Lời Giới Thiệu
Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội
- Lumen Gentium |
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội
Lumen Gentium
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Lời Giới Thiệu
Căn cứ vào
những vấn đề đã được trình bày, ngày nay ai cũng công nhận
Hiến Chế tín lý về Giáo Hội là then chốt của cả Công Ðồng
Vaticanô II. Là vì, sau thế chiến thứ nhất, vấn đề bản tính
Giáo Hội đã trở thành trọng tâm của các cuộc tranh luận về
thần học. Quả thực các Công Ðồng trước, như lịch sử chứng
minh, đã luôn cố gắng đưa ra những giải đáp thích hợp với
nhu cầu thời cuộc; nhưng vấn đề bản tính sâu xa của Giáo Hội
vẫn còn là trọng tâm cho các cuộc tranh luận và cho các
quyết định của Công Ðồng Vaticanô II.
Người ta có
thể viện dẫn nhiều lý do lịch sử, xã hội, thần học để giải
thích cho sự tập trung chủ đề ấy về Giáo Hội.
Công Ðồng
Vaticanô I, do những đòi hỏi của thời cuộc, đã khởi sự suy
tư về bản tính thần học của Giáo Hội. Tuy nhiên, chương
trình quá rộng rãi và hoàn cảnh chính trị bất lợi đã không
cho phép công cuộc khẩn thiết ấy được kết thúc tốt đẹp. Bởi
vậy, những chương trình dang dở của Vaticanô I cần phải được
bổ túc cấp thời, nếu không, khoa Giáo hội học có nguy hiểm
là quá thiên về một phía, tức về quyền tối thượng của Giáo
Hoàng Rôma và các quyền bính của Ngài, dễ làm phương hại đến
những giá trị khác trong Giáo Hội.
Hơn nữa,
sau thế chiến thứ nhất, một tình trạng mới đã nảy sinh, lôi
kéo theo một lối nhìn mới về Giáo Hội và một cách thức cảm
nghiệm mới về những thực tại của Giáo Hội. Ðể có lối nhìn
mới đó - ngoài những yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội mà
chúng ta không muốn nhắc tới ở đây - chúng ta hãy nêu lên
những động lực sau đây thuộc khoa Giáo hội học đã gây nên
một ảnh hưởng không nhỏ:
a) Phong
trào Công giáo Tiến Hành hoặc những phong trào tương tự
trong giáo dân đã cổ võ một tinh thần tông đồ mới và đồng
thời làm cho họ tin tưởng cách chính đáng là họ thuộc về
Giáo Hội nhiều hơn. Sự ý thức "thuộc về" sâu xa hơn ấy tiến
triển dần dần trong cộng đoàn Giáo Hội. Giáo Hội không được
coi là một thực tại dành riêng cho các giáo sĩ nhưng cho hết
mọi người cùng sống, cùng khổ và cùng làm việc trong đó. Như
thế, khoa thần học về giáo dân được phát huy một cách đặc
biệt và sống động, nêu ra mối suy tư thần học về Giáo Hội.
b) Sự
suy tư thần học này đã giúp nhiều cho lối nhìn mới về
Giáo Hội, vì đã áp dụng những tiến bộ của các khoa Thánh
Kinh, lịch sử và nhân văn. Thật vậy, thần học phô bày ý
nghĩa xã hội gắn liền với chính nhân vị. Sự liên hệ giữa đặc
tính xã hội hóa đang vươn lên và ý thức mãnh liệt về địa vị
con người không thể không bày tỏ mối suy tư thần học về Giáo
Hội. Do đó mà khoa Giáo hội học ngày nay có những khía cạnh
xã hội và nhân loại, huyền nhiệm và tượng trưng dễ đối kháng
với một khoa Giáo hội học nặng tính cách pháp lý trước đây.
c) Phong
trào hiệp nhất cũng ảnh hưởng đến sự biến đổi này. Ước
nguyện hiệp nhất tạo nên những cuộc đối thoại về thần học,
trong đó các vấn đề không được thảo luận đặt trong tình
trạng tương phản biện chứng với các ý kiến khác nhau. Nhờ
thế mà những trực giác về bản tính Giáo Hội nhất thiết phải
phát hiện.
Những điều
đó đặt ra cho Giáo Hội hai việc cần thực hiện: làm sáng tỏ
và tìm hiểu các vấn đề của Giáo Hội trong toàn bộ. Ðã đến
lúc Giáo Hội càng ngày càng phải nghiên cứu, đào sâu và diễn
tả chân lý về chính mình. Ngoài ra, ý thức về chính mình
cũng cần được xếp đặt cho có hệ thống theo tính cách năng
động cổ truyền.
Cần nói
thêm rằng "trực giác minh bạch về sự kiện này là: cộng đoàn
Kitô giáo chắc chắn sẽ không theo kịp bước tiến của thế giới
ngày nay và phải chịu tăng triển chậm chạp dù đã đi tiên
phong về vấn đề Giáo hội học", trực giác ấy không thể không
buộc Giáo Hội suy nghĩ về những trách vụ cấp bách của mình,
cũng như không thể không buộc Giáo Hội phải làm cho tổ chức
của mình không còn bị cô lập, sự cô lập mà Giáo Hội có thể
rơi vào.
Những điều
nói trên cho ta thấy một hình ảnh khá chính xác của một khoa
Giáo hội học tiền Công Ðồng:
a) Trước
hết nó mang tính chất đối thoại. Ðối thoại chân thành
và cởi mở với mọi thực tại thụ tạo, trong đó ý định cứu rỗi
của Thiên Chúa được hoàn tất. Giáo Hội không thể chỉ tự giải
thích về bản chất của mình, nhưng còn cần phải tự đả thông
với người khác: với các Kitô hữu không công giáo và với một
thế giới thờ ơ với ơn cứu rỗi.
b) Tuy
nhiên, cuộc đối thoại - dù cần thiết - cũng không thể tự hạn
chế vào việc thông cảm đơn thuần nhằm mục đích hiểu biết.
Nhưng Giáo Hội còn phải đi sâu vào những nguyện vọng của mọi
người. Giáo Hội phải hiện diện với mọi thực tại và với những
nỗ lực của mọi người để làm cho xã hội nên tốt đẹp hơn. Bởi
vậy, khoa Giáo hội học cũng mang tính chất nhập thể
vì Giáo Hội hiện diện sống động theo kiểu Chúa Kitô, hầu có
thể cứu chuộc thế giới.
c) Muốn
thế, cần phải có sự canh tân tận bên trong, phải cải tổ cơ
cấu, phải mở rộng tới những cách thức hiện hữu mới, mà không
làm Giáo Hội mất sự canh tân và cải tổ. Khuynh hướng
cải tổ, tuy đôi khi đi đến tận căn và thái quá, nhưng nói
chung vẫn có giới hạn chính đáng, rõ ràng, theo câu châm
ngôn cổ truyền: "Giáo Hội phải được cải tổ không ngừng".
d) Khuynh
hướng cải tổ trong khoa Giáo hội học nói lên một tính chất
tiêu biểu khác: tính chất hiệp thông. Giáo Hội phải
là trung tâm hiệp thông nhân loại trong các hoạt động thế
tục cũng như trong các hoạt động tôn giáo. Bởi vậy, Giáo Hội
như là bí tích tạo nên sự hiệp thông ấy.
Những đặc
điểm trên của khoa Giáo hội học ngày nay được thu thập và
chấp nhận trong văn kiện mà chúng ta sẽ giải thích sau đây.
Chắc hẳn, văn kiện chúng ta hiện có không phải chỉ được soạn
thảo một lần. Trong Giáo Hội vẫn còn nhiều chống đối với lối
nhìn vấn đề theo cách thức mới mẻ này: Có hai khuynh hướng
xuất hiện trong các cuộc thảo luận ở Công Ðồng: khuynh hướng
thứ nhất ủng hộ quan niệm hiện tại mới mẻ và sống động hơn
về Giáo Hội mà yếu tính là như một sự hiệp thông với mầu
nhiệm đời sống Ba Ngôi; khunh hướng thứ hai coi Giáo Hội như
một thể chế, một xã hội hoàn hảo giữa lòng thế giới, có
những bổn phận và quyền lợi riêng. Ðấy chỉ là những vấn đề
được nhấn mạnh vì không bên nào cho quan điểm đối lập là
sai. Chính vì đó mà giai đoạn khởi đầu của văn kiện đã trở
nên rất sôi nổi, lâu dài và đôi khi bi đát. Chúng ta sẽ cố
gắng rút ra những đường nét chính từ việc soạn thảo này.
Lược đồ đầu
tiên gồm một tập dầy 123 trang đã được gửi đến các Giám Mục
vào tháng 11 năm 1962. Lược đồ gần như là một bản toát yếu
các vấn đề mà trước khi họp Công Ðồng, Ðức Gioan XXIII đã
hỏi ý kiến cả thế giới. Lược đồ gồm 11 chương và một phụ
trương, trong đó không thấy có những tiêu chuẩn rõ rệt. Ðây
là những vấn đề được bàn đến: về bản tính của Giáo Hội chiến
đấu ở trần gian; về những phần tử của Giáo Hội chiến đấu và
về việc Giáo Hội cần cho ơn cứu rỗi; về chức Giám Mục chính
tòa; về các bậc sống theo đường lối hoàn hảo của Phúc Âm; về
giáo dân; về quyền giáo huấn của Giáo Hội; về uy quyền và sự
vâng phục trong Giáo Hội; về liên quan giữa Giáo Hội và
chính quyền; về sự cần thiết của Giáo Hội để loan báo Phúc
Âm cho mọi dân tộc trên khắp mặt đất; về sự hiệp nhất. Trong
phần phụ trương còn thêm lược đồ về "Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ
Thiên Chúa và Mẹ nhân loại".
Lược đồ đầu
tiên ấy được thảo luận trong kỳ họp thứ nhất (từ ngày 1 đến
ngày 7 tháng 12 năm 1962 trong 6 phiên họp: phiên họp khoáng
đại thứ 31 tới 36). Tất cả đồng thanh dành ưu tiên cho đề
tài về Giáo Hội nhưng cũng có đôi điều chỉ trích: lược đồ
thiếu liên kết và tổng hợp, không nêu ra những đường nét chủ
chốt. Người ta còn mong muốn một lược đồ có tầm mức mục vụ
hơn. Về nội dung, nhiều Nghị Phụ nhấn mạnh cần phải lưu ý
tới những viễn tượng rộng lớn hơn của khoa thần học hiện
đại, bởi vì cái gọi là "mới", thường chỉ là một ý thức sắc
bén hơn về một chân lý đã quá xa xưa. Cần nhấn mạnh khía
cạnh Giáo Hội là cộng đoàn thiêng liêng, là hiệp thông và
mầu nhiệm, hơn là khía cạnh Giáo Hội là một xã hội hoàn hảo.
Một cách tiêu cực, người ta chỉ trích lược đồ đầy vẻ phô
trương thanh thế (trình bày Giáo Hội như một thế lực đi từ
chiến thắng này tơi chiến thắng khác), quá thiên về giáo sĩ
(giản lược đời sống Giáo Hội vào hoạt động của giáo phẩm mà
gạt giáo dân ra ngoài), có tính cách pháp lý (quá nhấn mạnh
những yếu tố pháp lý, vì dù có cần thiết và chính yếu thật,
chúng không phải là những yếu tố duy nhất trong Giáo Hội).
Một cách tích cực, người ta muốn lược đồ đề nghị phải trình
bày một Giáo Hội thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, nghĩa là một
tinh thần cởi mở và phổ quát, một tinh thần truyền giáo, một
tinh thần khiêm tốn và phục vụ. Có lưu ý đến những điều đó
rồi mới thấy việc sửa chữa lại lược đồ là việc làm không thể
tránh được.
Theo sự chỉ
dẫn của Công Ðồng, ủy ban thần học bắt tay vào việc trong
thời gian giữa kỳ họp nhất và kỳ họp hai. Ủy ban lưu tâm vào
phần trên của lược đồ sơ khởi: phần dưới, ủy ban chỉ giữ lại
một vài đoạn và đưa lên một trong các chương trên. Văn thể
cũng được sửa lại hết. Tất cả chỉ còn lại 4 chương và được
gửi tới các Nghị Phụ vào mùa hè năm 1963. Bốn chương đó bàn
về:
I. Mầu
nhiệm Giáo Hội.
II. Cơ
cấu phẩm trật Giáo Hội, đặc biệt về chức Giám Mục.
III. Dân
Chúa, đặc biệt về giáo dân.
IV. Lời
kêu gọi nên thánh trong Giáo Hội.
Trước kỳ
họp hai, theo sự gợi ý bằng giấy viết của nhiều Nghị Phụ,
thứ tự này đã được sửa đổi. Ủy ban chấp thuận. Và đây là thứ
tự mới: các đoạn mà toàn thể có đặc điểm về Dân Chúa đều
được rút ra khỏi các chương I và III. Những yếu tố này được
đặt trong một phần khai triển mới, nằm ngay sau phần trình
bày về mầu nhiệm Giáo Hội và trước phần nói về phẩm trật.
Chương III không còn đề cập đến Dân Chúa, nhưng chỉ bàn về
những phần tử của Dân Chúa trên toàn thế giới, tức là giáo
dân. Sau cùng là tu sĩ được đề cập rõ ràng trong tựa đề của
chương IV.
Trong nghị
trường, các Nghị Phụ thảo luận theo cách chia sơ khởi là bốn
chương. Các thảo luận kéo dài từ ngày 30 tháng 9 đến 31
tháng 10 năm 1963. Bản trình bày mới được tiếp nhận nồng
hậu. Hầu như toàn thể các phiếu (2,301 chống với 43) đều
chấp thuận coi nó như nền tảng cho việc tranh luận. Nhưng
hai khuynh hướng thần học, như chúng ta đã nói trên, tiếp
tục biện hộ cho quan điểm của mình. Phần đông các Giám Mục
hoan hỉ và hài lòng về lối trình bày tỉ mỉ và nhận định rằng
toàn bộ từ đây đã được xây dựng vững chắc hơn. Các ngài vui
mừng đón nhận những ý kiến gợi lên việc hiệp nhất và mục vụ.
Các cuộc thảo luận trở nên gay go khi bàn về Giám Mục Ðoàn
(chương II). Người ta sợ Giám Mục Ðoàn sẽ phương hại tới
quyền tối thượng của Giáo Hoàng. Một cuộc bỏ phiếu để làm
sáng tỏ đã được tổ chức ngày 30 tháng 10 năm1963. Kết quả là
đa số nghiêng về Giám Mục Ðoàn. Tuy nhiên các cuộc thảo luận
vẫn tiếp diễn và cũng nhờ có thảo luận mà cơ ấu của lược đồ
thay đổi dần dần. Một cơ cấu mới hình thành. Chủ đề Dân Chúa
làm thành chương II và tiếp theo sau là chủ đề về Phẩm Trật.
Các tu sĩ xin Công Ðồng bàn về họ trong một chương biệt lập.
Chương IV của lược đồ phân thành hai: lời kêu gọi nên thánh
(chương V) và các tu sĩ (chương VI). Sau các cuộc thảo luận
khá sôi nổi và sau một cuộc bỏ phiếu với kết quả sát nút,
Công Ðồng quyết định cho xen lược đồ về Ðức Mẹ vào Hiến Chế
về Giáo Hội (Chương VIII). Sau cùng, Công Ðồng còn thêm một
chương khác (chương VII) nói về đặc tính cánh chung của Giáo
Hội, về sự liên lạc giữa Giáo Hội dưới đất và Giáo Hội trên
trời. Ðó là diễn tiến của bản văn chung quyết như chúng ta
hiện có.
Theo cách
sắp xếp hiện thời, thì cứ hai chương một đi với nhau, theo
một thứ tự hợp lý, có lẽ không ngờ tới, nhưng dễ biện minh:
1) Hai
chương đầu nói về mầu nhiệm Giáo Hội, trước hết theo
chiều hướng siêu việt, sau đó theo hình thức lịch sử. Những
đặc điểm căn bản của Giáo Hội như phương tiện cứu rỗi đều
thấy xuất hiện trong suốt cả hai chương. Cách mô tả giản dị
nhưng không một ai có thể nghi ngờ về ý tưởng phong phú của
chúng.
2) Hai
chương kế tiếp mô tả cơ cấu hệ thống của cộng đoàn
được Chúa Kitô thiết lập. Các mục tử giảng dạy, thánh hóa và
cai trị. Còn giáo dân, dưới sự chỉ dẫn của các ngài, tham
gia vào một công trình cứu độ: đó là hai mặt của một bức
hình: một mặt là chương III nói về Phẩm Trật và mặt kia là
chương IV, về Giáo Dân.
3) Sau đó,
lược đồ chú ý tới sứ mệnh cốt yếu của Giáo Hội tức là
việc thánh hóa mọi phần tử trong Dân Chúa. Ðời sống tu trì
gắn liền với mục đích ấy và đó là lý do khiến Giáo Hội coi
nó là quan trọng và rất lưu tâm đến. Xét trên bình diện này,
người ta không còn để ý tới sự phân biệt giữa giáo phẩm và
giáo dân. Ðức ái hoàn hảo là luật sống độc nhất cho mỗi
người, trong khi đó không phải ai cũng giữ qui luật đời tu.
Phản đối nguyên tắc này có nghĩa là không biết đến giá trị
Kitô giáo của hôn nhân và gia đình.
4) Chúng ta
đi hai chương cuối cùng: chương VII trình bày sự bành
trướng cánh chung của Giáo Hội trong huy hoàng và trong
cộng đoàn các Thánh; chương VIII và cũng là chương sau cùng,
bàn về địa vị và sứ mệnh của Ðức Trinh Nữ, Mẹ Chúa
Kitô và Mẹ nhân loại, ở trong cộng đoàn có Ngài là kiểu mẫu
và là Ðấng bảo trợ. Nhờ có chung nền tảng mà hai chương này
liên kết được với nhau. Cả hai cùng hướng về cuộc kết thúc
huy hoàng, lúc đó bóng đêm của mầu nhiệm sẽ nhường chỗ cho
ánh sáng.
Sau các
cuộc thảo luận gay go và nhiều lần bỏ phiếu, người ta đã đi
đến kết thúc. Nhưng một thiểu số ngoan cố không chịu khuất
phục. Ðể xoa dịu và để mọi người đồng thanh chấp nhận một
vấn đề quan trọng như thế - một sự đồng thanh cần thiết
trong tất cả các quyết định của Công Ðồng - ngày 16 tháng 11
năm 1964, Ðức Giáo Hoàng đã đề nghị với Công Ðồng để thêm
một phần "chú thích sơ khởi" cho chương III của Hiến Chế.
Giáo lý của chương III trong Hiến Chế phải được giải thích
và được hiểu theo phần chú thích này. Một số đông các Nghị
Phụ bối rối về phần chú thích, nhưng dường như không có lý
do. Thật vậy, phần đó không chứa đựng điều gì thực sự mới mẻ
nhưng chỉ giải thích rõ rệt hơn một vài ý niệm pháp lý, vì
có một số Nghị Phụ dựa vào những ý niệm này để bênh vực cho
những thắc mắc của các ngài. Cũng nên biết rằng, phần chú
thích sơ khởi ấy tương ứng với phần giải thích rất tỉ mỉ về
5 vấn đề đặt ra ngày 30 tháng 10 năm 1963, phần giải thích
mà ngay cả những vị bây giờ thắc mắc với phần chú thích cũng
đã không ngần ngại bỏ phiếu chấp thuận. Lời diễn tả ở hai
phần kể là như nhau. Khi mây đen dần dần tan biến, người ta
đã xóa tan được những ngộ nhận sau cùng, nhờ xem kỹ lại phần
chú thích sơ khởi. Trong cuộc đầu phiếu ngày 19 tháng 11 năm
1964 về toàn bộ lược đồ, chỉ còn 10 phiếu chống; trong cuộc
đầu phiếu chung quyết trọng thể ngày 21 tháng 11 năm 1964,
số phiếu chống trụt xuống còn 5. Như thế kể là mọi người đã
đồng thanh chấp nhận.
Sau phần
phác họa về lịch sử các biến cố, chúng ta sang phần phân
tích bản văn, đi theo thứ tự của Hiến Chế. Mục đích mà chúng
ta muốn nhằm tới là: qua những chú thích đơn sơ vắn tắt,
chúng ta sẽ trung thành hết sức có thể với điều Công Ðồng
giảng dạy. Chúng ta nhằm đến phần chính yếu, tìm cách xác
định nội dung những điều Công Ðồng quả quyết và bỏ qua những
điều giải thích sâu rộng hơn cũng như những vấn đề đang được
các thần học gia tranh luận. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Học Hỏi Học
Thuyết Xã Hội Công Giáo |
II. Con Người
A. Phẩm Giá, Sự Tự
Do và Tính Xã Hội ( số 39 – 65)
11. HTXHCG đề cập đến phẩm giá con người như thế
nào?
Phẩm giá con người được
biểu lộ trong nguồn gốc và cùng đích của chính mình. Vì được
tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa và được cứu độ bằng
Máu thánh của Đức Kitô, nên con người được trở thành con
Thiên Chúa, là đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần, và
được chia sẻ đời sống vĩnh cửu với Thiên Chúa. Vì lý do này,
bất cứ sự xúc phạm nào đến phẩm giá con người đều là sự xúc
phạm đến chính Thiên Chúa, Đấng tạo dựng con người.
12. Giáo hội bảo vệ phẩm giá con người như thế nào?
Giáo hội kiên quyết bảo
vệ phẩm giá con người dưới mọi hình thức. Nhất là đối với
những luồng tư tưởng coi thường phẩm giá con người, và cả
những luồng tư tưởng thần tượng hóa con người. Vì không có
luật nào của loài người, dù khôn khéo và bảo đảm đến đâu,
có thể sánh được
với luật Tin Mừng của Đức Kitô mà Giáo hội được ủy thác. Tôn
trọng phẩm giá con người là chu toàn luật Tin Mừng của Đức
Kitô.
13. Chúng ta có trách
nhiệm liên đới trong việc bảo vệ phẩm giá con người không?
Thưa có. Phẩm giá con
người mang một giá trị siêu việt. Vì đươc tạo dựng bởi Thiên
Chúa, nên tự bản chất con người luôn hướng về Đấng đã tạo
nên mình và đồng thời họ cũng không ngừng hướng đến đồng
loại mang cùng phẩm giá như mình. Vì thế, kiến tạo hạnh phúc
cho mỗi cá nhân là thúc đẩy điều thiện hảo cho cộng đồng
nhân loại, mà mỗi cá nhân là thành phần trong cộng đồng ấy.
Vậy, trách nhiệm liên đới là quyền và bổn phận cần được thúc
đẩy và tôn trọng.
14. HTXHCG đề cập đến sự tự do của con người như thế nào?
Khi đề cập đến vấn đề
luân lý, chúng ta không thể không đề cập đến sự tự do. Vốn
mang hình ảnh của Thiên Chúa trong phẩm giá siêu việt của
mình, nên sự tự do của con người, tự trong bản chất là hướng
về Thiên Chúa. Vì thế, sự tự do không thể tách rời khỏi con
người được. Không có một quyền lực cá nhân hay tổ chức nào
có thể kiềm chế hay tước đoạt sự tự do của con người. “Con
người tự do là bởi vì họ sở hữu khả năng tự quyết những gì
liên quan đến sự thật và thiện hảo.” (World Day of Peace
Message, 1981, #5)
15. “Tôi muốn là gì thì làm.” có phải là tự do không?
Thưa không. Vì tự do
không chỉ là quyền đòi hỏi của mỗi cá nhân,
nhưng còn là bổn
phận đối với người khác. Tôi dùng tự do để phục vụ cho cá
nhân và cộng đoàn của tôi, nhưng tôi cũng phải biết tôn
trọng quyền tự do của những cá nhân và cộng đoàn khác. Điểm
này như đặt giới hạn cho sự tự do, nhưng thật ra nó thật
logic và phù hợp với giá trị của sự tự do: vì tất cả chúng
ta đều mang tính xã hội. Trong
Bài giảng tại
Baltimore,
1995, ĐGH John
Paul II nhấn mạnh: “Mọi người cần phải nhớ rằng: tự do không
có nghĩa là chúng ta làm những gì chúng ta thích, nhưng là
có quyền để làm những gì chúng ta phải làm”.
Mặt khác, vì quá
mải
mê những tạo vật thế gian, có những người đã trở nên
mù quáng. Họ đã lạm dụng sự tự do của chính mình, nên họ trở
thành một ngục tù giam cầm chính họ. Họ phá vỡ tình huynh đệ
và trở nên đối nghịch với sự thật.
còn
tiếp
Huynhquảng |
VỀ MỤC LỤC |
|
Đầu Xuân
Đọc “Spe Salvi
– Hi vọng ki-tô giáo” |
Năm trước, khi giới
thiệu Thông điệp đầu tiên của mình (Deus Caritas est
- Thiên Chúa là Tình yêu), giáo chủ Biển-đức XVI đã mời độc
giả bước lên con tàu không gian, mà thi sĩ Dante (1265-1321)
người Í đã mô tả trong tập trường thi Divina Comedia
của ông, để cùng làm một chuyến du hành vũ trụ. Đi mãi, đi
mãi, xuyên hết mọi hành tinh, cuối cùng con người sẽ gặp một
“Nguồn Sáng bất tận, vô biên”. Nguồn sáng đó, người Ai-cập
xưa có lúc gọi là thần Mặt Trời, người Hi-lạp bảo là Lửa. Mà
dù với tên gọi nào đi nữa, thì Nguồn Sáng đó là “nguyên lí
nền tảng” làm chuyển động và tạo nên sự sống cho vũ trụ. Và
Dante gọi Nguồn Sáng đó là Thiên Chúa. Hơn một ngàn năm
trước đó, tác giả Tin Mừng Gio-an lại gọi đó là Tình Yêu: “Thiên
Chúa là Tình Yêu” (1 Yo 4, 16). Ki-tô hữu từ hai ngàn
năm nay xác tín rằng, Tình yêu Thiên Chúa chính là khởi
nguồn của vũ trụ và sự sống.
Hôm nay, để giới
thiệu Tông thư thứ hai “Spe Salvi - Hi vọng ki-tô
giáo” của Giáo chủ, tôi cũng muốn mời độc giả làm một cuộc
viễn hành khác, bằng chuyến xe lửa kinh dị của nhà văn
Friedrich Dürrenmatt. Dürrenmatt kể trong chuyện “Der
Tunnel - Đường hầm”: Đoàn tàu đi vào một đường hầm. Hành
khách trên tàu cứ tưởng đó cũng là một đường hầm như bao
đường hầm khác. Có vào thì có ra. Nhưng chuyến vượt hầm cứ
kéo dài mãi. Tốc độ con tàu càng lúc càng tăng. Hành khách
bắt đầu đâm lo, rồi hoảng. Cuối cùng, một hành khách lấy
được bình tĩnh, men lần tới phía đầu phòng lái. Phòng lái
trống không! Và qua màn kính, người đó thấy con tàu cứ lao
vun vút vào một vực thẳm tối đen, hun hút, kinh hoàng…
Chuyện chấm dứt. Dĩ nhiên, có thể hiểu Dürrenmatt muốn dùng
câu chuyện để nói lên hoàn cảnh “không người lái” của thế
giới trong thời hiện đại, đặc biệt kể từ khi Friedrich
Nietzsche hân hoan loan báo đã giết Thiên Chúa.
Nhưng, ta hãy trở
lại chuyện con tàu. Hoạt cảnh sau đây là của người viết bài
này. Khi hay biết cơ sự, trên tàu hoảng loạn, diễn ra cảnh
thiên đàng lẫn địa ngục. Có vài hành khách trai trẻ, đầu
chít vội mảnh khăn xanh, quấn bom vào mình lao vào những
nhóm hành khách khác, nổ tung. Họ cho rằng vì tội lỗi của
những đám vô đạo kia nên mới ra cơ sự. Phải giết chúng để
mình được cứu rỗi. Ở những toa khác, trong cơn nguy khốn chờ
chết, người ta mỗi người rút vào một góc, trong số đó có cả
những tên cướp đã vứt đao, tịnh tâm mong kịp thời còn cởi bỏ
được mọi ham muốn phàm trần, để nhẹ gánh vào kiếp luân hồi.
Chẳng mấy ai trong họ tin có thể đạt tới vô thường, nhưng
viễn ảnh vào một tình trạng bớt khổ hơn ở kiếp khác cũng làm
họ an tâm đôi chút trong giờ phút lâm tử. Trong khi đó, một
số tay chuyên nghề trấn lột chạy đôn đáo hết toa này sang
toa kia tìm khổ chủ để xin lỗi và trả lại những gì đã bị
cướp giựt, vì biết rằng trước sau gì cũng phải trả lẽ công
lí trước toà án sau cùng. Một số hành khách mắt xanh mũi cao
thì lại hốt hoảng chạy tìm giải thoát nơi các tín ngưỡng của
các dân tộc sơ khai, vì họ đổ cho rằng, Thiên Chúa giáo với
những giáo huấn về tội, thiên đàng, hoả ngục, ngày phán xét…
đã cướp mất cái hồn nhiên ban đầu của con người và khiến họ
lo sợ trước cái chết. Và họ cũng đã thấy trong một đôi toa
người ta đang hoảng hốt cắt cổ mổ bụng những thiếu niên nam
nữ xinh đẹp nhất để làm tế vật xoa dịu cơn thịnh nộ của thần
chết. Và, đó đây trong một vài toa, vẳng lên trong không khí
ngột ngạt tiếng ca: “Dầu tôi đi qua thung lũng tối đầy
hiểm nguy, tôi vẫn không sợ gì, vì có Chúa ở bên tôi… Cây
trượng và cây gậy Chúa đỡ tôi, khiến tôi an lòng…” Người
ta thấy những nhóm hành khách, không đông, quây quần bên
nhau vui vẻ ca hát và cầu chúc nhau ra đi bình an. Như chẳng
có chuyện gì đang xẩy ra.
Chẳng nói, độc giả
cũng thấy có hai hình ảnh trong hoạt cảnh trên nói lên ít
nhiều thái độ và hành động của ki-tô hữu. Thái độ bình thản
ca hát, vì tin tưởng và hi vọng vào sự quan phòng của Chúa.
Thái độ hồi tâm quy chánh, vì nghĩ tới công lí và hồng ân
của ngày phán xét. Tắt lại, vì có Chúa, nên ki-tô hữu sống
“không vô vọng như những người khác.” Vì tin và hi vọng vào
Chúa, nên ki-tô hữu không hốt hoảng, trái lại bình tâm vui
vẻ đón chờ cái chết. Họ biết, họ đã sống một cuộc đời có í
nghĩa, nên nắm chắc cuộc sống của họ sẽ không kết thúc trong
hư vô. Họ tin rằng, nếu thật tình sống theo lời Chúa, cuối
cùng thì họ cũng được đưa vào Nguồn Sáng bất diệt trên kia,
và được ở lại vĩnh viễn (sống đời đời) trong Tình Yêu sự
sống đó.
Nếu chỉ muốn tóm tắt
Tông thư của Giáo chủ, thì chúng ta có thể kết thúc ở đây.
Vì tất cả chỉ có thế. Giáo chủ Biển-đức chỉ muốn nói lên
điều này: Con người sống giữa đời cần có hi vọng, từ những
hi vọng cỏn con thường ngày đến những hi vọng lớn hơn trong
nghề nghiệp, tình yêu, gia đình… Hi vọng là những chiếc
thuyền chở tôi băng qua đồi núi, thác ghềnh cuộc đời. Hay
nói như giáo chủ Biển-đức, hi vọng là cái “ẩn số không biết
mà biết” đẩy ta đi tới. Mỗi hi vọng đáp ứng một nhu cầu cá
biệt. Nhưng có một hi vọng chung nhất, rốt ráo nhất, hầu như
ai cũng đặt ra cho mình, khi đối diện với cuộc sinh tử: Làm
sao để đời tôi được viên mãn hạnh phúc? Hay nói theo ngôn
ngữ ki-tô giáo, làm sao tôi đạt được “sự sống đời đời”, đạt
tới “cứu độ”? Chỉ có Thiên Chúa, kì cùng ra, mới giúp tôi
đạt đến được hi vọng đó, chứ chẳng phải là khoa học, hay lí
trí hay cái gọi là “xã hội chủ nghĩa khoa học”, mà con người
một thời tin theo và đã thất vọng.
Lược qua vài điểm nội dung Tông thư
Nhưng, như đầu bài
gợi í, tôi muốn mời độc giả cùng đọc Thông thư, để cùng tìm
hiểu và nhắc nhở nhau về cái kho tàng nền tảng thứ hai (sau
Deus caritas est) cuả Ki-tô giáo, mà giáo chủ
Biển-đức đã mở ra cho chúng ta trong dịp mùa vọng – mùa của
hi vọng – vừa qua.
Trong một buổi
chuyện trò, một trí thức xã hội chủ nghĩa đã lớn tuổi hỏi
tôi: Thưa anh, Kinh Thánh Thiên Chúa giáo viết gì trong đó,
anh có thể tóm tắt cho tôi hiểu được không? Thật tình vị này
muốn tìm hiểu đạo. Tôi lúc đó đã không biết phải trả lời như
thế nào, phải bắt đầu từ đâu với một cuốn sách cả ngàn
trang, bàn hết chuyện trên trời dưới đất, kéo dài cả nhiều
ngàn năm. Làm sao có thể tóm gọn được nội dung!
Nhưng sau khi đọc
được Spe Salvi, tôi thấy câu trả lời chẳng còn khó
khăn. Toàn bộ Kinh Thánh, nói theo giáo chủ Biển-đức, được
tóm lại trong chữ Tin. Tâm điểm của vấn đề là Tin. Mà Tin,
theo như Kinh Thánh hiểu và Giáo hội sơ khai minh chứng,
cũng đồng nghĩa với Hi vọng. “Tin là bản chất (nền tảng/
bảo chứng) của điều ta hi vọng, là bằng chứng của những gì
ta không trông thấy” (Rom 11,1). Tiếng Đức có hai từ để
dịch chữ la-tinh “Fides” (đức tin): Glauben (tin) và
Vertrauen (phó thác, cậy trông). Tin là Hi vọng. Đức tin mở
ra cánh cửa Hi vọng. Và Hi vọng dẫn ta tới hành động, làm
đổi đời ta. “Để mở rộng kiến thức, cần khoa học tự nhiên,
nhưng để hành động, phải cần đức tin”, Max Planck
(1858-1947) nhà vật lí cha đẻ thuyết lượng tử
(Quantentheorie) nổi tiếng của Đức đã khẳng định như thế. Hi
vọng mở ra một tương lai cho ta vươn tới. Vì thế, cuộc đời
của người theo Chúa có hậu, chứ không vô vọng “như những
người khác vì không có Chúa…” Nhờ gặp Chúa, tin vào
Chúa, mà ki-tô hữu có một cuộc sống khác, đời họ đổi khác.
Trải dài trong lịch
sử ki-tô giáo có vô số bằng chứng nói lên điều đó. Không cứ
gì ở Rô-ma cổ, mà cả ở Kẻ Chợ, đâu đâu dân ngoại cũng trầm
trồ ngỡ ngàng về “những kẻ theo đạo yêu thương”. Đạo gì mà
quả lạ, chưa gặp nhau mà họ đã yêu nhau rồi! Nhìn vào những
tấm gương mới hơn: một An-tịnh (Augustinus), một I-nhã ở
Loyola, một Phan-sinh ở Assisi, một Tê-rê-xa ở Calcutta…
Trác táng hay khó tính đến đâu đi nữa, sau khi gặp Chúa, đời
họ chuyển hướng. Hay như tấm gương thánh Bakhita, mà giáo
chủ Gio-an Phao-lô mới đưa lên bàn thánh, và đã được giáo
chủ Biển-đức nêu danh trong Tông thư. Bakhita là một cô gái
nô lệ ở Sudan, bị người ta năm lần bảy lượt mang ra chợ trời
bán và đánh đập tàn nhẫn (với tổng cộng 144 vết thẹo trên
mình). Cuối cùng về làm nô lệ cho một công chức, và ông này
đã mang cô về Í để hầu hạ gia đình ông. Ở đây, cô đã gặp
được ông Chủ lí tưởng của cô, đó là “Chủ” Giê-su, và từ đó
đời cô biến đổi hoàn toàn. Thành một nữ tu hết lòng phục vụ
cộng đoàn và không ngừng đi khắp đây đó để loan báo cho mọi
người hay về cuộc đổi đời và về ông Chủ mới của mình.
Biến chuyển trong thời mới
Khi nhìn lại quá
trình lịch sử trong mấy trăm năm gần đây, ta thấy đức tin /
hi vọng ki-tô giáo bị ảnh hưởng nặng nề bởi Thời mới (từ thế
kỉ 16 trở đi). Đấy là thời mở màn Tiến bộ khoa học với hai
hậu cảnh lớn là Lí trí và Tự do. Thời mới đã ảnh hưởng lên
Hi vọng ki-tô giáo trên hai mặt. Nó làm thay đổi mục tiêu
của Hi vọng, và đẩy Đức tin vào vòng cá nhân.
- Thay đổi mục tiêu
Hi vọng: Cho tới lúc này, con người đặt hết hi vọng vào
Thiên Chúa qua đức Ki-tô. Ngài sẽ “cứu độ” họ, bằng cách
giúp họ lấy lại được những gì đã mất khi bị đuổi khỏi vườn
địa đàng. Ngài sẽ mở cánh cửa hạnh phúc đời đời của “Vương
quốc Thiên Chúa”, để con người bước vào. Cuộc sống viên mãn
là đó. Hạnh phúc tràn đầy là đó. Ơn cứu độ là đó. Chính Chúa
là kẻ sẽ trao cho họ chìa khoá hạnh phúc, cuộc sống đời đời.
Nhưng tiến bộ không
ngừng gia tăng của khoa học đã làm choá mắt con người. Tiến
bộ khoa học dựa trên nền tảng khám phá ra các quy luật thiên
nhiên. Và với những khám phá đó, con người nghĩ rằng mình đã
lấy lại được địa vị bá chủ trên tạo vật của mình, cái địa vị
uyên nguyên mà họ đã có khi còn trong địa đàng. Như vậy, thì
tôi mới là chủ thật, chứ cần gì “cái giả thuyết Thiên Chúa”
(Laplace)
kia nữa. Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm mà. Như thế,
thì cần gì cái “Vương quốc Thiên Chúa” xa xôi nào nữa. Hi
vọng vào Chúa giờ đây chuyển sang hi vọng vào Tiến bộ khoa
học. Mà Tiến bộ khoa học cũng đồng nghĩa với khả năng bá chủ
của Lí trí. Và, tôn thờ Lí trí cũng có nghĩa là phải chống
lại mọi trói buộc của tôn giáo, đồng thời phải đòi cho con
người được Tự do vô giới hạn. Con người giờ đây là tối cao.
Nó tự đặt ra chân lí cho nó. Nó tự tạo công lí cho nó. Nó sẽ
tự cứu độ nó, chẳng cần phải ai giúp. Và lịch sử kinh hoàng
của thế kỉ 20 với hai trận thế chiến, với các chủ nghĩa cộng
sản và phát xít, độc tài cực đoan cho thấy con tàu không
người lái đã đưa nhân loại về đâu. Vì khi không còn Thiên
Chúa cầm lái nữa, thì chỉ còn luật kẻ mạnh, mọi người có
quyền tự do làm điều mình muốn. Hitler, Mussolini, Franco,
Lenin, Stalin, Mao, Hồ, Polpot, cha con Kim Nhật Thành, Adi
Amin, Taylor … đã hành xử cái tự do chính đáng của họ.
- Cá nhân hoá đức tin :
Đã có Vương quốc con người, không cần gì hi vọng cứu rỗi nơi
«Vương quốc Thiên Chúa » nữa. Thời mới và khoa học thật ra
không (thể) triệt tiêu Thiên Chúa. Nhưng trước sức ép vũ bão
của chúng, Ki-tô giáo đành bảo nhau mang Hi vọng rút vào sân
sau cá nhân cố thủ. Vì vậy, càng ngày nó càng bị chỉ trích
mạnh mẽ. Người ta bảo rằng, Hi vọng ki-tô giáo là thứ thuần
tuý cá nhân chủ nghĩa, nó giúp con người chạy trốn khỏi thế
giới đầy bất hạnh, để đi tìm cứu rỗi cho riêng mình. Karl
Marx đã điểm được yếu huyệt này, nên đã cổ vũ một cuộc cứu
độ tập thể. Ngọn cờ tập thể này đã mê hoặc bao nhiêu thế hệ
trong thế kỉ 20, đặc biệt nơi giới gọi là trí thức. Nhưng
cứu độ của ông không bằng phương tiện Tình yêu (như Ki-tô
giáo chủ trương), mà bằng con đường chém giết, bằng những
cuộc cách mạng long trời lở đất. Nhân danh tập thể, ông coi
con người cá nhân là thứ rác rưởi, dùng làm nhiên liệu cho
cỗ máy cách mạng. Và lịch sử đã cho thấy chủ trương cứu rỗi
tập thể và Vương quốc con người hoang tưởng do Marx và hậu
duệ của ông hô hào thiết lập đã đi về đâu.
Tóm lại, để giải quyết
cái khủng hoảng không người lái hiện tại của thế giới, theo
giáo chủ Biển-đức, một đàng Thời mới phải tự kiểm điểm, bằng
qua đối thoại với Ki-tô giáo và bằng cách tìm hiểu khái niệm
Hi vọng của nó; đàng khác Ki-tô giáo cũng phải tự xét lại
mình. Ki-tô giáo phải tự hỏi, đâu là nội dung Hi vọng thực
sự của mình, và Hi vọng đó có thể và không có thể mang lại
ơn ích gì cho thế giới? Còn Thời mới sẽ phải tự hỏi, đâu là
thực chất của Tiến bộ, nó hứa hẹn gì và không hứa hẹn gì?
Bởi vì, nếu Tiến bộ kĩ thuật không đi đôi với sự tăng trưởng
đạo đức, thì nó sẽ chẳng phải là tiến bộ, mà là mối đe doạ
cho nhân loại và thế giới, như ta đã và đang thấy. Thời mới
cũng phải hỏi, đâu là biên giới của Lí trí và Tự do:
« Phải chăng thứ lí
trí giúp mở rộng khả năng thể chất của ta và giúp ta hành
động đã là toàn bộ lí trí? Nếu tiến bộ đòi hỏi sự gia tăng
đạo đức của nhân loại, thì loại tiến bộ về khả năng và hành
động cũng nhất thiết phải được bổ túc, bằng cách nó phải mở
ra cho lực cứu độ của đức tin và cho sự phân biệt tốt xấu.
Chỉ có như thế, nó mới là lí trí con người đích thực. Để
được gọi là lí trí con người, lí trí đó phải có khả năng
hướng đạo cho í muốn; và để làm được điều này, lí trí đó dứt
khoát phải vượt lên trên chính nó. Nếu không, thì với tình
trạng mất thăng bằng giữa một bên là khả năng thể chất và
bên kia là thiếu phán đoán của con tim, con người sẽ trở
thành mối đe doạ cho chính mình và cho tạo vật. Về “tự do”
cũng vậy. Ta phải nhớ rằng, tự do con người luôn đòi hỏi một
sự song hành của nhiều tự do. [Tự do cũng có nghĩa là tự do
làm điều xấu] Nhưng, không thể có được sự song hành này, nếu
như các tự do đó không được chỉ đạo bằng một khuôn thước nội
tâm chung, và khuôn thước này là nền tảng và là mục tiêu tự
do của chúng ta. » (23)
Môi
trường học hỏi và đào luyện Hi vọng.
Tông thư gồm 50 đoạn,
nội dung tương đối ngắn (bản dịch Việt ngữ có thể lấy
xuống từ www.liendoi.net), nhưng trọng lượng khá nặng,
vì sự súc tích và chiều sâu kiến thức của nó. 31 đoạn đầu
bàn về lí thuyết, mà chúng ta đã lược qua một vài điểm trọng
yếu trên đây. Đoạn 32 tới 48 trình bày phần thực hành Hi
vọng. Hai đoạn cuối là một bài ca tuyệt đẹp về Mẹ Maria như
là mẫu gương Hi vọng.
Về môi trường học tập
và thực hành Hi vọng, Giáo chủ kể ra ba : Cầu nguyện, Hành
động và khổ đau, Cuộc phán xét.
Cầu nguyện là môi
trường căn bản đầu tiên để luyện tập và thực hành đức tin.
Đó là nhựa sống từ lòng đất thân cây hút vào để nuôi sống
mình. Trong mục này, Giáo chủ nhắc tới gương cầu nguyện của
cố hồng i Nguyễn Văn Thuận. Trải qua 13 năm tù, trong đó 9
năm biệt giam, cầu nguyện đã trở thành nguồn Hi vọng sống
sót của ngài, mà ngài đã gọi đó là « Đường Hi Vọng ». Trong
cầu nguyện, ta không còn cô đơn. Nỗi cô đơn của ta
(Solatio), đã có một kẻ khác cùng hiện diện trong đó và được
chia sẻ (Cum / Con): Con-solatio. Con đường hi vọng đó giúp
tôi vươn tới, vượt lên trên cả những o ép và đày đoạ của
quyền lực chính trị. Nó giúp tôi chấp nhận và vượt thắng khổ
đau, vì tôi hiểu rằng đau khổ đó làm cho đời tôi có í nghĩa.
Về điểm này, Giáo chủ lại nhắc tới gương một người Việt
khác, đó là thánh tử đạo Lê Bảo Tịnh (+1857). Trong lao tù,
giữa cô đơn, đày đoạ, cực hình, và hàng ngày phải chứng kiến
bao cảnh phạm thượng, nhờ sức mạnh hi vọng từ đức tin, thánh
nhân đã chuyển hoá đau khổ thành ra những bài ca hi vọng bất
tận: Lượng từ bi Chúa tồn tại tới muôn đời! «Giữa cơn
phong ba bão táp, tôi thả neo lên tận ngai Chúa; chính Ngài
là niềm hi vọng sống mãi trong lòng tôi », thánh Tịnh đã
kết thúc chứng từ của mình với niềm tác tín đó.
Trong kho tàng Hi vọng
của Giáo hội, thiếu gì và có biết bao tấm gương còn lớn hơn.
Nhưng giáo chủ Biển-đức đã đưa ra những tấm gương từ hai
miền đất thế giới hiện đang phải trải qua hoàn cảnh nghiệt
ngã. Sudan, từ nhiều năm nay, là vùng đất của bạo lực và
máu, của những tiếng gào thất thanh của hàng triệu người dân
tị nạn vô tội. Hồ sơ Nguyễn Văn Lý và con đường thánh giá
của cố hồng i Thuận cũng như của Giáo hội Việt-nam cũng
chẳng xa lạ gì đối với giáo chủ Biển-đức. Ở đây, tôi không
có í « chính trị hoá » lá thư mục vụ của ngài. Nhưng việc
ngài nêu tên hai địa danh đó lúc này không phải là không có
nghĩa. Ngài muốn chia sẻ khổ đau đặc biệt với hai dân tộc
qua lời nguyện hi vọng, và hơn thế, đó cũng là lời động viên
gởi đến đồng đạo của ngài. Tôi
nghĩ, các cộng đoàn, tổ chức công giáo người Việt nên viết
cho ngài đôi lời cám ơn về niềm ưu ái đó. Đấy là hành động
biết ơn cụ thể. Đừng để lá thư tâm huyết hữu ích của ngài
chìm đi như không có gì cả. Hồng i Karl Lehmann,
chủ tịch Hội đồng giám mục Đức, hôm họp báo giới thiệu Tông
thư, đã thay mặt Giáo hội Đức cám ơn giáo chủ Biển-đức đã
cho họ một bài văn hay, một tài liệu bổ ích cho việc sống
mùa Vọng.
Trở lại với Hi vọng và
đau khổ. Cầu nguyện và Hi vọng là sự cọ xát tẩy sạch con
người tôi, để tôi có thể mở lòng ra cho Chúa và tha nhân. Hi
vọng chở tôi băng qua mọi thác ghềng cuộc đời, vì tôi biết
rằng đàng kia có người đang yêu tôi, đang sẵn sàng đồng hành
với tôi trên con đường lữ thứ và đang đón chờ tôi nơi điểm
hẹn. Và như thế, Hi vọng đẩy tôi dấn thân hành động, góp
phần đổi mới thế giới, góp tay vào việc làm giảm bớt khổ đau
cho thế giới, nhất là cho những người vô tội.
Cuối cùng, toà phán xét
cũng là cơ hội để ta Hi vọng. Thiên Chúa không chỉ là Tình
yêu, mà Ngài còn là Công lí. Và toà phán xét là nơi công lí
của Ngài sẽ thể hiện. Vì rằng, nếu chỉ là Tình yêu hay Hồng
ân mà thôi, thì tôi lo gì với điều đánh cuộc của Pascal
,
và như thế Chúa sẽ mắc ta món nợ công lí. Tôi cứ mặc sức ăn
chơi, tự do làm điều xấu, vì cuối cùng rồi thì lượng hồng ân
bao la của Chúa cũng sẽ thứ tha, xoá sạch tội của tôi. Nhưng
Thiên Chúa không chỉ là Hồng ân. Và hồng ân của Ngài không
biến sự ác thành công lí. Kẻ bất lương không thể cuối cùng
ngồi chung bàn tiệc với nạn nhân của nó. Nhưng nơi toà án
của Chúa có cả hồng ân lẫn công lí, và hồng ân đó luôn đủ
lớn để ta bất cứ giờ phút lịch sử nào của đời mình cũng có
thể trở về cậy trông và hi vọng vào nó.
Tôi không có kết luận
cho bài này, vì không đủ khả năng để nhận định hay phê bình.
Mà chỉ muốn mở ra đôi điều về cuộc hành trình tư tưởng của
giáo chủ Biển-đức XVI. Chúng ta đang ở trong một thời đại
khủng hoảng Hi vọng (Đức tin). Cuộc khủng hoảng này bắt
nguồn từ Thời mới ở Âu châu, với sự Tiến bộ của khoa học và
với việc đề cao tuyệt đối Lí trí. Và khủng hoảng ki-tô giáo
cũng là khủng hoảng của văn hoá văn minh âu châu. Mục tiêu
của giáo chủ Biển-đức là làm sao để thế giới thoát ra cơn
khủng hoảng này. Ngài đưa ra hai phương thuốc :
Thời mới phải đặt lại
vấn đề niềm tin mù quáng vào Tiến bộ khoa học và vào Lí trí
của mình. Lịch sử thế giới, được xây trên niềm tin đó, hơn
một trăm năm qua với bao kinh hoàng và vực thẳm đã đủ để
Thời mới phải đặt lại vấn đề. Nếu cứ tiếp tục chấp nhận tình
trạng không người lái, chắc chắn con tàu sẽ đưa nhân loại
vào những kinh hoàng vô lường khác. Đây là một đòi hỏi sống
chết của Biển-đức; một mặt trận mà ngài đã mở ra từ ngày còn
là một giáo sư đại học.
Phía Ki-tô giáo cũng
phải xét lại mình. Xét mình để tìm lại đâu là bản chất đích
thực của mình. Đâu là lí do làm cạn kiệt sức sống và hiệu
năng vốn có của mình, khiến mình phải rút lui vào thế thủ.
Trong quá trình hai ngàn năm, Ki-tô giáo đã vì hoàn cảnh
hoặc vì lòng người chất chứa lên con tàu khí cầu của mình
qúa nhiều thứ, khiến nó nặng nề không bay bổng lên được.
Phải xem lại hành lí, lọc lựa ra cái gì là bản chất để làm
hành trang lên đường. Hãy « Verwesentlichung » (bản chất
hoá, tìm cái cốt tuỷ, một từ mà nhà thần học Ratzinger tâm
đắc) Giáo hội. Với nhận thức này, với « Spe Salvi »
về lòng Cậy tiếp theo « Deus caritas est » về lòng
Mến, giáo chủ Biển-đức đã đưa ra cho chúng ta hai nét bản
sắc tuyệt đẹp của Ki-tô giáo, những thứ mà, nếu xét cho kì
cùng, không một tôn giáo nào khác có thể cung ứng cho ta
được.
Nắm được sợi chỉ đỏ
trên, ta sẽ hiểu rõ hơn về hành trình tư tưởng đã, đang và
sẽ tới của Giáo chủ.
Augsburg, ngày
10.01.2008
Phạm Hồng-Lam
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CUỘC
SỐNG KHÔNG CÔNG BẰNG |
“Nhân có mấy người
nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và
những đồ dâng cúng, Chúa Giêsu bảo: ‘Những gì anh em đang
chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá
nào trên tảng đá nào.’ Họ bảo Người: ‘Thưa Thầy, vậy
bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra và khi sắp xảy ra thì có
điềm gì báo trước?’
Chúa Giêsu đáp: ‘Anh
em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo
danh Thầy mà đến nói rằng: ‘Chính ta đây’ và: ‘Thời kỳ đã
đến gần’; anh em chớ có theo họ. Khi anh em nghe có chiến
tranh, loạn lạc thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy
ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu.’
Rồi Người nói tiếp:
‘Dân nầy sẽ nổi dậy chống dân kia, nước nầy chống nước
nọ. Sẽ có những trận đông đất lớn và nhiều nơi sẽ có ôn dịch
và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn
lao từ trời xuất hiện.
Nhưng trước khi
tất cả các sự ấy xảy ra thì người ta sẽ tra tay bắt và ngược
đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và bỏ tù, điệu anh
em trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. Đó sẽ là cơ
hội để anh em làm chứng cho Thầy.
Vậy anh em hãy
ghi lòng tạc dạ điều nầy là anh em đừng lo nghĩ phải bào
chữa cách nào. Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn
ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống
chọi hay cãi lại được.
Anh em sẽ bị
chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ
giết một số người trong anh em. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị
mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em
cũng không bị mất đâu. Cố kiên trì, anh em mới giữ được mạng
sống mình.”
(Lc 21, 5-19)
***
Đoạn Phúc Âm trên đây
nhắc nhở chúng ta bằng những ngôn từ sâu sắc nhưng đồng thời
cũng đầy xúc động là mỗi một cuộc sống đều có một khởi đầu,
một đoạn giữa và một chung cục. Cuộc sống bao giờ cũng có
một chương cuối cùng, một lúc đóng cửa hạ màn. Cuộc sống sẽ
chấm dứt một ngày nào đó và chúng ta không thể làm gì được.
Có người chết khi còn
trong bụng mẹ, kẻ khác chết khi còn trẻ thơ, có người chết
lúc nửa chừng xuân và người khác lại rất trường thọ. Tại sao
Chúa cho một số người sống rất lâu, trong khi có người thì
đoản số. Đó là một điều mà không bao giờ người ta hiểu biết
được. Đó là bí mật của Thiên Chúa và Ngài không mạc khải cho
ai hết.
Đóng
cửa hạ màn
Cha Tom
dạy tôi triết học ở Đại Chủng Viện. Nhiều năm sau, ngài đi
đến Nagur, miền Trung Ấn Độ, như người đi tiên phong
để bắt đầu xây dựng Dòng Đa-Minh. Bốn mươi năm sau, khi ngài
đáp chuyến xe lửa tốc hành ban đêm từ Tân Đề-li (New Delhi)
để trở về nhà, sau khi giảng tĩnh tâm thường niên cho một
cộng đoàn nữ tu. Ngài đã bị mệt mỏi rất nhiều về thể xác mà
không hề hay biết. Khi ngài ngủ trong cái nóng nực về đêm,
cơ thể ngài bị chứng loại nước (mất nước). Ngài rơi vào hôn
mê và người kiểm soát vé trên tàu đã bắt gặp ngài chết khi
xe lửa tới Nagur.
Ngài đã cho đất nước
Ấn-độ tất cả. Ngài là một trong những vị anh hùng của tôi.
Tôi không có ý muốn tìm hiểu tại sao cha Tom lại ra đi trong
những trường hợp đau buồn và đơn độc như thế. Có nhiều điều
chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết được. Đường lối của Chúa
không phải là đường lối chúng ta; tư tưởng của Ngài không
phải tư tưởng chúng ta. Giờ đây, tôi thích am hiểu như thế.
Dù sao, cuối cùng cái
chết của cha Tom nhắc nhở chúng ta một cách đau buồn là cuộc
sống không phải luôn luôn công bằng hợp lý. Hãy nhìn vào bên
trong con người chúng ta sẽ thấy biết bao vết thương tinh
thần: những thất bại, chán chường, thảm cảnh và có thể nhiều
năm âm thầm vô vọng. Đôi khi chúng ta phải chịu đựng rất lâu
dài và nghiệt ngã cho đến nỗi chúng ta có cảm tưởng không
chịu đựng được nữa, kể cả muốn chết đi.
Đích
điểm cao hơn
Chúa Giêsu rõ biết
những tình cảm trống rỗng đó và Ngài cũng thấu hiểu có những
lúc chúng ta cảm thấy như thế trong cuộc đời. Trong đoạn
Phúc Âm trên đây, Ngài liệt kê một số sự kiện kinh sợ có thể
xảy ra: bão tố, tai nạn, lụt lội, bị phản trắc, bệnh hoạn
bất thường và cả chết chóc nữa. Trong khi rõ biết những điều
dữ có thể xảy tới cho người lành, đồng thời Ngài cũng nói
cho biết là “không một sợi tóc nào trên đầu các anh em
rơi xuống” mà Thiên Chúa không biết.
Đó là cách nói đặc biệt
của Ngài: dù bất cứ điều gì xảy đến, hãy tín thác Ngài. Ngài
là Thiên Chúa, quan phòng mọi sự. Đừng bỏ cuộc. Đừng trốn
chạy khi đối diện với những bất trắc của cuộc sống. Hãy
ngước mắt lên cao! Hãy ở lại trong Thầy và Thầy ở với anh
em. Cùng nhau chúng ta làm thành số đông. Nên chờ đợi và sẽ
thấy.
Robert Browning
đã viết những vần thơ tuyệt đẹp
trong bài thơ Perfection (Sự Tuyệt Hảo):
“Chúa ngự trên trời
cao,
Mọi việc dưới thế
được ổn định.”
Đó là điều Chúa Giêsu
đã phán dạy. Đó là lời hứa của Ngài. Và một lời hứa là một
lời hứa!
Tôi đang đọc câu chuyện
truyền cảm về một bà mẹ đã tận tình chăm sóc cho người con
gái yêu quý bị hôn mê trong hai mươi tám năm rồi. Tận tình
chăm sóc cho con gái yêu có nghĩa là phải đút cho ăn mỗi hai
giờ, chích insulin mỗi bốn giờ, thay áo quần chăn mền nhiều
lần trong ngày, quyên tiền để trả y phí và mỗi đêm ngồi trên
một chiếc ghế bên cạnh con gái mình. Tại sao?
Bởi vì hai mươi tám năm
về trước, con gái của bà là Edwarda, lúc bấy giờ được
mười sáu tuổi, đã van xin mẹ mình, trước khi rơi vào hôn mê
do bệnh tiểu đường: “Mẹ ơi, xin đừng bỏ con.” Mẹ em
là Kaye đã đáp lại: “Con ơi, mẹ sẽ không bao giờ
bỏ con. Mẹ hứa với con và một lời hứa luôn luôn là một lời
hứa.”
Hai mươi tám năm sau,
người mẹ đặc biệt đó còn ngưỡng mặt lên cao và còn tiếp tục
giữ lời hứa.
Vâng, chúng ta đang
sống trong một thế giới phức tạp và cũng khó thấu hiểu Thiên
Chúa. Tuy nhiên Thiên Chúa là Đấng muôn đời lạc quan, đang
mời gọi chứng ta say mê ôm chặt cuộc sống và ước mơ những
giấc mơ cao đẹp. Cho dù cuộc sống có bị thất bại và phải
quay trở lại, chúng ta phải nhắm tới một đích điểm cao hơn,
phải chịu đựng và tín thác bởi vì có Chúa bên cạnh chúng ta,
cuộc sống chắc chắn phải là cuộc sống của chúng ta.
Linh Mục Vincent
Travers, OP
Hương Vĩnh chuyển
ngữ |
VỀ MỤC LỤC |
|
BẰNG HÀNH ĐỘNG,
KHÔNG BẰNG LỜI NÓI |
- Bao nhiêu lần mẹ đã nói
với các con rửa tay trước khi ngồi vào bàn ăn. Đi rửa ngay,
cả ba đứa. Không được trở lại bàn cho đến khi đã rửa tay
sạch sẽ.
Ba chiếc ghế được kéo
lui. Cả ba đứa rời bàn trong khi bà mẹ tiếp tục cho đứa bé
một tuổi ăn.
“Bao nhiêu lần mẹ đã nói
với các con”. Hàng ngàn lần bỡi hàng ngàn bố mẹ đã nói như
thế trong một giọng điệu thất vọng. Câu nầy có mục đích diễn
tả một sự chán nản thất vọng. Thật là vô ích nếu nó được
dùng như một phương cách huấn luyện. Sự kiện cho thấy rằng
chỉ nói mà thôi không phục vụ công việc giáo dục cách tốt
đẹp được. Trẻ con học rất nhanh. Nói ít thường cho đứa trẻ
thấy rằng hành động mới thích hợp cho những bất tuân của nó.
Từ đó trở đi, đứa trẻ biết hành vi của nó như thế thì không
được ổn.
Tại sao 3 đứa trẻ tiếp
tục trở lại bàn ăn mà không rửa tay? Mục đích ẩn dấu của
chúng là gì? Cái gì sẽ xảy ra như một kết quả đương nhiên?
Bà mẹ sẽ làm gì? Bà hồi hộp về chuyện đó?
Cả 3 đứa thấy rằng đứa bé
nhất đang lôi kéo sự chú ý của mẹ. Thình lình bà để ý đến
những bàn tay dơ. Bây giờ 3 đứa khác cũng được bà chú ý.
Chúng đã chống lại một luật lệ và đã chiếm được một sự đáp
trả. Bà mẹ đã chú ý đến bàn tay của chúng và phục vụ đúng
mục đích của chúng. Thật là khùng mới đi rửa tay như chúng
đã được bảo. Nếu vậy làm sao có thể làm cho bà mẹ bận rộn
với chúng.
Nếu bà mẹ thật sự muốn
thay đổi hạnh kiểm của các đứa trẻ, bà phải hành động. Lời
nói không có giá trị. Không trọng kính con trẻ, bà không thể
quyết định điều chúng nó sẽ làm. Nhưng bà có thể quyết định
điều bà sẽ làm. “Mẹ sẽ không ngồi vào bàn với các con khi
các con có những bàn tay bẩn thỉu dơ dáy”. Và bà thu dọn các
dĩa và không phục vụ thức ăn cho những ai có bàn tay bẩn
thỉu. Lần thứ hai, bà mẹ thấy những bàn tay bẩn thỉu ở bàn
ăn, bà không cần phải nói lý do bà không phục vụ thức ăn.
Bây giờ tình hình được thay đổi. Con cái không còn có mẹ bận
rộn với chúng nữa. Vậy, những bàn tay bẩn thỉu đó còn có mục
đích gì bây giờ?
Bà mẹ nhìn ra chiếc cữa
sổ nhà bếp để xem cậu bé Vĩnh 8 tuổi, lớn nhất trong 4 đứa,
đang nhắm cữa sổ của người bạn với chiếc súng liên thanh của
nó.
- Vĩnh con ơi, lại đây mẹ
muốn nói với con!
Cậu bé hạ súng xuống và
chạy tới mẹ, người đang mở cữa cho nó. Bà dẫn nó tới một chỗ
trong vườn, đặt nó ngồi trên bục gỗ, còn bà ngồi trên chiếc
ghế và nói:
- Con ơi, con biết rằng
khi bố mẹ mua cho con chiếc súng nầy, bố mẹ đã nói với con
về những nguy hiểm của nó. Bố mẹ đã thiết kế một phòng riêng
để nó không làm hại ai, cũng không làm hư hỏng đồ vật. Có
phải không?
Cậu bé nhìn mẹ với sự
ngây thơ, mắt mở rộng, và cho một ấn tượng thích thú trong
buổi hội ngộ, nhưng không trả lời.
- Con có biết rằng súng
đó có thể làm bể kiếng cữa sổ của bà bạn bên cạnh không? Cậu
bé nhướng mắt lên. Con thấy đó, có một sức mạnh với những
viên đạn nầy. Nếu trúng ngay góc, cữa sổ sẽ bị bể. Con có
muốn làm điều đó không? Cậu bé hạ mắt xuống. Con ơi, con
biết rằng nếu con làm bể cữa sổ của người ta, con phải đền
đó. Con có muốn điều đó xảy ra không? Cậu bé liếc nhìn mẹ
nhưng vẫn không nói gì. Con không muốn đem súng xuống lầu
dưới và chơi trong phòng mà bố mẹ đã làm sẵn cho con bắn
súng sao? Mẹ nghĩ như vậy thì lịch sự biết bao.
Cậu bé gật đầu, lê bước,
và nói:
- Con ra ngoài chơi.
- Tốt, nhưng con phải bỏ
súng trong phòng.
- Vâng, vâng, cậu bé đáp
lại với cái nhún vai.
Một ít ngày sau, bà mẹ
khám phá ra con mình bắn chai và lon ở dãy nhà gần đó. Bà mẹ
gọi nó về để khuyến dạy. Bà mẹ lập lại những lời cảnh cáo.
Bà mẹ lại nhắc nhở nó về những nguy hiểm của cây súng. Một
lần nữa, sau khi nghe xong, nó bỏ cây súng trong phòng và
chạy ra ngoài chơi trò chơi khác.
Bà mẹ với quan niệm nên
dùng lý luận với đứa trẻ, đã không tin rằng bà nên dùng hình
phạt hoặc áp đặt đứa trẻ. Vì thế, bà không làm gì khác ngoại
trừ lời nói. Nhiều cha mẹ đã nói quá nhiều. Đứa trẻ có mục
đích đàng sau hành vi của nó, và vì thế không có ý định thay
đổi. Nó cảm thấy quá nhàm và vô nhiễm. Nó trở thành “Mẹ
Điếc”. Cái điếc nầy bao gồm bất cứ ai muốn dùng lời như một
phương tiện để hướng dẫn. Bố mẹ và thầy cô biết một số lớn
trẻ con không muốn nghe một lời họ nói. Tuy nhiên, họ vẫn
tiếp tục phương cách vô ích đó bằng cách tăng gấp bội những
cố gắng vô dụng của họ.
Lời nói được xem là
phương tiện của đối thoại. Tuy nhiên, trong tình thế xung
khắc, đứa trẻ không muốn nghe, và lời nói trở nên khí giới.
Không có gì có thể chuyển tới đứa trẻ bằng lời nói vào lúc
xảy ra sự xung đột. Vào lúc đó, nó chỉ muốn làm ngơ giả
điếc. Bất cứ gì được nói ra cho nó sẽ trở thành đối tượng
cho những đáp lời của nó. Một trận chiến bằng lời xảy ra.
Ngay cả đứa bé không nói gì đáp lại, nó cũng kháng cự và
kháng cự trong hành động chứ không phải bằng ngôn từ. Cố ý
kháng cự hoặc gây thiệt hại là những hình thức hành động
thông thường nhất của đứa trẻ.
Cậu bé Vĩnh có vẻ lắng
nghe vì hành động đó có mục đích. Nó thật sự không nghe một
lời nào cả. Nó không có ý thực hành những chỉ dạy nó nhận
được. Tỏ ra lắng nghe là giá ít nhất phải trả để đạt cái
đích của nó. Nếu bà mẹ thật sự quan sát và hiểu được cách
diễn tả trên vẻ mặt của nó, bà sẽ thấy rằng nó đang đánh lừa
bà.
Nếu lý luận không kết quả
và bà mẹ không tin vào sự trừng phạt, phải làm gì bây giờ?
Bà mẹ có thể hành đông. Bà có thể lấy súng khỏi cậu bé và
nói: “Mẹ lấy làm hối tiếc thấy con không thích tuân theo
luật lệ. Con có thể có lại súng khi con tỏ ra tử tế”. Điều
đó có thể làm một hoặc hai lần. Sau đó, chiếc súng nên lấy
đi. Tuyệt đối không cần nói thêm điều gì nữa cả.
Lm.levanquang,
tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
Biến hình là hiến mình |
Sáu ngày sau khi Phêrô
tuyên tín Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống và cũng sau
khi ông bị khiển trách là Xatan vì khuyên can Thầy đừng đi
vào con đường khổ nạn như Người đã tiên báo (x. 16, 13-23),
Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi, cho các ông diện kiến vinh
quang rạng ngời của Thiên Chúa đúng như Phêrô đã tuyên xưng
trước đó. Với biến cố này, Chúa Giêsu muốn cho Phêrô,
Giacôbê và Gioan cũng như cho mỗi người tín hữu chiêm ngưỡng
trước vinh quang mà Người sẽ lãnh nhận cách hoàn hảo sau
cuộc Thương Khó.
Đem ba môn đệ đi theo
mình, Chúa Giêsu không chỉ muốn các ông chứng kiến, chạm đến
con người Thiên tính của Người; không chỉ muốn các ông nghe
trực tiếp lời minh chứng của Chúa Cha về Người mà còn để
củng cố niềm tin cho các ông nữa. Ba môn đệ là những người
đầu tiên bước theo Chúa. Các ông là những cột trụ của Giáo
hội sau này. Chính vì thế, biến cố hôm nay là một biến cố
rất quan trọng cho đức tin của các ông mà Chúa Giêsu cách
nào đó muốn tỏ hiện để củng cố niềm tin vốn còn yếu nơi con
người các ông.
Ba môn đệ đã thấy gì? Tin
mừng cho chúng ta biết các ông đã thấy dung nhan của Thầy
mình “chói lọi như mặt trời” và y phục của Thầy thì
“trắng tinh như ánh sáng”. Các tác giả thể văn khải
huyền thường miêu tả sự sáng ngời của những người lành thánh
bằng hình ảnh sáng chói như mặt trời. Cũng vậy, thánh sử
Mátthêu đã diễn tả dung nhan và y phục rạng ngời của Chúa
Giêsu tựa như ánh sáng mặt trời – một sự chói lọi vinh quang
Thiên tính không thể diễn tả, nhằm giúp cho các môn đệ chiêm
ngưỡng vẻ đẹp vinh quang rạng ngời của Chúa Giêsu.
Bên cạnh đó, cả ba môn đệ
đều chứng kiến sự hiện diện của hai nhân vật vĩ đại trong
Cựu ước là Môsê và Êlia đàm đạo với Chúa Giêsu. Chiêm ngưỡng
cảnh huy hoàng này khiến thánh phêrô phải thốt lên : “Lạy
Ngài, chúng con ở đây, thật là hay” và xin được dựng lều
ngay lập tức để giữ mãi giây phút thiên đàng ấy. Không
phải ngẫu nhiên mà Tin mừng Nhất lãm đều nói đến sự hiện
diện của hai nhân vật trong Cựu ước là Môsê và Êlia.
Chúng ta biết, Môsê và
Êlia là hai nhân vật quan trọng của Cựu ước cũng như trong
lịch sử dân Dothái. Môsê đại diện cho Lề luật dân Dothái.
Thông qua ông, Giavê Thiên Chúa đã ban xuống cho dân Người
những giới luật làm kim chỉ nam, hướng dẫn tinh thần cho dân
tộc Dothái. Môsê chính là con người của Biển Đỏ, con người
của núi Xinai và là con người của cuộc Xuất hành. Còn Êlia
là một Ngôn sứ vĩ đại, ông đại diện các Ngôn sứ. Chính ông
là người chịu nhiều đau khổ vì Giavê Thiên Chúa, vì dân tộc
Israel để rồi sau đó được cất lên trong vinh quang.
Cả hai ông đều có kinh
nghiệm tiếp xúc với Giavê Thiên Chúa và được chiêm ngưỡng
vinh quang của Người trên núi Sinai và Khôrếp. Đặc biệt hơn,
khi nhắc đến tên hai ông, Tin mừng Nhất lãm không chỉ chỉ
nhắc đến những công trạng của các ông mà còn nhắc đến toàn
bộ Kinh thánh Cựu ước mà hai ông đại diện. Mà Kinh thánh Cựu
ước là gì nếu không phải là lời loan báo về một Đấng Mêsia
chịu nhiều đau khổ để đạt đến vinh quang?
Các môn đệ còn được nghe
tiếng nói phát xuất từ Chúa Cha xác nhận nhân thân của Thầy:
“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các
ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Chúng ta nghe rất quen câu
nói này, bởi đã một lần được nhắc đến trên dòng sông
Giođan khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Đồng thời chúng ta cũng
thấy lạ, bởi hôm nay Chúa Cha không chỉ tái khẳng định lời
Người đã nói mà còn kéo thêm một lệnh truyền: hãy vâng
nghe lời Người. Ngày xưa, dân Dothái được khuyên nhủ hãy
vâng nghe lời Môsê và các ngôn sứ là những người thay mặt
Giavê Thiên Chúa đến lãnh đạo họ. Ngày nay, Chúa Giêsu chính
là Môsê mới và chính Chúa Cha nhắc nhớ các môn đệ cũng như
cho tất cả chúng ta hãy vâng nghe lời Người, mời gọi các ông
biết đón nhận những biến cố trong cuộc Khổ nạn – Phục sinh
của Thầy để có thể trở nên những chứng nhân đích thực.
Mùa Chay chỉ thực sự có ý
nghĩa khi mỗi người chúng ta để cho Chúa biến đổi đời sống
mình. Biến hình là hiến mình. Chúa biến hình nhằm giúp chúng
ta ý thức rằng vinh quang mà Chúa tỏ hiện hôm nay sẽ trở nên
trọn vẹn khi Người chấp nhận cuộc Khổ nạn, chấp nhận thập
giá để cứu rỗi nhân loại. Mỗi người chúng ta cũng được mời
gọi biến đổi khi biết chấp nhận một cuộc thanh tẩy tâm hồn,
tránh xa những cạm bẫy tội lỗi, những tư lợi nhỏ nhen ích kỷ
hầu có thể đón nhận ơn thánh Chúa.
Lm Jos.
Phạm Ngọc Ngôn, Csjb |
VỀ MỤC LỤC |
|
THỰC SỰ
CÓ SATAN, VÀ ĐỨC KITÔ ĐÃ THẮNG NÓ |
Bài chú giải Tin
Mừng Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay
của Cha Raniero
Cantalamessa, OFM Cap.
THÀNH VATICAN, Ngày
8 tháng 2 năm 2008 (Theo Tin Zenith.org)
Ma quỷ, thờ quỷ và những hiện tượng
liên quan đến chúng là những điều có tính cách thời sự ngày
nay, và làm cho một số đông trong xã hội chúng ta phải bối
rối.
Thế giới kỹ thuật và kỹ nghệ của chúng
ta đầy dẫy những nhà ảo thuật, phù thủy, những người theo
thuyết thần bí, theo thuyết duy linh, thầy bói, thầy bùa,
thầy chú, cũng như những tà giáo thờ Satan thật sự. Bị đuổi
ra khỏi cửa, ma quỷ lại vào qua cửa sổ. Bị đức tin xua đuổi,
chúng trở lại qua ngả mê tín dị đoan.
Cảnh Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong hoang
địa được đọc trong Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay giúp cho
chúng ta thấy vấn đề một cách rõ ràng hơn. Trước hết, có ma
quỷ hay không? Điều đó có nghĩa là chữ “ma quỷ” thực sự ám
chỉ một cá thể có trí thông minh và ý chí, hay chì là một
biểu tượng, một cách nói về tổng thể những sự dữ về luân lý
trên thế gian, một sự vô thức tập thể, một bệnh tâm thần tập
thể, vv…?
Nhiều người thông thái không tin rằng
có ma quỷ theo nghĩa thứ nhất. Nhưng cũng phải ghi nhận rằng
có nhiều tác giả vĩ đại, như Goethe và Dostoyevsky, thực sự
đặt nặng sự hiện diện của Satan. Baudelaire, không phải
thiên thần, đã nói rằng “cách lừa đảo hay nhất của quỷ là
làm cho người ta tin rằng không có nó.”
Bằng chứng chính của sự hiện diện của
ma quỷ trong Tin Mừng là nhiều lần Chúa chữa những người bị
quỷ ám, bởi vì những niềm tin của người thời xưa về nguồn
gốc của một số bệnh tật có thể đã ảnh hưởng đến việc giải
thích các biến cố này. Bằng chứng là việc ma quỷ cám dỗ Chúa
Giêsu trong hoang địa. Đời sống của nhiều vị thánh đã chiến
đấu không ngừng với ông hoàng tăm tối cũng là những bằng
chứng rằng có ma quỷ. Các ngài không phải giống như “Don
Quixote” đánh nhau với quân thù tưởng tượng. Ngược lại, các
ngài là những người rất thực tế, và khỏe mạnh về tâm thần.
Nếu nhiều người coi việc tin rằng có ma
quỷ là ngớ ngẩn, vì họ dựa vào sách vở, họ bỏ nhiều thì giờ
tìm kiếm trong thư viện; nhưng ma quỷ không quan tâm gì đến
sách vở, chúng để tâm đến con người, nhất là các vị thánh.
Làm sao một người bết về Satan nếu chưa
bao giờ gặp thực sự Satan, mà chỉ có những tư về Satan trong
các truyền thống văn hóa, tôn giáo, và chủng tộc? Họ cho
rằng họ biết chắc chắn về vấn đề này và cảm thấy mình trổi
vượt, coi tất cả như “thuyết huyền bí thời trung cổ.”
Nhưng đó là một chắc chắn giả tạo.
Giống như một người đi đâu cũng khoe là mình không sợ sư tử,
và chứng minh điều này bằng cách nói rằng mình thấy nhiều
hình vẽ sư tử mà không bao giờ cảm thấy sợ chúng cả. Ngược
lại, đương nhiên là những người không tin có Thiên Chúa thì
cũng không tin có ma quỷ. Nhưng thật là một thảm cảnh cho
những ai không tin có Thiên Chúa mà lại tin có ma quỷ!
Nhưng điều quan trọng nhất mà Đức Tin
Kitô cho chúng ta biết không phải là việc có ma quỷ hay
không, mà là việc Đức Kitô đã đánh bại chúng. Đối với các
Kitô hữu, Đức Kitô và ma quỷ không ngang hàng nhau, nhưng là
những nguyên tắc trái ngược nhau, giống như một số tôn giáo
theo thuyết nhị nguyên coi đó là trường hợp giữa lành và dữ.
Chúa Giêsu là Chúa duy nhất; còn Satan chỉ là thụ tạo “đã
trở thành dữ.” Nếu Satan được phép có quyền trên con người
bởi vì con người có quyền chọn lựa theo phe nào mình muốn,
đồng thời cũng để cho con người đừng quá tự hào (xem 2Cor
12:7), tin rằng mình có thể tự lập mà không cần một Đấng Cứu
Độ nào. Theo một bài hát về tôn giáo của người Mỹ Da Đen
“Satan Già hóa điên (Old Satan is crazy)” thì “Nó (Satan)
bắn để huỷ diệt linh hồn tôi, nhưng bắn trật nên thay vì thế
lại hủy diệt tội lỗi tôi”.
Có Đức Kitô chúng ta chẳng phải sợ gì.
Không có chi và chẳng ai có thể làm hại được chúng ta, trừ
khi chính chúng ta cho phép chúng. Các Giáo Phụ ngày xưa đã
nói rằng, sau khi Đức Kitô đến, thì Satan như con chó bị cột
ở cổng sân: nó có thể sủa và tấn công tùy thích, nhưng nếu
chúng ta không lại gần nó thì nó chẳng làm hại gì được chúng
ta.
Trong hoang địa Chúa Giêsu đã tự giải
thoát Mình khỏi tay Satan để Người có thể giải thoát chúng
ta! Đây là tin vui mà chúng ta dùng để bắt đầu cuộc hành
trình Mùa Chay đi đến Phục Sinh
Phaolô Phạm Xuân
Khôi chuyển ngữ |
VỀ MỤC LỤC |
|
Ý NGHĨA NGÀY LỄ TÌNH YÊU |
Ngày lễ Tình Yêu (Valentine’s Day)
14-2-2008 đã trôi qua như mọi ngày khác nhưng dư âm của nó
vẫn còn vang vọng trong trí não của nhiều người.
Trước hết, Ngày Tình Yêu theo nghĩa
rộng không hoàn toàn là tình yêu trai gái, nam nữ, chồng vợ,
tình nhân.
Ngày Tình Yêu là chung cho mọi sinh vật
đang sống trên địa cầu, người cũng như thú vật, chim muông.
Chính vì ý nghĩa đó nên có nhiều đài truyền hình trên khắp
thế giới, người ta đưa lên màn ảnh trong ngày này những hình
ảnh của các thú vật và chim muông. Người ta gọi là:”the
glamour of the animals”, sức quyến rũ của thú vật hay tình
yêu của thú vật.
Từ trên đi xuống, nếu bạn không phải là
người vô thần thì trước hết, trong Ngày Tình Yêu, bạn hãy
đặt thêm một chút tình yêu vào tay Thượng Đế, đấng cai quản
muôn loài, toàn vũ trụ.
Sau đó, nói chung, bạn hãy “Phiếm ái
chúng”, yêu tất cả mọi người, hoặc ít hơn, tử tế với mọi
người.
Ngày Tình Yêu cũng nhắc bạn yêu Dân
tộc, giống nòi của bạn. Chắc chắn nếu không có vua Lạc long
Quân và Hoàng hậu Âu Cơ thì không có bạn, không có tôi. Lại
nữa, những vị đó và hàng vạn, hàng triệu vị khác, trong đó
có tổ tiên, cụ kị, ông bà, cha mẹ bạn và tôi đã dày công vun
đắp nên cái mảnh giang sơn gấm vóc, cái miếng đất nhỏ bé
tươi đẹp làm tổ ấm cho bạn, cho tôi khi chúng ta mới chào
đời. Sau đó lại nuôi sống, chăm sóc để chúng ta trưởng thành
và có ngày nay.
Rồi cha mẹ, chú bác, cô dì cậu mợ, anh
chị em bạn, tất cả đều đã góp phần vào việc đào tạo con
người bạn, ngay các thầy cô dạy học, các ban bè cùng lớp, họ
cũng đã góp phần, nhiều hoặc ít, hoặc ảnh hưởng đến con
người của bạn.
Lấy một thí dụ nhỏ: bạn giở ra đọc một
tạp chí, một tờ báo giấy hay báo điện tử, (loại báo lành
mạnh và bổ ích) bạn đọc nhiều bài của nhiều tác giả viết
trên đó. Có thể bạn chẳng để ý đến cái sức làm việc của
những tác giả này và Tòa Soạn. Rất nhiều, nếu không phải là
tất cả, các tác giả đã thức khuya dạy sớm, hi sinh giờ nghỉ
ngơi để đọc, chiêm nghiệm rồi viết ra thành bài cống hiến
cho bạn. Có tác giả có người đánh máy giúp nhưng đa phần các
tác giả thời nay tự gõ lấy keyboard, viết xong, đọc lại, sửa
chữa, lại đọc lại cho đến khi ưng ý rồi mới gửi bài đi cho
Tòa Soạn. Với báo Việt Nam, rất ít có nhuận bút. Nhân viên
tòa soạn nhận được, phải phân loại, sắp xếp, ấn định ngày
đăng, có khi lại phải viết lời giới thiệu, có nhiều tác giả
viết sai chính tả lại phải dò lại, sửa chữa dùm. Biết bao
công việc, biết bao người làm để có một trang báo. Ấy là
chưa kể tiền bạc phải bỏ ra cho trang mạng, dụng cụ hao mòn
phải mua, giấy mực phải dùng, rồi máy móc hư hỏng phải sửa
chữa, phải chi tiền bạc. Trang báo đang hiện ra dưới mắt bạn
là thành quả của biết bao lao tâm khổ tứ, biết bao nhẫn
nhục, chịu đựng chỉ vì những người làm ra nó yêu Nghệ thuật
và yêu bạn mà gửi tới cho bạn. Họ sẽ chẳng mong bạn đền đáp
nhưng họ nghĩ, một khi bạn đọc được tâm tư của họ (tác giả)
bạn sẽ rút ra được điều gì đó có ích lợi cho chính bạn hoặc
cho cả những người xung quanh, mạnh mẽ hơn, cho nhân quần xã
hội.
Vậy Ngày Tình Yêu không chỉ dành cho vợ
chồng, bồ bịch, người yêu mà cho hết mọi người, mọi vật từ
con chó, con mèo trong nhà cho đến ông bà, cha mẹ, các bậc
trưởng thượng...
Ngày Tình Yêu như thế không bị chúng ta
giới hạn vào những quan hệ chật hẹp tầm thường mà chúng ta
hướng lòng chúng ta tới những gì là cao đẹp, là Hiếu, Trung,
Chân, Thiện, Mỹ.
Chúng ta cũng không nên quên tình yêu
đối với thiên nhiên, cỏ cây, rừng xanh, núi đỏ, biển rộng
sông dài, thứ tình yêu này bất diệt vì luôn luôn nó mang lại
cho chúng ta những ích lợi vô giá về thần trí cũng như thể
lực, một niềm yên ủi vô tận và quảng đại hơn bất cứ tình yêu
nào.
Tôi thường nghĩ chúng ta hết thảy đều
mang một món nợ đối với xã hội (xã hội đây bao gồm cả những
người thân của ta). Người, ta nợ ít; kẻ, ta nợ nhiều.
Thí dụ: Tôi đã nợ cụ Nguyễn Du những
bài thơ hay những đoạn thơ hay trong Truyện Thúy Kiều để
ngâm nga những lúc vui, buồn, giải khuây.
Tôi đã nợ Tự lực Văn đoàn một ít bút
pháp viết truyện để viết hầu bạn đọc những câu chuyện dí
dỏm, dễ thương, bổ ích.
Những định đề Toán học, tôi đã dùng để
giải những bài toán Hình học, tôi mắc nợ Toán học gia
Euclid. Ông này người Hi Lạp, sinh 300 năm trước công
nguyên. Những phương trình Đại số, Lượng giác, ngay cả những
cái nhỏ nhoi, giản dị như phân số và cách áp dụng những
phương trình hoặc giả thiết này để tìm ra đáp số những bài
toán dễ hoặc khó...tất cả, tất tất cả tôi đều đã được vay
mượn, có nghĩa tôi đã mang nợ.
Món nợ ấy, các bạn trẻ ạ, không bao giờ
chúng ta có thể trả xong! Chỉ còn một cách, hãy làm đúng
thiên chức của ta và hết lòng dạy dỗ lại các thế hệ đàn em,
về đức trí thể dục, mới có thể trả bớt phần nào món nợ chồng
chất.
Hồi còn nhỏ, sáu, bảy tuổi, mới khoảng
lớp Hai gì đó, tôi nhớ ông thầy cho học một bài trong Luân
Lý Giáo Khoa Thư lớp Dự bị (cours Préparatoire), có câu:
“Nếu không có người cày bừa, làm ruộng,
anh không có gạo mà ăn. Nếu không có ông thợ mộc, anh không
có nhà mà ở. Nếu không có người dệt vải và may vá, anh không
có áo mà mặc. Nếu không có thầy dạy dỗ, trí óc anh hoàn toàn
không được khai phá.”
Vậy chúng ta phải biết ơn tất cả mọi
người làm mọi nghề trong xã hội. Hồi đó kĩ thuật và nếp sống
của con người trong xã hội còn thô sơ, số người ta phải nhớ
ơn còn ít. (thí dụ, chưa có ai phát minh ra thuốc trụ sinh
Penicilline). Như bây giờ, với nếp sống văn minh đầy đủ tiện
nghi, lại càng có nhiều người ta phải nhớ ơn vì chính họ đã
mang lại cho chúng ta rất nhiều an toàn, bổ ích, thoải mái
và nhẹ nhàng của cuộc sống.
Ngày Tình Yêu chính là ngày tung lưới
tình yêu của ta ra trải muôn phương, đến với muôn người,
muôn vật, hàm một ý nghĩa sâu sắc nhớ ơn những gì ta đã và
đang được hưởng vậy.
15-2-2008
Nhà Văn Xuân Vũ
TRẦN ĐÌNH NGỌC |
VỀ MỤC LỤC |
|
Bạn ca ngợi Chúa
|
Tác
phẩm: Cầu Nguyện Cá Nhân: Bí quyết tình yêu và vui sống
Lm. Micae-Phaolô
Trần Minh Huy, pss.
Phần thứ hai
Đối thoại
với Chúa thế nào?
s á u
Bạn ca ngợi Chúa
Bạn ca ngợi Chúa
là bạn trả lại cho Ngài sự vinh hiển mà chỉ một mình Chúa
mới thực sự đáng được. Tại sao chúng ta lại chậm chạp trong
việc ca ngợi Chúa?
Chắc chắn vì thiếu đức tin, tình yêu và
hy vọng.
Sức mạnh của lời ca ngợi
Cha sở họ Ars đã
nói: “Thiên Chúa đã ban cho con người miệng lưỡi để ca
ngợi.’’ Lời ca ngợi thường được diễn tả bằng ca hát. Nhưng
trước hết tôi muốn bạn hiểu rõ hơn bước nhảy vọt biến lời tạ
ơn của bạn thành lời ca ngợi. Khi nói cám ơn Chúa, bạn nhìn
thấy quà tặng và ân huệ ban trải trong tất cả con người và
biến cố. Còn khi đi vào lời ca ngợi thuần túy thì chính là
với Chúa mà bạn nói lên ‘’cám ơn vì đã hiện hữu’’. Lời cầu
nguyện của bạn trở nên tuyệt đối vô tư, hoàn toàn nhưng
không.
Lời ca ngợi vượt quá
tất cả mọi sự, kể cả bom đạn, hỏa hào hay tù ngục. Chính
trong lúc mọi sự xem ra đều hỏng cả, không có gì để có thể
nói cám ơn, và đúng hơn chính là lúc phải kêu cứu, thì lời
ca ngợi còn có thể phát ra như ngọn lửa tình yêu mãnh liệt
sống động.
Trước hết là chứng
từ trong sách Daniel của các thanh niên Dothái: Anania,
Azaria và Misael từ chối thờ lạy tượng thần, bị vua
Nabuchodonosor kết án thiêu sống. Lính trói các cậu lại và
ném vào lò lửa cháy phừng. Nhưng thiên thần Chúa, đáp lại
lời khẩn cầu, đã xuống bảo vệ họ khỏi hỏa hào. Bấy giờ trong
lò lửa, cả ba đồng thanh ca hát, ngợi khen và chúc tụng
Thiên Chúa. Bạn đọc thấy trong Kinh Thánh những lời ca ngợi
ấy (Dn. 3:1- 90).
Bạn có thể tìm thấy
một thí dụ khác trong sách Tông Đồ Công Vụ (Act. 16: 25-28):
Phaolô và Sila ca ngợi Chúa, lúc nửa đêm, khi bị giam trong
ngục. Bỗng chốc một trận động đất làm rung chuyển nền móng
ngục thất, mọi cánh cửa đều được mở toang và xiềng xích các
tù nhân rơi xuống. Người cai ngục suýt nữa tự vẫn trước khi
trở lại với Chúa Kitô. Quyền năng kỳ diệu của lời ca ngợi!
Nhưng không được coi
đó như là một định luật phổ quát. Lời ca ngợi không phải là
một trò ảo thuật để thoát ra khỏi những hoàn cảnh tuyệt
vọng. Phép lạ lớn nhất luôn luôn nằm ở lãnh vực thiêng
liêng. Maximilien Kolbe không thoát khỏi cái chết, nhưng đã
chiến thắng hận thù và sự tuyệt vọng. “Phúc thay anh em khi
vì Thầy mà bị người ta sỉ nhục, bách hại và bị vu khống đủ
điều xấu xa. Anh em hãy vui mầng hớn hở, vì phần thưởng dành
cho anh em trên trời thật lớn lao’’ (Mt.5:11-12).
Bạn hãy ca hát cho Thiên Chúa của bạn
Những thí dụ tôi vừa
đưa ra đó phải khích lệ bạn ca ngợi trong cả cuộc đời bạn.
Có thể ca ngợi trong những hoàn cảnh tồi tệ nhất, thì càng
có thể ca ngợi hơn nữa trong cuộc sống bình thường mỗi ngày.
Lời ca ngợi cộng đồng là kết quả của lời cầu nguyện cá nhân.
Để lòng nhiệt huyết của bạn với Chúa triển nở phong phú, bạn
thực hành mấy cách nầy:
Trước hết bạn hãy
xin ơn ca ngợi. Đó là thực hành mỗi sáng của những ai cử
hành phụng vụ giờ kinh: “Lạy Chúa, xin mở môi con và miệng
con sẽ cao rao lời ngợi khen Chúa’’ (Tv.50:17). Một lời cầu
nguyện như vậy là cần thiết, vì lời ca ngợi là một ơn ban,
chứ không phải là một việc của ý chí thuần túy. Đôi khi bạn
thấy có những người hát các ca khúc vui tươi với một nét mặt
chảy dài não nề làm sao! Sự bộc lộ của con tim chưa có. Vậy
phải ưu tiên cầu xin, hầu sưởi ấm lời ca ngợi của bạn.
Tiếp đến, bạn hãy
tiên liệu một thời khắc ca ngợi trong buổi cầu nguyện cá
nhân của bạn. Khởi đi từ việc cám ơn, bạn dễ dàng tiến sang
việc ca ngợi. Bạn có thể sử dụng một tập thánh ca hay thánh
vịnh (hơn một nửa là ca ngợi hay tạ ơn). Bạn đừng hài lòng
chỉ lẩm nhẩm, song hãy hát lớn tiếng, nếu việc đó không làm
phiền kẻ khác. Dùng những bài quen thuộc. Chỉ đơn giản tìm
làm vui lòng Chúa. Càng tìm lui tới những thi ca tình yêu
Thiên Chúa, bạn càng sớm nhận được bước khởi đầu của ơn linh
hứng. Có những người thích ca ngợi vào cuối ngày: “’Mỗi tối,
tôi tìm được cả chục lý do để ca ngợi Chúa về những niềm vui
trong ngày xuyên qua các biến cố khác nhau, rồi tôi xin lỗi
Chúa về những gì còn thiếu tình yêu. Sau khi đã thực hành
đều đặn như thế một thời gian, hôm nay tôi có thể nói rằng
niềm vui của tôi đã trải ra như vậy, dường như tấm màn bao
phủ trái tim tôi đã rơi xuống.’’
Bạn cũng có thể dùng
một băng thánh ca phụng vụ để ca ngợi, hòa theo các lời,
cung nhạc và tiết điệu. Cũng chẳng có gì ngăn cản bạn diễn
tả lời ca ngợi với cả thân xác bạn. Nếu bạn cầu nguyện ở nơi
riêng biệt, bạn có thể giang tay lên trời, nhún nhảy và mĩm
cười với Chúa Giêsu đang nhìn bạn. Bạn cũng có thể múa nhảy
như David đã làm trước Hòm Giao Ước. Phải chăng trong khi
nhảy múa mà các người trẻ trên khắp thế giới thích bộc lộ
sức sống của mình? Vậy tại sao lại không múa nhảy được cho
Thiên Chúa, Đấng đã ban trao Sự Sống? Phải, Thiên Chúa quá
tốt đẹp, không thể chỉ mừng lễ Ngài với lời nói. Tất cả thân
xác con người, tất cả mọi nhạc cụ, tất cả vạn vật và tất cả
các thiên thần đều phải được điều động vào lời Hoan Ca
Alleluia liên lĩ.
Và cuối cùng, bạn
hãy đi vào sự thinh lặng tràn đầy tình yêu, vì đối với Chúa
‘’cả sự thinh lặng cũng là lời ca ngợi’’. Khi bạn không thể
thốt nên lời, hay khi bạn bận công việc, thì con tim chìm
lắng của bạn cũng luôn thầm thì được bài tình ca cho Người
Dấu Yêu. Không hề mệt mỏi, bạn hãy dâng mọi sự, kể cả những
thử thách, để ‘’ca ngợi vinh hiển Ngài’’. Và Thiên Chúa có
đủ đôi tai thính nhạy sẽ không để mất đi lời nào trong bản
diệu ca kín đáo, càng lúc càng chuyển sang sự tôn thờ thuần
túy.
Bạn
hãy nói cho tôi hay bạn tôn thờ ai...
Sự tôn thờ dẫn ta
đến chóp đỉnh của lời cầu nguyện. Tôn thờ nghĩa là yêu say
đắm. Thánh Kinh dạy chúng ta rằng chỉ một mình Thiên Chúa
đáng được tôn thờ, và đó là điều răn trọng nhất: “Con hãy
yêu mến Thiên Chúa con, hết lòng con, hết linh hồn con, hết
trí khôn con, hết sức lực con’’ (Mc.12:30).
Trở ngại lớn nhất là
do các thần tượng chiếm mất cái chỗ dành riêng cho Thiên
Chúa. Ngay từ lúc bạn yêu nhiều, yêu say đắm, yêu điên dại,
đến độ dám nói ‘’tôi tôn thờ’’ là bạn tự tạo nên cho bạn một
thần tượng, để rồi bạn không còn khả năng tôn thờ Thiên Chúa
chân thật, Đấng Duy Nhất.
Bạn hãy nói cho tôi
hay bạn tôn thờ ai, tôi sẽ nói cho bạn biết bạn là người thế
nào. Phúc Âm đã nói rõ: “Kho tàng con ở đâu thì lòng con
cũng ở đó’’ (Mt.6:21). Điều quan trọng là phải xem xét bạn
‘’say đắm’’ trong những lãnh vực nào. Tôn thờ là cho đi tất
cả. Như Abraham được gọi hy sinh đứa con trai độc nhất, mỗi
người chúng ta cũng được mời gọi hy sinh những gì chúng ta
thích thú nhất, để đem đặt tất cả vào nơi Chúa. Đối với
người tôn thờ Thiên Chúa, thì tất cả những gì không phải là
Chúa đều là tương đối, giới hạn và phụ tùy. Chỉ một mình
Thiên Chúa là Tuyệt Đối.
Bạn hãy nghĩ bạn là
gì khi đến trước sự thánh thiện chói ngời của Chúa? Thật chỉ
là một chút bụi đất! Vậy hãy cúi mình sấp mặt xuống đất
trong thái độ khiêm hạ nhất, để lòng bạn chìm đắm trong sự
thờ phượng. Chúa sẽ tỏ mình cho bạn ngọt ngào tốt lành biết
bao, và bạn dám gọi Ngài là ‘’Cha’’. Trong sự thân mật của
tình yêu Ngài, bạn được thúc đẩy hiến dâng cho Ngài tất cả,
toàn thể bản thân bạn, với tất cả lòng tín thác. Bạn hãy nói
với Ngài những lời yêu thương giản dị: “Chúa của con ơi, con
yêu mến Chúa nhất trên đời nầy. Chúa là Người Dấu Yêu của
lòng con. Con không có hạnh phúc nào lớn hơn Chúa. Con tôn
thờ Chúa và con hết sức ao ước được nhìn thấy Chúa mặt đối
mặt!’’ Mắt nhắm lại, mũi chạm đất, bạn cứ ở như vậy, lâu
chừng nào bạn có thể, trước sự hiện diện của Thiên Chúa chí
thánh.
Nếu bạn chưa đạt tới
được sự tôn thờ nội tâm như thế, bạn hãy mở mắt ra và chăm
nhìn vào một mẫu tượng, chẳng hạn một thánh giá, gương mặt
Chúa đổ mồ hôi máu hay Chúa khát. Sự tôn thờ là cái nhìn
ngưỡng mộ bắt gặp cái nhìn yêu thương của Chúa trên bạn. Khi
bạn chiêm ngắm Chúa chịu đóng đinh, bạn tôn thờ Đấng đã chịu
phó nộp vì bạn với bao đau khổ khủng khiếp. Chỉ một mình
Ngài là con người có quyền được sự tôn thờ chỉ dành riêng
cho một mình Thiên Chúa. Nhờ Ngài mà sự tôn thờ của bạn dựa
được trên cái gì cụ thể. Các tượng thánh trở nên những cánh
cửa mở ra với Đấng Vô Hình, nhất là các i-côn diễn tả kinh
nghiệm chiêm niệm của các nghệ sĩ công giáo. Khi cung kính
đặt môi hôn lên thánh giá hay một ảnh thánh, bạn có thể nói
lên cái ngôn ngữ của tình yêu ‘con tôn thờ’.
Trước Chúa Giêsu Thánh Thể
Nhưng Chúa Giêsu
không chỉ hiện diện qua hình ảnh! Ngài đã muốn đến gặp chúng
ta trong một sự hiện diện thực sự: Mình Thánh Chúa. Ngài có
đó cho bạn, dưới hình thức rất khiêm tốn của một miếng bánh
nhỏ. Tất cả hữu thể Ngài, thân xác, linh hồn, thần tính tập
trung lại trong một điểm không gian hầu lôi cuốn cái nhìn và
nhẹ nhàng kéo chúng ta đến với Ngài. Ngài chẳng hề gây tiếng
động hay làm cái gì đặc biệt để quyến rũ sự tò mò bệnh hoạn
của con người! Đó là trực giác của tình yêu dẫn đưa bạn đến
ngưỡng cửa hiện diện của Chúa. Nếu bạn nhìn Ngài với con mắt
đức tin, bạn cảm nhận được Mầu nhiệm phi thường. Nhà Tạm với
ngọn đèn chầu đêm ngày chứa đựng một nguồn năng lượng trổi
vượt mọi trung tâm hạch nhân. Sự hòa trộn tình yêu giữa Tạo
Hóa toàn năng với cái nguyên tử vật chất nầy có khả năng làm
biến đổi tất cả. Đường đời trăm vạn nẻo, bạn có quên đi,
nhưng đừng bao giờ quên đường đến Nhà Tạm.
Ngày nay, nhiều
người trẻ khám phá được ý nghĩa sự tôn thờ Thánh Thể. Họ
thích ở trước Mình Thánh Chúa hằng giờ. Họ tổ chức nối phiên
nhau chầu Chúa cả vào ban đêm, lấy làm hạnh phúc được ở gần
Con Tim đang đập vì phần rỗi của thế giới. Bạn hãy nắm lấy
phiên bạn trong cuộc điều động khẩn trương nầy. Bạn đừng bỏ
qua cơ hội nào đi ngang qua nhà thờ mà không bái chào Chúa
Kitô. Bạn hãy ‘xài rộng’ đi mươi mười lăm phút trước Nhà
Tạm, như là nước hoa đắt giá đổ xuống chân Chúa Chiên Lành.
Bạn hãy chủ động sáng kiến, đừng đợi phải có người thúc giục
lôi cuốn bạn nghĩ đến Chúa.
Khi thờ lạy Mình
Thánh Chúa đặt ra ngoài, mắt bạn còn thấy rõ được Thánh Thể.
Bạn hãy thinh lặng kết hiệp với các anh chị em đang cùng thờ
lạy với bạn, bạn càng cảm nhận sự hiện diện của Chúa mãnh
liệt hơn nữa. Bề ngoài xem ra bất động, nhưng những người
tôn thờ Thánh Thể đi vào một chuyển động nội tâm sâu xa. Lửa
Thánh Thể qui tụ lại chung quanh mình một dân mới. Mình
Thánh Chúa giống như bụi gai bốc cháy làm bạn bắt lửa như ăn
nắng mặt trời, bạn cảm thấy trái tim bạn được sưởi nóng
trong bình an và hoan lạc.
Phải, Mình Thánh
Chúa Kitô là suối nguồn sung mãn, là bí quyết triển nở của
chúng ta. Nhiều người, nam cũng như nữ, đã làm chứng về sự
trở lại hay được chữa lành họ đã được ban cho khi tôn thờ
Mình Thánh Chúa. Tất cả những ai có kinh nghiệm ấy đều nói:
“Một lúc tôn thờ đích thực Mình Thánh Chúa có giá trị và
hiệu quả thiêng liêng hơn tất cả hoạt động tông đồ mãnh liệt
nhất’’. Chọn lựa căn bản là thờ lạy Thánh Thể hay thất vọng:
“Hãy đứng lên, hỡi những người tôn thờ Thánh Thể, nếu không,
lời nói của anh chị em sẽ mất đi, như hạt giống rơi xuống
trên đá sỏi hay trong bụi gai. Tôn thờ Thánh Thể là chìa
khóa mở được mọi vấn đề của thế giới, vì có Chúa Giêsu trong
trái tim mỗi người. Chớ gì mọi người biết được điều đó. Ta
có thể đạt được tất cả trong việc tôn thờ Thánh Thể. Tất cả!
Tất cả! Tất cả! Cám ơn Chúa Giêsu đã ban cho bạn món quà vô
giá mà chẳng ai có thể lấy đi được.’’
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
Tình Bằng Hữu - Bạn Già
“Có bạn tốt, tốt cho sức khỏe” -
Irvin Sarason
|
Tục ngữ Mỹ có câu nói:
“Tiếp tục kiếm thêm bạn mới nhưng hãy duy trì bằng hữu cũ,
vì bạn mới là bạc mà bạn cũ lại là vàng”.
Cụ Nguyễn Ðình Chiểu của
chúng ta trang trọng bạn xưa với:
" Trong đời mấy bậc cố
tri,
Mấy trang đồng đạo,
mấy nghì đồng tâm"
Nhà thơ Lê Đại Thanh
viết:
“Bạn là một nửa bản
thân tôi
Nửa da thịt, nửa trái
tim, khối óc”
Còn sau đây là diễn tả
tình bạn trong Nhị Ðộ Mai:
“Nghĩa bằng hữu bậc
trung trinh,
Thấy hoa mai bỗng động
tình xót xa”
Nhiều vị tuổi cao cũng có
ý nghĩ rằng khi về già, ngoài việc có một sức khỏe tốt, một
gia đình êm ấm, thì tình bạn lâu năm là một hành trang quý
giá mà họ đã mang theo được cho tới giai đoạn cuối của cuộc
đời.
Vậy thì
bạn hữu là gì?
Hiểu theo nghĩa thông
thường, bạn là một nhóm người thường thì không có liên hệ
ruột thịt, gắn bó với nhau qua những tương đồng về hoàn cảnh
sinh sống.
Họ đến với nhau trong tâm
đầu ý hợp, bằng kết nối những tâm tư, những nguồn giao cảm
gần giống nhau.
Họ thân với nhau để chia
xẻ vui buồn, để cùng thực hiện những hoài bão chung, để
nương tựa lẫn nhau.
Họ hiểu nhau, tin tưởng
nơi nhau, thích nhau. Đây là một gắn bó của sự thủy chung và
thương yêu vị tha và lâu dài. Với nhau, họ là người đồng
hành, là người tin cậy.
Bạn hữu khác với người
quen biết, gặp nhau trong công việc hàng ngày như ở sở làm,
trong cộng đồng, ngoài lối xóm. Đó chỉ là những tiếp xúc
trong một thời gian giới hạn và cần thêm nhiều lôi cuốn, kết
nối khác nữa để chuyển sang tình bằng hữu.
Trong đời sống hàng ngày,
nhiều khi người ta đã lạm dung chữ bạn. Mới gặp nhau vài lần
mà đã nói đó là bạn tôi, cứ như là thật. Ông bà chủ lấy lòng
nhân viên, sai bạn ơi làm hộ tôi cái này, cái kia sao mà
ngọt như mía lùi. Ðể rồi sa
thải nhau cũng mau như cắt.
Bạn hữu thường tập trung
vào mấy nhóm.
- Một số người có tinh
thần độc lập, tự cho là không cần đến ai. Không phải họ sống
cô độc. Nhưng, với họ, những giao tế qua lại thường nhẹ
nhàng, có cũng được mà không cũng chẳng sao. Rồi tùy theo
hoàn cảnh, tùy theo nhu cầu, nếu cần thì giao tiếp, nếu
không có thể quên đi dễ dàng. Họ sống với hiện tại và thỏa
mãn với những người mà họ mới gặp hay đã có sẵn. Cho nên khi
mất một giao hữu, họ cũng chẳng tiếc mấy.
- Những người kỹ tính,
lựa bạn mà chơi thì có gắn bó sâu đậm đặc biệt với một số
người mà họ coi là rất thân. Nên họ buồn tiếc khi mất. Còn
những liên hệ khác thì chỉ là những thiển giao, quen biết
nhiều hơn là kết bạn. Họ sống nhiều với bạn xưa và không
muốn tìm bạn mới khi tới tuổi cao.
- Người hiếu bạn có nhiều
bằng hữu hơn: bạn quen từ những năm trước, bạn mới tạo ra
sau này. Họ là những người sống với cả quá khứ, hiện tại
trong tình bạn và sửa soạn cho tương lai với nhiều bạn bè.
Họ luôn luôn dùng giao tế nhân sự để kiếm thêm bạn mới.
Nhiều nhà xã hội học phân
biệt bằng hữu tương nhượng, bằng hữu tiếp thu và bằng hữu
trong hợp tác.
Khi đôi bên cho nhau lòng
trung thành và tình thương yêu thì có sự cân bằng của tình
bạn, đôi bên nương tựa lẫn nhau.
Khi chỉ có một bên cống
hiến tất cả và bên kia không đáp lễ thì chỉ có tình bạn một
chiều.
Khi chỉ hợp tác vì một
quyền lợi, một mục đích mà không có thương yêu, chung thủy
thì giao tế không bền và rất giới hạn.
Đặc
điểm của bằng hữu.
Khác với tình anh em, vợ
chồng, bạn hữu có những sắc thái riêng biệt. Đây là một giao
hảo có tính cách tự nguyện, một ràng buộc riêng tư do đôi
bên hiểu ngầm thương lượng, một liên hệ qua lại trong tinh
thần bình đẳng tràn đầy thiện tâm, thiện ý.
Vì tự nguyện, có quyền
lựa chọn và được chọn lựa nên không ai bắt buộc ai phải là
bạn. Nó cũng không có ràng buộc pháp lý như tình nghĩa vợ
chồng, hoặc lễ nghĩa huyết tộc như tình anh chị em ruột
thịt.
Cho nên dù có liên hệ
huyết mạch, người cùng lối xóm, cùng sở làm mà không có
tương khí tương đồng thì cũng không trở nên bằng hữu được.
Ta có thể tỏ ra hết sức lịch sự với người cùng phòng, cùng
sở nhưng không có điều gì bắt buộc ta phải thích và là bạn
người đó. Ta không thể tự coi là bạn của một người khi ta
không biết người đó có sẵn sàng nhận ta là bạn không. Tác
giả người Pháp J Delille đã nói: “Cha mẹ là do số phận, bạn
bè do lựa chọn ”.
Bình đẳng vì tình bạn xây
dựng trên cá nhân mỗi con người. Nó không đòi hỏi sự bằng
nhau tuyệt đối về học vấn, về địa vị trong xã hội, về sự
giàu tiền, lắm bạc như nhau, thành công như nhau. Đã có
nhiều tình bạn rất đẹp nẩy nở giữa chủ và thợ, giữa thầy và
trò, giữa người giàu và người nghèo.
Tình bạn cũng tôn trọng
tính cách độc lập của nhau: mỗi bên có nếp sống riêng tư, tự
do quyết định cho đời sống của mình mà không bị bên kia can
thiệp. Không có sự áp đặt chủ -nô hoặc khuất phục như lãnh
chúa độc tài với thần dân.
Trong tình bạn, đôi bên
dành cho nhau những cảm tình tốt, những chăm sóc, quan tâm
tận tình, những giúp đỡ khi cần và sự rộng lượng, sẵn sàng
với nhau. Thiện ý này không đưa đến sự lợi dụng nhau hoặc
phụ thuộc nhau. Người giúp thấy thoải mái làm mà không cho
là có bổn phận hoặc bị bắt ép phải làm, mà người nhận không
bị ám ảnh là đã đòi hỏi quá nhiều ở bạn.
Vì khi đã phụ thuộc vào
nhau thì sự tự do, bình đẳng không còn nữa. Một tình bạn
đích thực không những chỉ cởi mở để cho mà còn vui vẻ để
nhận.
Tình trạng sẵn sàng với
nhau cũng là căn bản của bằng hữu và trong tình bằng hữu,
không có sự ghen tị mà còn cần thành thật với nhau, không
mầu mè, che đậy.
Để có
bằng hữu
Tình bạn có thể được xây
dựng trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào của con người.
Căn bản là ít nhất họ có
cùng một thôi thúc tình cảm, có sự chia xẻ trao đổi những ý
nghĩ giống nhau, có cùng sở thích, quyền lợi. Trong tình bạn
tuy cũng có những khác biệt nhưng khác biệt này bổ túc cho
nhau. Nếu hoàn toàn giống nhau thì đâu còn đối thoại, đồng
cảm.
Bạn thường tìm thấy trong
các nhóm có chung sinh hoạt: học cùng trường, ở cùng khu
phố, làm cùng nghề, cùng thú vui giải trí, cùng lui tới cơ
sở tôn giáo. Nó nẩy sinh ở những lứa tuổi khác nhau. Nhóm
trung niên có lợi điểm là có bạn ở mọi lứa già trẻ trong khi
người già có bạn ở cùng lứa tuổi hoặc trẻ hơn.
Về giống tính thì thường
thường đàn ông đàn bà đều có nhiều bạn như nhau, nhưng chồng
thì không hay tâm sự nơi bạn mà tin cẩn vợ hơn, còn vợ thì
có nhiều bạn gái để tâm sự ngoài chồng mình.
Bằng hữu nẩy sinh trong
những thôi thúc tình cảm giữa hai người. Thôi thúc càng cao
thì bằng hữu càng sâu đậm.
Một câu hỏi thường được
nêu ra là tại sao ta có ước muốn gắn bó với đối tượng này mà
lại hững hờ với đối tượng khác. Có những tình bạn xuất hiện
như tia chớp trên nền trời xanh: mới chỉ gặp một vài lần,
chưa biết quá trình, hiện tại của nhau nhưng đã dành cảm
tình cho nhau, đã muốn được có bạn và được nhận là bạn. Ý
thức chưa thấy gì, nhưng tiềm thức đã nhận ra và tiên đoán
là nhiều triển vọng tình bạn sẽ nẩy nở sau này.
Sự bá vai, chèo kéo, nài
nỉ không đưa tới tình bạn, như các cụ ta thường nói: “Thấy
sang bắt quàng làm họ”.
Đồng nghiệp, đồng sở
không đương nhiên thành bằng hữu vì đây chỉ là giao tế khách
quan, không vượt qua lãnh vực nghề nghiệp.
Một vấn đề tế nhị là sự
xét đoán và chấp nhận trong tình bạn: nhận xét một cách
khách quan về việc làm của bạn hoặc chấp nhận và hỗ trợ vô
điều kiện. Đa số đều kỳ vọng có sự chấp nhận không phê phán
từ bạn mình. Một số khác lại tin cậy ở nhận xét của bạn để
quyết định và để học cách hành xử trong hoàn cảnh mới. Như
vậy mặc dù con người không thích bị đánh giá, nhưng một nhận
xét chân thành của bạn có thể có ích cho họ.
Bạn Già
Giống như khi mới mở mắt
chào đời và trong thời kỳ thơ ấu, tuổi già đôi khi chịu một
số phận không mấy vui là phải phụ thuộc vào người khác, nhất
là sau khi đã có nhiều mất mát. Họ không còn làm việc, bị
giảm lợi tức, con cái đi ở riêng, mất dần bạn bè, người thân
yêu, kém sức khỏe, bệnh hoạn. Cho nên về già mà có được
những bạn cố tri thân thiết hoặc tạo thêm ra những bạn mới
để nương tựa lẫn nhau là một điều rất an ủi.
Nhiều người cho rằng dù
họ hàng thân thuộc có giúp đỡ nhưng bằng hữu thường gần gũi
nhau hơn, dễ nói với nhau hơn. Và có nhiều điều mà chính
người phối ngẫu cũng không đáp ứng được bằng những bạn cố
tri. Họ đã cùng vui buồn có nhau từ thuở xa xưa mà bây giờ
già rồi vẫn còn qua lại. Họ nương tựa lẫn nhau để có bầu có
bạn, hiểu nhau để giúp đỡ lẫn nhau. Họ lắng nghe nhau tâm
sự, kể lại cho nhau những kỷ niệm, những việc đã cùng làm.
Họ đối xử, xưng hô thân mật như khi còn để chỏm, mấy chục
năm về trước.
Thường thường người già
muốn có bạn cùng lứa tuổi, có hoàn cảnh như nhau, sở thích
kinh nghiệm như nhau, sống gần nhau để thuận tiện qua lại.
Nhưng họ cũng có khuynh hướng là tạo thêm bạn mới ở lứa tuổi
trẻ hơn để thay thế vào chỗ của những người bạn cùng tuổi sẽ
lần lượt ra đi. Cũng có người già tập trung nuôi dưỡng bạn
cố tri, giới hạn tìm thêm bạn mới để tiết kiệm sinh lực và
để tránh gặp những trái ý không cần thiết.
Về già cũng có một số
hoàn cảnh khiến cho tình bạn gặp trở ngại.
Kém sức khỏe đưa đến
không cùng nhau sinh hoạt.
Quá phụ thuộc vào bạn
trong các công việc hàng ngày thì đôi khi bạn cũng thấy khó
chịu, xa dần.
Lại còn người già giảm
khả năng đối thoại với tai nghễnh ngãng, mắt kèm nhèm đều dễ
dàng rơi vào cảnh cô lập.
Cũng nhiều người già
không có thì giờ dành cho bạn bè vì bận rộn chăm sóc cho sức
khỏe của mình hoặc để nghỉ ngơi.
Ngoài ra, có trường hợp
khi dư giả thì bạn bè năng tới lui, mà nghèo khó thì lại
thưa vắng qua lại. Như tình huống của Nguyễn Hữu Chỉnh:
“Ðã hẳn ai là mặt cố
tri;
Giầu sang tìm đến, khó
tìm đi”
Tình nghĩa vợ chồng già
dù như đũa có đôi, nhưng cũng nên có những bạn riêng để
phòng hờ thời gian đơn côi, góa bụa.
Khi mất người phối ngẫu,
lão nam cảm thấy lẻ bóng nhiều hơn vì đã mất người bạn đầu
gối tay ấp cả dăm ba chục năm.
Bình thường quý lão bà có
nhiều bạn tâm tình trong suốt cuộc đời. Nhưng khi bạn hiền
ra đi, thì cụ bà thấy quan hệ với bằng hữu cũ của vợ chồng
giảm dần. Cũng may là các bà dễ dàng tạo thêm bạn mới, giao
hảo mới bằng cách tham dự vào nhiều sinh hoạt cộng đồng, tôn
giáo. Đa số bạn của cụ bà khi đó là cô quả cùng cảnh ngộ,
chỉ có một số nhỏ có gia đình.
Cho nên khi còn sống với
nhau mà bà vợ không chịu giao tế tạo bạn cho mình thì khi ở
góa sẽ có nguy cơ cô đơn. Nhất là khi chẳng may khả năng tài
chánh lại không được dồi dào.
Kết luận
Mặc dù có thể có những
căng thẳng, những thay đổi ngoài tầm kiểm soát, tình bạn vẫn
giúp người già cảm thấy vui lên rất nhiều. Cho nên mất một
bạn cố tri là một tai biến vì nhiều người già cảm thấy không
còn đủ thời gian để thay thế cái khoảng trống tình cảm đó.
Hơn nữa, như Simone de
Beauvoir đã viết:
“Cái chết của người
bạn thân thiết là sự đoạn tuyệt đột ngột với quá khứ của
mình. Chúng ta không những mất một sự hiện diện mà còn mất
cả một phần của cuộc sống mà chúng ta đã gửi gắm nơi họ”.
Bác sĩ
Nguyễn Ý-Ðức
Texas- Hoa Kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
|
TẾT TÂY, BÀN VỀ TÂY VÀ TA - Chuyện phiếm của Gã Siêu. |
Khi học về tâm lý, gã
được biết nơi con người có hai yếu tố luôn ảnh hưởng lẫn
nhau, đó là yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài.
Trước hết, yếu tố bên
trong ảnh hưởng tới bên ngoài. Chẳng hạn khi buồn, ta có cảm
tưởng như môi trường chung quanh cũng ảm đạm và tê tái như
muốn chia sớt nỗi buồn đang đầy ứ trong cõi lòng của ta. Vì
thế, Nguyễn Du đã viết :
- Cảnh nào, cảnh chẳng
đeo sầu,
Người buồn, cảnh có vui
đâu bao giờ.
Tiếp đến, yếu tố bên
ngoài ảnh hưởng tới bên trong. Chẳng hạn vừa mới ngủ dậy mà
bỗng trời đổ mưa, ta liền cảm thấy một chút lười biếng, chả
muốn bắt tay làm bất cứ công việc gì, mà chỉ muốn nằm ngủ
nướng trong chăn cho đẫy con mắt. Chẳng hạn đang đi thất tha
thất thểu ngoài phố, bỗng nghe thấy một khúc quân hành, ta
liền cảm thấy phấn chấn hẳn lên, bước đều bước theo điệu
nhạc đong đưa.
Một trong những yếu tố
bên ngoài khá quan trọng đó là địa dư, hay nói một cách nôm
na là nơi ăn chốn ở. Yếu tố này cũng đã góp phần không nhỏ
vào việc hình thành con người chúng ta. Thực vậy, nhìn vào
bản đồ, gã thấy có bốn hướng : đông tây nam bắc. Như thế,
người bắc khác với người nam và người phương đông khác với
người phương tây.
Thực vậy, tuy cùng là dân
Việt mình với nhau, nhưng người bắc có một số đặc điểm khác
với người nam. Gã chỉ xin đưa ra một thí dụ nho nhỏ mà
thôi.
Chẳng hạn tại miền bắc
đất đại thì ít, còn sông Hồng Hà như bà già khó tính hay như
cô gái đỏng đảnh, gây nên lụt lội thất thường. Chính vì phải
đương đầu với một hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy, nên người
bắc thường chí thú làm ăn, tích lũy tiền của phòng khi tai
ương hoạn nạn xảy ra.
Trong khi đó, tại miền
nam, ruộng đất thẳng cánh cò bay, còn sông Cửu Long, như
người mẹ hiền hay như cô gái dịu dàng, lụt lội cứ đúng hẹn
lại lên, không có sức tàn phá dữ tợn, nhưng mang lại phù sa
cùng mọi thứ tôm cá. Đứng trước môi trường được thiên nhiên
ưu đãi như thế, người miền nam thường sống một cách nhàn hạ,
chả cần phải ky cóp, nhưng làm ngày nào xào ngày ấy.
Vào năm 1954, cả triệu
người miền bắc di cư xuống miền nam. Sau năm mươi năm chung
sống, những người bắc 54 cũng đã mang lấy không nhiều thì ít
những đặc tính của người miền nam. Thành thử bây giờ họ
không còn cần cù siêng năng mấy so với những người bắc 75,
tức là những người vào nam sau ngày thống nhất đất nước.
Bây giờ gã xin so sánh
người tây với ta. Người tây dĩ nhiên là sống ở phương tây,
còn ta thì dĩ nhiên sống ở phương đông. Vị trí đông và tây
này cũng đã ảnh hưởng trên con người và tạo nên những khác
biệt.
Vì sống ở bắc bán cầu với
khí hậu lạnh, người tây thường to con, trắng trẻo và râu tóc
rậm rạp. Còn ta vì sống gần đường xích đạo, nên có vóc dáng
nhỏ hơn, da vàng và râu tóc cũng thưa thớt hơn. Người tây
dùng màu đen để chỉ sự tang tóc, còn ta thì lại dùng màu
trắng. Người tây gọt từ dưới gọt lên, còn ta thì gọt từ trên
gọt xuống. Người tây khi gọi thì ngửa tay ra mà vẫy, còn ta
khi gọi thì úp tay xuống mà vẫy. Người tây không ăn thịt
chó, còn ta thì lại coi thịt chó là một món…khoái khẩu.
Thành thử trong những năm gần đây các thứ quán “cờ tây”, “nó
kìa”, “sống trên đời”…mọc lên như nấm, có mặt trên khắp nẻo
đường đất nước, từ thành thị cho đến thôn quê.
Đó mới chỉ là những khác
biệt lẻ tẻ, mà nếu kể ra thì sẽ chẳng bao giờ cùng. Trong
khuôn khổ bài viết này, gã chỉ xin tập trung vào mấy điểm
khác biệt chính yếu mà thôi.
Trước hết là về phép tính
ngày tháng năm. Người tây căn cứ theo dương lịch. Còn ta căn
cứ theo âm lịch. Vậy thế nào là dương lịch và thế nào là âm
lịch ?
Dương lịch hay lịch tây
là lịch tính theo mặt trời. Thực vậy, trái đất xoay quanh
mặt trời cứ 365 ngày 6 giờ thì được một vòng. Vì thế, cứ bốn
năm lại có một năm nhuận. Và năm nhuận được tính thêm một
ngày vào tháng hai. Người tây chắc hẳn là phải ăn tết tây,
tức là mừng ngày 1 tháng 1, ngày đầu năm dương lịch.
Còn âm lịch, lịch ta hay
lịch tàu là lịch căn cứ vào sự vận hành của mặt trăng chung
quanh trái đất. Đối với âm lịch, năm nhuận là năm có thêm
hẳn một tháng. Theo Trung Quốc, âm lịch có từ thời nhà Hạ và
lấy tên mười hai chi mà đặt cho mười hai tháng.
Ta chắc hẳn là phải ăn
tết ta, hay còn được gọi là tết Nguyên đán, mừng ngày 1
tháng 1, ngày đầu năm âm lịch. Theo tác giả “Toan Ánh” trong
“Tín ngưỡng Việt Nam” thì “Nguyên là bắt đầu, đán là buổi
sớm mai. Tết Nguyên đán là tết đầu năm, mở màn cho một năm
mới với mọi cảnh vật đều mới mẻ đón xuân sang”.
Ngày nay, qua sự giao lưu
văn hóa, đông và tây không còn cách biệt ngàn trùng nữa. Vì
thế, ta vẫn giữ lại một số lễ tết chính, chẳng hạn tết
Nguyên đán và tết Trung thu, đồng thời cũng mở rộng cửa đón
nhận một số lễ tết của người phương tây, chẳng hạn tết Dương
lịch. Và trong những năm gần đây giới trẻ, nhất là tại các
thành phố lớn, cũng đã bắt đầu mừng những ngày lễ khác, như
ngày tình nhân, ngày mẹ hiền, ngày phụ nữ, ngày quỷ dữ
Halloween…Chẳng khác gì một anh chàng, vừa có họ với cô dâu
lại vừa có họ với chú dể, nên khi được mời dự đám cưới, đã
hăng hái phát ngôn vung vít :
- Giai hay gái, tớ
đều…xơi tuốt!
Nếu đưa mắt quan sát, gã
ghi nhận được hai đặc tính về con người và về xã hội. Hai
đặc tính này đã tạo nên những sự khác biệt giữa ta và tây.
Trước hết là về
con người. Nếu so sánh, gã thấy người tây vốn thường suy
nghĩ bằng cái đầu, còn ta vốn thường suy nghĩ bằng trái
tim. Nói cách khác, người tây sống bằng lý trí hơn sống bằng
tình cảm, còn ta thì sống bằng tình cảm hơn sống bằng lý
trí. Đối với người tây, ngang bằng xổ thẳng, hai với hai
phải là bốn, chứ không được nghiêng bên nọ, ngả bên kia. Còn
ta thì khác, lắm khi nói vậy mà chẳng phải đâu và trong cách
cư xử thường uyển chuyển và du di, bởi vì :
- Một trăm cái
lý không bằng một tí cái tình.
Tiếp đến là về
xã hội. Người tây vốn phát triển về khoa học kỹ thuật nên
đòi hỏi sự chính xác. Còn ta vốn phát triển về nghề nông,
nên cứ thủng thẳng mà đi. Có thể nói được rằng từ thời ông
“Bành Tổ” và cho đến ngày hôm nay, xã hội ta vốn dĩ đã là
một xã hội nông nghiệp :
- Nhất sĩ nhì
nông,
Hết gạo chạy
rông,
Nhất nông nhì
sĩ.
Người dân chủ
yếu sống bằng nghề trồng lúa. Mà đã trồng lúa, thì đòi hỏi
nhiều lao động, nhiều công sức, nhất là vào thời buổi “con
trâu đi trước, cái cày theo sau”, chưa được hiện đại hóa
bằng những thứ máy móc lỉnh kỉnh. Vì thế, cần phải đông con
nhiều cháu, để cùng nhau chia sẻ và gánh vác những công việc
nặng nhọc trên ruộng đồng.
Từ hai đặc điểm
này, gã xin đưa ra hai điểm nổi bật, khiến cho ta hoàn toàn
khác biệt với tây.
Điểm nổi bật
thứ nhất, đó là đời sống tình cảm.
Như trên gã
vừa mới trình bày : người tây vốn suy nghĩ bằng cái đầu,
lấy lý trí làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động, nên
phàm bất cứ sự việc gì cũng phải hợp lý, cũng phải có cái
“lô gích” của nó. Chẳng phải chỉ người Anh mới có thái độ
“phớt tỉnh Ăng Lê”, mà phần đông dân tây đều có thái độ ấy.
Thí dụ như dân Đức máu còn lạnh và phớt tỉnh còn bạo hơn cả
dân Ăng lê nữa.
Cũng từ đó, cá
nhân chủ nghĩa được liên tục phát triển nơi người tây, đặc
biệt trong phạm vi gia đình. Thực vậy, một gia đình của
người tây thường chỉ gồm có cha mẹ và con cái. Con cái vừa
mở mắt chào đời đã được đặt ngủ trong nôi, chứ không được
nằm ngủ chung với mẹ. Lớn lên một tí thì ở trong phòng
riêng, một vùng cấm địa mà ngay cả cha mẹ cũng phải tôn
trọng. Còn cha mẹ khi đã về già, thường được gửi vào những
viện dưỡng lão, thỉnh thoảng trong những ngày lễ hay những
ngày nghỉ cuối tuần, con cháu mới tới thăm viếng.
Còn ta thì
khác. Ta suy nghĩ bằng trái tim, lấy tình cảm làm tiêu chuẩn
hướng dẫn cho mọi hành động. Và trái tim thì có những lý lẽ
riêng của nó. Thành thử ở mọi nơi và trong mọi lúc, tình
nghĩa lúc nào cũng lai láng và tràn đầy, nhất là trong phạm
vi gia đình.
Thực vậy, gia
đình ta ngày xưa, nếu đi từ người chủ, thì sẽ thấy hàng trên
của người chủ là cha mẹ, ông bà, cụ kỵ. Nhưng thường chỉ có
cha mẹ và ông bà, còn cụ kỵ nếu sống được thì cũng rất hiếm.
Hàng ngang của người chủ là anh chị em. Còn hàng dưới của
người chủ là vợ con. Tất cả cụ kỵ, ông bà, cha mẹ, con cái,
anh chị em đều là những người trong gia đình và thuộc về họ
nội. Riêng ông bà, cha mẹ, anh chị em của người mẹ thì thuộc
về họ ngoại, tuy không ở chung cùng một gia đình, nhưng vẫn
là những người trong thân quyến, có liên hệ mật thiết với
nhau.
Gia đình ta
ngày xưa thường quy tụ tất cả những thành phần kể trên và có
thể được gọi là một đại gia đình. Nếu năm đời ở cùng một nhà
với nhau, thì được gọi là ngũ đại đồng đường. Đây là một
trường hợp rất họa hiếm và dường như không có, bởi vì tuổi
thọ của các cụ ta ngày xưa không được cao lắm. Bốn đời ở
cùng một nhà với nhau, thì được gọi là tứ đại đồng đường.
Trường hợp này cũng có, nhưng rất ít. Ba đời ở cùng một nhà
với nhau, thì được gọi là tam đại đồng đường. Đây là trường
hợp bình thường vì chỉ gồm có ông bà, cha mẹ và con cháu.
Nhiều khi những thành phần của đại gia đình này quây quần
bên nhau trên một mảnh đất và làm thành như một trại gia
binh.
Tình cảm mặn
nồng ấy không phải chỉ gắn bó những người trong cùng một
nhà, mà còn gắn bó những người trong cùng một dòng tộc. Vì
thế, mỗi khi có việc hệ trọng như cưới hỏi, ta thường “nhóm
họ” để bàn bạc, trao đổi ý kiến và phân chia công tác.
Tình cảm mặn
nồng ấy cũng không phải chỉ gắn bó những người còn sống với
nhau, mà còn gắn bó cả với những người đã khuất. Ta vốn có
truyền thống biết ơn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây và uống nước
phải nhớ đến nguồn, nên ta đã dành cho ông bà tổ tiên một
chỗ đứng quan trọng trong đời sống. Ta có một cái đạo rất
phổ thông được gọi là “đạo ông bà”, coi việc thảo kính ông
bà và cha mẹ khi còn sống cũng như khi đã qua đời là một bổn
phận thiêng liêng và hầu như gia đình nào cũng có một bàn
thờ tổ tiên đặt ngay giữa nhà.
Điểm nổi bật
thứ hai, đó là lòng quí trọng sự sống.
Người tây vốn
sống theo cá nhân chủ nghĩa, lấy sự hưởng thụ của mình làm
gốc, vì thế con cái nhiều khi trở thành một gánh nặng, một
thứ kỳ đà cản mũi, nên cần phải loại trừ, hay ít nữa cũng
phải hạn chế, “sì tốp” bớt đi cho vừa. Đồng thời trước viễn
tượng một tương lai đen tối, người tăng nhưng đất đai lại
chẳng tăng và như vậy một mai sẽ lấy gì mà ăn, nên người ta
đã quảng bá cho mọi thứ phương pháp tránh thai, ngừa thai và
phá thai.
Còn ta thì
khác. Câu chuyện Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, sinh được một
trăm trái trứng, nở thành một trăm người con. Năm mươi người
theo cha lên núi. Năm mươi người theo mẹ xuống biển, phải
chăng đã trở thành một huyền sử dựng nước, mang tính cách
tượng trưng cho một nền văn hóa quí trọng và phát triển sự
sống.
Hơn thế nữa, xã
hội ta vốn là một xã hội nông nghiệp, vì thế rất cần phải
đông con nhiều cháu, để cùng nhau san sẻ những công việc
đồng áng nặng nhọc. Đúng thế, ta ước mong có nhiều con,
nhiều cháu. Ước mong ấy được biểu lộ bằng cách chào hỏi lẫn
nhau mỗi khi gặp gỡ :
- Thế nào, được
mấy cháu rồi.
Và trong dịp
tết, ta thường cầu chúc cho nhau :
- Đa tử, đa
tôn, đa phú quí, có nghĩa là đông con, nhiều cháu lắm tiền
nhiều của.
Riêng với những
anh chị mới lập gia đình thì :
- Đầu năm sinh
con trai và cuối năm sinh con gái!!!
Như vậy, gia
đình ta là một chiếc nôi luôn mở rộng đón nhận sự sống. Cha
mẹ nào cũng mong sớm có con có cháu để bồng ẵm cho vui cửa
vui nhà, cũng như để nối dõi tông đường.
Sinh con là một
chuyện, còn dạy con lại là một chuyện khác. Trong việc dạy
con, ta có một quan niệm rất tinh tế và chính xác, khiến cho
bàn dân thiên hạ phải “tâm phục khẩu phục”.
Thực vậy, người
tây tính tuổi từ ngày đứa con mở mắt chào đời, còn ta thì
khác, ta tính tuổi đứa con ngay từ khi nó còn là một bào
thai trong lòng mẹ. Vì thế, tuổi ta luôn trội hơn tuổi tây
một năm.
Cũng vì quan
niệm đứa con đã là người, kể từ lúc nó còn là một bào thai,
nên ta chia việc dạy con làm hai thời kỳ.
Thời kỳ thứ
nhất được gọi là thai giáo, nghĩa là phải dạy con ngay từ
lúc còn trong bụng mẹ. Theo Toan Ánh :
“Vấn đề thai
giáo cũng rất quan trọng một phần vì sức khỏe của người mẹ,
một phần vì mọi tư tưởng và hành động của người mẹ trong lúc
mang thai đều có thể ảnh hưởng tới bào thai trong bụng.
Chính vì vậy, trong lúc mang thai, người đàn bà phải bó buộc
làm nhiều việc xưa nay không làm, và phải kiêng nhiều điều
xưa nay không cần kiêng. Mọi người cho rằng sự ăn không ngồi
rồi hại cho sức khỏe của người mang thai và do đó ảnh hưởng
tới cả bào thai. Trong lúc có thai, người đàn bà nên hoạt
động tay chân, bằng việc làm. Nhiều gia đình khá giả, xưa
nay người đàn bà không phải làm lụng nhiều, thế nhưng trong
lúc có thai cũng phải bày đặt ra công việc để cho tay chân
cử động. Việc kiêng cữ trong lúc mang thai rất nhiều :
Đầu tiên
trong sự ăn uống phải tránh những đồ quá bổ béo, e cái thai
quá lớn khó sinh. Ngoài ra, theo sự mê tín trong dân gian,
phải kiêng không được ăn cua để tránh sinh ngang, không được
ăn ngao sò ốc hến để tránh con nhiều dãi dớt, không được ăn
thịt thỏ để tránh sinh con sứt môi, không được ăn những quả
sinh đôi để tránh sự đẻ song thai…Thường người đàn bà có
thai nên ăn nhiều trứng gà để sinh con có da dẻ hồng hào.
Trong vấn đề thai giáo, người đàn bà có thai còn phải tránh
mọi cảnh tượng hãi hùng hay đau đớn, mọi ngôn ngữ thô bỉ,
mọi sự giận dữ, mọi tranh ảnh bất chính…Đồng thời còn phải
nói năng dịu dàng, cử chỉ khoan thai, luôn tươi cười giữ cho
tâm hồn ngay thẳng, nhìn ngắm tranh ảnh các vị anh hùng,
những phong cảnh thanh khiết để gây ảnh hưởng tốt đẹp cho
đứa con sau này”.
Tuy nhiên, đời
không như là mơ, nên đôi khi đã xảy ra những chuyện chéo
cẳng ngỗng. Một người mẹ trẻ trong thời kỳ mang thai đã mong
ước con mình sinh ra sẽ đẹp như hoa hậu, hay ít nữa cũng đẹp
như những người mẫu chân dài và sẽ thông minh như Einstein
hay ít nữa cũng thông minh như một nhà bác học nào đó. Vì
thế, chị ta luôn ngắm nhìn hình ảnh của những cô hoa hậu và
những nhà bác học. Thế nhưng, khi được sinh ra, đứa bé lại
có khuôn mặt xấu xí của Einstein và bộ óc đần độn của những
cô người mẫu!!!
Thời kỳ thứ hai
là được gọi là giáo nhi, tức là dạy trẻ. Cũng theo Toan Ánh
:
“Kể từ khi
đứa trẻ bắt đầu hiểu biết, thì cha mẹ đã phải chăm sóc tới
để nó tập giữ tính thành. Dạy con từ thuở còn thơ, có nghĩa
là ngay từ lúc còn nhỏ, đã phải tập cho nó những điều hay,
những điều tốt. Nhân chi sơ tính bản thiện. Mỗi người sinh
ra tính vốn tốt, cha mẹ phải răn dạy con để giữ lấy tính tốt
đó. Tục ngữ có câu bé không vin cả gẫy ngành, có ý sánh ví
đứa trẻ như một cành cây, phải uốn ngay từ lúc còn non, kẻo
khi lớn lên, như một cành cây già, uốn sẽ gẫy”.
Thế nhưng, ngày
nay, với những phương tiện thông tin hiện đại, đồng thời với
xu hướng toàn cầu hóa, ta và tây đang xích lại gần nhau bằng
những bước chân khổng lồ. Gã không hiểu ta đã tạo được ảnh
hưởng gì đối với tây, chứ tây thì đã để lại những dấu ấn sâu
đậm trên ta, khiến ta mất dần những nét đẹp truyền thống của
mình. Gã xin đưa ra những thí dụ cụ thể :
Chẳng hạn về
lòng quí trọng sự sống. Theo một bài viết trên Ephata thì :
Vấn đề nạo phá
thai của thanh thiếu niên tại Việt Nam đang có khuynh hướng
ngày một tăng cao, con số nạo phá thai hàng năm xấp xỉ với
tổng số các cháu bé được sanh ra trên toàn quốc. Năm 1997,
tổng số sanh trên toàn quốc là 1.138.607 ca, thì con số nạo
phá thai là 934.302 ca. Năm 1998, số sanh là 1.101.791 ca,
thì nạo phá thai là 861.353 ca. Riêng bệnh viện Từ Dũ mỗi
năm có trên 40.000 ca nạo phá thai. Các nhà xã hội học ước
tính số người nạo phá thai trong cả nước hàng năm có thể từ
2 đến 3 triệu người. Liên Hiệp Quốc cũng đã báo động và xếp
nước ta vào một trong năm nước có tỷ lệ nạo phá thai cao
nhất thế giới.
Chẳng hạn về sự
chung thủy trong tình nghĩa vợ chồng. Theo một bài viết của
Nữ tu Phạm Thị Oanh thì :
Trong xã hội
Việt Nam ở mọi thời đại đều thấy cảnh : lầu xanh, đa thê,
tảo hôn, bán trinh để báo hiếu cha mẹ, loạn luân, đồng tính
ái, đặc biệt là tệ nạn mãi dâm ngày nay đang xuất hiện dưới
nhiều dạng thức: nhà hàng, cà-phê, Karaoke, xông hơi, xoa
bóp, vũ trường, chat group trên Internet...
Ngoài ra nhiều
hình thức văn hóa phẩm đen đã khiến nhiều bạn trẻ ngộ nhận
cho rằng tình yêu chỉ là sự cuốn hút của cảm xúc, chiếm hữu,
tình dục, tiền tài, thương hại. Tình trạng yêu sớm, yêu thử,
yêu ào ào theo phong trào, yêu như điên, yêu hết mình xẩy ra
nơi học sinh cấp 2, 3, và trong giới sinh viên ngày một
tăng. Đó phải chăng là những nhân tố làm nên một dòng nhạc
“vô cảm” và “não tình” mà dư luận quần chúng trên báo chí
gần đây đã đề cập đến khá nhiều:
- Tình yêu đến
em không mong đợi gì.
Tình yêu đi em
không hề nuối tiếc.”
Tiếp đến là
nhiều cặp sống chung không đăng ký kết hôn, không muốn có
con để tránh trách nhiệm. Nhiều gia đình được hình thành
trong một cam kết hời hợt lợi dụng lẫn nhau. Tất cả những
vấn đề đó đã dẫn đến tỉ lệ ly dị ngày một tăng. Theo thống
kê của Tòa Aùn Nhân Dân Thành Phố Sài-gòn năm 2000, thì mỗi
ngày trung bình có 32 vụ ly hôn, vị chi một năm là 11680 chỉ
nguyên tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn tình trạng
bạo hành trong gia đình về mặt thể chất, tinh thần và tình
dục cũng rất phổ biến trong nhiều gia đình ở thành phố cũng
như ở thôn quê.
Chẳng hạn về
tình nghĩa của những thành viên trong gia đình. Theo một bài
viết trên báo Phụ nữ Chủ nhật số ra ngày 29.6.2003 thì tại
Thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra một vụ án đau lòng :
Một người mẹ
nhẫn tâm đổ dầu sôi vào mặt con gái, người mẫu Võ Thị Thu
Tâm, trước ngày cô lên đường tham dự cuộc thi “Hoa hậu liên
lục địa” tại Đức. Lý do người mẹ ấy đưa ra sau khi sát hại
con, đó là bà đã có hai mươi năm mua bán ve chai, vất vả
nuôi con khôn lớn, để rồi khi bắt đầu nổi tiếng, cô đã mặc
cảm về thân phận người mẹ, lẩn tránh sự kiểm soát của bà và
đối xử tệ bạc.
Bài báo còn đưa
ra những trường hợp điển hình khác nữa. Chẳng hạn mấy ngày
trước, một phụ nữ ở huyện Bình Chánh trong khi cãi cọ với
chồng, đã bị chồng đạp cho vỡ lá lách phải cấp cứu ở bệnh
viện. Tòa án tỉnh Vĩnh phú vừa tuyên án tử hình Trần Văn
Nam, do ham chơi và đua đòi đã giết bà nội để lấy năm chỉ
vàng và bảy trăm ngàn đồng. Một đứa con trai trong những cơn
say triền miên thường hay quậy phá, gây sự với cha mẹ già và
đã ra tay giết người cha 74 tuổi bằng bốn nhát dao.
Bài báo kết luận : Từ
những vụ việc trên, không ít ý kiến cho rằng phải chăng
những giá trị gia đình, đạo lý làm người đang bị sút giảm
nghiêm trọng ? Tuy những vụ việc trên là cá biệt, nhưng đó
là những báo động đỏ, là những bài học cảnh tỉnh sâu sắc cho
những bậc cha mẹ, cũng như cho những người con, đánh động
và thúc đẩy xã hội hướng sự quan tâm đến vấn đề giáo dục
trong gia đình, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Cách đây ít bữa, gã đọc
được một mẩu tin như sau : Tại Hà Nội, có người đã bỏ ra bạc
tỷ để xây dựng một viện dưỡng lão, đầy đủ tiện nghi và được
phục vụ như ở một khách sạn năm sao. Những “đại gia” và
những người giàu sang có thể gửi cha mẹ già của mình vào đó.
Tuy nhiên, người ta còn đang phân vân chưa biết đặt tên cho
dịch vụ này là gì ? Là báo hiếu thuê, báo hiếu mướn hay là
báo hiếu thay.
Không khéo thì ta chỉ hấp
thụ được những cái xấu, những cái cặn bã của người tây, để
rồi trắng tay, mất cả chì lẫn chài, mất cả vốn lẫn lãi.
Truyền thống cũ thì chẳng còn, mà cái mới thì lại khập khà
khập khiễng. Tây chẳng ra tây, ta cũng chẳng ra ta. Đầu
annamít, đít phăngxe mà thôi!!!
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|