Cổ Võ Hòa Bình Và Xây Dựng Cộng Ðoàn Các Dân Tộc |
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội
Trong Thế Giới Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Phần Thứ Hai
Chương V
Cổ Võ Hòa Bình Và Xây Dựng
Cộng Ðoàn Các Dân Tộc
90*
77. Nhập đề. Hiện
nay, trong khi những nỗi đau khổ và lo âu hết sức trầm trọng
còn tồn tại giữa loài người do cuộc chiến tranh không ngừng
hiện đang đe dọa gây nên, toàn thể nhân loại trong tiến
trình trưởng thành đã bước vào một giai đoạn hết sức quyết
định. Gia đình nhân loại dần dần hiệp nhất với nhau và đã ý
thức hơn về sự hiệp nhất của mình ở mọi nơi, do đó công việc
mà gia đình nhân loại phải bắt tay vào là xây dựng một thế
giới thực sự nhân bản hơn cho tất cả mọi người ở mọi nơi.
Công việc này chỉ được hoàn thành cách tốt đẹp nếu tất cả
mọi người đều cải tạo tâm hồn để hướng về hòa bình đích
thực. Như thế, sứ điệp Phúc Âm phụ họa với những khát vọng
và cố gắng cao cả của nhân loại mới rực sáng lên ở thời đại
chúng ta bằng luồng sáng mới, khi công bố phúc cho những
người kiến tạo hòa bình "vì họ sẽ được gọi là con Thiên
Chúa" (Mt 5,9).
Do đó, khi
làm sáng tỏ ý nghĩa đích thực và rất cao cả của hòa bình, và
sau khi đã lên án sự dã man của chiến tranh, Công Ðồng muốn
tha thiết kêu mời các Kitô hữu, với sự trợ giúp của Chúa
Kitô, Ðấng sáng tạo hòa bình, hãy cộng tác với tất cả mọi
người để chuẩn bị các phương tiện xây dựng hòa bình và để
củng cố nền hòa bình đích thực giữa họ trong công bằng và
yêu thương.
78. Bản chất của hòa bình.
Hòa bình không hẳn là vắng bóng chiến tranh, cũng không chỉ
được giản lược vào sự quân bình hóa giữa các lực lượng đối
phương, cũng không phát xuất do một nền cai trị độc tài,
nhưng theo đúng định nghĩa thì hòa bình là "công trình của
công bằng" (Is 32,7). Hòa bình là kết quả của một trật tự đã
được chính Thiên Chúa, Ðấng Sáng Lập, ghi khắc vào xã hội
loài người và phải nhờ những người luôn luôn khao khát một
nền công bằng hoàn hảo hơn thể hiện ra trong hành động. Thật
thế, mặc dù tự bản chất công ích của nhân loại dĩ nhiên phải
được định luật đời đời qui định, tuy nhiên trong những đòi
hỏi cụ thể của nó, công ích vẫn phải chịu những thay đổi
không ngừng với diễn biến của thời gian. Do đó, hòa bình
không bao giờ đạt được một lần là xong, nhưng phải xây dựng
mãi mãi. Hơn nữa, vì ý chí của con người yếu đuối và bị tội
lỗi làm tổn thương, do đó muốn có hòa bình mỗi người phải
luôn luôn kiềm chế dục vọng của mình và chính quyền phải
canh phòng cẩn thận.
Nhưng như
thế chưa đủ. Hòa bình ấy chỉ có được trên trần gian, nếu giá
trị của từng cá nhân được đảm bảo và mọi người tin tưởng
cũng như tự nguyện san sẻ cho nhau những của cải tinh thần
và tài năng của họ. Ý chí cương quyết muốn tôn trọng người
khác, những dân tộc khác cũng như phẩm giá của họ và sự ân
cần thực thi tình huynh đệ là những điều kiện thiết yếu để
xây dựng hòa bình. Như thế, hòa bình cũng là kết quả của
tình thương, một thứ tình thương vượt xa những gì công bằng
có thể đem đến.
Phát sinh
từ tình yêu tha nhân, hòa bình trần gian là hình ảnh và là
kết quả của hòa bình Chúa Kitô, hòa bình do Ðức Chúa Cha mà
đến. Vì chính Chúa Con Nhập Thể là thái tử hòa bình đã dùng
thập giá Người để hòa giải mọi người với Thiên Chúa; Người
đã tái lập sự hiệp nhất mọi người thành một dân tộc và một
thân thể. Người đã hủy diệt hận thù trong chính xác thể
Người
1, và sau khi đã khải hoàn phục sinh, Người
đã đổ tràn Thánh Thần tình yêu đầy lòng con người.
Do đó,
trong khi "thực thi chân lý trong bác ái" (Eph 4,15), mọi
Kitô hữu được khẩn thiết kêu mời hãy kết hiệp với những
người thực sự yêu chuộng hoà bình để cầu khẩn và thiết lập
hòa bình
91*.
Cũng trong
tinh thần đó, chúng tôi không thể không ca ngợi những ai
tranh đấu cho quyền lợi mà không dùng bạo động, nhưng dùng
những phương tiện tự vệ sẵn có cho những người yếu kém, miễn
sao không hại đến quyền lợi và bổn phận của người khác và
của cộng đoàn.
Bao lâu con
người còn là những kẻ tội lỗi, hiểm họa chiến tranh còn đe
dọa và vẫn sẽ còn đe dọa cho tới khi Chúa Kitô đến. Tuy
nhiên, nhờ kết hiệp trong bác ái, con người thắng vượt tội
lỗi và cũng thắng vượt bạo động cho tới khi lời sau đây được
hoàn tất: "Họ sẽ rèn gươm thành lưỡi cày và giáo thành lưỡi
liềm. Các dân tộc sẽ không rút gươm đâm chém nhau và sẽ
không còn tập luyện để chiến đấu" (Is 2,4).
Ðoạn 1: Tránh Chiến Tranh
78. Giảm thiểu sự vô nhân đạo của
chiến tranh. Mặc dù những trận chiến tranh
gần đây đã gây cho thế giới chúng ta những thiệt hại quá
nặng nề về vật chất cũng như tinh thần, thế mà cho tới nay
trên một vài miền chiến tranh vẫn còn hàng ngày liên tục tàn
phá. Lại nữa, khi người ta sử dụng những khí giới khoa học
đủ loại trong chiến tranh thì tính cách dã man của chiến
tranh lăm le đưa những kẻ tham chiến tới một sự man rợ còn
khốc hại hơn những ngày trước. Vả lại, hoàn cảnh phức tạp
ngày nay và những mối bang giao rối ren giữa các quốc gia
càng giúp cho chiến tranh ngấm ngầm kéo dài với những phương
pháp mới quỷ quyệt và tàn bạo. Trong nhiều trường hợp, sự xử
dụng những phương pháp khủng bố được coi như một hình thức
mới của chiến tranh.
Ðứng trước
thảm trạng này của nhân loại, tiên vàn Công Ðồng muốn nhắc
nhở đến giá trị ngàn đời của quyền lợi tự nhiên của các dân
tộc và những nguyên tắc phổ quát của nó. Chính lương tâm
nhân loại công bố những nguyên tắc đó một cách càng ngày
càng cương quyết hơn. Những ai mưu toan hành động ngược lại
những nguyên tắc đó cũng như những ai ra lệnh những hành
động như thế, đều phạm tội ác cả; sự thừa lệnh mù quáng cũng
không đủ để chạy tội cho những người tuân theo những mệnh
lệnh trên. Trong số những hành động tội ác trên, trước hết
phải kể đến hành động tiêu diệt một chủng tộc, một dân tộc
hay một dân tộc thiểu số bằng bất cứ lý do hay phương pháp
nào. Những hành động như thế phải được gắt gao lên án như
những tội ác đáng ghê tởm. Và phải hết sức ca ngợi tinh thần
can đảm của những người dám công khai chống đối laị những kẻ
ra lệnh thi hành những tội ác trên.
Về vấn đề
chiến tranh, hiện có nhiều hiệp ước quốc tế mà khá nhiều
quốc gia đã ký kết nhằm làm cho những hoạt động quân sự và
những hậu quả của chúng bớt vô nhân đạo hơn. Chẳng hạn có
những hiệp ước liên quan đến số phận của thương binh hoặc tù
bình, và nhiều thỏa ước tương tự khác. Những hiệp ước như
thế cần phải được tôn trọng. Hơn nữa, mọi người, nhất là
chính quyền và những nhà chuyên môn về vấn đề này, tùy theo
khả năng của mình, cần phải cố gắng làm sao cho những hiệp
ước đó được hoàn hảo, và như thế tức là họ giúp ngăn chặn
một cách tốt đẹp và hữu hiệu hơn tính cách vô nhân đạo của
chiến tranh. Vả lại, cũng là một điều hợp lý nếu vì lòng
nhân đạo mà có những khoản luật dành cho những người vì lý
do lương tâm từ chối không xử dụng khí giới, miễn là họ chấp
nhận phục vụ cộng đoàn nhân loại dưới một hình thức khác
92*.
Dĩ nhiên,
nhân loại chưa trừ được tận gốc chiến tranh. Và bao lâu nguy
cơ chiến tranh tồn tại, bao lâu chưa có quyền bính quốc tế
có thẩm quyền và có đủ sức mạnh, thì mỗi khi đã dùng hết mọi
phương thế ôn hòa, các chính phủ được phép xử dụng quyền tự
vệ chính đáng. Do đó, các thủ lãnh quốc gia và những ai có
trách nhiệm trong nước có bổn phận phải bảo vệ dân chúng đã
được ủy thác cho mình, họ phải thận trọng trong những vấn đề
nghiêm trọng như thế. Tuy nhiên, chiến tranh để bảo vệ dân
tộc một cách chính đáng là một việc, còn mưu toan đặt ách đô
hộ trên các quốc gia khác lại là việc khác. Không phải mọi
việc xử dụng sức mạnh của khí giới vào mục tiêu chính trị
hay quân sự đều là hợp pháp. Không phải vì chiến tranh đã
chẳng may khai diễn mà các đối phương đều được phép làm gì
thì làm.
Ðối với
những ai hy sinh phục vụ tổ quốc trong quân ngũ, họ cũng
phải coi mình như những người đem lại an ninh và tự do cho
các dân tộc. Và nếu họ chu toàn bổn phận này, họ thực sự
đóng góp vào việc củng cố hòa bình.
80. Chiến tranh toàn diện.
Sự phát triển khí giới khoa học làm cho chiến tranh tăng
thêm phần ghê tởm và khốc hại khôn lường. Thực vậy, những
hành động hiếu chiến đi đôi với việc xử dụng những khí giới
này có thể đưa lại những tàn phá lớn lao và không phân định,
do đó vượt xa giới hạn của việc tự vệ chính đáng. Hơn nữa,
nếu tận dụng tất cả những phương tiện hiện có trong các kho
vũ khí của các cường quốc, thì sẽ có một cuộc tương tàn hầu
như hoàn toàn và mỗi bên sẽ bị đối phương tận diệt, đó là
chưa kể đến nhiều cuộc tàn phá xảy ra trong thế giới và
những hậu quả khốc hại do việc xử dụng những khí giới nói
trên.
Tất cả
những điều nói trên buộc chúng ta phải xét lại chiến tranh
trong một tinh thần hoàn toàn mới mẻ
2.
93* Con người thời đại này phải biết rằng họ
sẽ chịu trách nhiệm nặng nề về những hành động hiếu chiến
của họ, vì các biến chuyển tương lai sẽ tùy thuộc nhiều ở
những quyết định của họ hôm nay.
Trước tình
trạng đó, thừa nhận những lời kết án về chiến tranh toàn
diện của những vị Giáo Hoàng gần đây
3, Thánh Công Ðồng tuyên bố rằng:
Mọi hành
động hiếu chiến nhằm tiêu diệt bừa bãi nguyên cả thành phố
hay những vùng rộng lớn cùng với dân cư ở đó là một tội ác
chống lại Thiên Chúa và chính con người. Vậy phải cực lực và
không ngần ngại lên án tội ác đó.
Mối nguy cơ
đặc biệt của chiến tranh hiện nay hệ tại ở chỗ hầu như tạo
cơ hội cho những người có khí giới tối tân phạm những tội ác
như thế và hậu quả tất nhiên là có thể thúc đẩy ý muốn con
người đi tới những quyết định hiểm độc nhất. Vậy để cho thảm
trạng đó không bao giờ xảy đến, các Giám Mục trên toàn thể
thế giới hợp nhau nên một tha thiết kêu gọi mọi người, nhất
là những nhà cầm quyền quốc gia cũng như những vị chỉ huy
quân sự hãy luôn luôn cân nhắc trách nhiệm lớn lao của mình
trước mặt Thiên Chúa và toàn thể nhân loại.
81. Thi đua võ trang.
Thực ra, khí giới khoa học không phải được thu trữ chỉ để
dùng vào thời chiến tranh, vì người ta cho rằng sự phòng thủ
kiên cố của mỗi phe tùy thuộc ở khả năng trả đũa đối phương
một cách vũ bão, cho nên sự tích trữ khí giới mỗi năm một
gia tăng chính là nhằm đe dọa đối phương có thể bất thần tấn
công. Nhiều người cho rằng đó là phương cách hữu hiệu nhất
để bảo toàn hòa bình giữa các quốc gia ngày nay.
Dù cho
phương thức ngăn chặn đối phương có thế nào đi nữa, con
người vẫn phải xác tín rằng cuộc thi đua võ trang, công việc
mà khá nhiều quốc gia đang theo đuổi, không phải là một con
đường an toàn để duy trì hòa bình một cách vững chắc, cũng
như cái gọi là quân bình xuất phát từ việc thi đua đó cũng
không phải là hòa bình chắc chắn và đích thực. Do đó, những
nguyên nhân của chiến tranh chẳng những không bị loại bỏ mà
còn đe dọa mỗi lúc một thêm trầm trọng. Ðang khi tiêu thụ
quá nhiều tài nguyên vào việc chuẩn bị những khí giới luôn
luôn mới mẻ thì không thể nào đem lại một phương dược đủ để
chữa trị biết bao khốn khổ hiện tại của thế giới. Thay vì
thật sự và triệt để hàn gắn những chia rẽ giữa các quốc gia,
người ta lại làm cho những chia rẽ ấy lan rộng đến các vùng
khác trên thế giới. Phải chọn lựa những con đường mới bắt
nguồn từ việc cải tạo tâm hồn để chấm dứt tệ trạng đó và để
hòa bình đích thực có thể được vãn hồi, một khi thế giới
được giải thoát khỏi mối âu lo đang đè nặng.
Bởi thế,
cần phải tuyên bố một lần nữa: cuộc thi đua võ trang là một
tai họa hết sức trầm trọng cho nhân loại và xúc phạm đến
người nghèo một cách không thể tha thứ được. Và phải hết sức
sợ rằng cuộc thi đua võ trang, nếu vẫn còn tiếp diễn, một
ngày nào đó, sẽ gây ra mọi tai họa chết chóc do những phương
thế đã được nó chuẩn bị sẵn.
Thấy được
những tai họa mà nhân loại có thể gây nên, chúng ta hãy lợi
dụng thời hạn mà ơn trên ban cho chúng ta, để khi ý thức hơn
về trách nhiệm của riêng mình, chúng ta sẽ tìm được những
con đường giúp chúng ta giải quyết được những tranh chấp của
mình một cách xứng đáng với con người hơn. Thiên Chúa quan
phòng không ngừng đòi hỏi chúng ta phải tự giải phóng khỏi
ách nô lệ của chiến tranh đã có từ xưa. Do đó, nếu khước từ
mọi cố gắng như trên, chúng ta không biết chúng ta sẽ đi về
đâu trên con đường tội ác mà mình đã bước vào.
82. Triệt để ngăn cấm chiến tranh
và hoạt động quốc tế nhằm tránh chiến tranh.
Bởi thế, dĩ nhiên chúng ta cần phải đem hết nỗ lực để chuẩn
bị cho giai đoạn mà bất cứ chiến tranh nào cũng đều bị triệt
để ngăn cấm do sự ưng thuận của các quốc gia. Ðiều đó chắc
chắn đòi hỏi phải thiết lập một công quyền quốc tế được mọi
người thừa nhận. Quyền bính này phải có một thực lực hữu
hiệu để bảo đảm an ninh cho mọi người cũng như buộc phải
thực thi công bằng và tôn trọng quyền lợi. Nhưng trước khi
thiết lập được quyền bính đáng mong mỏi ấy, các cơ quan tối
cao quốc tế hiện hành cần phải đem hết nỗ lực để nghiên cứu
các phương thế khả hiệu nhất hầu đem lại an ninh chung. Vì
hòa bình phải phát sinh từ niềm tin tưởng lẫn nhau giữa các
dân tộc, chứ không là thứ hòa bình cưỡng ép giữa các dân tộc
do sự sợ hãi khí giới của nhau. Nên tất cả cần phải cố gắng
chặn đứng cuộc chạy đua võ trang. Muốn cho sự tài giảm binh
bị thực sự bắt đầu, thì việc tài giảm này không phải là việc
làm của một bên, nhưng phải được cả đôi bên thỏa thuận với
những bảo đảm thực sự và hữu hiệu
4.
Trong lúc
chờ đợi, không nên coi thường những nỗ lực đã có và đang có
cho tới nay đã ngăn chặn nguy cơ chiến tranh. Tốt hơn là nên
nâng đỡ thiện chí của một số đông những người, tuy phải bận
tâm quá nhiều về những nhiệm vụ tối cao của họ, những vẫn ý
thức được trách nhiệm rất nặng nề bó buộc họ, cho nên họ cố
gắng loại bỏ chiến tranh mà họ đang ghê tởm mặc dù họ không
thể bỏ qua được hoàn cảnh phức tạp hiện tại. Hơn nữa, phải
luôn luôn cầu xin Thiên Chúa ban cho họ nghị lực để kiên
quyết tiến tới và can đảm hoàn thành công cuộc của tình
thương cao cả đối với con người là xây dựng hòa bình một
cách mạnh mẽ. Ngày nay, chắc chắn công cuộc đó đòi hỏi họ
phải mở rộng tâm hồn và tinh thần vượt khỏi ranh giới của
quốc gia mình, phải từ bỏ lòng ích kỷ quốc gia và tham vọng
thống trị các quốc gia khác, phải nuôi dưỡng lòng tôn trọng
sâu xa đối với toàn thể nhân loại đang vất vả tiến tới một
sự thống nhất lớn lao hơn.
Về vấn đề
hòa bình và giải giới, cần phải xem những nghiên cứu tìm tòi
đã được theo đuổi một cách can đảm và không ngừng, cũng như
những hội nghị quốc tế bàn về vấn đề này như là những bước
đầu để giải quyết những vấn đề khá trọng đại. Và trong tương
lai, để đạt được những kết quả thực tiễn, cần phải cổ võ
những nỗ lực trên một cách cấp bách hơn. Tuy nhiên, không
nên chỉ ỷ lại vào cố gắng của một vài người mà quên tinh
thần riêng của mỗi người
94*. Vì là những người chịu trách nhiệm trước công
ích của dân tộc mình và đồng thời đem lại ích chung cho toàn
thể thế giới, cho nên các nhà lãnh đạo quốc gia tùy thuộc
rất nhiều vào quan điểm và tâm tình của quần chúng. Bao lâu
những tâm tình thù hận, khinh thị và nghi kỵ, những hiềm thù
vì "kỳ thị chủng tộc" cũng như những ý thức hệ ngoan cố, tất
cả những thứ đó vẫn còn chia rẽ và đối nghịch con người với
nhau, thì các nhà lãnh đạo quốc gia có cố công xây dựng hòa
bình cũng vẫn vô ích. Do đó, cần phải cấp tốc canh tân giáo
dục tâm trạng và gây lại một chiều hướng mới cho dư luận
quần chúng. Những ai tận tâm với công cuộc giáo dục, nhất là
giáo dục giới trẻ, hoặc hướng dẫn dư luận quần chúng, phải
nhớ rằng việc gieo rắc trong đầu óc mọi người những tư tưởng
mới về hòa bình là một bổn phận nặng nề nhất. Dĩ nhiên tất
cả chúng ta đều có bổn phận thay đổi tâm hồn mình, phải mở
rộng nhãn quan trên toàn thế giới và trên những nhiệm vụ mà
chúng ta có thể cùng nhau đảm nhận để làm cho nhân loại
chúng ta tiến triển tốt đẹp hơn.
Nhưng đừng
để hy vọng hão huyền lừa dối chúng ta. Thật thế, cho dù đã
loại bỏ được hiềm khích và hận thù, nhưng nếu trong tương
lai chúng ta không ký kết được những hiệp ước vững chắc và
thành thật bảo đảm cho một nền hòa bình đại đồng, thì nhân
loại, hiện đang gặp nguy cơ trầm trọng dù có một nền khoa
học kỳ diệu đi nữa, có lẽ cũng sẽ tiến dần đến cách thảm
khốc tới một giây phút mà nhân loại sẽ không biết hòa bình
nào khác hơn là thứ hòa bình khủng khiếp của chết chóc. Tuy
nhiên, Giáo Hội Chúa Kitô được thiết lập giữa những lo âu
của thời đại này, khi tuyên bố những điều trên, vẫn luôn hết
sức vững tâm hy vọng. Thuận tiện hay không thuận tiện, Giáo
Hội vẫn muốn trình bày và vẫn muốn trình bày mãi mãi cho
thời đại chúng ta sứ điệp của các Tông Ðồ: "đây là thời
thuận tiện" để cải tạo tâm hồn, "đây là ngày cứu độ"
5.
Chú
Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo
trước)
90* Phần nhập đề:
1) Hoà bình
cần thiết để xây dựng một thế giới nhân đạo hơn cũng như
xứng hợp với tinh thần Phúc Âm hơn số (số 77a). Vì thế, Công
Ðồng có ý trình bày hòa bình đích thực cũng như lên án tính
cách ác độc của chiến tranh (b).
2) Hòa bình
đích thực (số 78a) phát sinh bởi tình thương (b) và do ơn
Chúa Kitô (c). Các tín hữu phải xây dựng hòa bình (d). Công
Ðồng khen ngợi những người không dùng phương tiện bạo động
(e). Nhưng muốn hòa bình thì phải thắng tội lỗi (f).
Ðoạn 1.
Loại trừ chiến tranh: Chiến tranh vẫn còn là sự kiện, và khí
giới lại càng ngày càng dữ dội (số 79a).
A) Nguyên
tắc cần phải tôn trọng luôn luôn: Không được tiêu diệt cả
một dân tộc (b). Phải gìn giữ các khế ước quốc tế. (Có lẽ
nên chấp nhận những kẻ lấy lý do lương tâm mà từ chối không
muốn cầm súng) (c). Chiến đấu tự vệ như phương tiện tối hậu
là hợp lý, nhưng có giới hạn (d). Quân nhân cũng góp phần
cho hòa bình (e).
B) Vài
trường hợp thực tế: 1) Hành quân không phân biệt mục tiêu và
bất chấp giới hạn (số 80a), chiến tranh toàn diện (c), hay
tấn công các đô thị và khu vực rộng rãi, đều bị lên án (d).
Tích trữ khí giới khoa học có thể đưa tới các tội trạng đó
(e). Hiện nay ta cần phải duyệt xét lại các nguyên tắc cổ
truyền về chiến tranh (b). 2) Cuộc thi đua võ trang như
phương tiện khuyến cáo đối phương (số 81a) không bảo đảm và
cũng không đưa lại hòa bình đích thực (b), trái lại nó làm
tổn thương kẻ nghèo (c). Ðàng khác ta phải lợi dụng khoảng
thời gian chưa có chiến tranh (d).
C) Tìm cách
loại trừ chiến tranh: bằng khế ước và quyền bính quốc tế (số
82a). Ai cũng phải giúp đỡ người có trách nhiệm. Ta phải đổi
mới tinh thần (b). Phải kiện toàn những khế ước đã có. Phải
đào tạo cá nhân vì dư luận rất có ảnh hưởng (c). Công Ðồng
cảnh cáo mọi người về mối nguy cơ trầm trọng, đàng khác Công
Ðồng hy vọng còn kịp thời hóa giải (d).
Ðoạn 2. Xây
dựng cộng đoàn quốc tế: Trước hết bằng cách trừ khử tận gốc
các mầm mống thù nghịch, ngay cả trong môi trường quốc tế
(số 83). Rồi phải hiệp nhất để mưu ích chung cho quốc tế (số
84a). Vai trò của những tổ chức quốc tế (b): các tổ chức ấy
được coi như là bước đầu trên con đường hòa bình (c).
A) Cần phải
cộng tác kinh tế: để loại trừ sự bất bình đẳng và trạng thái
lệ thuộc bất xứng (số 85a). Cộng tác tuỳ theo nhu cầu khác
nhau của các quốc gia đang mở mang và đã tiến triển (b).
Những thái độ cần phải vượt qua (c). Qui tắc về sự cộng tác
ấy: Chính quốc gia đang mở mang phải cố gắng (số 86a). Quốc
gia tiền tiến có bổn phận trợ lực các quốc gia kém mở mang
(b). Cộng đoàn quốc tế phải chi phối chính sách viện trợ
theo nguyên tắc bổ trợ (c). Nhiều lúc sẽ phải canh tân cơ
cấu xã hội, nhưng cẩn thận kẻo làm thiệt hại cho tinh thần
(d). Cần phải viện trợ nhiều hơn cho những quốc gia mà trong
đó dân số đang gia tăng mau chóng (số 87a). Vai trò của
chính quyền và các viện đại học về vấn đề này (b) và những
giới hạn luân lý (c).
B) Vai trò:
của tín hữu (số 88a). Việc cộng tác cá nhân hay nhờ phương
tiện kinh tế (b). Cộng tác với các tín hữu khác (c). Vai trò
của Giáo Hội (số 89a). Giáo dân càng góp phần trong cộng
đoàn thì việc làm của Giáo Hội càng hữu ích (b). Giáo dân
nên cộng tác với tổ chức quốc tế, nhất là tổ chức công giáo
(số 90a), và với anh em ly khai cũng như với những người
hiếu hòa khác (b). Công Ðồng tỏ ý ước mong rằng Tòa Thánh sẽ
sáng lập một tổ chức quốc tế để cổ võ công bằng và tình
thương yêu đối với các miền nghèo nhất (c).
91* "Phúc cho người
hiếu hòa vì sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt 5,9). Chủ
nghĩa hòa bình đích thực không hệ tại sự lên án chiến tranh
và đòi hỏi ngưng chiến bất chấp hoàn cảnh, nhưng phải xây
dựng hòa bình chính nghĩa (78a-c). Thiếu công bằng và tình
thương, "hòa bình" chỉ trở nên một thứ bạo động càng đáng
gớm ghét hơn vì nó gây nên thiệt hại tinh thần hơn cả vật
chất. Do đó, ta không thể dựa vào tinh thần Phúc Âm mà đòi
hỏi các quốc gia phải bỏ rơi số phận của nhân loại trong tay
những kẻ xâm lăng đầy tội lỗi, vì đó chắc không phải là tinh
thần Phúc Âm đích thực. Nếu một thứ thần học tin lành nào đó
nhấn mạnh rằng luân lý Phúc Âm chống lại và vượt quá luân lý
tự nhiên, bởi vì họ tưởng rằng thế giới và bản tính con
người đã bị tội lỗi làm hư hỏng hoàn toàn, cho nên tín hữu
phải can đảm từ chối chiến đấu bất chấp hậu quả thì đối với
người công giáo sẽ khác hẳn: bởi vì chúng ta biết rằng Thiên
Chúa không những đã dựng nên thế giới và ủy thác cho con
người phát triển và xây dựng thế giới, nhưng còn cho Chúa
Kitô đến chuộc lại thế giới đó. Các nhiệm vụ do công ích
phát sinh không chỉ có tính cách luân lý tự nhiên mà thôi.
Nhưng chúng ta phải hết sức vất vả để xây dựng hòa bình bằng
cách loại trừ tội lỗi (f), luyện tập đức công bằng và thương
yêu (ab), tìm kiếm ơn thánh Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần
(c), v.v... Trong phần hai, Công Ðồng nhắc lại một số phương
tiện tự nhiên ta có thể áp dụng.
92* "Lấy lý do lương
tâm mà từ chối cầm súng" có phải là một nhân quyền dân sự
không? Hiện nay có nhiều người quả quyết như vậy. Tuy nhiên
Công Ðồng vừa bênh vực quyền bính và nhiệm vụ của chính
quyền để bảo vệ công ích (số 78ae); (79d), vừa ban khen quân
nhân phục vụ quốc gia (79e). Ðàng khác, trong toàn bài nói
về những nỗ lực để giảm bớt mức độ độc ác của chiến tranh,
Công Ðồng lại phát biểu ý kiến rằng nếu chính quyền và luật
pháp chấp nhận lý do lương tâm mà không buộc người vịn lẽ ấy
phải cầm súng, điều đó có vẻ hợp lẽ phải. Thực ra, trước
Công Ðồng đã có một số quốc gia lập luật chấp nhận lý do
lương tâm, miễn là người vịn lẽ đó phục vụ quốc gia một cách
khác.
93* Ngoài hai nguyên
tắc cổ điển là "chiến đấu tự vệ" và "sự cân xứng giữa thiệt
hại đã phải chịu và thiệt hại có thể gây nên", Công Ðồng
nhấn mạnh nguyên tắc mới là nguyên tắc "không phân biệt mục
tiêu". Nghĩa là đánh nhau bất chấp mục tiêu quân sự hay dân
sự, xử dụng những võ khí quá mạnh mà không làm sao có thể
điều khiển được, áp dụng phương pháp khủng bố, lúc ấy chiến
tranh không còn có tính cách tự vệ nữa. Nguyên tắc này khiến
ta phải xét lại lập trường cũ.
Không một
chỗ nào chứng tỏ Công Ðồng theo chủ nghĩa hòa bình quá đáng,
nhưng đàng khác Công Ðồng cũng không chấp nhận lập trường cứ
yên tâm mà chiến đấu. Công Ðồng lưu ý chúng ta tới sự vô lý
của cuộc thi đua võ trang đòi hỏi món tiền bao la đang khi
biết bao người nghèo khó thiếu thốn (81c). Thật là vô lý khi
các quốc gia tiến triển cũng như kém mở mang, dành cho ngân
sách quốc phòng nhiều tiền hơn ngân sách giáo dục, phát
triển, v.v... Công Ðồng khích lệ người có trách nhiệm áp
dụng mọi phương pháp để loại trừ chiến tranh (82), rồi trong
toàn phần hai lại đề nghị nhiều phương cách cụ thể để xây
dựng hòa bình (83-90).
94* Xây dựng hòa bình
là công việc của mọi người chúng ta, nhất là của tín hữu,
bởi vì dư luận càng ngày càng có ảnh hưởng trên các nhà cầm
quyền. Theo lời chỉ dẫn của Công Ðồng, Ðức Phaolô VI nhiều
lần đã nhấn mạnh rằng ta phải đổi mới tâm trạng bằng cách
tiêu hủy tính ích kỷ, sự bạo động, sự xâm phạm quyền lợi của
người khác (8-12-1967), và bằng cách từ bỏ sự xung đột tư
tưởng cũng như xu hướng bản năng kiêu căng và vô nhân đạo
(1-1-1968). Trái lại, phải tìm kiếm tinh thần mới: đề cao
nhiệm vụ và lòng tôn trọng tha nhân, tình huynh đệ, công
bằng, thương yêu, tự do về khía cạnh dân sự, văn hóa, luân
lý và tôn giáo (8-12-1967). Ðức Phaolô trông mong ở giới trẻ
không biết bi quan (1-1-1968). Tất cả những ai đã phải khổ
sở cũng như đã bị tử thương vì chiến tranh, đều kêu gào và
đòi hỏi chúng ta phải có tinh thần mới đó. Và nhất là Chúa
Kitô đã nhập thể và đã tuyên bố rằng mọi người đều là anh em
với nhau, đã giảng dạy giá trị thánh thiện của mạng sống và
của việc tha thứ cho nhau; Người đòi hỏi phải có tâm trạng
đổi mới ấy (1-1-1968)... Trong Thông Ðiệp Pacem in terris,
Ðức Gioan XXIII đã nhấn mạnh nền tảng hòa bình cốt tại trật
tự tự nhiên do chân thật, công bằng, thương yêu và tự do tạo
nên. Bốn nhân đức ấy sẽ giúp đỡ không những cá nhân với cá
nhân mà còn cá nhân với cộng đoàn chính trị, cũng như các
quốc gia với nhau và với cộng đoàn quốc tế.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THƠ SONG NGỮ:
CAO CUNG LÊN ! |
Cao cung
lên, hát ngợi khen mừng Chúa!
Ngày hôm nay, ngày vui của muôn dân
Ngày Ngôi Hai cứu độ xuống gian
trần
Người sẽ chết để cứu chuộc nhân
loại!
Cao cung lên, hàng ngàn năm khắc
khoải
Nhân loại mong một đấng sẽ sinh ra
Cứu con người thoát cạm bẫy quỉ ma
Sống đức tin trong tình yêu bất
diệt!
Chân lí Ngài là con đường Sự Thật
Đường Yêu thương, đường Bác Ái,
Công bình
Đem loài người tới với ánh Bình
Minh
Cùng đắp xây nền Hòa bình Công
chính!
Cao cung lên, cho triệu lòng cung
kính
Nhạc thiên cung hòa tấu khắp gần xa
Cho muôn người, muôn lòng trí trổ
hoa
Mừng ngày vui, ngày Ngôi Hai đã
đến!
Hãy thắp ngàn bạch lạp và hoa,
nến
Hãy mừng vui buổi trời đất an hòa
Tâm hồn người và thiên ý giao thoa
Mừng Ngôi Hai đã xuống ơn cứu độ!
Hoa Ơn thiêng sẽ tràn lan nở rộ
Muôn phúc ân tràn đổ các linh hồn
Người thiện tâm dào dạt những hồng
ân
Thánh danh Chúa trên trời cao sáng
tỏ!
RAISE YOUR
VOICE !
Raise
your voice to sing and praise the Lord!
Today is the people’s joyful day.
Because the Savior, Jesus Christ
came to the world,
He died to save the people from
their sins.
Raise your voice because we had a
thousand years of anxiety and hopelessness without a Savior.
He will save the people from the
devil’s traps to live in faith and endless love.
His justice is the road to Truth.
And also the road to Love.
This road guides the people to dawn
of peace.
Raise your voice for the millions
and millions of respectful and humble hearts,
The heaven’s choir is sounding all
around.
Million of hearts are overflowing
with joy at the coming of Jesus!
Light up a thousand candles!
Bedect your soul with beautiful
flowers!
Rejoice because we have heaven and
peace on earth,
So the people’s hearts and God’s
wish are combined together at the coming of Jesus Christ.
Blessed flowers bring peace to the
people’s hearts and souls.
The name of the Lord in the heaven
is greatly praised forever!
Xuan Vu TRAN DINH NGOC
|
VỀ MỤC LỤC |
Linh Mục Anrê Trần
Đức Huynh |
Nguyên Hiệu Trưởng Trung Học Hồ Ngọc
Cẩn, Nguyên Giám Đốc Các Trung Học Tư Thục Bùi Chu, Nguyễn
Bá Tòng Và Hưng Đạo, Đã Qua Đời Tại Orange.
Linh Mục Anrê Trần Đức Huynh vừa về Nước Chúa vào lúc 8 giờ
tối ngày 18 tháng 12 năm 2007, tại nhà Hưu dưỡng Bùi Chu,
Thành phố Garden Grove, Quận hạt Orange, California, hưởng
thọ 88 tuổi và đã phục vụ Giáo hội 60 năm trong thiên chức
linh mục.
Linh mục Trần Đức Huynh sinh ngày 23 tháng 11 năm 1920 tại
Ứng Luật, Ninh Bình, giáo phận Phát Diệm, họ hàng gần với
nhạc sư Hải Linh.
Ngay đầu thập niên 30 trong thế kỷ trước, ngài từ Giáo phận
Phát Diệm sang Bùi Chu xin đi tu. Sau khi hoàn tất hai năm
triết học tại đại chủng viện Quần Phương, thầy Trần đức
Huynh được cử về tiểu chủng viện Ninh Cường để hướng dẫn và
dậy tiếng La-Tinh cho một lớp đàn em. Chính thời gian này
là cơ hội giúp thầy lưu tâm đến vấn đề giáo dục.
Ngày 4 tháng 8 năm 1947 thầy Huynh lãnh chức linh mục tại
thánh đường Tòa Giám mục Bùi Chu do Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn,
giám mục Giáo phận Bùi Chu ban. Sau đó ngài làm linh mục
phó xứ Lạc Đạo, huyện Nghĩa Hưng.
Vì tha thiết với giáo dục từ lúc còn học tại chủng viện,
linh mục Trần Đức Huynh cùng với linh mục Phạm Châu Diên
được Đức Giám Mục Phạm Ngọc Chi uỷ thác nghiên cứu để thiết
lập một trường trung học cho tỉnh Bùi Chu mới thành lập.
Năm 1950 Đức Cha Phạm Ngọc Chi cử cha Huynh làm Hiệu Trưởng
trường này, lấy tên là Trường Trung Học Hồ Ngọc Cẩn. Ban
đầu là một trung học tư thục, số học sinh niên khóa đầu
1950-1951, gần một ngàn, từ lớp đệ thất đến lớp đệ tam.
Với kinh nghiệm làm việc, cha Huynh đã đặt kế hoạch vận động
mạnh cho trường Hồ Ngọc Cẩn được tồn tại và trở thành công
lập.
Mùa hè năm 1954, khi cảm thấy trường Hồ ngọc Cẩn có nguy cơ
phải bỏ tỉnh Bùi Chu vì tình hình chiến cuộc và cuối tháng
7, 1954 linh mục hiệu trưởng đã chuyển toàn bộ hồ sơ của
trường vào
Linh Mục Hiệu Trưởng và Giáo Sư - 1953
Sàigòn và sắp xếp để trường được mở cửa lại tại Sàigòn trong
khu nhà thờ Huyện Sĩ. Do đó trường Hồ Ngọc Cẩn đã có điều
kiện mở cửa lại sớm nhất so với các trường trung học từ Bắc
di cư vào Nam.
Sau hai niên khóa tọa lạc tại khuôn viên nhà thờ Huyện Sĩ,
trường Hồ Ngọc Cẩn được bộ Giáo Dục dời về tỉnh lỵ Gia Định,
chiếm một trường tiểu học đã được sửa sang lại và xây thêm.
Nhận thấy trường Hồ Ngọc Cẩn đã qua được mọi khó khăn, an
nhiên và vững vàng trong sinh hoạt giáo dục, linh mục Trần
Đức Huynh đã chuẩn bị sẵn sàng từ đầu niên khóa 56-57 để rời
khỏi trường trung học Hồ Ngọc Cẩn. Trường Hồ Ngọc Cẩn được
giữ cho tới ngày 30-4 -1975 thì bị xóa tên.
Tiếp tục công tác giáo dục như là một sở trường, linh mục
Trần Đức Huynh đã nắm giữ ba chức giám đốc của ba Trường
trung học lớn và danh tiếng nhất đó là trung học tư thục Bùi
Chu, trung học tư thục Nguyễn Bá Tòng và trung học tư thục
Hưng Đạo.
Trung học tư thục Hưng Đạo, tọa lạc tại 125 và 115 đường
Cống Quỳnh Saigon. Đây là một tư thục mở ra vì mục đích phát
triển văn hóa, tìm một hướng tiến lên theo đà tiến triển của
các quốc gia văn minh nhất thế gới như Mỹ, Anh, Thụy Sĩ. Với
sự điều hành của Giáo sư Nguyễn Văn Phú, tới niên khóa
1974-1975 chỉ kể các lớp 12 tại trường Hưng Đạo lên tới bốn
mươi (40) lớp.
Tuy bỏ nước ra đi đột ngột, mất mát tất cả những gì cao quý
đáng giá đang xây dựng được, linh mục Trần Đức Huynh vẫn
bình tĩnh quay về chăm lo bổn phận của một giáo sĩ, lãnh
trách vụ quản nhiệm cộng đoàn tại một giáo xứ ở San Antonio,
Texas từ năm 1975. Qua thời gian ban đầu lận đận của một
người tỵ nạn, cha Huynh đã nặng lòng nhớ tới những người
thân cận còn kẹt lại ở Việt Nam, ngài tìm mọi cách để liên
lạc, tận tình giúp đỡ. Linh mục Trần Đức Huynh dồn tất cả nỗ
lực để yểm trợ Giáo hội Công giáo quê nhà. Cha đã vận động
mọi giáo dân Việt Nam ở hải ngọai hình thành quỹ "bảo trợ ơn
thiên triệu" để gửi về Việt Nam duy trì các chủng viện, giúp
đỡ các chủng sinh « chui » có điều kiện theo ơn gọi làm linh
mục.
Trong Lễ Ngân Khánh của ngài được tổ chức vào ngày 3 tháng 8
năm 1997, cha nói: “Thâm tâm, tôi chỉ muốn ngày này được
đánh dấu bằng những sinh hoạt thuần túy tinh thần, thiêng
liêng mà thôi.” Mười năm sau, ngày 5 tháng 8 năm 2007, Lễ
Ngọc Khánh của ngài đã được tổ chức đơn giản tại Trung Tâm
Công Giáo, Giáo Phận Orange. Tất cả số tiền thu được đều
dành cho nhà Hưu dưỡng Bùi Chu.
Một công trình đáng ghi nhớ là cha Huynh đã cố gắng thâu gom
tài liệu để thực hiện cuốn "Lịch sử giáo phận Bùi Chu" khổ
lớn gần 500 trang, một cách qui mô và tỉ mỉ, với hàng ngàn
hình ảnh, đúng theo tinh thần của một sách giáo sử.
Hình ảnh người Mục Tử ở tuổi “bát tuần” ngày ngày cặm cụi
bên máy điện toán với hàng chồng sách báo, tài liệu, hình
ảnh la liệt chung quanh trong một căn phòng nhỏ, chật chội
thiếu tiện nghi đã tạo nên những xúc động lớn cho những ai
có dịp ghé thăm ngài. Đấy là một căn phòng chỉ đủ kê chiếc
ghế Lazy boy để nghiêng vì ngài không nằm ngủ bình thường
được do bệnh xuyễn kinh niên; mấy kệ sách, một bàn nhỏ cho
dàn computer, một quạt máy, hai chiếc ghế không vách dựa, mà
khi không có khách, ngài có thể lùa vào gầm bàn để có đường
di chuyển lúc vào ra.
Lối sống ấy đã bám sát đời ngài từ khi còn ở miền Bắc qua
những năm tháng tiếp tục làm Hiệu Trưởng trường Hồ Ngọc Cẩn
được di chuyển vào Nam, làm Giám Đốc điều hành hệ thống ấn
loát và các cơ sở giáo dục tư thục Nguyễn Bá Tòng và Hưng
Đạo tại thủ đô Saigon.....cho tới thời gian về hưu dưỡng tại
Orange thuộc miền Nam California.
Linh mục Trần Đức Huynh, đã dành suốt cuộc đời cống hiến cho
Tôn Giáo và Dân Tộc. Là những môn sinh hay những người đã có
dịp cộng tác với Linh mục Trần Đức Huynh, ai cũng công nhận
ngài là một người có đầu óc sáng suốt quyết đoán mau lẹ,
chắc chắn, hữu hiệu và khôn ngoan, tính tình điềm đạm, kín
đáo, có óc tổ chức, và có một viễn ảnh nhìn xa trông rộng.
Người ta biết đến ngài như là một nhà văn hóa, giáo dục,
nhưng trong cuộc đời ngài còn là một “nhà chính trị không
làm chính trị”, được thể hiện qua nhiều việc và điển hình là
nhiều lần ngài đã đại diện cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
tiếp xúc với các vị nguyên thủ quốc gia ở miền Nam trước
1975.
Ngày 18 tháng 12 năm 2007, cha đã đến dự bữa cơm trưa thân
mật tại một nhà hàng, với khỏang 10 môn sinh, hầu hết trên
dưới 70 và cũng đã thành danh. Ngài chỉ dùng 2 chén cháo, từ
tốn ngồi nghe chuyện và nhỏ nhẹ trả lời những câu hỏi của
anh em. Ngài đã đột ngột ra đi vĩnh viễn lúc 8 giờ tối, sau
khi hòan tất dâng Thánh Lễ tại nhà Hưu dưỡng, để lại bao lưu
luyến tiếc thương của mọi người. Giờ đây ắt hẳn ngài đang
huởng tôn nhan Thiên Chúa, Đấng mà ngài đã hết lòng phụng
sự.
Từ năm 1950, linh muc Trần Đức Huynh – đúng ra phải nhớ tới
ĐGM Phạm Ngọc Chi và LM Trần Đức Huân-- đã tạo cơ hội cho
hàng ngàn thanh thiếu niên thôn quê bước vào trung học làm
cái đà tiến lên đại học và sau đại học. Môn sinh của ngài
hiện nay có tới hàng chục ngàn. Họ là những chức sắc trong
Giáo hội Công giáo: giám mục, linh mục, tu sĩ và nữ tu trong
đó có tới hàng trăm người được du học nước ngòai để đạt
trình độ tiến sĩ. Họ là những chuyên gia thuộc mọi tôn giáo,
có mặt ở khắp mọi lãnh vực, có danh phận ở trong và ngòai
nước. Điều đáng nói hơn cả là, theo gương người thầy khả
kính, họ biết đem tài năng phụng sự xã hội, như một ơn gọi
và trách nhiệm, như một cách trả ơn những bậc sinh thành,
những người Thầy và trả ơn đời.
Nguyễn Đức Tuyên |
VỀ MỤC LỤC |
|
CÓ BUỘC DỰ LỄ NGÀY CHÚA NHẬT Và KIÊNG VIÊC XÁC KHÔNG ? |
Hỏi: xin cha giải thích rõ luật buộc xem lễ ngày Chúa
Nhật và các ngày Lễ trọng và luật kiêng việc xác các ngày
này.
Trả lời: Trước khi trả lời câu hỏi này, tôi cần nói
qua về ý nghĩa
và mục đích cử hành Lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc
trong phụng vụ của Giáo Hội.
Như chúng ta biết, trong
thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã truyền cho dân Do Thái phải giữ
ngày Sabat, thức ngày thứ bảy trong tuần như sau:
“ ngươi hãy nhớ ngày
Sa-bát và coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ
lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là
ngày Sabát kính ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó
ngươi không được làm công việc gì, cả ngươi cũng như con
trai con gái, tôi tớ nam nữ gia súc và ngoại kiều ở trong
thành của ngươi..” (Xh 20:8-10).
Đây là nguồn gốc của luật
giữ ngày Chúa Nhật, các ngày lễ trọng và luật kiêng làm
việc xác những ngày này trong Giáo Hội Công Giáo ngày nay.
Thật vậy, Thiên Chúa muốn
cho dân Do Thái dành riêng một ngày để thờ kính Ngài và suy
niệm về công trình sáng tạo vũ trụ và tạo dựng loài người
cách riêng của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Ngài cũng
không có ý bắt buộc họ phải giữ ngày Sabat một cách máy móc,
nghiêm ngặt đến nỗi không cho ai làm bất cứ điều gì trong
ngày này kể cả chữa bệnh cho người đau ốm hoặc cho người đói
khát ăn uống. Đây chính là sự mù quáng của nhóm Biệt phái và
luật sĩ thời Chúa Giêsu khi bọn này bắt bẻ Chúa chữa bệnh
trong ngày Sabat, khiến Người đã phải nghiêm khắc nói với họ
như sau: “ Ai trong các ông có con chiên độc nhất bị sa
xuống hố ngày Sa bát lại không nắm lấy nó mà kéo lên sao ?
Mà người thì quí hơn chiên biết mấy. Vì thế, ngày Sabat được
phép làm điều lành.” (Mt 12:11-12)
Như thế cho thấy rõ là
Chúa Giêsu không hài lòng về cách giữ ngày Sabat của nhóm
Biệt phái và luật sĩ Do Thái vì họ hoàn toàn hiểu sai mục
đích Thiên Chúa mong muốn cho dân tuân giữa ngày này. Họ giữ
theo luật để bắt bẻ người khác không giữ luật cách máy móc
như họ chứ không phải giữ vì lòng mến Chúa thực sự.
I- Luật buộc giữ ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ Trọng trong
Giáo Hội ngày nay.
Người tín hữu ngày nay
không buộc giữ ngày Sabat nhưng phải giữ ngày Chúa Nhật.
Trước hết, theo giáo lý của Giáo Hội thì ngày Chúa Nhật được
gọi là Ngày của Chúa (Dies dominica) theo tinh thần Thánh
Vịnh 118: 24:
“ Đây là ngày CHÚA đã
làm ra
Nào ta hãy vui mừng
hoan hỉ”
Mặt khác, ngày Chúa nhật
cũng là ngày kỷ niêm Chúa Kitô sống lại từ cõi chết. Vì thế,
Giáo Hội dạy rằng : “ việc cử hành Ngày của Chúa và Hy tế Tạ
Ơn của Chúa (The Eucharist) mỗi ngày Chúa Nhật là trung tâm
điểm của đời sống Giáo Hội. Ngày Chúa Nhật cũng là ngày cử
hành Mầu Nhiệm vượt qua theo truyền thống Tông Đồ, và phải
được tuân giữ trong toàn thể Giáo Hội như ngày lễ buộc
chính yếu.” (x. SGLGHCG, số 2177; giáo luật số 1246).
Như thế, ngày Chúa Nhật
vữa hoàn tất tinh thần ngày Sabat ca tụng Thiên Chúa về công
trình sáng tạo của Ngài vừa làm sống lại Mầu Nhiệm Phục
Sinh của Chúa Kitô qua phụng vụ thánh để nhắc nhở mọi tín
hữu về sự viên mãn của công trình cứu chuộc và hy vọng vào
ơn cứu độ nhờ Chúa Kitô.
Nói khác đi, tham dự
Thánh lễ ngày Chúa Nhật trước hết là để ca ngợi và cảm tạ
Thiên Chúa về công trình sáng tạo và cứu chuộc của Ngài qua
Chúa Kitô, đồng thời cũng nói lên hy vọng vào ơn cứu độ,
vào sự sống chung cuộc trong Nước Thiên Chúa sau khi đã
sống và làm chứng tá đích thực cho Tin Mừng Cứu Độ nơi trần
thế này. Như vậy, các tín hữu phải sốt sắng và vui sướng
được tham dự Thánh lễ ngày Chúa Nhật thay vì ngần ngại hay
miễn cuỡng phải giữ vì luật buộc.Nghĩa là phải coi luật
buộc này như sự nhắc nhở đặc biệt của Giáo Hội về ý nghĩa và
mục đích của phụng vụ thánh ngày Chúa Nhật chứ không phải sự
gò bó làm mất tự do của ai.
Nói về luật buộc, thì
ngoài ngày Chúa Nhật quanh năm, giáo luật cũng liệt kê thêm
các ngày lễ trọng khác như lễ Giáng Sinh, Lễ Hiển Linh , lễ
Phục Sinh, lễ Chúa Lên Trời, lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, lễ
Đức Me là Mẹ Thiên Chúa, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm , lễ Đức Mẹ lên
Trời, lễ Thánh Giuse, lễ Thánh Phaolô và Phaolô Tông Đồ, lễ
các Thánh nam nữ . (x. giáo luật số 1246,triệt 1)
Tuy là luật buộc, nhưng
không có nghĩa là bó buộc trong mọi hoàn cảnh, không chút
nhân nhượng nào như thái độ giữ ngày Sabat của nhóm Biệt
phái và luật sĩ Do Thái xưa.
Nói rõ hơn, trong điều
kiện bình thường, thì mọi tín hữu (giáo sĩ, tu sĩ và giáo
dân) buộc phải tham dự Thánh lễ ngày Chúa Nhật và các ngày
lễ trọng khác. “ Những ai lỗi phạm nghĩa vụ này cách có
suy nghĩ thì phạm một tội trọng” (x.SGLGHCG số 2181).
Nhưng trong những truờng hợp bất khả kháng như đau yếu, phụ
nữ sinh con, người săn sóc bệnh nhân trong nhà thương hay tư
gia, sinh sống ở nơi không có nhà thờ Công Giáo, bị bắt buộc
phải đi làm theo lệnh hay đòi hỏi của chủ nhân trong ngày
Chúa nhật, nhân viên công lực phải làm nhiệm vụ, hoặc binh
sĩ tác chiến ngoài trận địa….. thì đó là những lý do chính
đáng không buộc phải giữ ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ
trọng , tức là không có tội nếu không tham dự được thánh lễ
các ngày đó.
Điều quan trọng cần lưu ý
là phải giữ ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ Trong vì lòng yêu
mến Thiên Chúa, tôn kính Đức Mẹ, Thánh Giuse và các Thánh
..chứ không phải vì sợ lỗi luật buộc hay sợ người ta phê
bình là “khô đạo”.
II- Luật kiêng làm việc ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ trong.
Kinh Thánh cho biết :
“..Khi làm xong mọi công việc của Người , ngày thứ bảy,
Thiên Chúa nghỉ ngơi.” ( St 2,2).
Đây là lý do khiến Giáo
Hội mong muốn cho các tín hữu tạm ngưng nghỉ các công việc
làm ăn bận rộn hàng ngày để dành thì giờ và tâm trí cho việc
thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa cách đặc biệt trong Ngày của
Chúa, đồng thời cũng có chút thì giờ để thư giãn thể xác và
tâm hồn hầu lấy lại sức cho những sinh hoạt tiếp tục sau đó.
Như vậy luật kiêng việc xác ngày Chúa Nhật và các ngày lễ
trọng cũng nhằm giúp chu toàn bổn phận thiêng liêng trong
các ngày đó một cách tốt đẹp, hài hoà giữa thể xác và tâm
trí. (giáo luật số 1247; SGLGHCG số 2184)
Tuy nhiên, cũng như luật
giữ ngày Chúa Nhật, luật kiêng làm việc cũng không nhất
thiết áp dụng khắt khe trong mọi trường hợp. Thông thường
khi không có lý do chính đáng thì các tín hữu phải chú tâm
chu toàn việc thờ phượng Chúa và kiêng việc xác ngày Chúa
Nhật và các ngày lễ buộc, để kính nhớ sự nghỉ ngơi của Thiên
Chúa trong ngày thứ bảy sau khi Ngài đã hoàn tất mọi việc
sáng tạo trong sáu ngày. Tuy nhiên trong hoàn cảnh xã hội
ngày nay, nhất là ở những nơi người ta chủ yếu hoạt động
thương mạiï và dịch vụ vào những ngày cuối tuần khiến rất
nhiều người phải đi làm hay mở của hàng buôn bán, lo dịch
vụ trong ngày thứ bảy và chúa nhật. Do đó vì lý do sinh
sống thực sự cho gia đình hay vì lợi ích của xã hội thì đây
là “ những lý do chính đáng để chuẩn miễn việc
buộc nghỉ ngơi ngày Chúa Nhật” (x. Sđd, số 2185).
Điều quan trọng là phải
chu toàn việc thờ phượng Chúa trong ngày Chúa Nhật và các
ngày lễ buộc, nghĩa là không được tự ý gây trở ngại cho việc
đi dự Thánh lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc.
Nói khác đi, khi có điều
kiện cho phép thì phải giữ các ngày lễ buộc và kiêng việc
xác trong những ngày này. Nhưng nếu vì lý do kinh tế, phải
đi làm những ngày đó mới đủ sống cho bản thân và gia đình,
hoặc phải đi làm theo đòi hỏi của người thuê mướn; bác sĩ ,
y tá làm việc ở các bệnh viện, nhân viên cấp cưú, nhân viên
an ninh công cộng phải làm theo nhu cầu của lợi ích chung
thì không thể giữ luật buộc để nghỉ việc được. Đó là lý do
chính đáng để được miễn trừ theo lương tâm và theo giáo lý
của Giáo Hội.
Tóm lại, luật chỉ áp dụng
trong những trường hợp bình thường để tránh thói lười biếng
hay cố ý lơ là những bổn phận thiêng liêng mà thôi.
Lm
Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn. |
VỀ MỤC LỤC |
|
“HOÀI - ĐỨC và HẢI –
LINH”. |
TÌNH CA CHO NGƯỜI ĐƯỢC YÊU
MỪNG
NGÀY CHÚA SINH RA
&
CHÚA
NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT
Dù đã được tiết lộ nhiều tháng trước,
nhưng việc Ông Tony Blair chính thức gia nhập Hội Thánh
Công-giáo vào ngày 21.12.2007 đã được báo chí và các phương
tiện truyền thông hầu như trên khắp thế giới đưa tin và bình
luận. Hãy cám ơn ông nguyên thủ tướng nước Anh tài ba nầy,
vì ông đã không để nhuốm mùi chính trị sự kiện ông trở về
với đức tin Công-giáo La-Mã khi đang cầm quyền. Việc trở lại
của ông thay cho muôn lời hộ giáo hùng biện và là câu trả
lời rõ ràng cho những kẻ đang lạm dụng tự do, để bài xích,
bôi nhọ và xuyên tạc Chân Lý Đức Tin và Hội Thánh Công giáo
với những dụng ý độc ác, xâu xa và thù nghịch. Nhưng người
mà chúng ta phải cám ơn hơn hết, người phụ nữ luôn rất kín
đáo và âm thầm sau lưng chồng, không se sua, không tự làm
nỗi bật như hầu hết các mệnh phụ phu nhân khác, song ảnh
hưởng không nhỏ tới suy nghĩ, đường lối và hành động của
Ngài nguyên thủ tướng nước Anh, chính là bà Chérie Blair
(và cả bốn người con trai gái của hai ông bà). Ông Tony
Blair vẫn hay âu yếm (và hãnh diện) tự nhận mình chỉ là
“tiểu đội phó”. Mọi quyết định đều do “tiểu đội trưởng”
Cherie Blair. Đến giờ phút nầy, hẳn ông Tony Blair cảm tạ
Thiên Chúa vì ơn phúc Ông nhận được và những thành tựu trong
sự nghiệp, là từ Hôn Nhân và Gia Đình. Hôn Nhân thành công
và Gia Đình thành công rõ ràn là từ người vợ, người mẹ. Hôn
nhân và Gia Đình thành công không chỉ tạo nên hạnh phúc, mà
là nguồn gốc của bao điều tốt đẹp, trong đó quan trọng nhất
là đời sống chứng nhân và truyền giáo.
Trong hệ thống đo lường cổ của
Việt-Nam, một dặm bằng một triệu ly (ly = 1 mm), tức là
khoảng một kilô-mét. Tất nhiên đây chỉ là những con số tượng
trưng, để cho thấy khởi điểm có tầm quan trọng quyết định
thế nào cho tương lai, đích đến. Không chỉ là “cái sẩy, nẩy
cái ung”, mà “sai một ly, đi một dặm”. Từ cổ chí kim, có vô
số sự kiện, biến cố về mọi lãnh vực, đã xảy ra hoàn toàn
khác với những gì người ta mong đợi, do tính toán sai lầm
hoặc do sự can thiệp từ con người hoặc thiên nhiên: Nếu ở
Waterloo, các lực lượng chi viện không gặp ngăn trở và thực
hiện đúng kế hoạch của hoàng đế Napoléon, thì bản đồ Châu Âu
hẳn sẽ không như bây giờ. Người Tây Phương có câu châm ngôn
rất thú vị và ý nhị: “Nếu cái mũi của nữ hoàng Cléopâtre dài
hơn chút nữa, hẳn bộ mặt trái đất đã đổi thay”. Đầu năm nay,
ngày 3 tháng 1, Hãng tin Reuters thuật lại câu chuyện một
thanh niên người Đức do ghi lầm Sydney thành Sidney, mà thay
vì sang Úc hưởng mùa hè nắng ấm với người yêu, thì suýt chết
cóng vì máy bay đưa anh ta sang một thành phố Mỹ đang giữa
mùa đông. Trong các tôn giáo, - đặc biệt trong Kitô-giáo -
việc hiểu sai, dù là vô tình hoặc do thiếu hiểu biết, cũng
dẫn đến những hệ quả khó lường, mà việc uốn nắn, sửa sai
không dễ dàng chút nào.
Nghệ sĩ luôn có cái nhìn rất riêng của
họ. Hai nhạc sĩ Công giáo là cố linh mục Hoài Đức
Lê-Đức-Triệu và cố nhạc sư Hải Linh cũng không là ngoại lệ.
Chúng ta tri ân hai vị nhạc sĩ nỗi danh với hai bản thánh ca
Giáng Sinh bất hủ “Cao Cung Lên” và “Hang Bê-lem”
từ sáu thập kỷ qua vẫn đứng đầu danh sách bầu chọn các bài
thánh ca Noel hay nhất Việt-Nam . Có rất
nhiều nét tương đồng nơi hai vị cố nhạc sĩ nầy: cùng quê Nam
Định, gần như cùng lứa tuổi (linh mục Hoài Đức sinh năm
1922, trong khi nhạc sư Hải Linh sinh năm 1921) và đặc biệt
nhất là cả hai cùng sáng tác hai bản nhạc bất hủ với trình
độ nhạc lý tự học, rất “i tờ”. Điều chúng ta muốn nói, -
trước hết xin tạ lỗi với hương hồn hai nhạc sĩ vì so sánh
không “chỉnh” lắm nầy, - ấy là nội dung hai bản thánh ca
kha giống nhau và cùng tô vẽ, lả lướt, rạng ngời đắm đuối,
nhưng vẫn có một chút khác biệt trong cách nhìn của một linh
mục tương lai và một giáo dân đạo đức, dù không phải là
“sai” một ly để rồi “đi một dặm”, song cũng điển hình cho
các khuynh hướng nghe – nhìn – nghĩ - sống trong Giáo Hội: “Thôi
hỡi trần gian, im tiếng đi mà cung kính: Chúa Con sinh ra
trong máng cỏ khó hèn” (Cao Cung Lên) và “Trong hang
Bê-Lem ánh sáng toả lan tưng bừng; nghe trên không trung,
tiếng hát thiên thần vang lừng” (Hang Bê-Lem).
“Hoài-Đức” khác với “Hải Linh” là như vậy đó: nhiều hơi
hướng khó nghèo, rét buốt, âm thầm hơn ở “Hoài Đức” và nhiều
ánh sáng và nhã nhạc vang lừng hơn nơi “Hải Linh”. Hai cái
nhìn ấy, hay đúng hơn là cái nhìn “Chúa sinh ra” huy hoàng,
vẻ vang và tưng bừng, đã rất nhiều thời kỳ làm điêu đứng
Giáo Hội: nhiều Giáo Hoàng, nhiều giám mục, nhiều linh mục
đã bỏ đức khó nghèo, chạy theo đời sống xa hoa. “Tin Mừng
cho người nghèo khổ”, đời sống đạo đức, bác ái “cộng sản”
thời khai nguyên, chỉ còn là kỷ niệm. Chúa Giêsu với cuộc
sống khó nghèo, đơn sơ và chịu khổ nạn, chỉ là một nhân vật
với những sự kiện lịch sử đã qua, chẳng còn bao giờ lập lại.
Thánh Gia Thất chỉ là một trong muôn vàn gia đình sống mức
nghèo ở Israel thời bấy giờ. Nay đã đổi khác!
Sự khó nghèo của Chúa Giêsu trong ngày
sinh ra và của Thánh Gia Thất trong cuộc sống được “thi vị
hoá” đến mức khiến cho rất nhiều người thuộc mọi đấng bậc
trong Giáo Hội chỉ còn nói về nghèo khó như một điều bất đắc
dĩ. Lễ Noel với những sắm
sửa chuẩn bị mừng lễ cả tháng trước, làm giàu cho bao nhiêu
công ty và cá nhân, làm cho cuối
cùng không khí thuần lễ hội lấn át cả tính chất thiêng
liêng, trang nghiêm sốt sắng vả cảm động ngày Chúa đến. Quá
nhiều chất thơ khi ta nhìn vào máng cỏ thời nay, không chỉ ở
các nơi đình đám hội hè hay ở tại các gia đình, mà ngay cả ở
trong các giáo đường. Quá nhiều thánh ca đã tô vẽ hang lừa
máng cỏ nên cảnh mộng mơ kỳ ảo. Hình như người ta cảm thấy
không thoải mái và tự hào với một Đức Chuá nghèo khổ bất lực
như thế và khó chấp nhận một gia đình không có được những
cái tối thiểu cho thai phụ và hài nhi như là Thánh Gia Thất
xưa. Nhưng thực tế máng cỏ, hang lừa, chiên bò, mục đồng,…
không thể nào còn thay đổi, làm lại, viết lại được nữa; vì
thế, cách tốt nhất là biến từng cọng rơm, ngọn cỏ, thành
nhạc và biến gió rét, giá lạnh, trống trải nghèo khó nên
thơ, như trong truyện cổ Nàng Bạch Tuyết hoặc Cô Gái Lọ Lem!
Từ đó đời sống khó nghèo nên ít nhiều lạc lỏng và đáng xấu
hổ trong xã hội tiêu thụ và hiện đại nầy. Hậu quả là người
nghèo, đối tượng chính phải được rao giảng Tin Mừng, chăm
chút yêu thương, lại trở thành những gánh nặng chẳng đặng
đừng hoặc dùng làm “bung xung” mỗi năm một vài lần, để
“trưng bày” nhãn mác bác ái từ thiện. Với suy nghĩ và hiện
thực ấy, Giáo Hội ở nhiều nơi và trong nhiều bộ phận, đã dễ
dàng trở thành mồi ngon cho Xa-tan và các thế lực thù
nghịch, chưa nói đến những vụ bê bối sai lạc xảy ra trong
hàng giáo phẩm và giáo sĩ, mà nguyên nhân sâu xa cũng là vì
bỏ qua, chối từ sống nghèo, chạy theo ý riêng, vật chất và
xa hoa. Thánh Phanxicô Atxidi và Thánh Đa-Minh đã được Chúa
sai đến, để làm cho Giáo Hội bừng tỉnh giấc mơ “thế trần tục
lụy” đi ngược với Tin Mừng, bằng gương khó nghèo của các tu
sĩ hai Hội Dòng được lập nên gần như cùng lúc. Và Thánh
Phanxicô là người đầu tiên đã bài trí Hang Đá Bê-Lem, để
nhắc nhở sự thật về Thiên Chúa Ngôi Hai Nhập Thể sinh ra:
khó nghèo, rất khó nghèo, hoàn toàn khác với những lễ hội
tưng bừng, đầy ca vũ nhạc, tiệc tùng, quà cáp và thậm chí
những trò lố lăng dâm dật trong ngày mừng Chúa Giêsu sinh
ra. Cải tổ chính yếu ấy - sống đức khó nghèo phúc âm – đã
thổi hơi gió mát trong lành và mau chóng hồi sinh Giáo Hội
Công Giáo.
Lạy Chúa Hài Đồng, có
lẽ Chúa vừa buồn vừa buồn cười vì những gì diễn ra ở trần
gian trong những ngày mừng ngày sinh của Chúa. Nó chẳng khác
nào làm một bài thơ lâm ly về chiếc áo rách bay phất phơ
trong gió rét mùa đông của một ông lão ăn xin đang tím người
vì đói và rét : người sáng tác, người ngâm nga, khán thính
giả, ai cũng hài lòng, vỗ tay ca ngợi, duy chỉ có người ăn
xin là tê tái. Những gì chúng con đang làm cho Chúa, để mừng
sinh nhật Chúa, để mừng gia đình của Chúa, chỉ gói gọn trong
những quần là áo lượt, tiệc tùng vui chơi và tò mò đi xem,
phê bình mẫu mã hang đá so với các năm trước : vẫn Chúa Hài
Nhi và hai ông bà Giuse – Maria bằng đất nặn, sơn phết màu
mè, không gợi lại chút ý nghĩa thiêng liêng, đạo đức nào.
Đèn hoa và các trang hoàng khiến cho hang đá nghèo biến
thành hoàng cung rực rỡ giàu sang. Hẳn Chúa buồn lắm.
“Hoài-Đức” khác với “Hải Linh” là như vậy đó: Hình như có
hai “Hài Nhi Giêsu” sinh ra cùng lúc ở hai nơi, trong hai
tình trạng khác biệt nhau hoàn toàn. Con sẽ chọn “Giêsu”
nào? Giêsu nào sẽ sinh ra hoặc được con sinh hạ trong đời
sống Hôn Nhân và Gia Đình của con?
CVK
Nguyễn-Thế-Bài
TÌNH CA CHO NGƯỜI ĐƯỢC YÊU 82 |
VỀ MỤC LỤC |
|
TRÁNH TRANH CHẤP
QUYỀN HÀNH |
- Rửa sạch cái đĩa cho chó ăn kìa, bà
mẹ ra lệnh cho cô bé Kim Chi.
- Tại sao con phải làm việc đó?
- Mẹ bảo đem rửa sạch cái đĩa cho chó
ăn đó! Con có nghe không? Hãy làm ngay đi.
- Con không thấy lý do tại sao con phải
làm điều đó?
- Vì mẹ bảo con làm có được không?
Cô bé nhún vai và không làm điều mẹ nó
bảo. Vài giờ sau, bà mẹ nhìn thấy cái đĩa vẫn còn dơ và kiến
bò đầy trên đó. Bà gọi cô bé lại và nói:
- Mẹ đã bảo con đem rửa sạch cái đĩa đó
cách đây mấy tiếng đồng hồ rồi. Tại sao con không làm? Hãy
nhìn kìa. Kiến bò đầy cả rồi. Bây giờ đi dọn ngay đi!
- Vâng, vâng.
Nhưng khi bà mẹ quay đi. Cô bé cũng
chẳng chịu đem đĩa đi rửa. Một lúc sau, bà mẹ nhìn thấy đĩa
vẫn chưa được dọn rửa. Lần nầy bà mới phết đít cho cô bé mấy
cái. Cô bé thụng mặt ra nhưng cô không khóc.
- Nếu con không chịu thu dọn ngay bây
giờ, con phải đi ngủ sớm. Không được coi tivi tối nay.
- Vâng, con sẽ dọn.
Cô bé cúi xuống lấy đĩa trong khi bà mẹ
quay đi, nhưng vẫn không chịu chùi rửa đĩa. Sau đó bà mẹ
khám phá ra: cái đĩa vẫn nguyên tình trạng dơ bẩn như vậy.
Cả hai mẹ con đã đi vào cuộc tranh chấp
quyền hành. Bà mẹ cố gắng bắt cô bé thi hành lệnh. Cô bé cho
thấy ai là kẻ có quyền. Rõ ràng một sự tranh chấp quyền hành
đang tăng dần đến mức độ cần lưu ý. Con số những đứa trẻ như
thế được đưa tới văn phòng cố vấn bỡi cha mẹ càng ngày càng
nhiều. Tại sao vậy? Đâu là vấn đề? Con trẻ ngày hôm nay dám
làm những điều mà chúng ta không bao giờ dám đối với cha mẹ
chúng ta. Tại sao như thế?
Vấn đề được khởi động bỡi sự thay đổi
văn hóa cách tổng quát đang xảy ra. Con trẻ cảm được bầu khí
dân chủ của thời đại chúng ta và phục thù những cố gắng nắm
quyền trên chúng của chúng ta. Chúng tỏ sự giận dữ bằng cách
trả thù. Chúng kháng cự sự cầm quyền của chúng ta và ngược
lại muốn tỏ cho chúng ta thấy quyền hành của chúng. Trận đầu
khai diễn trong đó cha mẹ cố gắng xác định quyền hành và con
trẻ tuyên chiến. Chúng nhất định không chịu khuất phục. Tất
cả những cố gắng để thống trị chúng đều vô ích. Con trẻ khôn
hơn trong những trận chiến tranh giành quyền hành. Chúng
không bị trói buộc bỡi những thể diện bên ngoài xã hội hoặc
những hậu quả hiểm nguy bỡi hành động của chúng. Gia đình
trở thành bãi chiến trường. Không còn có sự cộng tác, cũng
không có sự hài hòa. Trái lại chỉ có giận dữ và hận thù.
Bà mẹ đã thuyết phục được bé Kim Liên
12 tuổi đồng ý rửa sạch hộp đựng thức ăn trưa và bình đựng
sữa của nó ngay khi nó từ trường về nhà và mọi sự xem ra tốt
đẹp. Bỗng một ngày kia, cô bé lơ đảng không chịu chùi rửa.
Bà mẹ giận dữ khi nhìn thấy chiếc hộp được để trên bàn với
những thức ăn dính đầy bẩn thỉu, và bình đựng sữa đã bốc mùi
chua. Bà mẹ quở cho một trận. Cô bé hứa sẽ nhớ. Nhưng một
vài ngày sau, cô bé cũng lại bê bối ra. Lần nầy bà mẹ nhớ
lại một phương cách giáo dục: “Cứ để hậu quả sẽ dạy nó”. Vì
thế, bà không quan tâm nữa nhưng lại giận dữ trong lòng. Bà
nói với chính bà: “Ta sẽ tỏ cho nó thấy”. Sáng hôm sau, bà
gói bữa ăn trưa trong bao giấy và đặt tiền mua sữa trên bàn.
Cô bé biết chuyện gì xảy ra. Bà mẹ bỏ hộp đựng thức ăn trưa
đó qua một bên. Bà ngẫm nghĩ: “Tôi nhất định không rửa”.
Bình đựng sữa và hộp đựng thức ăn ngày càng lên mốc và bốc
mùi hôi. Bé Kim Liên tiếp tục mang thức ăn trưa trong bì
giấy. Bà mẹ càng ngày càng nên giận dữ khi ngày trôi qua.
Sau cùng bà nổi cơn giận và trút lên đầu cô bé. Cô bé đỏ
mặt, mặt sập xuống nhưng vẫn không chịu đi rửa hôp và bình
đựng sữa. Cuối cùng, trong thất vọng bà mẹ đẩy cô bé vào
trong bếp, đứng bên cạnh bắt cô bé phải rửa cho đến khi làm
xong. Bà mẹ nghiến răng bảo: “Từ nay con có lo nhớ không?”
Cô bé hứa: “Vâng, thưa mẹ”. Tuy nhiên, ngày hôm sau, cô bé
lại bỏ dơ không chịu rửa. Hoàn toàn thất vọng, bà mẹ quyết
định: “Con chỉ mang thức ăn trưa trong một cái túi”. Cô bé
đáp lại: “Không sao cả”.
Ngày cô bé không chịu rửa hộp và bình
đựng sữa, và bà mẹ giận dữ là ngày cao độ của cuộc chiến
giành quyền hành. Bà mẹ vẫn cố gắng ép buộc cô bé làm điều
bà bảo. Bà đã áp dụng phương pháp đó như một hình phạt. Câu
nói “ta sẽ cho thấy” là một sự trả thù. Cô bé cảm được sự
giận dữ của mẹ dầu bà mẹ cố gắng che dấu. Bà muốn áp dụng
phương pháp “hậu quả tất nhiên”, nhưng bà không để ý đến bản
chất của phương pháp đó. Khi bà bỏ thức ăn vào bao giấy và
cho tiền mua sữa, bà đã làm mất đi hậu quả tất nhiên của nó:
bà vẫn còn tiếp tục phục vụ dẫu cô bé không muốn cộng tác.
Lẽ ra bà không nên chuẩn bị bữa ăn trưa như thường lệ vì
không có hộp đựng thức ăn. Bà chỉ để thức ăn trên bàn, cái
kế tiếp là phần của cô bé.
Cô bé có ý cho mẹ thấy rằng cô không
thể bị ép buộc làm việc đó. Cô chấp nhận mọi sự hơn là phục
tùng lệnh nầy. Làm thế nào bà mẹ có thể làm chủ được tình
thế mà không cần phải chứng tỏ quyền hành.
Bà mẹ phải không quan tâm về cái hộp
đó. Nó thuộc về cô bé. Nếu cô bé không chịu rửa, nó không có
hộp đem thức ăn. Bà mẹ chỉ có thể quyết định điều cô bé sẽ
làm, chẳng hạn: thức ăn mốc và sữa hôi chắc chắn không có
chỗ trong bếp, hoặc bỏ hộp dơ và bình sữa dơ ở đó là một
điều không được phép. Nhưng nếu bà ra lệnh và bắt buộc cô bé
phải làm là dùng quyền lực và như vậy chỉ đưa vào cuộc chiến
tranh giành quyền hành như được thấy rõ: ngày hôm sau, dẫu
cho cô bé đã hứa, cô bé lại không chịu làm. Bà mẹ giận dữ vì
cô bé đã công khai chống lại bà. Bà cảm thấy uy quyền của bà
bị đe dọa và muốn tỏ cho cô bé thấy rằng bà sẽ không để cho
cô bé làm chuyện như vậy.
Thật tốt đẹp biết mấy nếu bà mẹ đã cố
gắng khám phá ra: cái gì đã làm cho cô bé phản ứng như vậy
và nên thay đổi chiến thuật để không còn có sự chống đối của
cô bé nữa. Trong trường hợp nầy, cô bé không thích mang hộïp
đựng thức ăn trưa vì ít trẻ trong trường mang thức ăn trong
hộp. Tại sao cô bé không nói điều đó ngay từ đầu? Cô bé muốn
dùng tình cảnh đó đưa bà mẹ dấn thân vào cuộc tranh chấp
quyền hành. Và cô bé đã thắng. Bà mẹ đầu hàng.
Nếu có một cuộc nói chuyện thân mật với
cô bé thì tình thế có lẽ đã khác hẳn. Cuộc nói chuyện có thể
đã giúp bà mẹ hiểu được tâm trạng của cô bé về chiếc hộp
đựng thức ăn đó, bấy giờ hai mẹ con có thể cảm thông nhau
cách dễ dàng và hy vọng có thể tránh được cuộc chiến tranh
không cần thiết đó. Hoặc bà có thể dùng lốùi nói cách dịu
dàng hơn để cô bé không cảm thấy mình bị xúc phạm: “Mẹ thấy
rằng con đã không chịu sửa soạn chiếc hộp đựng thức ăn đó
hôm nay. Mẹ bắt buộc phải nghĩ rằng con không muốn đem thức
ăn trong hộp nữa. Con có muốn mẹ bỏ thức ăn vào túi và cho
tiền con mua sữa không?” Như vậy, có lẽ đã tránh được một
cuộc chiến tranh vô ích.
Bất cứ khi nào chúng ta ra lệnh một đứa
trẻ làm một điều gì hoặc cố gắng bắt nó làm điều gì là chúng
ta mời nó làm một cuộc chiến với chúng ta. Điều đó không có
nghĩa là chúng ta không thể hướng dẫn con cái chúng ta có
một hành vi thích hợp. Nó chỉ có nghĩa là chúng ta phải tìm
một phương cách khác và hữu hiệu hơn. Chúng ta phải bỏ thái
độ và phương cách lỗi thời, và dùng phương pháp xem ra có
hiệu quả hơn.
Huy Cường 5 tuổi đang làm mẹ nó điên
lên. Bà nói như thế với cậu bé và với những người khác trước
mặt nó. Bà mẹ phiền trách nó suốt ngày, còn cậu bé thì chẳng
nghĩ ngợi gì, cũng chẳng quan tâm gì. Nếu bà mẹ có phết đít
nó, cũng chỉ được một lúc thôi. Chẳng hạn hôm nay, bụng cậu
bé không được bình thường, sáng ngày bà dẫn nó vào nhà vệ
sinh sau bữa ăn sáng, nhưng nó trở ra nói rằng nó không thể
đi vệ sinh lúc nầy, mặc dầu bà mẹ đã cố gắng dạy cho nó
nhiều năm rồi. Bà cho nó ra ngoài chơi và bà tiếp tục công
việc của bà. Vào khoảng trưa trong lúc dọn dẹp tủ quần áo,
bà ngửi thấy mùi thối. Bà lục lọi và khám phá ra rằng cu bé
đã bỏ phân trong mũ bố nó. Bà chạy ra ngoài tìm nó, mang nó
vào, đặt nó đối diện với chiếc mũ, và đập nó nặng tay. Nó té
đái trong quần, và bà nghĩ rằng đó là vì bà đánh nó. Tuy
nhiên, suốt ngày nó cứ đái rấm trong quần và đêm đó đái ước
cả giường nữa.
Bà mẹ đã quan tâm về đường tiêu hóa của
cậu bé khi cậu còn nhỏ. Bà bảo: “Con cho nó ra khi mẹ bảo
như thế”. Nhưng hành động của cậu bé muốn nói: “Con chỉ cho
nó ra khi nào con thích”. Từ lâu rồi, cậu bé đã dùng cách
nầy như một phương cách để đánh bại bà mẹ đầy uy quyền. Cuộc
sống hàng ngày của câu bé và của mẹ nó là một cuộc chiến đấu
tranh giành quyền uy. Không dễ cho bà mẹ thay đổi cái quan
hệ giữa mẹ và con ngoại trừ bà biết vấn đề nằm ở đâu và bà
có thể làm được gì cho vấn đề đó.
Rất nhiều cha mẹ đã tạo nên những khó
khăn như thế cho chính họ khi họ tỏ ra quá quan tâm về vấn
đề huấn luyện cho con trẻ cách đi vệ sinh. Cái khác biệt
giữa quan tâm bình thường và quá quan tâm nằm trong thái độ
chúng ta. Nếu chúng ta quá nhấn mạnh con trẻ cần học thói
quen đi vệ sinh thích hợp, chúng ta kêu mời sự kháng cự. Nếu
chúng ta mong ước và khuyến khích sự huấn luyên đi vệ sinh
thích hợp, chúng ta mời gọi sự cộng tác. Nếu sau một thời
gian huấn luyện, đứa trẻ xem ra dùng việc nầy để có sự chú ý
không thích hợp hoặc để chống lại sự ép buộc của bố mẹ, tốt
hơn là đừng quan tâm chi cả, cứ để kết quả tự nhiên xảy ra.
Trong mọi trường hợp như thế, chúng ta đều thấy một cuộc
chiến tranh quyền. Chúng ta có thể giải quyết nó trong những
lãnh vực khác, ở đó tình thế xem ra thuận lợi cho việc bảo
toàn trật tự mà không có chiến tranh. Chẳng hạn khi nó đái
dầm hoặc ỉa són, bà mẹ có thể cho phép nó nằm trên giường
ướt hoặc thay ra cho nó nếu nó cảm thấy khó chịu. Hoặc là bà
có thể mặc cho nó một cái tã và để nó ướt nếu nó đái ra đó.
Dĩ nhiên, nó không được phép làm ướt thảm hoặc bộ ghế ở
phòng khách. Nó sẽ phải chịu như vậy cho tới khi nào nó sẵn
sàng không còn đái dầm nữa. Tất cả điều đó có thể được thực
hiện trong một cách thế không chính thức cho thấy “đây là
vấn đề của con đó”. Con có thể thay đổi tình thế khi con sẵn
sàng. Một khi không còn có sự tranh chấp quyền hành, đứa trẻ
sẽ chọn lấy việc bãi bỏ sự bất ổn, nghĩa là không thích đái
dầm nữa.
Ở điểm nầy nhiều người sẽ cảm thấy rối
loạn. Rất nhiều lần như những lúc nguy hiểm, chúng ta phải
dùng đến sức mạnh. Chúng ta cũng dùng một loại áp lực khi
hoàn cảnh cần đến và đôi khi bắt buộc chúng ta phải dùng sức
mạnh để bảo vệ trật tự.
lm.levanquang
tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT EM BÉ NẰM
TRONG MÁNG CỎ |
Trong đêm Giáng Sinh, điều trước tiên
người ta không bao giờ quên được là Thiên Chúa đã từ vĩnh
cửu đi vào thời gian và thể hiện trong một em bé nằm
trong máng cỏ. Thánh Luca viết: “Khi hai người đang ở
đó thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con
trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rối đặt nằm trong máng cỏ, vì
hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.” (Lc 2,
6-7)
Đó là Thiên Chúa bằng xương bằng thịt,
được quấn tã, xem ra không xứng đáng với Chúa Tể càn khôn,
tạo dựng trời đất vũ trụ. Thật là một mầu nhiệm đức tin! Ai
có thể cắt nghĩa được điều đó? Ai có thể nói cho chúng ta
biết tại sao?
Người điên rồ cho biết lý do: những
người khôn ngoan không bao giờ cố cắt nghĩa cho ra lẽ. Tuy
nhiên Thánh Gioan là một người khôn ngoan đã cố cắt nghĩa
với hết sức mình: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến
nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời. ” (Gio 3, 16)
Sự ngạc nhiên linh
thánh
G. K. Chesterton nắm bắt yếu tố
ngạc nhiên trọn vẹn đó trong đêm Giáng Sinh khi ông viết: “Đôi
bàn tay đã tạo dựng mặt trời và các tinh tú, trở nên quá bé
nhỏ để có thể vói tới những cái đầu to lớn của các súc vật ở
trong hang động Bethlehem.” Ai có thể hiểu được điều đó
một cách trọn vẹn? Và phải hiểu như thế nào đây? Chúng ta
cần phải hiểu rõ điều đó để ngạc nhiên run lên vì vẻ đẹp
tuyệt vời!
Câu chuyện vĩ đại
nhất chưa bao giờ được nói hết
Máng cỏ là dụ ngôn vĩ đại về Lễ
Giáng Sinh. Cảnh tượng đơn giản mà máng cỏ tượng trưng không
bao giờ ngừng nói cho con tim chúng ta từ bên trong. Chúng
ta cần những dụ ngôn như máng cỏ và những câu chuyện như
dưới đây đã xảy ra trong một gia đình người Canada sống ở
tỉnh bang British Columbia là nơi tôi được đặc ân sống như
tại quê nhà qua năm lễ Giáng Sinh.
Hôm đó là Đêm Vọng Giáng Sinh. Một cặp
vợ chồng tranh luận sôi nổi và thấy thật kỳ quặc phi lý về
việc Thiên Chúa giáng sinh xuống trần như một trẻ sơ sinh,
không nơi nương tựa. Người chồng nhấn mạnh là để được chú ý
về mình và gây ấn tượng mạnh mẽ trên trần thế không phải là
phong cách của Thiên Chúa.
Khi người chồng đang nói, tức thời có
một chấn động mạnh ở ngoài vườn. Anh kéo màn cửa sổ lên và
nhìn ra ngoài. Thật ngạc nhiên, anh thấy năm con ngỗng trời,
đi chập choạng trên tuyết. Chắc chắn chúng đã rời khỏi đàn
ngỗng thiên di.
Lo lắng để giúp đỡ chúng, anh vội chạy
ra ngoài vườn. Nhưng sự xuất hiện của anh đã khiến cho những
con ngỗng trởi hoảng sợ hơn nữa. Chúng càng vỗ cánh đen đét,
càng lún sâu trong tuyết. Người chồng mở cửa ga-ra và cố lùa
chúng vào bên trong. Anh càng cố giúp đỡ, chúng càng hoảng
sợ thêm: điều đó rõ ràng gây nguy hại cho chúng.
Trong một giây phút tuyệt vọng,
người chồng mong sao trở thành con ngỗng trời để có thể nói
cùng một thứ tiếng với chúng: đó là cách duy nhất anh ta
có thể cố gắng giúp đỡ chúng mà thôi.
Quyền năng Thiên
Chúa
Nhưng đau buồn thay, người chồng đó
không có năng lực tự biến mình thành con ngỗng trời. Tôi
không rõ những gì đã xảy ra cho những con ngỗng trời sau đó,
nhưng tôi biết ít nhất là trong vài phút vắn vỏi, người
chồng đó đã hoàn toàn cảm kích điều kinh ngạc xảy ra trong
đêm Giáng Sinh. Đó là điều kinh ngạc về Thiên Chúa nhập
thể vào một đêm đông đã lâu lắm rồi ở nơi tỉnh nhỏ Bê-lem.
Ngài đã dùng quyền năng Thiên Chúa của
Ngài để trở nên một người như chúng ta và nói một ngôn ngữ
mà loài người ở mọi thời đại, mọi lứa tuổi, thuộc mọi sắc
dân, màu da và nếp sống có thể hiểu được. Ngài nói ngôn ngữ
tình yêu khi Ngài công bố là Con của Ngài trở nên con
người để mọi người – nam cũng như nữ – được trở nên con cái
Thiên Chúa. Đó là Tin Mừng lớn lao! Đó là định mệnh
chúng ta! Thiên Chúa đã làm cho cuộc sống chúng ta mang một
ý nghĩa tuyệt vời.
Giờ đây chúng ta là một thành phần mật
thiết, không thể tách rời được, nằm trong kế hoạch mà Thiên
Chúa muốn làm cho thế giới. Chúng ta tham gia vào vở kịch
vĩ đại mà Thiên Chúa đã dàn dựng. Có thể chúng ta không
quen với toàn bộ vở kịch đó và không hiểu nhiều về nguyên
bản. Có thể chúng ta chỉ đóng một vai trò khiêm tốn, còn
khiêm tốn hơn Mẹ Maria và Thánh Giuse, các mục đồng hay ba
nhà đạo sĩ.
Điều quan trọng là chúng ta đã được
chọn lựa để trở thành diễn viên trong Vở Kịch Lớn Lao của
Thiên Chúa. Và giờ đây chúng ta chỉ cần đóng vai trò của
chúng ta càng tuyệt vời bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Tất cả
những điều đó chỉ có ý nghĩa đối với những ai có đôi mắt
tinh tế để nhận thấy họ đang tham gia vào một kế hoạch lớn
lao hơn so với thân phận làm người của họ rất nhiều.
Bức tranh vĩ đại
Từ ngữ “tai họa” (“disaster”)
là một từ ngữ thật hấp dẫn. Từ ngữ đó phát xuất từ tiếng
La-tinh, có nghĩa là “bị phân cách khỏi các vì tinh tú”
(disconnected from the stars). Theo Thánh kinh và có tính
cách thi phú, những tinh tú biểu hiệu cho một câu chuyện vĩ
đại, câu chuyện về vũ trụ, về sáng thế.
Thi sĩ William Stafford đã cảnh
cáo chúng ta bằng một câu khá mạnh mẽ về việc chạy theo một
Thiên Chúa sai lầm: “Vì chạy theo một Thiên Chúa giả
hiệu, do đó chúng ta đã đánh mất những vì sao của chúng ta.”
Điều đó có nghĩa là chúng ta bị phân cách khỏi câu chuyện vĩ
đại mà chúng ta phải tham gia và khi chúng ta bị phân cách
như thế, chúng ta đánh mất đất đứng của mình, đánh mất dòng
mạch, tình tiết của cốt truyện và đối diện với một đại họa.
Ngược lại, bao lâu chúng ta biết câu
chuyện nhỏ bé của chúng ta như được sinh ra, cắp sách đến
trường, tốt nghiệp và kiếm được việc làm, si tình rồi đi đến
kết hôn, sinh con đẻ cái và sau cùng sẽ chết đi…đều được đan
kết với một câu chuyện lớn lao hơn thì chúng ta đã có căn
bản và nền tảng vững chắc để sống một cuộc sống lành mạnh và
hạnh phúc.
Tất cả nền tâm lý học và tâm lý trị
liệu trên thế gian nầy không thể cho chúng ta một tầm nhìn
về vũ trụ học đó. Viễn kiến đó và tầm nhìn về vũ trụ đó đến
từ tôn giáo. Nếu bạn nghi ngờ tôi, mời bạn nhìn vào máng cỏ
và bạn sẽ thấy, dưới biểu tượng dụ ngôn, sự liên kết của bạn
vào một câu chuyện vĩ đại.
Điều chúng ta thấy đang xảy ra trong
thế giới Tây phương mà chưa bao giờ xảy ra trước đó trong
lịch sử loài người là sự phân cách giữa những câu chuyện
nhỏ bé của chúng ta với câu chuyện vĩ đại kia. Khi chúng
ta không tin tưởng câu chuyện vĩ đại đó, thì sự liên hệ gắn
bó của chúng ta đã bị cắt đứt.
Có thể lúc ban đầu chúng ta không nhận
chân điều đó vì chúng ta bị tách rời khỏi câu chuyện vĩ đại
đó trong chốc lát. Có thể chúng ta thành công trong cuộc
sống và điều đó cũng tốt thôi. Và cuộc sống chúng ta được
thích thú thì cũng tốt nữa. Nhưng nếu vào một lúc nào đó và
ở một nơi nào đó, chúng ta bị phân cách khỏi câu chuyện
vĩ đại kia, chúng ta có nguy cơ sẽ kết thúc trong sự vô
nghĩa.
Những người hạnh
phúc
Những người hạnh phúc thật thông thường
là những người tin tưởng một đôi điều và đặt căn bản đời
mình trên những chân lý đó. Niềm tin của họ thật cụ thể và
vững chắc. Họ không dao động ngả nghiêng theo những cuộc
thăm dò dư luận, theo thời trang hay lề thói phong hóa.
Tôi đã gặp một chàng thanh niên ở
Waterfond, Ái-nhĩ-lan. Anh đã hỏi dồn tôi một số câu hỏi
thuộc nhiều lãnh vực. Anh muốn xây đắp cuộc đời mình trên
một điều gì vững chắc, như mọi người khác. Tôi nói với anh:
“Xem đây, tôi không thể trả lời hết mọi câu hỏi của anh.
Nhưng tôi sẽ nói những gì tôi có thể biết: Thiên Chúa thiện
hảo, vì vậy những tạo vật của Ngài thiện hảo và thế giới
cũng thiện hảo.”
Đó là những điều xác thực tôi có thể
trả lời cho anh ấy và tôi tin tưởng điều đó là đúng, vì đó
là những điều xác thực mà tôi muốn đặt cơ sở đời sống của
tôi trên đó. Đó là những chân lý nối kết tôi với câu chuyện
Giáng Sinh, với Thiên Chúa bằng xương bằng thịt: một
Thiên Chúa đang quan tâm đến vũ trụ cùng nhân sinh và
chăm nom một cách say đắm tạo vật của Ngài, cho dù cuộc sống
con người đôi khi thật phức tạp, khó khăn và gây nhiều rối
rắm.
Emmanuel – Thiên
Chúa ở cùng chúng ta
Một khi chúng ta tín nhiệm Thiên Chúa
một cách trọn vẹn, chúng ta không cần lo lắng phải giật dây
hay nhấn nút cho đúng cách, bởi vì chúng ta biết rằng tất cả
không tùy thuộc vào chúng ta. Chúng ta đều biết Chúa
Giêsu đã chọn lựa sống trên trần thế nầy và trần gian là thế
giới Ngài lựa chọn.
Chúng ta biết giá trị của Ngài không
chỉ nêu gương hoàn thiện và để mặc chúng ta theo gương đó,
hoặc chỉ mạc khải chân lý về Thiên Chúa và để mặc chúng ta
sống chân lý đó. Giá trị đích thực của Thiên Chúa là Ngài
sống trong chúng ta. Ngài là “Emmanuel” – Thiên
Chúa ở cùng chúng ta, Thiên Chúa ở trong chúng ta.
Vậy thì Giáng Sinh mang lại sự khác
biệt nào? Giáng Sinh mang lại sự khác biệt nầy là liên
kết câu chuyện nhỏ bé của chúng ta với câu chuyện vĩ đại của
Chúa. Và như thế Chúa Giêsu mang lại sự khác biệt cho
hết mọi người trên trần thế, nếu chúng ta để cho Ngài hành
động trong chúng ta!
Linh Mục Vincent Travers, OP
Hương Vĩnh chuyển ngữ |
VỀ MỤC LỤC |
|
Lời Chúc hay Lời Nguyện |
Mấy tuần không đọc email, hôm nay vừa
mở ra tôi lại bị ngay một ông bạn già ‘sửa lưng’. Khổ quá.
Bạn già của tôi viết cho cả group trên dưới 50 đứa bạn của
tôi thế này: cac bác mỗi người đọc cho cho bac D. một kinh.
Bác ấy đang mắc chứng bênh trầm trọng, đó là bệnh ‘cấm
khẩu’. Thế đấy, bạn bè chơi giỡn chọc phá nhau, có lúc mích
lòng nhau, nhưng rồi vắng nhau mấy ngày đã thấy nhớ nhau.
Hồi còn mài quần ở bậc trung học cũng vậy mà khi đã vào tuổi
bồng bế cháu nội cháu ngoại rồi cũng thế.
Bạn già của tôi đã dùng lời kinh nguyện
để khích bác sự ‘im lặng là vàng’ của tôi trong mùa vọng
Giáng Sinh. Chẳng biết bạn của tôi đã đọc cho tôi Kinh Khổ
hay Kinh Sướng, kinh Từ Tròi Cao hay kinh Từ Vực Sâu? Chắc
là kinh … ‘chuởi xéo’.
Tôi nhớ lại hồi học đệ Tứ đệ Ngũ trong
chủng viện, mỗi lần phải viết thư cho cha bố là một lần tôi
khổ sở. Tuổi ham chơi, tôi có vấn đề gì để bàn hỏi đâu, linh
hồn tôi mới nẩy mầm thì tâm tình đâu mà viết. Cố gắng viết
chữ to và viết thưa thì tôi cũng chỉ được một trang pơ-lua
là cùng. Và thư nào thì hình như cũng tựa tựa như nhau. Đại
khái là cảm tạ Chúa, cám ơn cha, con vẫn khỏe (mặc dù có khi
viết thư trong phòng bệnh), học lực của con tháng này được
trung bình, hạnh kiểm cũng gần trung bình… và luôn kết thư
bằng một câu rất thuộc lòng ‘xin cha thêm lời cầu nguyện cho
con được trung thành với ơn gọi’. Thật ra đây cũng chính là
câu mà cha bố đã dặn bảo trước khi tôi vào chủng viện. Lạy
Chúa tôi, viết cho có, cho đẹp, cho đầy trang thư thôi chứ
làm gì tôi có ý tốt lành 100% xin Ngài cầu nguyện cho được
ở trong nhà Chúa suốt đời đâu.(Hèn chi. C’est ca!!!).
Thế ra tôi đã dùng lời cầu nguyện để
trang trí cho một bức thư.
Nghĩ lại tôi thấy mình có phần giả dối
nên bây giờ bước vào tuổi U50, tôi bắt đầu ý thức nhiều hơn
mỗi khi xin người khác cầu nguyện và nhất là khi hứa cầu
nguyện cho người khác.
Nói đến cầu nguyện, tôi nhớ bài giảng
của cha xứ trong ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội vừa qua.
Ngài nói về sự kiện và lịch sử Đức Mẹ Lộ Đức. Tại sao có Lộ
Đức và những gì đã xảy ra ở Lộ Đức, rồi Ngài kể câu truyện:
Sáng nay con mới đi làm lễ an táng cho
anh Phanxicô Nguyễn văn V. vừa qua đời lúc 30 tuổi. Anh V.
sang Mỹ một mình, không có cha mẹ thân nhân bà con gì cả.
Anh đi bụi đời rồi nhập băng đảng đi cướp ngân hàng, rồi bị
bắt và lãnh án tù chung thân. Sống trong tù không ai thăm
viếng nên rất cô đơn. Mới đay anh bị bệnh ung thu phổi và
được chuyển về bệnh viện Anaheim Memorial Hospital gần nhà
thờ của chúng ta. Thấy anh cô đơn, bệnh tật đáng thương, một
cô y tá người Phi đã điện thoại cho con khi biết anh là
người Việt Nam. Con đến thăm anh lần đầu anh không muốn
gựap. Con trở về và cầu nguyện rồi trở lại lần thứ hai, anh
cũng không nói truyện nhiều, con chỉ tặng anh một chuỗi
tràng hạt dù chẳng biết anh có đạo hay không. Lần thứ ba anh
nói truyện nhiều và con dậy anh cầu nguyện với Đức Mẹ: Xin
Đức Mẹ cứu con trong giờ lâm tử. Chỉ đơn sơ thế thôi. Và sau
cùng anh đã trở lại và chết bình an. Con tin chắc Chúa và
Đưc Mẹ đã thương cứu anh….”.
Câu truyện sống thực và rất thương tâm,
đồng thời cũng là tấm gương cầu nguyện của hai người trẻ
tuổi. Cha xứ trẻ và anh tù nhân trẻ.
Cha xứ nhấn mạnh điểm Cầu Nguyện cùng
Đức Mẹ cứu giúp trong giờ lâm tử, nhưng tôi thấy một điều mà
cha xứ không ‘dậy bảo’: đó là mánh khóe cầu nguyện. Tôi mạo
muội gọi là mánh khóe vì nếu gọi là nghệ thuật thì quá cao
siêu tôi không dám bàn mà gọi là mánh mung thì lại thấp hèn
với sự cầu nguyện.
Tôi không biết anh tù nhân trẻ đã cầu
nguyện thế nảo, nhưng tôi thấy cha xứ đã kết hợp lời cầu
nguyện với hành động. Nếu cha chỉ đến thăm anh tù mà không
cầu nguyện thì chưa chắc đã work, mà nếu cha chỉ đi đi lại
lại trong khuôn viên nhà thờ lâm râm lần chuỗi mà không hy
sinh trận football của đội Patriots England và Colts
Indiannapolis để đén thăm anh tù thì cũng chưa chắc đã work.
Nhìn lại Tin Mừng tôi thấy Chúa Giêsu
là người Do Thái, nhưng tâm lý lại khá giống dân Việt Nam
của tôi:
“Hòn đất ném đi hòn chì ném lại”
Hoặc
“Bánh đa ra đi bành qui trở lại”
Tôi thấy trong cầu nguyện nhất là cầu
xin một ơn cụ thể, thường thì Chúa cũng thích có một ‘phong
bì’ đi trước. Đây là tâm lý xã giao chứ không phải hối lộ
kiều thế gian vì trong xã giao thì người nhận phong bì cho
lại và luôn cho nhiều hơn, còn trong hối lộ thì người nhận
cất giữ phong bì và muốn nhận nhiều hơn.
Biết tâm lý con trai của mình nên trong
tiệc cưới Canaan, khi thấy chủ nhà hết rượu, Đức Mẹ đã vội
vàng dặn gia nhân ‘lấy nước đổ đày các bình’. Đức Mẹ biết
Chúa thích bắt đầu phép lạ từ những công việc của con người,
Chúa thich cho con người cộng tác phần nhỏ trong công trình
lớn của Ngài. Tôi thấy 3 điều kiện để Chúa làm phép lạ này
là: 1) Chủ tiệc thực sự hết rượu 2) Ông bối rối và xin Chúa
cho thêm 3) Múc nước đổ đầy các bình. Thiếu một trong 3 điều
kiện chắc Chúa không làm phép lạ được.
Chúa là người Do Thái nhưng rất thuộc
thành ngữ Việt Nam : Mưu sự tại nhân thành sự tại Thiên.
Không đội mũ an toàn mà chạy xe ngược chiều thì khi tai nạn
Chúa co muôn làm phép lạ cũng không kịp. Cầu xin được sức
khỏe mà cứ nằm ôm TV ăn snacks hoặc muốn xây sửa nhà thờ mà
không góp tài chánh, không gây quĩ thì chắc Chúa cũng cho
vào trong waiting list cho hợp tình hợp lý.
Trong phép lạ hóa bánh ra nhiều cũng
thế. Dân Do Thái thì giầu có hoặc ít nhất cũng không nghèo
vì họ sống trên miền đất chảy sữa và mật, nhưng có lẽ không
rộng rãi …bằng … người Việt. Nghe Chúa giảng, một là họ say
mê quên ăn quên uống hai là họ giấu kỹ đồ ăn, sợ lấy ra sẽ
bị người khác xin. Tôi không biết suy đoán thế đúng hay sai,
nhưng khi Chúa hỏi các em: Có gì ăn không? Thì một em đã cho
Chúa 1 bánh và 2 con cá. Thế là từ cái Filet O’fish của em
bé quảng đại này Chúa đã thay dổi tất cả lòng người. Ai
cũng lấy tất cả thức ăn của mình ra để chia sẻ, rất hồ hởi
và quảng đại nên ăn xong vẫn còn dư là phải. Có lẽ đây là
phép lạ dễ nhất mà Chúa đã làm: chỉ cần vận dụng lòng người.
Thôi thì dễ hay khó điều chính vẫn là Chúa làm phép lạ từ
những gì con người bắt đầu trước.
Gần lễ Giáng Sinh, tôi không có thói
quen gởi thiệp, chỉ gọi điên thoại thăm những người thân khi
có giờ
- Anh
điện thoại về thăm em và Saigon .
- Cám
ơn anh. Saigon thì mối ngày mỗi mới và đẹp, chỉ lụt khi mưa
lớn. Còn em thì ngược lạị.
- Anh
thấy bề mặt Saigon mới và đẹp, nhưng lòng đất Saigon thĩ cũ
hơn và bị động nhiều hơn. Em thì ngược lại.
- Anh
khéo nói. Giáng Sinh sắp về anh có gì vui không?
- Còn
8 ngày nữa mới Lễ Giáng Sinh nên anh chưa biết. Hi hi!!!Nói
truyện với em đây là niềm vui rồi. Anh cứ cộng lại và nhân
lên những niềm vui nho sẽ có niềm vui lớn.
- Anh
lại vừa uống nước mía hay ăn chè mà ngọt thế?
- Không,
anh mới ăn một miềng cake trong dịp ra mắt sách Thao Thức
của Đức Cha Bùi Tuần ở nhà thờ Saint Callictus. Em có gì lạ?
- Em
với chị H. mới ra thăm mo anh B hôm nay.
- Ừ,
năm măm rồi ha?
- Tháng
tới là tám năm chứ anh. Thời gian qua nhanh hơn mình tưởng.
Sống trong hạnh phúc thì thời giờ qua nhanh, nhưng trong cô
đơn thời gian cung không chậm lại.
- Cảm
quan miền sơn cước thật hay. Thằng cu K thế nào rồi?
Nó cũng ngoan, nhưng ít nói. Đang xin mẹ sang Tầu học tiếng
Tầu đẻ làm business
- Cứ
để nó đi xem sao. Coi bộ nó có chí lắm.
- Thấy
nó còn dại em lo quá, nhưng chắc em để nó đi. Em có một mình
nó là con trai nên tất cả tình thương em dành cho nó. Em lo
và thương nó lắm nên đang làm một cuộc đánh đổi với Chúa,
đánh đổi cuộc đời còn lại của em và tương lai của thằng cu
K.
- Khâm
phục em. Không biết nói gì hơn, anh chỉ thấy một điều là
trong cuộc đánh đổi này chắc em sẽ thắng và cầu cho Chua
thua. Anh thấy những người mẹ hy sinh cho con thường thắng,
nếu không thắng thì cũng huề. Mà em có backup plan không?
- Có
một người đàn ông mới bên cạnh có thể hạnh phúc lắm. Có
người sửa cái bức tường, cái mái nhà, cái tủ kính cũng an
tâm lắm chứ anh, nhưng thôi, em không có backup plan đâu…
“Em đánh đổi cuộc đời còn lại của em
với Chúa cho thằng cu K nên người tốt”. Trong khâu làm ăn
này, Chúa được một phong bì khá to: cuộc đời còn lại của một
góa phụ xinh đẹp. Đừng nghĩ tôi cải lương bịa ra điều này.
Tôi biết người nói truyên với tôi nói thật chứ không phải
nói để trang trĩ cho câu truyện giữa tôi và nàng hay tô điểm
cho phần đời con lai của nàng.
Nghe người góa phụ chia sẻ tâm tư, tôi
như vừa bước ra khỏi phòng huấn đức của chủng viện mấy chục
năm về trước. Dĩ nhiên vừa bước đi vừa nhìn lại cuộc đời của
chính tôi.
“Em đánh đổi cuộc đời còn lại của em
với Chúa cho thằng cu K nên người tốt”. Thế là phong bì đã
nằm trên bàn, nước đã được đổ đầy binh, và bánh với cá đã
nằm tên mâm cơm. Chắc Chúa sẽ làm công việc còn lại.
Năm hết Tết đén, Đông qua Xuân về, mong
cho những lời cầu chúc đầu xuân cũng là nhung lời cầu nguyện
thì đẹp biết bao.
Và lời cầu nguyện có kềm theo một phong
bì: phong bì hy sinh và phong bì thiện tâm thì hiệu quả biết
mấy.
Lạy Chúa con viết lời chia sẻ này để
cầu nguyện cho những người con muốn gởi Lời Chúc Giáng Sinh
và Năm Mới. Xin cho tất cả luôn được hồn an xác mạnh. Amen.
J. Vu
12/18/2007 |
VỀ MỤC LỤC |
|
”Lạy Cha, con muốn sinh ra những đứa con” |
Nguyên tác: ”Lettres d’amour aux
prêtres” – “Thư tình
gửi các Linh mục”
của Catherine DE HUECK DOHERTY
Người chuyển ngữ, Đình Chẩn.
CHƯƠNG VI
”Lạy Cha, con muốn
sinh ra những đứa con”
Con đã nói nhiều về Đức khiết tịnh, thế
nhưng chủ đề này cách nào đó chẳng để cho con được yên. Con
đã nhận được một lá thư của một nam tu sĩ, trong thư đó,
thầy ấy xin con bày tỏ quan điểm về “Đức khiết tịnh của
Thiên chức Linh mục” để giúp các chủng sinh và những người
dự tu. Thật vậy, họ đã đặt câu hỏi cho những người phụ nữ để
bày tỏ ý kiến về vấn đề đang còn tốn nhiều giấy mực bấy lâu
nay!
Con thú thật, khi nhận được lá thư này con
đã suy niệm rất lâu. Đó là một vấn đề mà người ta phải suy
nghĩ chín chắn, trước tiên là để lấy can đảm và để trả lời
cho câu hỏi dù thế nào đi nữa.
Trong khi suy nghĩ về vấn đề đó, con dần
nhận ra rõ hơn nguyên nhân tại sao cộng đồng các Linh mục
này cũng như một số khác lại xin con viết về vấn đề này.
Chẳng phải con đã kết hôn hai lần đó sao? Con không phải là
người Nga sao, và như vậy, con thường thấy các Linh mục ở
đất nước này kết hôn đó sao? Thực vậy, ở nước Nga,
Bun-ga-ri, rồi Sec-bi-a, tất cả các Linh mục coi xứ đều có
vợ hoặc ở goá. Ở đây, họ phải xây dựng gia đình trước khi
trở thành Linh mục; Trong những năm học chủng viện, họ được
phép đi tìm cho mình người bạn đời. Sau đó, họ sẽ được phong
chức Linh mục. Nếu người vợ của họ qua đời, họ không được
phép đi bước nữa. Đó là những điều luật của Giáo Hội Chính
Thống Nga. Mẹ của con, một tín hữu Chính Thống Nga, không
thể hiểu được rằng Linh mục triều mà không kết hôn. Bà quan
niệm chỉ có các Linh mục dòng mới xứng đáng đặc ân ấy. Chính
vì vậy mà con bị mâu thuẫn giữa hai cách nhìn.
Sau đó, con nhớ lại trường hợp của con, hay
đúng hơn phải nói : trường hợp của chúng con ( giữa con và
người chồng quá cố Eddie Doherty). Theo con, đây có lẽ là
trường hợp duy nhất trên lục địa Bắc Mỹ và có thể trên thế
giới nữa. Thực vậy, Eddie và con cả hai đã giữ khiết tịnh
trong suốt những năm 50 vì luật riêng của Hội Tông đồ
Madonna chúng con đòi hỏi, thông qua sự nhất trí của tất cả
các thành viên nguyện hiến dâng trọn cuộc đời mình bằng việc
thực hiện ba lời khấn khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời.
Sau khi đã sống giữ mình khiết tịnh những
năm tháng đó, Eddie và con đã khám phá ra rằng tình yêu lứa
đôi của chúng con đã lớn mạnh đến mức không thể tin được;
Chúng con đã kết hiệp với nhau một cách sâu sắc và trọn vẹn
đến mức khó tin, chúng con đã nên một trong Chúa Kitô, nên
một trong tình yêu thương ngay từ thẳm sâu của tâm hồn chúng
con.
Chính vì vậy, khi chúng con xa cách nhau,
thì sự kiêng giữ đã làm cho chúng con gần nhau hơn, hơn mức
cả hai người tưởng tượng giống nhau!
Thế nên, con nghĩ rằng vị Linh mục tương lai
tốt lành kia hoàn toàn có lý do chính đáng khi viết thư để
tham khảo ý kiến của con( vì con chỉ có thể đưa ra ý kiến
của mình thôi).
Con thú nhận rằng con cảm thấy e sợ hay khá
căng thẳng khi đề cập đến vấn đề này. Với cái nhìn của
người Bắc Mỹ, sự khiết tịnh thường liên hệ đến vấn đề giới
tính. Tuy nhiên, sự khiết tịnh không chỉ có thể hiểu như
thế.
Đức khiết tịnh xuất phát từ Đức Mến. Đó là
sự “ trong sạch của tâm hồn” của người sẽ “ nhìn thấy Thiên
Chúa”. Họ sẽ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa không chỉ ở trên
Thiên Đàng mà ngay ở dưới trần gian này.
Đức khiết tịnh là một đặc ân ban cho phép
con người ở lại trong sự bình an của tâm hồn qua trật tự do
Thiên Chúa sắp đặt. Đức khiết tịnh là dấu chỉ nhận ra người
có sự kết hiệp mật thiết với chính Chúa Kitô. Chúa Kitô đã
đồng trinh nhưng điều đó không ngăn cản Chúa yêu thương mọi
người với một tình yêu bao la, cũng không ngăn cản Chúa có
mối quan hệ mật thiết với một số người, như Thánh Gioan-môn
đệ Chúa yêu, hay chị Maria Madalena và nhiều người khác nữa.
Chúng ta phải đặt vấn đề này trong bối cảnh
yêu thương. Thí dụ : con có thể hình dung ra rất rõ một nhóm
các chủng sinh, nhất là vào những ngày trước khi chịu chức
Linh mục, trao đổi với nhau về hôn nhân gia đình hay đơn
giản chỉ là nghĩ đến đó thôi.
Đó là giây phút tối quan trọng để đưa ra
quyết định. Lúc đó, có thể họ sẽ hình dung ra một người phụ
nữ xa lạ nào đó sẽ là người vợ của họ. Như Kinh Thánh đã
nói, họ cảm thấy trong lòng rộn ràng lên tình yêu cuộc sống,
một tình yêu hết sức thiêng liêng dẫn họ đến cái nhìn thật
xác thực về những đứa con mà họ có thể sẽ có: Con trai kháu
khỉnh, đứa con gái duyên dáng. Rất có thể bàn tay họ sẽ bị
đốt cháy bởi những ước muốn được ôm những đứa con ấy vào
lòng, những đứa con chưa bao giờ họ sinh ra. Vâng, con có
thể dễ dàng hình dung ra những ý nghĩ như thế trong đầu
những người trẻ trước khi lãnh nhận Thiên chức Linh mục.
Nhưng khi đứng trước bối cảnh cụ thể của
Thiên chức, trong trạng thái trọn vẹn và trong ân sủng tràn
đầy, có thể họ sẽ có những suy tư khác không như những điều
con vừa nói trên, nhưng những điều con nói cũng chẳng có gì
lạ cả mà hết sức tự nhiên. Họ sẽ nghĩ rằng “ Thiên Chúa cần
đến những người giúp Ngài để tìm và đưa về cho Chúa những
ai cần đến Chúa”.
Thực vậy, đó chính là điều cốt yếu của Thiên
Chức Linh mục. Bởi vì trong sứ vụ cao đẹp này, họ sẽ được
chiêm ngưỡng phép lạ của một vị Thiên Chúa cần đến các Linh
mục, như người liệt cần đến chiếc nạng vậy! Thật là một sự
so sánh không thể tưởng tượng được. Ấy vậy mà thực sự là như
vậy! Quả vậy, thế giới tâm hồn của một số những linh hồn
cũng chai lỳ như những đá tảng vậy. Vai trò mầu nhiệm và khó
tin được là đây: Một người phải dâng cho Thiên Chúa đôi mắt,
hai bàn tay, đôi chân và trọn cả con người ấy để qua con
người ấy Thiên Chúa chinh phục được những người khác.
Vậy, tại sao phải nói đến sự hy sinh, sự từ
bỏ, nhất là từ bỏ tư cách làm bố? Một Linh mục thực sự có
thể trả lời cho vấn nạn đó. Đột nhiên con lại chợt nhớ ra
một vài câu thơ của một Linh mục viết:
Lạy Cha là Chúa Trời con,
Con muốn làm sinh sôi nảy nở,
Cho dân riêng của Cha.
Con muốn sinh ra những đứa con,
Cho vương quốc của Cha,
Ngay trên dương gian này và ở trên Trời.
Con muốn vương quốc của Cha,
Đầy những đứa con ,
Do tay con rửa tội, tha thứ và nuôi dưỡng
chúng.
Khi đó con được chiêm ngưỡng nhan thánh Cha,
Nơi những đứa con, đứa cháu và chắt của con…
Điều này làm con nghĩ đến hôn nhân gia đình
là sự rút ngắn để đạt được những mục đích của chính mình. Có
thể có hoặc không. Mặt khác, nếu người ta tìm đến hôn nhân
chỉ để thực thi, nói cách khác, để thoả mãn những nhu cầu
tâm lý tình cảm, thì câu trả lời đã rõ: Thật là sai lầm tai
hại cho những ai, dù là thường dân hay là Linh mục, nếu họ
kết hôn chỉ vì mục đích ấy!
Ơn gọi hôn nhân cũng đòi hỏi suy nghĩ chín
chắn, chín chắn về cảm xúc để không tìm tư lợi cho riêng
mình mà đòi hỏi phải cho đi ( cho đi và tìm hạnh phúc cho
người mình yêu). Đó là ơn gọi hôn nhân.
Con cảm thấy không mấy hứng thú khi đọc đi
đọc lại hàng trang sách nói về sự độc thân, đức khiết tịnh
cũng như những lời bàn luận cổ võ cho việc kết hôn của các
Linh mục. Cha có nghĩ rằng tiến đến hôn nhân gia đình thực
sự là giải pháp cho vấn đề của mình chăng? Nếu quả như vậy,
thì cha mới biết rất ít về hôn nhân. Cha cần phải nhìn nhận
tất cả vấn đề mà mỗi cặp vợ chồng phải đối mặt.
Các Linh mục Chính Thống Nga đã và vẫn còn
là những người có gia đình riêng. Phần lớn các Linh mục theo
nghi lễ Đông Phương cũng vậy. Có lẽ sẽ rất thú vị khi làm
cuộc điều tra xã hội học về tất cả các Linh mục theo nghi lễ
Đông Phương để biết được có bao nhiêu trong số họ thích được
độc thân. Phần con, con không biết rõ lắm. Hay là làm cuộc
khảo sát đối với các Linh mục Anh Giáo đã kết hôn chắc cũng
không kém phần thú vị.
Hôn nhân và độc thân trong Kitô Giáo, nhất
là trong Giáo Hội Công Giáo là một vấn đề kỷ luật. Các quy
định có thể luôn được thay đổi. Nhưng không thể thay đổi do
khủng hoảng, cũng không do những cảm xúc nhất thời hay do
những dư luận chống phá hoặc điều kiện chưa chín muồi.
Chúa Kitô đã nâng Đức khiết tịnh và sự độc
thân lên bậc đáng kính. Đó là những dấu chỉ thiêng liêng sâu
sắc mà thế giới say đắm nhục dục này cần phải tôn trọng
không chỉ là ngoài môi miệng mà từ trong tâm hồn.
Rất rõ rằng trong khi giới giáo sĩ Công Giáo
đang chịu dằn vặt vì những khó khăn và vì những cuộc tranh
luận thì dân ngoại vẫn tiếp tục tôn trọng yêu mến và bắt
chước những người hiến dâng trọn vẹn sống khiết tịnh nơi
hàng ngàn Tu sĩ Ấn Độ Ashrams và trong các nước Á châu.
Thiên Chúa, Chủ thể của lịch sử, đã chuẩn bị
con đường khiết tịnh từ xa xưa trước khi sai Con Một của
Chúa đến cứu độ chúng ta. Sự khiết tịnh đã được hiểu rất rõ
trước khi Chúa Giêsu xuống trần. Những người Hi lạp và La
Mã, những bậc tiền bối của nền văn minh Tây phương, biết rất
rõ ý nghĩa sự trinh khiết của các Thần họ thờ.
Sự trinh khiết luôn luôn hiện diện trong
suốt hành trình nội tâm lạ lùng mà con người cần phải giữ
lấy để gặp được Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trong chính tâm hồn
con người. Và khi thực hiện được như vậy, Đức khiết tịnh sẽ
là ánh sáng dẫn đường cho Linh mục và sẽ chỉ cho Linh mục
thấy tất cả những con đường ngắn gọn dẫn đến Tình yêu Thiên
Chúa và tình yêu con người, một tình yêu tự do, thoát ra
khỏi những quyến luyến không thuộc Thánh ý của Đấng là Tình
Yêu.
Khi đó linh hồn của những Linh mục ấy sẽ
bay vút lên tới đỉnh cao của Tình Yêu và Sự Thật, các ngài
sẽ xây dựng vương quốc Chúa Kitô ngay trên trần gian này.
Con biết có một chàng thanh niên, một hôm
ghé chiếc ghế đến gần con và cố gắng nói với con có vẻ hơi
bối rối rằng anh ta sẽ vào chủng viện trong vài tuần tới.
Một lần nữa, dường như trái tim con ngừng đập bởi con cảm
nhận được niềm vui hồ hởi lạ lùng tràn ngập trong lòng khi
con nghe kể về câu chuyện tình tuyệt vời nhất đã xảy ra trên
trái đất này với giọng nói rụt rè và do dự : Câu chuyện tình
giữa Thiên Chúa và con người. Câu chuyện ấy diễn ra khi
Thiên Chúa các đạo binh cúi xuống đón lấy một trái tim trong
vòng tay rồi nâng cao lên, cho đến khi đạt tới đỉnh cao vô
tận của đồi Can- vê và ôi cây Thánh Giá đã trở nên phép lạ
của những phép lạ! Một Chúa Kitô khác!
Vâng, người thanh niên trẻ kia đã ngồi sát
mép ghế và đã cố gắng nói với con một cách rụt rè và còn do
dự quyết định vào chủng viện và con lại nghĩ : Đã có 31
thanh niên trẻ thuộc Tu hội chúng con ra đi theo tiếng gọi
của Tình yêu, để bước lên ba bậc nhỏ của bàn thờ, làm một
người bình thường, một Linh mục của Chúa.
Khi đó con nhớ lại tất cả những người đã nói
chuyện với con, dù không ở lâu trong Tu hội của chúng con
hay ở nơi khác. Họ đến với con đơn giản chỉ để chia sẻ niềm
vui dạt dào trong lòng họ.
Thế là thêm một người nữa! Chẳng có gì ngạc
nhiên khi trái tim con ngừng đập trong chốc lát vì vui mừng
và con nhẹ nhàng cất lên câu hát “ Alleluia” khúc hát chỉ có
một từ có lẽ là duy nhất có thể diễn tả được niềm vui vô bờ
bến của con tim đối với Thiên Chúa tốt lành.
Một lần nữa, con lại cảm nhận được mối rung
cảm tuyệt vời của Tình yêu Thiên chức Linh mục ngập tràn tâm
hồn con vì con yêu mến Thiên chức Linh mục và các ngài biết
bao, một tình yêu dạt dào vô bờ bến. Chuỗi ngày sống của con
luôn đầy ắp những lời cầu nguyện cho các ngài, nhưng có lẽ
con phải nói rõ hơn rằng con chỉ cầu nguyện cho tất cả các
Linh mục với một lời cầu nguyện duy nhất: Trong giờ lâm tử
các ngài có thể nói chân thành như thánh Phaolô:” Tôi sống
nhưng không còn là tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Trong khi người thanh niên trẻ kia đang
chuẩn bị hành trang bước vào chủng viện thì con đã mường
tượng ra con đường dài, rất dài mà người ấy phải đi qua
trước khi đến ngày trọng đại: Ngày người thanh niên kia được
thụ phong Linh mục.
Con nghĩ đến tất cả những cám dỗ, đến sự vỡ
mộng đến những nghi ngờ sẽ đeo bám người thanh niên ấy vào
trong bức tường Tu viện và đôi khi người thanh niên ấy bị ám
ảnh. Trái tim con ái ngại cho người ấy biết bao ! Con biết
rất rõ rằng con người Linh mục trong tương lai ấy phụ thuộc
rất nhiều vào con người chủng sinh hôm nay.
Hành trình tiến đến đỉnh trời yêu thương của
người thanh niên trẻ kia phải bắt đầu ngay bây giờ, ngay từ
ngày đầu tiên bước chân vào Chủng viện. Bởi đó là một ân huệ
lớn lao mà người đó lãnh nhận. Được gọi tiến lên chức Linh
mục luôn luôn là một ân huệ, nhưng vào thời nay, đặc ân đó
phải lớn gấp hai : Thực vậy, ơn gọi này, ngày nay bao gồm cả
sự tử đạo, đau đớn về thể xác- nỗi thống khổ thuần tuý. Để
đáp lại tiếng Chúa gọi cần phải có một tình yêu mến nồng nàn
và sự chuẩn bị tinh thần kỹ lưỡng và thời gian cho việc đó
thì quá vắn vỏi. Chính vì vậy, hành trình tiến đến đỉnh trời
yêu thương cần phải được thực hiện ngay không được chậm
trễ.
Người bạn thanh niên trẻ mến yêu của con có
hiểu được điều đó chăng ? Liệu cậu ấy có biết rằng Chúa Kitô
đã sai chính cậu đến thế gian và sống ở đó đúng như Chúa đã
sống, thậm chí còn khổ hơn thế nữa ?
Người bạn trẻ của con sẽ phải đến với dân
ngoại những người đã nghe Lời nhưng đã bỏ ngoài tai ! Hơn
nữa, cậu sẽ phải đối diện với những con người đã được rửa
tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, những
người đó không chỉ khước từ niềm tin vào Thiên Chúa Duy nhất
Ba Ngôi mà còn tìm cách chống phá Thiên Chúa trong tâm hồn
những người đồng loại của họ bằng cách chạy theo thứ chủ
nghĩa Vô thần với quan điểm không tôn giáo của nó, với các
môn đồ và những kẻ tử đạo của Ác Thần.
Người bạn thanh niên trẻ tuổi kia sẽ phải
đối mặt với sự lạnh nhạt, thờ ơ, sự tự phụ, sự tục hoá và
vật chất hoá của các tín hữu, những người đã bị con virút xa
lạ gây nhiễm và đang bị hoành hành. Tất cả những điều đó gợi
lên một thảm kịch của những trái bom huỷ diệt hết thảy.
Thực vậy, người thanh niên trẻ được chỉ rõ đến chính đỉnh
trời của ơn gọi thánh thiêng của thiên chức Linh mục vì đã
được gọi sống đến tận cùng, sống cân bằng trong một thế giới
đang trên bờ vực thẳm đen tối nhất chưa từng có trong lịch
sử nhân loại.
Chỉ có một giải pháp duy nhất cho những thử
thách trên là : Người chủng sinh phải học ở Chủng viện không
chỉ để trở thành Linh mục mà phải nên thánh, thậm chí nên
giống chính Chúa Kitô ! Chủng sinh cũng cần nhớ rằng mình
được lãnh nhận chức Linh mục là để cho Thế gian. Nếu không
có chiên, cần chi đến chủ chăn ? Thế nên, ngay từ giây phút
bước chân vào Chủng viện, người theo Chúa bắt đầu chết đi
chính mình một cách trọn vẹn, để luôn sẵn sàng từ bỏ thời
gian, sức khoẻ và mạng sống của mình cho những người mà một
ngày kia ta dẫn đưa họ về với Chúa.
Trong khi người thanh niên kia đang chuẩn bị
hành lý, con muốn gợi ý người bạn ấy mang theo mình ít nhất
có thể, để cho ba người bạn : KHÓ NGHÈO, VÂNG PHỤC, VÀ KHIẾT
TỊNH được song hành theo. Đó là những người bạn đòi hỏi ta
phải tập luyện khắc khổ, nhưng không hề nặng nề. Bước chân
của những người bạn ấy nhanh nhẹn và đòi hỏi ta phải có đủ
sức mạnh để theo kẻo bị lạc hướng.
Thực vậy, ngày nay người ta chán ngấy với
những lời nói suông rồi. Thứ chủ nghĩa Vô Thần lôi kéo được
nhiều người theo, bởi vì những người Công giáo chúng ta nói
nhiều quá. Thực tế là chúng ta có nhiều điều để nói, nhưng
không phải chỉ bằng lời nói suông mà phải bằng việc làm cụ
thể. Chúng ta cần phải rao giảng Tin Mừng bằng chính con
người cũng như bằng lời nói của chúng ta. Để người đời có
thể tin vào Đấng đã sai người thanh niên ấy, thì người thanh
niên ấy phải biểu lộ cho họ thấy sự khó nghèo, vâng phục và
khiết tịnh của Chúa Kitô, nghĩa là bạn phải lột bỏ tất cả vì
Tình yêu mến Chúa và tha nhân, để có thể theo Thầy Giêsu đến
cùng. Khi đã từ bỏ hết, còn cần đến nhiều chiếc Vali nữa
không ?
Trong khi đọc danh sách những điều kiện cần
để bước vào Chủng viện, con muốn ghi lại một danh sách khác
để đưa cho bạn trẻ ngay hôm bước vào trường.
1. Hãy
mang vào trường tinh thần học hỏi cầu nguyện để thầy có thể
dạy cho những con chiên tương lai của thầy biết cầu nguyện :
Lời cầu nguyện trong Thánh lễ, cầu nguyện suy niệm, cầu
nguyện chiêm niệm, cầu nguyện chia sẻ, cầu nguyện âm thầm và
lời cầu nguyện của Chúa Kitô. Những người khô khan nguội
lạnh cần biết cầu nguyện hơn cả cần cơm ăn nước uống. Họ cần
đến những kinh nghiệm đời sống thiêng liêng của thầy, chứ
đâu cần đến những tri thức sách vở của thầy. Và họ chỉ thực
sự học cầu nguyện nếu chính thầy đã cầu nguyện.
2. Xin
thầy nhớ rằng mỗi người tín hữu bình thường cũng như tất cả
các Kitô hữu khác đều là một nhân vị gồm ba yếu tố không thể
tách rời. Thực vậy, con người chúng ta gồm ba yếu tố tạo
nên : Thể xác, Tinh thần và Linh hồn, và thầy không thể đáp
ứng những nhu cầu của yếu tố này mà không đoái hoài gì đến
hai yếu tố kia. Chính vì vậy, giáo dân đến với thầy -Linh
mục tương lai- để giãi bày những vấn đề của cuộc sống hằng
ngày, họ phải đến vì Linh mục có khả năng chữa lành. Tất cả
các vấn đề đó liên hệ đến giá trị đạo đức, mà thầy là chuyên
viên trong lĩnh vực này. Xin hãy luôn sẵn sàng đón tiếp mọi
người với lòng khoan dung. Hãy khuyên bảo tận tình và kiên
nhẫn! Thực vậy, ngoài Linh mục ra còn ai có thể làm được
việc đó ?
3. Với
mục tiêu này, thầy hãy bắt đầu học hỏi và thực hành ngay bây
giờ, không chỉ những lãnh vực chuyên biệt thuộc việc thờ
phượng, đạo đức đang chờ đợi, mà còn cả hiểu biết về xã hội,
và những lời dạy của Hội Thánh. Chớ xem thường việc học hỏi
này và chớ cứ tưởng rằng : thầy có thể lĩnh hội một cách
nhanh chóng sau ngày chịu chức ! Đây thật là một sai lầm tai
hại, vì khi đó ( Chúa giúp cha !) thầy quên mất rằng từng
lời nói và mỗi cử chỉ của Chúa Kitô có ý nghĩa xã hội lớn
lao đến nỗi mà đã thay đổi cả thế giới và còn tiếp tục thay
đổi.
4. Xin
thầy nhớ rằng những người bị bỏ rơi, những người nghèo hèn
nhất, đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và tất cả
những gì thầy làm cho những người bé mọn là thầy làm cho
chính Chúa Kitô. Cũng vậy, ở Chủng viện thầy đừng cố công
tìm ra những con đường, những cách thức để « né tránh thực
hành đức ái » Đừng để vỡ mộng và để lỡ những hứa hẹn với
các tín hữu ! Không, đừng làm việc đó, con xin thầy !
5. Thầy
đừng quá hiểu theo nghĩa đen câu ngạn ngữ trên mà đi đến chỗ
tách riêng mình ra. Thực vậy, thầy đã được chọn riêng, nhưng
thầy được tấn phong Linh mục là để ở giữa chúng con, ngay cả
khi thầy không phải thuộc cộng đoàn chúng con. Chớ gì chúng
con đựơc gặp cha thường xuyên ! Được gặp cha là chúng con
được lãnh nhận phép lành, được tăng thêm sự can đảm, được
nhắc lại Đấng năm xưa đã vui vẻ đến ở giữa loài người. Xin
hãy cho chúng con dễ gặp cha : Thực vậy, làm sao cha có thể
dẫn chúng con đến với Chúa Kitô nếu cha chỉ ở trong bốn bức
tường nhà cha và chỉ tiếp đón chúng con theo thời khoá
biểu ? Có thể, chúng con sẽ cần đến cha bất cứ khi nào. Chúa
Giêsu xưa không hề định ra giờ tiếp đón khách, thế sao cha
lại có ?
6. Chớ
gì chúng con được nghe tiếng cha, không chỉ ở giảng đài,
nhưng ở bất cứ khi nào. Hãy đến thăm chúng con, ở gia đình
cũng như ở ngoài đường! Hãy nói cho chúng con về Thiên Chúa
và những đường lối của Ngài.
7. Đặc
biệt, cha hãy cất công tìm con chiên lạc. Những người tội
lỗi và những tâm hồn lạc lối phải là mối bận tâm chính của
cha. Xin cha đừng quên rằng cha là chủ chiên của tất cả các
con chiên trong xứ và không chỉ những tín hữu Công giáo
không mà thôi ! Như Postoievski nói : « Chúng ta phải yêu
thương một người đến cả tội lỗi của người ấy, vì chúng ta
bắt chước Thiên Chúa Tình Yêu và đó là tình yêu thương vĩ
đại nhất trên thế gian này ».
Đó là vài suy nghĩ của con khi thấy người
bạn trẻ đang sắp xếp đồ đạc ở Nhà Madonna và chuẩn bị cho
hành trình dài trước mặt còn khá bỡ ngỡ này.
Con chầm chậm tiến về ngôi nhà thờ nhỏ màu
trắng nằm bên bờ sông. Con đến quỳ gối lâu giờ trước bàn thờ
Đức Mẹ khấn xin Mẹ biến đổi người thanh niên kia nên giống
Chúa Kitô, để cho thế giới tuyệt vọng chúng con đây có thể
đứng dậy và bước đi khi được chứng kiến người thanh niên trẻ
ấy bước đi trong niềm tin, hy vọng và yêu thương, đến với
Thánh Tâm Con của Mẹ và được chữa lành. Alleluia !!! |
VỀ MỤC LỤC |
|
Xin Chúa tha thứ
cho bạn. |
Tác
phẩm: Cầu Nguyện Cá Nhân: Bí quyết tình yêu và vui sống
Lm. Micae-Phaolô
Trần Minh Huy, pss.
Phần thứ hai
Đối thoại
với Chúa thế nào?
h a i
“Có hai người lên
Đền thờ cầu nguyện: một người Biệt phái và một người thu
thuế. Người biệt phái đứng riêng một mình cầu nguyện rằng:
‘Lạy Thiên Chúa, tạ ơn Chúa, vì tôi không như bao kẻ khác:
tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia.
Tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, tôi dâng cho Chúa một phần
mười thu nhập của tôi.’ Còn người thu thuế thì đứng đàng xa,
thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, vừa đấm ngực vừa thưa
rằng: ’Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.’ Tôi nói
cho các ông biết: người nầy khi trở xuống mà về nhà thì đã
được nên công chính rồi, còn người kia thì không. Vì phàm ai
tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được
tôn lên’’(Lc.18:10 - 14).
Nhìn nhận sự thật
Lòng kiêu ngạo nguy
hiểm nhất của người biệt phái là cho rằng mình hoàn hảo và
khinh miệt ‘’người tội lỗi công khai’’, tức là người không
che giấu được lỗi lầm của họ. Bạn có khéo che đậy lầm lỗi
của bạn không? Có những người chỉ trích tấn công khuyết điểm
của kẻ khác để che đậy tội lỗi của họ. Bạn hãy sợ ‘’lối đánh
lừa thiên hạ’’ đó và nghĩ đến hậu quả khi bị lột mặt nạ!
Trái lại, Chúa Giêsu
tôn trọng và đặc biệt yêu thương những người nhìn nhận tội
mình. Như vậy, kiêu ngạo không phải là một tội như những tội
khác, mà là một ‘’tội bình phương’’, vì nó che mắt lương tâm
không cho ta nhìn thấy tội mình. Người kiêu ngạo là người mù
và lời cầu nguyện của y hoàn toàn lầm lạc. Khi ra trước mặt
Chúa, y luôn luôn đặt mình trong vị trí ưu thế, vô tội và do
đó không thể xin ơn tha thứ một cách thành thật được, vì y
không biết nhìn nhận mình là tội nhân.
Người không nhìn
nhận tội lỗi mình không thể nào gặp gỡ Thiên Chúa là Đấng
Thánh Thiện Tuyệt Đối được. Trong một thị kiến, Isaia đã kêu
lên: ‘’Khốn cho tôi, tôi chết mất, vì tôi là một con người
miệng đầy nhơ bẩn mà mắt tôi đã trông thấy Thiên Chúa Hằng
Sống’’ (Is. 6: 5). Cả Phêrô khi khám phá thấy quyền năng của
Thiên Chúa nơi Đức Kitô cũng thốt lên: “Lạy Chúa, xin Ngài
tránh xa con, vì con là một người tội lỗi’’ (Lc. 5: 8).
May mắn thay Thiên
Chúa Chí Thánh cũng là một đại dương của tình yêu, dịu dàng
và thương xót. Ngài hằng đưa tay ra cho tội nhân được an
lòng. Ngài mở rộng vòng tay đón đứa con hoang đàng trở về và
ban cho nó mọi phương tiện để được thanh tẩy. Như thế, nhìn
nhận sự thật, trước tiên là nhìn vào Thiên Chúa, chứ không
phải nhìn mình như là trung tâm điểm.
Rồi dưới cái nhìn
của Thiên Chúa, biết nhìn nhận mình là tội nhân, ngay cả khi
không biết cáo mình về tội gì rõ rệt. Phải khẩn trương chống
lại lòng kiêu ngạo bằng cách hạ mình như người thu thuế. Bạn
có nhận xét thấy thái độ vật lý của người thu thuế khi cầu
nguyện không? Ông ta đứng xa xa, ngay cả không dám ngước mắt
lên trời, cúi đầu đấm ngực mình. Bạn cũng hãy làm như vậy
trong khi bạn cầu nguyện, đó sẽ là một thực tập cải tạo
tuyệt vời. Bạn cũng thốt lên cùng những lời như thế nhiều
lần: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.’’ Bạn cũng
có thể thêm vào mà không sợ lầm: “Xin thương xót con là kẻ
kiêu ngạo. Xin dạy con bí quyết của khiêm nhường.’’
Lòng chúng ta như là
đáy sâu hang tối. Sự nhìn nhận sự thật mở ra con đường tha
thứ, mang ánh sáng xuống tận đáy sâu hang tối ấy. Ngọn đèn
trên nón nhà thám hiểm chính là ánh sáng Phúc Âm. Dây an
toàn chính là Thánh Giá đưa đến Phục Sinh của Chúa Giêsu. Mỏ
neo đánh bạt mọi chướng ngại là sự thống hối. Và nhà hướng
đạo chuyên nghiệp bảo đảm chiến thắng là linh mục, thừa tác
viên của ơn tha thứ.
Ánh sáng Phúc Âm
được ban cho bạn để bạn ra khỏi mù tối về chính bạn, về
Thiên Chúa và thế giới. Nếu bạn muốn lời cầu nguyện của bạn
thực sự là lời cầu nguyện, bạn hãy không ngừng tìm chân lý
Phúc âm.
Vì đang nói tới tội
và ơn tha thứ, tôi lấy thí dụ rất thông thường là có những
tội ta lấy làm khó chịu, có những tội lại không. Tất cả tùy
thuộc cái nhìn kitô của ta. Mê ăn đối với người nầy là tội
mà đối với người khác lại không. Có những người coi cái gì
về tính dục cũng đều là tội, trong khi chẳng bao giờ coi
giận hờn và xét đoán kẻ khác là lỗi nặng. Do đó, điều quan
trọng là cần có sự soi chiếu khách quan, đầy đủ và chính
xác. Trong lãnh vực nầy, không gì tốt hơn là qui chiếu vào
Bài Giảng Trên Núi (Mt.5-7). Bạn hãy đọc ba chương nầy của
Phúc âm Matthêu để học biết cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì
không đẹp lòng Chúa.
Thánh giá Chúa Kitô
là chổ trung tâm nhất để sống ơn tha thứ. Ở đó, bạn khám phá
được tội lỗi của bạn dẫn tới đâu. Ở đó, bạn chiêm ngắm những
gì Chúa Giêsu đã làm cho bạn, trải qua muôn vàn khổ đau. Bạn
hãy năng đến cầu nguyện dưới chân thập giá, để tội lỗi bạn
lại đó mà xin ơn tha thứ. Càng nhìn Chúa Chịu Đóng Đinh, bạn
càng khám phá thấy sự khủng khiếp của hỏa ngục, đồng thời
bạn cũng khám phá được tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Nhờ
sự chiến thắng của Chúa Phục Sinh, bạn nhận ra bí quyết của
tình yêu lớn nhất.
Lòng thống hối cứu
ta khỏi mọi tội lỗi. Nhưng coi chừng, không phải là cứ nhìn
vào gương để rồi bạn tự cảm thấy mãn nguyện hay thất vọng về
chính mình bạn. Có khi bạn tự nhủ: “Tôi hài lòng về tôi, tôi
không thấy tôi xấu như thế, lỗi của tôi chẳng nặng nề
chi...’’ Đó là lương tâm của biệt phái! Có khi bạn lại nói:
“Tôi thất vọng lắm, tôi quá tồi tệ, tôi không ngờ tôi lại
như thế, tôi thật xấu hổ...’’ Đó là lương tâm của Giuđa!
Lòng thống hối đích thực chỉ nói đơn sơ: “Con là kẻ tội lỗi,
con không thể chữa mình trước mặt Chúa. Lòng nát tan, con
xin Chúa thứ tha. Con tin tưởng vào lòng thương xót của
Chúa. Con cám ơn Chúa.’’
Linh mục có đó để
bảo đảm cho bạn cách cụ thể ơn tha thứ của Chúa. Qua Bí tích
Hòa Giải, bạn có thể thành công trong việc nhìn nhận đúng sự
thật đời mình. Nhiều người đạt được kinh nghiệm quí báu đó.
Hãy khiêm tốn để được lòng thương xót của Chúa và được biến
đổi. Ngay khi có dịp, bạn hãy đón nhận bí tích trở về mang
lại ơn tha thứ giải phóng ấy.
Đèn
đỏ phải ngừng
Có những người bị ùn
tắc, không thể tha thứ và đón nhận tha thứ. Khi bị người nào
lăng nhục mà bạn nuôi trong lòng một ước muốn báo thù, thì
nó sẽ trở nên một ám ảnh làm cho ký ức bạn bị tổn thương. Nó
sẽ đầu độc các tương quan của bạn với Chúa và với tha nhân.
Nó sẽ làm bạn khựng lại trong việc cầu nguyện, chẳng hạn bạn
không thể đọc cách thành thật được ‘’xin tha thứ những xúc
phạm của con, như con cũng tha thứ cho những ai xúc phạm
con’’. Và có thể như thế, tận đáy lòng, bạn thù ghét Thiên
Chúa, bạn thù ghét chính bản thân bạn, bạn thù ghét mọi
người! Hãy coi chừng, đó là đèn đỏ phải ngừng lại: nguy hiểm
của cái chết thiêng liêng!
Ma quỉ rất tài tình
trong việc cầm hãm chúng ta chối từ lòng thương xót Chúa. Nó
làm cho chúng ta bỏ lời cầu nguyện khiêm tốn của mình. Chiến
thuật đầu tiên của nó là ‘’thất vọng trắng’’. Nó đẩy chúng
ta đến chỗ không còn sợ tội, vì Thiên Chúa luôn luôn tha
thứ. Tại sao phải nhọc công? Sớm muộn chi ai cũng được kéo
vào trong lưới tình thương bao la của Chúa. Do đó chẳng cần
sửa mình, chẳng cần tìm ơn tha thứ, chẳng cần khiêm nhường
van xin. Xưng tội ư? Không hợp thời nữa rồi!
Chiến thuật tiếp
theo của nó là ‘’thất vọng đen’’. Nó đẩy chúng ta đến chỗ
quá lưu ý đến tội lỗi, đến đỗi không còn tin vào lòng thương
xót của Chúa. Như Giuđa, chúng ta tự kết án mình, cả đi đến
tự vẫn. Thất vọng trắng hay đen đều là một lời chửi rủa thậm
tệ Thiên Chúa. Nó giam hãm chúng ta trong con người nhỏ bé
của mình, đến đỗi không còn trông cậy vào sự giúp đỡ của
những người khác, kể cả của Đấng Cứu Thế. Đó là sự giam cầm
của Hỏa ngục.
Trái lại, Chúa Giêsu
đẩy chúng ta đến ơn tha thứ: “Nếu con tha cho kẻ khác lầm
lỗi của họ thì Cha trên trời cũng tha thứ cho con. Nhưng nếu
con không tha thứ cho người khác thì Cha trên trời cũng
chẳng tha thứ cho con lầm lỗi của con đâu’’ (Mt.6:14-15).
Nói khác đi, để nhận được ơn tha thứ thì cũng phải có thể
cho đi sự tha thứ.
Có phải Thiên Chúa
tính toán với bạn: ‘bánh ít cho đi bánh nhụy trả lại’, như
người làm thương mại không? Dĩ nhiên là không. Không có vấn
đề tính toán nhưng là hiệp thông. Tôi lấy thí dụ một đứa trẻ
phạm một lỗi nặng bị mẹ quở trách. Nó bực mình hờn giỗi thu
mình trong một góc. Ít giờ sau, mẹ nó bảo: ‘’Bây giờ là hết,
mẹ tha thứ cho con, con hôn mẹ đi.’’ Nếu đứa bé từ chối lời
mẹ và cứ tiếp tục hờn giỗi thì cái gì xảy ra? Nó không thực
sự được tha thứ, mặc dầu về phía bà mẹ, sự tha thứ đã được
cho đi. Sẽ không có gì thay đổi cho nó, bao lâu nó không
chấp nhận tha thứ và được tha thứ. Cũng cùng một sự như thế
với Thiên Chúa.
Như vậy, bạn đừng
nghĩ rằng mình sẽ được tha thứ mà cứ chồng chất tội lỗi. Bạn
cũng không được ngã lòng khi gặp phải khó tha thứ. Điều
chính yếu là mở lòng bạn ra với Chúa, để tự do nói với Ngài
những gì bạn sống, dù chẳng có chi sáng chói. Bạn có thể nói
lên tất cả trong lời cầu nguyện: những niềm vui của bạn,
những khổ nhọc của bạn, những nổi loạn của bạn, những nghi
ngờ của bạn, những kêu ca và những khóc lóc của bạn. Các
thánh vịnh đầy dẫy những tình cảm phàm nhân, từ những tình
cảm cao thượng nhất cho đến những tình cảm thấp hèn nhất.
Nhưng những lời nguyện tấn công, hiếu chiến đừng nhắm vào
con người, mà nhắm vào những thần trí sự dữ và các thứ quỉ:
ghét tội lỗi nhưng thương tội nhân.
Bạn cũng có thể than
thở với Chúa, như Chúa Giêsu trên thập giá: “Lạy Chúa, lạy
Chúa, sao chúa bỏ con?” (Tv. 21: 2). Bạn cũng có thể phiền
trách Chúa như Gióp khi bị nghiền nát dưới những đau khổ
khủng khiếp mà ông chẳng hiểu: “’Tại sao Chúa lôi con ra
khỏi lòng mẹ?’’ (Job. 10: 18). Thiên Chúa nhẫn nại lắng nghe
những lời kêu than đau khổ. Và khi cay đắng đã được dốc cạn
trước mặt Ngài thì sẽ đến sự ngọt ngào của ơn tha thứ. Lòng
thương xót của Chúa vô cùng linh hoạt hằng theo bạn mọi lúc,
để giúp bạn dễ dàng tiến bước đến ‘’bí quyết tình yêu’’.
Lòng thương xót Chúa như bà mẹ cảm nhận trong trái tim mình
tất cả mọi tình cảm của đứa con. Ngay khi bạn nương cậy vào
lòng nhân lành của Chúa, bạn sẽ đón nhận cảm giác an toàn
bao la trong nội tâm.
‘’Con chẳng đáng, nhưng...’’
Bí quyết xin Chúa
tha thứ nằm trong phương trình đơn giản nầy: Tha thứ = Khiêm
nhường + Hy vọng. Con người chúng ta chẳng có công trạng gì,
nhưng lại đắc tội trong mọi sự. Bạn đừng để một phút giây
nào mà không trông cậy tất cả nơi Chúa. Hãy bám chặt lấy
lòng thương xót của Chúa, vì bạn thế nào thì Chúa thương bạn
thế ấy. Bạn hãy ngắm nhìn lòng tin của viên đội trưởng trong
Phúc Âm. Chúng ta đọc lại lời kêu xin của ông trước khi rước
lễ: “Lạy Chúa, con chẳng đáng rước Chúa, nhưng xin Chúa phán
một lời thì con sẽ được chữa lành.’’ Nếu bạn chờ khi nào cảm
thấy ‘’xứng đáng’’ để cầu nguyện, để xưng tội, để rước lễ
thì không biết bạn sẽ chờ đến bao giờ! Ma quỉ là thầy dạy
tuyệt hảo về sự xứng đáng, nó khuyên bạn chạy tìm cho được
sự xứng đáng, mà chính nó cũng dư biết chẳng bao giờ con
người có được.
Trái lại, Thần Trí
Chúa Kitô mạc khải cho chúng ta rằng chẳng bao giờ chúng ta
xứng đáng rước Chúa cả. Sự xứng đáng đích thực của chúng ta
chính là quên việc chạy tìm sự xứng đáng ấy để chơi trò ’ai
mất thì được’: “Kẻ nào nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai
hạ mình xuống sẽ được nâng lên.’’ Bạn càng muốn thấy loại
trừ được hết tội lỗi đời bạn, bạn càng cảm thấy không xứng
đáng vào Nước Chúa. Nhưng bạn sẽ nhảy mừng vì Chúa cho bạn
đầy quà tặng và ban nhưng không cho bạn tất cả những gì bạn
thiếu, để bạn được nên giống Chúa. Vì chúng ta phải chạy tới
mục đích “không phạm tội nữa” (x.1Jn.3, 3-10) là điều “không
thể” đối với loài người, nhưng lại “có thể” đối với Thiên
Chúa. Chúng ta hãy để Chúa hành động bằng những phương thế
của Ngài. Bạn hãy thẳng thắn xử sự như thế và làm sống trong
bạn những lời cầu nguyện mạnh mẽ nhất để xin ơn tha thứ.
Một lời cầu nguyện khiêm tốn
Bạn thuộc nằm lòng
Kinh Cáo Mình, nhưng bạn có cân nhắc đủ từng chữ không?
“Tôi thú nhận cùng
Thiên Chúa Toàn Năng...’’ Phải, bạn thú nhận tội bạn trước
mặt Đấng mạc khải cho bạn một tình yêu toàn năng có sức tha
thứ. Bạn tín nhiệm vào Chúa. Bạn biết rằng tội bạn sẽ được
tha thứ, nếu bạn ăn năn thống hối trở lại cùng Chúa.
“Tôi nhìn nhận trước
mặt anh chị em rằng tôi đã phạm tội.’’ Bạn chấp nhận không
còn biện minh trước mặt người khác nữa, nhưng thẳng thắn và
can đảm thú nhận tội bạn. Bạn không sợ bị kết án, vì họ là
anh chị em của bạn trong Chúa Kitô. Họ sẽ giúp bạn sửa chữa
lầm lỗi của bạn.
“Trong tư tưởng, lời
nói, việc làm và những điều thiếu sót.’’ Cội rễ của tội nằm
ở trong lòng, trong tư tưởng. Xin Chúa tha cho bạn những tư
tưởng xấu mà bạn không muốn xua đuổi đi ngay. Xin Chúa cũng
tha cho bạn những lời nói dối trá, bạo lực, thiếu bác ái mà
bạn không kiểm soát được. Xin Chúa tha cho bạn những hành vi
ích kỷ chế ngự bạn suốt bao tháng ngày. Xin Chúa tha cho bạn
biết bao quên lãng, chia trí, những cơ hội bỏ qua mà bạn đã
có thể làm tốt hơn.
“Vâng, con đã thực
sự phạm tội’’ (đấm ngực). Bạn xác nhận trách nhiệm của bạn.
Trước mặt Chúa, bạn đã đắc tội hơn là nạn nhân. Bạn hạ mình
xuống chỗ rốt hết, hổ thẹn nhưng tin tưởng. Bạn cám ơn Chúa
vì đã cho bạn có thể cậy trông vào sự tha thứ của Chúa.
“Vì vậy con khẩn cầu
cùng Trinh Nữ Maria.’’ Ngoài Chúa Kitô, chỉ có một người vô
tội: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ
có tội, khi nầy và trong giờ lâm tử.’’ Cám ơn Mẹ đã cầu
nguyện cho chúng ta là những người tội lỗi.
“Các Thiên Thần và
toàn thể các Thánh.’’ Một sức mạnh bao la giúp bạn chiến
thắng tội lỗi. Được một đạo binh thánh thiện như thế cổ vũ
và nhờ ơn Chúa, làm sao mà lại không hy vọng trở nên tốt hơn
được?
“Và anh chị em nữa,
xin khẩn cầu cho tôi trước mặt Chúa.’’ Nếu bạn cậy dựa vào
lời cầu nguyện của anh chị em bạn, thì anh chị em bạn cũng
phải cậy dựa được vào lời cầu nguyện của bạn nữa. Bạn cầu
nguyện cùng Chúa cho các anh chị em tội lỗi của bạn. Xin
Chúa giải thoát bạn khỏi kết án lỗi lầm của anh chị em bạn.
Xin cho bạn có một cái nhìn yêu thương giúp anh chị em bạn
biến đổi.
Chúa nghiêng xuống trên con
Chúa
ơi,
Buổi
đầu con cầu nguyện thầm thỉ,
Sợ người ta chú
ý.
Rồi con vội chạy
đi,
Dần dần
rơi vào quên lãng,
Trong thói quen, trong công
việc.
Sức mạnh nào hơn con
thúc đẩy,
Con cầu nguyện, vẫn sợ
bị chú ý.
Nhưng,
Chúa nghe con, mà con
không đáp lại.
Mạnh hơn, con nghe
tiếng Chúa vào tai:
“Con
muốn Cha làm gì cho con?’’
Chúa đã
nghiêng xuống trên con.
Con
thấm đượm tình yêu Chúa,
Con
không còn sợ, vì có Chúa.
Con tìm
nghe Chúa,
Đấng mở
cõi lòng,
Cho con
thích sống,
Đầy
tin tưởng và hy vọng. |
VỀ MỤC LỤC |
|
NGHIỆN RƯỢU |
Rượu là một hợp
chất hữu cơ do sự lên men của tinh bột và đường bằng một
loại men rượu mà thành.
Rượu đã được
dùng từ thuở xa xưa, trong nghi lễ tôn giáo, trong các dịp
vui mừng, cũng như trong đời sống hàng ngày.
Uống vừa phải,
rượu không gây tác hại. Nhưng uống nhiều, rượu có thể đưa
tới nghiện rượu, phụ thuộc vào rượu và có ảnh hưởng xấu cho
bản thân, gia đình và xã hội.
Nghiện rượu có phải là một bệnh không?
Nghiện rượu đã
được coi như một bệnh của cơ thể, giống như các bệnh khác.
Có điều hơi khác, là bệnh nghiện rượu thường lại do chính
người bệnh tự ý gây ra.
Thế nào là Nghiện Rượu?
Nghiện rượu là
bệnh mãn tính trong đó người bệnh bị ám ảnh với rượu và mất
sự kiểm soát về số lượng tiêu thụ.
Họ ở vào tình
trạng đòi hỏi rượu mãnh liệt chẳng khác chi sự đòi hỏi thức
ăn, nước uống.
Họ thường tiếp
tục uống rượu mặc dù đã có những hậu quả trầm trọng về sức
khỏe, về gia đạo, về việc làm, đôi khi có những tác phong,
hành động vi phạm pháp luật.
Không điều trị,
bệnh nghiện rượu sẽ kéo dài suốt cuộc đời và có thể đưa tới
tử vong.
Xin kể các dấu hiệu của bệnh nghiện rượu
Nghiện rượu có
các dấu hiệu như sau:
1- Người bệnh
thèm rượu kinh khủng, luôn luôn ám ảnh với rượu và có nhu
cầu uống vài ly cho đỡ nhớ.
2- Mất tự chủ,
không kiểm soát được lòng mình. Người nghiện sẽ uống rượu
mặc dù đã nhiều lần hứa với người thân và hứa với lòng mình
là không uống nhưng vẫn tiếp tục uống dù biết là đã uống quá
nhiều.
3- Phụ thuộc
vào rượu: Khi ngưng hoặc giảm số lượng, người nghiện rượu
cảm thấy trong mình bực bội, khó chịu, ói mửa, đổ mồ hôi, cơ
thể run rẩy, ngáp lên ngáp
xuống, thiếu nhớ rượu.
4- Tăng khả
năng uống: Uống nhiều tới “say xỉn” rồi mà họ vẫn chưa đã
cơn ghiền
Họ thường lén
lút uống một mình, không thích thú với công việc thường làm,
cảm thấy nóng nẩy khi tới bữa mà không có rượu, dấu rượu ở
nơi mà chỉ họ biết, đang làm việc cũng
lén lút mở chai
rượu, tu một hơi...
Ai thường hay nghiện rượu?
Nam giới thường
nghiện rượu nhiều hơn nữ giới, tuổi 18-29 nhiều hơn lớp tuổi
trưởng thành hoặc trên 65 tuổi.
Nguyên do nào đưa tới nghiện rượu?
Có nhiều nguy
cơ đưa tới nghiện rượu như di truyền, rối loạn tinh thần,
khó khăn trong công việc làm ăn, gia đạo bất an, áp lực rủ
rê của bè bạn, sự quảng cáo và sự sẵn có của rượu.
Uống nhiều rượu có tác hại gì cho cơ thể không?
Khi mới dùng,
rượu có tác dụng kích thích tinh thần. Nhưng nếu tiếp tục,
rượu trở thành chất làm dịu thần kinh, ành hưởng tới sự suy
nghĩ, cảm xúc và xét đoán.
Tiếp tục uống
nữa, rượu gây tổn thương cho não bộ và các cơ quan bộ phận
khác, người nghiện có thể rơi vào tình trạng hôn mê, tử
vong.
Rượu gây ra
viêm gan, xơ cứng gan, viêm loét bao tử, viêm tụy tạng, cao
huyết áp, suy nhược cơ tim, hư hao xương, giảm tình dục,
viêm dây thần kinh ngoại vi, tăng nguy cơ bị ung thư cuống
họng, thực quản, gan và ruột già.
Uống rượu khi mang thai đưa tới khuyết tật cho thai nhi.
Ngoài ra,
nghiện rượu còn đưa tới xáo trộn nếp sống gia đình, ly dị,
kém khả năng làm việc và học hành, tăng tai nạn xe cộ, vi
phạm luật giao thông, nhiều nguy cơ tự tử, giết người.
Có lượng rượu nào an toàn không?
Ðối với người
trưởng thành, uống một lượng rượu vừa phải mỗi ngày có thể
tương đối an toàn.
Vừa phải là một
lon bia 350cc, một ly vang 150cc, một ly rượu mạnh 50cc, hai
lần mỗi ngày cho nam gíới, một lần mỗi ngày cho nữ giới
và người cao tuổi.
Những người sau đây không nên uống rượu:
- Phụ nữ có
thai hoặc dự định có thai
- Người sắp làm
công việc cần sự tỉnh táo, phản ứng nhậm lẹ, khéo léo như
lái xe tự động.
- Người đang
uống thuốc chữa các loại bệnh.
- Người đang bị
bệnh mà uống rượu có thể làm bệnh trầm trọng hơn.
- Người đã được
điều trị và đang hồi phục nghiện rượu
- Thiếu niên
dưới 21 tuổi.
Làm sao biết là bị nghiện rượu?
Sau đây là bản
trắc nghiệm để coi có bị nghiện rượu hay không. Xin trả lời
4 câu hỏi sau đây:
- Có bao giờ
cảm thấy cần phải giảm lượng rượu tiêu thụ?
- Có thấy bực
mình khi bị chỉ trích là nghiện rượu?
- Có bao giờ
cảm thấy hối hận vì tật uống rượu của mình?
- Có bao giờ
mới sáng dậy mà đã phải uống một ly rượu để có tinh thần làm
việc?
Trả lời “CÓ”
chỉ một lần thôi thì có
thể có vấn đề với uống rượu.
Nếu “CÓ” trên
một lần, là có nhiều khả năng ghiền và cần đi bác sĩ hoặc
chuyên gia tư vấn để xác định coi có bị bệnh không rồi điều
trị.
Nếu trả lời
“KHÔNG” đối với tất cả 4 câu hỏi trên, nhưng khi uống rượu
mà gặp khó khăn trong việc làm, trong giao tế với mọi người,
về sức khỏe hoặc pháp lý, cũng nên tìm sự giúp đỡ. Mình có
thể ở trong tình tạng lạm dụng rượu và sự lạm dụng này cũng
có tác hại trên bản thân và với người khác.
Có chữa dứt được bệnh nghiện rượu không?
Nghiện rượu có
thể chữa được bằng dược phẩm, tư vấn tâm lý, hỗ trợ của gia
đình, bạn bè, xã hội.
Hiệu quả của
điều trị tùy thuộc ý chí người nghiện có thực tâm muốn xa
lánh thần Lưu Linh hay không.
Một số người
ngưng uống hoàn toàn, một số khác uống lại sau một thời gian
dài.
Tuy nhiên, với
điều trị, người nghiện rượu kiềm chế được và thời gian kiềm
chế càng lâu thì họ càng dễ dàng ngưng uống.
Phải làm gì nếu muốn chữa bệnh nghiện rượu?
Ðiều kiện tiên
quyết là người nghiện rượu phải thừa nhận mình có vấn đề với
rượu và có nhu cầu giúp đỡ để ngưng uống rượu.
Rồi tìm kiếm
nơi điều trị, hỗ trợ càng sớm thì sự hồi phục càng có nhiều
triển vọng thành công hơn.
Bệnh nhân có
thể đến trung tâm tư vấn về lạm dụng chất gây ghiền, nói
chuyện với một chuyên viên về lãnh vực này.
Họ sẽ hỏi một
số câu hỏi về thói quen uống rượu để xác định coi xem mình
có vấn đề với rượu hay không cũng như trắc nghiệm sự “muốn
chừa” rượu của mình.
Hãy thành thực
trả lời các câu hỏi. Nếu chuyên viên này cho rằng mình có
dấu hiệu nghiện rượu và quyết tâm muốn ngưng, mình sẽ được
giới thiệu tới một trung tâm cai rượu với nhà chuyên môn
chữa bệnh nghiện rượu.
Ngoài ra mình
cũng nên tham dự sinh hoạt của các tổ chức hỗ trợ người
nghiện rượu như Alcoholic Anonymous (AA), Al-Anon để cùng
chia sẻ khó khăn và cùng nhau từ bỏ rượu.
Kết luận
Trong sách Quốc
Văn Giáo Khoa Thư - Lớp Sơ Đẳng do Việt Nam Tiểu Học Tùng
Thư xuất bản cách đây trên nửa thế kỷ có tả người say rượu
như sau:
“ Các anh hãy
trông người kia đi ngoài đường. Mặt đỏ gay, mắt lờ đờ, quần
áo xốc xếch, chân đi xiêu bên nọ, vẹo bên kia, múa chân múa
tay, mồm nói lảm nhảm. Lũ trẻ đi theo sau, reo cười chế
nhạo. Thỉnh thoảng anh ta lại đứng lại, nói những chuyện gì
ở đâu đâu. Người qua lại ai trông thấy cũng phải tránh xa.
Người ấy vừa ở
hàng rượu ra. Chỉ tham mấy chén rượu mà thành ra say sưa,
mất cả tư cách con người, có khi như con vật vậy, thật là
đáng khinh bỉ.
Hỡi các anh,
các anh đã trông thấy người say rượu như thế, thì nên lấy đó
làm gương mà giữ mình.”
Các cụ ta ngày
xưa có nhận xét quá chính xác về tác phong, hành động của
người say sưa nghiện rượu
Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức
Texas-Hoa Kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
|
TAM VÒNG, Chuyện
phiếm của Gã Siêu |
Buổi tối, mấy đứa con
nít ngồi cãi nhau chí chóe về vấn đề đờn bà và đờn ông. Một
đứa lên tiếng hỏi :
- Đờn bà bởi đâu mà có
?
- Thì bởi đờn ông chứ
còn bởi ai ?
- Thế đờn ông bởi đâu
mà có ?
- Thì bởi đờn bà chứ
còn bởi ai ? Nếu không có đờn bà, thì lấy ai sinh ra đờn
ông, không khéo đờn ông đã tiêu tùng từ lâu.
Và thế là bọn con nít
rơi vào một chiếc vòng luẩn quẩn giữa đờn ông và đờn bà,
giữa đờn bà và đờn ông. Cuối cùng một đứa xem ra có vẻ thông
thái đã cất tiếng nói :
- Đức Chúa Trời đã dựng
nên người đờn ông thứ nhất, rồi từ đó sinh ra người đờn bà
thứ nhất và cứ thế, cứ thế….liên tục phát triển cho đến ngày
hôm nay.
Thực vậy, theo sách
Sáng Thế Ký thì thưở ban đầu, Thiên Chúa lấy bùn đất nhào
nặn, rồi thổi hơi vào lỗ mũi mà làm thành người đàn ông đầu
tiên, mang tên gọi là Adong. Sau đó, Ngài thấy Adong sống cô
độc lẻ loi và cu ky một mình thì động lòng thương, bèn chờ
lúc Adong ngủ say, lấy một chiếc xương sườn của chàng mà
dựng nên người đờn bà đầu tiên. Ngài dẫn người đờn bà này
tới giới thiệu với Adong. Vừa nhìn thấy, cặp mắt Adong đã
sáng lên long lanh, còn đôi môi thì hớn hở mừng rỡ mà kêu
lên hai tiếng :
- Mình ơi !
Rồi Adong đã đặt tên
cho người đờn bà này là Eva, bởi lẽ nàng là mẹ của chúng
sinh. Theo quan niệm của sách Sáng Thế Ký, thì đờn ông và
đờn bà đều được Đức Chúa Trời dựng nên, bình đẳng với nhau
về trách nhiệm cũng như bổn phận, mặc dù mỗi người đều có
một lãnh vực riêng của mình. Vì thế, một vị thánh nào đó đã
diễn tả :
- Đức Chúa Trời đã
không lấy xương sọ mà dựng nên Eva, vì thế bà không được chỉ
huy ông. Ngài cũng không lấy xương gót chân mà dựng nên Eva,
vì thế ông không được đày đọa bà. Nhưng Ngài đã lấy chiếc
xương sườn ở cạnh lái tim mà dựng nên Eva, vì thế ông phải
yêu thương bà và bà phải yêu thương ông.
Ngoài ra, còn rất nhiều
truyền thuyết khác nữa nói về nguồn gốc của người đờn bà. Gã
xin kể ra đây hai truyền thuyết mà thôi.
Truyền thuyết thứ nhất
kể lại rằng :
Thưở ban đầu, người đờn
ông sống trơ trụi một mình. Vừa đơn độc lại vừa buồn phiền.
Thượng đế lấy làm tội nghiệp. Ngài bèn dùng một chút dịu
dàng của hoa lan, một chút xinh đẹp của hoa hồng và một chút
tinh khiết của hoa huệ. Tất cả được trộn lẫn với nhau, nhưng
chưa đủ. Ngài còn hòa vào đó một chút tinh ranh của con khỉ
già, một chút độc ác của con rắn hổ mang và một chút hung dữ
của con sư tử. Tất cả được quyện lẫn với nhau mà làm nên
người đờn bà. Thượng đế trao người đờn bà ấy cho người đờn
ông. Kể từ đó, người đờn ông không còn trơ trụi một mình
nữa.
Nhưng rồi vào một buổi
sáng u ám, người đờn ông bỗng cảm thấy không còn chịu đựng
nổi sự tinh ranh, độc ác và hung dữ của người đờn bà, nên đã
trả nàng lại cho Thượng đế. Thế nhưng, cuộc ly hôn đầu tiên
này diễn ra chưa được một tuần trăng, thì người đờn ông bỗng
cảm thấy nhớ day nhớ dứt vẻ dịu dàng, xinh đẹp và tinh khiết
của người đờn bà, nên đã xin Thượng đế cho mình được lấy
lại. Và từ đó, họ sống hạnh phúc với nhau.
Truyền thuyết thứ hai
kể lại rằng :
Sau khi dựng nên núi
đồi và biển cả, cây cối và muông thú, cuối cùng Thượng đế
mới hoàn tất tác phẩm tuyệt vời của mình, đó là là người đờn
ông với tên gọi là Adong. Bấy giờ, Adong đi lang thang hết
chỗ này đến chỗ kia, nhưng luôn cảm thấy trống vắng. Một
buổi sáng, Adong dừng chân bên hồ, chàng mừng rỡ khi nhận ra
bóng mình in trên mặt nước. Và thế là chàng bèn nhảy xuống
để ôm lấy chiếc bóng mình trong vòng tay, nhưng không thể
được. Chàng buồn bã ngồi thinh lặng dưới gốc cây và than thở
cùng Thượng đế về sự trống vắng. Thượng đế liền trả lời :
- Thôi được, hãy dẫn Ta
tới hồ nước.
Thượng đế nắm lấy chiếc
bóng của Adong trong lòng bàn tay, thổi vào đó một luồng
sinh khí. Và thế là một người đàn bà đẹp hết ý mang tên gọi
là Eva bỗng xuất hiện. Nàng chớp chớp đôi mắt và khẽ nói :
- Tôi hiện hữu hay
không hiện hữu ?
Thượng đế mỉm cười và
bảo :
- Đây là quy luật của
muôn đời : khi con ở cạnh người đờn ông, thì con hiện hữu.
Trái lại, khi vắng bóng chàng, con sẽ không còn hiện hữu
nữa.
Từ những truyền thuyết
trên, gã nhận thấy bàn dân thiên hạ cũng đã dành cho người
đờn bà một sự trân trọng đáng kính nào đó và nàng trở thành
một con người không thể thiếu vắng cho phe đờn ông con giai.
Thế nhưng, trải qua dòng thời gian, phe đờn ông con giai đã
lờ tít và cố tình quên đi sự trân trọng đáng kính ấy, để rồi
ỷ vào sức mạnh trời cho, mà đày đọa cánh đờn bà con gái. Từ
đông sang tây, cũng như từ cổ chí kim, họ đã nhìn cánh đờn
bà con gái bằng nửa con mắt.
Thực vậy, ở phương tây
có những kẻ muốn trút tất cả mọi tội lỗi lên đầu cánh đờn bà
con gái. Theo họ : khi cánh đờn bà con gái chưa xuất hiện
trên mặt đất này, thì phe đờn ông con trai sống rất ư là
thoải mái, vui vẻ và đầm ấm. Thế nhưng, khi cánh đờn bà con
gái vừa xuất hiện, thì lập tức có ghen ghét và vu cáo, bạo
loạn và chiến tranh. Và cũng theo họ : lòng dạ đờn bà con
gái thì vô cùng hiểm độc và nhan sắc của họ dễ làm cho phe
mày râu chìm đắm.
Các triết gia như
Anaxilas thì khẳng định : hùm beo, rắn độc, quái vật, sư
tử…bao nhiêu thứ ấy là cái quái gì chứ ? Chẳng là cái thá gì
cả trước đờn bà con gái. Phutarque thì nhẹ nhàng hơn, nhưng
cũng đầy khinh bỉ : Khi các ngọn nến được thổi tắt, thì tất
cả đờn bà con gái đều xinh đẹp cả.
Các nhà văn, chẳng hạn
như Somerset Maugham đã lập luận như sau :
- Vì cớ làm sao những
người đờn bà xinh đẹp đều lấy những người đàn ông tầm thường
? Xin thưa rằng những người đàn ông thông minh sẽ chẳng bao
giờ chịu lấy những người đờn bà xinh đẹp cả.
Georges Courteline thì than thở :
- Những gì mình làm cho đờn bà con gái
thì họ quên rất mau, còn những gì mình không làm cho họ thì
họ lại nhớ mãi nhớ hoài. (Kiến thức ngày nay số 43).
Ý thức được sự bất công và địa vị yếu
kém của mình, cánh đờn bà con gái đã đoàn kết lại để đấu
tranh, thiết lập những phong trào, nào là phụ nữ đòi bình
đẳng, nào là phụ nữ đòi quyền sống và ngay cả phụ nữ đòi
quyền…sướng nữa. Thế nhưng, xem ra tình trạng mới chỉ sáng
hơn được một chút xíu mà thôi.
Ông Nguyễn Thanh Long, trong một bài
viết trên báo “Công giáo và Dân tộc” đã cho biết những nét
đại cương như sau :
Hiện nay, đờn bà con gái chiếm ít nhất
50% dân số nhân loại. Theo một cuộc điều tra của Liên Hiệp
Quốc được công bố năm 1999, thì chẳng có quốc gia nào đối xử
với nữ giới bình đẳng với nam giới. Trên trái đất, có 1,3 tỷ
người sống trong tình trạng cực kỳ nghèo đói, thì đờn bà con
gái chiếm tới 70%. Tổng trị giá của những công việc đờn bà
con gái phải làm mà không có lương được ước tính khoảng
11.000 tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Số lượng đờn bà con gái đi làm
có lương chỉ là 1/3 so với đờn ông con giai. Số tiền lương
họ được lãnh chỉ bằng 10% tổng quỹ lương. 50% nhân loại ấy
chỉ đứng tên sở hữu 1% tài sản trên thế giời!
Trong lãnh vực chính trị, sự hiện diện
của đờn bà con gái lại còn quá thấp. Tại Pháp, quốc hội hiện
nay chỉ có khoảng 60 nữ trên tổng số 577 đại biểu, tỷ lệ
10,2%. Mỗi khi một nhân vật nữ được bàu vào một chức vụ cao,
thì đó là một “sự lạ cả thể” và được bàn dân thiên hạ nhìn
bằng một cặp mắt nghi ngờ.
Trong phạm vi tôn giáo, một vị thánh
nổi tiếng là Âu Cơ Tinh cũng đã khẳng định đờn bà con gái
thấp kém hơn đờn ông con trai. Vì thế, họ không được tham
gia vào những hoạt động về xét xử hay giảng dạy trong Giáo
hội. Thậm chí theo truyền thuyết còn có cả một công đồng,
trong đó các nghị phụ đã tranh cãi về vấn đề đờn bà con gái
có linh hồn hay không ?
Còn tại nước Đức, phe đờn ông con giai
đã gọi cánh đờn bà con gái là người của 3K : Kinden tức là
con nít, Kuchen tức là bếp núc và Kirch tức là nhà thờ.
(Công giáo và Dân tộc số 1447).
Trong kinh Coran, Đức Mahomet đã truyền
dạy các tín đồ đực rựa như sau : Đờn bà con gái là một mảnh
đất đã được cày sẵn, các con cứ việc đến đấy, tha hồ mà
trồng cấy.
Còn ở phương đông như tại Việt Nam, do
ảnh hưởng nặng nề của Khổng giáo, trải qua nhiều thế kỷ chủ
trương trọng nam khinh nữ tha hồ mà tung hoành trong xã hội.
Người ta cho rằng :
- Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô.
Sinh được một cậu con giai thì đã kể là có, trong khi đó
sinh được mười cô con gái, thì vẫn kể là không.
- Trai năm thê bảy thiếp, gái chính
chuyên chỉ có một chồng.
Chỉ người đờn ông mới là chủ gia đình
và được trọng kính. Thực vậy, trong nhà khi các bà muốn đưa
cho chồng cái gì thì cũng phải để trên bàn chứ không đưa tận
tay. Nam nữ thọ thọ bất thân. Không thể có chuyện nắm tay
hay bá vai bá cổ. Lại càng không thể có chuyện vuốt ve hôn
hít nhau chùn chụt trước mặt bàn dân thiên hạ. Đặc biệt
trong xã hội ngày xưa, đờn bà con gái còn phải giữ tam tòng
tứ đức. Tam tòng, tức là ba chữ tòng : tại gia tòng phụ,
xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Ở nhà thì phục tùng cha,
lấy chồng thì phục tùng chồng, chồng chết thì phục tùng con.
Còn tứ đức, tức là bốn nhân đức : công dung ngôn hạnh. Khéo
tay làm lụng, nét mặt đoan trang, ăn nói lịch sự và tính
tình nết na.
Theo linh mục Thiện Cẩm : Ngày nay, thế
gian bỗng tự nhiên ra khác, ngay ở nước ta, nam nữ cũng trở
nên thọ thọ…rất thân, nắm tay, ôm eo, tựa vai, bá cổ. Có
người bảo phụ nữ ngày nay chỉ nghĩ đến “tam vòng tứ sắc”.
Tam vòng là vòng ngực, vòng eo và vòng mông. Tứ sắc là nét
đẹp của khuôn mặt, của bộ ngực, của áo quần và của cặp giò.
Còn chuyện tam tòng tứ đức là chuyện đã quá “đát” từ lâu.
Hôm nay, gã xin mượn những gợi ý trên
để bàn rộng và tán dài về chuyện tam tòng cũng như tam…vòng!
Trước hết là chuyện tam tòng mà ngày
xưa, cánh đờn bà con gái phải tuyệt đối tuân giữ.
Thứ nhất, tại gia tòng phụ, có nghĩa là
khi còn sống ở nhà thì phải phục tùng và vâng lời người cha,
bởi vì người cha là cột trụ của gia đình. Đây là điều dễ
hiểu và dễ chấp nhận, bởi vì cha mẹ có bổn phải phải giáo
dục con cái và con cái có bổn phận phải vâng lời cha mẹ :
- Mẹ dạy thì con khéo, bố dạy thì con
khôn.
- Cá không ăn muối cá ươn,
Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư.
Thứ hai, xuất giá tòng phu, đi lấy
chồng thì phải phục tùng và vâng lời chồng. Đây là một quan
niệm cần phải xét lại, bởi vì nó đã làm nảy sinh ra những
lạm dụng khó mà chấp nhận. Thực vậy, người chồng trong xã
hội phong kiến thường được coi như là một ông chủ. Vì thế,
hễ ông ta mở miệng phán ra điều gì, thì vợ con trong nhà đều
phải cúi đầu răm rắp nghe theo, chẳng được phép ý kiến ý cò
gì sốt.
Phu xướng phụ tùy. Từ đó, ông ta sẽ
thừa thắng xông lên mà đi tới chỗ độc tài, độc đoán và
cả…độc ác nữa. Ông ta sẽ mang lấy đầu óc “gia trưởng” và
đối xử theo kiểu “chồng chúa vợ tôi”. Lời nói của ông ta
cộc lốc như dùi đục chấm mắm tôm : Tiên sư cái con mẹ mày.
Hành động của ông ta mang nặng tính cách vũ phu và bạo lực.
Ông ta không ngần ngại “thượng cẳng chân hạ cẳng tay”. Như
cầu thủ ghi bàn thắng, ông ta hăng tiết vịt sút một phát cho
bà vợ lọt thỏm vào tủ áo mỗi khi cần ưu ái dạy bảo điều gì,
như trái banh lọt thỏm vào khung thành, hay cầu môn chi đó.
Gã đã từng thấy có những ông chồng đòi
hỏi bà vợ phải phục dịch cơm bưng nước rót cho mình. Thậm
chí đến bữa ăn, mình ông ngồi chễm chệ một mâm. Tội nghiệp
cho bà vợ suốt ngày phải tần tảo buôn thúng bán mẹt, nhặt
từng cọng rau muống đem ra chợ với hy vọng kiếm được tí tiền
còn, mua lấy một xị rượu và một chút thịt lợn mà cung phụng
cho đức ông chồng của mình được thập phần béo tốt.
Thứ ba, phu tử tòng tử, khi chồng chết
thì theo con. Đây cũng là điều tương đối dễ hiểu và dễ chấp
nhận, bởi vì người đờn bà lúc bấy giờ nghiễm nhiên đã trở
thành một người mẹ, và không chừng cũng đã mang nặng tí tuổi
đời. Một khi chồng chết thì biết theo ai nếu không phải là
theo những người con mình đã mang nặng đẻ đau, đã chắt chiu
nuôi dưỡng. Hơn thế nữa, chính những người con này cũng có
bổn phận phải thảo hiếu đối với người mẹ của mình.
Cái sự phu tử tòng tử ở đây xem ra còn
có vẻ nhẹ nhàng và nhân đạo hơn tập tục tại nhiều nơi trên
thế giới. Chẳng hạn, nếu gã nhớ không lầm, trong cuốn “Vòng
quanh thế giới 80 ngày”, Jules Verne cho hay tại một vài nơi
bên Ấn Độ, khi người chồng qua đời thì các bà vợ sẽ bị thiêu
sống để được theo hầu đức phu quân của mình nơi chín suối!!!
Tuy nhiên, theo lời của linh mục Thiện
Cẩm thì : Ngày nay thế gian bỗng tự nhiên ra khác, chuyện
tam tòng là chuyện quá “đát” từ lâu, xưa rồi Diễm ơi!
Thực vậy, trong tương quan với cha mẹ :
con cái bây giờ thuộc vào thế hệ vi tính, nên cha mẹ khó mà
dạy bảo. Nếu có răn đe điều gì, thì liền bị chúng kê tủ
đứng :
- Mấy ông mấy bà…già rồi, rõ thật lẩm
cẩm, thời bây giờ mà còn như vậy ư ?
Và cha mẹ cũng đành phải bó tay. Chẳng
hạn như việc hôn nhân : Ngày xưa thì cha mẹ đặt đâu con
ngồi đấy, còn bây giờ thì con cái đặt đâu thì cha mẹ xin vui
lòng…ngồi đấy. Chẳng hạn việc giao tiếp : Ngày xưa thì nam
nữ thọ thọ bất thân, còn bây giờ thì nam nữ thọ thọ…rất
thân, để rồi đi tới chỗ nam nữ cọ cọ rất ư là….giật gân.
Trong tương quan vợ chồng : đờn bà con
gái bây giờ đang lăm le nhảy vào lãnh vực xã hội, thành thử
gã phải đổi lại câu thơ của Tú Xương. Thay vì :
- Việc nhà phó mặc cho bu nó.
Thì bây giờ sẽ phải là :
- Việc nhà phó mặc cho bố nó.
Và theo định luật về thị trường, anh
nào có tiền, thì anh ấy sẽ nắm quyền. Chữ tiền liền với chữ
quyền một vần. Khi chị vợ đã làm ra tiền, nắm hào bao và
quyết định ngân sách, thì sẽ chi phối mọi sinh hoạt trong
gia đình. Lúc bấy giờ, sẽ có một cuộc thay ngôi đổi chủ. Anh
chồng chỉ còn nước âm thầm vào bếp, như chó cụp đưôi, làm
bạn với nồi niêu xoong chảo, chổi cùn rế rách mà thôi.
Một khi tam tòng của Nho giáo đã bị xếp
vào ngăn kéo dĩ vãng vì quá “đát’ và xưa rồi Diễm ơi, thì
cũng theo như lời diễn tả trên, đờn bà con gái bây giờ lại
chăm chăm chú chú mà lo cho cái khoản “tam vòng”, tức là ba
cái vòng trên cơ thể mình.
Viết đến đây, gã bỗng nảy ra một “théc
méc”, đó là không biết từ bao giờ cái ông khỉ gió nào đó đã
có sáng kiến công bố cho bàn dân thiên hạ được biết số đo ba
vòng của những thí sinh trong các cuộc thi hoa hậu. Coi đó
như một trong những chuẩn mực để phán xét về sắc đẹp, khiến
cho cánh đờn bà con gái phải lao đao vất vả, xấc bấc xang
bang, tốn phí không biết biết bao nhiêu tiền bạc và công
sức, để cái thì được phình ra, còn cái thì được tóp lại,
theo đúng tiêu chuẩn quốc tế ISO, cũng chỉ vì muốn làm người
đẹp mà thôi.
Vòng số một, tức là vòng ngực. Thực
vậy, Thượng đế trao ban cho cánh đờn bà con gái bộ ngực là
để cung cấp sữa mà nuôi con, như các cụ ngày xưa đã bảo :
- Đờn ông không râu bất nghì,
Đờn bà không vú, lấy gì nuôi con.
Bộ râu làm nên nét oai phong của người
đờn ông thế nào, thì bộ ngực cũng làm nên vẻ quyến rủ của
người đờn bà như vậy. Vì thế, ngày nay nhiều bà nhiều cô đã
phe lờ cái nhiệm vụ cung cấp sữa để nuôi con, mà chỉ chuyên
trị làm đẹp cho bộ ngực của mình.
Thực vậy, mặc dù các bác sĩ và các nhà
chuyên môn luôn quảng bá sữa mẹ là một thức ăn không thể
thiếu cho con trẻ, nào là đề kháng được nhiều chứng bệnh,
nào là có đủ chất dinh dưỡng…Thế nhưng, chỉ vì không muốn
cho bộ ngực của mình bị xệ xuống, nên không thiếu những bà
mẹ chả chịu cho con bú, cứ việc ra ngoài chợ, lôi về đủ mọi
thứ sữa, từ sữa tươi cho đến sữa đặc có đường, từ sữa bột
cho đến sữa hộp, từ sữa cô gái Hà Lan đến sữa ông già, từ
sữa có nhãn hiệu trình tòa đến những loại sữa chui và trôi
nổi…thôi thì thiên hình vạn trạng, đến quỷ thần cũng chẳng
đếm nổi trên thị trường hiện nay có bao nhiêu thứ sữa. Có
những người đã bị đi tàu suốt về chầu Diêm Vương, chỉ vì ham
rẻ mà dùng những loại sữa chui và trôi nổi ấy.
Vì vòng số một là nơi cần phải làm
phình ra, nên khoa giải phẫu thẩm mỹ đã nhảy vào vòng chiến,
cứu một bàn thua trông thấy cho những bà những cô chẳng may
có bộ ngực lép xẹp. Người ta mổ ngang, xẻ dọc rồi đặt vào
trong đó chất “silicone”, làm cho bộ ngực phình to ra bao
nhiêu cũng được. Miễn là đạt mục đích, sau này lỡ có bị ung
thư, thì cũng…hạ hồi phân giải.
Nếu ngại giải phẫu, người ta có thể nhờ
trang phục trợ giúp, nào là những chiếc yếm hững hờ, nào là
những chiếc nịt ngực, những chiếc “cọc xê” được độn được lót
cách này hay cách khác để che lấp cái kích thước bé tẻo bé
teo của bộ ngực mình.
Tiếp đến, vòng số ba tức là vòng mông.
Đây cũng là nơi cần phải làm cho phình ra như vòng số một,
nên gã xin miễn bàn tới để được tiếp nối ngay bằng vòng số
hai tức là vòng eo.
Với cơn bệnh béo phì ngày càng liên tục
phát triển, thì vòng eo đã trở nên một nỗi ám ảnh cho nhiều
người. Báo Le Monde số 2884 cho hay : Trung tâm dự phòng
bệnh tật Mỹ cảnh báo bệnh béo phí sắp dành ngôi vị giết
người hàng đầu, vượt qua thuốc lá. Mỹ ước tính có 130 triệu
có thể trọng vượt mức, trong đó có 59 triệu béo phì. Trung
Quốc hiện có 300 triệu người quá mập, trong đó có 30 triệu
bép phì. Khi vòng eo tăng trưởng vượt vòng ngực và vòng
mông, thì nguy cơ bị tiểu đường và tim mạch cũng gia tăng.
Vòng eo nam giới vượt quá 1,00m và nữ giới vượt quá 0,80m là
dấu hiệu béo phì, cũng như là dấu chỉ phát tướng vòng eo.
(CGVDT số 1449).
Trái với vòng số một và vòng số ba là
những nơi cần phải làm cho phình ra, thì vòng số hai lại là
địa điểm cần phải làm cho tóp lại. Lý tưởng của vòng số hai
chính là cái eo của con ong. Thế nhưng, đối với nhiều bà
nhiều cô, nó lại cứ phình ra mới chết không cơ chứ. Lý do
phình ra như thế, có thể do chứng béo phì và cũng có thể
do…trục trặc kỹ thuật ngoài ý muốn.
Trước hết, để thực hiện cái lý tưởng
“eo con ong”, cũng như để chống lại tình trạng phát tướng do
sự béo phì gây nên, người ta đã phải dùng tới nhiều biện
pháp. Nào là tập thể dục như đi bộ, đi xe đạp, hay bơi lội
mỗi ngày, nghĩa là thân thể phải vận động. Nào là kiêng ăn
kiêng uống, áp dụng một chế độ ẩm thực vô cùng nghiêm khắc.
Những biện pháp này đòi hỏi phải kiên nhẫn nhiều lắm, bằng
không thì chỗ cần phình thì lại tóp, còn chỗ cần tóp thì lại
phình. Thật là tréo cẳng ngỗng.
Ngoài ra, người ta cũng có thể nhờ
trang phục trợ giúp phần nào. Nếu gã không lầm thì “mô đen”
áo dài Việt Nam vào thập niên sáu mươi : cổ phải cao có khi
hơn một tấc, eo phải thắt ngẫng như eo con ong. Vì thế,
người ta đã khéo léo luồn vào phía trong áo một sợi dây nhỏ
cùng màu và sau khi mặc, người ta sẽ thắt chặt sợi dây ấy để
tạo nên một cái eo rất là….ấn tượng, trên cả tuyệt vời.
Tiếp đến, có những trường hợp vòng số
hai bỗng dưng phình ra, một cách bất đắc dĩ và ngoài ý muốn,
hoàn toàn không phải do chứng béo phì, nhưng do một trục
trặc kỹ thuật nào đó. Chẳng hạn như cái tật ăn cơm trước
kẻng, anh chị vụng trộm với nhau hay thử cho biết vị ngọt
đắng của tình yêu, để rồi một buổi sáng bỗng thấy vòng eo
phình ra và những ngày sau đó lại liên tục phình ra một cách
vô tổ chức, vượt ngoài chỉ tiêu. Lúc ấy chỉ còn biết mếu máo
và khóc lên, như người ta hay phịa ra mà hát :
- Anh ơi, nếu bụng em…phình thì sao ?
Nhưng đừng dại đột :
- Đi mua thuốc chuột uống cho rồi
đời!!!
Bởi đó, đừng “khôn ba năm dại một giờ”,
vì vui sướng của tình yêu có thể chỉ kéo dài trong thoáng
chốc, nhưng khổ đau của nó sẽ kéo dài bằng cả cuộc đời :
- Đờn ông bụng…bự thì sang,
Đờn bà bụng…bự tan hoang cuộc đời.
Chỉ có ba cái vòng, mà sao lại nhiêu
khê rắc rối quá vậy. Gã cũng đành bó tay chào thua.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|