Hiến
Chế Tín Lý Về Giáo Hội Lumen Gentium |
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Tín Lý
Về Giáo Hội
Lumen Gentium
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Trích Văn
Kiện Công Ðồng Chung Vaticanô II
Thông Tri
Do vị
Tổng Thư Ký của Thánh Công Ðồng trong phiên họp khoáng đại
lần thứ 123 ngày 16-11-1964.
Có người
thắc mắc về phẩm tính thần học của giáo thuyết được trình
bày trong Lược Ðồ về Giáo Hội và sẽ được đem ra đầu phiếu.
Ủy ban lo
về giáo thuyết, khi xét đến những "Ðề Nghị Tu Chỉnh" về
chương III Lược Ðồ về Giáo Hội, đã trả lời rằng:
"Dĩ nhiên,
phải luôn luôn giải thích văn kiện Công Ðồng theo những qui
tắc chung mà mọi người đều biết".
Nhân dịp
này, Ủy Ban Giáo Thuyết đã nhắc lại bản Tuyên Ngôn của mình,
ngày 6-3-1964; chúng tôi xin trích lại bản văn đó:
"Xét theo
tập tục Công Ðồng và chủ đích mục vụ của Công Ðồng hiện tại,
Thánh Công Ðồng nầy xác định rằng Giáo Hội chỉ phải tuân giữ
những điều có liên quan đến đức tin và phong hóa được chính
Thánh Công Ðồng tuyên bố là như vậy".
"Còn những
điểm khác được Thánh Công Ðồng trình bày, vì là giáo thuyết
của quyền Giáo Huấn Tối Thượng của Giáo Hội, nên tất cả và
mỗi một Kitô hữu phải chấp nhận và hiểu theo ý của chính
Thánh Công Ðồng, dựa trên những tiêu chuẩn của phương pháp
giải thích thần học: ý Công Ðồng tỏ lộ qua nội dung được
trình bày hoặc qua cách diễn tả của Công Ðồng".
Và đây là
một chú thích sơ khởi, mà Thượng Quyền gửi đến các Nghị Phụ
đối với "những Ðề Nghị Tu Chỉnh" liên quan đến chương III
của Lược Ðồ về Giáo Hội; giáo thuyết được trình bày trong
chương III này phải được giải thích và hiểu theo tinh thần
và thể thức của chú thích này.
Chú Thích Sơ Khởi
"Trước khi
xét những "Ðề Nghị Tu Chỉnh", Ủy Ban quyết định trình bày
những nhận xét tổng quát sau đây:
1. Cộng Ðoàn (collegium)
không hiểu theo nghĩa thuần túy pháp lý, nghĩa là một nhóm
người bình đẳng, mà quyền hạn họ đã trao phó cho một vị chủ
tịch; nhưng phải hiểu là một nhóm người có tính cách vững
bền mà cơ cấu tổ chức và quyền hành phải được rút ra từ Mạc
Khải. Cho nên, khi trả lời "Ðề Nghị Tu Chỉnh" số 12, chúng
tôi đã nói rõ rằng: Mười Hai Tông Ðồ đã được Chúa thành lập
theo thể thức "một cộng đoàn hay một nhóm người có tính cách
vững bền" : Cũng xem Ðề Nghị Tu Chỉnh số 53, c. - Cũng vì
vậy, chữ "Hàng" (hàng Giám Mục: ordo) hay "Ðoàn" (corpus)
cùng được dùng đây đó để chỉ "Cộng Ðoàn Giám Mục". Sự đối
chiếu: một bên là Phêrô với các Tông Ðồ khác, một bên là Ðức
Giáo Hoàng với các Giám Mục, không có nghĩa là quyền đặc
biệt của các Tông Ðồ đã được truyền lại cho các người kế vị
và, dĩ nhiên, cũng không có nghĩa là giữa vị Thủ Lãnh và các
phần tử của cộng đoàn có sự bình đẳng; nhưng chỉ muốn xác
định một sự tương xứng giữa tương quan thứ nhất (Phêrô -
Tông Ðồ) và tương quan thứ hai (Ðức Giáo Hoàng - Các Giám
Mục). Vì thế trong số 22, Ủy Ban đã quyết định không dùng
chữ "cũng vậy", nhưng dùng chữ "tương tự như thế". Xem Ðề
Nghị Tu Chỉnh 57.
2. Người được phong chức
giám mục và hiệp thông phẩm trật với Thủ Lãnh và với các
phần tử trong Cộng Ðoàn thì trở thành phần tử của Giám Mục
Ðoàn. Xem số 22, 1 phần cuối.
Trong việc
tấn phong, có sự tham dự hữu thể vào các nhiệm vụ thánh, như
Truyền Thống và cả tập truyền phụng vụ đã chứng tỏ hiển
nhiên. Sau khi thảo luận, Ủy Ban dùng danh từ "nhiệm vụ"
(munus) chứ không dùng danh từ "quyền hành" (potestas), vì
"quyền hành" có thể hiểu là một quyền hành sẵn sàng để xử
dụng. Thật ra, để có một quyền hành như thế thì cần phải có
thêm sự chỉ định theo giáo luật hoặc pháp lý của quyền bính
phẩm trật. Sự chỉ định này có thể là việc bổ nhiệm vào một
chức vụ đặc biệt hay việc ủy thác trông coi một số người và
theo những qui luật đã được quyền tối thượng chấp thuận. Do
bản chất của sự việc, cần phải có qui luật cuối cùng như
thế, bởi vì đó là những nhiệm vụ phải được thực hành do
nhiều phụ tá cộng tác theo phẩm trật do ý muốn của Chúa
Kitô. Hiển nhiên là trước khi viết thành bộ luật, thì sự
"hiệp thông" ấy đã được áp dụng trong đời sống Giáo Hội tùy
theo hoàn cảnh của các thời đại.
Chính vì
thế mà Ủy Ban minh nhiên nói rằng: cần phải có sự hiệp thông
phẩm trật với Thủ Lãnh và với các phần tử của Giáo Hội. Hiệp
thông, một ý niệm rất được Giáo Hội thời xưa (cũng như thời
nay, nhất là Giáo Hội Ðông Phương) đề cao. Ðó không phải là
tâm tình mơ hồ, nhưng là một thực thể hữu cơ. Nó đòi hỏi một
hình thức pháp lý, đồng thời được linh động nhờ đức ái. Do
đó, sau khi được sự đồng ý của hầu hết mọi người, Ủy Ban
quyết định viết như sau: "trong sự hiệp thông phẩm trật".
Xem Ðề Nghị Tu Chỉnh số 40, và những chỗ đề cập đến chức vụ
bổ nhiệm theo giáo luật, số 24.
Những văn
kiện gần đây của các Ðức Giáo Hoàng về quyền tài thẩm của
các Giám Mục phải được giải thích theo sự hạn định cần thiết
về những quyền hành ấy.
3. Cộng Ðoàn, không thể
có Cộng Ðoàn nếu không có Thủ Lãnh, "cũng là chủ thể có
quyền bính trọn vẹn và tối cao trên toàn thể Giáo Hội". Cần
phải chấp nhận điều đó để quyền bính trọn vẹn của Ðức Giáo
Hoàng Roma khỏi bị vi phạm. Nói đến Cộng Ðoàn (Giám Mục),
bao giờ người ta cũng phải hiểu là gồm có Thủ Lãnh; và trong
Cộng Ðoàn, Thủ Lãnh vẫn nắm giữ nguyên vẹn nhiệm vụ Ðấng Ðại
Diện Chúa Kitô và Chủ Chăn của Giáo Hội phổ quát. Nói cách
khác, sự phân biệt không phải là giữa Ðức Giáo Hoàng Roma và
các Giám Mục hiệp lại, nhưng là giữa cá nhân Ðức Giáo Hoàng
Roma và Ðức Giáo Hoàng Roma cùng với các Giám Mục. Vì Ðức
Giáo Hoàng là Thủ Lãnh của Cộng Ðoàn nên chính ngài một mình
có quyền hành động trong một vài việc mà các Giám Mục không
có thẩm quyền: ví dụ triệu tập và điều khiển Cộng Ðoàn Giám
Mục, phê chuẩn các quy luật hành động, v. v... Xem Ðề Nghị
Tu Chỉnh số 81. Ðức Giáo Hoàng, vì được trao phó nhiệm vụ
chăn dắt toàn thể đoàn chiên Chúa Kitô, nên tùy theo nhu cầu
của Giáo Hội biến chuyển theo các thời đại, ngài giữ quyền
phán định cách thế thích hợp để thể hiện nhiệm vụ chăn dắt
trên, hoặc cách cá nhân hoặc cách cộng đoàn. Vì lợi ích của
Giáo Hội, Ðức Giáo Hoàng Roma hành động theo sự khôn ngoan
của ngài để hướng dẫn, phát huy, phê chuẩn sự thực thi quyền
cộng đoàn.
4. Là Ðấng Chăn Dắt Tối
Cao của Giáo Hội, Ðức Giáo Hoàng có thể tùy ý thi hành quyền
bính của Ngài bất cứ lúc nào, theo sự đòi hỏi của nhiệm vụ
Ngài. Còn Cộng Ðoàn, tuy vẫn tồn tại luôn, nhưng không vì
thế mà lúc nào cũng hành động với tính cách thuần túy cộng
đoàn, như Thánh Truyền Giáo Hội xác nhận. Nói cách khác,
không phải bao giờ Cộng Ðoàn cũng hành động "trong hiện thể
trọn vẹn", nhưng chỉ thỉnh thoảng mới hành động một cách
thuần túy cộng đoàn, và khi đó chỉ vì Thủ Lãnh ưng thuận.
Nói "Thủ Lãnh ưng thuận" để khỏi nghĩ đến sự tùy thuộc như
tùy thuộc vào một người ngoại cuộc. Trái lại, từ ngữ "ưng
thuận" nói lên sự hiệp thông giữa Thủ Lãnh với các phần tử,
đồng thời giả thiết sự cần thiết của một hành vi thuộc riêng
vị Thủ Lãnh. Ðiểm này được minh nhiên xác định trong số 22,
2 và được giải thích ở phần cuối số ấy. Cách nói "chỉ vì"
bao gồm tất cả mọi trường hợp: do đó dĩ nhiên là phải tuân
theo các qui luật được giáo quyền tối thượng chấp thuận. Xem
Ðề Nghị Tu Chỉnh số 84.
Trong tất
cả các điểm trên, chúng ta thấy rõ vấn đề là ở chỗ các Giám
Mục hiệp nhất với Thủ Lãnh của mình và không bao giờ hành
động cách độc lập đối với Giáo Hoàng. Trong trường hợp sau
này, khi không có hành động của Thủ Lãnh, các Giám Mục không
thể hành động như một Cộng Ðoàn được, như ý niệm "Cộng Ðoàn"
cho thấy. Thánh Truyền luôn minh chứng có sự hiệp thông phẩm
trật giữa tất cả các Giám Mục với Ðức Giáo Hoàng.
Chú Ý: Nếu
không có hiệp thông phẩm trật, thì các Giám Mục không thể
thi hành nhiệm vụ thực thể lãnh nhận do Bí Tích. Nhiệm vụ đó
phải được phân biệt với khía cạnh giáo luật - pháp lý. Nhưng
Ủy Ban nghĩ là không cần phải bàn đến các vấn đề hợp pháp và
thành sự, và để lại cho các nhà thần học thảo luận, cách
riêng trong những gì liên can tới việc thi hành quyền bính
hiện có nơi anh em ly khai Ðông Phương. Về điểm này, có
nhiều giải thích khác nhau.
Pericles Felici
Tổng
Giám Mục hiệu tòa Samosate
Tổng Thư
Ký Thánh Công Ðồng Vaticanô II
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CÓ NHỮNG NGƯỜI
NGHÈO KHÔNG BIẾT TẾT |
Đất nước Việt Nam đang chuẩn bị đón
mừng một năm mới âm lịch bằng Tết cổ truyền. Với truyền
thống tự ngàn đời, cái Tết với người Việt Nam dù ở đâu cũng
có những điều thiêng liêng sâu sắc, cũng nhiều ý nghĩa lớn
lao cho tất cả mọi người với một năm mới mang lời nguyện cầu
luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và nhiều thành công mới, cuộc sống
được an bình, ấm no. Tết cũng là một dịp để con cháu nhớ đến
gia đình, tổ tiên, anh em, bè bạn gặp nhau qua những chén
rượu mừng sau một năm dài vất vả lao động.
Vì vậy, cái Tết đối với mỗi con người,
mỗi gia đình đều được chuẩn bị rất công phu và háo hức. Khắp
cõi Việt Nam những ngày này, từ đô thị đến những vùng nông
thôn hẻo lánh xa xôi, nơi nơi chuẩn bị những điều cần thiết
về vật chất và tinh thần cho những ngày Tết đến, xuân về
được ấm no, hoàn hảo. Những ngày này, giá cả tăng lên vùn
vụt, lương thực, thực phẩm và mọi thứ tăng cao theo quy luật
cung – cầu.
Nơi nơi, mọi người tất bật, các quan
chức đua nhau chúc tết quan lớn, nhân viên chúc tết quan
trên… với đầy đủ các thứ của ngon, vật lạ, rượu ngoại và
đola. Nhà nước cũng tất bật cho việc chuẩn bị các cuộc vui,
các buổi chúc tụng, pháo hoa…
Nhưng, “có những người nghèo không
biết Tết”. Câu thơ của Nguyễn Bính năm nào, tưởng như chỉ có
trong thời quá khứ, trong những năm tháng chìm dưới ách
thống trị của chế độ phong kiến thối nát và bóc lột. Nhưng
không, vẫn hiển hiện nhiều nơi trên đất nước này, khi cả đất
nước đã hội nhập với thế giới, khi cả đất nước đang phát
triển với mức độ tăng trưởng được thán phục và ca ngợi.
Chiều 29 tết, chúng tôi đến một vùng
quê, cách Thành phố Hà Tĩnh chỉ 30 Km. Xứ Thọ Vực – Giáo
phận Vinh, thuộc xã Hà Linh, huyện Hương Khê, Tỉnh Hà Tĩnh.
Xứ Thọ Vực, chỉ cách tỉnh lộ có 2 km.
Con đường dẫn vào đây, lép nhép đất đỏ dưới trời mưa phùn,
cây cầu treo mảnh mai đưa chúng tôi đến một vùng quê mà ngày
29 tết vẫn thấy lạnh lẽo một không khí ảm đạm, dù mưa xuân
đã lất phất bay.
Đón chúng tôi tại nhà xứ, Linh mục
quản xứ Phao lô Nguyễn Văn Cừ đã 65 tuổi. Ngài là người
chúng tôi có khá nhiều kỷ niệm, những thăng trầm thay đổi
trong cuộc đời Ngài quả là nhiều điều đáng nói. Nhưng thôi,
chúng ta sẽ trở lại câu chuyện về cuộc đời Ngài trong một
dịp khác.
Dáng vẻ của Ngài khi gặp lại làm chúng
tôi ngạc nhiên, mới vài năm Ngài đã thay đổi quá nhiều về
sức khỏe. Từ một linh mục nhanh nhẹn, hoạt bát hay nói hay
cười với cách khôi hài vốn có, nay khuôn mặt như phù thũng,
dáng đi nặng nề khi tiếp khách đã làm cho chúng tôi có nhiều
câu hỏi mà khi được giải đáp, chúng tôi không khỏi ngạc
nhiên.
Xã Hà Linh, thuộc Huyện Hương Khê có 2
xứ đạo là Xứ Thọ Vực và xứ Vạn Căn. Linh mục Phao lô Nguyễn
Văn Cừ được điều về đây quản nhiệm đến nay được 1 năm 2
tháng. Riêng xứ Thọ vực, với 900 nhân danh, giáo dân chủ yếu
làm nghề làm ruộng.
Cuộc sống người dân ở đây đang nghèo
khổ dưới mức tưởng tượng của một giáo dân chúng tôi, dù
chúng tôi cũng chỉ là những giáo dân ở trong nước, ở một
vùng nông thôn không được coi là khấm khá gì. Nhưng những gì
đang xảy ra ở nơi đây, quả là khó ai có thể tưởng tượng được
nếu không đến đó.
Nhân dân ở đây, chủ yếu là làm nông
nghiệp, nhưng vùng đất nông nghiệp này, càng làm càng lỗ
vốn. Cả xã không một trạm bơm tưới tiêu, làm ruộng theo kiểu
nhờ trời. Nếu bị hạn hán, bão lụt, thì cả làng nhịn đói.
Điện thì khi có khi không, khi chúng tôi đến, khoảng 4-5 giờ
chiều, trời âm u mưa, nhưng đèn điện như những con đom đóm
le lói. Đã vậy, hệ thống điện qua tay chủ thầu, nên giá điện
khi ở thành phố giá điện là 700 đồng/kw, thì ở đây người dân
phải trả đến 1800 đồng/kw. Đường đi là đường núi, trơn tuột
và ngoằn nghèo, nhỏ nhoi chạy qua các bờ ruộng, việc đi lại
là một sự khó khăn. Việc học hành của con em ở đây, đương
nhiên là bị ảnh hưởng to lớn. Hàng loạt trẻ em không được
đến trường và phải đi bán sức lao động làm kể hầu người hạ ở
các thành phố, đến nay con số đã đến khoảng 200 người.
Từ khi được chuyển về đây, với một
linh mục đã 65 tuổi, đã qua những thời gian tù đày trong nhà
tù cộng sản, (Linh mục Cừ sau khi đi tù về đã chờ đợi việc
mở lại trường và mới được thu phong năm 1999 – khi đã 56
tuổi) nay bệnh tật đầy mình, đó quả là một gánh nặng. Nhất
là việc mục vụ ở những họ cách nhà xứ chính đến 5 km đường
đi bộ như họ Trại Trăn, đã thực sự là một điều khó khăn với
sức khỏe của Ngài. Nhưng ở đó, đã 40 năm nay không có linh
mục quản lý, đời sống giáo dân như bị lãng quên, có những
đôi vợ chồng lấy nhau đã 30 năm, con cái đã lớn tuổi trưởng
thành xây dựng gia đình mà cha mẹ vẫn chưa làm phép hôn
phối. Vì vậy Ngài vẫn phải cố gắng đến với họ.
Nhưng ngôi nhà thờ họ đã bị trận lụt
vừa qua cuốn trôi đi mất “may mà không vỡ viên ngói nào –
Ngài hài hước nói – Vì nhà thờ bằng tranh tre”. Nay giáo dân
không thể có nơi mà làm lễ cho họ, để họ lội đường rừng 4-5
km hàng ngày thì không đành.
Gánh nặng mục vụ, gánh nặng tuổi tác
và sức khỏe đã vượt quá sức Ngài. Nhưng gánh nặng nhất của
Ngài, lại chính là đời sống nhân dân quá cực khổ của người
dân luôn là nỗi day dứt và canh cánh bên lòng mà Ngài bất
lực.
Không chỉ đời sống giáo dân, mà ngay
cả linh mục cũng trong cơn túng bấn. Những buổi lễ, bổng lễ
là một gói mỳ tôm, vài ba ngàn đồng, những cuộc lễ, tiền
“xin cơi” được khoảng 4500 đồng (0.4$) bằng nửa que kem loại
thường cho tất cả các khoản, tiền cha xứ, tiền đèn nến… Cả
nhà xứ chỉ có mình cha xứ, không nuôi chú nào theo ở, không
bõ già nào trông coi, cơm nước. Tiếp chúng tôi, Ngài đang
chuẩn bị dùng bữa chiều là một miếng bánh chưng buổi sáng đã
dùng một nửa, còn một nửa dành cho buổi chiều.
Cả nhà xứ khi Ngài về đây, không điện
thoại, không nhà vệ sinh, không có những thứ tiện nghi tối
thiểu cho cuộc sống mục vụ. Bằng những cố gắng của mình,
Ngài đã dựng được một ngôi nhà để làm nơi học cho giáo dân.
Lắp được chiếc điện thoại đã là một cố gắng vượt mức.
Trên diễn đàn Quốc Hội, khi bộ trưởng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát nói rằng:
Có nhiều vùng, người dân chỉ đến ngày Lễ, ngày tết mới có
được bữa cơm no, tôi chỉ nghe mà không thấy tin. Nhưng đến
đây, thì điều đó là chuyện phổ biến.
Linh mục Cừ kể: Khi làm ngôi nhà học
này, một số giáo dân tham gia, nửa buổi sáng, sợ họ đói Ngài
đưa cho mỗi người một gói mỳ tôm để ăn lót dạ, nhưng không
thấy ai ăn. Đến khi trở lại, hỏi họ thì mới biết, họ để dành
đề đưa về nhà, kiếm thêm nắm rau dại và nấu lên cho cả nhà
cùng có cái ăn bữa trưa. Thật quá sức tưởng tượng, khi Việt
Nam là một nước nông nghiệp xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế
giới.
Ngồi nghe kể chuyện về những khó khăn
nơi này, chúng tôi hiểu và hết ngạc nhiên khi sức khỏe Ngài
chỉ vài năm đã xuống dốc nhanh chóng đến thế.
Cơn bão vừa qua dấu tích còn để lại
trên các bức tường nhà xứ bằng những vệt đen ngang mép trên
cửa đi, mà nhà xứ đã được xây dựng trên khu đất khá cao ráo,
chúng tôi thấy được những gì khốc liệt của một cơn giận giữ
của thiên nhiên đã trút xuống nơi đây
Toàn bộ khu vực là một vùng trắng nước
mênh mông. Khi Linh mục Cừ, Linh mục Tuấn chống xuồng đi cứu
dân, là đi qua những nóc nhà, những bụi cây mà bây giờ Ngài
chỉ, chúng tôi mới giật mình vì không thể tượng tưởng nổi là
đã có lúc, nước đến mức đó.
Hậu quả cơn bão, đã được báo chí nói
đến nhiều, các bản tin trong nước và trên thế giới đã nhắc
đến cơn đại hồng thủy này. Hậu quả của nó đến nay vẫn hiển
hiện và đang hoành hành dữ dội cuộc sống người dân nơi đây.
Khi được hỏi về đời sống người dân sau
lũ thế nào? Ngài trả lời, hai tháng nay, nhân dân sống bằng
nhiều cách, bằng những thứ rau cỏ có thể ăn được và một ít
gạo, mỳ tôm cứu trợ. Hôm qua, nhà xứ đã đi nhận gạo cứu trợ,
có hai nhân khẩu, được 5 kg gạo nên Tết đã có gạo ăn.
Sau lụt, Ban Tình thương Giáo phận đã
có nhiều cố gắng vận động giúp đỡ, nhưng cũng chỉ có hạn mà
thôi, trong khi, sự đói rách của người dân nơi đây, khu vực
này quả là cùng cực và lớn lao. Những quần áo cũ, những
thùng mỳ tôm đến với giáo dân và lương dân nơi đây, là những
món quà hết sức quý báu trong những ngày này.
Những gì chúng tôi thấy tận mắt nơi
đây, bỗng làm cho chúng tôi liên tưởng đến những cuộc liên
hoan, chè chén tiền triệu ở các quán xá khi các cán bộ tiếp
khách. Những buổi chè chén dồn nhau nốc rượu tây cho đến ói
mửa, đến say không còn biết đường về. Những cuộc họp hành
liên miên tổn hao biết bao tiền của, công sức và thời gian
của hàng hà sa số các cơ quan, đoàn thể mọi ngành, mọi cấp.
Những cuộc đại lễ hoành tránh mà tiền chi vào đó không thể
tính bằng con số tỷ đồng. Những quảng trường rộng lớn hàng
chục hecta đất đai, điện sáng rực suốt ngày đêm và bảo vệ ăn
lương túc trực đầy đủ nhưng chỉ thỉnh thoảng mới được sử
dụng vào những cuộc lễ tốn kém.
Tất cả những điều đã nói trên, quả là
một Thiên đường và một Địa ngục trên trần gian.
Viết những dòng này, khi mà ngày cuối
cùng của một năm âm lịch chỉ còn không đầy 24 tiếng. Giờ
khắc giao thừa đón mùa xuân đang đến gần.
Sang một năm mới, với lời cầu chúc
nhiều sức khỏe, an khang, thành đạt, cuộc sống tràn đầy Hồng
ân Thiên Chúa với mọi người. Tôi cũng cầu mong nơi đây, lòng
nhân ái cao cả của tất cả những ai có thể, được mở rộng đến
với những người dân nơi đây, ngõ hầu giúp họ trong cơn khốn
khó hiện nay như lời Chúa đã dạy “khi ta đói, các
ngươi đã cho ăn” và “Các con hãy thương yêu
nhau, như Thầy đã yêu thương các con”.
Xin hãy đến với họ bằng những hành
động thiết thực nhất của người tín hữu Ki tô dành cho những
tha nhân đau khổ.
Ghi chú:
Quý vị có thể kiểm chứng thông
tin, hoặc liên hệ giúp đỡ qua địa chỉ:
Linh mục: Phaolo Nguyễn Văn Cừ
Xứ Thọ Vực – xã Hà Linh – Huyện Hương
Khê – Hà Tĩnh
Tel: 84- 39. 874894
Hoặc Linh mục Phê rô Nguyễn Văn
Vinh
Trưởng ban Tình thương Giáo phận Vinh
Hạt Văn Hạnh – xã Thạch Trung – Thành
phố Hà Tĩnh – Tỉnh Hà Tĩnh.
Tel: 84- 39.858708
Hà Tĩnh, Ngày cuối năm âm lịch Đinh
Hợi.
·
J.B. Nguyễn Hữu Vinh |
VỀ MỤC LỤC |
Cùng
học hỏi về Học Thuyết Xã Hội Công Giáo |
6. Giáo hội có
phải là một thực thể tách rời không liên hệ đến xã hội
không?
Thưa không, Giáo hội sống trong thế
giới và là thành phần của thế giới nên Giáo hội có trách
nhiệm liên đới với thế giới. Giáo hội chia sẻ mọi ưu tư, vui
mừng và hy vọng với thế giới. Âu lo của thế giới cũng là âu
lo của Gíao hội; vui mừng của thế giới cũng là vui mừng của
Giáo hội.
7. HTXHCG có phải
là “thuyết thứ ba” giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội
không?
HTXHCG không phải là “thuyết thứ ba”
giữa Chủ nghĩa Tư bản và Chủ nghĩa Xã hội và cũng không phải
là một ý thức hệ. Nhưng HTXHCG, dựa vào Truyền thống và Đức
tin, là kết quả từ những suy tư cẩn trọng về những vấn nạn
của thế giới con người. Dưới ánh sáng Tin Mừng, HTXHCG minh
giải những thực tại trong thế giới nhằm giúp con người cư xử
với nhau theo giá trị vĩnh cửu. Vì thế, HTXHCG không phải là
một ý thức hệ, nhưng là một nền thần học luân lý cho mọi
người.
8. Rao giảng Tin
Mừng có phải là nhiệm vụ bắt buộc của Giáo hội không?
Giáo hội lãnh nhận sứ mạng rao giảng
Tin Mừng từ Chúa Giêsu. Đây là nhiệm vụ bắt buộc và là sứ
mạng không thể thoái thác. Đến lượt chúng ta là Kitô hữu,
chúng ta cũng được sai đi, vì thế chúng ta phải thực hiện sứ
mạng này một cách nghiêm túc và trách nhiệm.
9. Rao giảng Tin
Mừng trong thời đại mới có bao hàm rao giảng về HTXHCG
không?
ĐGH Joan Phaolô II trong thông điệp
Centesimus Annus số 5 đã minh bạch: “Tôi đã nhiều lần
nhấn mạnh rằng, việc rao giảng Tin Mừng trong thời đại mới
phải rao giảng những điểm quan trọng của Học thuyết Xã hội
của Giáo hội…chúng ta cần phải lập lại rằng những vấn đề xã
hội không thể giải quyết ngoài bối cảnh Tin Mừng được”. Vì
thế, khi thực hiện sứ mạng rao giảng Tin Mừng, Giáo hội
không ngần ngại rao giảng HTXHCG. Vì học thuyết này, không
nhằm mục đích nào khác hơn là hướng dẫn con người cư xử với
nhau dựa theo đức công bình. Hơn nữa, học thuyết này như là
nền tảng cho việc xây dựng sự hiệp nhất và hòa bình khi con
người không thể tránh gặp phải những vấn đề trong đời sống
xã hội và kinh tế. Khi thực hiện như thế, Giáo hội chu toàn
sứ mạng rao giảng Tin Mừng bằng cách rao giảng chân lý về
Đức Kitô, về con người, về Giáo hội và áp dụng chân lý ấy
vào những hoàn cảnh thực tế.
10. HTXHCG có vai
trò như thế nào trong thế giới ngày nay?
HTXH như là một phương tiện hữu hiệu để
Giáo hội thực hiện mục đích của mình: Rao giảng Tin Mừng cho
mọi dân tộc. Đứng trước những vấn nạn của xã hội hôm nay,
Giáo hội càng ý thức hơn và rao truyền rộng rãi hơn những
giáo huấn của mình. Giáo hội giới thiệu với thế giới những
nguyên tắc căn bản cho việc nhận định, quyết định và hướng
dẫn hành động trong xã hội. Điều này góp phần rất lớn trong
việc nhận thức vấn đề đúng đắn và tìm giải pháp phù hợp cho
những vấn nạn nảy sinh trong xã hội.
còn tiếp
Huynhquang |
VỀ MỤC LỤC |
|
HẠNH PHÚC VÀ ĐAU KHỔ |
Chúng ta vừa qua MÙA VỌNG, mùa chờ mong
Chúa đến. Chúa đã đến làm người ở với chúng ta. Bây giờ bắt
đầu MÙA CHAY. Chúa đến với chúng ta rồi chết vì chúng ta và
cho chúng ta để rồi sau ba ngày Chúa sống lại hiển vinh đem
chúng ta theo lên cùng với Chúa. Chúng ta đã được Chúa cứu
rỗi.
Trong MÙA CHAY chúng ta thử suy niệm về
Hạnh Phúc và Đau Khổ.
Đời người có lúc vui lúc buồn. Buồn vui
là tình cảm tự nhiên trong cuộc sống. Nhưng vui buồn thế nào
cho hợp ý Chúa ?
“Phúc cho ai sầu muộn,
“Vì họ sẽ được ‘hạnh phúc’ tràn
lan”. (Mt.5:5 / Tv 126: 5 / Is 61: 2-3)
Với quan niệm đó, hai tiếng Hạnh Phúc
có ý nghĩa gì? Trong Tin Mừng Tân Ước, danh từ Hạnh Phúc
được diễn nghĩa và áp dụng nhiều cách khác nhau tùy theo
thánh sử và nhu cầu của từng cộng đồng dân Chúa. Thánh
Gregory Cả khi nói về Hạnh Phúc trong kinh thánh, ngài coi
Hạnh Phúc là “Cum legentibus crescit” (1), nghĩa là Hạnh
Phúc sẽ triển nở, phát huy với những ai chịu khó học hỏi,
nghiên cứu kinh thánh và không ngừng khám phá ra những ý
nghĩa mới, phong phú và áp dụng vào cuộc sống, hoàn cảnh và
nhu cầu riêng của mình.
Ngày xưa cách cắt nghĩa của các thánh
sử đã được Chúa linh hứng, còn chúng ta ngày nay thì không
được như vậy. Do đó, chúng ta phải hiểu và cắt nghĩa Hạnh
Phúc tùy theo những hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống
thường nhật của chúng ta.
TƯƠNG QUAN GIỮA HẠNH
PHÚC VÀ ĐAU KHỔ
Trong bài này chúng ta đặt trọng
tâm vào Hạnh Phúc thứ ba trong Tám Mối Phúc Thật Chúa giảng
trên núi đã được thánh Mathew ghi lại, “Phúc cho ai sầu
khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5: 5). Trong
Tin Mừng thánh Luca thì chỉ nói đến bốn loại Hạnh Phúc được
bàn luận qua những nỗi buồn phiền sầu muộn và cười vui, như
“ Phúc cho anh em là những người đang phải than khóc, vì
anh em sẽ được vui cười…..Khốn cho các ngươi, những kẻ bây
giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc
than” (Luke 6: 21, 25).
Vui cười và khóc lóc là biểu hiệu tình
cảm của con người lúc sung sướng lúc buồn khổ. Xuyên suốt
Tin Mừng, chúng ta thấy không phải hễ sung sướng hay đau khổ
trong cuộc sống trần thế là bị họa hay được phúc, nhưng phải
được hiểu theo ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa. Lời Chúa qua
tin mừng thánh sử Luca / Mathew đã cho chúng ta một thông
điệp rõ ràng về cấu trúc của Hạnh Phúc. Đây là một cuộc cách
mạng của Tin Mừng đã chỉ cho chúng ta một ý nghĩa hoàn toàn
mới mẻ về Hạnh Phúc và Đau Khổ. Từ khởi điểm, về phương diện
tôn giáo cũng như trần thế, Hạnh Phúc và Đau Khổ là hai phạm
trù không thể ngăn cách nhau được trong cuộc sống của con
người. Chúng theo nhau như bóng với hình, nhịp nhàng lên
xuống nối tiếp nhau như sóng biển triền miên.
Ngày nay, người ta đang cố gắng ngăn
cách sóng thần nhị trùng Tsuname (dân địa phương còn gọi là
Siamese); cố công tách rời Hạnh Phúc ra khỏi Đau Khổ. Nhưng
vô vọng, họ đã thất bại. Chính cái hạnh phúc rối loạn và bất
toàn đó lại trở thành nỗi khổ đau quay ngược về với chính
mình, hoặc bất thần thảm khốc hoặc từ từ mỗi lúc một chút ít
đúng như bản tính mau qua và tính kích động ác liệt của nó
dưới muôn hình vạn trạng khác nhau như trong những bản tin
tức thời sự hàng ngày chúng ta đọc hoặc trong văn thơ thi
phú như Nguyễn công Trứ đã diễn tả trong bài thơ Chữ Tình
của ông:
“Sầu ai lấp cả
vòm trời,
“Biết chăng chẳng
biết hỡi người tình chung
…………………………………………….
“Trông chẳng nói
xiết bao nhiêu biệt lệ,
“Tình cảnh ấy dẫu
bút thần khôn vẽ…”
Hoặc chúng ta thường đôi khi thốt lên
những tiếng than não nề trước những cảnh huống khổ đau bất
ngờ ghê gớm.”Thiệt là đắng căy vô vàn..” cũng
như thi sĩ Lucretius thường thốt lên như vậy khi trái tim
rung động cảm kích trong nỗi vui mừng khoái cảm mơ hồ sướng
khổ. “A strange bitterness !!”.(2).
Kinh Thánh đã cho chúng ta một đáp số
về thảm cảnh của cuộc sống con người. Từ khởi thủy, con
người đã có tự do để lựa chọn giữa Hạnh Phúc và Đau khổ.
Hạnh phúc vô biên và vĩnh cửu chính là Thiên Chúa được biểu
hiện qua những hình ảnh sống động. Adam và Eva được tự do,
nhưng hai ông bà đã không chọn Chúa khi tự tay ngắt trái
cấm mà ăn. Từ đó phát sinh ra sự chết và đau khổ. Như vậy,
phải chăng Đau Khổ chính là hình bóng của Hạnh Phúc?
Chúa Kitô cuối cùng đã phá vỡ sợi dây
liên đới đó. “Để đổi lấy hạnh phúc vui mừng đang có trước
mặt, Chúa đã chọn Thánh Giá” (Hebrews 12: 2). Nói một cách
khác, Chúa Kitô đã làm ngược lại ông Adam và bà Eva và mỗi
người chúng ta như Maximus Confessor đã viết trong Capitoli
vari: “Cái chết của Chúa khác với cái chết của con người,
nó không phải là món nợ mà Chúa phải trả để có hạnh phúc mà
đúng ra là để tạo ra chính hạnh phúc đó”. Vì vậy, nhờ
cái chết của Chúa, số phận con người đã được thay đổi”
(3). Sống lại từ cõi chết Chúa đã cho chúng ta một loại Hạnh
Phúc mới. Hạnh phúc này không đi trước Đau Khổ như là căn
nguyên, nhưng nó theo sau như là hoa trái kết quả của khổ
đau.
Tất cả những điều này đã được biểu hiện
một cách kỳ diệu trong bài giảng tám mối phúc thật mà Chúa
đã ban cho chúng ta, trong đó cái thứ tự khóc trước cười sau
khác hẳn với cái thứ tự cười trước khóc sau. Đây không phải
là một đảo ngược đơn thuần và tạm bợ. Nhưng là một khác biệt
căn bản, cố định và vĩnh viễn mà Chúa Giêsu đã đề nghị cho
loài người. Đó là Hạnh Phúc, không phải Đau Khổ, Hạnh Phúc ở
đây là kết quả duy nhất và cuối cùng, sẽ kéo dài đến muôn
đời.
CHÚA CỦA ANH Ở
ĐÂU?
Nhưng chúng ta thử tìm hiểu xem ai là
người sầu muộn và than khóc, ai là người được Chúa chúc
phúc? Hầu hết các nhà chú giải kinh thánh hiện nay đều
không chấp nhận tư tưởng cho rằng chỉ có những người đau khổ
vì hoàn cảnh xã hội khách quan, những người được Chúa tuyên
dương chúc phúc đơn thuần chỉ vì họ đã đau khổ và khóc than.
Trái lại, yếu tố chủ quan, nghĩa là lý do khóc than mới là
yếu tố quyết định.
Vậy thì lý do đó là lý do gì? Cách
chắc chắn và tốt nhất để khám phá ra lý do tại sao khóc, ta
thử nhìn vào kinh thánh để xem những ai đã khóc và khóc cái
gì và tại sao cả Chúa Giêsu cũng đã khóc, từ đó chúng ta sẽ
dễ dàng nhận ra có những cái khóc vì “hối hận, ăn năn,
thống hối” như cái khóc của thánh Phêrô sau khi đã chối
Chúa ba lần. Cũng có những cái “khóc với người khóc”
(Romans 12: 15) vì lòng trắc ẩn cảm thông với nỗi niềm sầu
muộn của tha nhân, như Chúa Giêsu khóc cho người đàn bà góa
làng Nain và chị em ông Lazaro. Giống như vậy có những cái
khóc than của những kẻ bị lưu đầy xa xứ như dân Israel khóc
trên những giòng sông Babylon. Và còn biết bao nhiêu là loại
khóc than khác tương tự như vậy….
Ở đây chúng ta thử để ý đến hai lý do
phải khóc ở trong kinh thánh và tại sao Chúa lại khóc để suy
niệm cho thích hợp với cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta.
Trong ca vinh 41 ta đọc thấy: “Nước mắt
là của ăn ngày đêm của tôi mà mỗi ngày nó cứ nói với tôi
‘Chúa mày ở đâu?’…..Khi xương tôi bị gẫy, trong lúc kẻ thù
tôi quấy rầy tôi, trách móc tôi; mà suốt ngày nó vẫn cứ hỏi
tôi ‘Chúa mày ở đâu?’”
Sự buồn phiền này của những người tin
vào Chúa như ở trên là do hoàn cảnh chối từ Chúa bủa vây đầy
dẫy chung quanh họ; ngày nay thì chúng ta lại càng có lý do
phải buồn phiền nhiều hơn nữa, vì hiện nay chúng ta có quá
nhiều kẻ thù mà là những kẻ thù rất tinh quái và nguy hiểm.
Sau một thời gian tương đối yên tĩnh khi chủ thuyết vô thần
Marxist cáo chung, chúng ta lại thấy một nhóm vô thần hoạt
động trở lại một cách hung hăng và khoa học hơn, biểu hiện
qua một số sách mới xuất hiện gần đây như: The Atheist
Manifesto, The God Illusion, The End of Faith, Creation
without God, An Ethics without God. (4).
Một trong những luận đề này đã đưa ra
tuyên cáo như sau: “ Xã hội loài người đang phát triển
theo nhiều cách khác nhau rất hợp lý để thu thập tri thức có
thể chia xẻ cho mọi người và giúp người ta chấp nhận được sự
việc một cách dễ dàng. Những ai chấp nhận Thiên Chúa hiện
hữu mà không theo những phương cách này thì phải tự chứng
minh lấy. Vì lý do này, ta phải công nhận Thiên Chúa không
hiện hữu cho đến khi có thể chứng minh ngược lại.” (5)
Nếu vậy, theo như lý luận đó, chúng ta
có thể nói được là tình yêu cũng chẳng có nữa, cho đến khi
có thể chứng minh được bằng những lý lẽ cụ thể, chắc chắn và
khoa học. Còn bằng cớ Thiên Chúa hiện hữu thì chúng ta có
thể chứng minh được dễ dàng ngay trong đời sống thường nhật
chứ không phải trong sách vở hay trong phòng thí nghiệm sinh
học. Trước tiên, ta phải kể đến chính cuộc sống của Chúa
Kitô, các thánh và hằng hà sa số, biết bao nhiêu là chứng
nhân anh hùng tử đạo đã sống chết vì niềm tin. Chúng ta cũng
có thể thấy ngay trong các phép lạ cùng các dấu chỉ mà chính
Chúa Giêsu đã làm để chứng tỏ Chúa là sự thật, là Thiên Chúa
và hiện nay Chúa vẫn còn đang tiếp tục làm, nhưng những kẻ
vô thần đã cố tình chối từ không cần tìm hiểu hay quan sát
gì hết.
Nói vậy không có nghĩa là nhóm cộng sản
Marxist đã chịu ngồi yên thua trận. Chúng vẫn tiếp tuc quậy
phá dưới danh nghĩa xã hội chủ nghĩa như ở Trung Quốc và
Việt Nam và một số quốc gia còn cộng sản. Chúng quay trở lại
kinh tế thị trường, tư bản chủ nghĩa đã được gán nhăn hiệu
“tư bản đỏ”, còn tàn ác, lưu manh và nguy hiểm hơn nhiều vì
nấp dưới chiêu bài tự do nhưng vẫn áp dụng độc tài toàn trị.
Chúng ngăn cản tự do dân chủ nhân quyền và tự do tôn giáo.
Chúng giệt tôn giáo bằng những phương pháp rất tinh vi thâm
độc. Ngoài miệng nói là cho tự do tôn giáo, tự do hành đao,
giữ đạo và truyền đạo nhưng lại tịch thu, chiếm đoạt tài
sản, nơi thờ phượng của giáo hội, muốn thực hành nhiệm vụ
tôn giáo thì phải xin phép, phải theo những luật lệ chúng
đưa ra để cố tình làm khó, cản trở tự do tôn giáo. Điều thâm
độc và nguy hiểm hơn cả là chúng trà trộn vào nội bộ tôn
giáo để khuấy phá guồng máy lãnh đạo như hoặc dụ dỗ hoặc ép
buộc các chức sắc tôn giáo làm việc với chúng, làm tình báo
cho chúng. Chúng bôi bẩn, tha hóa guồng máy lãnh đạo tôn
giáo. Thâm độc và nguy hiểm nhất là chúng kiểm soát, điều
khiển việc đào tạo hàng giáo sĩ, dành quyền quyết định sau
cùng là chấp nhận hay không cho tốt nghiệp, ngay cả việc bổ
nhiệm các giáo sĩ, tu sĩ, cả giám mục nữa. Phải chăng chúng
ta nên buồn phiền, ăn năn thống hối vì đã bất lực, ươn hèn
không làm chủ được niềm tin của mình, buông xuôi bước theo
ác quỉ làm hại và ô danh Giáo Hội không phải chỉ ngay hiện
thời mà còn di hại nhiều thế hệ về sau nữa. Ông bác sĩ dở
thì chỉ làm chết một / hai người, nhưng văn hóa suy đồi,
giáo dục sai đường nhất là về tôn giáo thì sẽ di hại nhiều
thế hệ về sau. Hãy thức tỉnh và ăn năn thống hối. Hãy đứng
lên đấm ngực sửa sai.
Còn lý do những kẻ tin vào Chúa mà vẫn
còn buồn phiền, như trong những lời ca thánh vịnh thì chỉ là
sự bất lực mà họ cảm thấy khi phải đối diện với những thử
thách của những kẻ hỏi họ “Chúa mày ở đâu?”. Qua sự yên lặng
kỳ diệu của Chúa, Chúa đã kêu gọi họ chia sẻ, chấp nhận sự
yếu đuối và thất bại của thân xác mình, nhưng Chúa vẫn để
cho họ, giúp họ vượt thắng đến thành công, bởi lẽ: “Sự
yếu đuối của Thiên Chúa vẫn luôn luôn vững mạnh vượt trội
hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Corinthians 1: 25)
“HỌ ĐÃ MANG CHÚA CỦA
TÔI ĐI ĐÂU RỒI”
Ngày nay người tín hữu Kito giáo cũng
nên đau khổ vì đôi khi họ đã chối bỏ Chúa Kito một cách có
hệ thống khi nhân danh những nghiên cứu về lịch sử gọi là
khách quan mà ở một phương diện nào đó đã phát sinh ra những
vấn đề rất ư là chủ quan mà người ta có thể tưởng tượng ra
được như Đức Thánh Cha Biển Đức đã nhắc tới trong lời tựa
cuốn sách mới của ngài nói về Chúa Giêsu: “Những hình ảnh
của các tác giả và các lý tưởng của họ”. Chúng ta đang quan
sát một cuộc chạy đua để xem ai sẽ thắng cuộc trong việc
trình bày một Chúa Kito giống con người thời đại ngày nay
nhất khi mà họ lột bỏ tất cả những đặc tính linh thiêng
thiên chúa của người. Để trả lời câu hỏi của thiên thần “Này
bà, tại sao bà lại khóc?” Vào buổi sáng mờ sưong ngày phục
sinh, Mary Magdalene đã nói: “Họ đã mang Chúa của tôi đi rồi
và tôi không biết tìm Chúa ở đâu” (John 20: 13). Đây là một
lý do khóc để chúng ta có thể khóc.
Những cố gắng khoác cho Chúa Kitô một
bộ áo thời đại hay một bộ mặt lý tưởng thì vẫn luôn luôn
xẩy ra. Nhưng thời xưa thì những lý do người ta đưa ra xem
có vẻ trang trọng và hợp lý trong một phạm vi rộng lớn như:
Chúa Kito là con người lý tưởng, con người lãng mạng, con
người tự do khai phóng, con người xã hội, con người cách
mạng……Ở thời đại ngày nay, vì con người bị ám ảnh bởi sắc
dục, nên họ đã gán cho Chúa những dục vọng thế tục mà chúng
ta thấy xuất hiện đầy dẫy trong những phim ảnh sách báo. Thế
là “ Chúa Giêsu lại được tân kỳ hóa, hay tệ hơn, vượt xa quá
cả tân kỳ hóa, còn gọi là hậu tân kỳ”. (6)
Chúng ta cần tìm hiểu nguồn gốc của
những phong trào gần đây đang cố gắng đem chúa Giêsu
Nazareth ra thử nghiệm cho thuyết luân lý tương đối và cá
nhân chủ nghĩa tuyệt đối (còn gọi là chủ nghĩa phá hoại) mà
trực tiếp hay gián tiếp đang là cảm hứng cho người ta viết
thành tiểu thuyết, làm thành phim ảnh, đưa ra những dữ kiện
khiến công cuộc nghiên cứu tìm hiểu về Chúa Giêsu bị ảnh
hưởng sai lạc. Người ta thấy những phong trào này đã xuất
hiện ở Hoa Kỳ vào những thập niên cuối của thế kỷ XX và
trong một cuộc hội thảo chuyên đề về Chúa Giêsu (Jesus
Seminar) năm 1985 đã có những hành động phá hoại ác ý rất
tích cực.
Phong trào này lấy tên là “Tân Tự Do
Khai phóng / Neo-liberal”, mục đích muốn quay trở lại với
thần học khai phóng về Chúa Giêsu vào thế kỷ XVIII, không
liên quan gì đến Do Thái Giáo hay Kito giáo và Giáo Hội C.G.
Ở đây một Giêsu đã trở thành người truyền bá tư tưởng luân
lý, không giống chủ trương của phái tự do khai phóng cổ điển
trước kia (coi Thiên Chúa là Cha và linh hồn thì bất tử),
nhưng có một sự khôn ngoan giới hạn, một bản tính xã hội học
hơn là bản tính thần học. Mục đích của những học giả này
không phải là sửa đổi mà đơn thuần chỉ là phá hoại, như họ
đã từng nói:“Cái sai lầm ấy chính là Kito giáo” (That
mistake called Christianity).
Trong bài diễn văn khai mạc cuộc hội
thảo này, người sáng lập phong trào đã đưa ra những quyết
định rất đáng cho ta chú ý:
Chúng ta đang dấn thân thi hành một
công tác táo bạo và khẩn thiết. Chúng ta sẽ tìm hiểu thật
cặn kẽ tiếng nói của Giêsu, và tất cả những gì ông ta thực
sự đã nói. Trong công tác này, chúng ta sẽ thay mặt cho
nhiều người trong xã hội chúng ta đặt vấn đề về sự thần
thánh của họ, ngay cả những vấn đề tối kỵ có thê gây xúc
phạm. Vì vậy, công việc chúng ta theo đuổi sẽ rất nguy hiểm.
Nhưng chúng ta chấp nhận và thách thức kẻ thù. Mặc dù có
nhiều nguy hiểm chúng ta cũng sẽ tiến hành, bởi vì chúng ta
là những người chuyên môn, và vì vấn đề Giêsu vẫn còn đó, nó
vẫn còn đang trực diện đối đầu như núi Everest vẫn đang
thách thức những người leo núi. (7).
Chúa Giêsu đã được giải thoát ra khỏi
những giáo điều của Giáo Hội và Kinh Thánh / Tin Mừng. Vậy
thì nguồn tin nào còn lại đã nói về Người mà không phải
hoàn toàn là giả tưởng? Ngụy thư ư? Phúc âm của Thomas ư,
một phúc âm đã được ký hiệu vào khoảng năm 30 cho đến 60 AD,
trước tất cả các phúc âm thư được chính thức công nhận và
trước cả thánh Phaolo. Dĩ nhiên nó sẽ được xếp đầu sổ. Một
nguồn tin khác nữa có thể là những phân tích có tính xã hội
học về những điều kiện đời sống ở Gallilee vào thời đại Chúa
Kito.
Hình ảnh nào về Chúa Giêsu đã được
trích ra để dẫn chứng? Ta có thể kể một vài hình ảnh về Chúa
Giêsu mà hầu hết mọi người (dĩ nhiên không phải là tất cả)
đã công nhận như: Chúa Giêsu là “Con người dị thường ở xứ
Gallilee”; “một anh chàng đi lang thang khôn ngoan và chuyên
mê hoặc người ta”; “thày dạy đời bằng ngụ ngôn”; “một anh
chàng nhà quê xứ Judea có óc châm biếm”. (8)
Thắc mắc cần phải được giải thích là bí
mật nào đã khiến cho con người vô hại đó phải chết treo trên
thập giá và trở thành “người thay đổi thế giới” thì
lại không thấy bàn tới một cách nghiêm chỉnh. Trái lại
những cái đó đã không chỉ được viết ra theo những bịa
đặt tưởng tượng mà còn in thành sách để xuất bản và có cả
hàng trăm, hàng nghìn, hàng triệu cuốn đã được bán ra.
Đối với chúng ta là những người Kitô
hữu nhiệt tình thì hình như cuộc nghiên cứu triết lý lịch sử
này đã thất bại trong việc nối kết giữa Giêsu của thực tế và
Giêsu của Tin Mừng và các tài liệu của Giáo Hội vì họ đã lơ
đi không thèm đểm xỉa đến mặt thiêng liêng và siêu nhiên của
“hiện tượng Giêsu”. Thái độ đó ví như người dùng mắt để
nghe, dùng tai để nhìn.
Qua nghiên cứu và kinh nghiệm quan sát
về những hiện tượng thần bí, chúng ta ai cũng nhận thấy cách
thức phát triển đời sống con người tiềm ẩn trong một biến
cố, đôi khi chỉ trong khoảnh khắc chớp nhoáng như khi chúng
ta tiếp cận với một hiện tượng thần linh. Khả năng tiềm ẩn
đó chỉ biểu lộ khi kết quả xẩy ra mà thôi. Một đứa trẻ nít
và một người lớn nhìn bề ngoài thì thấy khác hẳn với cái bào
thai lúc vừa thụ tinh; nhưng cả hai bào thai đó đều có tất
cả những yếu tố sinh động tiềm ẩn giống nhau, như vương quốc
Chúa / Nước trời được ví như một hạt giống nhỏ xíu, nhưng
bên trong tiềm ẩn đầy đủ các yếu tố sống sinh động có khả
năng phát triển để nảy mầm, lớn lên và trở thành cây to rợp
bóng mát, chim trời có thể đến làm tổ, bay nhảy hót mừng líu
lo. (Mt. 13: 32)
Thánh Phaolo đã nói về kinh nghiệm “đau
buồn” của mình về những người bạn Do Thái đã chối bỏ Chúa
Giêsu (Romans 9: 1 ff). Tại sao chúng ta lại không cảm thấy
buồn như vậy vì những người bạn của chúng ta đã chối từ niềm
tin Chúa Kitô? Chính Chúa Giêsu cũng đã khóc thương cho dân
thành Jerusalem vì lòng chai đá cứng tin phản bội Chúa của
họ ( Lc.13: 34-35).
James Dunn, một trong những học giả nổi
danh về Tân Ước, trong tác phẩm “Los albores del
cristianismo” (Christianity in the Making) sau khi đã cẩn
thận phân tích những kết quả nghiên cứu về Chúa Giêsu ở ba
thế kỷ trước đã đi đến kết luận là không thấy có sự bất đồng
ý kiến về Giêsu rao truyền Tin Mừng và Giêsu nghe giảng Tin
Mừng, hay đúng ra là giữa Giêsu của lịch sử và Giêsu của
Niềm Tin. Niềm Tin này đã được phát sinh không phải sau khi
Chúa phục sinh, nhưng là khi Chúa vừa mới tiếp cận với các
môn đệ, và các ông chính thức trở nên tông đồ Chúa, bởi vì
họ đã tin vào Chúa, cho dù niềm tin của họ lúc đó rất đơn
giản và sơ đẳng.
Cái tương phản giữa Chúa Kitô của Niềm
Tin và Giêsu của lịch sử chính là kết quả “bước nhảy vọt của
lịch sử”, trước khi có “bước nhảy vọt của Niềm Tin” do Chúa
Giêsu đưa ra những lợi ích và lý tưởng vào thời đó. Đúng
vậy, Giêsu được giải thoát khỏi chiếc áo tín điều của Giáo
Hội, nhưng lại được mặc cho chiếc áo thời trang thay đổi tùy
mùa. Biết bao nhiêu là cố gắng đổ xô đi tìm hiểu con người
Chúa Kito đã không trở nên vô ích, bởi vì nhờ đó, cộng thêm
những giải quyết khác nữa, chúng ta mới có thể đi đến kết
luận như ngày nay. (9)
LINH MỤC, TƯ TẾ VÀ
CHỦ CHĂN CŨNG NÊN KHÓC
Còn một loại khóc nữa trong kinh thánh
mà các tiên tri hay nói tới như Ezekiel đã cho chúng ta
thấy. Chúa kêu gọi một người “mặc áo vải thô cầm bút ấn
trong tay”: “Hãy đi xuyên suốt khắp thành phố,
qua giữa Jerusalem và đánh dấu chữ thập trên trán những ai
đang rên rỉ khóc than vì những điều tồi tệ đang xẩy ra trong
thành phố” (Ezekiel 9:4)
Thị kiến này có ý nghĩa rất sâu xa nói
lên con Chúa và con Giáo Hội. Dấu hiệu chữ thập đó là chữ
cuối cùng trong bảng mẫu tự tiếng Do Thái (Hebrew), sau này
trong sách Khải Huyền đã trở thành “dấu ấn của Thiên Chúa
hằng sống” được ghi trên trán tất cả những ai được Chúa cứu
rỗi (Revelation 7:2ff).
Giáo Hội đã “khóc than” nhiều trong
thời gian gần đây vì những tồi tệ đã xẩy ra trong chính lòng
Giáo Hội bởi một số tư tế cũng như chủ chăn. Giáo Hội đã
phải trả một giá quá đắt cho những tội lỗi này đồng thời
phải cố công tìm cách hàn gắn những đổ nát ấy. Những luật lệ
gắt gao đã được đưa ra để không ai có thể lạm dụng được nữa.
Sau thời gian cấp cứu, bây giờ là lúc không kém quan trọng:
Hãy khóc lóc trước mặt Chúa để ăn năn thống hối, như chính
Chúa đã bị xúc phạm / lạm dụng; ăn năn thống hối vì đã xúc
phạm đến chính thân thể Chúa Kitô và làm gương xấu cho
những “người anh em cuối chót của mình”, hơn là làm tổn hại
và mất thanh danh của chính mình.
Có hiện tượng linh mục lỗi lời hứa độc
thân, có vợ có con mà vẫn ngang nhiên chính thức làm chánh
xứ một họ đạo, lại được các chủ chăn chuẩn nhận đã là một
tồi tệ chưa bao giờ thấy trong Giáo Hội. Làm sao họ có thể
mở miệng rao giảng lời Chúa, trả lời Chúa trước tòa phán
xét? Họ ăn nói thế nào với những người anh em tư tế của họ,
với các tôn giáo bạn, những người họ có bổn phận phải dìu
dắt hướng dẫn đem về với Chúa?
Đây chính là cơ hội để thoát ra khỏi
tội lỗi trở về với ân phúc, để hòa giải với mọi người, với
Chúa và với các tư tế của Chúa. Hãy ăn năn thống hối.
“Hãy thổi kèn trên Zion,
“Hãy hãm mình chay tịnh,
“Hãy tụ họp muôn dân, triệu tập hội
nghị:
Các bô lão, trẻ thơ và hài nhi miệng
còn ngậm vú…
Các tân lang hãy ra khỏi buồng kín,
tân nương rời khỏi loan phòng….
“Hỡi các tư tế, các thừa tác viên
phục vụ Chúa! Hãy khóc lên..
Giữa tiền đường và trên bàn thờ.
“Hãy nói với Chúa:
Lạy Chúa, xin rủ lòng thương tha thứ
cho dân Người,
Xin đừng thí bỏ gia nghiệp của Người
phải nhục…mặc cho các nước cười chê.
“Làm sao giữa muôn dân người ta dám
nói:
Thiên Chúa chúng thờ đang ở đâu?”
(Joel 2: 15-17)
Trên đây là những lời tiên tri Joel kêu
gọi chúng ta. Tại sao chúng ta lại không đáp ứng lời mời gọi
đó nhỉ? Hãy dùng một ngày chay tịnh để ăn năn thống hối, ít
ra là tại địa phương mình hay toàn thể đất nước, những nơi
mà vấn đề tỏ ra tồi tệ nhất, để công khai thống hối trước
mặt Chúa và các nạn nhân, các người bị gương mù gương xấu,
hòa giải với các linh hồn, cùng bước đi với Giáo hội, canh
tân trong tâm hồn và trong ký ức.
Chúng ta hãy nhớ lại lời Đức Thánh Cha
Biển Đức XVI nói với các giám mục Ireland dịp viếng thăm ad
limina gần đây: “Các vết thương gây nên do các hành
động….tương tự cũng rất trầm trọng; việc sửa đổi để lấy lại
niềm tin đã mất thật là khẩn cấp….Có như vậy thì Giáo Hội
mới đủ mạnh để có thể tiếp tục làm chứng tá cho sức mạnh cứu
rỗi của Chúa Kitô trên thập giá” (10).
Tuy nhiên những người anh em phạm lỗi
vẫn còn hy vọng, như trường hợp bê bối trong cộng đồng
Corinto mà thánh Phaolô đã nói tới: “Chúng ta phải nộp
con người đó cho Satan, để phần xác nó bị hủy giệt, còn
phần hồn thì được cứu rỗi trong ngày của Chúa” (1Corinto
5: 5). Ngày nay thì chúng ta có thể nói được rằng “Hãy đem
nó ra tòa án công lý dân sự để cho linh hồn nó được cứu
rỗi”. Sự cứu rỗi kẻ tội lỗi này, không phải là hình phạt, mà
chính là để cứu rỗi linh hồn, điều mà thánh Phaolo đã ám
chỉ.
Đáng buồn là đã có nhiều vị bị tước
đoạt hết tất cả mọi sự như chức tư tế / thừa tác viên Chúa,
cả danh dự và tự do, chỉ còn một mình Chúa biết họ, hiểu họ
tùy theo trường hợp và trách nhiệm cá nhân của mỗi người. Họ
đã bị ruồng bỏ trở thành những kẻ sau chót…Nhưng trong những
trường hợp như vậy, nếu có ân sủng Chúa, họ biết ăn năn
thống hối vì tội lỗi mình, kết hợp sự than khóc của họ với
nỗi buồn khổ của Giáo hội thì khóc than và buồn khổ sẽ trở
thành ơn phúc. Họ sẽ đến được gần Chúa Kitô là người bạn sau
chót, hơn là những người bề ngoài xem ra có vẻ được nể trọng
và kính mến, có khi lại đi đến chỗ giống như những người
Pharisiêu thích kết án bình phẩm những kẻ khác.
Tuy nhiên, có một điều mà những người
anh em này đáng lẽ không nên làm nhưng lại làm. Họ lợi dụng
cái tồi tệ của họ đang lúc ồn ào hoặc tính nhút nhát yếu hèn
của họ, cho báo chí phỏng vấn hoặc viết sách, viết hồi ký đổ
lỗi cho những người khác, cho bề trên của họ. Đây là hiện
tượng nguy hiểm của những con tim trai đá.
KẾT LUẬN: NHỮNG
GIỌT NƯỚC MẮT TUYỆT VỜI
Ai cũng biết có nhiều loại khóc, nhiều
loại nước mắt. Khóc là biểu hiện của một tâm tư. Nhưng khóc
không phải luôn luôn là dấu hiệu buồn phiền. Có cái khóc vì
đau buồn, có cái khóc vì vui mừng sung sướng, có cái khóc
nước mắt cá sấu. Ở đây, trong ý niệm đặc biệt về Hạnh Phúc
và Đau Khổ, cái khóc đầy ý nghĩa với những giọt nước mắt
tuyệt vời nhất là những giọt nước mắt làm tràn đầy con tim
chúng ta bởi ân sủng Chúa thánh linh soi sáng đến độ “Chúng
ta cảm nghiệm được và nhận ra Thiên Chúa tốt lành vô cùng”
(Psalm/tv 34: 9).
Khi chúng ta đang ở trong tình trạng ân
sủng như vậy, chúng ta sẽ ngây ngất cảm nhận thấy toàn thể
thế giới và chính chúng ta không quì gối phủ phục mà lòng
rung động lâng lâng như khờ dại đã liên tục khóc lóc vì vui
sướng. Đây là loại nước mắt mà thánh Augustin đã diễn tả
trong “Confessions” : “Lạy Cha nhân lành, Cha thương yêu
chúng con đến độ không chừa con một của Chúa, đã hiến dâng
con Chúa cho tất cả chúng con. Thật Chúa đã thương yêu chúng
con vô vàn!” (11)
Pascal cũng chảy những giòng nước mắt
như vậy vào một đêm ông linh hứng thấy Chúa của Abraham,
Isaac và Jacob biểu hiện trong kinh thánh. Ông đã viết vào
một mảnh giấy mà sau này người ta đã tìm thấy trong túi áo
của ông sau khi ông chết:
“Hãy Vui lên!, Vui lên!....
“ Những giòng nước mắt vui mừng…”
Nước mắt người đàn bà tội lỗi đã chảy
xuống rửa chân Chúa giêsu không phải chỉ là những giọt nước
mắt ăn năn thống hối mà còn là những giọt nước mắt cảm tạ và
vui mừng sung sướng (Lc7: 37-38).
Nếu trên thiên đàng các thánh khóc thì
chắc rằng ở đó sẽ tràn ngập nước mắt và ồn ào tiếng khóc ca
hát vui mừng. Thánh Simeon, một nhà thần học nổi tiếng đã
từng sống ở Istanbul ( hồi xưa gọi là Constantinople) mà
cách đây không lâu Đức Thánh Cha Biển Đức XVI có du hành mục
vụ ít ngày ở đó đã là một gương sáng sống động nhất trong
lịch sử nền linh đạo Kitô giáo về nước mắt ăn năn thống hối,
loại nước mắt của ngỡ ngàng và trầm lặng. “Tôi đã khóc
–ngài viết- và tôi đã vui mừng sung sướng khôn tả”.
(12). Ngài còn diễn tả cái khóc ăn năn thống hối vì
được vui mừng hạnh phúc thành như châm ngôn: “Phúc cho
những ai khóc lóc thảm thiết đắng cay vì tội lỗi của mình,
vì ánh sáng cứu độ của Chúa sẽ ở trên họ và biến nước mắt
cay đắng của họ thành ngọt ngào êm ái”(13).
Chớ gì Chúa ban cho chúng ta có được,
ít nhất một lần trong đời, những giọt nước mắt ân sủng đầy
súc cảm thống hối và rạt rào mừng vui ấy.
Pace Garden, Orange
Park, Florida
Chuẩn bị Mùa Chay Thánh
2008
Bác
Sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
“Đức Kitô làm cho Mình trở nên nghèo khó vì anh em”
|
SỨ ĐIỆP MÙA CHAY
2008 của ĐTC BÊNÊĐICTÔ XVI
“Đức Kitô
làm cho Mình trở nên nghèo khó vì anh em” (2
Cor 8:9)
Anh Chị Em thân mến!
1.
Mỗi năm, Mùa Chay đem lại cho chúng ta một dịp theo Chúa
Quan Phòng để đào sâu giá trị của đời sống Kitô hữu của
chúng ta, và khuyến khích chúng ta tái khám phá ra lòng
thương xót của Thiên Chúa, để đến lượt chúng ta trở nên
thuơng cảm cho anh chị em của chúng ta hơn. Trong thời gian
Mùa Chay, Hội Thánh thấy rằng mình có bổn phận phải đưa ra
những công tác rõ ràng đi theo các tín hữu cách cụ thể trong
tíến trình canh tân nội tâm: đó là việc cầu nguyện, ăn
chay và bố thí. Về sứ điệp Mùa Chay năm nay, Cha
muốn dành ít thì giờ để suy niệm về việc thực hành bố thí,
tượng trưng cho cách đặc biệt để giúp đỡ những người thiếu
thốn, đồng thời, cũng để tập từ bỏ mình để giải thoát chúng
ta khỏi những ràng buộc với những của cải thế gian. Càng bị
thu hút mạnh mẽ bởi sự giàu có vật chất, thì chúng ta càng
phải quyết tâm dứt khoát để không biến chúng thành thần
tượng của chúng ta. Chúa Giêsu khẳng định điều này cách rõ
ràng: “Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi
mammôn [tiền của] được” (Lc
16:13). Việc bố thí giúp chúng ta thắng được cám dỗ liên
tục này, dạy chúng ta đáp ứng lại những nhu cầu của tha nhân
và chia sẻ với người khác những gì chúng ta có được nhờ lòng
nhân lành của Thiên Chúa. Đó chính là mục đích của việc
quyên tiền đặc biệt cho người nghèo được quảng bá ở nhiều
nơi trên thế giới trong Mùa Chay. Bằng cách này, việc thanh
luyện nội tâm được kèm theo bằng một nghĩa cử của cộng đồng
Hội Thánh, phản ảnh những gì đã xảy ra thời Hội Thánh Sơ
Khai. Trong các Thánh Thư của ngài, Thánh Phaolô đã đề cập
đến về việc này khi viết về việc quyên tiền giúp cộng đồng
Gierusalem (xem
2 Cor 8-9;
Rom 15:25-27).
2.
Theo giáo huấn của Tin Mừng, chúng ta không làm chủ nhưng
chỉ là những người quản lý các tài sản mà chúng ta có: cho
nên không được coi những tài sản này là của riêng mình,
nhưng là những phương tiện mà qua đó Thiên Chúa mời gọi mỗi
người chúng ta hành xử như một người quản lý theo sự quan
phòng của Ngài đối với những người thân cận chúng ta. Như
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo nhắc nhở chúng ta,
các của cải vật chất có chứa đựng giá trị xã hội, theo
nguyên tắc qui về mục đích phổ quát của chúng (xem câu
2404).
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu thẳng tay
khiển trách những người chỉ biết dùng sự giàu sang vật chất
cách ích kỷ. Trước cảnh nghèo đói của đám đông, thiếu tốn đủ
thứ, lời của Thánh Gioan vang lên giọng khiển trách: “Làm
sao mà tình yêu Thiên Chúa có thể ngự nơi những người có
nhiều của cải thế gian mà từ chối giúp đỡ anh chị em mình
khi thấy họ thiếu thốn?” (1
Ga 3:17). Ở những quốc gia mà đa số dân chúng là Kitô
hữu, lời kêu gọi chia sẻ còn khẩn cấp hơn nữa bởi vì họ càng
có trách nhiệm đối với số đông người đang chịu cảnh nghèo
đói và bị bỏ rơi. Giúp đỡ những người này là nhiệm vụ về
công bằng trước khi được coi là việc bác ái.
3.
Tin Mừng nhấn mạnh đến một đặc tính của việc bố thí của Kitô
hữu là nó phải kín đáo. Chúa Giêsu quả quyết: “Đừng cho tay
trái của các con biết việc tay phải các con làm, để việc bố
thí của các con được thực hiện cách kín đáo” (Mt.
6:3-4). Chỉ một thời gian ngắn trước đó, Chúa nói rằng
đừng tự hào về các việc lành mình làm để khỏi bị mất phần
thưởng trên Trời (xem
Mt 6:1-2). Người môn đệ phải quan tâm đến việc làm vinh
danh Thiên Chúa. Chúa Giêsu cảnh cáo: “Bằng cách này, hãy
làm cho ánh sáng của các con chiếu soi trước mặt người khác,
để họ thấy việc lành các con làm mà ngợi khen Cha Trên Trời”
(Mt 5:16). Như thế, chúng ta phải làm mọi sự để vinh danh
Thiên Chúa chứ không phải vì danh dự của chúng ta. Anh chị
em thân mến, sự hiểu biết này phải hậu thuẫn tất cả các
nghĩa cử chúng ta làm cho tha nhân, đừng để cho chúng trở
thành phương tiện biến chúng ta thành cái rốn của vũ trụ.
Nếu trong khi chu toàn một nghĩa cử, chúng ta không có mục
đích làm vinh danh Chúa và thật sự giúp đỡ anh chị em, mà
lại tìm tư lợi, hay tiếng khen, thì chúng ta đã tự đặt mình
ra ngoài nhãn quan của Tin Mừng. Trong thế giới của hình
ảnh ngày nay, chúng ta phải rất thận trọng đề phòng bởi vì
cám dỗ này quá lớn. Bố thí, theo Tin Mừng, không phải chỉ là
việc thiện: mà còn là một sự diễn tả đức ái cách cụ thể, một
nhân đức đối thần đòi hỏi một sự hoán cải nội tâm để yêu mến
Thiên Chúa và tha nhân, theo gương Đức Chúa Giêsu Kitô, là
Đấng đã chết trên Thánh Giá, đã hiến toàn thân cho chúng ta.
Làm sao mà chúng ta không cảm tạ Thiên Chúa vì nhiều người
đang âm thầm thực thi các việc làm quảng đại giúp đỡ tha
nhân trong cơn quẫn bách bằng tinh thần này, vượt ra ngoài
tầm kính của thế giới truyền thông? Thật là vô ích khi cho
người khác của cải của mình nếu việc làm này biến lòng chúng
ta thành tự hào trong hư danh: vì lý do này mà những người
biết rằng Thiên Chúa “nhìn thấy trong kín đáo” và sẽ bí mật
ban thưởng không tìm sự công nhận của loài người khi họ làm
việc từ thiện.
4.
Trong khi mời gọi chúng ta nghĩ đến việc bố thí với một cái
nhìn sâu sắc hơn, vượt trên chiều kích thuần túy vật chất,
Thánh Kinh dạy chúng ta rằng cho đi thì vui hơn nhận lại
(xem
TĐCV 20:35). Khi chúng ta làm vì yêu, chúng ta nói lên
chân lý của bản chất con người chúng ta; quả thật, chúng ta
không được dựng nên cho mình, nhưng cho Thiên Chúa và anh
chị em chúng ta (xem
2 Cor 5:15). Mỗi lần chúng ta chia sẻ của cải với những
người túng thiếu chung quanh chúng ta vì yêu Chúa, chúng ta
khám phá ra rằng sự sung mãn của cuộc sống đến từ tình yêu,
và tất cả lại trở về với chúng ta như phúc lành dưới dạng
bình an, mãn nguyện và vui mừng nội tâm. Cha chúng ta ở trên
Trời thưởng cho việc chúng ta bố thí bằng niềm vui của Ngài.
Hơn nữa: Thánh Phêrô kể vào số những hoa quả thiêng liêng
của việc bố thí là ơn tha tội. Ngài viết: “Đức ái che phủ
vô vàn tội lỗi” (1
Phr 4:8). Như Phụng Vụ Mùa Chay thường nhắc lại rằng
Thiên Chúa ban cho chúng ta là những người tội lỗi khả năng
được tha tội. Việc chia sẻ với người nghèo những gì chúng ta
có làm cho chúng ta sẵn sáng lãnh nhận ơn ấy. Trong lúc này,
cha lại nghĩ đến những người nhận ra sự trầm trọng của những
tội ác họ đã làm, và chính vì lý do đó, họ cảm thấy mình xa
cách Thiên Chúa, sợ hãi và hầu như không có khả năng trở về
với Ngài. Bằng cách đến gần tha nhân qua việc bố thí, chúng
ta được kéo lại gần Thiên Chúa; Bố thí có thể trờ một thành
công cụ cho việc hoán cải và hòa giải thật sự với Ngài và
anh em chúng ta.
5.
Việc bố thí dạy chúng ta lòng quảng đại của đức ái. Thánh
Giuse Bênêđictô Cottolengo đề nghị cách thẳng thắn: “Đừng
bao giờ tính sổ số tiền bạn cho đi, bởi vỉ đó là điều mà tôi
nói hoài: nếu trong việc bố thí tay trái không biết việc tay
phải làm, thì tay phải cũng không nên biết việc mình làm.” (Detti
e penseru, Edilibri, số 201). Về việc này, thì câu
truyện trong Tin Mừng về bà goá rút ra từ sự nghèo túng của
bà mà bỏ vào quỹ Đền Thờ “tất cả những gì bà có để sinh
sống” (Mc
12:4) còn quan trọng hơn. Đồng xu nhỏ bé và tầm thường
của bà trở thành một biểu hiệu hùng hồn: Bà goá này dâng cho
Thiên Chúa không phải sự dư dật của bà, không phải là bao
nhiêu tiền bà có, nhưng là chính bà. Toàn thân của bà.
Chúng ta thấy câu chuyện cảm động này
được lồng vào trình thuật những ngày ngay trước cuộc khổ nạn
và cái chết của Chúa Giêsu, là Đấng làm cho mình trở nên
nghèo khó để lấy cái nghèo của Người mà làm cho chúng ta nên
giàu có như Thánh Phaolô viết (xem
2 Cor 8:9); Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta toàn thể con
người của Người. Cũng qua việc thực hành bố thí, Mùa Chay
khuyến khích chúng ta theo gương Người. Trong trường của
Người, chúng ta có thể học cách làm cho cuộc đời chúng ta
trở thành món quà toàn vẹn; theo gương Người, chúng ta có
thể làm cho mình sẵn sàng, không phải chỉ để cho đi một phần
của những gì mình có, nhưng cho đi chính bản thân chúng ta.
Không phải là toàn thể Tin Mừng được tóm lại trong Giới Luật
Yêu Thương sao? Như thế việc thực thi bố thí trong Mùa Chay
trở nên một phương thế để đào sâu ơn gọi Kitô hữu của chúng
ta. Bằng cách hiến mình cách vô vị lợi, người Kitô hữu làm
chứng rằng chính tình yêu chứ không phải sự giàu sang vật
chất là yếu tố làm nên định luật hiện hữu của mình. Như vậy
tình yêu làm cho việc bố thí có giá trị; nó gợi hứng cho
những hình thức ban tặng khác nhau, tùy theo khả năng và
điều kiện của mỗi người.
6.
Anh chị em thân mến, Mùa Chay mời gọi chúng ta “huấn luyện
mình” cách thiêng liêng, cũng như qua việc thực hành bố thí,
để chúng ta được lớn lên trong đức ái và nhận ra Chính Đức
Kitô trong những người nghèo. Trong sách Tông Đồ Công Vụ,
chúng ta đọc rằng Thánh Phêrô đã nói với nggười què đang ăn
xin ở cổng Đền Thờ: “Tôi không có vàng hay bạc, nhưng điều
gì tôi có thi tôi cho anh; nhân danh Đức Chúa Giêsu Kitô
Thành Nadareth, anh hãy bước đi” (TĐCV
3:6). Trong việc bố thí, chúng ta tặng một cái gì là
vật chất, là một biểu hiệu của món quà cao quý hơn mà chúng
ta có thể tặng cho người khác qua việc rao truyền và làm
chứng cho Đức Kitô, nhờ danh Người mà người ta tìm thấy sự
sống thật. Như thế hãy đánh dấu thời gian này bằng cố gắng
gắn bó với Đức Kitô của cá nhân và cộng đồng để chúng ta có
thể trở nên nhân chứng cho tình yêu của Người. Nguyện xin
Đức Maria, Mẹ và Tôi Tớ trung tín của Chúa giúp các tín hữu
bước vào “cuộc chiến thiêng liêng” của Mùa Chay, được trang
bị bằng kinh nguyện, ăn chay và thực hành bố thí, để được
đổi mới tinh thần khi đến cử hành Đại Lễ Phục Sinh. Với
những lời cầu chúc này, Cha long trọng ban Phép Lành Toà
Thánh của Cha cho mọi người.
Làm tại Vatican, ngày 30 tháng 10, năm
2007
ĐTC Bênêđictô XVI
Phaolô Phạm xuân
Khôi chuyển ngữ |
VỀ MỤC LỤC |
|
ÔNG DA-KÊU |
“Khi vào Giê-ri-cô, Chúa Giêsu đi
ngang qua thành phố ấy. Ở đó có một người tên là Da-kêu; ông
đứng đầu những người thu thuế và là người giàu có. Ông ta
tìm cách để xem cho biết Chúa Giêsu là ai, nhưng không được,
vì dân chúng thì đông mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới
phía trước, leo lên một cây sung để xem Chúa Giêsu, vì Người
sắp đi qua đó.
Khi Chúa Giêsu tới chỗ ấy thì Người
nhìn lên và nói với ông: ‘Nầy ông Da-kêu, xuống mau đi,
vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!’ Ông vội vàng tụt
xuống và mừng rỡ đón rước Người. Thấy vậy, mọi người
xầm xì với nhau: ‘Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào
trọ!’
Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa
rằng: ‘Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho
người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin
đền gấp bốn.’ Chúa Giêsu mới nói về ông ta rằng: ‘Hôm
nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà nầy, bởi người nầy cũng là con
cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những
gì đã mất.’” (Lc 19, 1-10)
***
Da-kêu là một người thu thuế rất mực
giàu có. Ông đã làm giàu, chủ yếu bằng cách khai thác người
nghèo vô phương chống trả. Xét về nhiều phương diện, ông
không phải là một con người tốt! Có lẽ ông là người bị oán
ghét và khinh miệt nhất ở nơi thành phố Giê-ri-cô. Ông đã bị
xoá tên khỏi sổ bộ và được xem như “một kẻ không ra gì”.
Khi người nào đi chung với ông thì chỉ dơ danh xấu tiếng mà
thôi.
Vào thời điểm đó, người La-mã chiếm cứ
đất nước Do-thái. Họ đã cai trị với bàn tay sắt. Bất cứ
người nào tỏ dấu bất đồng quan điểm hay bất tuân lệnh hành
chánh, lập tức sẽ bị đè bẹp. Một đạo quân chiếm đóng phải
được duy trì và yểm trợ.
Người La-mã thu thuế theo một hệ thống
đánh thuế bất công. Phải thu thuế bằng mọi cách. Đối với bất
cứ người La-mã nào, công việc thu thuế làm hạ nhân cách của
mình. Vì thế những người thu thuế được tuyển dụng từ cộng
đồng địa phương. Luôn luôn có những người muốn hợp tác với
kẻ thù.
Một khi người La-mã nhận đủ tiền thuế
thu được, họ không quan tâm tới việc những thuế phụ thu do
những người thu thuế đặt để ra. Toàn bộ hệ thống đó đã mở
cửa cho việc lạm dụng, lộng hành và Da-kêu cùng với những
người đồng loại đã lạm dụng hệ thống đó để bóc lột chính dân
tộc mình hầu trở nên giàu có.
Báo oán
Chúa Giêsu đi ngang qua thành phố đó.
Cả nước đều bàn tán về Ngài. Ngài là một khuôn mặt nổi tiếng
trong nước, chẳng khác nào một minh tinh. Ai nấy đều muốn
thấy Ngài. Các đường sá thành phố Giê-ri-cô kẹt cứng.
Việc ông Da-kêu lẫn lộn vào đám đông
chỉ tạo nên rắc rối. Thật vậy, ông là một người bị để ý.
Chúng ta có thể hình dung ông Da-kêu đang cố gắng len mình
vào trước đám đông để nhìn xem Chúa Giêsu đi ngang qua. Ông
đang bị xô đẩy, bị hích khuỷu tay, bị kháng cự và bị lăng mạ
sỉ nhục.
Tuy nhiên ông đã có can đảm chịu đựng
sư liều lĩnh tuyệt vọng. Ông tự tách mình ra khỏi đám đông
và leo lên một cây sung nổi bật ở xa xa cuối đường. Nơi đó
có thể cung cấp cho ông một tầm nhìn thoáng đãng.
Khi Chúa Giêsu đến gần cây sung, Ngài
dừng lại. Da-kêu ngạc nhiên. Chúa Giêsu nhìn lên. Da-kêu
càng ngạc nhiên hơn nữa. Chúa Giêsu kêu ông bằng chính tên
của ông. Da-kêu kinh ngạc. Ai đã nói cho Chúa Giêsu biết tên
của ông và làm thế nào Ngài biết ông đang ẩn núp? Bốn con
mắt gặp nhau và người nầy nhìn người kia chằm chằm.
Tôi mong muốn bạn ghi nhận điều gì Chúa
Giêsu và ông Da-kêu đã thấy. Trước khi gặp Chúa Giêsu, ông
Da-kêu nghĩ mình là người giàu có. Giờ đây, ông thấy mình
nghèo nàn đến mức nào. Trước đây ông tưởng mình có hết mọi
sự. Bây giờ ông thấy mình không có gì đáng giá thật sự.
Đó là thời điểm của sự thật.
Ông nhận ra sự phung phí ghê gớm đối với cuộc sống của mình
và sự phá sản của địa vị mình. Đôi mắt ông đã mở ra và ông
đã la lên: “Chúa ôi! Con đã điên rồ đến mức nào!” Ông
đã nhận thấy điều tai hại mà ông đã làm cho chính mình và
cho người khác, chỉ vì ông xu phụ cái tôi mà thôi.
Điều xảy đến cho Da-kêu gợi lại cho tôi
câu nói sâu sắc của nhân vật Iago trong vở kịch “Othello”
của Shakespeare, khi Iago nói về
Cassio: “Có một vẻ đẹp trong cuộc sống của ông ta khiến
tôi cảm thấy mình xấu xa.” Thật vậy, có một vẻ đẹp nơi
Chúa Giêsu đã có khả năng làm cho Da-kêu nhận ra sự xấu xa
trong cuộc đời mình. Tội lỗi thì xấu xa!
Vẻ đẹp trong đôi mắt
người chứng kiến
Chúa Giêsu đã thấy gì? Ngài đã thấy kẻ
lừa đảo, kẻ phản bội, người tội lỗi. Ngài đã thấy một con
người đang ẩn giấu. Ngài đã nhìn thấu suốt tất cả những trò
lừa đảo và tống tiền nơi Da-kêu.
Nhưng Ngài cũng thấy một khía cạnh khác
nơi con người Da-kêu, khía cạnh mà không ai có thể thấy
được. Ngài thấy một con người có tiềm năng lớn lao có thể
trở nên thiện hảo, một con người sẵn sàng xây đắp một nếp
sống mới, một khi được ban cho một vận hội mới. Chúa Giêsu
thấy những điều kiện thực tế và những khả năng ở nơi Da-kêu.
Chúa thấy ông Da-kêu có thể trở nên
tốt, dưới quyền lực và ảnh hưởng của Ngài. Chúa Giêsu cho
ông một dịp may để xoay chuyển cuộc sống. Công trạng của
Da-kêu là đã nắm lấy cơ hội mà vươn lên.
Da-kêu là ai?
Chính chúng ta là những Da-kêu! Da-kêu ở trong mỗi
một người nam và người nữ. Điều gì Chúa Giêsu đã làm cho
Da-kêu hôm qua thì Ngài cũng có thể làm cho chúng ta hôm
nay, nếu chúng ta để cho Ngài tự do hành động. Thiên Chúa là
như thế đó! Ngài luôn luôn cho chúng ta một vận hội mới, một
khởi đầu mới, một niềm hy vọng mới.
Ngài thấy những gì ẩn
giấu dưới dáng dấp bề ngoài của chúng ta và thấy sự thiện mỹ
ở bên trong cùng sự rộng lượng của tâm hồn chúng ta, tức
tiềm năng vươn lên. Ngài thấy không những con người thực của
chúng ta là những kẻ tội lỗi đang cần được tha thứ, nhưng
Ngài cũng thấy những khả năng nơi chúng ta có thể giúp chúng
ta trở nên tất cả những gì Thiên Chúa mong muốn.
Một tù nhân bị giam ở
trong xà-lim tại Lao Xá Mountjoy đã nói với tôi: “Thưa
cha Vincent, con vui sướng vì sẽ được Thiên Chúa phán xét
hơn là người đời.” Và tất cả chúng ta đều nói như thế!
Khi chúng ta tiếp cận
với một người nào và xem họ như một con người đáng kính
trọng, khỏi phải nói ra là chúng ta có thể khám phá bên
trong họ sự thiện hảo dường nào!
Khi nhìn Chúa Kitô,
chúng ta thoáng thấy khuôn mặt của Thiên Chúa. Giống như
Da-kêu, chúng ta có thể bôn ba và phải khó khăn lắm mới gặp
được Ngài.
Ít người cảm thấy việc
xưng tội là dễ dàng, nhưng chúng ta biết điều đó có hiệu
lực. Chúng ta không bị đè bẹp. Thật ra, điều ngược lại mới
xảy ra. Chúng ta được kéo lên để cố gắng vươn tới lần nữa.
Khi Chúa tha thứ thì
Ngài tha thứ thật, không miễn cưỡng, nhưng hoà nhã ân cần.
Đối với Thiên Chúa, Ngài tha thứ chỉ vì thiện ý. Ngài đối xử
với chúng ta như thể chúng ta không bao giờ bỏ Ngài mà đi
xa.
Linh Mục Vincent Travers, OP
Hương Vĩnh chuyển ngữ |
VỀ MỤC LỤC |
|
TRÁNH XUNG ĐỘT (2) |
Bà mẹ nghe tiếng động
trong bếp nên bà đi xem thử. Bà khám phá ra cậu bé Bình 4
tuổi leo lên bàn đang vói lấy thẩu kẹo đặt trên giá.
- Con không được ăn kẹo
bây giờ, Bình ơi. Gần đến giờ ăn rồi.
Nói rồi bà mẹ bồng nó
xuống.
- Con muốn kẹïo bây giờ,
Cu bé hét.
- Không được con ơi. Mẹ
làm bữa ăn trưa cho con bây giờ.
Cậu bé thét lên:
- Mẹ, con muốn kẹo.
- Bình, con không được
hư.
Cậu bé nằm trên sàn thét
to và giãy dụa.
- Con có muốn mẹ đánh
không? Bà mẹ nổi cơn rồi đó.
- Con ghét! Con ghét!
- Bình, sao con nói vậy?
Cậu bé càng làm dữ.
- Bình, yên ngay! Đây, mẹ
cho con một cái kẹo. Nào, im ngay!
Cậu bé dần dần nhỏ giọng
và cuối cùng lấy mẫu kẹo mà mẹ nó đưa cho nó.
Thoạt đầu, người mẹ khước
từ nhưng rồi cậu bé áp lực, bà nhường nhịn. Cậu bé thắng
cuộc tranh chấp và củng cố niềm tin vào sức mạnh của cậu. Bà
mẹ có thể làm cho cơn giận của cậu bé vô hiệu bằng cách rút
lui khỏi hiện trường. Hãy cất kẹo đi và đi vào phòng tắm
ngay tiếng la hét đầu tiên của nó. Hãy để cậu bé khóc la
trong sự vô ích. Không có sự giận dữ nào có ý nghĩa khi
không có khán giả.
Bà mẹ và cậu bé Huy 5
tuổi đi thăm một người bạn vào chiều hôm đó. Cậu bé thích
thú thăm viếng đứa con trai của người bạn mẹ. Cậu bé chưa
muốn về nhưng vì ép buộc phải về nên đã nổi trận lôi đình,
suốt buổi ăn tối, cậu rời phòng ăn vào phòng tắm. Thói quen
trong gia đình là nếu ai rời phòng ăn họ không thể trở lại.
Trong lúc cậu bé rời bàn, người mẹ thuật lại với người cha
về cuộc thăm viếng. Ông ta hiểu. Bà mẹ dọn cất đĩa của cậu
bé. Cậu bé trở lại. Khi cậu bé không thấy đĩa của cậu nữa,
cậu lăn mình trên sàn nhà nằm vạ bắt chước như bạn cậu.
Người mẹ và người bố vẫn tiếp tục ăn tối dường như cậu bé
không có ở đó. Họ nghe cậu bé lẩm bẩm: “Đĩa con đâu?” Nhưng
họ không quan tâm tới.
Cô bé Thùy Vân mới sinh
được 10 tháng, đang bò trên sàn nhà trong khi bà mẹ ũi quần
áo. Ũi xong bà mẹ đặt nó vào trong xe của nó. Nó phản kháng
và khóc. Bà mẹ phớt lờ đi, nhưng cô bé ngã người ra phía
sau, giãy dụa, và khóc ré lên. Bà mẹ đi vào phòng tắm. Mười
phút sau, bà trở lại thấy cô bé chơi với cái banh của nó.
Ngay cả mới 10 tháng
tuổi, nó cũng có cách của nó. Bà mẹ đang huấn luyện cô bé
chấp nhận trật tự. Bà mẹ kính trọng sự quyết định của cô bé
cố gắng làm trận và bà đã nhường chiến trận cho cô bé,
nhưng không chú ý, cũng không chìu theo ý nó.
Rút lui khỏi tình trạng
xung khắc là một phương cách tốt nhất. Điều đó không có
nghĩa là rút lui khỏi đứa bé. Tình yêu, tình cảm, và sự thân
thiện vẫn tiếp tục. Rút lui vào lúc xung đột giúp giữ được
tình thân. Khi một đứa trẻ làm mình bực tức, chúng ta thường
cảm thấy xa cách, chúng ta có khuynh hướng muốn đập cho một
trận. Sự thù nghịch trên cả hai phía làm thiệt hại lớn cho
sự quan hệ. Khi chúng ta biết khéo léo trong sự rút lui tức
khắc, chúng ta thấy rằng con cái chúng ta đáp lại trong sự
bất ngờ. Vì trong con người luôn có ước vọng “muốn thuộcvề”,
chúng sẽ cảm thấy một chiến trận trống không vô nghĩa. Điều
đó không làm cho chúng thay đổi thái độ, tránh làm trận.
Nhưng một khi sự thực hành nầy được thực thi trong gia đình,
con trẻ rất nhanh cảm thấy được những giới hạn của chúng.
Nếu chúng đi quá giới hạn và cha mẹ rút lui khỏi tình thế,
một cách nhanh chóng con trẻ cũng quên đi sự xung khắc và
cũng tỏ cho thấy sự ước muốn cộng tác trở lại. Vì sự huấn
luyện con cái cộng tác là mục đích của chúng ta, chúng ta có
một tiến trình tuyệt vời nhờ đó có thể mang đến sự cộng tác.
Khó thấy được tiến trình
nầy đúng như thế nào. Mới nhìn thì dường như chúng ta đang
để cho con trẻ xếp đặt một cái gì. Tuy nhiên, nếu chúng ta
nhìn kỹ hơn vào động lực của đứa trẻ, chúng ta khám phá ra
rằng trong hầu hết những tình cảnh xung khắc, nó muốn sự chú
ý của chúng ta hoặc muốn lôi chúng ta vào sự đọ sức với nó.
Nếu chúng ta cho phép chúng ta làm như thế, chúng ta đi vào
con đường của đứa trẻ và củng cố mục đích sai lầm của nó. Vì
thế, sự huấn luyện của chúng ta phải được nhắm đến tận căn
rễ của vấn đề chứ không phải chỉ trên bề mặt. Dùng ngôn từ
để sửa thói quen xấu của đứa trẻ thì quả là vô ích. Nếu
chúng ta muốn huấn luyện một đứa trẻ để có hạnh kiểm tốt
hơn, chúng ta phải hành động thế nào để gây một sự thay đổi
trong cách xử sự của nó. Nếu nó cảm thấy rằng những cố gắng
của nó cũng chỉ cho nó một chiến trường trống vắng, nó sẽ
mau chóng quay sang một hướng mới khi khám phá ra rằng nó có
thể có lợi hơn nhiều bằng cách hợp tác hơn là chống đối. Nếu
nó không có cách thế riêng của nó, nó sẽ học chấp nhận những
đòi hỏi của tình thế. Như vậy, nó phát triển sự kính trọng
đối với thực tại cũng như đối với cha mẹ, những người đại
diện cho trật tự xã hội hiện hành.
Một khi sự huấn luyện qua
việc rút lui đã được thiết lập trong gia đình, cũng dễ dàng
hơn để đối phó với những xung khắc nơi công chúng. Chúng ta
có thể phát triển chiến thuật rút lui vào nhà tắm, là cái
xem ra có hiệu quả. Trẻ con rất nhạy cảm. Chúng cảm được sự
rút lui của bố mẹ. Chúng ta đã thấy hiệu quả của nó trong
những câu chuyện trên đây. Chúng ta gặp phải những thử thách
đầy căm go khi con cái chúng ta quấy rầy nơi công chúng.
Chúng ta cảm thấy xấu hổ và nhục nhã vì chúng đặt chúng ta
vào vị thế của những người bố mẹ xem ra không đủ tư cách làm
bố mẹ. Trẻ con hành xử nơi công chúng như chúng được giáo
dục ở gia đình. Nếu chúng là bất trị ở gia đình, chúng cũng
sẽ bất trị ở nơi công chúng, và chúng ta sẽ nhận điều chúng
ta đáng nhận. Vấn đề con trẻ thích làm nhiều bất ổn hơn nơi
công cộng vì chúng cảm được sự tổn thương của chúng ta. Tuy
nhiên, chúng ta có thể dùng “chiến thuật rút lui vào phòng
tắùm trong tinh thần” để bao gồm tất cả những người đang
đứng ngoài nhìn. Một lần nữa, khi sự chú ý của chúng ta nhắm
vào những đòi hỏi của tình thế chứ không nhăùm vào tiếng tăm
chúng ta, chúng ta có chìa khóa để giải quyết vấn đề.
Lm.levanquang, tiến sĩ tâm lí |
VỀ MỤC LỤC |
|
|
Tòa Khâm Sứ, những tấm lòng tha thiết!
Đã dâng lên trong những buổi kinh cầu
Niềm u hoài, trăn trở đã từ lâu
Nơi phụng tự, nơi dâng lên của lễ!
Tòa Khâm Sứ, nơi dựng cây Thánh Giá
Nơi tượng Mẹ dầu giãi với sầu bi
- Mẹ ở đây, ở với chúng con đi!
Thiếu vắng Mẹ, chúng con cô đơn quá!
Tòa Khâm Sứ, giáo dân thật thỏa dạ
Nếu vật hoàn cố chủ sẽ xẩy ra
Nơi phượng thờ, nơi cầu nguyện, xướng ca
Để dâng lên trước tòa lòng kính ngưỡng!
Giáo dân nghĩ, Nhà Nước khôn ngoan, nhượng!
Nhà đất dân, nay trả lại cho dân
Mọi sự việc đều êm ái, công bằng
Để mãi mãi dân tin vào Công Lí!
30-1-2008
Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC |
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT VÀI
THẮC MẮC VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ |
Hỏi:
Xin cha giải thích 2 câu hỏi sau đây:
1- Có luật nào cho
phép linh mục truyền phép Mình Thánh ngoài Thánh Lễ không?
2- Tại sao người
ngoài Công Giáo không được phép rước Lễ, kể cả những người
không kết hôn trong Giáo Hội.
Trả
lời:
Trước hết, xin được
nói thêm về Thánh lễ và bí tích Thánh Thể.
Thánh lễ Misa
hay Lễ Tạ Ơn (The Eucharist) chính là cử
hành bí tích Thánh Thể và Hy tế thập giá của Chúa Kitô
qua phụng vụ thánh của Giáo Hội.
Gọi là Lễ Tạ Ơn
vì đây chính là việc chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa
trước tiên của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly khi Người
“cầm bánh trong tay thánh thiện
khả kính, ngước mắt lên trời, nhìn Chúa là Cha toàn năng của
Người, tạ ơn Chúa, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các
môn đệ mà nói: TẤT CẢ CÁC CON HÃY NHẬN LẤY MÀ ĂN…”
(Kinh Nguyện Thánh Thể (Tạ Ơn) 1).
Như thế, mỗi khi cử
hành Lễ Tạ Ơn, Giáo Hội lại làm sống lại “Bữa ăn của
Chúa, vì Thánh Thể là bữa tiệc ly của Chúa Kitô và các môn
đệ Ngài trước ngày Chúa chịu khổ hình, và cũng để nói lên
hình ảnh đi trước của ‘Tiệc Cưới của Chiên Con’
(Kh 19:9) tại Giêrusalem trên trời…” (x. SGLGHCG số
1329).
Nói khác đi, Thánh lễ
Tạ Ơn là cử hành bí tích Thánh Thể qua đó Chúa Kitô lại
một lần nữa tạ ơn Chúa Cha và biến bánh và rượu thành chính
mình và máu thánh Người cho chúng ta ngày nay ăn và uống như
các Tông đồ đã ăn và uống lần đầu tiên trong bữa ăn cuối
cùng của Chúa cách nay trên 2000 năm.
Mặt khác, cũng trong
Thánh Lễ Tạ Ơn, Chúa Kitô, qua tác vụ của tư tế thừa tác
(Giám mục và Linh mục), lại hiện diện cách bí tích để
diễn lại Hy Tế cứu chuộc mà một lần Người đã dâng trên thập
giá năm xưa. Và mỗi lần Hy Tế thập giá này được cử hành
trên bàn thờ, nhờ đó “Chúa Kitô, chiên vượt qua của
chúng ta chịu hiến tế (1 Cor 5,7) thì công trình
cứu chuộc chúng ta được thực hiện.” ( x. LG. 3).
Nghĩa là mỗi lần Thánh
Lễ Tạ Ơn hay Lễ Misa được cử hành thì Giao Ước mới ký
bằng máu Chúa Kitô lại được canh tân, nhờ đó ơn cứu độ
của Chúa lại được ban phát cho chúng ta ngày nay như đã ban
phát cho con người lần đầu tiên khi Chúa dâng Hy Tế của
Người lên Chúa Cha trên thập giá để xin ơn tha tội cho cả và
loài người đáng bị phạt vì tội lỗi.
Như thế, Thánh Lễ Tạ Ơn
không phải là việc tưởng niệm (commemoration) một
biến cố của quá khứ mà là một hành động làm sống lại hay
hiện thực hoá (actualization) qua phụng vụ thánh những
gì Chúa Kitô đã làm trong bữa ăn sau cùng tối thứ năm và sau
đó trên thập giá ngày thứ sáu hôm sau để hoàn tất công cuộc
cứu chuộc nhân loại của Người.
Đây cũng là việc
phụng thờ cao trọng nhất mà Giáo Hội dâng lên Chúa Cha
nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần.
Thánh Công Đồng
Vaticanô II, trong Hiến Chế Tín lý Lumen Gentium,
đã dạy rằng: “Thánh Thể là nguồn
mạch và là đỉnh cao của đời sống Giáo Hội”
( LG. 11), vì “Thánh Thể chứa
đựng tất cả kho báu thiêng liêng của Giáo Hội, tức chính bản
thân Chúa Kitô, Lễ Vượt Qua của chúng ta”
(x. SGLGHCG, số 1324).
Nói tóm lại, cử hành
Thánh Lễ Tạ Ơn là cử hành bí tích Thánh Thể, làm sống lại
bữa tiệc ly và Hy Tế thập giá của Chúa Kitô trên bàn thờ
ngày nay.
Trọng tâm của Thánh Lễ
là phút linh thiêng khi tư tế chủ tế đọc lại chính lời của
Chúa Kitô để biến bánh và rượu thành Mình và Máu thật của
Chúa như Giáo Hội tin khi cử hành phụng vụ thánh để “nhớ
đến Thầy” đúng theo lời
truyền dạy của Chúa Kitô cho các Tông Đồ hiện diện trong Bữa
Tiệc Ly. Như vậy việc truyền phép thánh thể
(consecration) phải được thực hiện trong khuôn khổ bữa tiệc
ly tức là thánh lễ tạ ơn với đầy đủ nghi thức phụng vụ
như Lễ Qui Roma đã ấn định, gồm hai phần chính là phụng
vụ lời Chúa và phụng vụ thánh thể.
1-
Như vậy, để trả lời câu hỏi thứ nhất, Giáo
luật số 927 cấm tư tế chỉ truyền phép một chất thể
(bánh hoặc rượu) hoặc truyền phép cả hai chất thể
ngoài thánh lễ. Nghĩa là chỉ được và phải truyền cả
hai chất thể trong thánh lễ mà thôi. Ngoài ra giáo luật cũng
qui định: khi cử hành hay giúp cử hành thánh Lễ, “Tư tế
và phó tế phải mặc lễ phục thánh như chữ đỏ qui định.”
(cf.can. 929).
Tuy nhiên, trong trường
hợp các linh mục bị tù đầy, không có đầy đủ phương tiện để
cử hành trọn vẹn thánh lễ, thì các ngài chỉ có thể cử hành
phần phụng vụ thánh thể, tức là chỉ truyền phép thánh thể
theo công thức còn nhớ thuộc lòng mà thôi. Dĩ nhiên đây chỉ
là trường hợp rất hạn hữu, bất khả kháng được phép. Thông
thường thì thánh lễ phải được cử hành trọn vẹn theo đúng Lễ
Qui Roma và phải có ít là một vài giáo dân tham dự.
(cf.can.907)
Cũng cần nói thêm về
tầm quan trọng của việc hiệp lễ (communion = rước lễ).
Hiệp lễ
là hành động cụ thể kết hợp ta với Chúa Kitô và với toàn
thể Giáo Hội là chi thể của Chúa. Hiệp lễ là cao điểm
của Thánh lễ vì qua việc rước Chúa Kitô vào lòng, chúng ta
được kết hiệp mật thiết với Chúa như Người đã phán
hứa: “...Thầy sống nhờ bởi Chúa Cha thì ai ăn Thầy
cũng sống nhờ Thầy như vậy.” (Ga 6:57).
Như thế còn gì cao
trọng hơn được kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô trong phép
Thánh Thể qua hiệp lễ hay ruớc lễ mỗi khi tham dự thánh lễ
tạ ơn. Nhưng việc này cũng phải làm trong khuôn khổ thánh
lễ mà thôi. Nghĩa là mọi tín hữu được mời gọi sốt sắng
tham dự thánh lễ và rước Mình Máu Chúa trong thánh lễ, trừ
trường hợp bất khả kháng không tham dự thánh lễ được vì bệnh
hoạn phải nằm ở nhà hay ở bệnh viện. Trường hợp này thì
được phép rước Mình Thánh Chúa ngoài thánh lễ, nhưng vẫn
phải giữ những điều kiện về sạch tội trọng và giữ chay tối
thiểu.
2- Liên quan đến câu hỏi thứ 2, xin nhắc lại
giáo lý của Giáo Hội về điều kiện phải có để được rước
Mình Thánh Chúa như sau:
Thánh Thể, về một chiều
kích, là bí tích hiệp nhất giữa Chúa Kitô và toàn thể
những ai tin và nhận công nghiệp cứu chuộc của Chúa.
Rước Mình Thánh Chúa trong Thánh lễ là gia tăng sự hiệp nhất
ấy với Chúa Kitô để được hưởng lời Chúa hứa ban: “Ai
ăn thịt và uống máu Ta thì được sống muôn đời và Ta sẽ cho
kẻ ấy sống lại ngày sau hết.” (Ga 6:54).
Như vậy, chỉ có
những tín hữu đang hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công
Giáo mới được phép lãnh nhận các bí tích của Giáo Hội, cách
riêng bí tích Thánh Thể mà thôi. Những người ngoài
Công Giáo, trừ anh em Chính Thống Đông Phương, không chia sẻ
niềm tin với Giáo Hội về nhiều phương diện, đặc biệt là về
chức Linh mục và phép Thánh Thể, nên không được mời rước
Mình Máu Chúa nếu họ có vì xã giao mà tham dự Thánh Lễ.
Người Công giáo,
nếu xét mình có tội trọng, cũng không được phép rước
lễ. (x.giáo luật
số 916; SGLGHCG, số 1385).
Ngoài ra, cũng không
được phép rước Thánh Thể những ai đang sống chung như vợ
chồng mà chưa hề kết hôn hợp pháp trong Giáo Hội, kể cả
những người đã ly dị ngoài toà nhưng chưa được tháo gỡ hôn
phối theo giáo luật mà lại sống chung như vợ chồng với người
khác.
Đây là gương xấu phải
tránh vì khi hôn phối cũ chưa được tháo gỡ (annulled) thì
vẫn còn hiệu lực dù đã ly dị ngoài toà dân sự. Do đó, sống
với người khác thì coi như công khai phạm tội ngoại tình
và đó là lý do tạm thời không thể lãnh các bí tích hoà
giải và Thánh Thể được.
Lm. PX. Ngô Tôn Huấn. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Bạn cám ơn Chúa. |
Tác
phẩm: Cầu Nguyện Cá Nhân: Bí quyết tình yêu và vui sống
Lm. Micae-Phaolô
Trần Minh Huy, pss.
Phần thứ hai
Đối thoại
với Chúa thế nào?
năm
Bạn cám ơn Chúa.
Khi bạn nói ‘Cám
ơn’, bạn đáp lại một người nào vì một ân huệ bạn đã nhận
lãnh của người đó (sự giúp đỡ, món quà, lời nói nhã
nhặn...). Khi bạn nói ‘Hoan hô’ là bạn ca ngợi người đó, vì
chính họ, một cách vô tư. Trong lời cầu nguyện của bạn, bạn
gặp cả hai khả năng: bạn cám ơn Chúa vì những ân huệ Chúa đã
làm cho bạn; bạn ca ngợi và thờ lạy Chúa trong khi chiêm
ngưỡng những đặc tính của Chúa, vượt quá những ân huệ của
Ngài.
‘’Ca ngợi’’ vô vị lợi hơn ‘’cám ơn’’. Nhưng để thuần túy ca
ngợi Chúa, bạn cần bắt đầu cám ơn Chúa về muôn ân huệ Chúa
đã ban cho bạn. Và lời cầu nguyện không ngừng đi từ cám ơn
đến ca ngợi, từ ca ngợi đến cám ơn, vì cái nhìn đức tin đưa
bạn từ thế gian đến Chúa và từ Chúa đến thế gian... Đó là
nhịp đi về của một con tim biết thán phục!
Một con tim biết thán phục
Có lẽ đôi khi bạn
thèm địa vị những người Dothái có được may mắn gặp gỡ Chúa
Giêsu bằng xương bằng thịt, được nghe Chúa, được thấy Chúa,
được trực tiếp chứng kiến bao nhiêu phép lạ Chúa làm! Trái
tim họ reo vui trong một sự thán phục liên lĩ! Bạn đừng lầm
tưởng. Hôm qua cũng như hôm nay, trái tim con người vẫn chai
đá trong việc đón nhận những kỳ diệu của Chúa. Dĩ nhiên các
phép lạ của Chúa Giêsu mang lại nhiều thành công, song đám
đông chỉ vội vã lợi dụng các phép lạ ấy thôi. Chúa Giêsu
không để bị ảo tưởng đâu:
“Lúc Chúa Giêsu vào
một làng kia, có mười người phong cùi đón gặp Người. Họ dừng
lại đàng xa và kêu lớn tiếng: ‘Lạy Thầy Giêsu, xin rủ lòng
thương chúng tôi’. Thấy vậy, Chúa Giêsu bảo họ: ‘Hãy đi
trình diện với tư tế.’ Đang khi đi thì họ được lành sạch.
Một người trong bọn thấy mình được khỏi liền quay trở lại và
lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân
Chúa Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samaria. Chúa Giêsu
mới nói: ‘Không phải cả mười người đều được lành sạch sao?
Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn
vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang nầy?’’ (Lc. 17:
12 -18).
Còn bạn? Bạn có xúc
động trước sự ngạc nhiên đau đớn của Chúa Giêsu trước 90% vô
ơn không? Bạn có sẵn sàng chạy đến Đấng Cứu Chuộc bạn với
tâm hồn nghèo khó không? Bạn đang sống trong một thế giới mà
người ta loại bỏ mọi phục vụ tình nguyện (không công, miễn
phí), để mở rộng vương quốc của lợi lộc. Nếu làm một cuộc
thăm dò về số người không cám ơn Chúa thì chắc chắn kết quả
sẽ giống trường hợp mười người phong cùi. Chúng ta xử sự rất
giống những đứa con hư, luôn nghĩ rằng cái gì người ta cũng
phải làm cho chúng. Khi nào thì chúng ta mới trở nên những
đứa con biết ơn và thán phục, vì cái gì người khác làm đều
là ân huệ đối với chúng ta?
Tạ ơn Chúa, 10% biết
ơn đang có đó, ít ỏi nhưng có mặt. Tôi kể cho bạn kinh
nghiệm nầy: một bà mẹ gia đình bị bệnh ung thư, hiện tại có
vẻ khoẻ mạnh nhưng tương lai thì không biết sao, bà xin chịu
phép xức dầu bệnh nhân, bà viết: “Con hết sức xúc động khi
nhận bí tích xức dầu bệnh nhân. Con tin chắc rằng lúc ấy,
Chúa Giêsu đã bồng con lên, đã nâng đỡ con... con tràn ngập
bình an và vui sướng. Con ao ước chớ gì thời gian đừng qua
đi. Sẽ không bao giờ con quên...’’
Khi nghe một lời cám
ơn như thế, tôi cũng tràn ngập lòng biết ơn. Là linh mục,
tôi được phúc chiêm ngắm những việc kỳ diệu Chúa làm cho tha
nhân và chuyển đạt lên Chúa bao lời tạ ơn của anh chị em
đồng loại. Ôi lạy Chúa, xin cho con đừng bao giờ quên ơn
Chúa, xin Chúa vén mở cho con thấy những kỳ công của Chúa,
Danh Ngài là Thánh. Con cám ơn Chúa về tất cả, tinh thần lẫn
vật chất, quá khứ, hiện tại và tương lai, con cám ơn Chúa về
chính Chúa.
Bạn hiện hữu, món quà tốt đẹp biết bao!
Bạn cám ơn Chúa vì
được hiện hữu. Đó là tiếng kêu đầu tiên phải được thốt lên
tự đáy lòng biết ơn của bạn. Mỗi giây phút, Chúa tác tạo nên
bạn, vì Ngài yêu thích sự sống: “Tạng phủ con, chính Ngài đã
cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa
đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ
diệu!’’
Bạn ơi, cả khi một
kỷ niệm nặng nề còn theo bạn, vì đã phải trải qua những ngày
thơ ấu dường như ‘không có tuổi thơ’, thì dưới cái nhìn của
Thiên Chúa và trong niềm vui của Thánh Thần, bạn hãy ghi lại
mọi biến cố hạnh phúc của cuộc đời bạn. Bạn hãy nhìn đến mọi
dấu hiệu của lòng tốt đã đến với bạn từ khi bạn còn nhỏ.
Thay vì quay lại vòng luẩn quẩn của những hụt hững cũ xưa,
bạn hãy viết cuốn sách vàng những ngỡ ngàng kỳ diệu. Bạn hãy
cầu nguyện với Cha bạn đang ngự trong kín ẩn và thưa lên với
Ngài lời cám ơn vui tươi về mỗi một ân huệ Ngài đã tặng ban.
Ngay khi bạn cảm
thấy tận trong đáy lòng bạn, lòng biết ơn bao la về tất cả
những gì bạn đã nhận lãnh, bạn cũng ước muốn đem chia sẻ.
Cái nhìn của bạn về người khác sẽ rất niềm nở và thân ái,
đến đỗi bạn muốn nói với mỗi một người rằng ‘cám ơn vì đã có
mặt’. Chính đó là phương thế tốt nhất đập tan băng giá dửng
dưng hay ngờ vực, là những thứ cản trở chúng ta yêu thương
lẫn nhau. Bạn hãy tưởng tượng bạn đang đi qua một nơi tối
tăm nguy hiểm, có kẻ rượt đuổi để hãm hại bạn, bỗng bạn gặp
được người, ôi sự có mặt giải thoát cho bạn, dù người đó
bình thường bạn không ưa! Nếu bạn thực sự có lòng biết ơn:
một cái gì mới mẻ, tốt đẹp hơn bắt đầu chớm nở...
Tôi mong ước bạn
luôn còn có thể nói đi nói lại lời ‘cám ơn vì đã có mặt’
nầy, không phải chỉ cho bạn, không phải chỉ cho những anh
chị em bạn gặp gỡ trên đường đời của bạn, mà còn cho mọi tạo
vật. Cho các thiên thần đang chiêm ngưỡng Chúa. Cho cộng
đoàn các thánh đang chia sẻ niềm hoan lạc. Cho tất cả mọi
thú vật lớn nhỏ, cho núi đồi và đại dương, cho cây rừng và
hoa đồng... Tôi có thể viết cho bạn đầy bao nhiêu trang sách
về lòng tốt của Chúa như thế! Nhưng tôi thích để bạn tự tìm
lấy. Bạn hãy để thời giờ chiêm ngắm công trình của Chúa:
sững sờ trước cánh chim bay, hay một đóa hoa đang nở... Bạn
hãy mơ về vĩnh cửu khi ở bên bờ biển cả, hay khi trải mình
trên nệm cỏ dưới bầu trời đầy sao...
Thánh Phaolô đã nói:
“Có cái gì bạn có mà bạn đã không nhận lãnh?’’ Đôi lúc cũng
phải biết dâng lên Chúa những nước mắt vui mừng bạn ạ! Bạn
hãy nghe một người bạn gái đồng tuổi bạn chia sẻ: “Cuộc sống
chỉ là hạnh phúc! Song chính con người đã làm cho nên đau
khổ! Chớ gì mọi người hiểu cho như vậy... Tôi ngỡ ngàng
trước vô vàn tình thương của Chúa, và tôi cũng chiêm ngưỡng
Ngài vì đã ban tặng cho tôi bao nhiêu ân huệ để chẳng nhận
lại được chi!’’
Được cứu độ, ân
huệ quí giá ngằn nào!
“Đau khổ biến tan
trước vẻ đẹp’’, nhưng có biết bao vẻ đẹp bị tan biến vì đau
khổ. Thật khó cám ơn khi bị bạo lực buộc trói, khi thất bại
chua cay, khi bệnh hoạn đổ xuống và hủy hoại dần dần cái
thân xác hay tấm tinh thần nầy! Càng bất lực trước những đổ
vỡ ghê tởm làm nên bất hạnh của thế giới, càng mất đi cảm
thức về cái đẹp, càng ngụp lặn trong đêm tối ngờ vực và
tuyệt vọng dày vò.
Chỉ có một phương
cách để thoát ra là bạn hãy nhớ đến những kỳ công của ơn cứu
rỗi. Thiên Chúa không bỏ rơi con người trong số phận buồn
thảm của nó. Từ đầu và trong suốt dòng lịch sử, Ngài đã luôn
can thiệp để cứu chuộc con người. Đọc lại cuộc đời bạn, đọc
lại lịch sử, những khám phá bao kỳ công Chúa đã làm cho Dân
Ngài, bạn có cái gì nuôi dưỡng niềm hy vọng, và bạn sẽ nhận
thấy một sự tất nhiên mới mẻ: hoài niệm tình thương chiến
thắng hoài niệm sự chết, và bạn sẽ không ngừng ca hát “Tạ ơn
Chúa, vì tình thương Ngài tồn tại đến muôn đời’’
Trên chóp đỉnh của
lịch sử dài cứu độ là Đấng Cứu Thế Giêsu, Vật Hy Sinh dâng
làm hiến tế, Đấng Công Chính được phó nộp vì kẻ bất lương,
Ngài đã mang lấy tất cả tội lỗi của thế gian. Ngài đã chịu
mọi khổ đau của con người trong cuộc thương khó. Ngài đã đổ
đến giọt máu cuối cùng cho bạn. Mỗi phút giây của cuộc tử
nạn đổ xuống trên toàn thể nhân loại một hồng thủy tình yêu
vô biên. Làm sao mà bạn có thể lãng quên đi được? Và với
thành quả quyết định là sự phục sinh, lời tạ ơn sẽ vang lên,
mặc dầu đau khổ. Tôi nói ‘mặc dầu đau khổ’ mà không nói ‘vì
đau khổ’. Tôi không chấp nhận tôn vinh đau khổ vì cớ nó giúp
vượt quá anh hùng. Tuy nhiên phải nhận rằng những thử thách
cam go nhất là môi trường tạ ơn tinh tuyền nhất.
Không bao giờ tôi
quên được chứng từ của một thanh niên phế tật sau một tai
nạn ôtô. Khi đến Paray-le-Monial (nơi Chúa Giêsu tỏ Thánh
Tâm Ngài cho thánh nữ Margarita), anh mang trong lòng một
nỗi xao xuyến sâu xa: sợ xưng tội và sợ gặp linh mục. Anh
không còn sử dụng được đôi chân mà cũng không còn nói được,
phải viết để truyền thông với kẻ khác. Qua ngày thứ tư của
khóa đặc sũng, anh được ý muốn xưng tội thúc đẩy. Anh bắt
đầu viết tội mình lên giấy, nhưng không biết làm thế nào để
gặp linh mục. Sau thánh lễ, chính linh mục tìm đến gặp anh.
Đoán được ước muốn của anh, linh mục thân ái mời anh xưng
tội. Anh đưa cho linh mục đọc tờ giấy anh ghi chi tiết tội
lỗi trong mười năm của anh. Đọc xong, linh muc ban phép giải
tội và nói tiếp: “Chúa Giêsu tha thứ cho anh, bây giờ anh
hãy cám ơn Ngài đi.’’ Người thanh niên cố thử, nhưng không
một lời nào thoát ra khỏi miệng anh. Linh mục nhấn mạnh:
“Không, không, tôi muốn nghe anh nói ‘Cám ơn Chúa Giêsu’’ và
ngài đặt tay trên anh. Anh chia sẻ: “Bấy giờ, tôi cảm thấy
nóng trong cổ họng, rồi đến toàn thân. Và lần đầu tiên từ ba
năm nay, tôi đã có thể thốt ra một tiếng nghe được ‘cám ơn
Chúa Giêsu’. Tôi đã khóc nức nở mấy phút liền, rồi tôi bắt
đầu ‘’Kính Mầng Maria đầy ơn phước...’’
Chứng từ của anh
giúp ích cho việc xưng tội: đừng ngại nói hết, coi linh mục
như là Chúa Giêsu đang ở bên cạnh bạn, lấy đi tất cả tội lỗi
của bạn. Bởi đâu mà có quyền lực phục sinh như vậy, nếu
không phải từ Thánh Giá Chúa Kitô? Từ trên cao của thập giá,
Ngài kêu lên với bạn: “Cha khát chính con, cha khát câu đáp
trả tình yêu của con.’’
Bạn hãy dâng lên Ngài ngàn tiếng ‘cám
ơn’
Để việc cám ơn xâm
chiếm cả cuộc sống thường nhật của bạn, bạn hãy dâng bản
thân bạn qua ngàn lời cám ơn. Bạn hãy mở mắt ra với tất cả
những gì là đẹp, là tốt. Hãy mở rộng trái tim bạn. Hãy học
bí quyết của niềm vui.
Phương thế hữu hiệu
là Nụ Cười. Ai nói được sức mạnh phi thường của nụ cười? Là
bông hoa nhiệm mầu của tình yêu, nụ cười chứng tỏ cho tất cả
mọi người biết rằng có một sự hiện diện bí mật đổ đầy trái
tim bạn. Nụ cười là kiểm chứng quyết định cho tính chất lời
cầu nguyện cá nhân của bạn. Trong lãnh vực nầy, trẻ em là
thầy dạy của chúng ta.
Bạn hãy nghe chứng
từ nầy: “Trái tim lạnh giá, tôi lên xe ca chở vào thành phố.
Tôi đã quyết định tự vận. Lúc ấy, tôi cảm thấy như có ai
đang nhìn tôi. Đó là một em bé gái mới bốn, năm tuổi. Đôi
mắt em tràn đầy thân thiện. Em đã mĩm cười. Và tôi đã hiểu
rằng ánh sáng của một cái nhìn còn rộng lớn hơn cái trống
rỗng hư vô kia, và rằng còn có một cái gì đang hứa hẹn, và
rằng phải sống.’’
Niềm vui ấy không dễ
dàng. Lời tạ ơn đích thực là hoa trái của con đường thập
giá. Chính vì thế mà Kinh Thánh nói ‘’Hiến tế tạ ơn’’. Phải
sống sâu xa mầu nhiệm tạ ơn: Bí tích Thánh Thể là lời tạ ơn.
Khi bạn tham dự Thánh lễ, bạn vào trong hoạt động tạ ơn của
Giáo Hội, liên kết với Chúa Kitô. Sau truyền phép, linh mục
công bố: Đây là mầu nhiệm trọng đại của Đức Tin.
Nếu bạn hiểu được
giá trị kho báu bạn lãnh nhận trong hiệp lễ, trái tim bạn sẽ
tràn ngập lòng biết ơn. Bạn sẽ tìm được nơi mỗi thánh lễ
chóp đỉnh và suối nguồn của lời cầu nguyện, của công việc,
của mọi hoạt động của bạn. Vì vậy tôi khuyên bạn nối liền
lời cầu nguyện của bạn với việc rước lễ. Sau khi rước lễ,
dùng một thời gian để cám ơn là điều rất quan trọng. Khi nào
có thể được, bạn nên kéo dài thời gian cám ơn đó.
Hãy giữ trong trái
tim bạn hương vị kết hiệp với Chúa Kitô. Buổi mai vừa thức
dậy, bạn dâng cho Chúa ngày sống của bạn, những niềm vui,
những khổ nhọc, những người bạn gặp gỡ, mưa dầm hay nắng
đẹp... Bạn hãy trở nên ‘tư tế’, vì đó là ơn gọi kitô hữu của
bạn. Dân tộc tư tế mà bạn là thành phần có nhiệm vụ hiến
dâng không ngừng Hiến Tế Tình Yêu ‘’vì vinh danh Chúa và
phần rỗi thế gian’’.
Bạn đừng bao giờ
quên cái địa vị trung tâm của việc tạ ơn trong đời sống kitô
hữu. Tất cả lời cầu nguyện và mọi hoạt động của một người
công giáo phải được tắm gội trong việc tạ ơn liên lĩ, như
thánh Phaolô lặp đi lặp lại trong các thánh thư của ngài.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Phòng bệnh hơn chữa bệnh |
Kinh nghiệm cổ nhân Âu Á
đều cho rằng ngăn ngừa bệnh là việc làm cần thiết và quan
trọng hơn là để bệnh xảy ra rồi mới trị bệnh.
Thực vậy, khi có dấu hiệu
thì bệnh đã gây ra những rối loạn về tinh thần và tàn phá về
thể chất của con người. Và dĩ nhiên khi bệnh đã xảy ra là
phải chữa chạy, nếu không thì đời sống sẽ bị thu ngắn.
Bà An ăn uống buông thả
để đến nỗi ngày một mập phì, dư ký rồi bị bệnh tiểu đường.
Đường huyết lên cao, gặm nhấm những mạch máu nhỏ của võng
mạc, đưa tới thoái hóa thị lực. Đường huyết quá cao, làm suy
nhược tế bào cấu tạo trái tim, tim bóp yếu, máu ra ít, thiếu
chất dinh dưỡng nuôi cơ thể. Rồi lâu ngày bản thân trái tim
cũng rối loạn trong nhịp đập. Lại còn suy thận, rối loạn cảm
giác bàn chân, bàn tay.
Ông Lưu tiếp tục phì phèo
khói thuốc lá cả hơn hai chục năm, rồi bị ung thư phổi. May
mà khám phá ra sớm, bệnh chỉ mới khoanh gọn một cục nhỏ,
chưa kịp di căn, phẫu thuật cứu mạng. Nhưng một phần của lá
phổi đã ra đi, nên sự hô hấp trở thành khó khăn, thay đổi
thời tiết là khó thở, ho hen suyễn lên suyễn xuống.
Bây giờ ngồi nghĩ lại thì
bà An, ông Lưu mới “giá mà, ví thử”.
Giá mà mình bớt mồm bớt
miệng, giữ gìn ăn uống, không mập phì.
Ví thử như mình nghe lời
bà xã can ngăn, không hút thuốc.
Thì đâu bây giờ phải mang
họa vào thân.
Vì thế, phòng bệnh được
coi như ưu tiên hơn chữa bệnh là vậy.
Quan niệm phòng bệnh hơn
chữa bệnh chẳng phải mới mẻ gì.
Từ thuở xa xưa, các bà mụ
của ta đã biết rửa tay sạch sẽ trước khi đỡ đẻ, đã hơ nóng
dao kéo trong lửa trước khi cắt rún để mẹ con không bị uốn
ván, nóng sốt.
Hải Thượng Lãn Ông
(1720-1791) đã khuyên:
“Chớ dùng nước ruộng
nước ao,
Nước hồ nước vũng,
nước nào cũng dơ.
Chỉ dùng nước giếng
nước mưa,
Nước sông nước suối
cũng chưa an toàn”
vì nước từ trời rơi
xuống, không có loăng quăng, bọ gậy, vẩn đục như nước sông
nước ao gây ra đau bụng, tiêu chảy.
Danh y Hoa Kỳ Oliver W.
Holmes (1809-1894), Giáo sư Đại học y Harvard, có viết “To
guard is better than to heal; The shield is nobler than the
spear”. Đề phòng tốt hơn chữa trị; Tấm mộc tuyệt hảo hơn
cái giáo”
Khoa học ngày nay đã hệ
thống hóa và cổ võ, phổ biến sự phòng tránh bệnh khiến cho
nhiều loại bệnh một thời tung hoành đều đã bị xóa sổ và một
số bệnh khác cũng giảm tần số, nhờ đó tuổi thọ nâng cao.
Phân loại
Một cách tổng quát, phòng
bệnh có nhiều cấp với mục tiêu khác nhau.
- Phòng tránh loại 1
Ngăn ngừa không cho bệnh
tật hoặc các điều kiện xấu xảy ra.
Thí dụ dùng bao cao su để
tránh nhiễm trùng khi giao hợp, chủng ngừa các bệnh nhiễm
như yết hầu, tê liệt trẻ em, viêm gan A và B…
- Phòng tránh loại 2
Nhận diện, khám phá ra
các mầm bệnh từ lúc chưa có dấu hiệu hoặc chưa có thay đổi
chức năng, cấu tạo các bộ phận, rồi áp dụng điều trị ngay để
trì hoãn hoặc ngăn chặn không cho
bệnh xuất hiện.
Chẳng hạn
như chụp x-quang
nhũ hoa để sớm tìm ra ung thư vú, đo huyết áp theo định kỳ
để sớm biết huyết áp có cao…
- Phòng tránh loại 3
Ngăn ngừa không cho biến
chứng, hậu quả xấu của bệnh tật xảy ra.
Chẳng hạn tránh khuyết
thị, suy tim, suy thận trong bệnh tiểu đường, hoặc áp dụng
vật lý trị liệu, y khoa phục hồi để lấy lại sự cử động của
chân tay bị tê liệt sau tai biến não…
Nguy cơ cần phòng tránh
Khi phòng tránh thì phải
biết phòng tránh với những tác nhân, những nguy
cơ gây bệnh nào. Chẳng hạn:
- Ảnh hưởng
xấu của môi trường như thời tiết khắc nghiệt, thiên tai bão
lụt
- Hậu quả
của chiến tranh, bạo lực
- Sự xâm
nhập của vi sinh vật, hóa chất
độc hại
- Nếp sống không bình
thường của con người
- Hậu quả, biến chứng của
bệnh hoạn, thương tích
- Những biến đổi, thoái
hóa tự nhiên trong cấu tạo và chức năng các bộ phận cơ thể
- Hậu quả không lường
trước của khoa học, kỹ thuật
- Ảnh hưởng cùa các hoàn
cảnh xã hội như nghèo khó, kém giáo dục, bất công xã hội,
bất lực độc quyền hành chánh
Nơi áp dụng phòng tránh
-
Tại cơ sở y tế như bệnh viện, phòng khám bệnh của bác sĩ
hoặc trong địa bàn hoạt động cộng đồng
- Qua nếp sống lành mạnh
của mỗi cá nhân: dinh dưỡng cân bằng hợp lý, không lạm dụng
rượu thuốc cấm, vận động cơ thể đều đặn…
- Cải thiện môi trường
như cung cấp nguồn nước uống tinh khiết, giảm thiểu ô nhiễm
không khí,
- Qua các hành động xã
hội, chính trị, kinh tế, học vấn…như cung cấp kiến thức về
bệnh tật, giảm thiểu nghèo khó, bảo đảm an ninh khu phố xóm
làng, bài trừ tệ đoan xã hội…
Một thí dụ để giảm bệnh
do hút thuốc lá cần sự hợp tác của nhiều biện pháp như giới
hạn hút thuốc ở từng địa điểm, không quảng cáo thuốc lá,
giải thích cho quần chúng về tác hại của thuốc lá với sức
khỏe, đưa ra các phương thức giúp người ghiền ngưng hút
thuốc…
Đồi tượng của áp dụng phòng tránh
- Toàn thể dân chúng với
các hướng dẫn chung về sức khỏe, bệnh tật, về y khoa phòng
ngừa, dinh dưỡng
- Riêng rẽ cho tuổi tác
và nam nữ với bệnh riêng của mỗi nhóm
- Cho những người có
nhiều rủi ro mắc bệnh từ bẩm sinh khi có bệnh di truyền
trong gia đình
- Những người vì lý do
hoàn cảnh nghề nghiệp mà tiếp cận với nguồn gây bệnh như
công nhân hầm mỏ, rừng thiêng nước độc, trong kỹ nghệ hóa
chất, chăm sóc bệnh nhân.
Ưu khuyết điểm của phòng ngừa
Phương pháp phòng tránh
có ưu, khuyết điểm.
Ưu điểm như:
- Một số bệnh nhiễm đã bị
xóa sổ, một số khác giảm hẳn nhờ có chủng ngừa.
- Tỷ lệ ung thư cổ tử
cung giảm kể từ khi phương pháp thử nghiệm Pap được áp dụng
- Tử vong do tai nạn xe
cộ giảm vì người điều khiển xe ý thức được sự ích lợi của
dùng dây an toàn trên ghế và đội nón bảo hiểm
- Tỷ lệ biến chứng tai
biến não giảm nhờ dân chúng biết cách phòng ngừa bệnh cao
huyết áp, cao cholesterol trong máu.
Chiến dịch cổ võ ngưng
hút thuốc lá đã giảm thiểu rủi ro ung thư phổi…
Và nhiều thí dụ khác.
Tuy nhiên, sự phòng tránh
cũng tạo ra vài khó khăn, trở ngại, chẳng hạn:
- Chủng ngừa bệnh có thể
gây tác dụng phụ hoặc gặp sự chống đối vì lý do tôn giáo
- Áp dụng kỹ thuật phát
hiện bệnh có thể gây ra tai nạn như nội soi làm thương tổn
ruột già
- Ngồi xe lăn để có thể
di chuyển thì cũng có thể té ngã, lật xe…
- Áp dụng phòng ngừa tốn
kém tài chánh cho nhà nước và cá nhân
- Phát kim chích cho
người ghiền để tránh lây lan HIV là khích lệ họ chích choác,
phát bao cao su la khích lệ hoạt
động tình dục.
Kết luận
Nói chung, sự phòng ngừa
bệnh có nhiều tác dụng tốt hơn là một số trục trặc khiêm
nhường.
Chẳng thế mà Thomas A.
Edison (1847-1931), nhà sáng chế lỗi lạc của Hoa Kỳ đã tiên
đoán: “Trong tương lai, bác sĩ sẽ không biên toa thuốc mà
sẽ làm cho bệnh nhân quan tâm nhiều hơn tới sự chăm sóc cơ
thể, dinh dưỡng và nguyên nhân cũng như sự phòng tránh bệnh
tật”.
Vì theoTiến sĩ John
Knowles, nguyên Chủ Tịch Quỹ Rockefeller Foundation: “Hơn
99% chúng ta đều khỏe mạnh khi sinh ra và chỉ trở nên bệnh
hoạn vì hậu quả của hành động cá nhân không đúng đắn và của
các điều kiện môi trường”.
Tiến sĩ
Y Khoa Nguyễn Ý- Đức
Texas- Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BÀN VỀ CON CHUỘT, Chuyện phiếm của
Gã Siêu |
Số báo xuân năm Mậu Tý, viết về loài
chuột thì quả là điều rất hợp tình và hợp lý. Mặc dầu thật
gần gũi, thậm chí còn thường xuyên chung sống dưới một mái
nhà, thế nhưng lũ chuột lại gây nên nhiều bực bội và tức tối
cho con người.
Chẳng hạn cô nàng bực bội khi thấy
chiếc áo mới may hay cuốn sách mới mua của mình bị chuột gặm
nham nhở, còn bác nông dân thì tức tối khi thấy những cây
lúa xanh tươi của mình bỗng đổ ngả đổ nghiêng trên ruộng
đồng vì bị chuột cắn te tua…Và còn nhiều phiền toái khác
nữa. May ra chuột chỉ được một vài anh chàng bợm nhậu ưa
thích mà thôi vì thịt của nó có thể được chế biến thành
những món…khoái khẩu để đưa cay.
Tuy nhiên, khi đi tìm những mẩu chuyện
về loài động vật nhiều ghét ít thương này, gã chẳng thu lượm
được bao nhiêu tài liệu. Thôi cũng đành phải tán hươu tán
vượn, ba hoa chích chòe một chút, để được yên lòng yên chí
mà ăn cái tết con chuột giữa lúc vật giá đang leo thang đến
nổ cả đom đóm mắt và tối tăm cả mặt mũi.
Chuyện chuột bên
Ta.
Người ta đồn rằng :
Ông Bả Vệ là một bậc thầy trong lãnh
vực nói dóc. Có lần trong lúc trà dư tửu hậu, ông ta đã kể
cho đám bè bạn của mình một mẩu chuyện như sau :
- Tớ có một chiếc lưỡi hái sắc ơi là
sắc. Các ông có biết nó sắc như thế nào hay không ?
Dường như để gợi sự tò mò của các chiến
hữu, ông ta bèn bắn một điếu thuốc lào, thả khói ra bằng hai
lỗ mũi, tợp một ngụm trà nóng, rồi mới đủng đỉnh giải thích
:
- Các ông biết không, khi mùa màng
xong, để bảo quản chiếc lưỡi hái, tớ phết lên nó một lớp mỡ
lợn hầu chống han dỉ, rồi đem cất đi. Thế nhưng sáng hôm
sau, bên dưới chiếc lưỡi hái, tớ thấy toàn là lưỡi chuột,
gom lại được những một đĩa đầy. Té ra đêm hôm ấy, đánh hơi
thấy mùi mỡ thơm phưng phức, họ hàng nhà chuột bèn khẩn
trương, thi nhau đến, liếm lấy liếm để vào chiếc lưỡi hái.
Thế nhưng, vì lưỡi hái quá sẵc, nên chú chuột nào liếm vô,
thì lưỡi liền bị đứt ngay lập tức.
Dĩ nhiên đây chỉ là một truyện tưởng
tượng chứng tỏ cái tài nói dóc của ông Bả Vệ, để rồi ông ta
xứng đáng được mang hàm “sư tổ ăn tục nói phét”.
Chuyện chuột bên
Tây.
Người ta kể lại rằng :
Vào một buổi sáng đẹp trời, chú chuột
nhắt bỗng dưng xuất hiện trên phần đất của vợ chồng nhà voi
tại sở thú Nữu Ước bên nước Mỹ. Nhìn thấy chú chuột nhắt,
bỗng chị voi cái hoảng sợ, mặt xám đen như cắt không còn một
giọt máu, rồi chạy tới chạy lui. Anh voi đực thấy thế bèn
giận thâm cả gan và tím cả ruột. Anh ta trừng mắt nhìn chị
voi cái.
Thế nhưng chị voi cái lại càng hoảng sợ
hơn nữa khi chú chuột nhắt mon men bò tới gần. Còn anh voi
đực thì nộ khí bốc lên bừng bừng vì cho rằng hành động của
chị voi cái đã làm mất mặt bầu cua giữa thanh thiên bạch
nhật.
Thực vậy, anh voi đực nghĩ rằng :
- Mình đường đường là một loại thú oai
phong lẫm liệt, mang cái thân xác to lớn và lực lưỡng vào
bậc nhất trong các loài động vật, thế mà lại đi sợ cái thằng
nhãi ranh chuột nhắt, thì còn ra cái thể thống quái gì nữa…
Anh voi đực giậm chân giậm cẳng xuống
đất, như muốn làm rung chuyển cả cây cối chung quanh. Cặp
mắt long lên sòng sọc, bừng bừng ngọn lửa tức giận. Vốn tính
vũ phu chi cục mịch, anh voi đực đã dùng cặp ngà của mình
cùng với tất cả sức lực, hất tung chị voi cái.
Rầm một phát, chị voi cái đã nằm lọt
thỏm dưới cái hố sâu bên cạnh, trước sự ngơ ngác và xào xạc
của bày chim. Chỉ tội nghiệp cho những nhân viên sở thú. Họ
phải dùng tới cần cẩu mới trục được chị voi cái lên khỏi cái
hố.
Tới lúc này, anh voi đực xem chừng như
hối hận, thiếu điều vài giọt lệ khan hiếm muốn tuôn rơi khỏi
khóe mắt. Chỉ vì sự nóng giận trong thoáng chốc của mình mà
đã gây nên đau đớn dài dài cho người bạn đời thân thương
nhất : Chị voi cái chân đi cà nhắc vì bị sụm bà chè sau cú
hất tung như trời giáng ấy.
Anh voi đực thấm thía nhận ra một sự
thật :
- Thì ra loài người họ vẫn khôn và có
lý hơn mình, khi khuyên nhủ lẫn nhau : Già néo thì đứt dây,
giận quá thì mất khôn…
Chỉ vì một con chuột nhắt mà gia đình
nhà voi đã nên nông nỗi này. Chỉ vì những lý do cỏn con, hay
những chuyện không đâu, mà gây ra những đổ vỡ tang thương.
Chuyện chuột bên
Tàu.
Sách viết rằng :
Thầy Tô Đông Pha, một đêm kia đang nằm
ngủ, bỗng nghe tiếng chuột rúc rích. Thày đập tay xuống
giường ra vẻ ta đây vẫn còn thức, liệu hồn mà im đi. Im được
một lát, chú chuột nhắt lại sột soạt như cũ. Thầy bèn sai
thằng bé đốt đèn đi kiểm tra xem có chiếc hòm nào rỗng hay
không.
Cót ca cót két trong cái hòm. Một chú
chuột nhắt đang cố gắng cắn cái hòm, vì nắp hòm đã bị đóng
chặt, không thể thoát ra được.
Thằng bé mở nắp hòm ra xem, thoạt tiên
không thấy gì cả. Cầm đèn giơ vào soi thì thấy có một chú
chuột nhắt nằm yên dường như đã chết. Thằng bé lấy làm lạ
bèn nói :
- Rõ ràng nó vừa cắn mà đã chết ngay
được sao ? Hay là tiếng cót két của ma ?
Thầy Tô than rằng :
- Lạ thay cái khôn của con chuột nhắt.
Bị nhốt trong hòm. Hòm lại quá cứng, không khoét ra được một
lỗ thoát thân, thế nhưng nó vẫn cứ cắn, cốt tạo nên tiếng
kêu, khiến người ta phải để ý tới. Không chết mà giả vờ chết
để được chạy thoát.
Rồi Thầy tiếp tục lý luận :
- Ta nghe phàm trong các vật sống,
không gì khôn hơn con người. Thực vậy, con người bắt được
rồng, đánh được thuồng luồng, bẫy được rùa, săn được lân,
sai khiến được muôn vật, thế mà không ngờ rốt cuộc lại bị
mắc kế lừa gạt của một con chuột nhắt.
Tác giả ghi lại câu chuyện trên, đã
thêm vào đó một lời bàn, giống như lời bàn của Kim Thánh
Thán trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, như sau :
- Con chuột nhắt giả chết, rồi thừa lúc
thầy Tô Đông Pha vô ý mà chạy thoát, làm cho thầy phải giật
mình để bàn về sự dại và khôn, cũng như về cái lẽ cần thiết
phải tập trung tư tưởng. Làm việc gì cũng vậy, không chú ý
và không tin tưởng vào việc đó, thì không thể thành công. Ý
lực yếu đi, lòng không thành khẩn, thì dễ bị người ngoài sai
khiến. Người mạnh là người có được cái đích chắc chắn để noi
theo, không gì bên ngoài có thể làm lay chuyển được.
Riêng phần gã, nhiều lần gã cũng đã
phải trải qua cái kinh nghiệm trên của thầy Tô Đông Pha.
Gã bực bội đến mất ngủ chỉ vì những
tiếng sột soạt của chú chuột nhắt, đang đêm bò tới cắn kệ
sách, hay gậm nhấm từng sợi dây điện của dàn vi tính. Chỗi
dậy, đập tới đập lui, rồi yên chí chui vào giường ngủ tiếp.
Thế nhưng, chỉ được một lát, những tiếng sột soạt ấy lại
tiếp tục vang lên giữa đêm hôm khuya khoắt.
Gã khâm phục trước sự khôn ngoan của
loài chuột, nhất là những chú chuột nhắt trong nhà. Có lần
trong giờ nghỉ trưa, gã đã hé mắt nhìn thấy một chú chuột
nhắt mở nắp chiếc hộp và lấy ra được một hạt đậu phộng, hay
tha giấy vụn vào những chỗ mà gã không thể ngờ tới, để mà
làm tổ.
Tuy nhiên, dù khôn đến đâu thì cũng vẫn
thua con người. Chẳng hạn để đánh bắt chuột nhắt trong nhà,
gã không cần đến mồi màng chi chả, chỉ cần…”ngâm kiú” đường
chuột chạy mà đặt bẫy, thế nào bọn chuột nhắt dễ ghét này
cũng bị dính chấu. Có đêm dính tới hai, ba con.
Chuyện chuột
bên Ta cũng như bên Tây.
Cũng vì sự khôn mà thiếu ngoan này, mà
loài chuột đã để lại những hậu quả tai hại cho dòng họ nhà
mình, cũng như cho bàn dân thiên hạ.
Thực vậy, trong khi tìm hiểu về loài
chuột, gã bắt gặp câu thành ngữ sau đây :
- Cột lạc cổ mèo, hay cột nhạc cổ mèo.
Tác giả Lê Gia, trong cuốn “Về cội
nguồn” đã giải thích như sau :
Trước tình hình dân số mỗi ngày một
giảm sút, vì bị mèo xơi tái, dòng họ nhà chuột bèn tổ chức
một đại hội để tìm mưu tính kế đối phó với mèo.
Các vị đại biểu dòng họ nhà chuột, từ
chuột nhà đến đồng, từ chuột bạch đến chuột chù, đều thi
nhau phát biểu. Ý kiến của chúng đều được ban thư ký ghi
nhận và rồi sẽ…ngâm kíu sau.
Cuối cùng một bác chuột cống thâm niên
quân vụ, trụi hết cả lông và giàu kinh nghiệm chiến trường,
đã anh dũng leo lên diễn đàn và dõng dạc tuyên bố :
- Chỉ cần cột một cái nhạc (lục lạc)
vào cổ mèo, để bất kỳ mèo đi tới đâu, thì chuông sẽ kêu reng
reng, chúng ta nghe thấy và tìm đường chạy trốn.
Tất cả hội nghị đều vỗ tay hoan hô
nhiệt liệt. Thế nhưng, khi đề cử người đi cột nhạc vào cổ
mèo, thì chẳng ai dám liều, dám mạo hiểm. Rốt cuộc đành bó
tay chịu thua, để cho mèo mặc sức tung hoành, xông xáo tìm
mồi.
Câu truyện trên muốn nói lên rằng : Ý
kiến ý cò thì rất hay nhưng khó mà thực hiện và cũng chẳng
ai làm được. Vì thế, đó chỉ là một kế hoạch không tưởng,
viển vông mà thôi.
Cũng có thể ý kiến ấy rất hay, nhưng
chẳng ai muốn giơ ngón tay lay thử, cho dù họ dư sức qua
cầu và có thể làm được một cách dễ dàng. Thế nhưng, nếu làm
thì phải chấp nhận hy sinh và phải gánh chịu những thiệt
thòi cho bản thân hay gia đình, nên họ bèn tỏ thái độ lờ lờ
thất văn, hay phớt tỉnh Ăng Lê. Họ là những kẻ khôn lỏi và
chạy theo chủ nghĩa lợi nhuận. Hễ thấy có lợi thì nhào vô
kiếm ăn, còn hễ thấy bị thiệt thòi hay phải hy sinh, thì lập
tức thì ca bản :
- Em chả dám đâu.
Họ cũng chủ trương rằng :
- Phàm mọi người vì mình thì đều là
điều tốt, chứ mình vì mọi người thì em xin… bó tay chào
thua.
Thành thử mãi mãi vẫn chỉ là những dự
án treo. Ước mơ rất nhiều, mà rốt cuộc lại chẳng được bao
nhiêu.
Tuy nhiên, hồi còn bé, có lần trong một
giờ học tiếng Pháp, gã đã phải viết bài chính tả mang tựa đề
“Conseil des rats”, tạm dịch là “Hội đồng chuột”. Gã không
nhớ tác giả là ai, nhưng mang cùng một nội dung như trên. Vì
thế, cho đến bây giờ gã vẫn cứ thắc mắc không hiểu Tây lấy
của Ta, hay Ta lấy của Tây ?
Sở dĩ gã rất nhớ cái kỷ niệm thương đau
về bài chính tả “Hội đồng chuột” này là vì ông thầy dạy
tiếng Pháp đáng kính của gã.
Thực vậy, cho đến bây giờ gã vẫn phải
luôn nhớ ơn ông, bởi vì vốn liếng tiếng Pháp mà gã còn lưu
giữ được tới ngày hôm nay, đều do sự “day bảo cứng rắn” của
ông.
Hồi đó, bọn học trò nghịch ngợm như lũ
ngựa chứng trong sân trường, đã đặt cho ông cái biệt danh là
thầy…hạ mã. Hạ mã có nghĩa là xuống ngựa, nhưng trong giờ
tiếng Pháp của ông, thì nó lại có nghĩa là …quì xuống.
Sư phạm mà ông áp dụng, đó là…”cưỡng
bức học tập”. Mỗi ngày mười tiếng ngữ vựng. Đầu giờ lớp sẽ
khảo bài. Tên nào chỉ thuộc được năm tiếng, thì a lê hấp :
- Hạ mã, quì xuống.
Sau khi đã cắt nghĩa xong bài văn phạm,
ông liền hỏi cả lớp :
- Hiểu chưa ?
- Dạ hiểu.
Ông nói tiếp :
- Vậy thì lấy vở ra làm bài tập.
Tên nào làm sai, thì cũng a lê hấp :
- Hạ mã, quì xuống.
Những tên trên trung bình thì ngồi vểnh
râu cá chốt, còn những tên dưới trung bình thì hạ mã, cúi
gầm mặt xuống. Cùng với đôi chân hạ mã và quì gối như vậy,
thì đôi tai phải lắng nghe bài luân lý giáo khoa thư mà ông
dõng dạc phán ra.
Bài chính tả hôm ấy, chẳng hiểu chia
lòng chia trí thế nào, mà gã chỉ được có bốn điểm rưỡi, và
thế là tự động, a lê hấp :
- Hạ mã, quì xuống.
Chính vì bị hạ mã và quì xuống như vậy
mà gã nhớ rất kỹ bài chính tả này. Viết tới đây, nỗi théc
méc nêu trên không hiểu Tây lấy của Ta, hay Ta lấy của Tây,
đã được giải mã, vì gã thầm nghĩ :
- Chuột Tây hay chuột Ta, thì bản chất
cũng vẫn chỉ là chuột mà thôi. Vì thế, câu chuyện lỡ có
trùng hợp nhau, thì cũng chỉ là chuyện thường ngày ở huyện.
Cũng vì sự khôn mà thiếu ngoan, hơn thế
nữa vì tài khéo đục khoét và rút ruột mà lũ chuột nhắt đã để
lại những sự rách nát tang thương. Chính vì thế mà trong dân
gian, người ta lưu truyền câu thành ngữ “đầu voi, đuôi
chuột”.
Câu thành ngữ này có hai ý nghĩa.
Ý nghĩa thứ nhất ám chỉ hành động ra
oai để ức hiếp người khác, thế nhưng khi gặp phải một tay cự
phách hơn, thì bèn cúi gập mình xuống để quị lụy, cũng như
để lươn lẹo và luồn lách.
Ý nghĩa thứ hai xuất phát từ một điển
tích :
Trình Giảo Kim, sống đời nhà Tùy và nhà
Đường, là một tay chơi…búa rất lợi hại. Tuy nhiên, chỉ có ba
búa đầu là mạnh mẽ như trời giáng. Vô phúc cho tên nào lãnh
đủ ba búa đầu này, thì chỉ có nước lăn đùng ra mà chết không
kịp ngáp. Thế nhưng, từ búa thứ tư về sau thì lại yếu xìu và
nhẹ hều.
Vì thế, đối phương bèn tìm mọi cách
tránh né ba búa đầu, làm thế nào, để Trình Giảo Kim luôn
đánh vào không khí. Còn đến búa thứ tư, lỡ có bị phang
trúng, thì vẫn cứ nhởn nhơ nhe răng cười, vì chẳng mệnh hệ
gì cả.
Chính vì thế, mà câu thành ngữ trên
muốn nói lên rằng :
- Công việc lúc khởi sự thì thật lớn
lao và to tát, như cái đầu con voi, nhưng đến khi kết thúc
thì lại tầm thường và nhỏ bé như cái đuôi con chuột.
Sở dĩ như vậy là vì trong lúc thi công,
người ta đã ra sức bắt chước lũ chuột, lớn đục khoét theo
kiểu lớn, còn bé thì cũng đục khoét theo kiểu bé. Thầy rút
ruột theo kiểu thầy, còn thợ thì cũng rút ruột theo kiểu
thợ. Người người vui vẻ vơ vét về cho đầy túi tham của mình,
nên chi công trình bị teo lại thành cái đuôi con chuột, có
lúc còn tóp lại chỉ bằng cái dầu cây tăm mà thôi.
Nhà chưa xây xong, thì đã đổ chổng vó.
Đường vừa mới khánh thành, thì đã hư hỏng, không phải chỉ có
những ổ chuột ổ gà, mà còn có cả những ổ trâu ổ voi. Thậm
chí, ngân sách trên vừa mới rót xuống, công trình chưa kịp
thực hiện, thì đã vội vã bay hơi, vì được dưới hồ hởi chia
năm xẻ bảy, để những đồng tiền vô tột vạ chui tọt vào cái
túi không đáy của mình.
Đầu năm mà nói những chuyện không vui,
chắc là sẽ xui. Vì thế gã xin được chuyển hệ, để cho năm mới
thêm phần hoành tráng và tốt đẹp.
Báo Công An Thành Phố số ra ngày 03
tháng 01 năm 2008 đã loan tin như sau :
Các tiệm bán vật kiểng ở thủ đô nước
Nga đang săn lùng chuột một cách ráo riết, khi các ông thầy
bói ở nước này tiên đoán rằng : năm mới là năm con chuột,
tính theo lịch Á Đông và ai có được một con chuột trước ngày
bước sang năm mới, sẽ gặp nhiều may mắn. Thế là đủ loại, từ
chuột đồng, chuột cống đến chuột nhắt đều được bàn dân thiên
hạ chiếu cố mua tuốt.
Còn báo Kiến Thức Ngày nay, số 626 ra
ngày 01 tháng 01 năm 2008, đã đăng tải một bài ngắn của Tạ
Xuân Quan với tựa đề “Hình tượng chú chuột cho năm Mậu Tý” :
Năm 2008 theo Âm lịch là năm Mậu Tý. Vì
vậy, tại Trung Quốc hàng loạt vật trang sức, đồ chơi cũng
như đồ gia dụng được thiết kế và tạo hình với nguyên mẫu là
chuột.
Cùng với bài viết là những hình ảnh
minh họa cho thấy : Những chiếc gạt tàn thuốc lá, thú nhồi
bông và đồ chơi đều mang vóc dáng chú chuột được sản xuất
tại tỉnh Hắc Long Giang.
Ngay cả những vật trang sức bằng đá quí
hoặc bằng vàng bạc được sản xuất tại vùng Suzhou, tỉnh
Jiangsu, cũng đều mang đậm dấu ấn hình dong chú chuột.
Và như thế, chuột đã mang lại nhiều lợi
nhuận cho những nhà sản xuất tại Trung Quốc, cũng như cho
những anh chàng chuyên môn đánh bẫy tại nước Nga, vì đây là
một cơ hội mần ăn hái ra tiền và hốt ra bạc.
Mong rằng năm con chuột cũng sẽ mang
lại cho bàn dân thiên hạ những sự tốt đẹp còn hơn thế nữa.
Và nhất là đêm đêm không bị quấy rối, bởi phải nghe những
tiếng kêu chít chít của loài chuột, đang nô dỡn trên trần
nhà hay đang tham dự đại hội trong một xó góc nào đó.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|