Tình yêu, họ sẽ dâng hiến trọn vẹn
làm của lễ hiến tế Đức Mến. Chỉ khi đó, các Linh mục mới có
được bình an và các ngài sẽ đem bình an của mình vào địa
ngục trần gian của con người, không ai có thể lấy đi mất sự
bình an của các Linh mục ấy và của những người họ trao ban.
Nhưng hiến tế nghĩa là chết, và các Linh mục
cần phải chết đi. Đối với các Linh mục, đó là sự chết dần
chết mòn, giống như Chúa Giêsu đã bị đóng đinh cách tàn bạo
và bị chết như vậy. Đấng đã cất nhắc các Linh mục ấy lên, sẽ
thừa nhận các ngài là những Linh mục bác ái yêu thương và
đầy lòng trắc ẩn.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Đối thoại với Chúa thế nào? |
Tác
phẩm: Cầu Nguyện Cá Nhân: Bí quyết tình yêu và vui sống
Lm. Micae-Phaolô
Trần Minh Huy, pss.
Phần thứ hai
Đối
thoại với Chúa thế nào?
‘’Nầy đây, Ta đứng ngoài cửa
mà gỏ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa cho Ta,Ta sẽ vào với người
ấy và dùng bửa với người ấy và người ấy với Ta.’’
Chúa đến đứng ngoài cửa của
bạn mà gỏ. Để mở cho Ngài, bạn cần biết cách Chúa đến, tiếng
Chúa nói, ngôn ngữ Chúa dùng. Những bước nghệ thuật đối
thoại tôi trình bày chỉ nhằm giúp dễ dàng và phong phú cho
cuộc đối thoại của bạn với Chúa, chứ không bắt buộc phải
theo một thứ tự nào cả. Có khi bạn chỉ dùng một điểm để cầu
nguyện.
m ộ t
Bạn
chào Chúa
Gặp
hay đón tiếp ai, bạn chào người đó. Chào Chúa là bạn bắt
liên lạc với Chúa, là sống trong sự hiện diện của Chúa.
Nhưng Chúa không phức tạp đâu. Đối với Chúa, giản dị là điều
tốt nhất. Bạn xem trong máng cỏ, Chúa hiện diện như thế nào?
Là một em bé! Ba vua đi vào, quỳ gối và sụp lạy chào Chúa
Hài Nhi. Bạn đặt mình làm một nhân vật nơi máng cỏ. Bạn chào
Chúa, mà kỳ thực Ngài chào bạn trước, bởi vì Ngài là Thiên
Chúa đã đến làm người và ở giữa chúng ta. Bạn hãy yên lặng
nhìn ngắm Chúa và dâng cho Ngài cái gì bạn đang lấy làm quí
nhất. Bạn hãy để cho bình an và niềm vui dâng lên trong lòng
bạn.
Có nhiều cuộc gặp gỡ
trong Kinh Thánh có thể được dùng làm khung cảnh để bắt đầu
việc cầu nguyện của bạn. Thánh Têrêxa Avila bắt đầu nguyện
gẫm bằng cảnh Chúa Giêsu hấp hối trong Vườn Dầu. Liên lạc
với thiên nhiên cũng giúp bạn đặt mình trong sự hiện diện
của Chúa. Biết dừng lại giữa một cảnh đẹp, thinh lặng chiêm
ngắm, Chúa cũng cho bạn dấu hiệu và nói với bạn. Thánh Gioan
Thánh Giá, Thánh Phanxicô At-xi-di và nhiều vị thánh khác
thích cầu nguyện lâu giờ giữa thiên nhiên.
Khi mệt
mỏi, khô khan, bạn cũng có thể dùng một lời kinh lặp đi lặp
lại (như kiểu lần chuổi), để đi vào trong sự hiện diện của
Chúa và bắt đầu giờ cầu nguyện của bạn. Một Tập sinh tâm sự:
‘’Tôi lặp đi lặp lại nhiều lần ’Lạy Chúa Giêsu, xin thương
xót con’ - ’Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa’. Điều đó giúp
tôi tập trung vào Đấng Cứu Chuộc tôi’’. Hoặc bạn dùng công
thức giáo đầu giờ kinh phụng vụ để hướng lòng bạn về với
Chúa: “Lạy Chúa, xin mở môi con, cho con dâng lời ngợi khen
Chúa.’’
Nơi cầu
nguyện của bạn
Có người
chỉ cầu nguyện được ở trong Nhà Thờ hay Nhà Nguyện được bài
trí theo sở thích của mình. Thật vậy, khung cảnh bên ngoài
cũng góp phần dẫn bạn đến với Chúa, hay kéo bạn xa Ngài.
Tôi bàn ưu tiên đến
lời cầu nguyện riêng tư, nên ý nghĩa nơi cầu nguyện của bạn
đã được nói nhiều ở phần trên. Bạn cần bài trí cho phòng bạn
thành một khung cảnh thích hợp cho việc cầu nguyện riêng:
một Thánh Giá, một ngọn đèn, một Thánh Kinh chẳng hạn...
Nhắm thẳng vào cái chính yếu là có thể gặp gỡ Chúa trong đơn
sơ, nhưng đầy tĩnh thức chân lý. Thời điểm thuận tiện là ban
sáng: bạn đến trình diện với Chúa và định hướng cả ngày sống
của bạn.
Nếu ban sáng khó thì ban tối hay sau trưa. Nhưng thời gian
vẫn là thứ yếu. Điều quan trọng vẫn là giữ cho được việc cầu
nguyện hằng ngày.
Toàn thân
bạn cầu nguyện
Thể xác -
linh hồn - trí khôn phải liên đới sâu xa. Dĩ nhiên lời cầu
nguyện thể hiện trong sâu kín con tim và trí khôn, nhưng để
đi vào cung thánh nội tâm nầy thì thể xác và linh hồn cũng
cần được hòa hợp thống nhất. Thể xác bạn biến thành một thứ
Nhà Tạm cho Chúa hiện diện, như Thánh Phaolô nhấn mạnh:
“Thân xác cho Chúa và Chúa cho thân xác... Thân xác bạn là
Đền Thờ Chúa Thánh Thần’’ (1Cor.6:13.19). Vì thế, bạn cần
chế ngự và vô hiệu hoá ngũ quan vốn làm cho bạn hướng ngoại
hơn là hướng nội. Chẳng hạn ngồi thẳng xương sống, nhắm mắt,
điều hòa hơi thở, điều chỉnh thư giản cơ bắp. Tóm lại là làm
sao cho toàn thân bạn yên tĩnh, bằng an, có cảm giác thoải
mái, loại bỏ lo âu để tập trung vào giây phút hiện tại. Tuy
nhiên, bạn đừng để mất thời giờ và sức lực vào lối ‘’định
tĩnh yoga hay thiền’’, rốt cuộc là tập trung vào chính bạn.
Chỉ có mối liên lạc sống động và cá nhân với Chúa Kitô giúp
giải thoát thân xác bạn, dành cho việc phụng sự Thiên Chúa.
Đứng cầu
nguyện cũng là thái độ cầu nguyện thông thường của mọi tôn
giáo. Nó diễn tả sự kính trọng, tĩnh thức, sẵn sàng lắng
nghe và vâng theo. Qùy gối cầu nguyện diễn tả thái độ lệ
thuộc, phục tùng, sám hối, cầu khẩn. Cầu nguyện sấp mình sát
đất là dấu hiệu khiêm nhường và thờ lạy trước sự thánh thiện
của Thiên Chúa. Trong khi cầu nguyện riêng một mình, bạn tự
do sử dụng các tư thế của thân xác. Bạn càng thoải mái tự
nhiên trước mặt Chúa, lời cầu nguyện của bạn càng chân thực,
và mọi cánh cửa sẽ rộng mở cho cuộc đối thoại thân mật với
Chúa.
Những
lo ra chia trí
Bạn sẽ gặp
những lo ra chia trí trong khi cầu nguyện là điều không thể
tránh khỏi. Nhiều lúc ta không chú ý vào giây phút hiện tại
được, vì ý tưởng ta ở nơi khác, hoặc trong quá khứ hoặc
trong tương lai, nghĩa là trong mơ mộng. Khi đặt mình liên
lạc với Đấng Vô Hình, bạn thấy diễn ra cả một chuỗi những
chia trí, đó là cái hoàn toàn bình thường. Điều chính yếu là
không thuận theo hay thụ động chịu đựng chúng, mà phải không
ngừng chiến đấu để trở lại cuộc đối thoại. Cuộc chiến đấu
nầy giúp mở ra con đường cho lời cầu nguyện phong phú sâu
xa.
Tôi có một
kinh nghiệm sống cá nhân về chuyện nầy là lấy ngay sự chia
trí ấy làm đề tài, làm đối tượng để trao đổi đối thoại với
Chúa. Ví dụ khi bạn nghĩ đến công việc, bạn cầu xin Chúa ơn
chu toàn công việc đó tốt hơn. Một bạn mù chia sẻ: “Tôi mù
nên không bị chia trí vì bên ngoài, nhưng lại có chuyện khác
là đôi khi bị chia trí vì tưởng tượng. Trí tưởng tượng tôi
cứ đi dông dài và lúc đầu sống cầu nguyện thật là vất vả.
Thái độ của tôi là cố không dừng lại ở tưởng tượng ấy, mà
dâng nó lên Chúa và biến nó thành lời cầu nguyện. Khi trí
tôi nghĩ tưởng đến bạo lực, tôi xin Chúa biến đổi nó nên dịu
dàng. Khi trí tôi nghĩ tưởng đến điều không trong sạch, tôi
xin Chúa thanh tẩy tôi. Và như thế đó mà các cơn cám dỗ biến
đi. Ngay khi ý thức mình chia trí, tôi trở lại ngay với Chúa
đang hiện diện thực sự trong tôi.’’
Có một điều rất lợi
ích khi xem xét loại chia trí hằng đến luôn với bạn trong
lúc cầu nguyện. Chính những chia trí ấy mặc khải cho bạn là
bạn đang ở đâu trong những dính bén, những ước muốn thầm
kín, những ám ảnh... Nhờ đó mà bạn khám phá ra ‘’mối tội
đầu’’ của mình. Bạn đừng quên Chúa Giêsu đã nói rằng kho
tàng bạn ở đâu thì lòng trí bạn cũng ở đó. Đó là nhiệt kế để
đo cơn sốt nội tâm và tìm phương thuốc chữa trị. Từ đó mà
lời cầu nguyện của bạn sẽ hướng đặc biệt về một khía cạnh
nào cụ thể, để cầu xin Chúa ơn hoán cải, trở lại.
Dù bạn gặp
phải những khó khăn nào trong khi cầu nguyện đi nữa, bạn hãy
vững lòng. Sự suy niệm của người kitô hữu luôn có tính chất
đối thần, dựa trên Đức Tin - Đức Cậy - Đức Mến. Đôi khi bạn
hăm hở với việc cầu nguyện, mọi sự xem ra dễ dàng và bạn cảm
thấy lời cầu nguyện sống động, tập trung. Lúc khác lại trái
ngược, mọi sự xem ra khó khăn, khô khan, vất vả và bạn có
cảm tưởng là lời cầu nguyện chẳng có hiệu lực chi. Bạn đừng
xét đoán lời cầu nguyện theo những cảm giác tức thời ấy. Cái
quan trọng là sự dấn thân của bạn trong đức tin, đức cậy và
đức mến. Thường chính khi cuộc chiến đấu xem ra vất vả nhất,
lại là lúc lời cầu nguyện được chúc phúc nhất, dù bề ngoài
có như thế nào đi nữa.
Nối tần
sóng liên lạc với Chúa
Để nối tần
sóng liên lạc đối thoại với Chúa, bạn cẩn thận lưu ý những
điểm sau đây:
-
Bắt đầu bằng sự cắt đứt với những
mối bận tâm thường ngày của bạn, chẳng hạn khi vào nơi
cầu nguyện của mình, bạn hãy thắp lên ngọn nến, đặt mình
trong một tư thế thích hợp (ngồi, quỳ, đứng, sụp
lạy...), nhắm mắt, tập trung tư tưởng bằng sự hít thở và
thư giản.
-
Thiết lập ngay liên lạc với Chúa:
Đặt Chúa Giêsu ở trước mặt bạn, bằng hình ảnh hay ký ức
(Chúa Hài Đồng, Chúa Biến Hình, Chúa Hấp Hối, Chúa Vác
Thánh Giá, Chúa Chịu Đóng Đinh, Chúa Sống Lại...). Bạn
thưa với Chúa: ‘’Lạy Chúa, Chúa đang ở trước mặt con,
con yêu mến Chúa, con đang lắng nghe Chúa ...’’
-
Xin ơn cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin
Chúa dạy con cầu nguyện.’’ Kêu xin Chúa Thánh Thần hướng
dẫn và duy trì lời cầu nguyện của bạn, dù bạn có lo ra
chia trí. Mới đầu bạn đừng mong đạt chú ý 100%. Cái quan
trọng nhất là ý hướng và sự bền tâm.
-
Hãy coi chừng, đừng coi giờ cầu
nguyện như là một thứ dịch vụ bắt buộc, để rồi cứ gián
mắt xem đồng hồ, vội vả cho xong việc. Nếu thế, bạn nên
bắt đầu lại từ đầu.
-
Cuối
cùng, hãy nhớ rằng bạn không cô đơn trước mặt Chúa. Bạn
đừng ngại liên kết lời cầu nguyện của bạn với Mẹ Maria,
Thánh Cả Giuse, các thánh, các thiên thần và mọi người
đang cầu nguyện cùng lúc với bạn trên khắp cùng thế
giới, nhất là những người liên hệ thân thiết với bạn:
‘’Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện
bất tương phùng.’’
Lời cầu nguyện bên máng cỏ.
Con đang ở trước mặt Chúa
Giêsu Hài Đồng,
Rất bé nhỏ, rất khó nghèo
trong hang đá nầy,
Giữa Mẹ Maria và Thánh Cả
Giuse,
Là Ánh Sáng giữa đêm đen,
Là Thiên Chúa Nhập Thể,
Là Lời thành xác thịt,
Là Chúa Con xuống từ trời
cao,
Là Emmanuel, ‘’Thiên Chúa ở
cùng chúng con’’,
Là Đấng Tối Cao trở thành
Thấp Hèn Nhất,
Là Bánh Hằng Sống hiến trao cho loài
người đói khổ,
Là Đầy Tớ Khiêm Hạ đến trong vương quốc
của Kiêu Căng.
Con cũng biết được một chút
Phúc Âm,
Niềm Tin của Giáo Hội,
Nhưng con khó thực hiện những gì lời
mầu nhiệm mang tới.
Con đoán thấy trái ngược bao la và mới
mẻ đến kinh ngạc.
Lạy Chúa, con tin rằng Chúa là Thiên
Chúa diệu kỳ,
Mang đầy tình thương cho con
người,
nhưng lại vô cùng khiêm tốn.
Con tin rằng Chúa tự làm
người rất bé nhỏ,
Để bắt nối cùng con nằm sát
tận đất,
Trong sự ti tiện và những
khiếm khuyết của con.
Giêsu ơi, Chúa là Đấng duy
nhất đáng con tôn thờ,
Con sấp mình trước mặt Chúa,
Với tất cả yếu đuối và thiện
chí của con,
Con dâng Chúa lời cầu nguyện nhỏ bé
không khéo diễn tả của con.
Con dâng Chúa ước vọng đón
tiếp Chúa
Hầu con được tái sinh vào Sự
Sống và Tự Do:
‘’Một trẻ thơ đã sinh ra cho
chúng ta,
Một người con đã được ban cho
nhân loại.’’
Lạy Chúa, con cảm thấy mình
vụng về, bối rối,
Vì quà tặng quá quí giá,
Và bâng khuâng lo lắng trước một trách
nhiệm bao la.
Con mở rộng
vòng tay và con tim,
Xin Chúa hãy
vào cuộc sống con,
Là Đấng Cứu
Độ và Thiên Chúa của con,
Là người anh,
người bạn,
Là kiểu mẫu
duy nhất của con,
Là Thiên Chúa
thật và là người thật,
Con thờ lạy
và xin theo Chúa.
Lạy Cha trên
trời, Cha của Giêsu,
Con dâng Chúa
ý chí của con.
Lạy Chúa
Thánh Thần, Thần Trí của Giêsu,
Con tín nhiệm
vào Chúa,
Con cám ơn
Chúa
về sự dịu
dàng và sức mạnh của Chúa.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Thực
Phẩm Chức Năng |
Trong hơn 20 năm vừa qua, dân chúng cững như giới khoa học
đã có thêm một cái nhìn nữa về thực phẩm. Thực phẩm không
chỉ là để duy trì sự sống, mà còn mang thêm khả năng tăng
cường sức khỏe, giảm thiểu các bệnh mãn tính do mất cân bằng
dinh dưỡng. Từ đó nẩy sinh ra sự tìm hiểu và chế biến loại
thực phẩm trong đó các thành phần cấu tạo có tác dụng tích
cực vào những nhiệm vụ khác nhau của cơ thể. Đó là “Thực
phẩm chức năng”.
Thực phẩm chức năng được quần chúng dễ dàng đón nhận, đặc
biệt là với những lời giới thiệu hấp dẫn về ích lợi từ nhà
sản xuất. Thực phẩm có vẻ như đã đáp ứng nhu cầu tự chăm
sóc sức khỏe của mọi người. Tuổi thọ gia tăng, quý vị cao
niên muốn có các phương thức ở trong tầm tay để giúp cuộc
sống an bình, khỏe mạnh hơn. Giới trẻ muốn có “tiên dược” để
phòng tránh các bệnh mãn tính mà cha ông mắc phải. Rồi lại
còn chi phí khám chữa bệnh quá cao, thời gian ngồi chờ quá
lâu, bảo hiểm sức khỏe nhiêu khê, khiến cho nhiều người tìm
tới các phương tiện sẵn có.
Vậy thực phẩm chức năng là gì? Có khác với thực phẩm tự
nhiên không? Công dụng có như lời giới thiệu? Có cần thiết
và an toàn cho cơ thể không?
Sau đây là ý kiến của một số các nhà chuyên môn, hữu trách.
Định
nghĩa
Vào thập niên 1980, chính phủ Nhật Bản tài trợ một chương
trình nghiên cứu sự ích lợi của thực phẩm đối với sức khỏe.
Năm 1991, chữ Thực Phẩm Chức Năng (Functional Food) được
đưa ra với ý nghĩa ban đầu là những thực phẩm chế biến
(processed foods) chứa các hoạt chất có thể giúp một vài
chức năng cơ thể hoàn thành nhiệm vụ khả quan hơn, ngoài
công dụng dinh dưỡng.
Nhật Bản có những tiêu chuẩn cho TPCN, gọi là thực phẩm dành
riêng cho sử dụng y tế (Foods for Specified Health Uses),
được bộ Y Tế công nhận.
Sau đó, nhiều quốc gia khác cũng bắt đầu để ý tới những sản
phẩm với tên mới mẻ này. Tuy nhiên, cho tới nay, chưa có một
định nghĩa chính thức cho nhóm chữ TPCN. Mỗi quốc gia, mỗi
tổ chức nghiên cứu có định nghĩa và quy luật riêng nhưng từa
tựa nhau.
Viện Y học Hoa Kỳ đưa ra định nghĩa: “Thực phẩm chức năng là
những thực phẩm chứa các chất có khả năng tốt cho sức khỏe.
Các thực phẩm này bao gồm bất cứ thực phẩm chế biến hoặc
thành phần nào có thể cung cấp lợi ích cho sức khỏe ngoài
giá trị dinh dinh dưỡng cố hữu của thực phẩm”.
Trong tài liệu “Functional Foods: Opportunities and
Challenges” phổ biến vào năm 2003, cơ quan Nghiên Cứu Quốc
Tế Bất Vụ Lội về thực phầm, định nghĩa “Thực phẩm chức năng
là những thực phẩm và các thành phần thực phẩm có thể cung
cấp ích lợi sức khỏe ngoài giá trị dinh dưỡng căn bản. Các
thực phẩm này bao gồm thực phẩm thường dùng, thực phẩm được
bổ sung, tăng cường hoặc hoàn chỉnh hơn (enhanced) và các
thực phẩm phụ thêm”.
Với giới chức y tế Canada: “Thực phẩm chức năng có hình dáng
bên ngoài tương tự như thực phẩm thông thường. Ngoài khả
năng dinh dưỡng cố hữu, các thực phẩm này phải được chứng
minh một cách khoa học là có thể cung cấp những ích lợi sinh
học và có khả năng giảm thiểu rủi ro mắc các bệnh mãn tính”
Tại Việt Nam, thông tư số 08/TT-BYT ngày 23-8-2004 của Bộ Y
tế quy định: “Thực phẩm chức năng là thực phẩm để hỗ trợ các
chức năng của các bộ phận trong cơ thể, có tác dụng dinh
dưỡng tạo cho cơ thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng
và giảm bớt nguy cơ bệnh”
Giới chức y tế Hàn quốc coi thực phẩm chức năng là các thực
phẩm chứa các chất dinh dưỡng và các chất khác dưới dạng cô
đặc, có tác dụng nuôi sống hoặc sinh học với mục đích phụ
thêm cho thực phẩm tự nhiên”.
Điều cần lưu ý là trong các định
nghĩa nêu ở trên, không có định nghĩa nào nói tới công dụng
“chữa trị” bệnh của thực phẩm chức năng.
Điều
kiện trở thành thực phẩm chức năng
Theo quy định chung, một thực phẩm chức năng phải hội đủ các
điều kiện như sau:
- Các thành phần của thực phẩm phải có khả năng có tác dụng
tốt đối với các chức năng sinh hóa học của cơ thể, tăng
cường sức khỏe cho người tiêu thụ, ngoài giá trị dinh dưỡng
cố hữu.
- Các khả năng này phải được chứng minh bằng các thử nghiệm
khoa học.
- Sản phẩm phải có đầy đủ các thành phần đã nêu ra trên bao
bì.
- Phải có chứng minh rằng các thành phần cho thêm vào sản
phẩm an toàn và không gây ra các tương tác có hại
- Vì không là dược phẩm nên không được giới thiệu là có thể
chữa bệnh, mà chỉ có tác dụng phòng tránh, tăng cường sức
khỏe, nâng cao đời sống.
- Phải giới thiệu bằng những từ ngữ rõ ràng, dễ hiểu, không
có tính cách gây hiểu lầm, lừa dối.
Tại Hoa Kỳ, thực phẩm chức năng được cơ quan Thực Dược Phẩm
(Food and Drug Administration) kiểm soát về phẩm chất và sự
an toàn. Nhà sản xuất phải được FDA công nhận là thực phẩm
chức năng với các dẫn chứng khoa học về ích lợi của sản
phẩm. Các điều- cho-là-đúng hoặc khẳng- định, quả-quyết
(Claims) của nhà sản xuất được xét theo các tiêu chuẩn sau
đây
a. Có một đồng ý khoa học đáng kể (significant scientific
agreement) đối với quả quyết của nhà sản xuất.
b. Mặc dù có một vài bằng chứng khoa học hỗ trợ nhưng bằng
chứng đó không có tính cách kết luận.
c. Có vài chứng cớ khoa học gián
tiếp nhắc tới quả quyết này. Tuy nhiên FDA kết luận là dẫn
chứng rất giới hạn (limited) và không có tính cách kết luận
d. Rất ít nghiên cứu khoa học đề cập tới điều mà nhà sản
xuất quả quyết. FDA kết luận rằng có rất ít bằng chứng khoa
học hỗ trợ cho lời yêu cầu.
Mới đây nhất, tháng 1 năm 2007, FDA gửi một hướng dẫn tới
các nhà sản xuất thực phẩm, trong đó FDA nhấn mạnh ở hai
điểm:
- Quà quyết sức khỏe (Health claims) mô tả mối liên hệ giữa
một chất (thực phẩm hoặc thành phần thực phẩm) với một bệnh
hoặc một tình trạng sức khỏe. Quả quyết của thực phẩm giới
hạn ở sự giảm rủi ro bệnh chứ không được quả quyết
chữa lành bệnh, giảm bệnh, điều trị hoặc phòng tránh bệnh.
Các quả quyết này dành cho dược phẩm.
- Các quả quyết của thực phẩm chức năng (Functional Food
Claims) chỉ trình bầy ảnh hưởng của thực phẩm đối với cấu
trúc và nhiệm vụ các bộ phận cơ thể.
Chẳng hạn thực phẩm tăng cường calci giúp duy trì xương lành
mạnh và giảm rủi ro loãng xương; thực phẩm có chất xơ giúp
đại tiện đều đặn và có thể giảm rủi ro vài loại ung thư và
bệnh tim; folic acid có thể giảm
rủi ro khuyết tật cột tủy sống; chất đạm đậu nành có thể
giảm rủi ro bệnh tim…
Tại Hoa Kỳ, giới sản xuất thực phẩm chức năng liên tục tranh
luận với cơ quan này về điều mà họ cho là đúng để giới thiệu
trên nhãn thực phẩm. Thay vì nói sản phẩm chữa được bệnh thì
họ “lách”: sản phẩm có thể thay đổi chức năng và cấu trúc
các cơ quan trong cơ thể, trì hoãn sự hóa già hoặc duy trì
mức độ cholesterol bình thường, “cải thiện tâm trạng”, “chất
bảo vệ sức khỏe”, “Tăng
cường sự thư giãn”…
Bên Anh quốc, luật pháp đòi hỏi là mọi giới thiệu trên nhãn
hiệu thực phẩm phải đúng và không có tính cách gây hiểu nhầm
(misleading).
Liên Hiệp Âu châu cũng có quy luật để bảo đảm là mọi dữ kiện
ghi trên bao bì thực phẩm đều rõ ràng, chính xác và có chứng
minh để dân chúng dễ lựa chọn thực
phẩm, nước uống và để bảo
vệ sức khỏe mọi người.
Việc kiểm soát chặt chẽ như vậy nhằm mục đích bảo vệ người
tiêu thụ khỏi bị “thôi miên với các giới thiệu tốt đẹp,
không phân biệt được thực hư, dễ bị nhầm lẫn”.
Xin đưa ra trường hợp một sản phẩm tại Việt Nam được Cục An
Toàn Vệ Sinh Thực Phẩm cho phép với xác định: ‘’Tảo côn bố
là 1 loại tảo biển có nhiều vi chất dinh dưỡng nên dùng tốt
cho những người suy nhược cơ thể do dinh dưỡng không cân
đối. Ngoài ra, cung cấp một luợng chất xơ tự nhiên cao giúp
ổn định hoạt động của bộ máy tiêu hóa, đặc biệt là đại
tràng”.
Nhưng nhà sản xuất lại giới thiệu: “Tảo đặc chế bổ sung
dưỡng chất cho cơ thể, chống loãng xương, táo bón, trĩ, lợi
tiểu. Ngăn ngừa chứng huyết khối, giảm cholesterol, phòng
chống ung thư dạ dày, đại tràng, trị bướu cổ, tràng nhạc,
xám da, lọc máu, thải độc, viêm gan B, giảm béo. Đặc biệt
đối với người béo phì, đái tháo đường, huyết áp, tim mạch”.
Cục An toàn thực phẩm đã yêu cầu nhà sản xuất thu hồi sản
phẩm.
Áp dụng
thực tế
Thực ra, 500 năm trước Thiên Chúa, danh y Hi Lạp Hippocrate
đã biết rõ vai trò của thực phẩm
đối với bệnh và đã viết: “Hãy dùng thực phẩm như dược phẩm”.
Từ lâu, các quan sát dịch tễ đã thấy rằng, thổ dân vài bộ
lạc ở châu Phi dùng nhiều thực phẩm có chất xơ ít bị ung thư
trực tràng; dân Eskimo rất ít bị bệnh tim vì ăn nhiều cá;
người Nhật sống ở quê hương ăn nhiều đậu nành ít bị nhồi máu
cơ tim hơn là khi chuyển cư sang Mỹ, tiêu thụ nhiều thịt
động vật…
Trong khi đó thì khoa học thực nghiệm cũng chứng minh là các
thực phẩm tự nhiên mà chúng ta thường ăn đều có tác dụng tốt
lên các chức năng của cơ thể. Như là hạt yến mạch (Oats) có
chất xơ b-glucan làm giảm cholesterol, LDL giảm rủi ro bệnh
động mạch tim; cà chua với lycopene giảm rủi ro ung thư
nhiếp tuyến; tỏi với hóa chất Allium savitum có tác dụng
phòng tránh ung thư, tiêu diệt vi khuẩn, giảm cao huyết áp,
cao cholesterol; nước trái cây cranberry rất tốt để giảm
nhiễm trùng tiểu tiện; cá có omega-3 giảm rủi ro bệnh tim và
ung thư; sữa chua có nhiều vi sinh vật rất tốt cho các chức
năng của ruột…
Như vậy
có nên hoặc cần dùng thêm thực phẩm chức năng hay không.
Marion Nestle, Trưởng Bộ môn Dinh Dưỡng và Nghiên Cứu Thực
phẩm tại Đại học New York có ý kiến: “Điều e ngại của tôi là
thực phẩm chức năng sẽ ngăn cản (distract) dân chúng dùng
thực phẩm lành mạnh và khuyến khích các nhà sản xuất đưa ra
thị trường những sản phẩm vô tích sự, chỉ có một vài chất
dinh dưỡng mà nói là thực phẩm tốt lành. Rau và trái cây đã
có đầy đủ những chất giúp ngăn ngừa ung thư và bệnh tim”
Về sự an toàn, xin trích dẫn lời nói của Steven DeFelice,
Chủ tịch Quỹ Tài trợ Canh tân Y học (Foundation of
Innovation in Medicine) tại Cranford, New Jersy: “Chín mươi
chín phần trăm thực phẩm chức năng chưa được thử nghiệm lâm
sàng và đã đưa ra các khẳng định mà không có sự hỗ trợ của
dữ kiện lâm sàng”.
Hoặc như nhận xét của Bruce Silverglade, Giám đốc Pháp lý
của Trung tâm Khoa học vì Lợi ích Công cộng (Center for
Science in the Public Interest): “Người ta vẫn nói rẳng dược
thảo an toàn vì đã được dùng cả nhiều trăm năm. Một số dược
thảo có thể an toàn. Nhưng không được thử nghiệm, không ai
có thể biết một dược thảo nào đó có thể gây ra ung thư, suy
thận hoặc tổn thương khác, dủ là chất đó đã được dùng từ
lâu”.
Chính các nhà sản xuất cũng nhận là hiện nay trên thị trường
có nhiều loại TPCN không đúng như quảng cáo, sự khuyến mãi
không thực thà, sản phẩm không có bổ ích.
Kết
luận
Thực phẩm chức năng đang tràn ngập thị trường tại mọi quốc
gia với những lời quảng cáo dễ lung lạc lòng người về ích
lợi cho sức khỏe.
Dùng hay không là tùy sự suy luận và nhu cầu của mỗi cá
nhân.
Chỉ nên nhớ rằng thực phẩm tự nhiên đã chứa tất cả các chất
dinh dưỡng cần cho các chức năng của cơ thể.
Và thực phẩm gọi là chức năng không phải là phương thuốc
“bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ” để giải tỏa các các
thói quen xấu. Đây cũng chỉ là thức ăn thường được chế biến,
thêm bớt vài hóa chất khác nhau.
Hơn nữa, không có thực phẩm xấu tốt mà có cách sử dụng đúng
hoặc sai. Sai vì dùng quá ít hoặc quá nhiều. Như Paracelsus
vào thế kỷ 15 đã có nhận xét: “Mọi chất đều có mầm độc hại.
Sử dụng với số lượng thích hợp phân biệt một chất độc với
liều thuốc trị bệnh”
Mà ăn uống đúng cũng chưa đủ, còn cần có nếp sống lành
mạnh, vận động đều đặn, thư giãn tâm hồn.
Thực phẩm chức năng còn cần nhiều nghiên cứu khoa học để
chứng minh công dụng phòng ngừa, chữa trị bệnh tật.
Cũng như cần sự “trong sáng lương tâm” của nhà sản xuất để
không đưa ra thị trường những sản phẩm “hào nhoáng bề ngoài
mà nội dung nghèo nàn, đôi khi có hại”. Hoặc các nhà phân
phối phóng đại lời giới thiệu sản phẩm quá mức độ so với tác
dụng thực sự của chúng.
Như ý kiến sau đây của Barbara Gollman, Hội Thực Phẩm-Dinh
Dưỡng Hoa Kỳ (American Dietetic Association): “Tiêu thụ quá
nhiều, các chất đó sẽ gây hại cho sức khỏe. Nếu không thu
lượm được điều mà ta tưởng là có thì chỉ tốn tiền vô ích”.
Vì liệu “Cỏ có luôn luôn xanh hơn ở phía bên kia núi”
hay không!!
Bác sĩ
Nguyễn Ý-Đức Texas- Hoa Kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
|
CỤ XỨ BÊN TA Chuyện
phiếm của Gã Siêu. |
Nếu gã nhớ không lầm,
thì trước ngày ba mươi tháng tư năm bảy mươi lăm, tại Đại
Chủng Viện Thánh Giuse Saigon các thầy phó tế, hay nói nôm
na là các cụ sáu, được lãnh nhận chức vụ linh mục vào cuối
tháng tư, trước khi ra trường; còn tại Giáo Hoàng Học Viện
Thánh Piô X Đàlạt, thì vào tháng mười hai, trước lễ Giáng
Sinh. Thành thử trong năm có những đợt truyền chức, được gọi
là những mùa hồng ân,
Vào những mùa và những
đợt này, bàn dân thiên hạ lại được nghe trình bày về linh
mục. Các vị giảng thuyết cả tiếng lại dài hơi, ca tụng vẻ
cao đẹp tuyệt vời của thiên chức ấy. Chẳng hạn linh mục là
trung gian giữa trời và đất, là gạch nối giữa Thiên Chúa và
nhân loại. Nghe cứ như rót vào tai.
Có vị trích dẫn mẩu đối
thoại hình, hình như của cha thánh Gioan Maria Vianney, để
biện minh cho những lời ca tụng của mình. Thánh nhân phát
biểu như sau :
- Nếu một ngày nào đó,
tôi gặp một thiên thần và một linh mục ở giữa đường, thì tôi
sẽ cúi đầu chào linh mục trước, bởi vì linh mục đã đem Chúa
đến cho tôi, còn thiên thần thì…không.
Có vị còn xác quyết
mạnh mẽ hơn thế nữa, khi nói :
- Mẹ Maria chỉ sinh
Chúa có một lần, còn linh mục thì không ngừng sinh Chúa mỗi
ngày!
Chỉ sợ rằng các cha mới
cứ được nghe miết những lời “khoái cả lỗ nhĩ” này, mà lim
dim ngủ trên những hào quang của mình. Cứ ngỡ mình là ông
Bụt cao sang, mà quên mất thân phận hòn đất thấp kém, bởi vì
từ hòn đất, các ngài đã được cất nên ông Bụt.
Có một anh bạn là linh
mục, ngày kia đã tâm sự với gã như thế này :
- Hồi còn bé, mình
thích đi tu lắm, ông có biết tại sao không ? Này nhé, đi tu
làm cha thì được ở nhà tây, được mang giày tây, được ăn bánh
tây. Ra ngoài đường, bất luận già trẻ lớn bé, nam phụ lão ấu
đều khoanh tay cúi đầu chào : Con xin phép lạy cha ạ. Lạy
cha mà còn cần phải xin phép nữa, thì quả là hết ý. Hồi ấy,
mình cũng giống như anh em ông Giacôbê và Gioan, mang nặng
đầu óc xôi thịt, theo Chúa với mục đích vinh thân phì gia,
mong được ngồi bên tả và bên hữu Chúa, có nghĩa là tìm lấy
cho mình ghế nọ ghế kia, chức này chức khác. Tóm lại là
được làm lớn trong vương quốc của Ngài. Thế rồi những tháng
năm dài ở chủng viện đã dần dần thanh luyện cái ý hướng của
mình, nhờ đó mình không còn mang ảo tưởng nữa. Chức linh mục
là để phục vụ Chúa và người khác, chứ không phải là để phục
vụ cho bản thân. Và đời linh mục chẳng phải là một xa lộ an
toàn, nhưng cũng chất đầy những chông gai và sỏi đá…
Cũng vị linh mục này,
trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, đã được mấy bà hiền
mẫu góp ý…nhẹ nhàng như sau :
- Đi tu như các cha,
các thầy, các dì thế mà sướng, chứ còn đèo bòng như tụi con,
khổ lắm cha ơi.
Có bà còn mạnh miệng
phán một cách rất quyết liệt và quá khích :
- Khi gặp gỡ và trao
đổi với những đôi hôn nhân, cha hãy bảo chúng nó đừng lấy
nhau nữa, khổ lắm cha ơi.
Nghe vậy, gã bèn hỏi :
- Vậy cha đã giải tỏa
cho họ như thế nào ?
Ngài trả lời :
- Mình cũng chỉ biết
nhún vai, nhếch mép…mần duyên mà nói với họ rằng : Có ở
trong chăn mới biết chăn có rận và đoạn trường ai có qua cầu
mới hay. Các bà cứ thử đi tu làm…cha mà coi xem có nổ đom
đóm mắt và toát mồ hôi hột ra không ?
Đúng thế, bông hồng nào
mà chẳng có gai, cuộc đời nào mà chẳng có những đắng cay của
nó. Định luật này được áp dụng cho mọi người, ở mọi nơi và
trong mọi lúc, chẳng miễn trừ cho một ai, kể cả linh mục và
tu sĩ.
Vì thế, hôm nay gã xin
hầu chuyện về nỗi đoạn trường và những cay đắng bẽ bàng của
các linh mục, đặc biệt các cụ xứ, các cha sở bên ta, tức là
bên Việt Nam. Hy vọng có người nào đó sẽ viết tiếp về nỗi
đoạn trường và những cay đắng bẽ bàng của các cụ xứ, các cha
sở bên tây.
Nhìn thoáng qua con
người và cuộc đời, gã thấy linh mục được phủ đầy hào quang,
thậm chí có kẻ xấu bụng còn liệt các ngài vào hàng :
- Ngồi nhà mát, mà ăn
bát vàng.
- Muốn nói ngoa, thì
làm cha mà nói.
Hằng ngày chẳng phải
bon chen, bươn chải hay khắc khoải với vấn đề cơm áo gạo
tiền. Rồi lại còn được bàn dân thiên hạ trọng kính. Thấy vậy
ai mà chẳng ham.
Tuy nhiên, nếu vào sâu
hơn một chút, thì con người và cuộc đời linh mục cũng không
thiếu những gian nan và thử thách. Yếu tố căn bản tạo nên
tấm bi kịch của thân phận linh mục, theo gã nghĩ, đó chính
là những mâu thuẫn chồng chéo. Có những mâu thuẫn từ bên
ngoài, do hoàn cảnh mang tới. Nhưng cũng có những mâu thuẫn
từ bên trong, phát sinh do bản chất, do căn tính của linh
mục.
Trước hết là những mâu
thuẫn từ bên ngoài.
Ngày xưa việc huấn
luyện và đào tạo linh mục được chia làm hai giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất ở
tiểu chủng viện. Các chủng sinh được gọi là các chú. Ngoài
những sinh hoạt đạo đức, các chú còn được học một chương
trình giống như các thanh thiếu niên ngoài đời, cho đến lúc
mãn tràng, hết lớp đệ nhất hay lớp mười hai.
Giai đoạn thứ hai ở đại
chủng viện. Các chủng sinh bây giờ được gọi là các thầy.
Ngoài những sinh hoạt đạo đức, các thầy còn được trau dồi về
triết học và thần học, nghĩa là được tìm hiểu về những sự
cao siêu trên trời.
Sau khi lãnh nhận chức
linh mục và bước chân xuống cuộc đời, nhất là trong trách
nhiệm và bổn phận của một cụ xứ, thì những sự cao siêu trên
trời ấy bỗng biến đi đâu mất tiêu, để rồi phải đối đầu với
những việc cụ thể dưới đất.
Dĩ nhiên, cái chất đạo
đức được tôi luyện trong bao nhiêu năm tháng, không nhiều
thì ít, cũng đã thấm được phần nào vào con người linh mục.
Nhưng rồi những chi phối của thế gian nhiều lúc cũng đã làm
cho cái chất đạo đức ấy bị phai nhạt dần.
Ngày xưa, cụ xứ chỉ
được học qua quít về…nghệ thuật hùng biện, thế mà bây giờ,
giảng dạy lại trở nên một trong những hoạt động chính yếu
của ngài. Nếu ngài giảng về những sự cao siêu trên trời,
giáo dân sẽ ngáp lên ngáp xuống. Họ đòi hỏi bài giảng của
ngài phải cụ thể và xúc tích, nghĩa là phải xuất phát từ đời
thường, để rồi lại được áp dụng vào chính cuộc sống hằng
ngày. Vậy phải làm thế nào để đào cho ra cái chất sống ấy ?
Là người luôn đứng trên
bục mà dạy thiên hạ, thế nhưng nếu không khéo thì chính ngài
lại trở thành kẻ…mất dạy. Hai chữ mất dạy ở đây không có
nghĩa là ngỗ nghịch, hỗn láo mà chỉ xin được hiểu là không
còn được dạy bảo, như lời một bà mẹ đã nói với người con của
mình vừa mới được thụ phong linh mục như sau :
- Con ơi, kể từ ngày
hôm nay, nếu không ý tứ, thì con sẽ trở nên một kẻ mất dạy,
vì với chức linh mục, con sẽ không còn được ai dạy bảo nữa.
Đúng thế, nếu không kết
hiệp mật thiết với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện, thì
cụ xứ không còn được Chúa dạy bảo. Hay nói đúng hơn, cụ xứ
không còn sẵn sàng đón nhận sự soi dẫn của Chúa.
Đồng thời, với những
thành công gặt hái được và những trọng kính người ta dành
cho mình, cụ xứ dễ mang ảo tưởng cho rằng mình là một bậc
thầy lỗi lạc, ý kiến của mình luôn đúng, cho nên dễ dàng gạt
bỏ thẳng thừng những ý kiến đóng góp, những đề nghị xây dựng
của người khác. Từ đó, cụ xứ sẽ rơi vào thái độ cực đoan,
độc tài và độc đoán, không còn biết lắng nghe. Như thế phải
chăng là sẽ làm cho mình dần dần trở nên mất dạy.
Cụ xứ bên ta được sánh
ví như một chiếc chìa khóa vạn năng, ổ nào cũng phải mở
được, hay nói một cách khác, đụng đâu thì phải làm đó, mà
việc nào xem ra cũng phải được xếp vào bậc thầy, bậc sư phụ,
bởi vì ngài là…thầy cả cơ mà.
Ngày xưa, cụ xứ đâu có
được học về kiến trúc, thế mà bây giờ ngài phải nhúng tay
vào hết mọi công trình, xây từ nhà thờ cho đến nhà bếp, xây
từ nhà xứ cho đến nhà sinh hoạt, thậm chí đến cả chuồng heo,
chuồng gà. Thế nhưng, những kẻ không hiểu thì chép miệng phê
bình :
- Cha xây, rồi cha lại
cất. Xây nhiều thì cất cũng nhiều.
Trái lại, nếu không
xây, thiên hạ bảo cha cù lần :
- Bao nhiêu năm cha ở
với chúng con mà chẳng để lại được một công trình nào cả.
Cha chẳng lo xây, nhưng chỉ lo cất mà thôi.
Rất lơ mơ về nghề xây
dựng, nhưng vì là cụ xứ có toàn quyền, nên đôi lúc ngài cũng
đã ngẫu hứng thò tay điều chỉnh bản vẽ, thêm cái này, bớt
cái kia, thành thử kết cấu cứ thay đổi luôn xoành xoạch, đến
độ quỷ thần cũng không lường nổi.
Ngày xưa, cụ xứ đâu có
được học về việc cấy lúa thần nông, làm đường giao thông,
hay đào ao thả cá…thế mà bây giờ, ngài cũng phải lăn xả vào
những ngành nghề này, ít nữa là đưa ra những ý kiến mang
nặng tính cách khoa học và kỹ thuật, để dân chúng noi theo
mà nâng cao đời sống.
Và còn rất nhiều lãnh
vực khác nữa, mặc dù hiểu biết còn rất lơ mơ và kinh nghiệm
tích lũy chẳng bao nhiêu, thế mà ngài vẫn cứ phải dấn thân.
Thôi thì cha sở đi trước, làng nước theo sau. Hay nói cách
khác :
- Đã ăn cơm Chúa thì
phải múa tối ngày mà thôi.
Một khó khăn nữa cũng
đến từ bên ngoài, đó là cách cư xử của cụ xứ. Ngài phải làm
sao để dung hòa được những nghĩa vụ, những hoạt động của
mình, luôn đứng ở giữa, không nghiêng bên nọ, cũng không ngả
bên kia, bởi vì thái quá thì bất cập.
Trong một bài báo với
tựa đề : “Làm cụ xứ thời nay dễ hay khó ?”, một tác giả
đã đưa ra những nhận xét của mình như sau :
“Nếu cha giảng lâu
quá mười phút – Cha lại nói thao thao bất tuyệt !
Nếu cha mời mọi người chiêm niệm về
Thiên Chúa – Ôi, cha chỉ toàn là nói chuyện trên mây trên
gió !
Nếu cha đề cập hơi
nhiều đến các vấn đề xã hội – Rõ ràng là cha lại khuynh tả
rồi !
Nếu cha chỉ cư ngụ
trong khuôn viên Giáo Xứ – Cha đã tự ý cắt đứt liên hệ với
thế gian !
Nếu cha cứ cả ngày ở
trong Nhà Chung – Cha chẳng chịu đi gặp gỡ tiếp xúc với ai
cả !
Nếu cha thường xuyên
đi thăm người này người kia – Cha chẳng chịu bao giờ ở Nhà
Xứ !
Nếu cha sẵn sàng làm Phép Rửa Tội và
chứng Hôn Phối cho bất cứ ai đến xin – Đúng là cha đã bán
tống bán tháo các Bí Tích !
Nếu cha đòi hỏi cao
hơn và nhiều hơn – Cha chỉ muốn Giáo Hội gồm toàn những
người trọn hảo !
Nếu cha thành công
với thiếu nhi – Đạo của cha là đạo ấu trĩ !
Nếu cha năng thăm viếng các bệnh nhân –
Cha chỉ phí thời giờ, và không đi sát với các vấn đề của
thời đại!
Nếu cha sửa sang Nhà
Thờ – Cha lại ném tiền qua cửa sổ mất rồi !
Nếu cha không tu bổ
gì – Cha đã bỏ bê mọi sự !
Nếu cha cộng tác
chặt chẽ với Hội Đồng Giáo Xứ – Cha lại để cho người ta xỏ
mũi cha rồi !
Nếu cha không lập
Hội Đồng Giáo Xứ – Cha độc tài quá đi mất !
Nếu cha hay mỉm cười
– Cha quá dễ dãi !
Nếu vì đãng trí hay quá bận tâm một
chuyện gì đó nên cha không nhìn thấy một người nào đó – Cha
khinh người vừa vừa chứ !
Nếu cha hay bực bội
vì một sai sót nào đó của người khác – Cha thiếu sự độ lượng
nhân từ rồi đấy !
Nếu cha hiền hòa
nhẫn nhục – Cha thiếu nghị lực quả quyết !
Nếu cha còn trẻ –
Đúng là cha còn thiếu kinh nghiệm trường đời !
Nếu cha đã có tuổi –
Xin mời cha nghỉ hưu đi là vừa !
Vậy thì, kính thưa
cha sở, xin cha cứ can đảm lên nhé !”
Qua những cuộc tiếp
xúc, gã cũng nhận thấy tương tự như vậy : một cha sở, nếu
vui tính thì bị hiểu là quá dễ dãi và thân mật, còn nếu
nghiêm nghị ít nói thì bị mang tiếng là khó tính, nếu bình
dân ăn nói như mọi người thì bị chê là không có tác phong
đứng đắn, nếu áo quần tề chỉnh và ít đi lại thì bị khép vào
hạng người kiêu kỳ quan liêu và cách biệt, nếu hăng hái lao
động thì bị kêu là kẻ ham của cải vật chất, còn nếu ít làm
việc tay chân thì bị trách là con nhà trưởng giả…
Thật đúng như cha ông
chúng ta đã nói :
- Ở sao cho vừa lòng
người,
Ở rộng người cười, ở
hẹp người chê.
Cao chê ngỏng, thấp
chê lùn,
Béo chê béo trục béo
tròn,
Gầy chê xương sống,
xương sườn phơi ra.
Nếu muốn làm vừa lòng
mọi người, thì cụ xứ sẽ chẳng làm vừa lòng được một ai, hay
cụ xứ phải là người khôn ngoan như Salomon, bằng không thì
sẽ điên cái đầu. Mà dù có khôn ngoan như Salomon chăng nữa,
biết đâu lại chẳng có kẻ chê là thủ cựu, là dè đặt, là bảo
hoàng hơn vua…Cho nên, cụ xứ vừa phải khôn ngoan như con
rắn, lại vừa phải đơn sơ như chim bồ câu, vừa phải cứng như
thép, lại vừa phải dịu như nước. Ôi quả thực là nhiêu khê và
rắc rối quá đi thôi!
Sau khi đã rảo qua một
vài mâu thuẫn từ bên ngoài, bây giờ gã xin trình bày những
mâu thuẫn từ bên trong, phát sinh bởi bản chất hay căn tính
của linh mục.
Thứ nhất, con người
linh mục thì yếu đuối, nhưng lại mang lấy một chức vụ cao
cả, chức vụ trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nói
theo kiểu thánh Phaolô thì chức vụ ấy chính là một kho tàng
quý giá. Thế nhưng, kho tàng quý giá này lại được đựng trong
một chiếc bình sành dễ vỡ là thân xác linh mục. Gìn giữ
chiếc bình này sao cho không bị bể vỡ cũng là chuyện rất cam
go trong suốt cả cuộc đời linh mục.
Ngày xưa, gã có quen
một anh bạn bổn đạo mới, tên là Minh. Trong chỗ bạn bè thân
mật với nhau, chúng tôi thường gọi anh là…”Minh Tốc”. Chắc
hẳn anh đã được nghe thuyết giảng nhiều về sự cao cả của
thiên chức linh mục, nên luôn xác tín rằng : Linh mục là
người không thể nào sa ngã bởi vì luôn được Chúa yêu thương,
nâng đỡ và chở che. Chúng tôi có cắt nghĩa thế nào chăng
nữa, anh cũng không chấp nhận. Chúng tôi có đưa ra những
bằng chứng cụ thể, chẳng hạn linh mục này đã sa ngã, linh
mục kia cởi bỏ chiếc áo chùng thâm để trở về làm…phó giáo
dân ngoài đời, anh cũng chẳng chịu nghe. Lập trường của anh
trước sau như một :
- Linh mục là người
thánh, không thể nào phạm tội!!!
Là trung gian giữa
Thiên Chúa và nhân loại, nên linh mục vừa phải gắn bó với
Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng phải gắn bó với con người.
Vừa nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng
phải nắm chặt lấy bàn tay con người. Vừa là tôi tớ của Thiên
Chúa, nhưng đồng thời cũng phải là tôi tớ của con người.
Dung hòa được hai điều này không phải là chuyện dễ dàng chút
nào.
Vì thế, trong khi thi
hành bổn phận, cụ xứ càng dấn thân vào đời bao nhiêu, thì
lại càng phải siêu thoát đối với đời bấy nhiêu, chứ không
được quyến luyến với đời. Dưới mắt ngài, cuộc đời chỉ là
quán trọ trong hành trình tiến về Nước Trời vì chỉ Nước Trời
mới là quê hương đích thực mà thôi. Hay như người ta thường
bảo :
- Thân xác là bụi tro,
danh vọng là mây khói và tiền bạc là phân bón.
Ý thức mình chỉ là một
con người yếu đuối, trong tay không có những phương tiện
chính trị, những nguồn tài chánh, hay những vũ khí quân sự,
thế nhưng linh mục lại chất chứa một sức mạnh vô song, sức
mạnh của tình yêu và thập giá, hay nói đúng hơn là sức mạnh
của chính Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã viết :
- Chính lúc tôi yếu lại
là lúc tôi mạnh.
Những kẻ muốn tẩy trừ
Giáo hội ra khỏi thế giới đã biết rõ điều ấy. Bởi vì với
biết bao nhiêu quyền lực và sức mạnh, họ cũng vẫn không thể
nào đè bẹp nổi linh mục và làm cho Giáo hội bị sụp đổ.
Linh mục không phải chỉ
là một con người vừa yếu lại vừa mạnh, nhưng còn là một con
người vừa được yêu lại vừa bị ghét.
Như trên, chúng ta đã
thấy người giáo dân Việt Nam đã dành cho linh mục những yêu
thương và trọng kính. Trong khi đó, linh mục cũng lại là
người bị thù oán, bị chỉ trích nhiều hơn cả. Cũng như Đức
Kitô, cụ xứ trở nên bia cho người ta chống đối.
Bernanos, một nhà văn
công giáo, đã có lý khi thốt lên :
- Phải bị ghét bỏ mới
chính là linh mục đích thực của Đức Kitô.
Linh mục bị những kẻ
thù của Giáo hội hạ nhục, bôi nhọ và vu khống vốn dĩ chỉ là
chuyện…thường ngày ở huyện. Thế nhưng, linh mục còn bị chính
con cái mình, những kẻ được ngài dẫn dắt, quay lưng chống
lại và phản bội.
Bằng chứng là những đơn
kiện cáo các linh mục nơi phần đời cũng như nơi phần đạo tại
Việt Nam hình như mỗi ngày một gia tăng và nổi cộm. Thậm
chí, có linh mục đã phải ngậm đắng nuốt cay mà than thở cả
tiếng, khi đời mình đã ngả bóng về chiều :
- Bạc như dân, bất nhân
như lính.
Sau cùng, trong khi thi
hành chức vụ, linh mục và nhất là cụ xứ thường gặp phải một
loại mâu thuẫn khác nữa, đó là mâu thuẫn giữa nhiều và chẳng
có chi.
Đúng thế, đôi khi cụ xứ
cầm trong tay cả một đống tiền, thế mà nếp sống vẫn cứ đơn
giản, vẫn cứ đạm bạc, bởi vì đống tiền ấy chẳng phải là của
riêng mình, nhưng là của chung và được tiêu dùng cho những
công việc đem lại lợi ích cho mọi người, thật đúng với cốt
cách : có cũng như không.
Đặc biệt trong lãnh vực
tình cảm, cụ xứ cũng như linh mục phải có một trái tim rộng
mở để chia sẻ và cảm thông với hết mọi người, từ những đứa
con nít cho đến những ông già bà cả, từ những kẻ giàu nứt
khố đổ vách đến những người nghèo túng khố rách áo ôm.
Tình yêu của ngài phải
là một tình yêu không biên giới, không loại trừ, không phân
cách. Tình yêu ấy phải được trải dài, trải rộng trên mọi
người, nhưng lại không được phép đóng lại trên ai cả. Ngài
chẳng phải là của riêng một ai và chẳng một ai là của riêng
mình ngài. Ngài yêu rất nhiều, nhưng cuối cùng lại chẳng
được bao nhiêu. Ngài là bạn của mọi người, nhưng rốt cục lại
là người cô đơn nhất. Cô đơn trong trách nhiệm và bổn phận.
Cô đơn trong khó khăn và thử thách. Cô đơn trong đau yếu và
tuổi già.
Gã xin đưa ra một thí
dụ điển hình : buổi chiều Chúa nhật, thánh lễ thật đông vui
làm sao. Tiếp nối là giờ sinh hoạt của giới thiếu nhi :
những tiếng hát hồn nhiên và những nụ cười ngây thơ của lứa
tuổi thiên thần mới rộn rã làm sao…Nhưng rồi sau đó, mọi
người ra về và cánh cổng nhà thờ khép lại. Cụ xứ lầm lũi và
âm thầm bước vào căn phòng nhỏ hẹp của mình. Có nói thì cũng
chỉ nói với chính mình. Có nhìn thì cũng chỉ nhìn hình bóng
mình in trên tường vách. May mà ngài còn có Chúa. Chúa đã
cứu ngài một bàn thua trông thấy, bằng không thì chỉ còn
nước phá sản và vỡ nợ mà thôi!!!
Để kết luận, gã xin ghi
lại ý kiến sau đây của cha Chevrier. Ngài nói :
- Xin hãy giúp tôi xây
dựng một ngôi thánh đường. Chỉ có ngôi thánh đường này mới
cứu được thế giới.
Người ta ngạc nhiên bèn
hỏi :
- Ngôi thánh đường nào
vậy ?
Ngài nói tiếp :
- Tôi muốn làm hết sức
để xây một ngôi thánh đường mà nền móng là những linh mục
thánh thiện, các cột đỡ cũng là những linh mục thánh thiện,
nhà tạm cũng là những linh mục thánh thiện, tòa giảng cũng
là những linh mục thánh thiện và bàn thờ cũng là những linh
mục thánh thiện. Chỉ có ngôi thánh đường này mới cần thiết
cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Sở dĩ như vậy vì đời sống
đạo đức của người giáo dân lệ thuộc khá nhiều vào sự thánh
thiện của các linh mục và các…cụ xứ!!!
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|