Dân Thiên Chúa (tiếp
theo) |
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen
Gentium
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Chương II
Dân Thiên Chúa
14. Tín hữu công giáo.
18* Vậy trước tiên, Thánh Công Ðồng hướng lòng về
các tín hữu công giáo. Dựa trên Thánh Kinh và Thánh Truyền,
Thánh Công Ðồng dạy rằng: Giáo Hội lữ hành này cần thiết cho
phần rỗi. Thực vậy, chỉ mình Chúa Kitô là Trung Gian và là
đường cứu độ, Người hiện diện giữa chúng ta trong thân thể
Người là Giáo Hội; chính Người đã minh nhiên công bố sự cần
thiết của đức tin và của phép Thánh Tẩy (x. Mc 16,16; Gio
3,5), đồng thời Người đã xác nhận sự cần thiết của Giáo Hội
mà mọi người phải bước vào qua cửa phép Thánh Tẩy. Vì thế,
những ai biết rằng Giáo Hội Công Giáo được Thiên Chúa thiết
lập nhờ Chúa Giêsu Kitô, như phương tiện cứu rỗi cần thiết,
mà vẫn không muốn gia nhập hoặc không muốn kiên trì sống
trong Giáo Hội này thì không thể được cứu rỗi.
Ðược kể là
gia nhập hoàn toàn vào cộng đoàn Giáo Hội, những ai lãnh
nhận Thánh Thần Chúa Kitô, chấp nhận trọn vẹn tổ chức và các
phương tiện cứu rỗi được thiết lập trong Giáo Hội; và nhờ
các mối liên lạc do việc tuyên xưng đức tin, các bí tích,
việc cai trị của Giáo Hội và sự hiệp thông, họ liên kết với
Chúa Kitô trong tổ chức hữu hình mà Người điều khiển nhờ
Giáo Hoàng và các Giám Mục. Dù được tháp nhập vào Giáo Hội,
nhưng nếu không kiên trì sống trong đức ái thì vẫn không
được cứu rỗi, vì tuy "thể xác" họ thuộc về Giáo Hội, nhưng
"tâm hồn" họ không ở trong Giáo Hội
12. Nhưng các con cái của Giáo Hội phải nhớ rằng,
địa vị cao trọng của họ không phải do công đức riêng mình,
nhưng do đặc ân của Chúa Kitô; nếu họ không đáp lại hồng ân
ấy bằng tư tưởng, lời nói và việc làm, thì không những họ
không được cứu rỗi mà còn bị xét xử nghiêm khắc hơn
13.
Phần những
người dự tòng, nhờ Thánh Thần thúc đẩy, nếu minh nhiên xin
gia nhập Giáo Hội, thì do chính ước muốn ấy, họ đã được kết
hợp cùng Giáo Hội rồi; và Giáo Hội là Mẹ hiền yêu thương săn
sóc họ như con cái mình.
19*
15. Giáo hội và Kitô hữu không
công giáo. Với những kẻ đã lãnh phép Thánh
Tẩy, mang danh hiệu Kitô hữu, nhưng không tuyên xưng đức tin
trọn vẹn, hoặc không hiệp thông với đấng kế vị Thánh Phêrô,
Giáo Hội vẫn biết mình có liên hệ với họ vì nhiều lý do
14. Thực vậy, có nhiều người cung kính lấy Thánh
Kinh làm mẫu mực cho lòng tin và đời sống, giữ đạo cách
nhiệt thành, thành thực, hết lòng tin kính Chúa Cha toàn
năng, và Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa
15. Ðược bí tích Thánh Tẩy ghi ấn, họ kết hợp với
Chúa Kitô, họ còn công nhận và lãnh một số bí tích khác
trong Giáo Hội, hoặc trong các cộng đồng Giáo Hội của họ.
Nhiều người trong họ còn có chức giám mục, họ vẫn cử hành bí
tích Thánh Thể và tôn kính Ðức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa
16. Họ cũng hiệp thông trong lời cầu nguyện và các
việc lành thiêng liêng khác; hơn nữa, họ thực sự kết hợp
trong Chúa Thánh Thần, Ðấng cũng dùng ân huệ và thánh sủng
tác động trong họ nhờ thần lực thánh hóa của Ngài, và đã
củng cố một số người trong họ đi đến chỗ đổ máu tử đạo. Vì
thế, Thánh Thần thúc giục hết thảy các môn đệ Chúa Kitô ước
muốn và hành động để tất cả được an bình hiệp nhất trong một
đàn chiên dưới quyền một Chủ Chăn duy nhất
17, theo cách thức Chúa Kitô đã vạch ra. Ðể được
vậy, Giáo Hội, Mẹ hiền không ngừng cầu nguyện, hy vọng và
hành động, cũng như khuyên giục con cái thanh tẩy và canh
tân, để ấn dấu của Chúa Kitô chiếu sáng rạng ngời hơn trên
khuôn mặt Giáo Hội.
20*
16. Giáo hội và những người không
thuộc Kitô giáo. Sau cùng, những ai chưa lãnh
nhận Phúc Âm cũng được an bài bằng nhiều cách để thuộc về
Dân Thiên Chúa
18. Trước tiên phải kể dân tộc đã lãnh nhận lời
hứa và giao ước, mà bởi dân ấy, Chúa Kitô đã sinh ra theo
thể xác (x. Rm 9,4-5). Họ là dân rất được yêu quí, bởi đã
được tuyển chọn vì cha ông họ: Thiên Chúa không ân hận gì vì
đã ban ơn và kêu gọi họ (x. Rm 11,28-29). Nhưng kế hoạch cứu
độ cũng còn bao hàm những ai nhận biết Ðấng Tạo Hóa: trước
tiên phải kể đến người Hồi Giáo; họ xưng rằng họ giữ đức tin
của Abraham; cùng với chúng ta, họ thờ phượng Thiên Chúa duy
nhất, nhân từ, Ðấng sẽ phán xét loài người trong ngày sau
hết. Những kẻ đang tìm kiếm Thiên Chúa trong bóng tối và qua
ngẫu tượng, Thiên Chúa mà họ không biết, cả những kẻ ấy,
Ngài cũng không xa họ, bởi vì chính Ngài ban cho mọi người
sự sống, hơi thở và tất cả mọi sự (x. CvTđ 17,25-28), và vì
là Ðấng Cứu Thế, Ngài muốn mọi người đều được cứu rỗi (x.
1Tm 2,4). Thực thế, những kẻ vô tình không nhận biết Phúc Âm
của Chúa Kitô và Giáo Hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm
kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng
chu toàn Thánh Ý Thiên Chúa trong công việc mình theo sự
hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu rỗi
19. Cả những kẻ vô tình chưa nhận biết Thiên Chúa
cách rõ ràng, nhưng nhờ ơn Chúa, cố gắng sống đời chính
trực, thì Chúa Quan Phòng không từ chối ban ơn trợ lực cần
thiết để họ được cứu rỗi. Thực vậy, Giáo Hội xem tất cả
những gì là chân thiện nơi họ như để chuẩn bị họ lãnh nhận
Phúc Âm
20, và như một ân huệ mà Ðấng soi sáng mọi người
ban cho hầu cuối cùng họ được sống. Nhưng thường con người
bị ma quỉ gạt gẫm làm sai lạc phán đoán của mình khiến họ
đánh đổi chân lý Thiên Chúa lấy sự giả dối, khiến họ phụng
sự tạo vật hơn là phụng sự Ðấng Tạo Hóa (x. Rm 1,21 và 25);
hoặc vì họ sống chết như không có Thiên Chúa trên đời này,
nên liều mình rơi vào sự thất vọng tột độ. Vì hằng quan tâm
làm vinh danh Thiên Chúa, và cứu rỗi tất cả những người ấy
và hằng nhớ lời Chúa truyền: "Hãy rao giảng Phúc Âm cho mọi
tạo vật" (Mc 16,15), nên Giáo Hội tận tâm lo lắng và cổ võ
việc truyền giáo.
21*
17. Tính cách truyền giáo của Giáo
Hội. Như Chúa Cha sai Người thế nào, Chúa Con
cũng sai các Tông Ðồ như vậy (x. Gio 20,21) khi Người phán:
"Vậy các con hãy đi dạy dỗ muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh
Cha và Con và Thánh Thần, hãy dạy dỗ họ vâng giữ mọi điều
Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy sẽ ở cùng các con
mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,19-20). Lệnh ấy, lệnh mà
Chúa Kitô long trọng truyền rao giảng chân lý cứu rỗi, Giáo
Hội đã nhận lãnh từ các Tông Ðồ để chu toàn khắp cõi đất (x.
CvTđ 1,8). Vì thế, Giáo Hội xem lời sau đây của Thánh Tông
Ðồ như lời của mình: "Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng
Phúc Âm" (1Cor 9,16), và vì thế Giáo Hội không ngừng gửi sứ
giả Phúc Âm cho đến khi các Giáo Hội trẻ được trưởng thành
hoàn toàn và tự mình tiếp tục việc rao giảng Phúc Âm. Chúa
Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội cộng tác với Ngài để hoàn tất
trọn vẹn kế hoạch của Thiên Chúa là Ðấng đã đặt Chúa Kitô
làm nguyên lý cứu độ cho cả thế giới. Bằng việc rao giảng
Phúc Âm, Giáo Hội sửa soạn cho người nghe đón nhận và tuyên
xưng đức tin, và chuẩn bị cho họ lãnh phép Thánh Tẩy, đưa họ
ra khỏi cảnh nô lệ của sự lầm lạc, tháp nhập họ vào thân thể
Chúa Kitô, hầu nhờ đức ái, họ tăng triển mãi trong Người cho
đến khi đạt tới viên mãn. Thực ra, những gì thiện hảo trong
tâm hồn và tư tưởng của loài người, hoặc trong nghi lễ và
văn hóa riêng của các dân tộc, hoạt động của Giáo Hội không
nhằm tiêu diệt chúng, nhưng lành mạnh hóa, nâng cao và hoàn
thành chúng, hầu làm vinh danh Thiên Chúa, đánh bại ma quỉ
và mưu cầu hạnh phúc cho con người. Mỗi môn đệ Chúa Kitô đều
có bổn phận góp phần truyền bá đức tin
21. Tuy bất cứ ai cũng có thể ban phép Thánh Tẩy
cho những kẻ tin, nhưng chỉ có linh mục mới hoàn tất, xây
dựng Nhiệm Thể bằng hy lễ tạ ơn, làm trọn lời Thiên Chúa đã
phán qua miệng tiên tri: "Từ đông sang tây, Danh Ta sẽ được
lừng lẫy khắp muôn dân; khắp nơi đều sát tế và dâng lễ vật
thanh sạch kính Danh Ta" (Mal 1,11)
22. Như thế Giáo Hội vừa cầu nguyện vừa hoạt động
để toàn thể vũ trụ biến thành Dân Thiên Chúa, Thân Thể Chúa
Kitô và Ðền Thờ Chúa Thánh Thần, và trong Chúa Kitô là thủ
lãnh muôn loài, mọi danh dự và vinh quang được dâng lên Chúa
Cha Ðấng Tạo Thành vũ trụ.
22*
Chú
Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo
trước)
18* Các số 14-16: Tình
trạng con người tương quan với Giáo Hội.
Ðối với
Giáo Hội, không ai ở ngoài cuộc cả. Trong cố gắng cụ thể hóa
dựa vào những nguyên tắc đã đề ra, Công Ðồng cứu xét, giữa
các hạng người khác nhau trong tình trạng cụ thể của họ, đâu
là mối tương quan của họ với Giáo Hội, là Dân Chúa, là bí
tích hữu hình và phổ quát của ơn cứu rỗi. Vậy nên Công Ðồng
cứu xét sự liên lạc của những người công giáo với Giáo Hội
(số 14), của các Kitô hữu ly khai (số 15), của các người
ngoài Kitô giáo có thiện chí (số 16).
19* Số 14: Các tín hữu
công giáo.
Công Ðồng
bắt đầu từ các tín hữu. Bản văn gồm 3 phần:
a) Phần
nhất xác quyết Giáo Hội cần cho phần rỗi, bằng những hạng từ
tổng quát dựa trên Thánh Kinh và Thánh Truyền. Có thuộc về
Giáo Hội thì mới được cứu rỗi vì chỉ có một vị Trung Gian
cho ơn cứu độ là Chúa Kitô, Ðấng hiện diện trong Giáo Hội là
Thân của Người. Hơn nữa, Chúa cũng đã minh nhiên công bố sự
cần thiết của đức tin và phép Thánh Tẩy để dẫn đưa chúng ta
vào Giáo Hội. Nhưng, như Công Ðồng đã minh định, hai yếu tố
đó cần thiết với điều kiện là phải biết Thiên Chúa đã nhờ
Chúa Giêsu Kitô mà thiết lập Giáo Hội như phương tiện cần
thiết. Nói bằng những hạn từ tổng quát thì sự cần thiết phải
được giải thích như sau: người tự lỗi riêng mình mà ở ngoài
Giáo Hội, phải chịu trách nhiệm về án phạt mình. Công Ðồng
vẫn tôn trọng trường hợp vô tri bất khả thắng cứ thực hay cứ
luật của biết bao nhiêu người trên thế giới (số 14a).
b) Phần hai
giải thích sự gia nhập hoàn toàn vào cộng đoàn Giáo Hội. Sự
gia nhập này thực hiện qua những điều kiện bên ngoài như
chịu phép Thánh Tẩy, tuyên xưng đức tin, thông hảo với giáo
phẩm trong tinh thần tuân phục. Nhưng hơn thế nữa, còn đòi
phải có Thánh Thần Chúa Kitô. Chỉ tham dự thuần bên ngoài mà
thôi không đủ. Ngoài những yếu tố hữu hình, phải có dây liên
lạc với Thánh Thần, tâm hồn phải thuộc về Chúa Kitô, nghĩa
là sống trong đức ái và xa lánh tội lỗi. Một sự gia nhập
trọn vẹn giả thiết có thể có những mối dây liên lạc bất
toàn. Chúng ta sẽ xét đến những mối dây đó trong những đoạn
sau (số 14b).
c) Phần ba
bàn về các người dự tòng. Chắc hẳn không thể liệt kê họ vào
số những người không công giáo, dù họ mới chỉ đang trên
đường đi tới việc tháp nhập vào Giáo Hội. Họ đã minh nhiên
thỉnh nguyện để được gia nhập, và do ý muốn minh nhiên ấy mà
họ được liên kết với Giáo Hội. Chỉ ý muốn này thôi cũng đủ
để thuộc về Giáo Hội và đạt tới ơn cứu rỗi khi hoàn cảnh
không cho phép họ lãnh nhận phép Thánh Tẩy.
20* Số 15: Những mối
dây liên lạc của Giáo Hội đối với các Kitô hữu không công
giáo.
Ðoạn này
coi là căn bản và tóm lược điều mà Sắc lệnh về Hiệp Nhất sẽ
trình bày: nền tảng thần học của việc Hiệp Nhất. Công Ðồng
vẫn công nhận các anh em ly khai là Kitô hữu, dầu họ không
tuyên xưng một đức tin trọn vẹn hoặc không hiệp thông với
Ðấng kế vị Thánh Phêrô. Sau đó, Công Ðồng liệt kê những mối
dây liên lạc khác nhau nối kết Giáo Hội với anh em ly khai:
dây hữu hình như Thánh Kinh, đức tin vào Thiên Chúa Cha và
Chúa Kitô, phép Thánh Tẩy và một số bí tích khác; dây vô
hình như sự kết hợp thiêng liêng qua kinh nguyện, qua sự
trao đổi những việc lành siêu nhiên; sự kết hiệp chính thực
nhưng bất toàn: đó là hai khía cạnh của một sự kết hiệp mà
ngày nay trở thành rộng rãi hơn.
21* Số 16: Tình trạng
của các người ngoài Kitô giáo đối với Giáo Hội.
Số này muốn
phác họa một khoa thần học về những tôn giáo ngoài Kitô giáo
mà Tuyên Ngôn về các Tôn Giáo này sẽ lặp lại và đào sâu hơn.
Công Ðồng xác quyết ba đề xướng thần học:
a) Tất cả
những người ngoài Kitô giáo đều được qui hướng về Dân Chúa,
do hiệu quả của ý muốn cứu rỗi phổ quát. Công Ðồng xếp họ
thành những lớp khác nhau tùy theo đặc tính qui hướng về
Giáo Hội hữu hình. Một vài tôn giáo như Do Thái Giáo và Hồi
Giáo, còn bảo trì Cựu Ước và đức tin của Abraham, thì qui
hướng nhiều hơn. Ðối với các tôn giáo khác, nỗ lực tìm về
"một Thượng Ðế chưa được biết đến" mà ai cũng có thể có
được, phần nào chứng tỏ Thiên Chúa muốn lôi kéo họ đến với
Ngài là Thiên Chúa Chân Thật.
b) Sự qui
hướng ấy được thực hiện nhờ ân sủng. Ân sủng hỗ trợ hữu hiệu
khiến mọi người thiện chí sống một đời ngay thẳng, và trong
các việc làm biết nỗ lực chu toàn ý muốn của Thiên Chúa mà
họ nhận ra qua tiếng lương tâm.
c) Tuy
nhiên, nhiều trở ngại (về suy lý, tâm lý, thực tiễn) khiến
cho việc tìm về Thiên Chúa trở thành hết sức khó khăn, có
thể làm cho họ phải thất vọng.
Tựu trung,
đối với những người ngoài Kitô giáo có thiện chí, Thiên Chúa
sẽ đưa họ tới Giáo Hội bằng ân sủng của Ngài. Ngoài ra, "tôn
giáo" họ theo cũng nâng đỡ họ và ngoại cảnh xã hội (chuẩn bị
cho Phúc Âm) còn giúp họ sống ngay chính theo lương tâm. Và
như vậy họ được qui hướng tới Giáo Hội.
Những trở
ngại mà các người ngoài Kitô giáo gặp phải trên đường tìm về
Thiên Chúa giúp ta nhận rõ tầm quan trọng của việc truyền
giáo trong đời sống Giáo Hội. Ở số cuối cùng trong chương
hai này, Công Ðồng lặp lại tính cách phổ quát của Dân Chúa
dưới khía cạnh đặc biệt là nỗ lực truyền giáo.
22* Số 17: Ðặc tính
truyền giáo của Giáo Hội.
Một số
người công kích vì dựa vào những sự mập mờ của những công
cuộc truyền giáo và vì chủ trương giản dị rằng người lương
chỉ cần có thiện chí và với ơn Chúa giúp cũng có thể được
cứu rỗi; để chống lại, Công Ðồng đã quả quyết việc truyền
giáo cần thiết trong viễn tượng phổ quát riêng biệt của
chương hai này. Quả quyết bằng cách định nghĩa rõ ràng mục
đích việc truyền giáo và những nguyên tắc của việc tông đồ.
Sau đây là những chủ đề:
a) Việc
truyền giáo đặt nền tảng trong sứ mệnh của Ba Ngôi. Như Cha
đã sai Con mình, Ðấng Cứu Thế cũng sai các Tông Ðồ đi rao
giảng, thánh hóa và chăn dắt; Giáo Hội có nhiệm vụ phải lưu
truyền sứ mệnh ấy. Ðó là lý do khiến Giáo Hội tồn tại. Giáo
Hội là Giáo Hội truyền giáo do huấn lệnh truyền giáo (Mt
28,19-20).
b) Ðối
tượng riêng của việc truyền giáo khi thi hành sứ mệnh đã
lãnh nhận, không những là rao giảng Chúa Kitô, nhưng còn
phải thiết lập các Giáo Hội bản xứ, và chính những Giáo Hội
này cũng mang tính cách truyền giáo nơi người đồng hương của
mình. Hoạt động truyền giáo là chuẩn bị cho con người đón
nhận đức tin và phép Thánh Tẩy, giũ bỏ lầm lạc để gia nhập
Giáo Hội. Làm thế là thừa nhận và thanh tẩy cho thành tựu
tất cả những mầm mống thiện hảo trong tâm hồn mọi người và
mọi dân tộc (chuẩn bị cho Phúc Âm).
c) Môn đệ
nào của Chúa Kitô cũng có nhiệm vụ này. Nhưng chính những
Linh Mục có một nhiệm vụ không thể thay thế được. Tất cả
Giáo Hội sẽ nhờ kinh nguyện và việc làm để cố gắng thực hiện
lần lần sự sung mãn của Dân Chúa, vì vinh quang Chúa Cha
trong Chúa Kitô.
Một khoa
thần học truyền giáo chính đáng phải lưu ý tới ba khía cạnh
mà Công Ðồng đã nêu ra đây: vấn đề là phải biết tổng hợp cả
ba khía cạnh: khía cạnh nhân loại bản vị (ơn cứu độ của con
người), khía cạnh Giáo Hội (việc thiết lập Giáo Hội) và
tương quan của cả hai với một ý niệm tập trung về Chúa Kitô
và Ba Ngôi.
Trong hai
chương trên, Công Ðồng đã đặt nền móng vững chắc cho một
khoa Giáo Hội học chính thực. Việc mô tả các cơ cấu của Giáo
Hội trong các chương sau cũng sẽ dựa trên những nền tảng tín
lý đó. Các chương sau này phải được quan niệm dưới ánh sáng
mạc khải về mầu nhiệm Giáo Hội và Dân Chúa thì mới có giá
trị đích thực.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Nhân quyền và Tôn Giáo |
Học Thuyết Xã Hội
Công Giáo
II. Con Người
B. Nhân quyền và Tôn
Giáo (số 66 – 83)
26. Rao giảng Tin
Mừng có bao gồm việc rao giảng về nhân quyền không
Thưa có. Những quyền căn bản của con
người nhất thiết phải được gắn chặt với sứ mạng rao giảng
Tin Mừng. Giữa những quyền căn bản ấy, quyền tự do tôn giáo
chiếm một vị trí hết sức quan trọng (cf. Evangelii
Nuntiandi, # 39).
27. Giáo hội nói
gì về quyền tự do tôn giáo?
Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo số
2 của Công Đồng Vatican II trình bày: “Thánh Công Ðồng
Vaticanô này tuyên bố con người có quyền tự do tôn giáo.
Quyền tự do này hệ tại con người không bị chi phối vì sự
cưỡng bách của cá nhân, đoàn thể xã hội hay bất cứ quyền
bính trần gian nào khác. Với ý nghĩa đó, trong lãnh vực tôn
giáo, không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm, cũng
không ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm, dù cho đó là
hành động riêng tư hay công khai, một mình hay cùng với
người khác, trong những giới hạn chính đáng. Hơn nữa, Thánh
Công Ðồng còn tuyên bố rằng tự do tôn giáo thực sự được xây
dựng trên phẩm giá con người, một phẩm giá đúng như lời
Thiên Chúa mạc khải và chính lý trí cho biết được. Quyền tự
do tôn giáo của con người trong cơ cấu pháp lý của xã hội
phải được chấp nhận là một quyền lợi dân sự.” (Dignitatis
Humanae, # 2).
28. Vi phạm tự do
tôn giáo có phải là sự xúc phạm đến phẩm giá con người
không?
Trong số 1 của Thông điệp Hòa bình
cho Thế giới năm 1991, ĐGH Gioan Phaolô II nhấn mạnh:
“Không một quyền lực trần thế nào có quyền xen vào vấn đề
lương tâm của con người”. Như vậy, tước đoạt quyền tự do tôn
giáo của cá nhân và cộng đoàn không chỉ là một kinh nghiệm
đau thương, nhưng trên hết nó chà đạp phẩm giá của con
người. Không nghi ngờ gì nữa, trong trường hợp này, chúng ta
đang phải đương đầu với một cảnh bất công tận gốc rễ mà nó
liên quan đến nội tâm con người. (cf. Redemptor
Hominis, # 17)
29.
Chúng ta có trách nhiệm đòi hỏi và bảo vệ quyền tự do tôn
giáo mà Thiên Chúa ban cho chúng ta không?
Thưa có. Số 1 của Tuyên Ngôn về Tự
Do Tôn Giáo của CĐ Vatican II xác quyết: “Sự đòi hỏi
quyền tự do này trong xã hội nhân loại trước hết nhằm tới
những sản nghiệp tinh thần con người và nhất là quyền tự do
hành đạo trong xã hội… Thánh Công Ðồng còn tuyên bố rằng
những bổn phận này liên quan đến lương tâm con người cũng
như ràng buộc lương tâm con người, và chân lý tự nó có sức
mạnh ép buộc chứ không dựa trên một uy quyền nào khác, sức
mạnh ấy ăn sâu vào các tâm hồn một cách vừa êm dịu vừa mãnh
liệt. Hơn nữa, vì tự do tôn giáo, sự tự do mà con người đòi
hỏi trong khi thi hành nhiệm vụ phụng thờ Thiên Chúa, có
nghĩa là không bị một áp bức nào trong xã hội dân sự ràng
buộc, nên sự tự do đó bảo toàn được nguyên vẹn giáo lý
truyền thông công giáo về bổn phận luân lý của con người
cũng như của các đoàn thể đối với tôn giáo chân thật và Giáo
Hội duy nhất của Chúa Kitô” (Dignitatis Humanae # 1).
30. Tôn trọng
quyền tự do tôn giáo có khả năng kiến tạo hòa bình không?
Thưa có. Vì quyền tự do tôn giáo, một
phần tất yếu của phẩm giá con người, là nền tảng cho mọi cấu
trúc căn bản của nhân quyền và là nhân tố không thể thay thế
trong đời sống cá nhân và xã hội, nên việc bảo đảm quyền tự
do tôn giáo của mỗi cá nhân và cộng đoàn là một phần thiết
yếu cho việc xây dựng hòa bình trong xã hội. Hơn nữa, hòa
bình chân thật được cắm rễ từ sự tự do và sự mở rộng lương
tâm đối với sự thật, nên hòa bình chỉ có thể được xây dựng
và củng cố bằng sự hòa hợp giữa nhiều thành phần cộng đồng
nhân loại với nhau. (cf. World Day of Peace
Message, 1988, # 1)
Huynhquảng |
VỀ MỤC LỤC |
|
“... ĐƯỢC SỐNG VÀ
SỐNG DỒI DÀO” |
Quý độc giả Ephata và Giáo
Sĩ Việt Nam thân mến,
Cứ mỗi buổi sáng, anh em chúng
tôi, dăm ba người trong Nhà Dòng ngồi ăn bát cơm uống cốc
sữa đậu nành, thế nào cũng chuyện này chuyện kia rôm rả, lắm
khi trở thành một thứ “hội thảo trao đổi Mục Vụ”, cũng hay,
cũng vui, cần thiết nữa là khác. Mới đây, đang xoay quanh đề
tài Bảo Vệ Sự Sống, một anh bất chợt đưa ra một vấn nạn nhức
nhối: tại sao người Công Giáo lại phá thai nhiều như thế
?
Thú thật, chúng tôi chẳng thể
nào có được những con số thống kê chính xác về phá thai. Thế
nhưng, qua hàng ngàn trường hợp Nhóm BVSS đưa ra khỏi các cơ
sở phá thai, chuyển lại cho anh em Linh Mục chúng tôi tiếp
xúc và trợ giúp, chúng tôi ghi nhận lại được sau hơn 4 năm
làm Mục Vụ BVSS tại Sài-gòn và các vùng lân cận, một con số
đủ để khiến mọi người rùng mình, đó là:
Tỷ lệ
người Công Giáo khoảng 1 phần 10 dân số, vậy mà có đến 1
phần 4, 1 phần 5 những người đi phá thai là dân... có Đạo.
Lại phải lưu ý thêm một chi tiết đau lòng, đa số lại thuộc
về những Giáo Phận toàn tòng lâu đời , tự hào có nhiều cha,
nhiều sơ, thậm chí có cả một, hai Đức Cha xuất thân từ đấy.
Có lần, bản thân chúng tôi phụ
trách Bạn Tông Đồ Mục Vụ của Dòng nên phải đúc kết trước
toàn Dòng dịp cuối năm, chúng tôi đã rút ra 3 điểm chính hết
sức thực tế, thực tế đến phũ phàng, ấy là:
Thuyết phục một người nghèo bỏ
ý định phá thai dễ hơn đối với một người giàu.
Thuyết phục một người ít học
thôi không phá thai dễ hơn đối với một người trí thức, bằng
cấp cao.
Thuyết phục một người vô
thần, hoặc theo Đạo khác dễ hơn đối với một người Công Giáo.
Khi nói đến điểm ghi nhận thứ
ba thì cả Nhà Dòng, ai nghe cũng xốc, xôn xao cả lên, tranh
cãi lập luận đủ hướng mà cuối cùng vẫn không có lời giải đáp
cho vấn nạn tại sao lại kinh khủng như thế.
Trở lại câu chuyện bên bàn cơm
ăn sáng, một anh nêu lên như một lời cật vấn và thách đố: Ừ,
mà Đạo mình đâu có thiếu những cơ chế đảm bảo cho luân lý,
quá vững chắc, quá chặt chẽ cơ mà. Này nhé:
10 điều răn Đức Chúa Trời, 6
điều răn Hội Thánh, 7 Bí Tích, 8 mối Phúc Thật, thêm Kinh
Lạy Cha, Kinh Tin Kính... Lại được cả một bộ Kinh Thánh đồ
sộ làm Kim Chỉ Nam.
Giáo Lý với các cấp học kín kẽ
vô cùng, không cách nào lách lạng tránh né hoặc lọt sàng lọt
nia được: Bé thì có Khai Tâm, Vỡ Lòng, lớn nữa có Rước Lễ,
Thêm Sức, rồi dậy thì có Bao Đồng, Vào Đời, rồi đến tuổi lấy
vợ lấy chồng thì đã có các khóa Dự Bị Hôn Nhân... Nhiều nơi
có thêm Hùng Tâm Dũng Chí, Hướng Đạo Công Giáo và nhất là
ngày xưa thì Nghĩa Binh, nay là Thiếu Nhi Thánh Thể. Lớn nữa
đã có ban hát, ca đoàn, các giới, các hội, các phong trào,
các đoàn thể, các đội kèn, trống trắc, các ban lễ sinh, các
nhóm thu hút hết mọi thành phần cha mẹ vợ chồng con cái, già
trẻ lớn bé trong các gia đình. Ở cấp Giáo Phận còn có sinh
hoạt chuyên ngành của Giáo Chức, Doanh Nghiệp, Y Bác Sĩ, Văn
Nghệ Sĩ...
Thánh Lễ thì có mỗi ngày trong
tuần, và mỗi Chúa Nhật tùy từng Mùa quanh năm, bao nhiêu là
ngày Lễ trọng, Lễ buộc, thêm hàng trăm Lễ kính, Lễ nhớ nhân
mừng các Thánh ( riêng con số các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam
thôi đã thuộc top ten trong Hội Thánh ). Mỗi giới, mỗi hội
đoàn, mỗi Khu, mỗi Họ, mỗi Xóm Giáo, mỗi Giáo Xứ đều có một
vị Thánh Bổn Mạng, hay còn lại là Quan Thầy Bầu Chữa !
Về các việc đạo đức thì người
Công Giáo phải nói là quá nhiều sáng kiến phong phú: Chầu
Thánh Thể, lần chuỗi Kinh Mai Khôi 20 sự Vui Thương Mừng
Sáng, đi 14 chặng Đàng Thánh Giá nữa chứ. Mùa Chay lại còn
phải kể đến ngắm đứng, ngắm đèn, tổ chức hoạt cảnh quân dữ
lùng sục bắt Chúa, đóng đanh dựng tượng, chít khăn tang khóc
Chúa. Còn Lễ Giáng Sinh thì thế nào cũng không thể thiếu
hoạt cảnh Lịch Sử Cứu Độ từ Tạo Dựng, Sa Ngã, Cứu Độ, từ Cựu
Ước đến Tân Ước, Truyền Tin đến Giáng Sinh, rồi Ba Vua thế
này thế nọ... Tháng Hoa, Tháng Mân Côi của Đức Mẹ thì ca
vãn, múa dâng hoa, rước kiệu, trống kèn hoành tráng vang
dội, đến mức cá dưới ao phải váng đầu trồi hết cả lên mặt
nước...
Về nhân sự phục vụ thì bên Công
Giáo cũng đông hơn hẳn so với ban trị sự các đạo khác. Chỉ
tính riêng cấp độ Giáo Xứ, trên có cha xứ, cha phó xứ, dưới
có cụ Chánh Trương, cụ Phó Chánh Trương ( nay gọi là chủ
tịch, phó chủ tịch Hội Đồng Mục Vụ ), rồi đến các loại Chánh
lo nghi thức, hội kèn, hội hát... Về quản lý địa bàn có các
ông Trùm phụ trách Họ, Khu, Xóm Giáo... Về hành chánh có ông
Thơ, ông Ký, ông Biện. Riêng với cánh lau nhau con nít đã có
một dàn ông Quản, bà Quản. Đóng cửa, kéo chuông Nhà Thờ thì
giao ông Bõ ông Từ...
Ôi trời, toàn bộ cơ chế chằng
chịt như thế, đặc biệt tại một số ít Giáo Phận, riêng trong
lãnh vực luân lý quan hệ nam nữ lại còn được hậu thuẫn bằng
một thứ luật bất thành văn, ấy là: nhà nào mà có con gái
chửa hoang thì cha mẹ phải tự giác ra giữa Nhà Thờ mà quỳ
gối để tạ tội với Chúa, để nhận lỗi với cha Xứ và dân Họ.
Nhục không để đâu cho hết ! Cứ tạm coi là ác quá, thì ác như
vậy mới có tính ngăm đe, nhìn người mà ngẫm đến mình, thôi
không dám ti toe chuyện lăng nhăng tiền dâm hậu thú.
Vậy đó,
những tưởng là an toàn, là đủ sức mạnh để phòng vệ, không
ngờ thực tế khác xa, gần như ngược hẳn. Lợi bất cập hại, rất
nhiều cô bé sinh viên đi học xa hoặc di dân vào Sài-gòn hoặc
ra Hà Nội làm công nhân sợ quá hóa liều, lỡ dại là nghĩ ngay
đến chuyện phá thai, không muốn bố mẹ ở quê đã khổ vì nghèo
bây giờ lại bị liên lụy nhục nhã ê chề, có khi thổ huyết,
nhồi tim mà chết. Về phía cha mẹ trong gia đình, sức ép của
sĩ diện, của danh dự nơi làng quê, nơi Họ Đạo nó mạnh hơn lý
lẽ của Tình Thương, của Sự Sống thiêng liêng con người, hậu
quả là cô gái phải đành đoạn âm thầm đi tìm chỗ phá thai.
Trong nhiều dịp thuyết trình
trước các cộng đoàn đông đảo Giáo Dân ngay trong Nhà Thờ,
chúng tôi đã nhấn mạnh rằng những người BVSS không bao giờ
lên án các chị em đã trót phá thai, chúng tôi chỉ lên án tội
ác phá thai. Chị em phụ nữ luôn luôn là những người gánh
chịu thương tích khó lành trên thân xác, trong tâm lý và
nhất là nơi tâm linh. Nhiều lần chúng tôi đã cố gắng xác
định các “thủ phạm”, những thứ “đầu mối tội đầu” là phía
cánh đàn ông nhẫn tâm, bạc tình và hèn nhát đã chối bỏ chính
bạn tình và đứa con của mình. Lại cũng có không ít trách
nhiệm rơi vào gia đình, thân nhân, nhất là ông bố mà lại là
chức sắc gì đấy trong Giáo Xứ, thậm chí chỉ giữ một chân đọc
Sách Thánh thôi cũng đủ đang tâm từ khước đứa cháu ngoại vô
tội của mình để giữ thể diện cho bằng được !
Thế rồi hôm nay, khi bình tâm
truy nguyên đến cùng, chúng tôi giật mình thấy ra trách
nhiệm to lớn và nặng nề rơi trở ngược về chính mình là thành
phần của hàng Giáo Sĩ. Chúng tôi không vô can đâu, trái lại,
đã quá lâu rồi, nhất là dưới thời thống trị của lý thuyết vô
thần này, chúng tôi đã nín thinh, đã làm ngơ, đã tránh né,
làm như không nghe không thấy gì trước thảm họa xúc phạm và
tổn thương đến Sự Sống là Quà Tặng vô giá của Thiên Chúa đã
trao cho con người. Chúng tôi đã, cách nào đó, sợ hãi trước
mãnh lực của thế gian, chịu khuất phục bởi một thứ luân lý
vô luân của bạo quyền, chọn thỏa hiệp với những lý lẽ ngụy
biện về kế hoạch dân số, về phát triển kinh tế, về giáo dục
xã hội...
Trách
nhiệm Giáo Huấn của hàng Giáo Sĩ chúng tôi trong Hội Thánh
nằm ở đâu ? Sao im lặng thế này ? Có ai đó đã nhận định quê
hương chúng ta đã hòa bình từ lâu rồi nhưng sao con số tử
vong dân mình còn cao hơn thời loạn lạc chiến tranh rất
nhiều. Vậy mà các Linh Mục chúng tôi có thể an nhiên dâng
Thánh Lễ xin Chúa cho an cư lạc nghiệp được sao ? Đất nước
chúng ta đang vươn lên ngang tầm khu vực và lăm le nay mai
thành con rồng Châu Á, nhưng sao quyền tối thiểu và căn bản
của con người là quyền được sinh ra, quyền sống, quyền làm
người lại bị tước đoạt bằng những chỉ thị, những quyết sách
thất đức thất nhân tâm. Vậy mà khối Giáo Sĩ chúng tôi lại có
thể yên tâm rằng mình đã dạy Giáo Lý đủ các bài, khảo đủ các
kinh là chu toàn bổn phận Mục Tử rồi sao ?
Chúa Nhật này, Chúa Nhật thứ 4
Mùa Phục Sinh, Giáo Hội đã dành riêng để cầu cho ơn thiên
triệu, nói nôm na là xin Chúa cho có thêm nhiều người đi tu
làm cha. Nhưng chạnh lòng nghĩ, thêm nhiều người cha mà hằng
ngày, hằng giờ lại vẫn mất đi vô số những đứa con bé bỏng
trong tệ nạn phá thai thì xót xa quá. Có lẽ bản thân các
Linh Mục chúng tôi phải xin Chúa cho được cái ơn rất cụ thể
là... biết kêu, biết la to lên tiếng của lương tâm con người
giữa sa mạc cuộc đời hôm nay.
Chúa
Giê-su bảo: “Ta đến là để cho chiên Ta được sống, và sống
dồi dào” ( Ga 10, 10 ) Rõ ràng là để được sinh ra, để sống,
chứ không phải để bị giết chết. Mà đã sống là sống dồi dào,
sống thăng tiến chứ không phải là sống lây lất èo uột, sống
bất an, tan nát lương tri và nhân phẩm. Các Mục Tử chúng tôi
đã được Chúa Giê-su chọn để Ngài trao cho trách nhiệm chăn
đàn chiên Việt của Ngài, vậy, chúng tôi đến là để cho đàn
chiên ấy được sống và sống như thế nào đây ?
Lm. QUANG UY, DCCT,
Chúa Nhật 13.4.2008 |
VỀ MỤC LỤC |
|
EMMAUS, CON ĐƯỜNG HY
VỌNG |
Chúng ta thường nghe nói con đường
Emmaus, nhưng ít khi suy nghĩ tường tận xem con đường đó ám
chỉ những gì. Dựa vào tông thư của ĐTC Biển Đức XVI Spe
Salvi facti summus (Trong Hy Vọng, chúng ta được cứu rỗi),
chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa câu chuyện hai môn đệ của Chúa
Kitô trên đường Emmaus. (Luca 24: 13-35).
Chuyện kể rằng, sau ngày Sabbath, tức
ba ngày sau khi Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá và chịu
táng trong mồ, hai môn đệ quá buồn phiền chán nản bèn rời
Jerusalem đi về một làng nhỏ gần đó tên là Emmaus.
Trên đường đi, Chúa sống lại đã hiện
ra, cùng đi và trò chuyện với hai ông, nói về cả kinh thánh,
việc Chúa Giêsu chịu chết....nhưng hai ông đã không nhận
biết ra Chúa. Tin Mừng thánh Luca thuật lại rằng, Chúa thấy
hai môn đệ buồn nản, chẳng còn lòng dạ nào nữa, than van
rằng Chúa Giêsu, thày mình đã chịu cực hình, rồi chết và trở
về trời trong vinh quang của Người. Khi tới nơi, Chúa vào
nhà cùng với hai môn đệ, ngồi xuống bàn với họ, làm phép
bánh và bẻ bánh với họ….Lúc đó nhờ cung cách bẻ bánh, các
ông mới nhận ra Chúa chính là người lữ khách đồng hành đã
nói chuyện với các ông trên đường Emmaus. Nhưng lúc đó Chúa
lại biến hình khỏi tầm nhìn của các ông. Các ông quá ngỡ
ngàng và kinh ngạc về sự hiện diện của Chúa. Cử chỉ bẻ bánh,
một dấu hiệu Chúa hiện diện.
Ngay lập tức sau đó, hai ông liền trở
về lại Jerusalem và kể tất cả những gì đã xẩy ra mắt thấy
tai nghe cho các môn đệ và bạn bè…..
Địa danh làng Emmaus thì không được xác
định rõ ràng nó nằm ở đâu. Mặc dù có nhiều giả thuyết khác
nhau, nhưng chắc chắn nó cho chúng ta một suy tư chiêm
nghiệm rất phong phú đầy ý nghĩa. Emmaus có thể là bất cứ
chỗ nào. Con đường dẫn đến Emmaus tức là đoạn đường tượng
trưng cho cuộc hành trình đời sống của mỗi con người nói
chung, của mỗi một người tín hữu Kitô giáo nói riêng ở trần
thế này. Xuyên suốt đoạn đường hành trình này, Chúa Kitô
phục sinh luôn luôn là người bạn đường đồng hành với chúng
ta. Người đốt lửa tâm hồn chúng ta. Người nung ấm đức TIN,
đức CẬY / HY VỌNG của chúng ta và BẺ BÁNH HẰNG SỐNG cùng
chúng ta mỗi ngày.
Trong câu chuyện đàm thoại giữa hai
tông đồ và người lữ hành xa lạ, thánh Luca đã kể rằng một
trong hai môn đệ đã nói: “Lúc đó chúng tôi
đă hy vọng….” (Luca 24: 21). Như vậy có nghĩa
là lúc đó chúng tôi ĐÃ TIN, chúng tôi ĐÃ THEO,
chúng tôi ĐÃ HY VỌNG….nhưng bây giờ, hiện nay thì những hành
động, cử chỉ, ý nghĩ đó tất cả đã qua đi rồi, không còn nữa.
Ngay cả Đức Giêsu thành Nazaret là một ngôn sứ đầy quyền
năng trong hành động cũng như lời nói đối với tất cả mọi
người cũng đã thất bại và chúng tôi thất vọng.
Thảm trạng này của các môn đệ trên
đường Emmaus phản ảnh tình trạng của nhiều người trong chúng
ta hiện nay. Đôi khi chúng ta đã đánh mất đức tin của chúng
ta. Chúng ta không còn tin tưởng vào Chúa, có cảm tưởng Chúa
bỏ rơi chúng ta vì những kinh nghiệm chua chát tiêu cực
trong cuộc sống, vì những thất bại trong mưu toan dự tính
của chúng ta. Nhưng con đường dẫn đến Emmaus này chính là
con đường HY VỌNG có thể giúp chúng ta thanh tẩy tâm hồn,
tin tưởng vào Chúa một cách hăng say mạnh mẽ và trưởng thành
hơn nhờ có Chúa đồng hành với chúng ta, cũng như hai môn đệ
trên đường Emmaus, vì được gặp Chúa đồng hành hướng dẫn nên
đã từ tâm trạng mất niềm tin vào Người và vấp ngã vì thập
giá (câu 18 , 21), các ông tìm lại được niềm tin nhờ thông
hiểu lời kinh thánh (câu 25-27 và 32).
Ngày nay, mỗi khi chúng ta cầu nguyện,
chuyện vãn với Chúa, lắng nghe lời Chúa là chúng ta đang đi
trên đường Emmaus. Mỗi khi chúng ta tham dự thánh lễ là Chúa
bẻ bánh và ban cho chúng ta bánh thánh tức chính máu và thịt
Chúa.
Với hành động đó, qua sự tiếp cận với
Chúa Kitô phục sinh, chúng ta ngày nay có thể có được một
đức tin thực sự và sâu đậm hơn, có thể nói, được vun trồng
bởi lửa phục sinh. Đức tin này rất vững mạnh, được nuôi
dưỡng không phải bởi tâm tư ý nghĩ của con người mà bởi
chính Lời Chúa và sự hiện diện của Chúa trong bí tích Thánh
Thể.
Đoạn Phúc Âm kỳ diệu này đã tóm gọn
toàn bộ cấu trúc của thánh lễ Misa: Phần đầu thánh lễ là
phần nghe lời Chúa qua các đoạn sách thánh; phần hai là phần
nghi thức Thánh Thể và hiệp lễ / rước mình thánh Chúa với sự
hiện diện của chính Chúa Ktô trong bí tích Thịt và Máu thánh
Chúa.
Được nuôi dưỡng tại bàn tiệc thánh lễ
có hai phần như vậy, Giáo Hội luôn luôn được xây dựng bồi
đắp và tân trang cải tiến từng ngày một trong đức TIN, đức
CẬY / HY VỌNG và đức MẾN. Qua sự cầu bầu của Đức Trinh Nữ
Maria cực thánh, chúng ta mỗi người Kito hữu, mỗi cộng đoàn,
cộng đồng hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta làm hồi sinh lại,
tái diễn quang cảnh hai môn đệ đi trên đường Emmaus hầu làm
sống lại ân sủng đã được gặp Chúa Kitô phục sinh.
Chúa đã sống lại, đồng hành với các môn
đệ của người, đốt cháy tâm hồn họ bằng lời Chúa đối thoại,
biểu hiện ra với họ qua cung cách bẻ bánh.
Hãy đi và làm chứng tá ân sủng Chúa,
nguồn HY VỌNG cho mỗi người chúng ta và cả thế giới. Chúa đã
phục sinh. Hy vọng sự sống đời đời.
Pace Island, Florida 8-4-2008
Bác Sĩ Nguyễn Tiến
Cảnh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HIẾN THÂN HAY TIẾN THÂN ? |
Cũng như đồng tiền, vấn
đề hiến thân trong đời sống tu trì cũng có hai mặt. Nếu
không khéo ta sẽ nhầm lẫn với cái mục đích cũng như ý nghĩa
tinh tuyền cao đẹp của nó.
Do ảnh hưởng của xã hội
để rồi bất cứ một vấn đề nào đó trong xã hội cũng bị tác
động, cũng bị biến dạng theo. Con người sống trong xã hội
chắc chắn là nhân tố chịu tác động một cách trực tiếp của
nền văn hóa, chính trị, tôn giáo, kinh tế của xã hội mà mình
đang sống.
Với nét đặc thù riêng
biệt, hiếm có của Việt Nam trong nhiều biến động xã hội đã
gây không ít tác động nơi con người.
Chỉ tạm xét vấn đề hiến
thân trong đời sống ơn gọi thôi thì ta sẽ thấy nó có một tác
động hết sức là kinh khủng.
Ngày xưa, cái ngày mà
người ta vẫn nôm na nói với nhau rằng “đêm trước đổi mới”
đấy đời hiến thân cũng có vấn đề của nó nhưng vấn đề của nó
khác ngày hôm nay nhiều. Chỉ cần quay lại một chút thời gian
của “đêm trước đổi mới” ta sẽ thấy cuộc sống nó khác. Những
cái ngày “đêm trước đổi mới” người ta phải đối diện với một
cuộc sống quá khó khăn từ kinh tế, chính trị, tôn giáo ...
Thế nhưng với những cái khó khăn, những cái áp lực của cuộc
sống đấy hình như ta thấy có một cái gì đó trân trọng dành
cho giới tu sĩ. Chắc có lẽ các bậc cao niên trong các hội
dòng đã thấm vào trong máu của mình một cuộc sống quá khó
khăn. Đơn cử như “cái ngày xa xưa” đấy đi tu thì làm gì biết
được cái ngày lãnh sứ vụ linh mục? Ra vào nhà dòng còn phải
“ngó trước dòm sau” kẻo bị mời lên “học tập”.
Thế nhưng mà lạ thay !
Trong cái hoàn cảnh khó khăn đấy hình như là đời hiến thân
nó mang đậm chất của một đời hiến thân thật sự. Những lúc
phải co cụm lại với nhau để mà gìn giữ tu viện, gìn giữ cơ
sở vật chất của nhà dòng ... thì hình như sao mà yêu thương
nhau quá ! Chẳng ai bảo ai để rồi cùng nắm chặt tay nhau để
mà sống đời hiến thân thật tốt.
Và rồi, cuộc đời nó có
nhiều thay đổi để nó có những đổi thay của nó.
Ngày hôm nay, tạm gọi là
đời sống tôn giáo có “nới” ra được một chút, tạm gọi là đời
sống kinh tế có “nhỉnh” lên một chút để rồi nhiều người hiến
thân đã đánh mất đi cái “thuở ban đầu lưu luyến ấy”.
Đến lúc phải ngồi lại với
nhau để đặt lại vấn đề, đặt lại mục đích của đời hiến thân
chứ không thì chẳng chóng thì chày đời hiến thân nó lại biến
thành tiến thân.
Chuyện là có hai anh chị
nọ ở ngoài miền Bắc đã dắt díu vào Nam tá túc trong một dòng
nam và một dòng nữ. Họ dung dăng dung dẻ vào nhà dòng để mà
tìm hiểu đời hiến thân nhưng ai ngờ được bên dưới, bên
trong, tận sâu thẳm lòng của họ là hiến dâng. Sau khi ăn học
thành tại, chẳng bề trên nào gợi ý chuyển hướng hay cho về
cả thì hai anh chị tự xin rút lui để thực hiện mục đích của
mình trong bậc sống hôn nhân.
Chuyện là có bốn chàng
thanh niên trai tráng đã lặn lội từ miền ngược để vào tu học
ở một nhà dòng nọ ở miền xuôi. Đau đớn thay là khi tốt
nghiệp Đại học, bề trên mời vào tập viện thì cả bốn chàng
trai thưa với bề trên rằng các chú thấy “không thích hợp với
nhà dòng”. Đau quá ! Vị bề trên giờ đây mới ngậm ngùi vì
suốt 5 năm trời ròng rã nhà dòng đã nuôi cho ăn cho học để
rồi sau khi học xong họ ra đi một cách vô tư.
Chẳng phải là hết mọi
người hiến thân đều toan tính như thế đâu nhưng vì hoàn
cảnh, vì môi trường, vì não trạng của một đất nước đang phát
triển đã lôi kéo họ không còn giữ cho mình cái ý tưởng thánh
thiện lúc ban đầu.
Dẫu sao vài trường hợp
trên đây tạm gọi là không tốt nhưng xét cho cùng lạ họ còn
tốt hơn nhiều người cứ mãi ở lỳ trong các hội dòng mà chẳng
hiến thân gì cả. Vì sai mục đích là tiến thân nên họ bằng
mọi cách đạp trên vai người khác để hoàn thành mục đích của
họ.
Cũng đúng thôi khi mà
người ta vịn cớ, biện minh rằng mình cần trang bị những
phương tiện phục vụ cho công việc mục vụ. Nhưng thử nghiêm
túc thẳng thắn nhìn vấn đề thì ta sẽ thấy giật mình. Vẫn
thường nói với nhau rằng đời tu là sống khó nghèo nhưng thật
sự cái khó nghèo mà nhiều tu sĩ ngày nay sống “khó mà
nghèo”. Mỉa mai thay là biện minh cho cơ sở vật chất cần
phải trang bị thế này thế kia mới đúng để phục vụ cho giới
nhà tu nhưng thật sự mà nói thì nhiều và nhiều người nghèo
khi bước vào các nhà tu thì không dám bước vào bởi cái lộng
lẫy, hoành tráng mà các nhà tu đã trang điểm cho mình. Ai
nào đó vào nhà tu thì cũng mơ ước lắm để sống cái “khó
nghèo” mà các bậc tu trì thề hứa. Nói đúng ra thì họ có nằm
mơ để được sống khó nghèo như các bậc tu sĩ thì cũng chẳng
mơ được. Giá như mơ để được cái khó nghèo của các tu sĩ ngày
nay thì họ cũng ráng mơ rồi !
Mỗi tu sĩ cứ thử nhìn lại
hành trình mình đã đi thì sẽ thấy. Ngày nào ngây thơ bước
vào nhà dòng sao mà đơn sơ quá, thánh thiện quá. Hành trang
vào nhà tu chỉ là một cái giỏ xách với vài ba bộ quần áo che
thân. Vậy mà đến cái ngày vĩnh khấn, cái ngày “lên hàng
khanh tướng” sao mà nó khác quá ! Ngày mới vào nhà tu chỉ
cọc cà cọc cạch trên chiếc xe đạp cà tàng nhưng nay sao mà
có chiếc xe xịn quá, sang quá ! Ngày mới vào dòng mơ cũng
chẳng có chiếc máy tính để bàn vậy mà giờ đây sau vài năm
nhìn lại chẳng cần mơ cũng có chiếc laptop ngàn đô rủng rỉnh
trong tay. Ngày mới vào dòng phải dùng chung một cái điện
thoại thật khó chịu vậy mà ngày nay lại có một con dế bé bé
con con đầy đủ chức năng chẳng thua kém ai. Hình như là càng
tu lâu thì càng trang bị cho mình những vật dụng mà người
nghèo nằm mơ cũng chẳng có.
Còn nữa, thêm chuyện học
hành. Có người may mắn hơn anh chị em khác trong cộng đoàn
để rồi được gửi đi học thêm cái này thêm cái kia. Nhưng đáng
tiếc thay là phần lớn sau khi đi học về rồi thì rất ít người
sống hòa hợp với anh chị em trong cộng đoàn. Khi ấy họ cho
mình là người “học cao hiểu rộng”, chẳng cần biện minh thì
nhiều người thấy họ sống khác cái ngày xưa khi chưa được đi
ra “nước ngoài, nước trong” để tu học. Hóa ra là những cơ
may đi tu học để làm thăng tiến cho đời sống tri thức trong
cộng đoàn, thăng tiến hơn cho đời hiến thân thì họ lại tiến
thân nhờ cái suất du học do “ơn trên” đã ban cho họ.
Giảng dạy và lãnh đạo
cộng đoàn cũng vậy. Người thì có cái may mắn là ăn nói lưu
loát, người thì có cái may mắn nhanh nhẹn để mà giúp anh chị
em trong cộng đoàn. Thế nhưng, tưởng chừng như những cái tài
ấy là phục vụ cho đời hiến thân thì họ lại lấy cái đó làm
bàn đạp cho sự tiến thân của họ. Họ đâu có biết rằng những
thành công, những kết quả mà họ có đều là nhờ sự cầu nguyện,
nhờ sự cộng tác của anh chị em trong cộng đoàn mà họ đang
sống. Thế thì không khéo anh chị em trong cộng đoàn lại trở
thành cái bàn đạp cho họ tiến thân ở trong cộng đoàn thay vì
phải bon chen ở ngoài xã hội phải vất vả hơn nhiều.
Tưởng chừng giữa một giáo
hội tạm gọi là thanh bình thì bỗng dưng lại nảy sinh ra
nhiều vị tử đạo. Vì sao ? Vì lẽ cả cộng đoàn phải sống trong
tâm trạng “tử đạo” để cho những bậc “hiển thánh” được tiến
thân hơn trong một cộng đoàn hiến thân.
Giữa cái xã hội phát
triển tột bậc về kinh tế, văn hóa, xã hội quả là điều rất
tốt cho mọi người nhưng chính cái sự phát triển đấy đôi khi
vô tình lại trở nên rào cản, trở nên cái khó cho đời tu ngày
nay. Vì lẽ ngày nay để sống trọn ba lời khuyên tin mừng cũng
như hiến pháp của hội dòng mà người tu tận hiến không đơn
giản chút nào.
Giữa một xã hội thăng
tiến về vật chất thì bảo sống đúng lời khuyên khó nghèo hơi
bị khó.
Giữa một xã hội tự do về
tình dục thì bảo sống khiết tịnh hơi bị khó.
Giữa một xã hội tự do dân
chủ thì bảo sống một đời vâng phục nghiêm chỉnh hơi bị khó.
Giữa một xã hội phát
triển về con người thì bảo rằng sống khiêm hạ bình dị trong
bốn bức tường của nhà tu hơi bị khó.
Nói như thế chứ vẫn còn
và còn rất nhiều bậc tu sĩ sống cả đời tận hiến cho Thiên
Chúa. Chỉ lợn cợn đâu đó vài vị thay vì hiến thân thì lại
tiến thân.
Thôi thì cũng chẳng dám
kết án ai, chẳng dám ném đá ai. Trước tiên phải đấm ngực và
xét duyệt lại đời hiến thân của mình. Mình luôn xin với Chúa
nhắc nhớ cho mình biết rằng mình đang ở đâu, đang làm gì,
đang hiến thân hay tiến thân để mình chỉnh sửa đời tận hiến
sao cho đẹp. Nếu như nhằm mục để tiến thân thì thôi, ra khỏi
bốn bức vách của tu viện để tiến thân chứ ai mà chơi cái trò
hai mặt núp trong tường tu viện để mà tiến thân dưới cái
danh nghĩa hiến thân ?
Lâu lâu, người sống trong
nhà tu cũng cần duyệt xét lại xem là mình đang hiến thân hay
tiến thân. Nếu như tiến thân thì hoàn toàn sai mục đích và
tôn chỉ của đời tu.
Trong bất kỳ xã hội nào
người ta vẫn mong, vẫn chờ những ánh sáng le lói của một
cuộc đời từ bỏ giữa ngàn ngàn cuộc đời bon chen, giành giật.
Quý lắm khi trong hội dòng, trong cộng đoàn tu trì có những
con người hiến thân thật sự chứ không phải chỉ núp bóng
trong nhà tu để mà tiến thân.
Anmai,
C.Ss.R. |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÔN KÍNH THÁNH
KINH (tiếp theo) |
Chương
hai
HỘI THÁNH
TÔN KÍNH THÁNH KINH
1. Hội
Thánh Công Giáo tôn kính Thánh Kinh thế nào ?
Hội
Thánh khẳng định rằng :
-”Hội Thánh luôn tôn kính Thánh Kinh như chính
thân thể Chúa, nhất là trong Phụng Vụ Thánh, Hội Thánh
không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa, cũng
như từ ban tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu.”
(MK 21)
Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố :
-”Phúc thay kẻ biết lắng nghe và tuân giữ Lời
Thiên Chúa.” (Lc 11,28)
-”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng
còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4,4; Đnl
3,8)
2. Vai
trò của Thánh Kinh trong Hội Thánh thế nào ?
Hội
Thánh khẳng định rằng :
-”Cùng với Thánh Truyền, Thánh Kinh đã và đang
được Hội Thánh xem như là quy luật tối cao hướng dẫn đức tin,
được Thiên Chúa linh ứng và đã được ghi chép một lần cho
muôn đời.
-”Thánh Kinh phân phát cách bất di bất dịch Lời
của chính Chúa và làm vang dội tiếng nói của Chúa Thánh Thần
qua các tiên tri cùng các tông đồ, bởi vậy mọi lời giảng
dạy trong Hội Thánh cũng như chính đạo thánh Chúa Kitô phải
được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn. Thực tế trong
các sách thánh Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến
đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ Lời với họ.”
-”Lời Chúa còn có một sức mạnh và quyền năng có
thể nâng đỡ và tăng cường Hội Thánh, ban sức mạnh đức tin
cho con cái Hội Thánh là lương thực linh hồn, nguồn sống
thiêng liêng tinh tuyền và trường cửu cho con cái Hội Thánh.
Bởi thế, Lời nói sau đây thực xứng hợp cho Thánh Kinh :
“Thực vậy Lời Thiên Chúa sống động và linh nghiệm” (Dt
4,12), “Có khả năng gây dựng và ban gia tài cho mọi người đã
được thánh hóa.”
(Cv 20,32; 1 Tx 2,13) (MK 21)
3.
Việc phổ biến Thánh Kinh có khẩn thiết không ?
Hội
Thánh khẳng định rằng :
-” Phải mở rộng lối vào Thánh Kinh cho các
Kitô hữu. Chính vì thế mà từ buổi đầu Hội Thánh đã công
nhận như của riêng bản dịch Cựu Ước bằng tiếng Hy lạp, một
bản văn rất cổ và được gọi là bản dịch do 70 người. Ngoài ra
Hội Thánh còn luôn tôn trọng các bản dịch của Đông phương
hay các bản dịch La tinh, nhất là bản thường gọi là bản “Phổ
thông.”
-”Phải đem Lời Chúa đến cho mọi thời đại,
Hội Thánh như một người mẹ ân cần lo liệu cho các Sách thánh
được dịch ra các thứ tiếng cách thích hợp và đứng đắn, đặc
biệt dịch từ nguyên bản. Mọi Kitô hữu có thể sử sụng
những bản dịch được thực hiện chung với cả những anh em
ly khai trong trường hợp thuận tiện và được Giáo quyền chấp
nhận.” (MK 22)
4.
Việc tìm hiểu và giải thích Thánh Kinh trong Hội Thánh thế
nào?
Hội
Thánh khẳng định rằng :
-”Hiền thê của Ngôi Lời Nhập Thể (tức Hội
Thánh) được Chúa Thánh Thần dạy dỗ, hằng cố gắng hiểu biết
Thánh Kinh ngày càng sâu rộng hơn, hầu không ngừng lấy Lời
Chúa nuôi dưỡng con cái mình. Do đó, Hội Thánh có lý khi
khuyến khích việc học hỏi các thánh giáo phụ Đông phương và
Tây phương cũng như các Phụng Vụ thánh.”
-”Phần các nhà chú giải Thánh Kinh Công
giáo và những người chuyên về thần học thánh phải ân cần lo
lắng, dưới sự trông nom của quyền giáo huấn thánh và dùng
những phương thế thích hợp để nghiên cứu và trình bày
Thánh Kinh, để cung ứng nhiều thừa tác viên Lời Chúa hết
sức có thể, hầu lương thực Thánh Kinh được dồi dào ban bố
cho dân Chúa, để soi sáng trí khôn, kiên trì ý chí và nung
đúc lòng người yêu Chúa.”
-”Thánh Công đồng khuyến khích con cái Hội
Thánh đang chuyên cần học hỏi những khoa học Thánh Kinh,
hãy tiếp tục công trình đã khởi sự cách tốt đẹp với
những năng lực
ngày càng đổi mới và tất cả hăng say hợp với cảm thức của
Hội Thánh.” (MK 23)
5.
Nhiêm vụ của các nhà thần học là gì?
Hội
Thánh khẳng định rằng :
-”Khoa thần học dựa trên Thánh Kinh và Thánh
truyền như dựa vào một nền tảng vĩnh viễn. Trên nền tảng
này, thần học được củng cố hết sức chắc chắn và mãi mãi được
trẻ trung trong khi tìm kiếm, dưới ánh sáng đức tin, mọi
chân lý tiềm ẩn trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Thánh Kinh
chứa đựng Lời Chúa và thực sự là Lời của Chúa vì được linh
ứng. Nên nghiên cứu Thánh Kinh phải là linh hồn của khoa
thần học thánh.” (MK 24)
6.
Nhiệm vụ của Giám mục là gì ?
Hội
Thánh khẳng định rằng :
-”Các Giám mục là những người “gìn giữ giáo lý
tông truyền” có phận sự tùy nghi dạy các tín hữu đã được
ủy thác cho các ngài, cho biết sử dụng đúng đắn Sách Thánh,
nhất là Tân Ước và trước tiên các sách Tin Mừng (Phúc
Âm), nhờ các bản dịch, và các bản dịch này phải được kèm
theo những lời giải thích cần thiết và đầy đủ để con cái Hội
Thánh có thể sử dụng Thánh Kinh cách bảo đảm và ích lợi, và
được thấm nhuần tinh thần Thánh Kinh.”
(MK 25)
7.
Nhiệm vụ của hàng giáo sĩ là gì ?
Hội
Thánh khẳng định rằng :
-”Thừa tác vụ Lời Chúa (nghĩa là việc rao giảng
thuộc mục vụ, dạy giáo lý và huấn dụ Kitô giáo, trong đó bài
giảng Phụng vụ phải chiếm vị trí quan trọng) phải được nuôi
dưỡng cách an lành và gia tăng sinh lực cách thánh thiện,
nhờ lời Thánh Kinh.” (MK 24)
-”Vì thế, tất cả các giáo sĩ, trước hết là những
linh mục của Chúa Kitô và những người có bổn phận phục
vụ Lời Chúa, như các phó tế và những người dạy giáo lý,
phải gắn bó với Thánh Kinh nhờ việc chăm đọc và ân cần
học hỏi, để khi họ phải truyền đạt kho tàng bao la của
Lời Chúa,
nhất là trong Phụng Vụ Thánh, cho các giáo hữu được ủy thác
cho họ, không ai trong họ sẽ trở thành “kẻ huênh hoang
rao giảng Lời Thiên Chúa ngoài môi miệng, bởi không lắng
nghe Lời Thiên Chúa trong lòng.”
(MK 25)
-”Phải hết sức trung thành chu toàn thừa tác vụ
giảng giải đúng với nghi lễ. Trước tiên bài giảng phải
được múc lấy từ nguồn mạch Thánh Kinh và Phụng Vu, vì
như là việc rao truyền các việc kỳ diệu của Thiên Chúa trong
lịch sử cứu độ hay trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Chính mầu
nhiệm này hằng hiện diện thiết thực và tác động trong chúng
ta, nhất là trong các cử hành Phụng Vụ.” (PV 35; 52)
8.
Nhiệm vụ của các Kitô hữu là gì ?
Hội
Thánh kêu gọi các tín hữu :
-”Thánh Công Đồng cũng tha thiết và đặc biệt
khưyến khích mọi Kitô hữu, cách riêng các tu sĩ phải năng
đọc Thánh Kinh để học biết” khoa học siêu việt của Chúa
Giêsu Kitô” (Pl 3,8) ”Vì không biết Thánh Kinh là không
biết Chúa Kitô.”
-”Vậy ước gì họ hăng hái tiếp xúc với chính bản
văn Thánh Kinh, nhờ Phụng Vụ Thánh dồi dào Lời Thiên Chúa,
hoặc nhờ sốt sắng đọc Thánh Kinh hay nhờ những tổ chức học
hỏi thích hợp, hoặc bất cứ phương thế nào mà ngày nay đã
được các chủ chăn trong Hội Thánh chấp thuận và ân cần phổ
biến khắp nơi.”
-”Nhưng mỗi người cũng nên nhớ rằng kinh nguyện
phải đi đôi với việc đọc Thánh Kinh, để có sự đối thoại giữa
Thiên Chúa và con người, vì “chúng ta ngỏ lời với Ngài
khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc
các sấm ngôn thần linh.”
(MK 25)
9. Có
cần phổ biến Thánh Kinh cho những người ngoài Kitô giáo
không ?
Hội
Thánh kêu gọi và mong ước :
-”Hơn nữa cũng cần thực hiện những ấn
bản Thánh Kinh với lời chú giải thích hợp cho cả những người
ngoài Kitô giáo và thích hợp với hoàn cảnh của họ. Các
vị chủ chăn linh hồn cũng như các Kitô hữu dù trong bậc sống
nào cũng phải ân cần lo lắng phổ biến các ấn bản ấy.”
(MK 25)
-”Ước gì nhờ việc đọc và học hỏi Sách Thánh “Lời
Thiên Chúa được trôi chảy và sáng sủa” (2 Tx 3,1), và ước gì
kho tàng mạc khải, đã được ủy thác cho Hội Thánh ngày một
tràn ngập tâm hồn con người.”
-”Nếu đời sống Hội Thánh được tăng triển nhờ năng
nhận lãnh bí tích Thánh Thể, cũng thế, cũng có thể hy vọng
đời sống thiêng liêng được đổi mới nhờ thêm lòng sùng kính
Lời Chúa, là lời “hằng tồn tại muôn đời.”
(Is 40,8; 1 Pr 1,23-25). (MK 26)
Chương ba
LẮNG NGHE
VÀ THỰC HÀNH LỜI CHÚA
1.
Chúng ta phải có thái độ nào khi đọc Thánh Kinh ?
Chúng ta phải có 2 thái độ xứng hợp như sau :
a) Thái độ đức tin :
Chúng ta phải tin rằng câu hoặc đoạn Thánh Kinh mà chúng ta
đang đọc, chính là lời Chúa đang nói với chúng ta.
Hội
Thánh dạy rằng :
-”Trong Sách Thánh, Cha trên trời dịu dàng đến
với con cái Ngài và đi vào cuộc đối thoại với họ” (Mk
21)
-”Chúa Kitô hiện diện thiết thực trong Lời của
Ngài, vì chính Ngài nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong
Hội thánh.”
(Pv 7)
b) Thái độ lắng nghe
: Để có thể đối thoại với Chúa, chúng
ta cần biết mở lòng lắng nghe cách ân cần và khiêm tốn.
Tiếng Chúa nói với chúng ta ở đây, bây giờ; tiếng ấy có thể
khác với những dự định của chúng ta và đòi chúng ta phải tin
tưởng phó thác theo ý Chúa.
Cuộc gặp gỡ với Lời Chúa sẽ soi sáng cho từng người và cho
cả tập thể trước những quyết định và chọn lựa trong hoàn
cảnh cụ thể hôm nay.
Đọc Lời Chúa với thái độ tin tưởng và lắng nghe là chúng ta
đã bắt đầu cầu nguyện.
Hội
Thánh dạy rằng :
- “Cầu nguyện phải đi đôi với việc đọc Thánh
Kinh, để cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người được
thiết lập.” (Mk 25)
2. Vai
trò của Chúa Thánh Thần trong việc đọc Thánh Kinh thế nào ?
Thiên Chúa là tác giả của Thánh Kinh do sự linh ứng của Chúa
Thánh Thần, vì thế muốn hiểu Thánh Kinh, chúng ta cần
phải xin Chúa Thánh Thần tác động và soi sáng. Chính nhờ
Ngài, mà một bản văn cổ xưa, trở thành lương thực nuôi dưỡng
các tín hữu mãi cho đến tận thế. Nhờ Ngài, mà Chúa Giêsu
sống cách chúng ta trên 2000 năm, đã trở nên gần gũi. Ngài
sẽ dẫn chúng ta vào chân lý trọn vẹn. (Ga 16,13)
Vậy
để hiểu được một đoạn Thánh Kinh do Chúa Thánh Thần linh
ứng, chúng ta cũng cần có Chúa Thánh Thần soi sáng và thúc
đẩy.
3.
Làm thế nào để lắng nghe Lời Chúa trong Thánh Kinh ?
Sau
đây là cách Lắng nghe Lời Chúa đơn giản và hiệu quả, ai cũng
có thể áp dụng, theo 4 nhịp như sau :
1) Trước khi đọc bất cứ đoạn Thánh Kinh
nào, chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần soi sáng để
hiểu Lời Chúa chúng ta sắp đọc, vì Ngài là tác gỉa chính của
Thánh Kinh.
2) Chúng ta đọc một đoạn Thánh Kinh nhiều
lần, rồi chọn một câu hoặc một ý mà chúng ta cảm thấy
hay, đánh động tâm hồn. Hãy ghi nhớ câu hoặc ý chúng ta vừa
chọn, vì đó chính là Lời Chúa nói với chúng ta lúc này
hôm nay.
3) Chúng ta giữ thinh lặng để lắng nghe
Chúa nói trong tâm hồn; rồi chúng ta liên hệ Lời Chúa vừa
nghe với đời sống hiện tại của chúng ta : Từ trước đến
nay chúng ta đã hiểu, đã tin và thực hiện Lời Chúa vừa nghe
như thế nào ?
4) Tùy theo ý nghĩa Lời Chúa vừa nghe và
sau khi đã liên hệ với đời sống, chúng ta dâng lên Chúa
lời cầu nguyện chân thành, tùy theo tình trạng của mỗi
người. Chúng ta có thể : - Ca ngợi và cảm tạ Chúa. – Tuyên
xưng lòng tin hoặc xin lỗi Chúa. – Xin Chúa ban ơn để thực
hành. . .
4.
Việc thực hành Lời Chúa quan trọng như thế nào ?
Việc thực hành Lời Chúa rất quan trọng và cần thiết, liên hệ
mật thiết đến phần rỗi của mỗi người.
Chúng ta hãy lắng nghe Chúa Giêsu dạy các môn đệ : -”Ai
yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu
mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đên và ở lại với người
ấy.” (Ga 14,23)
-”Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại
trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như
ý. Điều
làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái và
trở thành môn đệ của Thầy”.
(Ga 15,7-8)
-”Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ
ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều
răn của Cha Thầy. . . Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy
yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em.”
(Ga 15,10.12)
-”Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực
hiện những điều Thầy truyền dạy.” (Ga 15,14)
-”Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lạy Chúa !
Lạy Chúa ! là được vào Nước trời cả đâu ! Nhưng
chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời,
mới được vào mà thôi.”
(Mt 7,21)
-”Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra
thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá.
Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không
sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe lời Thầy nói đây,
mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại
xây nhà trên cát, gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập
vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành.”
(Mt 7,24-27)
-”Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời
Thiên Chúa và đem ra thực hành.”
(Lc 8, 21)
Thánh Giacôbê dạy tín hữu :
-”Anh em hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo
vào lòng anh em. Lời ấy có sức cứu độ anh em. Anh em hãy
đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối
chính mình. Thật vậy, ai lắng nghe Lới Chúa mà không
thực hành, thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự
nhiên của mình. Người ấy soi gương rồi đi mà quên đi khuôn
mặt của mình thế nào.”
(Gc 1,21-23)
Lm Giuse Hoàng Kim Đại |
VỀ MỤC LỤC |
HÃY CAN
ĐẢM
NÓI LÊN TIẾNG “KHÔNG”
(bài 2) |
Cậu bé Văn Minh 4 tuổi đi
với mẹ đến cửa hàng thực phẩm, mang theo chiếc súng bắn
nước. Bà mẹ quay lại đúng lúc nhìn thấy nó xịt nước vào mặt
một người đàn bà. “Minh sao con vô lễ vậy? Cất ngay chiếc
súng đó!” Cậu bé hạ súng dường như để cho súng vào bọc, trề
môi, và nhìn xuống sàn nhà. Một ít phút sau nó gặp cũng
người đàn bà đó và lại xịt nước vào mặt bà. Khủng khiếp, bà
mẹ chạy đến chụp cây súng và xin lỗi người người đàn bà ấy.
Cậu bé hét và nhảy xổm. Người ta quay lại nhìn. Bà mẹ nhanh
chóng giao lại chiếc súng cho cậu bé và bảo: “Được rồi,
chúng ta đi ngay”.
Bà mẹ thiếu can đảm để
nói tiếng “không”. Bà không thể chịu đựng nhìn thấy người ta
nghe con bà hét. Bà mẹ đã huấn luyện cậu bé cảm thấy đúng
trong những đòi hỏi của nó và phải có được điều nó muốn
không thành vấn đề điều đó sai trái. Đến lượt cậu bé lại
huấn luyện cho bà mẹ tốt đến nỗi bà sẵn sàng luôn tuân phục
vào sự bạo chúa của nó.
Nhiều trẻ con một cách
thô bạo tỏ rõ sự giận dữ của chúng lúc chúng bị chối từ điều
mà chúng muốn. Tuy nhiên, bà mẹ bó buộc phải giữ trật tự. Bà
không có thể để cho cậu bé xịt nước vào mặt người ta. Vì nó
không muốn kiềm chế mình, bà mẹ không nên để nó dùng súng.
“Con hãy cất súng vào bọc và để yên ở đó cho tới khi về nhà
con mới có thể được chơi”. Bà mẹ kính trọng quyền diễn tả sự
giận dữ của nó, nhưng cũng phải kính trọng quyền nói tiếng
“không” của bà. Nếu người ta nhìn, đó là một việc không tốt
đẹp, nhưng sự huấn luyện và phát triển đứa trẻ thì quan
trọng hơn. Chúng ta phải học quan tâm đến những đòi hỏi của
tình thế và không quan tâm đến cái người ta nghĩ. Ở đây bà
mẹ phải chọn lựa giữa sự hư không và bổn phận làm mẹ.
Cậu bé Tiểu Long 3 tuổi
đứng ở quầy bán đồ chơi khóc rên:
- Con muốn cái nào?
- Cái nầy, nó chỉ vào cái
accordion nó đang cố gắng vói tới.
- Không con ơi, nó quá
ồn. Con không thể có nó. Mẹ sẽ mua cho con một chiếc xe nhỏ.
- Con không muốn chiếc
xe, cậu bé khóc.
Con muốn cái đó
à!
Bà mẹ phớt lờ
nó và tiếp tục nhìn một vài món hàng trên quày đối diện. Cậu
bé bám chân mẹ khóc:
- Con muốn nó!
Con muốn nó! Con
muốn nó!
- Đây, mẹ lấy cho con.
Khi cô bán hàng đưa cái
gói cho bà mẹ, cậu bé vói tay lấy, bà mẹ nói:
-Chờ về đến nhà đã! Nó
quá ồn ào trong cữa hàng.
Cậu bé khóc và bảo:
- Bây giờ. Bây giờ. Bây
giờ.
- Con có thể
mang nó. Nhưng không được bóc ra khỏi hộp.
Cậu bé ngay tức
khắc xé giấy bao bên ngoài. Bà mẹ nhìn xuống với vẻ thất
vọng. Nó kéo cái đàn. Kéo tới kéo lui làm phát sinh tiếng
động.
- Con ơi, con
biết nó kêu thế nào. Hãy chờ đến khi về nhà hoặc mẹ sẽ lấy
cất nó ngay.
Nó kéo ra kéo
vô. Bà mẹ chụp lấy cái đàn. Nó hét lên. Bà mẹ đưa lại cho
nó. Cậu bé lại kéo ra kéo vô, bà mẹ giận dữ nói:
- Con chờ cho
đến khi ra khỏi cữa hàng đã.
Cậu bé không
nghe. Cuối cùng bà mẹ lôi nó ra khỏi cữa hàng:
- Con làm mẹ
bực mình. Tại sao không thể chờ cho tới lúc ra khỏi cữa
hàng?
Bà mẹ thiếu can
đảm để nói tiếng “không” và phải dối diện với sự quấy rầy
của cậu bé. Bằng mọi cách, nó phải được thõa ý. Cậu bé có bà
mẹ dưới quyền nó.
Tuyệt đối không
có lý do gì chúng ta lại mua cho một đứa trẻ mọi thứ nó
thích và đòi hỏi. Cũng không có lý do để mua cho nó một cái
gì mỗi lúc nó đi chợ với chúng ta. Những hành động như thế
chìu theo những ý muốn kỳ cục của đứa trẻ, và làm nó cảm
thấy những đòi hỏi như vậy là đúng. Nếu mẹ không mua cho con
một cái gì, mẹ không yêu con nữa. Cậu bé không thích thú đồ
chơi cho bằng thích thú thấy mẹ phải chìu ý nó tức khắc như
nó muốn. Đồ chơi tự nó ít giá trị. Không bao lâu nó sẽ bị
phế bỏ. Nhưng làm cho bà mẹ cung cấp ngay cho nó điều nó
muốn mới trở thành quan trọng.
Đồ chơi nên có
một mục đích hữu ích hoặc đáp ứng một nhu cầu. Chúng nên
được cho những món quà thích ứng với thời gian được mong đợi
như giây nhảy vào mùa xuân, đồ chơi nước vào mùa hè, đồ chơi
trong nhà vào mùa đông. Đi mua đồ nên có mục đích. Nên tạo
cho đứa trẻ một ý tưởng về tiền bạc và cách tiêu tiền khi đi
với chúng ta. Nếu không có giới hạn vào cái nó có thể đòi
hỏi, nó sẽ cho rằng sự cung cấp tiền bạc thì vô hạn và cảm
giác về giá trị của những đồ mua đó sẽ trở nên lệch lạc.
Bà mẹ của cậu
bé nên tỏ tình yêu đối với nó và tỏ ra quan tâm về sự lợi
ích của nó nếu bà cẩn thận trong việc làm vừa lòng nó và giữ
một thái độ “không” khi không cần thiết. Ở đây, bà hoàn toàn
không thể thiết lập trật tự vì bà thiếu can đãm. Bà sợ làm
tổn thương đứa trẻ và vì thế không thể nói tiếng “không” và
cũng không thể cứng rắn được.
- Chúng ta cần
cereal hôm nay, bé Mai! Con có thích chọn nó không?
Một cách sung
sướng, bé Mai 6 tuổi nhìn một dãy hộâp đựng cereal với nhiều
loại khác nhau, chọn lấy một, và đặt nó vào chiếc xe đi chợ.
Bà mẹ chấp nhận sự chọn lựa, và rồi cô bé chạy tới quày kẹo,
chọn lấy một hôp và mang tới cho mẹ.
- Không con ơi.
Không phải hôm nay. Chúng ta có đủ kẹo ở nhà!
- Nhưng con
muốn loại nầy hôm nay.
- Con có thể có
nó lần sau, khi chúng ta đi chợ. Bà mẹ vừa nói vừa mỉm cười.
Giúp mẹ chọn lấy một số cam!
Cô bé đem kẹo
để lại chỗ cũ và theo mẹ tới hàng trái cây.
Bà mẹ tỏ ước
muốn hợp lý làm đẹp lòng cô bé. Bà gợi ý cho cô bé đi chọn
cereal. Cô bé chia xẻ một ít trách nhiệm. Tuy nhiên, khi cô
bé có một yêu sách không hợp lý, bà mẹ nói “không “ trong
cách thế thân tình, và đã có được sự cộng tác bằng cách gợi
ý lần tới sẽ thỏa mãn ước vọng đó, và quan trọng hơn trong
lãnh vực khác cô bé có thể giúp ngay bây giờ. Cô bé đang học
cách đi chợ có mục đích.
Dĩ nhiên là
chúng ta muốn làm vừa lòng con trẻ. Tuy nhiên, nếu chúng ta
đạt tới mức chúng ta cố gắng làm vui lòng trẻ với chi phí có
sắp xếp, hoặc chìu theo những đòi hỏi của nó một cách thích
hợp, chúng ta không có gì phải sợ, chúng ta cũng cần phải ý
thức những nguy hiểm trong những hành động đó. Chúng ta
không cần phải tranh luận trong việc khước từ cho đứa trẻ
điều nó muốn. Nhưng bất cứ khi nào ước muốn hoặc yêu sách
của đứùa trẻ trái ngược với trật tự hoặc những đòi hỏi của
tình thế, chúng ta phải có can đảm nói “không” là cái diễn
tả sự phán đoán đúng đắn của chúng ta.
Lm. Lê Văn Quảng,
tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
HƯỚNG ĐI CỦA THƠ NGÀY NAY |
1- Thơ vốn tự do như Thơ vẫn
có!
Thơ không
phải là đầu cúi, miệng khen
Thơ vốn
ghét hung những loại người hèn
Khom
lưng, dua nịnh, gia nô, khiếp nhược!
2- Thơ trên đôi cánh, bay chứ
không bước!
Thơ mang
nguồn vui đến mọi gia đình
Thơ kị
cường quyền đàn áp sinh linh
Thơ vì
Dân tộc nói lời nghĩa khí!
3- Thơ khuyên thanh niên hùng
tâm, dũng chí!
Khuyên
ngẩng cao đầu nòi giống Rồng Tiên
Thơ anh
hùng ca trọng sĩ đãi hiền
Dân chủ,
Tự do điểm tô đời sống!
4- Thơ của voi gầm, thét loa,
ngựa rống
Đầu giặc
rụng rơi như trận Đống Đa
Thơ Bạch
đằng giang thủy chiến vang xa
Thơ chém
Liễu Thăng đầu quay lông lốc!
5- Thơ vì nghĩa cả và vì Dân
tộc
Thơ không
chui luồn, vì bả vinh hoa
Thơ không
bẻ cong ngòi bút cho tà
Thơ vì
miếng ăn là Thơ lưu xú!
6- Thơ biết phân biệt người và
giống thú!
Biết đâu
gông cùm, đâu có Tự Do
Biết
quyền người dân, quyền chẳng ai cho
Thơ
trống thúc quân, người người xông tới!
7- Thơ phải cương cường - Thơ
phải đổi mới!
Thơ giục
giã sao đất nước phú cường
Thơ phải
trải đều Công Lí, Tình Thương
Thơ như
thế mới là Thơ Dân tộc!
8- Hễ Thơ vọng ngoại là Thơ mất
gốc
Ta có anh
hùng sao ta chẳng khen?
Khen Xít,
khen Lê - Thơ những thằng hèn
Thơ như
thế đó muôn đời ô nhục!
Cẩn thận kẻo thành Thi sĩ vô phúc!
14-4-2008
Xuân Vũ TRẦN ĐÌNH NGỌC
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC
CẦN THIẾT RA SAO TRONG GIÁO HỘI? |
Hỏi:
xin cha giải thich rõ vai trò và sứ mạng của linh mục
trong Giáo Hội và trong đời sống của giáo dân.
Trả lời:
Gần đây có những bài viết mang nội dung tiêu cực về hàng
linh mục nói chung. Thí dụ có một số người đã không đồng ý
gọi linh mục là “cha” vì cho là sai văn hóa Việt-Nam.
Có người còn quá đề cao “chức linh mục thường tác”
của giáo dân (the common priesthood of the laity) qua phép
rửa đến mức coi “linh mục thừa tác” (ministerial
priests) là không cần thiết nữa!
Để có một cái nhìn đúng
đắn về địa vị và chức năng (competence) của linh mục trong
Giáo Hội và trong đời sống của người tín hữu nói riêng,
thiết tưởng cần nhắc lại ở đây những giáo huấn căn bản của
Giáo Hội về thiên chức và vai trò của linh mục trong sứ mạng
chung của Giáo Hội.
I.-
Linh mục là AI?
Để trả lời cho câu hỏi
này, ta cần đọc lại giáo huấn của Giáo Hội qua các văn kiện
quan trọng dưới đây:
1.-
Hiến Chế Tín Lý
(Dogmatic Constitution) Lumen Gentium của
Thánh Công Đồng Vaticanô II dạy như sau: “Linh
mục được thánh hiến theo hình ảnh Chúa Kitô, Thầy Cả
Thượng Phẩm vĩnh viễn (x. Dth
5:1-10; 7:24; 9: 11-28) để rao giảng Phúc Âm, chăn dắt
tín hữu và cử hành việc phụng tự Thiên Chúa với tư cách là
tư tế đích thực của Tân Ước.” (x.
LG. số 28)
2.-
Sắc Lệnh về Chức Vụ và Đời Sống
Linh mục (Presbyterorum
Ordinis) nói rõ như sau: “Vì được
tham dự vào chức vụ của các Tông Đồ theo phần vụ của mình,
nên các linh mục được Thiên Chúa ban ơn sủng để làm thừa tác
viên (Ministers) của Chúa
Giêsu Kitô giữa muôn dân, và thi hành chức vụ thánh rao
giảng Phúc Âm để muôn dân trở nên hiến lễ đẹp lòng Chúa và
được Chúa Thánh Thần thánh hoá.”
(số 2)
3.-
Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo
(SGLGHCG) cũng nói như sau về chức Linh mục: “Do
bí tích truyền chức thánh, các linh mục tham dự vào những
chiều kích toàn cầu của sứ mạng mà Chúa Kitô đã trao cho các
tông đồ. Là những cộng sự viên thành thạo của hàng giám mục
mà họ là những trợ lực và là những dụng cụ, các linh mục
được Chúa gọi để phục vụ Dân Chúa; và cùng với vị Giám Mục
của mình, họ làm thành một linh mục đoàn duy nhất, với những
chức vụ khác nhau.” (x. số 1565,
1567)
Tất cả những lời dạy
trên đây về chức vụ và vai trò của Linh mục đã phản ảnh
nội dung câu Kinh Thánh sau đây: “Quả
vậy, thượng tế nào cũng được chọn trong số người phàm, và
được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối
tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như lễ vật
đền tội.”
(x. Dt 5:1)
Nói khác đi, linh mục
là người phàm được chọn trong số phàm nhân để
thi hành sứ vụ của Chúa Kitô trong trần thế. Đó là sứ
vụ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và dâng lễ đền tội cho mình và
cho người khác nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi) Thầy
Cả Thượng Phẩm đời đời.
II.-
Sứ Vụ và Vai trò của Linh mục trong Giáo Hội và trong đời
sống của tín hữu
1.-
Trong Giáo Hội
Trong Giáo Hội, Sứ vụ
này rất cao trọng và cần thiết, vì theo lời Đức cố Giáo
Hoàng Gioan-Phaolô II trong Tông Huấn Pastores Dabo
Vobis (Ta sẽ cho các ngươi những Mục Tử),
thì “không có Linh Mục, Giáo Hội
sẽ không thể sống được đức vâng lời căn bản nằm trong
chính tâm điểm của đời sống và sứ mạng của mình, đó là
vâng lệnh truyền sau đây của Chúa Kitô: ‘anh
em hãy ra đi, và làm cho muôn dân thành môn đệ của Thầy’,
(Mt 28:19) và ‘anh em hãy làm
việc này mà nhớ đến Thầy.’”
(Lk 22:19; 1Cor. 11:24). (x. Pastores Dabo
Vobis: Introduction)
Hai lệnh truyền trên
đây của Chúa Kitô cho các Tông Đồ trước khi Người về trời đã
chỉ rõ sứ mạng của Giáo Hội nói chung và của hàng tư tế
(Giám mục, Linh mục) nói riêng. Đó là sứ mạng rao giảng
Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân cho đến ngày cánh chung tức
là ngày tận cùng của sự sống trên trần gian này.
Đặc biệt là chức
năng cử hành lại Bữa Tiệc ly và Hy Tế của Chúa Kitô trong
Thánh Lễ Tạ Ơn (Eucharist) để biến bánh và rượu nho
thành Mình và Máu Chúa Kitô cũng như xin ơn cứu độ cho nhân
loại ngày nay cùng thể thức và mục đích mà Chúa Kitô đã dâng
mình tế lễ Đức Chúa Cha một lần khi xưa trên thập giá. Nghĩa
là, “Mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ,
nhờ đó ‘Chúa Kitô chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến
tế’ (1Cor 5,7) thì công trình cứu chuộc chúng ta
được thực hiện.” (x. Lumen Gentium. 3).
Chính vì tầm quan trọng
và ơn ích lớn lao này của Thánh Lễ Tạ Ơn –
mà linh mục được phép cử hành nhờ chức thánh
– nên Giáo Hội đã dạy rằng “Thánh
lễ là nguồn mạch và là chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo”
(LG. số 11) bởi vì “Phụng vụ,
nhất là Lễ Tạ Ơn, là nguồn mạch từ đó ân sủng tuôn tràn
trong chúng ta và làm cho con người được thánh hoá trong
Chúa Kitô một cách vô cùng hữu hiệu; đồng thời Thiên Chúa
cũng được tôn vinh: đây cũng là cứu cánh của mọi việc khác
của Giáo Hội.” (x.
SC, số 10).
Như vậy, có thể nói
một cách loại suy (analogy) là nếu không có linh mục thì
không có Giáo Hội (no priests = no Church) vì không có
linh mục thì không có Thánh Lễ Tạ Ơn là “nguồn
mạch và là đỉnh cao của đời sống Giáo Hội”
tức là không có ơn phúc nuôi sống Giáo Hội về mặt thiêng
liêng. Mặt khác, không có linh mục thì Giáo Hội không thể
thi hành mệnh lệnh của Chúa Kitô về việc loan báo Tin
Mừng cho muôn dân cũng như không có ai “làm
việc này để tưởng nhớ đến Thầy” hầu xin ơn cứu độ
cho nhân loại ngày nay.
Đúng vậy, vẫn biết Giám
Mục là những người thừa kế các Tông Đồ xưa của Chúa Kitô,
nhưng Giám Mục cũng xuất phát từ hàng linh mục, chứ không
phải từ trời rơi xuống. Và để thi hành sứ vụ của mình, Giám
mục phải cần đến những người cộng tác đắc lực và hữu hiệu
là Linh mục để chia sẻ sứ vụ và trách nhiệm của mình. Là
cộng sự viên đắc lực của hàng Giám Mục, Linh mục được
chia sẻ Chức Linh Mục đời đời của Chúa Kitô nhờ bí tích
truyền chức thánh (Giám mục chia sẻ trọn vẹn, Linh mục chia
sẻ một phần) để dâng thánh lễ Tạ Ơn mang lại những ân sủng
lớn lao cho đời sống Giáo Hội như đã nói ở trên.
2.- Trong đời
sống của tín hữu
Đành rằng Đức Thánh Cha
và các Giám mục hiệp thông là những vị lãnh đạo tối cao của
Giáo Hội hoàn vũ và địa phương, nhưng người thay mặt các
ngài để trực tiếp chăm sóc tín hữu về mặt thiêng liêng
lại là các linh mục. Cụ thể, khi có nhu cầu về bí tích,
đặc biệt là bí tích Thánh Thể, hoà giải và xức dầu thánh,
giáo hữu không thể chậy đến với Đức Giáo Hoàng, hay các Hồng
Y, Giám mục mà phải tìm đến các linh mục đang trực tiếp coi
sóc mình ở các giáo xứ địa phương.
Do đó, nếu không có
linh mục thì giáo dân sẽ không có đời sống bí tích, tức
là mất hẳn nguồn tiếp tế lương thực thần linh để nuôi
dưỡng đức tin và lãnh nhận ơn cứu chuộc của Chúa Kitô.
Ngoài ra, cũng không có ai trực tiếp giảng dạy lời Chúa
và giáo huấn của Giáo Hội cho giáo dân nếu không có linh mục
thay mặt cho Giám mục để làm sứ vụ quan trọng này.
Người tín hữu, qua phép
rửa, cũng được chia sẻ Chức Linh Mục đời đời của Chúa Kitô
qua 3 sứ vụ quan trọng là ngôn sứ, tư tế và vương đế.
Đây là chức linh mục thường tác của người giáo dân nhờ
phép rửa (the common Priesthood of the Laity).
Nhưng chức linh mục thường tác này khác xa chức linh
mục thừa tác (Ministerial Priesthood) của hàng
tư tế (Giám mục, Linh mục) không những về cấp
bậc mà còn về yếu tính, mặc dù “cả hai đều
tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô theo cách thức
riêng của mình.” ( LG. 10).
Người giáo dân
tham gia chức ngôn sứ và vương đế bằng đời
sống nhân chứng của mình trước mặt người đời. Nghĩa là
qua đời sống chứng tá, giáo dân rao giảng Chúa Kitô là Chân
lý, là Công lý và là Vua tình thương cho người khác.
Trong sứ vụ tư tế,
người giáo dân dâng lên Thiên Chúa mọi vui buồn,
sướng khổ của mình hiệp với hy tế của Chúa Kitô mà Linh
mục dâng thay trên bàn thờ mỗi khi cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn.
Nhưng giáo dân không được phép rao giảng Tin Mừng trong
nhà thờ và cử hành các bí tích của Giáo Hội, trừ bí tích rửa
tội trong trường hợp nguy tử không tìm được linh mục
hay phó tế.
Như thế, giáo dân
rất cần phải có linh mục để lãnh nhận các bí tích, đặc
biệt là ba bí tích Thánh Thể, hoà giải và xức
dầu thánh. Không có bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, đời
sống thiêng liêng của giáo dân sẽ khô héo như cây cối, hoa
mầu không được tưới nước.
Như vậy cho thấy Linh
mục đóng một vài trò quan trọng thế nào trong đời sống tinh
thần của người tín hữu. Tuy nhiên, trong tương quan giữa
giáo dân và linh mục, cần tránh hai thái cực sau đây:
1.- Quá đề cao
hay thần thánh hoá linh mục
Coi linh mục như những
“vị thánh sống” giữa người trần thế. Đó là thái độ
cung kính đến khiếp sợ, thể hiện qua cách chào kính như: “con
xin phép lậy cha” của các giáo hữu thời xưa ở Miền Bắc
Việt-Nam mỗi khi gặp một linh mục dù già hay trẻ.
Đó là thời người giáo
dân không dám có ý kiến gì với cách giảng dạy và cư xử của
linh mục. Họ đã vô tình biến các linh mục thành “các vị
quan sang, quyền chức” thay vì là những mục tử nhân
lành với sứ mạng chăm sóc cho đoàn chiên thay mặt Chúa. Rất
may là thời gian đã thay đổi não trạng này.
2.- Coi thường
linh mục như những người không cần thiết
Ngược lại với thái cực
trên, là thái độ coi thường linh mục đến mức thiếu kính
trọng đúng mức vai trò và chức năng của linh mục trong Giáo
Hội. Cụ thể, có những người muốn tránh không chào hỏi
linh mục ngay sau khi tham dự thánh lễ ra về, hoặc gặp ở nơi
công cộng. Họ chỉ cần hay nhớ đến linh mục khi có con cháu
rửa tội, thêm sức, rước lễ lần đầu, kết hôn, nhất là khi gia
đình có người đau nặng hay qua đời mà thôi.
Ngoài ra, người ta cũng
xoi bói những lầm lỗi của một số
linh mục để từ đó tỏ ra xem
thường hàng linh mục nói chung. Nhưng đây chỉ là cung cách
hay thái độ của một thiểu số mà thôi.
Cả hai thái cực
trên đây đều không đúng mức
Trước hết, cần hiểu cho
đúng là Linh mục, dù cao trọng trong thiên chức và trách
nhiệm, vẫn là con người như mọi người khác. Nói khác đi,
nếu bí tích rửa tội không biến đổi người ta thành những “thiên
thần” sau khi được rửa tội, thì bí tích truyền chức
thánh cũng không thay đổi nhân tính của người được thánh
hiến như Giáo Hội đã dạy sau đây:
“Sự hiện diện của
Chúa Kitô trong các thừa tác viên (Minister) không có
nghĩa là họ được giữ gìn khỏi những yếu đuối của con người,
khỏi óc thống trị, khỏi sai lầm và cả tội lỗi nữa. Quyền
năng của Chúa Thánh Thần không bảo đảm tất cả các hành vi
của các thừa tác viên với cùng một hiệu quả như nhau. Sự bảo
đảm này, dù được dành cho các bí tích đến mức tội lỗi của
thừa tác viên không thể cản trở hiệu quả của bí tích, nhưng
trong nhiều hành vi khác của thừa tác viên vẫn có những vết
tích không luôn là những dấu chỉ trung thực của Phúc Âm và
do đó có thể phương hại đến những thành quả của công việc
tông đồ của Giáo Hội.” ( x, SGLGHCG, số 1550)
Như thế, có nghĩa là,
khi linh mục nhân danh Chúa Kitô để cử hành các bí tích,
thì các bí tích này thành sự viên mãn (perfectly valid),
cho dù linh mục là người tội lỗi với ít nhiều khuyết điểm
con người. Nhưng, những khuyết điểm này không phương hại gì
đến sự hữu hiệu của các bí tích mà linh mục cử hành nhân
danh Chúa Kitô.
Do đó, khi đến với
linh mục trong bí tích và sứ vụ thì chúng ta đến
với Chúa Kitô hiện diện trong tác vụ của thừa tác viên loài
người là linh mục chứ không đến với cá nhân của thừa tác
viên này. Vậy, cần phân biệt rõ điều này để đừng đánh giá sứ
vụ của linh mục qua phẩm chất con người của linh mục.
Tóm lại, phải kính
trọng đúng mức vai trò và chức năng (competence) của
linh mục phát xuất từ sứ vụ
(ministry) nhận lãnh từ chính Chúa Kitô qua thánh chức
linh mục. Kính trọng linh mục trong sứ vụ này là kính
trọng Chúa Kitô mà linh mục là thừa tác viên bất xứng nhưng
được gọi để phục vụ thay mặt cho Chúa. Sự bất toàn của linh
mục về mặt con người chỉ là lý do để tín hữu gia tăng việc
cầu nguyện và nâng đỡ để các ngài trở nên hoàn hảo, xứng
đáng hơn mà thôi.
Đó là lý do Giáo Hội
luôn mong đợi sự thông cảm, nâng đỡ, nhất là cầu nguyện cho
các thừa tác viên của Chúa (Phó tế, Linh mục và Giám mục)
cũng như cầu nguyện cho ơn thiên triệu để có thêm thừa tác
viên phục vụ cho dân Chúa ở khắp nơi trong Giáo Hội cho đến
ngày cuối cùng của thời gian.
LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn |
VỀ MỤC LỤC |
|
CẢ HAI CHỈ NGHE.
KHÔNG AI NÓI |
Một ông cụ
thường ngồi bất động hàng giờ cho đến cuối ở trong nhà thờ.
Ngày kia, một vị linh mục hỏi cụ rằng Chúa đã nói gì với cụ.
Cụ trả lời:
"Chúa không nói. Chúa chỉ nghe thôi."
"Tốt. Vậy
cụ đã nói những gì với Ngài?"
"Con cũng
không nói. Con chỉ nghe thôi."
Bốn
cấp bậc cầu nguyện:
Tôi
nói, Chúa nghe.
Chúa
nói, tôi nghe.
Không
ai nói, cả hai đều nghe.
Không
ai nói, không ai nghe: im lặng.
***
Tu sĩ Hồi
giáo Ba-gia-zít Bít-ta-mi (Bayazid Bistami) mô tả những tiến
bộ của ông trong nghệ thuật cầu nguyện như sau: "Lần
đầu tiên khi tôi tham viếng đá thánh Ka-a-ba (Kaaba)
ở Mét-ca (Mecca),
tôi chỉ thấy đá thánh Ka-a-ba. Lần thứ hai, tôi đã thấy Chúa
của đá thánh Ka-a-ba. Lần thứ ba, tôi chả thấy đá thánh
Ka-a-ba, mà cũng chả thấy Chúa của đá thánh Ka-a-ba."
VUA
ÁC-BA CẦU NGUYỆN
Hoàng đế Hồi giáo của Ấn Độ
là Ác-ba (Akbar), một ngày kia đi săn bắn trong
rừng. Khi đến giờ cầu nguyện ban chiều, vua xuống
ngựa, trải thảm trên đất và quì gối cầu nguyện, theo
cách thức những người Hồi giáo ngoan đạo ở khắp nơi.
Nhưng ngay lúc đó, một bà nhà quê, hoảng hốt vì sự
biệt tăm tích của ông chồng đã rời nhà ra đi lúc
sáng sớm hôm đó mà không trở về nên đã cắm đầu cắm
cổ chạy băng qua đó, lo lắng tìm chồng. Vì quá bận
tâm, bà đã không để ý nhà vua đang quì mọp xuống đất
và đã vấp phải vào ngài, rồi chỗi dậy mà chạy xa
trong rừng, không một lời tạ lỗi.
Vua
Ác-ba tức giận bởi sự gián đoạn này, nhưng vì là một
người Hồi giáo ngoan đạo, nhà vua đã tuân giữ luật
không được nói với bất cứ ai trong giờ cầu kinh.
Nhưng đúng vào lúc giờ cầu kinh vừa chấm dứt, người
đàn bà trở lại rất vui vẻ, có ông chồng mà bà đã tìm
được đi theo. Bà ta hốt hoảng và sợ hãi khi nhận ra
nhà vua và đoàn tùy tùng ở đó. Vua Ác-ba nổi giận
với bà và la lớn: "Hãy giải thích cho trẫm thái
độ bất kính của nhà ngươi, bằng không nhà ngươi sẽ
bị trừng phạt."
Người đàn bà đó phút chốc quên hết mọi sợ hãi, nhìn
thẳng vào đôi mắt vua và thưa: "Muôn tâu Hoàng
Thượng, kẻ hèn này đã bị chi phối bởi ý nghĩ về
người chồng của kẻ hèn nên đã không thấy Hoàng
Thượng ở đây, ngay cả khi kẻ hèn vấp ngã lên Hoàng
Thượng, như Hoàng Thượng đã phán. Còn Hoàng Thượng,
khi đang cầu nguyện, Hoàng Thượng đã bị thu hút bởi
một Đấng cao quí hơn chồng của kẻ hèn nầy muôn vạn
lần. Vậy làm sao Bệ Hạ để ý thấy được kẻ hèn?"
Nhà
vua rất đỗi xấu hổ, lặng thinh và về sau, đã thổ lộ
tâm tình với bạn bè là một bà nhà quê không phải là
một học giả, cũng không phải là một tu sĩ Hồi giáo
mà đã dạy vua ý nghĩa của sự cầu nguyện.
Trích từ tác
phẩm NHƯ LỜI CẦU KINH
Lm. ANTHONY
DE MELLO
Nhà văn Hương
Vĩnh chuyển ngữ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Nhiệt
Độ Cơ Thể và Sốt |
Giữa khuya, bà mẹ chợt
thức giấc vì tiếng khóc của cháu bé ở phòng bên. Bà vội vàng
sang coi xem chuyện gì xảy ra.
Ôm con vào lòng, bà thấy
người cháu nóng hổi và quần áo thấm ướt mồ hôi. Hoảng hốt,
bà vội vàng đánh thức ông chồng dậy bế cháu, và bà đi lấy lọ
thuốc giảm sốt còn lại sau khi cháu bị bệnh cách đây vài
tháng.
Ðây là một phản ứng hầu
như tự nhiên của nhiều bà mẹ cũng như ở nhiều người khác khi
thấy nhiệt độ cơ thể lên cao. Vì cho là mình có thể mắc một
bệnh nào đó, cho nên vội vàng uống vài viên thuốc giảm sốt
để chặn bệnh.
Các giới chức y khoa lại
không nghĩ vậy, vì theo họ, nhiệt độ cơ thể lên cao có thể
vô hại, đôi khi còn có lợi cho sức khỏe.
Theo bác sĩ Eugene
Dubois: "Sốt chỉ là một triệu
chứng, có thể là một người bạn chứ không chắc là kẻ thù"
Trong tác phẩm "Fever,
the Heat that Heals", tác giả H.S. Benjamin viết: "Sức khỏe
con người có thể tùy thuộc vào một “bếp lò” gắn trong cơ thể
để đốt cháy tất cả các vi sinh vật gây bệnh".
Theo tác giả, sốt làm
giảm sức mạnh của vi khuẩn nhờ đó kháng thể dễ dàng tiêu
diệt chúng. Và ông ta nhắn nhủ: “Lần sau nếu bị sốt, xin cứ
bình tĩnh nhớ rằng nhiệt độ cao trong cơ thể sẽ bảo vệ ta và
cứ thoải mái nẳm nghỉ trên giường đừng lo ngại, mọi sự sẽ
nhẹ nhàng trôi qua. Các tế bào bị vi khuẩn gây thương tích
sẽ được đẩy ra khỏi cơ thể và được thay thế bằng các tế bào
lành mạnh”.
Đây cũng chỉ là một ý
kiến trong nhiều ý kiến khác.
Xin cùng tìm hiểu về hiện
tượng “sốt” này.
Nhiệt độ cơ thể
Một trong những đặc tính
của động vật có vú là khả năng giữ nhiệt độ cơ thể ổn định,
mặc dù có thay đổi trong môi trường sinh sống.
Có nhiều nhận định khác
nhau về nhiệt độ trung bình của cơ thể. Với một số tác giả,
37°C (98.6°F) là bình thường, nhưng nghiên cứu mới đây cho
hay thân nhiệt trung bình là 98.0°F hoặc thấp hơn.
Mỗi người có nhiệt độ
trung bình khác nhau. Nhiệt độ ở trẻ em hơi cao hơn người
lớn, nam giới thấp hơn nữ giới một chút.
Thân nhiệt thay đổi tùy
theo thời gian trong ngày, thấp nhất vào sáng sớm khi đang
ngủ và cao nhất vào nửa buổi chiều.
Vì vậy, thân nhiệt trung
bình có thể du di giữa 36.°C- 37.4°C (97°- 99.4°F).
Thân nhiệt tăng khi ăn
uống tiêu hóa thực phẩm, vận động cơ thể, cơ bắp co căng, có
kinh nguyệt, có thai, khí hậu nóng ấm, mặc nhiều quần áo,
cảm xúc mạnh, run lạnh.
Nhiệt độ hơi giảm khi
thời tiết giá lạnh.
Sự tăng giảm này đều có
tính cách tạm thời, ngắn hạn.
Thân nhiệt được
Cấu-tạo-dưới-đồi (hypothalamus) trong não bộ điều hòa, duy
trì ở mức trung bình.
Hệ thần kinh luôn luôn
chuyển tới cấu tạo này tình trạng nóng lạnh ở các vùng khác
nhau của cơ thể. Cơ quan sẽ kích thích các phản ứng để tăng
hoặc giảm nhiệt độ cơ thể. Chẳng hạn tăng hoặc giảm máu ấm
từ trung tâm cơ thể ra ngoại vi mát lạnh; tăng hoặc giảm sự
chuyển hóa thực phẩm ra năng lượng; tăng bốc hơi qua đổ mồ
hôi…
Khi thân nhiệt xuống
thấp, bộ phận này sẽ ra lệnh cho cơ thể làm một động tác nào
đó, như co giựt, run run các bắp thịt để tạo ra nhiệt. Ngược
lại khi thân nhiệt cao, các tuyến mồ hôi được não kích thích
để ra nhiều mồ hôi và hạ nhiệt độ.
Đôi khi hypothalamus “tái
phối trí” (reset) thân nhiệt cao hơn để đáp ứng với bệnh
tật, nhiễm khuẩn hoặc các nguyên nhân khác. Theo các nhà
nghiên cứu, nâng cao thân nhiệt là một phương thức của cơ
thể để chống cự và hủy diệt tác nhân gây bệnh.
Cần lưu ý tới sự thay đổi
nhiệt độ bình thường ở người cao tuổi và trẻ thơ. Họ đều dễ
dàng thất thoát nhiệt độ khi tiếp xúc với khí hậu lạnh và
đưa tới thiểu nhiệt (hypothermia). Ở lớp tuổi này, nhiều khi
dù đã bị nhiễm trùng mà nhiệt độ chưa tăng, cho nên khi tìm
ra bệnh thì quá trễ.
Ðo thân nhiệt
Nhiều người thường lấy
bàn tay sờ lên trán coi có nóng sốt hay không. Đây cũng là
phương thức thực tế, nhưng không chính xác. Do đó, nên dùng
các loại nhiệt kế để đo nhiệt độ.
Mỗi phần của cơ thể có
nhiệt độ khác nhau.
Miệng là nơi thường được
dùng để đo nhiệt độ. Nhiệt độ miệng giảm khi ăn uống món ăn
lạnh hoặc khi bị kích xúc; tăng khi ăn thực phẩm nóng, miệng
nhai, hút thuốc lá hoặc có nhiều nước miếng.
Có nhiều loại nhiệt kế
khác nhau:
1- Nhiệt kế số (Digital thermometer) cho biết kết
quả rất chính xác và nhanh và có thể dùng để đo thân nhiệt ở
miệng, hậu môn, nách. Nhiệt kế có nhiều loại với kích thước,
hình dáng khác nhau và có thể mua ở tiệm thuốc tây hoặc siêu
thị.
Luôn luôn đọc kỹ hướng
dẫn trước khi dùng.
2- Nhiệt kế điện đo nhiệt độ ở tai (Electric ear
thermometer) nhanh, chính xác, dễ dùng và hiện nay rất phổ
biến. Tuy nhiên, Hội Nhi Hoa Kỳ khuyên không nên dùng đối
với các em dưới 3 tháng vì lỗ tai các em nhỏ và kết quả
không đúng lắm.
3- Nhiệt kế băng nhựa đặt trên trán, không chính
xác.
4- Nhiệt kế dưới hình thức núm vú (Pacifier
Thermometer), tiện lợi nhưng không chính xác.
5- Nhiệt kế thủy ngân (Glass mercury thermometer)
trước đây rất thông dụng, nhưng nay ít người dùng, nhất là ở
trẻ em, vì nhiều người e ngại nhiệt kế vỡ, thủy ngân vào
miệng. Thực ra thủy ngân trong nhiệt kế rất ít.
6- Nhiệt kế đo nhiệt độ tại động mạch trán
(temporal artery thermometer) được giới thiệu như chính xác
bằng lấy nhiệt độ ở hậu môn và chính xác hơn lấy nhiệt độ ở
tai.
Ngoài ra, còn có dụng cụ
đặc biệt đo nhiệt độ từng vùng của cơ thể qua các tia phóng
xạ phát ra từ da. Nơi nào có tăng sự chuyển hóa và máu lưu
thông thì nhiệt độ lên cao, như trong trường hợp ung thư
hoặc tế bào bị viêm sưng. Nơi ít máu lưu thông như tắc mạch
máu, nhiệt độ thấp. Phương pháp được áp dụng để tìm kiếm các
bệnh ung thư như ung thư vú, bệnh của mạch máu ngoại vi,
bệnh ngoài da...
Đo thân nhiệt dễ dàng,
kết quả chính xác, khách quan nên thường được dùng là một
trong bốn dấu hiệu quan trọng (vital signs) để ước định tình
trạng bệnh tật. Ðó là nhịp tim, hơi thở, huyết áp và nhiệt
độ cơ thể.
Sốt là gì?
Sốt là khi nhiệt độ trong
người cao hơn mức trung bình.
Nhiều nhà chuyên môn đề
nghị chính xác hơn: sốt là khi nhiệt độ lên cao vì một bệnh
nào đó chứ không phải vì các lý do thông thường như sự tiêu
hóa thực phẩm, khi có cảm xúc mạnh, khi vận động cơ thể, có
thai, có kinh nguyệt...
Cẩn thận hơn, có người
thêm là nếu nhiệt độ cơ thể lên quá 37.2°C kèm theo đổ mồ
hôi, hơi thở nhanh, mạch máu ngoài da giãn nở, đó là sốt.
Nhiệt độ bằng hoặc cao
hơn 38°C (100°F) khi đo ở hậu môn, hoặc cao hơn 37.5°C
(100.4°F) khi đo ở miệng là sốt.
Ở người bệnh, nhiệt độ
được đo ba lần trong ngày, được ghi lên một biểu đồ để giúp
theo dõi bệnh trạng. Một số bệnh có những cơn sốt đặc biệt,
cho nên biểu đồ nhiệt độ cũng giúp chẩn đoán bệnh. Chẳng
hạn:
- Sốt định kỳ (relapsing
fever) với vài ngày nhiệt độ lên cao rồi vài ngày bình
thường như trong bệnh sốt rét.
- Sốt lên xuống hai lần
trong ngày ở bệnh viêm khớp, thấp khớp.
- Sốt liên tục
(Continuous fever) trong ngày như viêm sưng phổi.
- Cơn sốt tăng giảm từng
lúc (remittent fever) như trong bệnh lao phổi với nhiệt độ
buổi sáng cao hơn buổi chiều.
- Sốt từng hồi hoặc gián
đoạn (intermittent fever)
Sốt diễn ra theo ba giai
đoạn:
a- Cơ thể phản ứng với tác nhân gây sốt bằng cách
tăng bạch cầu, nhiệt độ lên cao, da lạnh, cơ thể run rẩy,
mạch máu ngoại vi co hẹp, lông tóc dựng đứng, da xanh nhợt,
khô.
b- Trong giai đoạn 2, nhiệt độ giữ ở mức cao, cơ
thể hết run
c- Sau đó, nhiệt độ giảm, mạch máu ngoại vi giãn
mở, đổ mồ hôi, da lạnh và trở lại mầu sắc bình thường.
Sốt có thể ngắn hạn hoặc
dài hạn. Ngắn hạn thường là khoảng 2 tuần lễ, trong các
trường hợp nhiễm vi khuẩn. Dài hạn lâu hơn hai tuần lễ như
trong trường hợp ung thư hoặc sốt không rõ nguyên nhân
(FUO).
Theo các khoa học gia,
một cơn sốt nhẹ làm tăng interferon, một chất thiên nhiên
chống virus và ung thư; tăng khả năng diệt vi khuẩn của bạch
huyết cầu và lymphô bào. Nhiệt độ cao cũng gây cản trở cho
sự tăng sinh của vi khuẩn.
Quan sát ở súc vật,
người ta thấy khi một con thằn lằn bị vi khuẩn xâm nhập, nó
sẽ bò ra phơi mình ngoài nắng để tăng nhiệt độ cơ thể.
Nguyên nhân gây sốt
Sốt có thể gây ra do các
nguyên nhân từ ngoài hoặc từ trong cơ thể
1- Nguyên nhân từ ngoài cơ thể:
- Nhiễm các loại vi
khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng.
- Dưới tác dụng của vài
dược phẩm như kháng sinh nhóm Penicillin, sulfonamid, thuốc
chữa bệnh lao, thuốc an thần loại barbiturates, thuốc chống
kinh phong phenytoin, thuốc sổ táo bón, chất interferon, các
loại thuốc kích thích (Ectasy, angel dust...)
- Tiêm vài chất đạm lạ
đối với cơ thể như các loại globulin trị bệnh uốn ván
- Truyền máu.
- Thời tiết oi ả, nóng
bức, tiếp xúc lâu với ánh nắng mặt trời.
2- Nguyên nhân từ cơ thể:
- Do sự hủy hoại tế bào
sau thương tích, thiếu dinh dưỡng, viêm sưng mô bào, bệnh
của các mô liên kết như thấp khớp, lupus ban đỏ SLE, thống
phong, xuất huyết dạ dày, thiểu máu các cơ quan (nhồi máu cơ
tim, lá lách…)
- Phản ứng miễn dịch của
cơ thể khi vật lạ xâm nhập.
- Các trường hợp tế bào
mới tăng sinh bất thường như trong khối u ác tính hoặc lành
tính. Nhiệt độ có thể kéo dài cả tháng, đôi khi cả năm và là
vấn đề nguy hiểm cần để ý.
- Rối loạn chuyển hóa
cấp tính như trong cơn cường tuyến giáp, bệnh thống phong
- Tình trạng khô nước
trong cơ thể.
- Có nhiều trường hợp sốt
vì thay đổi trực tiếp của trung tâm điều hòa thân nhiệt chứ
không do tác nhân gây sốt từ ngoài hoặc trong cơ thể. Chẳng
hạn khi bị u bướu, xuất huyết hoặc khối huyết não.
- Xúc động mạnh cũng làm
thân nhiệt tạm thời lên cao. Có nhiều trường hợp, khi mới
nhập viện, nhiệt độ lên cao trong vài ngày rồi giảm, vì
người bệnh lo sợ bị bệnh nặng.
Một số loại sốt mang địa
danh quốc gia như sốt Dương Tử Giang với nhiễm Schistosoma
japonicum, sốt xuất huyết dịch Korea, sốt đảo Chypre do
nhiễm khuẩn Brucella melitensis, ban nhiệt Sao Paulo, sốt
định kỳ Mỹ USA recurrent fever….
Biến chứng của nóng sốt
Ngoài triệu chứng của
bệnh, sốt cũng gây ra nhiều khó khăn cho cơ thể:
- Thay đổi ở hệ tuần
hoàn, nhịp tim nhanh, huyết áp tăng khi nhiệt độ lên cao.
Tăng 1°C làm nhịp tim nhanh hơn từ 10 tới 15 lần, đôi khi
cũng có nhịp lạc vị (extrasystole).
Các thay đổi này có thể
gây ra do tác động của vi khuẩn, độc chất. Khi hết sốt,
huyết áp trở lại bình thường vì nhịp tim chậm lại và sức cản
tuần hoàn ngoại vi giảm.
- Vì đổ mồ hôi nhiều cho
nên thể tích máu giảm đưa tới khó khăn thêm cho các chức
năng của hệ tuần hoàn. Tuy nhiên, đổ mồ hôi là phản ứng tự
nhiên và có ích của cơ thể để hạ thân nhiệt.
- Thân nhiệt cao đưa đến
tăng tiêu thụ oxy của các tế bào.
- Sự tiêu hóa thực phẩm
bị rối loạn. Dịch vị bao tử ít tiết ra, hấp thụ thực phẩm
giảm, nhu động ruột chậm lại, bệnh nhân hay bị táo bón, ít
nước miếng, miêng lưỡi viêm đỏ khô, biếng ăn.
- Thay đổi thần kinh, tâm
trạng đặc biệt là ở người cao tuổi và trẻ em. Bệnh nhân mê
sảng, nói năng lung tung (delirium), kém suy luận.
Khi nhiệt độ lên tới 40ºC
(104°F), trong người cảm thấy khó chịu; tới 41ºC (106°F) thì
chức năng của não bắt đầu rối loạn, nếu lên tới 42º.2C
(108°F) thì não bị tổn thương. Trường hợp này ít khi xẩy ra
ngoại trừ khi bị trúng nắng heat stroke, viêm não, xuất
huyết não.
- Lên cơn kinh phong, co
giật cơ bắp, nhất là ở trẻ em
- Nhức đầu vì giãn nở
động mạch não
- Ớn lạnh (chill) đặc
biệt khi máu bị nhiễm trùng huyết (bacteremia)
- Trong một vài trường
hợp, sốt có thể kích thích các virus bệnh herpes simplex
đang ngủ yên, bừng tỉnh, tái hoạt động và gây bệnh.
- Giảm hồng cầu trong
máu.
- Người đang có bệnh kinh
niên, sốt làm bệnh trầm trọng hơn.
- Sốt vừa phải tăng tính
miễn dịch, tăng khả năng thực bào, sự di chuyển của các bạch
cầu đa nhân, tăng sản xuất kháng thể, giảm sự tăng trưởng
của vi khuẩn. Nhưng sốt quá cao và kéo dài quá lâu lại làm
suy nhược cơ chế miễn dịch.
Ðiều trị Sốt
Đa số các bác sĩ đều có
chung ý kiến là, để giảm sốt phải điều trị nguyên nhân gây
ra sốt, chẳng hạn như dùng kháng sinh với các bệnh do vi
khuẩn gây ra.
Với trẻ em, theo Hội Nhi
Khoa Hoa Kỳ, sốt dưới 38.9°C (102°F) không cần điều trị, trừ
khi các em cảm thấy khó chịu hoặc đã bị kinh phong trong quá
khứ.
Cần theo dõi tình trạng
bệnh. Nếu em bé vẫn tỉnh táo, tươi cười, da dẻ hồng hào, ăn
uống, chơi đùa, ngủ nghỉ như thường, thì không cần cho uống
thuốc giảm nhiệt. Ngược lại khi sốt cao và gây khó chịu cho
bé, có thể cho uống thuốc hạ nhiệt độ hoặc chườm lạnh.
a- Thuốc chống sốt
Thuốc giảm sốt đều rất
công hiệu nhưng cũng có nhiều tác dụng phụ và không nên dùng
cho mọi loại sốt mà phải căn cứ vào tùy trường hợp, đặc biệt
là ở trẻ em. Sốt có thể có vài ích lợi cho người bệnh. Theo
nhiều nhà chuyên môn y học, chữa sốt khi nào bệnh nhân cảm
thấy khó chịu và để tránh kinh phong, khô nước, rối loạn
tuần hoàn, hô hấp.
Aspirin và acetaminophen
là thuốc giảm sốt thường dùng nhất. Tuy nhiên, aspirin không
được dùng cho trẻ em dưới 18 tuổi hoặc khi bị nhiễm virus,
để tránh Hội chứng Reye. H.C.Reye là rối loạn trầm trọng, có
thể chết người, thường ảnh hưởng tới gan và tế bào não.
Ngoài ra cũng có thể dùng Ibuprofen.
Theo ý kiến chung của y
giới, acetaminophen vẫn là thuốc an toàn và ưa thích hơn cả
để trị nóng sốt.
Liều lượng phải căn cứ
vào sức nặng cơ thể chứ không theo tuổi. Nên hỏi bác sĩ hoặc
đọc kỹ hướng dẫn trên chai thuốc.
b- Chườm nước ấm.
Ðể em bé ngồi trong chậu
nước ấm cao độ 4 phân. Thấm nước ấm với một cái khăn, lau
nhẹ lên thân mình và chân tay. Nước sẽ làm nhiệt độ trong cơ
thể giảm xuống qua sự bốc hơi. Tiếp tục làm như vậy cho tới
khi nhiệt độ cơ thể giảm xuống (khoảng nửa giờ).
Đừng chườm nước lạnh hoặc
túi nước đá vì có thể làm bệnh nhân run và tăng nhiệt độ.
Không thoa dầu nóng hoặc cồn để tránh ngấm qua da, gây ngộ
độc.
c- Giữ nhiệt độ trong nhà mát dịu
d- Không nên mặc quá nhiều quần áo.
đ- Cho uống nhiều nước (nước lã hoặc nước trái
cây).
e- Ðể em bé chơi tự nhiên chứ đừng ép nằm trên
giường.
g- Ăn uống tùy theo sự chịu đựng của người bệnh,
nhưng không nhiều chất béo, khó tiêu hóa.
Thông báo cho bác sĩ nếu
em bé dưới 3 tháng sốt tới 38°C (100.4°F) hoặc em bé lớn hơn
với nhiệt độ trên 40°C (104°F), đồng thời không chịu ăn
uống, bị tiêu chẩy, ói mửa, cơ thể có dấu hiệu khô nước, kêu
đau nhức cuống họng, tai…
Với người lớn, đối phó
với sốt cũng tương tự như ở trẻ em. Ðiều quan hệ là quan sát
phản ứng của cơ thể đối với sốt.
Nếu trong người thấy rất
khó chịu, mệt mỏi thì uống vài viên thuốc chống sốt rồi nghỉ
ngơi, uống nhiều nước. Giới hạn nước uống có caffeine vì
chất này tăng nhiệt độ cơ thể và chặn tác dụng hạ nhiệt của
thuốc chống sốt.
Ở cả người lớn lẫn trẻ
em, nên tới bác sĩ để khám bệnh, chữa trị khi:
a- Sốt với nhức đầu, cứng cổ, mệt lả, mất định
hướng, lên cơn co giựt
b- Sốt trên 40ºC (104ºF) không thuyên giảm với
chăm sóc tại nhà
c- Sốt kéo dài quá ba ngày
d- Sốt vừa phải nhưng kéo dài cả hai ba tuần lễ.
Bác sĩ
Nguyễn Ý-Đức
Texas-Hoa Kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
|
QUÊN
VÀ NHỚ Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Sách Liệt Tử có ghi lại một câu chuyện
như sau :
Nước Tống có một người đã đứng tuổi, tự
nhiên mắc phải
chứng bệnh kỳ lạ, đó là bệnh quên.
Buổi sáng lấy gì của
ai, buổi chiều đã quên. Hôm nay ai cho cái gì, ngày mai lại
chẳng nhớ. Ra đường quên cả đi, về nhà quên cả ngồi. Trước
đã làm gì, bây giờ quên hết. Và hiện nay đang làm gì, sau
này cũng chẳng nhớ. Cả nhà rất lo lắng về bệnh tình của anh
ta, bèn tìm thầy chạy thuốc, chữa hết mọi cách mà cũng chẳng
khỏi.
Sau đó, có ông thầy đồ,
người nước Lỗ, nói rằng chữa được. Vợ của người bệnh hứa với
ông thầy đồ là nếu chữa lành bệnh cho chồng, thì sẽ chia cho
ông phân nửa gia sản.
Trước hết, ông thầy đồ
thử anh ta bằng cách lột áo ra để cho bị rét lạnh, thì anh
ta xin áo. Bỏ đói không cho ăn, thì anh ta xin ăn. Sai đem
vào chỗ tối, thì anh ta xin ra chỗ sáng. Thấy những phản ứng
như vậy của người bệnh, ông thầy đồ càng tin tưởng và nhận
lời chữa bệnh.
Chẳng ai biết ông thầy
đồ đã chữa như thế nào mà sau bảy ngày, anh ta trở lại bình
thường. Tuy nhiên, khi tỉnh táo bình thường, anh ta lại sinh
nóng giận, chửi vợ đánh con, cầm dao rượt ông thầy đồ đã
chữa cho mình.
Những người chung quanh
bắt giữ anh ta lại và hỏi lý do tại sao lại làm như thế, thì
được anh ta trả lời như sau :
- Lúc trước tôi mắc
bệnh quên, thì lòng tôi thảnh thơi khoan khoái, trời đất có
còn hay không, tôi chẳng cần biết. Nay hết bệnh, tôi nhớ tất
cả mọi sự, cả những chuyện của mấy mươi năm về trước :
chuyện vui và chuyện buồn, chuyện yêu và chuyện ghét, chuyện
thành công và chuyện thất bại, nên lòng tôi trở nên rối bời,
ngổn ngang trăm mối. Chuyện buồn, chuyện ghét và chuyện thất
bại thì lại nhớ lâu và nhớ sâu hơn. E rằng sau này những
chuyện ấy sẽ bám theo tôi mãi mãi, dù có muốn quên cũng
không quên được. Và nếu bị dày vò như vậy, thử hỏi tôi có
tức giận được hay không chứ ?
Nghe xong câu chuyện
trên, hẳn có người sẽ thầm nghĩ :
- Nếu trí nhớ mà như
vậy, thì thà rằng mắc bệnh quên còn hơn.
Tuy nhiên, nghĩ đi thì
cũng cần phải nghĩ lại, bởi vì người mắc bệnh quên cũng đau
khổ lắm chứ. Gã xin đưa ra một vài trường hợp điển hình.
Trường hợp thứ nhất, đó
là bên cạnh nhà gã có một bà cụ, hầu như suốt dọc cuộc đời,
bà cụ là một người rất khôn ngoan, ăn nói đâu ra đấy, đúng
bài bổn hẳn hoi, khiến mọi người đều phải tâm phục khẩu phục
bà cụ sát đất. Bà cụ không những quán xuyến việc nhà một
cách tuyệt vời, mà còn tham gia những công tác xã hội, thậm
chí lại còn giúp đỡ ông chồng trong những chức vụ mà bàn dân
thiên hạ đã tín nhiệm trao cho ông ta, theo kiểu :
- Gái ngoan làm quan thay chồng !
Thế nhưng, vào những tháng năm cuối
cùng, bà cụ bỗng dưng quên hết, quên sạch sành sanh, không
còn nhớ gì cả, ngay đến con cháu trong nhà bà cụ cũng quên
mất tiêu. Có thể nói được rằng “ổ dĩa cứng” trong đầu óc bà
cụ đã bị xóa tất tật, hoàn toàn trắng, chẳng còn lưu giữ
được bất kỳ một kỷ niệm nào của dĩ vãng và hiện tại.
Bà cụ trở nên như một đứa con nít, ai
cho gì thì ăn nấy. Có lúc còn vầy vò cục phân của mình như
đứa nhỏ nhào nặn cục đất sét. Tới nhà thờ, bà cụ chen lấn,
tiến lên phía trước và thượng cẳng chân hạ cẳng tay với
những người chung quanh. Đi tới đâu, hễ thấy guốc dép là bà
cụ lẳng lặng xách về nhà. Tội nghiệp cho mấy đứa cháu phải
mang đi trả lại cho khổ chủ.
Trường hợp thứ hai, đó là là một anh
bạn của gã. Sau thời gian học tập cải tạo, anh ta được trả
tự do, nhưng cũng từ đó anh ta mắc phải chứng bệnh quên. Mấy
lần anh ta suýt chết vì tai nạn giao thông, bởi lẽ đang đi
ngoài đường, bỗng dưng anh ta quên tiệt, chẳng biết mình
đang làm gì, thành thử chiếc xe của anh ta cứ vô tư lao vào
lề đường, ủi vô gốc cây, hay hôn vào đít xe khác.
Lần nào đến thăm, anh ta cũng hỏi địa
chỉ. Gã thấy anh ta ghi vào sổ hẳn hoi. Thế nhưng, chỉ năm
phút sau trong câu chuyện, anh ta cũng lại hỏi địa chỉ và
cũng lại ghi vào sổ hẳn hoi. Và lần đến thăm nào cũng vậy.
Trường hợp thứ ba, đó là là một anh bạn
khác, tên Khánh, người gốc Qui Nhơn. Anh bạn này nổi bật về
tính hay quên, nên được thiên hạ ưu ái dành cho cái biệt
hiệu rất dễ thương là Khánh Siêu.
Có những lần đi tắm, nhưng anh chàng
lại hay quên, nên không mang theo quần áo thay, thành thử
khi tắm xong, cứ đứng trong phòng mà la oai oái.
Thiên hạ thì mặc quần đùi trước, rồi
mới mặc quần dài sau. Thế nhưng anh chàng lại hay quên, nên
mặc quần dài trước, rồi sau mới xỏ quần đùi, thảo nào kéo
mãi mà nó chẳng chịu lên.
Sống trong lưu xá, thì giờ nào việc
nấy, nhưng anh chàng lại hay quên, nên thường lộn giờ. Trong
khi thiên hạ vô lớp học, thì anh chàng lại ung dung xuống
nhà cơm. Trong khi thiên hạ xuống nhà cơm, thì anh chàng lại
thong thả đến nhà nguyện…Về những chuyện quên của anh chàng,
thì nói tới nói lui cũng chẳng bao giờ hết. Đã bảo : Siêu mà
!
Sau cùng, trường hợp thứ tư là chính
bản thân gã. Với tí tuổi đời đeo nặng trên vai, gã cảm thấy
trí nhớ mỗi ngày một cùn. Ngày xưa còn bé thì học đâu nhớ
đấy. Còn bây giờ thì học đâu quên đấy.
Thậm chí có những chữ vừa mới bật tự
điển xong, thế mà chỉ một lúc sau bỗng dưng quên béng đi
mất. Có những người rất thân quen, thế mà bỗng dưng quên mất
tên. Lắm lúc phải mất vài ngày cái tên ấy mới “tái xuất
giang hồ” trong bộ nhớ của gã.
Tuy nhiên, gã cũng rất lấy làm an ủi,
bởi vì có một ông triết gia nào đó đã định nghĩa một cách
tối om như sau :
- Trí nhớ ấy hả ? Đó là một khả năng
hay quên.
Mà đúng như vậy. Nếu chúng ta nhớ hết
mọi chuyện, từ chuyện to cho chí chuyện nhỏ, từ chuyện xảy
ra hồi còn bé cho chí chuyện xảy ra bây giờ trong ngày hôm
nay, thì đầu óc chúng ta sẽ nổ tung vì không đủ chỗ chứa,
hay bản thân chúng ta sẽ hóa điên mất thôi vì tình trạng…quá
tải.
Trong những cuộc tiếp xúc, gã ghi nhận
được hai trạng thái quên : quên cố tình và quên vô tình.
Trước hết là quên cố tình, khi chúng ta
lạm dụng cái quên để thủ lợi cho mình. Chẳng hạn đi siêu
thị, chúng ta quên không trả tiền, hay chúng ta không nhớ gì
lúc “cầm nhầm” hàng hóa cũng như vật dụng của người khác.
Tiếp đến là quên vô tình, khi chúng ta
quên một cách vô tư mà không hề so đo tính toán. Chẳng hạn
một anh bạn nhậu ngoắc cần câu, khi tỉnh lại, hỏi gì anh ta
cũng chẳng nhớ :
- Tối hôm qua anh đã hứa với tụi này
một chầu bia.
Anh ta trả lời :
- Thế à.
Nếu nói tiếp :
- Tối hôm qua, anh đã
bảo rằng nhà anh đã khóc với anh.
Anh ta cũng trả lời :
- Thế à.
Và nếu còn tiếp tục hỏi
:
- Tối hôm qua, không
hiểu tại sao anh đã gục mặt xuống bàn mà chết tại trận, lại
suýt nữa còn cho chó ăn chè ?
Anh ta cũng chỉ trả lời
:
- Thế à.
Nếu suy nghĩ sâu hơn
một tí, gã nhận ra rằng giữa quên và nhớ, chúng ta thường
sống theo một nghịch lý như sau :
- Đó là có những điều
cần phải nhớ, thì chúng ta lại quên. Trong khi ấy, có những
điều cần phải quên, thì chúng ta lại nhớ.
Chẳng hạn chúng ta cần
phải nhớ công ơn của cha mẹ, công ơn của thầy cô, cũng như
công ơn của biết bao nhiêu vị ân nhân đã âm thầm góp phần
xây dựng cuộc đời, thì chúng ta lại quên.
Trong khi đó, những hận
thù, những oán ghét, những lỗi phạm của kẻ khác cần phải
được quên đi, thì chúng ta lại nhớ mãi, nhớ hoài.
Nghịch lý này cũng
giống như nghịch lý mà một cô gái đôi khi đã gặp phải trong
khi tập thể dục thẩm mỹ, để có được một thân hình xinh đẹp
:
- Đó là có những chỗ
cần phải tóp vào, thì nó lại phình ra. Trong khi ấy có những
chỗ cần phải phình ra, thì nó lại tóp vào.
Thành thử thay vì ngực
nở bụng thon, thì cô gái kém may mắn này lại hóa ra…ngực
thon bụng nở.
Sở dĩ chúng ta luôn
sống theo cái nghịch lý giữa “quên và nhớ” như trên là vì
trong cuộc sống chúng ta thường nhìn thấy những cái xấu, mà
ít khi nhìn thấy những cái đẹp của người khác.
Gã xin đưa ra một thí
dụ, chẳng hạn như Giáo hội Công giáo. Trải qua dòng lịch sử,
Giáo hội đã làm được biết bao nhiêu điều tốt đẹp cho nhân
loại, từ văn hóa và nghệ thuật đến luân lý và đạo đức. Những
điều tốt đẹp này ít khi được nhắc đến.
Thế nhưng, lỡ có một
sai phạm hay một “xì căng đan” nào đó, thì lập tức người ta
thổi phồng, người ta la lối, người ta phản đối om xòm…Người
ta chỉ nhìn thấy cái rơm cái rác trong mắt người khác, mà
quên đi cái xà trong mắt mình.
Hay như một câu danh
ngôn đã bảo :
- Một cây ngã đổ sẽ gây
ồn ào hơn cả một cánh rừng đang mọc.
Cũng vậy, một tác giả
đã viết như sau :
- Thông thường người ta
hay chú ý tới vết đen trên trang giấy trắng hơn là nhìn tờ
giấy trắng còn một vết đen. Hai cách nhìn, một chiều tiêu
cực và một chiều tích cực. Cách nhìn của tiêu cực hướng
người ta về vết đen, để rồi không nhìn thấy trang giấy
trắng. Cách nhìn tích cực hướng người ta đến trang giấy
trắng còn lại một vết đen. Cách nhìn tiêu cực là cách nhìn
tẩy chay và phê phán. Còn cách nhìn tích cực là cách nhìn
khích lệ và xây dựng.
Có một câu chuyện kể
lại rằng :
Vừa đặt chân tới một
miền đất mới, các vị sư phải tự tay kiến thiết mọi thứ. Một
chú tiểu được trao nhiệm vụ xây một bức tường. Chú tập trung
vào công việc, luôn kiểm tra xem những viên gạch đã nằm đúng
chỗ hay chưa và hàng gạch có ngay ngắn hay không ?
Công việc tiến triển
khá chậm vì chú là một người kỹ lưỡng. Tuy nhiên, chú không
lấy đó làm buồn, bởi vì chú biết rằng mình đang xây một bức
tường tuyệt đẹp lần đầu tiên trong đời.
Cuối cùng, chú cũng làm
xong công việc vào lúc hoàng hôn buông xuống.
Khi đứng lùi ra xa để
nhìn ngắm công trình lao động của mình, chú bỗng cảm thấy
một cái gì đó bất ổn đập vào mắt : mặc dù chú đã rất cẩn
thận khi xây bức tường, nhưng vẫn có hai viên gạch bị
nghiêng. Và điều tồi tệ nhất, đó là hai viên gạch ấy lại nằm
ngay chính giữa bức tường. Chúng như đôi mắt đang trừng
trừng nhìn chú.
Kể từ đó, mỗi khi du
khách đến thăm ngôi chùa, chú đều dẫn họ đi khắp nơi, trừ
nơi có bức tường.
Ngày kia, hai vị sư già
đến tham quan ngôi chùa. Chú đã cố lái họ sang hướng khác,
nhưng hai vị sư già vẫn nằng nặc đòi tới xem khu vực có bức
tường mà chú đã xây.
Một trong hai vị sư
già, khi đứng trước công trình ấy, đã phải thốt lên :
- Ôi bức tường gạch mới
đẹp làm sao !
Chú hỏi lại với tất cả
sự ngạc nhiên :
- Ngài nói thật chứ ?
Ngài không thấy hai viên gạch xấu xí ở ngay giữa bức tường
đó sao ?
Một vị sư già từ tốn
trả lời :
- Có chứ, nhưng tôi
cũng thấy 998 viên gạch còn lại đã ghép thành một bức tường
tuyệt vời ra sao.
Nhiều lúc chúng ta đã
quá nhạy cảm đối với lầm lỗi của người khác. Khi bắt gặp ai
phạm lỗi, chúng ta nhớ kỹ từng chi tiết. Và hễ có ai nhắc
đến tên người đó, chúng ta lại nhớ ngay tới lầm lỗi của họ,
mà quên bẵng đi mất những điều tốt đẹp họ đã làm.
Người ta thường bảo :
- Dù là một tên tướng
cướp, thì trong lồng ngực của hắn cũng có được một mảnh tim
vàng.
Thế nhưng, chúng ta chỉ
nhìn thấy cái tội cướp của giết người của hắn, mà chẳng bao
giờ chịu khám phá ra mảnh tim vàng đang ẩn dấu trong lồng
ngực của hắn.
Chúng ta giống như
người đeo hai giỏ. Cái giỏ phía trước đựng những sai lỗi của
người khác, còn cái giỏ phía sau lưng đựng những sai lỗi của
bản thân.
Vì thế, chúng ta thường
nhìn thấy rất rõ và nhớ rất kỹ những sai lỗi của người khác,
để rồi lên tiếng phê bình và chỉ trích một cách gắt gao.
Còn những sai lỗi của
bản thân, chúng ta lại cố tình không nhìn thấy và nếu có
nhìn thấy, chúng ta cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để
bào chữa, để bênh vực. Hay nói cách khác, chúng ta cố tình
lờ tít và quên đi những lầm lỗi của bản thân.
Chúng ta thường cư xử
khoan dung với bản thân mà nghiêm khắc với người khác, đáng
lý ra chúng ta phải cư xử khoan dung với người khác mà
nghiêm khắc với chính bản thân mình.
Bây giờ gã xin áp dụng
hai phạm trù “quên và nhớ” vào đời sống gia đình, cũng như
xã hội.
Trước hết, đó là trong
đời sống gia đình.
Những người nhiều kinh
nghiệm đã đưa ra một lời khuyên như sau :
- Trước hôn nhân, hãy
biết mở to đôi mắt. Còn sau hôn nhân, hãy biết nhắm đôi mắt
lại.
Gã thắc mắc và tự hỏi :
- Tại sao lại như thế ?
Trước hôn nhân, đó là
thời gian tìm hiểu, chúng ta cần phải mở to đôi mắt, để ghi
nhớ những khó khăn, khám phá những khuyết điểm, rồi suy
nghĩ, đánh giá và quyết định.
Còn sau hôn nhân, đó là
thời gian chung sống, chúng ta cần phải nhắm đôi mắt lại, để
nhường nhịn và chịu đựng, để quên đi và tha thứ những lầm
lỗi của nhau, nhờ đó tạo được một bầu khí hòa thuận và cảm
thông, bởi vì :
- Một sự nhịn là chín
sự lành.
Thế nhưng, chúng ta
thường hành động trái với lời khuyên quí giá trên, thành
thử nhiều cuộc hôn nhân đã thất bại, đã đổ vỡ ê chề.
Thực vậy, trước hôn
nhân, vì những lời nói yêu thương đường mật, vì những đam mê
tình nóng bỏng thúc đẩy, chúng ta đã nhắm đôi mắt lại, thay
vì phải mở to đôi mắt ra. Chúng ta không còn ghi nhớ được
những khó khăn, không còn khám phá ra những khuyết điểm và
không còn đánh giá đúng mức hoàn cảnh chúng ta đang sống.
Và nếu có mở to đôi
mắt, chúng ta cũng chỉ nhìn thấy tình yêu và cuộc sống là
một màu hồng rực rỡ, để rồi chúng ta hăm hở bước vào hôn
nhân :
- Yêu nhau tam tứ núi
cũng trèo,
Thất bát sông cũng
lội,
Tứ cửu tam thập lục
đèo cũng qua.
Hay như một bài hát của
Trịnh Công sơn :
- Tình yêu như trái phá
con tim mù lòa.
Đúng như Thánh Vịnh
cũng nói :
- Họ có mắt mà không
nhìn, có nhìn thì cũng chẳng thấy.
Còn sau hôn nhân, vì va
chạm với thực tế phũ phàng, chúng ta cảm thấy đời không như
là mơ. Lúc bấy giờ, thay vì phải nhắm đôi mắt lại, chúng ta
lại mở to đôi mắt ra để lúc nào cũng ghi nhận và nhớ kỹ
những bất đồng và sai lỗi, những bực bội và tức tối. Tình
yêu đang ngả dần sang một màu xám ảm đạm và bắt đầu tàn lụi.
Để cứu vãn cái tình yêu
đang bắt đầu tàn lụi ấy, thiết tưởng chúng ta cần phải nhắm
đôi mắt lại, có nghĩa là chúng ta cần phải biết tha thứ
những lầm lỗi của người khác, cũng như phải biết quên đi
những bực bội và tức tối, để cùng nhau xây dựng một cuộc đời
chung, một mái ấm gia đình chung.
Tiếp đến, đó là trong
cuộc sống xã hội.
Thiết tưởng chúng ta
cũng cần phải biết “nhắm và mở”, cũng cần phải biết “quên
và nhớ”.
Thực vậy, chúng ta cần
phải biết nhắm đôi mắt lại trước những oán thù và những sai
lỗi của người khác, có nghĩa là chúng ta cần phải biết quên
đi những oán thù và những sai lỗi ấy.
Có hai người thổ dân
Nam Phi rất ghét nhau. Ngày kia, một trong hai người gặp đứa
con gái nhỏ của kẻ thù mình trong rừng. Tên ấy nổi sùng bắt
cô bé, lấy dao chặt đứt hai ngón tay rồi thả ra. Cô bé vừa
chạy về vừa khóc lóc. Bàn tay máu chảy ròng ròng. Còn tên
hung thủ vừa đi vừa la lớn :
- Ta đã trả thù được
rồi.
Mười mấy năm sau, ngày
kia có một tên ăn mày tới xin bố thí. Người đàn bà nhận ra
đó chính là kẻ đã chặt hai ngón tay của mình, vội vàng trở
vào nhà, bảo đầy tớ mang sữa bánh ra cho hắn ăn. Khi hắn đã
ăn no rồi, người đàn bà liền dơ bàn tay cụt ra cho hắn coi
và nói :
- Tôi cũng đã trả thù
được rồi.
Tên ăn mày xúc động và
bật khóc. Như vậy, người đàn bà đã biết quên đi nỗi oán thù
ngày xưa.
Đồng thời, chúng ta còn
cần phải biết mở to đôi mắt, có nghĩa là chúng ta phải biết
khám phá và ghi nhớ những điều tốt, những điều hay nơi người
khác, nhờ đó mà xích lại gần nhau hơn.
Bảo Thúc chết, Quản
Trọng thương tiếc khóc như mưa, ướt đẫm cả vạt áo.
Có người hỏi :
- Ông với Bảo Thúc
không phải là họ hàng thân thích gì, mà sao ông thương khóc
quá như vậy ?
Quản Trọng nói :
- Ngươi không rõ, để ta
nói cho mà nghe. Ta lúc nhỏ khốn khổ, thường buôn chung với
Bảo Thúc, lúc chia lãi, bao giờ ta cũng lấy phần hơn, mà Bảo
Thúc không cho ta là tham, biết ta gặp cảnh quẫn bách bất
đắc dĩ phải lấy thế. Ta ở chỗ chợ búa thường bị lắm kẻ nạt
dọa, Bảo Thúc không cho ta là nhát, biết ta có lượng bao
dung. Ta bàn việc với Bảo Thúc, nhiều khi việc hỏng, Bảo
Thúc không cho ta là ngu, biết có lúc may, lúc không may cho
nên công việc có lúc thành, lúc bại. Ta ba lần ra làm quan,
ba lần bị bãi, Bảo Thúc không cho ta là chẳng ra gì, biết ta
chưa gặp thời, chưa tìm được vua giỏi. Ta ba lần đánh nhau
thua cả ba, Bảo Thúc không cho ta là bất tài, biết ta còn mẹ
già phải phụng dưỡng…Sinh ta ra là cha mẹ, biết được lòng ta
là Bảo Thúc. Mà đối với người biết mình, thì mình đem cả
tính mệnh ra hiếu còn chưa cho là quá, huống chi thương khóc
thế này đã thấm vào đâu.
Tuy nhiên, khám phá ra
điều hay, điều tốt nơi người khác rồi ghi nhớ cũng không
phải là điều dễ. Phải yêu thương họ, thì chúng ta mới có
thể làm được việc ấy, bởi vì khi yêu thương ai, thì:
- Củ ấu cũng tròn và
trái bồ hòn cũng ngọt.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|