Tổ Chức Phẩm Trật Giáo Hội Và Ðặc Biệt Về Chức Giám Mục
|
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen
Gentium
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Chương III
Tổ Chức Phẩm Trật Giáo Hội
Và Ðặc Biệt Về Chức Giám Mục
24. Thừa tác vụ Giám Mục.
32* Chúa Giêsu, Ðấng được ban mọi quyền năng trên
trời dưới đất, đã trao cho các Giám Mục, vì là những người
kế vị các Tông Ðồ, sứ mệnh dạy dỗ muôn dân và rao giảng Phúc
Âm cho mọi tạo vật, hầu mọi người được rỗi nhờ lãnh nhận đức
tin, phép Thánh Tẩy, và việc chu toàn giới răn Chúa (x. Mt
28,18-20; Mc 16,15-16; CvTđ 26,17t). Ðể hoàn thành sứ mệnh
đó, Chúa Kitô đã hứa ban Thánh Thần từ trời xuống, để nhờ
sức mạnh của Thánh Thần, các ngài làm chứng cho Chúa Kitô
đến tận cùng trái đất, trước mọi dân nước và vua chúa (CvTđ
1,8; 2,1tt.; 9,15). Nhiệm vụ Chúa đã trao phó cho các chủ
chăn của dân Người thực là một việc phục vụ, mà Thánh Kinh
gọi rõ ràng là "diakonia" nghĩa là thừa tác vụ (x. CvTđ 1,17
và 25; 21,19; Rm 11,13; 1Tm 1,12).
Chức vụ bổ
nhiệm theo giáo luật được trao cho các Giám Mục hoặc theo
tập tục hợp pháp chưa bị quyền tối thượng và phổ quát của
Giáo Hội đoạn tiêu, hoặc theo các luật lệ được Giáo Hội ban
hành hay thừa nhận, hoặc trực tiếp do chính đấng kế vị
Phêrô; nếu Ðức Giáo Hoàng phản đối hoặc từ chối không cho
hiệp thông với Tòa Thánh, thì các Giám Mục không thể được
lãnh nhận chức vụ
38.
33*
25. Nhiệm vụ giáo huấn.
Việc rao giảng Phúc Âm
39 là một nhiệm vụ trổi vượt trong các nhiệm vụ
chính yếu của Giám Mục, Giám Mục là những người rao truyền
đức tin, đem nhiều môn đệ mới về với Chúa Kitô, Giám Mục là
những tiến sĩ đích thực, nghĩa là có uy quyền của Chúa Kitô,
giảng dạy cho những kẻ được trao phó cho các Ngài, một đức
tin phải được xác tín và phải được áp dụng vào các phong
tục, và làm sáng tỏ đức tin đó bởi ánh sáng của Chúa Thánh
Thần. Các Ngài rút ra những cái mới cái cũ trong kho tàng
Mạc Khải (x. Mt 13,52) để làm cho đức tin trổ sinh hoa trái,
và luôn tỉnh thức loại bỏ mọi lầm lạc đang đe dọa đàn chiên
mình (x. 2Tm 4,1-4). Mọi người phải kính trọng các Giám Mục
như những chứng nhân của chân lý thần linh và công giáo khi
các ngài thông hiệp với Giáo Hoàng Roma mà dạy dỗ, các tín
hữu phải chấp nhận phán quyết của Giám Mục mình, khi nhân
danh Chúa Kitô, công bố những gì về đức tin và phong hóa,
cũng như phải tuân theo ngài với một lòng kính cẩn tuân
phục. Mọi người phải lấy ý chí và lý trí mà kính cẩn tuân
phục một cách đặc biệt những giáo huấn chính thức của Giáo
Hoàng Roma, dù khi ngài không tuyên bố từ thượng tòa. Như
vậy là kính trọng, nhận biết giáo huấn tối thượng và chân
thành chấp nhận các phán quyết của ngài theo đúng tư tưởng
và ý muốn ngài trình bày, đặc biệt biểu lộ qua tính chất các
tài liệu, hoặc qua việc ngài lập lại nhiều lần đề nghị một
giáo thuyết, hay qua cách diễn tả của ngài.
Tuy mỗi
Giám Mục riêng rẽ không có đặc quyền bất khả ngộ, nhưng dù
tản mác khắp thế giới, nếu thông hiệp với nhau và với đấng
kế vị Thánh Phêrô, các ngài cùng đồng ý dạy cách chính thức
những điều thuộc đức tin và phong hóa là tuyệt đối buộc phải
giữ, thì lúc đó các ngài công bố cách bất khả ngộ giáo
thuyết của Chúa Kitô
40. Ðiều đó còn rõ ràng hơn, khi hợp nhau trong
Công Ðồng Chung, các ngài là những tiến sĩ và thẩm phán về
đức tin và phong hóa cho toàn thể Giáo Hội. Phải tuân theo
các định tín của các ngài
41 với một lòng vâng phục và với tinh thần đức
tin.
Chúa Cứu
Thế đã muốn Giáo Hội Người bất khả ngộ khi xác định giáo
thuyết về đức tin và phong hóa; ơn bất khả ngộ đó có phạm vi
rộng rãi tùy theo kho tàng Mạc Khải mà Giáo Hội phải bảo
toàn cách cẩn trọng và phải trình bày cách trung thực. Giám
Mục Roma, vị thủ lãnh của Giám Mục Ðoàn hưởng ơn bất khả ngộ
đó do nhiệm vụ của Ngài khi với tư cách là mục tử và tiến sĩ
tối cao của mọi Kitô hữu, ngài củng cố anh em mình vững mạnh
trong đức tin (x. Lc 22,32), công bố giáo thuyết về đức tin
và phong hóa bằng một phán quyết chung thẩm
42. Vì thế, các phán quyết của ngài tự nó, chứ
không do sự đồng ý của Giáo Hội, phải được coi là không thể
sửa đổi, vì đó là những phán quyết được công bố dưới sự bảo
trợ của Chúa Thánh Thần, mà Chúa đã hứa ban cho ngài qua
Thánh Phêrô nên không cần ai khác chấp thuận và không nại
tới phán đoán nào khác. Khi đó Giáo Hoàng Roma không phán
quyết với tư cách cá nhân, nhưng trình bày và bảo vệ giáo
thuyết đức tin công giáo với tư cách là thầy dạy tối cao của
toàn thể Giáo Hội; nơi ngài đặc biệt có ơn bất khả ngộ của
chính Giáo Hội
43. Ơn bất khả ngộ của chính Giáo Hội cũng hiện
hữu nơi Giám Mục Ðoàn khi các ngài xử dụng quyền giáo huấn
tối thượng cùng với đấng kế vị Thánh Phêrô. Do tác động của
cùng một Chúa Thánh Thần, Giáo Hội không thể không chấp nhận
những phán quyết đó, và Chúa Thánh Thần bảo vệ và phát triển
toàn thể đàn chiên Chúa Kitô trong sự hợp nhất đức tin
44.
Khi Giáo
Hoàng Roma, hoặc Giám Mục Ðoàn cùng với ngài, phán quyết một
điều gì, thì các ngài tuyên bố điều ấy theo chính Mạc Khải
mà các vị ấy phải trung thành tuân giữ. Mạc Khải trong Kinh
Thánh hay trong Thánh Truyền đều được truyền lại trọn vẹn
nhờ sự kế vị hợp pháp các Giám Mục và nhất là nhờ sự quan
tâm của chính Giáo Hoàng Roma. Nhờ Thánh Thần Chân Lý, Mạc
Khải ấy được gìn giữ cách cẩn trọng và trình bày cách trung
thực
45. "Ðể có thể khảo sát đứng đắn và trình bày cách
thích hợp Mạc Khải này, Ðức Giáo Hoàng và các Giám Mục làm
việc cẩn thận bằng phương tiện thích hợp, tùy theo nhiệm vụ
và tầm quan trọng của sự việc"
46; nhưng các ngài không nhận được một Mạc Khải
công khai mới nào thêm vào kho tàng thần khải của đức tin
47.
34*
26. Nhiệm vụ thánh hóa.
Giám Mục, bởi nhận lãnh bí tích Truyền Chức Thánh cách viên
mãn, là "người quản lý ơn sủng của chức linh mục tối cao"
48, nhất là trong hy lễ tạ ơn do chính ngài dâng
hoặc lo liệu cho có lễ dâng
49, nhờ đó Giáo Hội luôn sống động và tăng triển.
Giáo Hội Chúa Kitô thực sự hiện diện trong mọi đoàn thể tín
hữu địa phương hợp pháp. Những đoàn thể này, vì hợp nhất với
các chủ chăn, nên trong Tân Ước cũng được gọi là Giáo Hội
50. Thực vậy, trong phần đất mình, mỗi đoàn thể là
Dân Tộc Mới được Thiên Chúa kêu gọi trong Thánh Thần và
trong sự viên mãn đầy tràn (x. 1Th 1,5). Nơi các đoàn thể
đó, tín hữu được tụ hợp lại nhờ sự rao giảng Phúc Âm Chúa
Kitô, và mầu nhiệm Tiệc Ly của Chúa được cử hành "để nhờ
Thịt và Máu Chúa, tất cả kết thành huynh đệ và thành một
thân thể"
51. Mỗi lần Giám Mục cử hành nhiệm vụ
52 với cộng đoàn tụ hợp quanh bàn thờ, đó là biểu
hiệu đức ái và "sự hiệp nhất của nhiệm thể, và nếu thiếu sự
hiệp nhất đó, không thể có ơn cứu rỗi"
53. Chúa Kitô vẫn hiện diện trong các cộng đoàn
ấy, dù nhỏ bé nghèo hèn hay tản mác khắp nơi. Và nhờ thần
lực Người, Giáo Hội hiệp thành duy nhất, thánh thiện, công
giáo và tông truyền
54. Bởi vì "việc tham dự vào Mình và Máu Chúa Kitô
không có công hiệu nào khác hơn là biến đổi chúng ta thành
Ðấng mà chúng ta lãnh nhận"
55.
Mọi việc cử
hành hợp pháp hy lễ tạ ơn đều do Giám Mục điều khiển; ngài
là người lãnh nhận nhiệm vụ dâng lên nhan uy linh Chúa sự
thờ phượng của Kitô giáo và có phận sự điều hành việc thờ
phượng đó theo đúng giới răn Chúa và lề luật Giáo Hội. Ngài
dùng phán quyết riêng để xác định những lề luật đó cho giáo
phận mình.
Như thế,
khi cầu nguyện và làm việc cho dân chúng, các Giám Mục đổ
đầy tràn trên họ, dưới nhiều hình thức, những ơn lành do sự
thánh thiện sung mãn của Chúa Kitô. Bằng thừa tác vụ lời
Chúa, các ngài thông truyền cho tín hữu sức mạnh của Thiên
Chúa hầu cứu rỗi họ (x. Rm 1,16). Các ngài thánh hóa giáo
hữu bằng các bí tích mà với quyền giám mục, các ngài lo ban
phát cách đều đặn và phong phú
56. Các ngài xác định việc cử hành bí tích Thánh
Tẩy là bí tích ban quyền tham dự vào chức linh mục vương giả
của Chúa Kitô. Chính các ngài là thừa tác viên căn nguyên
của bí tích Thêm Sức, là người truyền các chức thánh, ra qui
luật về phép Giải Tội và tận tình khuyên bảo, giáo huấn giáo
dân để họ kính cẩn và tin tưởng chu toàn phận sự họ trong
phụng vụ và nhất là trong Thánh Lễ hy tế. Sau cùng, các ngài
phải làm gương cho những kẻ thuộc quyền bằng lời ăn tiếng
nói của mình. Trong cách sống, các ngài phải xa tránh mọi
điều ác, và với ơn Chúa giúp, cố gắng hoàn thiện theo hết
khả năng, để cùng với đoàn chiên Chúa trao phó, đạt tới đời
sống vĩnh cửu
57.
35*
Chú
Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo
trước)
32* Tiểu mục 3: thừa
tác vụ Giám Mục và những quyền năng (các số 24-27).
38
Xem CIC cho Giáo Hội Ðông Phương, các kh. 216-314: về các
Giáo Chủ; các kh. 324-339: về các Ðại Tổng Giám Mục; các kh.
362-391: về các vị chức sắc khác; đặc biệt các kh. 238, đoạn
3; 216; 240; 251; 255: về các Giám Mục được các Giáo Chủ đặt
lên.
33*
Số 24: Nói về thừa tác vụ Giám Mục, tiếp tục cho số 20. Ở
đây không bàn về chức vị hay quyền bính, nhưng về thừa tác
vụ Giám Mục. Công Ðồng nhấn mạnh tới đặc tính phục vụ của
những người được Chúa kêu gọi cai trị Dân Chúa, theo kiểu
nói của Thánh Kinh (x. Mt 20, 24-28; Gio 13,1-17). Giám Mục
là người phục vụ cho phần dân được trao phó, và phục vụ cho
toàn thế giới. Ngài phải nỗ lực rao giảng và làm cho Phúc Âm
sống động, và nếu cần, phải hiến mạng sống cho đoàn chiên.
Muốn được thế, các Giám Mục nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh
Thần, Ðấng thánh hiến các Ngài để phục vụ. Công Ðồng còn
thêm một đoạn nữa bàn đến sứ mệnh theo giáo luật, nghĩa là
Giám Mục được quyền cấp trên chỉ định đặc trách một lãnh thổ
hay một số dân nhất định. Có ba cách thức chỉ định được coi
là có hiệu lực: tập tục chưa bị đoạn tiêu, luật lệ được Tòa
Thánh ban hành hay thừa nhận, do chính Giáo Hoàng chỉ định.
Với hai cách đầu tiên, phải có sự chấp thuận minh nhiên hay
mặc nhiên của Tòa Thánh, nếu không sẽ bất thành sự.
Ba số kế tiếp đề cập đến quyền năng Giám Mục
(các số 25-27). Nhiều nhà thần học phân biệt thành hai quyền
năng phẩm trật: quyền theo chức vị và quyền theo sứ mệnh.
Công Ðồng trái lại đã chọn kiểu nói ba quyền năng: giảng
dạy, thánh hóa và cai trị Dân Chúa, và cho như vậy là tiện
lợi hơn, vì cách phân chia này cho phép mô tả các quyền
năng, và nếu cần, minh xác các quyền năng đó. Có lẽ còn lý
do nữa là liên kết quyền năng của giáo phẩm với ba nhiệm vụ
của Chúa Kitô (được nhắc tới trong các số 34-36): nhiệm vụ
tư tế, tiên tri và vương giả.
39
Xem CÐ Trentô sắc lệnh De Reform., khóa V, ch. 2, số 9, và
khóa XXIV, đ.th. 4: Conc. Oec. Decr., trg 645 và 739.
40
Xem CÐ Vat. I, Hiến chế tín lý Dei Filius, 3: Dz 1712
(3011). Xem ghi chú kèm theo Lược Ðồ I về De Eccl. (trích từ
Thánh Rob. Bellarminô): Mansi 51, 579C, và Lược Ðồ đã được
sửa đổi của Hiến Chế II De Eccl. Christi, với phần chú giải
củ Kleutgen: Mansi 53, 313 AB. Ðức Piô IX, Thư "tuas
libenter": Dz 1683 (2879).
41 Xem CIC các kh.
1322-1323.
42 Xem CÐ Vat. I, Hiến
chế tín lý Pastor Aeternus: Dz 1839 (3074).
43 Xem giải nghĩa của
Gasser trong CÐ Vat. I : Mansi 52. 1212 AC.
44
Xem Gasser n.v.t.: Mansi 1214A.
45
Xem Gasser n.v.t.: Mansi 1215 CD, 1216-1217 A.
46
Xem Gasser n.v.t. : Mansi 1213.
47
Xem CÐ Vat. I, Hiến chế tín lý Pastor aeternus, 4: Dz
1836 (3070).
34* Số 25: Quyền giảng
dạy (giáo huấn).
Số này
trình bày những tiêu chuẩn định giá trị lời giảng dạy của
giáo phẩm, trong khuôn khổ Giám Mục Ðoàn, và trình bày
nguyên tắc quyền bính. Nội dung của lời giảng, những đối
tượng khác nhau của giáo huấn Giáo Hội được phân tích trong
sắc lệnh về nhiệm vụ Giám Mục (các số 12-14).
Việc soạn
thảo bản văn gặp nhiều khó khăn. Công Ðồng muốn giữ y nguyên
định nghĩa về quyền giáo huấn bất khả ngộ của Giáo Hoàng,
vừa muốn quả quyết quyền giáo huấn của các Giám Mục. Ðiều
xác định căn bản như sau: nhiệm vụ đầu tiên của Giám Mục là
rao giảng Phúc Âm. Bản văn chia ra bốn phần:
- Giám Mục
là tiến sĩ của đức tin nên phải tuân theo lời giảng dạy của
các Ngài.
- Bất khả
ngộ tính của Giám Mục khi đồng thanh giảng dạy không những
trong Công Ðồng Chung mà ngay cả khi các Ngài thông hảo với
nhau và với Ðấng kế vị Phêrô để giảng dạy những giáo lý
thuộc đức tin và phong hóa. Ðây là đề tài cố hữu trong khoa
thần học.
- Bất khả
ngộ tính của một mình Giáo Hoàng được xác định khéo léo ở
đây, trong khuôn khổ của việc giảng dạy được các Giám Mục
thực thi trong tập đoàn.
- Sự tương
hợp của giáo thuyết Giáo Hội với Mạc Khải.
48 Lời nguyện lễ tấn
phong Giám Mục theo nghi lễ Bizantinô: Euchologion to mega
Roma, 1873, trg 139.
49 Xem T. Inhaxiô Tử
đạo, Smyrn. 8,1: x.b. Funk I, trg 282.
50 Xem CvTđ 8,1;
14,22-23; 20,17 và nhiều chỗ khác.
51 Lời nguyện Tây Ban
Nha: PL 96, 759B.
52 Xem T. Inhaxiô Tử
đạo, Smyrn. 8,1: x.b. Funk, I, trg 282.
53 T. Tôma, Summa
Theol. III, q. 73, a. 3.
54
Xem T. Augustinô, C. Faustum, 12, 20: PL 42, 265; Serm. 57,
7: PL 38, 389, v.v...
55 T. Leô Cả, Serm. 63,
7: PL 54, 357C.
56 Xem Traditio
Apostolica của Hippolytô, 2-3: x.b. Botte, trg 26-30.
57 Xem đoạn "khảo
duyệt" ở đầu lễ tấn phong Giám Mục và kinh nguyện sau lễ tấn
phong Giám Mục, sau Te Deum.
35* Số 26: Quyền thánh
hóa.
Số này tuy
dài nhưng khúc chiết, được sắc lệnh về nhiệm vụ Giám Mục (số
15) bổ túc. Ý tưởng chính là: Giám Mục là người chủ chốt ban
phát các mầu nhiệm của Chúa, là người tổ chức, phát động và
bảo trì đời sống phụng vụ. Ngài chủ tọa thánh lễ cộng đồng,
có trách vụ loan báo lời Chúa trong công hội phụng vụ. Ngài
còn là thừa tác viên chủ yếu của các bí tích. Kết luận của
số này là lời ám chỉ đến gương mẫu đời sống mà các mục tử
phải nêu ra.
58 Xem Benedictô XIV,
Br. Romana Ecclesia, 5-10-1752, đoạn 1 Bullarium Benedicti
XIV, bộ IV, Roma 1758, 21: "Giám Mục thay mặt Chúa Kitô và
chu toàn công cuộc của Ngài". Piô XII, Tđ. Mystici Corporis,
n.v.t., trg 211: "mỗi Giám Mục chăn dắt và điều khiển đoàn
chiên được giao phó nhân danh Chúa Kitô".
59 Xem Leô XIII, Tđ.
Satis cognitum, 29-6-1896: AAS 28 (1895-96), trg 732,
n.v.t., thư Officio Sanctissimo, 22-12-1887: AAS 20 (1887),
trg 264. Piô IX, Tông thư gửi các Giám Mục Ðức, 12-3-1875 và
huấn từ 15-3-1875: Dz 3112-3117 trong lần phát hành mới.
60 Xem CÐ Vat. I: Hiến
Chế tín lý Pastor aeternus, 3: Dz 1828 (3061). Xem bài phúc
trình của Zinelli: Mansi 52, 1114 D.
61 Xem T. Inhaxiô Tử
đạo, Ad Ephes. 5,1 : x.b. Funk, I, trg 216. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Ngày của MẸ tại
Giáo Phận XUÂN LỘC |
NGÀY 18/5/2008, tại nhà
thờ Chính Tòa Xuân Lộc, 1.046
Bà cố các Linh Mục va Tu Sĩ đã khấn trọn đời cùng với
415 đại diện giới Hiền
mẫu của các Giáo Xứ trong Giáo Phận đã về họp mặt từ 8 giờ
30 tới sau trưa.
Đức Cha giáo phận, Quí Cha Đặc trách Hiền Mẫu 12 giáo hạt
trong Giáo phận, Cha Giám Đốc và Phó Giám Đốc Đại Chủng Viện
Xuân Lộc, Cha Quản Hạt Xuân Lộc kiêm Cha Sở Nhà thờ Chính
Tòa, Cha Bí Thư TGM và Quí Cha Phó Nhà Thờ Chính Tòa, cùng
các Bề Trên các Dòng lớn trong Giáo Phận đã có mặt.
Trong buổi họp mặt Cha Dom. Nguyễn Văn Tòng, Đặc trách Giới
Hiền Mẫu Giáo Phận đã giới thiệu những Bà Cố tiêu biểu:
- Bà Cố Thức, Giáo Xứ Kẻ Sặt, Hố Nai đã dâng 7 nguời con cho
Chúa: (2 trai va 5 gái) trong 15 đứa con của gia đình.
- Bà cố Mẫn, Giáo xứ Thanh Bình, Bầu Cá đã có 4 con là Linh
Mục, 1 con là Nữ tu, 1 cháu ngọai là nữ tu.
- Bà Cố Chí đã co 3 nguời con là Linh Mục và một nguời con
khác cũng đang chuẩn bị thụ phong Linh Mục.
- Bà cố Đỗ, giáo xứ Bảo Thị, Long Khánh có 3 nguời con là
linh Mục.
Và còn nhiều Cố khác nữa cũng đã có những dâng hiến đáng kể
cho Hội Thánh Việt Nam và Giáo Hội Toàn Cầu.
Với sự hiện diện của hàng ngàn các Bà Cố hôm nay, thật đáng
trân trọng biết bao và đáng cho những người Mẹ nơi các gia
đình suy nghĩ và noi theo bắt chước trong việc nuôi dạy con
cái nên người hữu ích cho Xã Hội và Giáo Hội..
Thật cảm động khi trong buổi họp mặt, còn có những ca sĩ
xuất thân từ Giáo Phận Xuân Lộc về tham dự để khơi gợi những
tâm tình của những ngừơi con về với Mẹ và những nỗi lòng của
các người Mẹ gia đình Việt Nam.
* Ca sĩ THANH SỬ thuộc GX Tiên Chu, Hố Nai ca bài : MỪNG
TUỔI MẸ,
* Ca Sĩ KHÁNH DUY thụộc GX Chánh Tòa Xuân Lộc ca bài MỒ CÔI,
* Ca Sĩ ĐÔNG NGHI thuộc Gx Ninh Phát, Gia Kiệm ca bài NGƯỜI
MẸ VÀ HOA SỨ TRẮNG
* Ca Sĩ PHI NGUYỄN Gx Sài quất, Hố Nai với bài ca NGÀY KHÔNG
CÒN MẸ
* Ca Sĩ KIM LỆ, đại diện giới văn nghệ sĩ Công Giaó Sàigon
ngâm bài thơ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết về MẸ
Ngài.
Các Bà Cố và các Hiền Mẫu ngồi nghe mà cứ lau nuớc mắt hòai.
Các Ngài nghĩ đến thân phận mình và nghĩ tới Mẹ mình, con
mình đang ở những chốn xa: trong nước cũng như ngòai nước
TRONG SỨ VỤ NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC SAI ĐI...
Sau những phút giây gợi nhớ, gợi thương, Đức Cha Đaminh
NGUYỄN CHU TRINH Giám Mục Giáo Phận Xuân Lộc đã gặp gỡ các
NGƯỜI MẸ TIÊU BIỂU: Với tư cách là một người con gia đình,
Đức Cha cám ơn những người Mẹ, trong đó có Bà Cố của Ngài đa
hy sinh nuôi dạy con nên Người để dâng cho Chúa, để phụng sự
Chúa trong việc phục vụ các Linh Hồn. Với tư cách người Cha
trong Gia Đình Giáo Phận, Ngài tri ân cảm tạ các Cố đã giúp
Ngài trong công tác Tông Đồ qua các con của các Cố. Sau đó
Ngài đã đồng tế Thánh Lễ cùng với quí Cha hiện diện.
Buổi gặp gỡ đã kết thúc bằng bữa cơm thân thiện: với Đức
Cha, Quí Cha và Quí Bề Trên các dòng tu có nhà Mẹ tại Giáo
Phận như Dòng Thánh Gioan Thiên Chúa, Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu
Linh Mục, Dòng Đaminh, Dòng Mến Thánh Giá. 148 bàn cơm trang
nhã lịch sự do các Hiền Mẫu Nhà Thờ Chính Tòa Xuân Lộc thực
hiện tại HOA VIÊN NHÀ THỜ CHÍNH TÒA;
Đức cha và Ban Tổ chức đã tặng mỗi Cố một món quà nho nhỏ là
cuốn: SÙNG KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA để các Cố cầu nguyện
cho các Linh Mục và Tu Sĩ mỗi ngày.
Các Cố ra về trong hân hoan phấn khởi vì có một ngày vui
mừng và ý nghĩa. Với tiếng hát của các Ca Sĩ tiễn các cố lên
đường về lại Giáo Xứ: KHI CON TIM ĐÃ VUI TRỞ LẠI
NGÀY CỦA NHỮNG NGƯỜI MẸ XUÂN LỘC ĐÃ KHÉP LẠI
HẸN NGÀY CỦA MẸ NĂM 2009
Bản tin của Giới Hiền Mẫu Giáo Phận
Xuân Lộc
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Học Hỏi về Học Thuyết Xã Hội Công Giáo
Gia Đình (84 – 117) |
31. Hôn nhân mang ý nghĩa như
thế nào?
Theo kế hoạch của Thiên Chúa, gia đình
là nền tảng của cộng đồng nhân loại và là một tế bào thiết
yếu của xã hội loài người. Vì thế hôn nhân mang hai ý nghĩa
quan trọng như sau: Hôn nhân phục vụ lợi ích cho chính hai
vợ chồng và thực hiện việc sinh sản con cái. (cf. GS 50)
32. Hôn nhân mang lại những
lợi ích gì cho đôi vợ chồng?
Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng của
CĐ Vatican II số 48 dạy rằng: “Tự bản chất, chính định chế
hôn nhân và tình yêu lứa đôi qui hướng về việc sinh sản và
giáo dục con cái như chóp đỉnh diễm phúc của hôn nhân. Như
thế, bởi giao ước hôn nhân, người nam và người nữ "không còn
là hai, nhưng là một xương thịt" (Mt 19,6), phục vụ và giúp
đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người và
hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với
nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn là
sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con
cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi
kết hợp với nhau bất khả phân ly… Bởi đó, vợ chồng Kitô hữu
được củng cố và như được thánh hiến bằng một bí tích riêng
để được lãnh nhận các bổn phận và phẩm giá của bậc sống họ;
nhờ sức mạnh của bí tích này, họ được thấm nhuần tinh thần
Chúa Kitô mà chu toàn bổn phận hôn nhân và gia đình của họ,
nhờ đó tất cả đời sống của họ được thấm nhuần đức tin, cậy,
mến, và càng ngày họ càng tiến gần hơn tới sự trọn lành
riêng biệt của họ và sự thánh hóa lẫn nhau; và bởi đấy, cùng
nhau tôn vinh Thiên Chúa.
33. Việc sinh sản đóng vai
trò như thế nào trong việc tiếp nối công trình tạo dựng của
Thiên Chúa ?
Khi một con người vừa mới chào đời, con
người mới này không những mang trong mình hình ảnh của người
cha và người mẹ mà còn mang hình ảnh của Thiên Chúa. Thực
vậy, chính cha mẹ là người cộng tác với Thiên Chúa trong
việc sinh sản một con người mới. Ở đây, không chỉ đề cập đến
vấn đề sinh học, nhưng chúng ta xác quyết rằng: Thiên Chúa
hiện diện trong tình mẫu tử và phụ tử một cách khác thường
hơn là Ngài hiện diện trong các tạo vật khác. Quả thực, chỉ
Thiên Chúa là nguồn sống của con người, nên chỉ có con người
mới mang hình ảnh và giống như Ngài. Vì thế, sinh sản là sự
tiếp nối công trình tạo dựng của Đấng Tạo Hóa (cf.
Gratossimam Sane 43).
34. Gia đình được xem là một
tế bào của xã hội như thế nào?
Từ ban đầu khi tạo dựng muôn loài,
Thiên Chúa đã thiết lập đời sống hôn nhân giữa người nam và
người nữ, chính vì thế gia đình trở thành tế bào sống đầu
tiên của xã hội. Mối giây liên kết giữa gia đình với xã hội
mang tính hữu cơ và sống động. Vì thực ra, mỗi con người đều
được sinh ra và giáo dưỡng từ gia đình. Chính từ nguyên tắc
căn bản này mà xã hội được tồn tại và phát triển. (cf.
Familiaris Consortio 42). Chính từ gia đình, con
người lần đầu tiên được tiếp cận và nhận lãnh những giá trị
chân, thiện, mỹ. Nhờ vậy, họ cũng nhận thức được ý nghĩa của
những giá trị ấy trong đời sống xã hội.
35. Mỗi gia đình có phải là
một “tin mừng” cho toàn thế giới không?
Ngay từ buổi bình minh của công cuộc
cứu độ, việc hạ sinh Hài Nhi đã mang lại niềm vui cho toàn
nhân loại: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại,
cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã
sinh ra cho anh em trong thành vua Đavid. Người là Đấng Kitô
Đức Chúa” (Lk 2: 10 -11). Niềm vui trọng đại này là việc hạ
sinh Đấng Cứu Thế. Nhưng lễ Giáng sinh còn tỏ lộ cho ta thấy
ý nghĩa trọn vẹn của mỗi cuộc hạ sinh con người. Vì cùng với
niềm vui của việc giáng sinh Đấng Cứu Thế, tất cả mọi em bé
chào đời trong thế giới này điều mang lại tin mừng cho mọi
người (cf. Evangelium Vitae 1).
36. Gia đình có được xem như
là “cung thánh của sự sống” không?
Gia đình đóng vai trò quan trọng cho
mỗi thành viên từ lúc sinh ra và lìa đời nên gia đình thực
sự được gọi là “cung thánh của sự sống”. Nơi mỗi gia đình,
sự sống là quà tặng của Thiên Chúa được đón nhận và bảo vệ
một cách cẩn trọng khỏi nhiều mối hiểm nguy tấn công; và
cũng chính từ gia đình, sự sống được lớn lên và trở thành
một con người trưởng thành. Khi đương đầu với nền văn hóa sự
chết, gia đình thực sự là tâm điểm của nền văn hóa sự sống.
(cf. Centesimus Annus 39). Chính vì thế, gia đình -
hội thánh tại gia, được kêu gọi thực hiện việc rao truyền và
phục vụ Tin Mừng Sự Sống. Đây là trách nhiệm hàng đầu của
mỗi gia đình. Vì được gọi là người trao ban sự sống, cha mẹ
càng ý thức ý nghĩa của việc sinh sản như là hành động độc
nhất biểu lộ sự sống con người và là quà tặng mà họ được đón
nhận để rồi họ cũng cho đi như một món quà. Cha mẹ nên hiểu
rằng, nguồn gốc phát sinh sự sống mới như là hoa quả tình
yêu giữa hai người với nhau. Hoa trái này là món quà dành
cho cả hai, và cũng chính từ hai người mà món quà này được
xuất hiện. (cf. John Paul II, Bài diễn văn tại Hội nghị
các Giám mục Châu Âu lần thứ bảy 1989, 5).
37. Ai là người có trách
nhiệm về “quyền sự sống”?
Sự sống con người là linh thiêng, bất
khả xâm phạm. Vì sự sống con người được bắt nguồn từ chính
hành động sáng tạo của Thiên Chúa và nó vẫn luôn duy trì mối
liên kết đặc biệt với Đấng Tạo Dựng, Đấng làm chủ vận mệnh
của nó. Vì thế, chỉ có Thiên Chúa là chủ của sự sống từ ban
đầu cho đến kết thúc. Không một con người nào, dù trong bất
cứ hoàn cảnh trực tiếp hay gián tiếp, lại tự cho mình quyền
để hủy diệt sự sống. Từ “Donum Vitae”- quà tặng sự sống là
trung tâm mầu nhiệm mạc khải về tính bất khả xâm phạm và
linh thiêng của sự sống con người. (cf. Evangelium Vitae
53). Chính vì điều đó, nếu “quyền sự sống” - quyền căn bản
và nền tảng nhất cho mọi quyền con người - không được bảo vệ
với một quyết tâm tối tối đa thì những việc đòi hỏi tôn
trọng các quyền khác như y tế, nhà ở, việc làm, gia đình,
văn hóa sẽ chỉ là giả dối và hảo huyền (Cf.
Christifideles Laici 38).
38. HTXH đề cập đến vần đề
phá thai và “cái chết êm dịu” như thế nào?
Trong mọi trường hợp, không một ai được
phép giết người vô tội, dù họ mới chỉ là một phôi thai hoặc
là bào thai, còn sơ sinh hay đã trưởng thành, già lão hay
mắc bệnh nan y, hoặc trong tình tranh sắp chết. Và đặc biệt
hơn nữa, không ai được phép yêu cầu cho hành động giết người
này. Dù sự yêu cầu này được xuất phát từ chính đương sự,
người đang chăm sóc đương sự, hoặc đương sự đồng tình cho
thực hiện hành động giết người này một cách rõ ràng hay ngụ
ý. Cũng vậy, không một chánh quyền nào có thẩm quyền đề nghị
hay cho phép thực hiện hành động như vậy (cf. Iura et
Bona 2). “Vì thế, với thẩm quyền mà Chúa Kitô ban cho
Phêrô và các Đấng kế vị của Ngài, cùng hợp với Giám Mục Đoàn
của Giáo hội Công giáo. Tôi xác nhận rằng, hành động trực
tiếp và có chủ ý giết người vô tội là luôn luôn trọng tội” (Evangelium
Vitae 57).
39. HTXH đề cập đến vai trò
người phụ nữ như thế nào?
Theo ĐGH Phaolô II, đời sống thường
nhật của người phụ nữ được xem như là những nữ anh hùng
trong gia đình khi họ là “những người mẹ can đảm tận tụy với
gia đình không một chút tính toán cho bản thân. Họ chịu đau
đớn khi sinh con và dồn mọi nỗ lực dù phải hy sinh mọi giá
để trao ban những gì là quí giá nhất của bản thân mình cho
con cái” Trong khi thực hiện sứ mạng này, “thế giới xung
quanh họ không phải lúc nào cũng ủng hộ sứ mạng của họ.
Ngược lại, giới truyền thông thường xuyên trình bày một kiểu
thức văn hóa khuyến khích người nữ không thực hiện chức năng
làm mẹ. Trong khi những giá trị như chung thủy, khiết tịnh,
hy sinh mà những người vợ và mẹ Kitô hữu đang sống và tiếp
tục làm chứng, thì có những người nại vào cuộc sống hiện đại
lại cho rằng những giá trị này là lỗi thời…Chúng ta cám ơn
những người mẹ anh hùng về tình yêu bất diệt của họ. Chúng
ta cám ơn lòng can đảm tín thác của các bà mẹ vào Thiên Chúa
và tình yêu của Ngài. Chúng ta cám ơn về sự hy sinh của các
người mẹ” (John Paul II, Bài giảng trong lễ phong thánh
năm 1994).
40. Người nữ đóng vai trò gì
trong mối liên hệ giữa người với người?
Tình mẫu tử có một mối liên hệ mật
thiết đến mầu nhiệm sự sống khi sự sống phát triển trong
lòng người mẹ. Mối liên hệ độc đáo giữa người mẹ với sự sống
mới đang phát triển trong cung lòng của người mẹ mang một
dấu ấn rất sâu đậm của nhân vị người nữ. Mối liên hệ này
không chỉ hướng đến người con mà bà đang cưu mang nhưng còn
hướng đến tất cả mọi người khác. Người mẹ đón nhận và cưu
mang một con người trong chính thân thể của mình, dành chỗ
và giúp nhân vị này lớn lên, tôn trọng con người mới này như
một con người. Vì thế, người phụ nữ học và dạy người khác
mối quan hệ thực thụ giữa người với người khi họ biết đón
nhận những người khác như một con người. Con người được nhìn
nhận và yêu thương là vì phẩm giá con người chứ không phải
vì những đặc điểm như hữu dụng, thông minh, sắc đẹp hay sức
khỏe. Đây là sự đóng góp căn bản mà Giáo hội cũng như loài
người mong đợi từ người nữ. (cf. Evangelium Vitae,
99). |
VỀ MỤC LỤC |
|
THIÊN TAI Ư ? NHÂN TAI
ĐẤY ! |
Quý độc giả Ephata
và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,
Chiều tối thứ năm,
ngày 15 tháng 5 năm 2008, tại Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
Sài-gòn, có một buổi cầu siêu và kết thúc bằng Thánh Lễ dành
cho các nạn nhân cơn bão Nargis vừa thổi qua Myanmar, tàn
phá và giết hại hàng trăm ngàn người, cũng cầu nguyện cho
các nạn nhân do cơn động đất xảy ra ở Tứ Xuyên, Trung Quốc,
hàng chục ngàn người đã phải bỏ mạng.
Anh em Trung Tâm
Mục Vụ DCCT đã trình chiếu những hình ảnh bi thảm chụp được
từ những vùng cơn bão đi qua, những cảnh tượng hãi hùng chụp
được từ những đống đổ nát sau cơn động đất. Tất cả chỉ còn
hoang tàn, tất cả chỉ còn là một cảnh tang thương.
Vài phút ngắn ngủi
với một số hình ảnh, chắc chắn khó có thể nhận hết những cảm
xúc như được chứng kiến tận mắt. Ngồi giữa một bầu khí an
bình, thoáng đãng, khó có thể cảm nhận được những bất hạnh
của biến cố, khó có thể hiểu thấu được các khó khăn kinh
hoàng các nạn nhân phải đối đầu tại chỗ. Chỉ nhìn hình thôi
chứ chúng ta đâu có phải đặt chân trầm mình trong những vũng
nước đen đặc hối thối, đâu có ở cạnh quá nhiều xác chết đã
bắt đầu phân hủy do chưa kịp chôn hoặc chôn không xuể.
Xác người, xác thú
vật và bao nhiêu là những phẩm vật phế thải khác, trở thành
nguồn sinh bệnh, rồi đói, khát, thiếu nước sạch, tiếu thực
phẩm, thiếu thuốc men, tất cả nhân lên và đè nặng trên số
phận của các nạn nhân còn sống để tiếp tục cướp đi thêm các
mạng sống khác, nhất là những trẻ sơ sinh, các em bé và
người già.
Đứng trước những
tai họa kinh hoàng ấy, bao giờ chúng ta cũng tự hỏi vì đâu
có mà nên nông nỗi, nguồn gốc và cơ sự thế nào ? Thiên Chúa
đã chẳng dựng nên trời đất muôn vật rồi nhận định là tốt đẹp
đó sao ? Tại sao nay lại sinh ra những chuyện chẳng tốt đẹp
như vậy ? Thiên Chúa đâu có dựng nên sự dữ, Thiên Chúa đâu
có làm ra sự dữ và Thiên Chúa đâu có muốn sự dữ hoành hành
trên mặt địa cầu này.
Không những dựng
nên muôn loài muôn vật tốt đẹp, Thiên Chúa còn trao cho con
người cai quản và làm cho những sự tốt đẹp ấy ngày càng tốt
đẹp hơn. Con người nhận được lệnh từ Thiên Chúa để làm cho
cái tốt đẹp ngày một tốt đẹp hơn, sao bây giờ lại tan hoàng
bi đát thế này ?
Chúa Nhật hôm nay
Hội Thánh mừng mầu nhiệm cực trọng Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa
Ba Ngôi là mầu nhiệm của sự tuyệt hảo, sự tốt hoàn toàn, sự
đẹp tuyệt đối. Thánh Gioan sau cả một đời chiêm ngắm Thiên
Chúa, đã thảng thốt kêu lên rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Sự tuyệt hảo gắn liền với tình yêu, tình yêu làm nên sự
tuyệt hảo, sự hòa hợp nên một mẫu mực, cội nguồn và tâm điểm
là chính mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Chính khi con
người đánh mất tình yêu, con người phá vỡ sự hòa hợp, con
người hủy hoại sự tốt đẹp, rồi tất cả biến thành tai họa.
Chính khi con người phá vỡ lòng mình bằng những mưu toan ích
kỷ, những toan tính hèn hạ, những mưu đồ trục lợi, những
kiêu căng bạo tàn, con người phá vỡ sự hòa hợp ngay trong
chính cái tâm của mình, rồi đi đến phá vỡ sự hòa hợp của
thiên nhiên.
Tháng trước, tôi
đã bàng hoàng khi đọc được một bài đăng trong báo Sài-gòn
Tiếp Thị, số ra ngày 21.3.2008, số báo 31, bài đăng nơi
trang 4, tên tác giả Lê Giang, tác giả tường thuật vắn tắt
bài phát biểu của Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Phạm Ngọc Đăng.
Ông Đăng là chủ tịch hội Môi Trường Xây Dựng Việt Nam, giám
đốc trung tâm Kỹ Thuật Môi Trường Đô Thị và Khu Công Nghiệp.
Ông Đăng phát biểu tại
Hội Nghị đánh giá ba năm thực hiện nghị quyết 41 – NQ/TW của
bộ Chính Trị về “Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước” do Ban Tuyên Giáo
Trung Ương và bộ Tài Nguyên Môi Trường tổ chức tại Hà nội.
Ông Đăng đã mạnh dạn chỉ ra rằng tác nhân chính và lớn nhất
gây ra hủy hoại môi trường một cách tàn tệ tại Việt Nam
chính là... tập đoàn điện lực ( EVN ) và các khu công
nghiệp.
Các nhà máy nhiệt điện chạy
bằng than rồi đến các nhà máy thủy điện đắp đập xây hồ, đã
gây ra hủy hoại môi trường vô phương cứu vãn. Ông bảo rằng
EVN lấy kinh tế làm gốc, phát triển bất kể môi trường, xây
dựng những nhà máy thủy điện làm tan nát các cánh rừng, phá
hoại hệ sinh thái, cạn kiệt tài nguyên nước, làm thay đổi
môi trường sống của dân chúng thuộc lưu vực. Ông trách những
người có trách nhiệm trong bộ Tài Nguyên Môi Trường không có
phản ứng cần thiết với EVN.
Các khu công nghiệp thì khỏi
nói, hãy nhìn các ống khói nhả những độc tố đen ngòm lên bầu
trời, hãy nhìn những lỗ cống thoát nước nhả những chất thải
hôi thối nồng nặc giết chết bao nhiêu những dòng sông trên
quê hương gấm vóc này. Bây giờ mảnh đất thân yêu hình chữ S
của chúng ta quằn quại tan nát, còn gì là gấm vóc nữa, biển
chẳng còn là biển bạc, rừng chẳng còn là rừng vàng.
Con đường vừa xây dựng một
cách vô lý, con đường Quốc Lộ 1B, con đường mòn mang tên HCM
năm xưa, ngày xưa xẻ rừng, ẩn nấp trong rừng để đi vào Nam
đánh nhau. Bây giờ mở đường, thật lớn, thật rộng, thật dài
chỉ cốt để lưu danh hão, để đánh dấu một chuyện thương đau
huynh đệ tương tàn. Ngày xưa xẻ rừng mà đi, bây giờ xẻ rừng
hóa ra là để tiếp tục có đường cho từng đoàn xe cơ giới vào
mà phá rừng, bán gỗ để tư túi làm giàu. Ngày xưa núp trong
rừng, sống nhờ rừng, bây giờ tiêu diệt rừng, phá hoại rừng,
rừng oằn mình đau đớn. Rừng oán, sông giận, biển buồn, trời
hận, làm sao sống nổi ?
Phải trở về ngay với Thiên
Chúa nếu còn muốn sống, phải trở về ngay với mầu nhiệm hòa
hợp diệu kỳ Ba Ngôi, phải trở về ngay với Thiên Chúa Tình
Yêu.
Lm. VĨNH SANG, DCCT,
Lễ Chúa Ba Ngôi 2008 |
VỀ MỤC LỤC |
|
NÓI THÊM
VỀ VẤN ĐỀ RƯỚC LỄ BẰNG TAY |
Hỏi: xin cha cho biết rước lễ
bằng tay có bất kính đối với Chúa Kitô hay không ?
Trả
lời:
Thật ra tất cả chỉ vì thói quen mà sinh ra những khó khăn
và bất đồng mà thôi.
Thật
vậy, trước hết là vấn đề thay thế tiếng Latinh bằng mọi ngôn
ngữ thế giới trong phụng vụ. Vì tiếng Latinh đã được dùng
quá lâu, nên khi thánh lễ được làm bằng các ngôn ngữ khác
sau Công Đồng Vaticanô II ( 1962-65) thì nhiều người đã
không bằng lòng. Mặt khác, những cải cách của Công Đồng này
cũng không được đồng tâm đón nhận trong toàn Giáo Hội . Cụ
thể, một Tổng Giám Mục Pháp ( Lefevre) đã bất tuân để tiếp
tục làm lễ bằng tiếng Latinh và tự tách mình ra khỏi Giáo
Hội cho đến ngày ngài mất năm 19 91. Nhưng nhóm linh mục đi
theo ngài vẫn tiếp tục theo Nghi Thức Tridentine cũ và bác
bỏ mọi cải cách của Công Đồng Vaticanô II. Nhưng cần phải
nói rõ là từ đầu Giáo Hội La Mã dùng tiếng Latinh trong
phụng vụ và mọi sinh hoạt khác là vì lý do muốn bảo đảm sự
hiệp nhất (unity) trong Giáo Hội chứ không vì lý do tín lý,
thần học nào khác. Cũng không phải vì tiếng Latinh là tiếng
Chúa Giê su đã nói xưa kia, nên phải duy trì . Chúa là người
Do Thái, nên Ngài đã dùng ngôn ngữ này để giàng dạy các môn
đệ và dân chúng thời đó. Cho nên không phải vì tôn trọng
Chúa mà phải dùng tiếng Latinh. Nhưng, vì ngôn ngữ này đã
được dùng quá lâu trong Giáo Hội nên người ta trở nên quen
đến nỗi khó bỏ được mà thôi.
Chính
vì còn có những người thích tiếng Latinh và Nghi Thức cũ,
nên trong năm qua (ngày 7-7-2007) Đức Thánh Cha Bênêđíchtô
XVI đã ra Tông Thư Summorum Pontìficum cho phép xử
dụng rộng rãi hơn Nghi Thức bất thường Lễ Tridentine bằng
tiếng Latinh, song song với Nghi Thức mới thông thường ban
hành năm 1970 cho phép cử hành thánh lễ và các bí tích bằng
ngôn ngữ địa phương như hiên nay. Đây chính là một cố gắng
hòa giải những bất đồng còn âm ỷ trong Giáo Hội từ sau Công
Đồng Vatican II của Đức đương kim Giáo Hoàng. Tóm lại cũng
vì tiếng Latinh và những cải càch của Công Đồng Vaticanô
II mà nhóm theo Tổng Giám Mục Lefevre đã ly khai khỏi Giáo
Hội Lamã cho đến nay. Về phần giáo dân ở khắp nơi thì cũng
còn nhiều người không hài lòng với những thay đồi về
phụng vụ. Cụ thề là vấn đề rước lễ bằng tay.
VIỆC
NÀY CÓ PHƯƠNG HẠI ĐẾN ĐỨC TIN CÔNG GIÁO HAY KHÔNG
?
Trong
bài trước, tôi đã nói rõ là Tòa Thánh đã cho phép rước lễ
bằng tay kể từ sau Công Đồng Vaticanô II. Nhưng cũng vì có
dư luận không tán thành, nhất là vì có những lạm dụng và để
tránh nguy cơ tục hóa (profanation) và phạm thánh (
sacrilege) nên Đức Hồng Y Francis Arinze , Tổng Trưởng Thánh
Bộ Phụng Tự và Kỷ luật Bí Tích, đã ra Huấn Thị
REDEMPTIONIS SACRAMENTUM
để giải thích thêm về Tông Thư Ecclesia de Eucha rístia
của Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II cũng như nhắc lại
những gì Toà Thánh đã cho phép về việc rước lễ từ xưa đến
nay.
Cụ thể
như sau :
1-
Tín hữu được phép lựa chọn rước lễ bầng tay hay trên lưỡi,
quì xuống hay đứng lên khi rước Mình Máu Thánh
Chúa Kỉtô trong Thánh lễ. (no. 91-92).
2-
Thánh Bộ cũng khuyến khích việc cho tín hữu rước cả Mình và
Máu Thánh Chúa, mặc dù Chúa Kitô hiện diện hoàn toàn trong
cả hai hình thức trên. Nghĩa là dù chỉ rước Mình Thánh thôi
thì cũng rước trọn vẹn Chúa Kitô rồi. ( x. SGLGHCG. số
1377) Tuy nhiên , Hội Đồng Giám Mục các quốc gia được dành
quyền tùy nghi áp dụng việc này ở địa phương. ( no. 100-101)
3-
Cũng liên quan đến việc rước Máu Thánh, Thánh Bộ cũng cho
phép hình thức chấm Mình Thánh vào chén Máu Thánh (
Intinction) nhưng người rước lễ không được phép tự tay
chấm mà phải nhận lãnh trên lưỡi từ tay thừa tác viên.
Nghĩa là không được phép lãnh nhận trên tay nếu rước lễ với
hình thức chấm này.(no.104)
Sở dĩ
có sự cho phép hình thức chấm (intinction) Mình vào Máu
Thánh nói trên là vì có mối quan ngại về nguy cơ lây bệnh
truyền nhiểm khi nhiều người cùng uống chung một chén. Ngoài
ra, còn bất tiện nữa là thừa tác viên phải uống hết Máu
Thánh còn dư sau Lễ. Cũng nên biết rằng trong bí tích Thánh
Thể, thì chỉ có bản thể (substance) của bánh và rượu trở
thành Bản Thể của Chúa Kitô mà thôi, còn chất thể (
material) của bánh và rượu không thay đổi, cho nên uống
nhiều rượu nho vẫn có thể say như thường !.
Trên
đây là tóm lược những gì Tòa Thánh – qua Thánh Bộ Phụng Tự-
đã cho phép. Nghĩa là chính Đức Thánh Cha đã đồng ý cho thi
hành trong toàn Giáo Hội, vì mọi quyết định của các Cơ quan
đầu não trong Giáo triều Roma, nhất là của hai Thánh Bộ quan
trọng là Phụng Tự ( Divine Worship ) và Giáo lý đức tin (
Doctrine of Faith) thì bắt buộc phải có sự chấp thận (
approve) của Đức Thánh Cha trước khi đem thi hành. Như thế,
nếu muốn vâng phục Tòa Thánh, thì không ai được phép chống
đối những gì đang được cho phép thi hành. Người ta có thể
góp ý xây dựng và đề nghị những sửa đổi. Nhưng quyền quyết
định tối hậu vẫn thuộc về Đức Thánh Cha, vị Đại Diện duy
nhất của Chúa Kitô trên trần gian.
Rước
lể trên lưỡi hay trên tay tự nó không có gì là phạm thánh
hay bất kính đối với Chúa Kitô. Căn bản thần học ở đây là
Chúa Kitô tự hiến mình làm của ăn của uống để nuôi linh hồn
người ta cũng như Ngài đã tự hiến chịu chết trên thập gíá
để cứu chuộc nhân loại.
Vậy
nhận lãnh Chúa trên tay hay trên lưỡi không có gì khác biệt
về bản chất. Giáo lý của Giáo Hội chỉ đòi hỏi phải sạch tội
trọng, có ý ngay lành ( good intention) và giữ chay
(fasting) một giờ trước khi rước lễ mà thôi. Chỉ có tội lỗi
mới làm cho con người bất xứng chứ không phải hình thức bề
ngoài. Đó là điều Chúa Giêsu đã khiển trách nhóm biệt phái
xưa kia khi chúng bắt lỗi các môn đệ của Chúa không rửa tay
trước khi ăn. “… Anh em không biết rằng bất cứ cái
gì vào miệng thì xuống bụng rồi bị thải ra ngoài sao ?
Còn những cái gì từ mệng xuất ra là phát xuất từ lòng ;
chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế…còn ăn mà
không rửa tay thì không làm cho con người ra ô uế.” ( Mt
15: 17-20). Nói khác đi, nếu rước lễ mà thiếu lòng tin, lòng
mến Chúa và nhất là đang có tội trọng thì đó mới là bất
xứng, bất kính đối với Chúa Kitô, chứ nhận lãnh Mình Máu
Chúa trên tay hay trên lưỡi không có gì khác biệt phải quan
tâm.
Thực
ra, không có giáo lý, tín lý nào đòi hỏi phải rước Chúa trên
lưỡi thì mới tỏ ra kính trọng Chúa cách đúng mức, và rước
trên tay là bất kính. Chỉ có điều đáng quan ngại là sợ nguy
cơ phạm thánh khi cho rước lễ trên tay mà thôi.
Nghĩa
là , lo sợ có kẻ cầm Mình Thánh Chúa đem về nhà để làm việc
phạm thánh nào đó ( profanation, sacrilege)
Chính
vì thế mà Thánh Bộ Phụng Tự đã đặc biệt lưu ý việc này , để
nếu cần, thì phải ngưng cho rước lễ trên tay.(no. 92). Và
để tránh nguy cơ này, mọi người muốn rước lễ trên tay,
thì buộc phải bỏ ngay Mình Thánh Chúa vào miệng
trước mặt thừa tác viên cho rước lễ.
Ngoài
ra, để tỏ lòng cung kính bề ngoài trước khi rước Chúa, thì
nếu đứng khi lên rước lễ thì trước khi tiến lên lãnh nhận
Mình Thánh , người rước lễ được khuyên nên cúi đầu bái lậy
trước khi lãnh nhận Mình Máu Chúa trên lưỡi hay trên tay.(
không nên bái quì vì sẽ đụng chân vào người đứng phía sau)
Nói
chung ,từ xưa đến nay, đã có biết bao ý kiến chống đối Giáo
Hội về luật độc thân của hàng giáo sĩ, đòi cho phụ nữ làm
linh mục, không đồng ý về những cải cách của Công Đồng
Vaticanô II trong đó có việc cho rước lễ trên tay. Trong số
những người không đồng ý này, có cả Giám mục, linh mục và
giáo dân. Cụ thể, Tổng Giám mục Malingo bên Phi Châu đã lấy
vợ và còn truyền chức giám mục bất hợp pháp cho 3 linh mục
Mỹ đã hồi tục và đã bị vạ tuyệt thông tiền kết sau vụ này.
Nhưng
việc chống đối và những gương xấu này không thể làm mất niềm
tin và sự tuân phục của tín hữu đối với sứ mạng , chức năng
và uy quyền của Giáo Hội trong việc giảng dạy, thánh hóa và
cai trị.
Tóm
lại, bao lâu Toà Thánh chưa thay đổi gì về bất cứ luật lệ
nào đang được áp dụng thi hành trong các lãnh vực luân lý,
tín lý, phụng vụ , bí tích, giáo luật .. . thì mọi thành
phần dân Chúa trong Giáo Hội - giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân-
đều có bổn phận phải vâng phục và thi hành nghiêm chỉnh
những luật lệ đó. Những người bất đồng ( dù là Hồng Y , Giám
mục hay linh mục) và những ai chống đối ở trong và ngoài
Giáo Hội không phải là lý do cho tín hữu phải giao động về
tinh thần vâng phục Giáo Hội là Mẹ đang thay mặt Chúa là
CHA để dạy dỗ, dẫn dắt đoàn chiên của Chúa Kitô trên trần
thế.
Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LỜI KẾT LUẬN CỦA
BÀ GIÀ DO-THÁI |
Một bà già Do-thái nhỏ người ngồi trên
phi cơ, cạnh một ông Thụy-điển mập mạp và bà không ngớt đăm
đăm nhìn ông. Cuối cùng, bà quay sang phía ông ta và nói: "Xin
lỗi, có phải ông là người Do-thái không?"
Ông kia trả lời: "Không."
Ít phút sau, bà lại quay sang ông ta
lần nữa và nói: "Ông có thể nói cho tôi biết, nghe ông –
ông là Do-thái, phải không?"
Ông nọ trả lời: "Tuyệt nhiên là
không."
Bà cứ tiếp tục xem xét ông ta một lúc
nữa, rồi nói: "Tôi có thể quả quyết ông là người Do-thái."
Để khỏi bị quấy rầy nữa, ông nọ nói: "Được
rồi, tôi là người Do-thái!"
Bà ta lại nhìn ông lần nữa, lắc đầu và
nói: "Ông không có vẻ gì là Do-thái hết!"
***
Chúng ta đưa ra những kết luận
trước
– rồi mới tìm cách chứng minh.
Lm. ANTHONY DE
MELLO
NHƯ LỜI CẦU KINH
Nguyên tác THE
PRAYER OF THE FROG
Nhà văn Hương
Vĩnh chuyển ngữ |
VỀ MỤC LỤC |
|
LIÊN
HIỆP ÂU CHÂU,
MỘT THÁCH ĐỐ CỦA HOA KỲ |
Sau khi Liên Bang Sô Viết xụp đổ,
Hiệp Chủng Quốc là siêu cường duy nhất còn lại trên thế
giới... Hoa Kỳ đương nhiên trở thành một quốc gia nặng ký cả
về chính trị, kinh tế lẫn quân sự. Nhưng đồng thời một siêu
cường khác đang hình thành sẽ cạnh tranh với Hoa Kỳ để dành
chức lãnh tụ của thế giới Tây Phương.
…………………..
Nhiều người Mỹ tin rằng Hoa Kỳ là một
quốc gia không ai dám đụng đến, không có gì có thể làm suy
xuyển được. Hoa Kỳ là vô địch, độc cô cầu bại. Chiến tranh
lạnh kết thúc lại làm cho Hoa Kỳ có cảm tưởng mình có quyền
và nhiệm vụ sắp đặt mọi chuyện trên thế giới, từ kinh tế đến
chính trị, quân sự. Một người có trí khôn trung bình, hàng
ngày cũng chỉ biết nghĩ đến job / việc làm, giá xăng,
trường học cho con cháu hoặc công việc buôn bán thường nhật
của mình hơn là để ý đến những biến cố tiềm ẩn bên trong của
tình hình thế giới.
Tin tức hàng ngày trên vô tuyến truyền
hình phản ảnh tâm tư ý thích và những thiếu sót của dân
chúng đối với những biến chuyển bên ngoài. Họ ít khi để ý
đến những gì đang xẩy ra ở bên ngoài nước Mỹ, cũng chẳng
thèm dành một vài phút để bàn luận hay suy nghĩ về những gì
đang xẩy ra ở Âu Châu, Phi Châu hay Viễn Đông…trong khi thế
giới có biết bao nhiêu là biến chuyển lớn lao gần kề đang
âm thầm lặng lẽ xẩy ra có thể ảnh hưởng đến chính bản thân
và gia đình họ.
Thực vậy, một siêu cường thành hình ở
lục địa Âu Châu đang là một thách đố, sẵn sàng cạnh tranh
với Hoa Kỳ cả về kinh tế lẫn chính trị.
Giấc mơ về một Âu Châu thống nhất đã có
từ thời xa xưa. Đế quốc La Mã xưa đã tạo ra một mạng lưới
đường dây hợp tác về kinh tế và bưu diện, hòa nhập văn hóa
và tôn giáo trện một diện địa rất rộng lớn. Qua hàng thế kỷ,
quan niệm về Pax Romana -một loại đế quốc thống nhất và hòa
bình được cai trị bởi luật La Mã- đã nung nấu trí tưởng
tượng của nhiều người dân Âu Châu.
Dân La Mã đã nhận ra rằng cai trị một
đế quốc quá rộng lớn trải dài từ Trung Âu đến Bắc Phi và từ
Anh Quốc tới Trung Đông là bất khả thi. La Mã đã bị rạn nứt
từ từ về kinh tế, chính trị và xã hội để rồi bị Đức xâm lăng
chinh phục. Vào năm 476 A.D., đế quốc Tây Phương đã bị thất
bại nặng nề, nhưng giấc mơ của họ không bao giờ bị hủy giệt.
Lịch sử cho thấy đã nhiều lần họ cố
gắng kết hợp mọi sắc dân Âu Châu lại thành một đế quốc bằng
sức mạnh quân sự. Một Charlemagne, một Napoleon và gần đây
Adolf Hitler đã cố gắng làm sống lại một Âu Châu thống nhất.
Sau khi thế chiến II kết thúc, mặc dù
nhiều đổ vỡ và chết chóc, nhưng giấc mơ một Âu Châu hòa bình
và thống nhất vẫn còn lấp ló đâu đó, cho dù đã bị phân chia
làm hai, một nửa nằm dưới quyền thống trị của Sô Viết đằng
sau bức màn sắt.
TÂN ÂU CHÂU XUẤT HIỆN TRONG TRO TÀN
Sau khi đã trải qua hai cái thế chiến
trong vòng 30 năm, đến năm 1945 Châu Âu hầu như kiệt lực.
Nhiều thành phố, thị trấn cổ kính đã bị bom đạn phá hủy.
Người chết cả hàng chục triệu. Các cơ sở, tổ chức, cơ quan
đều ngưng hoạt động.
Làm thế nào đây sau những điêu tàn đổ
nát đó? Nhờ chương trình Marshall, đồng Mỹ Kim đổ vào, và
như một phép lạ, đã làm sống lại nền kinh tế Âu Châu. Tây Âu
được kiến thiết lại, các nhà máy, cơ xưởng kỹ nghệ được
trang bị và hoạt động trở lại.
Được tân trang tái thiết từ đống tro
tàn, vào những thập niên 50 và 60 nhiều cơ xưởng kỹ nghệ của
nước Đức bại trận đã phát triển vượt bực hơn cả những cơ
xưởng của người Hoa Kỳ ân nhân. Giấc mơ xưa về một Âu Châu
thống nhất hòa bình đã biến thành một tổ chức gọi là Thị
Trường Chung Âu Châu.
Vào hậu bán thế kỷ XX, Thị Trường Chung
đã được thay thế bằng Âu Châu Thống Nhất. Một số những quốc
gia liên kết với nhau làm thành một liên minh hùng mạnh dưới
danh hiệu Liên Hiệp Âu Châu với hai cựu thù ở chính giữa là
Pháp và Đức bắt đầu hình thành.
Đến đầu thiên niên kỷ III này, tờ báo
Time ấn bản Âu Châu đã có thể tường trình rõ rệt như sau: “Âu
Châu có một thị trường duy nhất, một bản vị tiền duy nhất và
một ngân hàng trung ương. Không một quốc gia thành viên nào
có thể xây một phi trường, quyết định số lượng sữa bò sản
xuất hoặc thay đổi bất cứ cái gì mà không tham vấn với
Brussels hoặc làm theo đúng những tiêu chuẩn hướng dẫn của
ủy ban điều hợp. Không một hợp đồng mua bán nào được tiến
hành mà không được sự đồng ý của Ủy Ban E.C.”. (Nghĩa là
không một quốc gia thành viên nào có thể tự mình làm bất cứ
điều gì mà không thông qua Brussels)
NHẮM TỚI MỘT VỊ THẾ VĨ ĐẠI HƠN
Liên Hiệp Âu Châu bây giờ đã trở thành
một khối mạnh nhất thế giới về kinh tế. Sản lượng quốc gia
tính ra hơn 1/3 sản lượng của toàn thể thế giới. Lượng xuất
cảng lớn nhất thế giới. Giá trị đồng Euro tăng 50% đối với
đồng Mỹ Kim từ khi nó xuất hiện vào năm 2002.
Một số vị lãnh đạo của Liên Hiệp Âu
Châu tin rằng Liên Hiệp chưa phát triển khả năng của họ
nhanh và uyển chuyển đủ đối với bối cảnh thế giới. Họ lại
còn đang thảo luận để thành lập một liên minh ngay trong
chính Liên Hiệp của họ, dẫn đầu bới Pháp và Đức. Điều này sẽ
đẩy mạnh và nhanh việc thống nhất chính trị.
Họ không chỉ cố gắng đẩy mạnh thống
nhất về chính trị mà còn hy vọng tạo một sức mạnh quân sự
nữa. Lực lượng quân sự này không phải chỉ để tự vệ, mà còn
để tạo ảnh hưởng nơi những miền xa xôi trên thế giới
Tuy nhiên không phải tất cả dân Âu Châu
đều tán thành chấp nhận quan niệm một sức mạnh quân sự với
cánh tay nối dài như vậy. Liên quân phối hợp Âu Châu- Hoa Kỳ
tiến vào Kosovo cuối thập niên 1990 cho thấy nhiều nước Âu
Châu đã miễn cưỡng tham gia quân sự như vậy. Ta thấy Liên
Hiêp Âu Châu chỉ gửi có 50,000 quân đến Balkans trong khi họ
có tới 2 triệu quân binh.
Trong khi đó Hoa Kỳ, với sự cam kết can
thiệp quân sự vào Iraq, Afghanistan và nhiều quốc gia khác
rải rác khắp thế giới để chống chiến tranh khủng bố thì lại
mang màu sắc và hành động của một cảnh sát quốc tế.
TƯƠNG LAI ÂU CHÂU THEO TIÊN TRI
TRONG KINH THÁNH
Những biến cố hiện đang xẩy ra ở
Âu Châu đã rập theo đúng khuôn lịch sử ở quá khứ: cố gắng
liên hiệp Y Pha Nho và Ý Đại Lợi, Đức và Slavs, Pháp và
Scandinavias thành một đế quốc.
Tiên tri Daniel đã được Chúa mạc khải
trong một giấc mơ để nói tiên tri về những đế quốc này.
Trong Daniel 2, ông nói về bốn đế quốc liên tiếp, trong đó
có một đế quốc đã cai trị vào thời đấng thiên sai / Messiah
đến để thiết lập một vương quốc của Chúa ở trần thế. So sánh
lịch sử với những lời tiên tri khác, chúng ta thấy rằng bốn
vương quốc này theo thứ tự là đế quốc Babylonia,
Medo-Persia, Greco-Macedonia và đế quốc La Mã.
Nói về vương quốc thứ tư, vương quốc
cuối cùng, Daniel mô tả là “một đế quốc cứng mạnh như sắt,
bởi vì sắt có thể bẻ gẫy và nghiền nát mọi sự ra từng mảnh.
Giống như sắt, đế quốc này có thể bẻ gẫy và đập tan nát
những đế quốc kia ra từng mảnh.” (câu 40) Đế quốc La Mã lúc
đó thực sự đã chứng tỏ hùng mạnh và vượt trội hơn ba đế quốc
trước, đã nuốt trọn tất cả trong thời gian trị vì kéo dài cả
hàng thể kỷ.
Daniel cũng cho biết những tiên đoán
rất hấp dẫn và chi tiết về đế quốc cuối cùng này. Ông nói
hình ảnh những cái chân và bàn chân trong giấc mơ của
Nebuchanezzar tượng trưng một vương quốc, chính là đế quốc
La Mã sau này. Những cái chân và ngón chân được làm “một
phần bằng đất sét, một phần bằng sắt” (câu 41) Điều này
chứng tỏ rằng “vương quốc này sẽ bị phân chia” và “một
nửa thì hùng mạnh, một nửa thì yếu” (câu 41-42). Hơn
nữa “ vì sắt không thể trộn với đất sét được”, do đó
những thành phần của vương quốc này không thể kết hợp chặt
chẽ với nhau được lâu dài (câu 43).
Sau đó, mô tả ngày Chúa Kitô giáng lâm
trở lại và tất cả các vương quốc cùng chính phủ của loài
người bị lật đổ, Daniel nói rằng: “ Trong những ngày đó,
Chúa ở trên trời sẽ thiết lập một vương quốc vĩnh cửu, không
sức mạnh nào có thể tiêu giệt được…..Nó sẽ đập bể nát những
vương quốc này ra từng mảnh và tiêu giệt luôn, chỉ một mình
nó sẽ đứng vững đến muôn đời” (câu 44).
Đặc biệt, “những ông vua này” ở
đây là một nhóm 10 nhà lãnh đạo các quốc gia kết hợp với
nhau thành một liên minh ở thời đại cuối cùng. Daniel cho
biết trước rằng, bởi vì khác biệt văn hóa và ngôn ngữ, nên
siêu cường cuối cùng này sẽ không phải là một liên hiệp
chặt chẽ những quốc gia khác nhau như Hiệp chủng quốc Hoa
Kỳ, mà là gồm nhiều thực thể phân tán khác biệt liên kết lại
với nhau vì một mục tiêu chung. Dĩ nhiên trong đó sẽ có một
số quốc gia hùng mạnh hơn những quốc gia kia.
Trong sách Khải Huyền, chúng ta còn
thấy nhiều chi tiết hơn về cái liên hiệp các quốc gia này: “Mười
sừng ông đã thấy là mười vua; chúng chưa nhận được vương
quyền, và sẽ nhận được quyền làm vua với Con Thú. Chúng sẽ
giao chiến với Con Chiên, và Con Chiên sẽ thắng chúng, vì
Người là Chúa các chúa, Vua các vua; những kẻ đi theo Người,
tức là những kẻ được kêu gọi, được tuyển chọn và luôn trung
thành, cũng sẽ thắng” (Khải Huyền 17: 12-14).
Những biến chuyển hiện giờ đang phát
triển để cố gắng tạo một Liên Hiệp Âu Châu hùng mạnh như có
vẻ đang bắt đầu ứng nghiệm những lời tiên tri nói về một
quyền lực vào thời tận cùng. Suy diễn theo những lời tiên
đoán ghi trong Kinh Thánh, thì những chuyển động để thống
nhất Âu Châu chính là căn nguyên của vấn đề.
Tờ Newsweek ra ngày 29 - 1- 1996 đã
tường trình như sau: “Tháng Giêng năm 1957, sáu quốc gia đã
ký một hiệp ước về Cộng Đồng kinh tế Âu Châu tại cố đô của
La Mã ….Viên phụ tá của Paul-Henri Spaak, lúc đó là
bộ trưởng ngoại giao đã nhắc lại là xếp của ông đã nói:
‘Ngươi có nghĩ rằng chúng ta đã đặt viên đá đầu tiên cho
một tân đế quốc La Mã không?’ Viên phụ tá nhớ lại,
‘Chúng tôi cảm thấy rất vững mạnh chúng tôi là dân La Mã
của thời huy hoàng đó’”.
Tư tưởng muốn thành lập một tân đế quốc
La Mã lúc bấy giờ chắc chắn là cũng có ở trong tâm trí những
nhân vật đang cố gắng kiến tạo một Liên Hiệp Âu Châu bây
giờ. Liên hiệp này sẽ tiếp tục vững mạnh nhờ ở sự cùng nhau
chung lưng cộng tác về kinh tế và chính trị.
SỰ XỤP ĐỔ SAU CÙNG.
Những giấc mơ của Julius Caesar,
Justinian, Charlemagne, Napoleon và Mussolini đã không bao
giờ chết. Chúng sẽ bừng sống lại một lần nữa, nhưng sẽ chết
trong cay đắng thảm khốc. Sách Khải Huyền đoạn 19 cho chúng
ta thấy ai là nhân vật sẽ tiêu giệt cái đế quốc sau cùng
này. Thánh Gioan đã mô tả về một viễn tượng tương lai ấy như
sau:
“Bấy giờ tôi thấy trời mở rộng:
Kìa một con ngựa trắng và người cưỡi ngựa tên là ‘Trung
Thành và Chân Thật’, Người theo công lý mà xét xử và giao
chiến. Mắt Người như ngọn lửa hồng, đầu Người đội nhiều
vương miện, Người mang một danh hiệu viết trên mình mà ngoài
Người ra chẳng ai biết được. Người khoác một áo choàng đẫm
máu, và danh hiệu của người là ‘Lời của Thiên Chúa’.” (câu
11-13). Danh hiệu này được tỏ lộ và chúng ta
biết chắc đây là Đức Kitô là Thiên Chúa.
Thánh Gioan viết tiếp: “Và các đạo
quân thiên quốc đi theo Người, họ cưỡi ngựa trắng, mặc áo
vải gai mịn trắng tinh. Từ miệng Người phóng ra một thanh
gươm sắc bén để chém muôn nước. Chính Người sẽ dùng trượng
sắt mà chăn dắt chúng. Người đạp trong bồn đạp nho chứa thứ
rượu là cơn lôi đình thịnh nộ của Thiên Chúa toàn năng.
Người mang một danh hiệu viết trên áo choàng và trên vế : ‘Vua
các vua, Chúa các chúa’” (câu 14-16) (Có thể coi
thêm câu 17-21).
Đế quốc sau cùng của loài người được mô
tả trong kinh thánh sẽ được thay thế bởi một đế quốc khác là
Vương Quốc của Thiên Chúa, lãnh đạo bởi Đức Giêsu Kito, Ngài
sẽ thống trị toàn thể thế giới. Chúa đã nói trước cho chúng
ta về ngày tận thế để chúng ta thay đổi cuộc sống, vun trồng
đức TIN và đức CẬY (Hy Vọng) cho ngày tương lai ấy. Niềm
TIN của chúng ta phải được đặt để trọn vẹn nơi Người và,
cuộc sống của chúng ta phải đi theo ước nguyện của Người. Có
vậy chúng ta mới có thể dự phần vào gia nghiệp của Vương
quốc đó.
Pace Island, Florida 17-5-2008
Bác Sĩ Nguyễn Tiến
Cảnh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGẠO
NGHỄ VỚI TRỜI ! |
Con người ngạo nghễ với
nhau đã là khó coi lắm rồi, vậy mà con người lại huyên hoang
tự cao tự đại để nghạo nghễ với trời !
Từ ngàn xưa từ ngàn xưa,
từ thời ông tổ, ông sơ đến ngày nay. Chắc có lẽ năm nào cũng
thế, trên cái dải đất cong cong hình chữ S này đều phải hứng
chịu những cơn thịnh nộ của “ông trời” nhưng không biết là
cha ông có nảy ra cái ý định là thành lập ra một cái ban với
tên gọi rất hoa mỹ : Uỷ ban phòng
chống lụt bão Trung ương. Cũng chẳng phải là nhà
nghiên cứu lịch sử nhưng theo như tôi được biết thì các đấng
các cụ ngày xưa đâu có tài tình và đầy “sáng kiến” để thành
lập ra cái Uỷ ban vô cùng to lớn đó. Có chăng các cụ ngày
xưa chung vai góp sức để nâng đỡ nhau sau những cơn thịnh nộ
mà con người không thể nào tránh được.
Lẽ thường tình, cái gì
tốt, con cháu phải gìn giữ, phải vun đắp và bảo quản. Chỉ
cần nhìn vấn đề lụt bão thôi, tại sao con người ngày hôm nay
lại không học bài học khiêm tốn của cha ông khi phải đối
diện với những hiện tượng của thời tiết, của khí hậu. Đàng
này, không sống sự khiêm tốn ấy thì thôi mà còn đặt ra cái
uỷ ban để chống trời !
Thử nhìn lại vài chục năm
gần đây, sau khi mà đất nước được giành lại độc lập tự do
thì tình hình lụt bão như thế nào ? Tình hình lụt bão ngày
càng trầm trọng. Con người ta cứ vô tư huỷ hoại thiên nhiên,
chặt cây, đốn rừng thì làm gì mà còn rừng đầu nguồn để giữ
nước cho khỏi tràn về miền xuôi được ?
Thử duyệt xem trong những
năm qua hay nói đúng hơn là năm qua, Uỷ ban phòng chống lụt
bão trung ương đã phòng được bao nhiêu cơn bão, đã chống
được bao nhiêu trận lụt ? Gọi là phòng và chống mà sao lại
cứ để cho năm nào cũng có cả chục cơn bão vào Việt nam vậy ?
Như thế thì cái uỷ ban đó làm cái gì? phòng cái gì ? chống
cái gì ?
Nếu ta hiểu theo nghĩa
nào đó thì uỷ ban phòng chống lụt bão trung ương rất đúng
với tên gọi vì lẽ họ ở trong nhưng cao ốc, trong những văn
phòng đầy đủ tiện nghi mưa không tới, gió không vào được chứ
đừng nói đến bão lụt. Văn phòng của uỷ ban phòng chống lụt
bão thật nguy nga và hoành tráng ở đô thị thì làm sao biết
bão là gì. Như thế thì chẳng bao giờ bão lụt có thể chạm đến
họ được. Có chăng những người dân, những người nghèo suốt
cuộc đời lam lũ mới chứng kiến, mới biết bão là gì, lụt là
gì đó thôi.
Nghe các nhà dự báo khí
tượng thuỷ văn nói là Việt nam năm nay còn có khoảng gần hai
chục cơn bão xảy đến. Vậy thì không biết uỷ ban phòng chống
lụt bão năm nay có chống được cơn nào hay không hay là cứ để
cho bão đến rồi sau đó lại “nổ” là làm được chuyện này
chuyện kia ?
Nghĩ đi nghĩ lại thì cũng
vui, vui vì lẽ sau những cơn bão lớn gây thiệt hại nặng nề
bắt đầu đi từ làng trên xóm dưới để quyên góp lòng hảo tâm
của mọi người. Nhưng cũng chưa xong, quyên góp xong thì thử
hỏi bao nhiêu tiền, bao nhiêu hàng thực thụ đến được tận tay
của nạn nhân. Hay là sau những lần cứu trợ đấy thì báo chí
lại phanh phui ra một mớ người “bẻ cò” lòng thương xót của
đồng bào dân tộc dành cho những người bất hạnh.
Lẽ ra đứng trước những
huyền nhiệm của cuộc đời thì người ta phải càng khiêm tốn để
cố gắng hết sức mình để khắc phục những hậu quả đáng tiếc do
sự giận dữ của thiên nhiên. Lẽ ra đứng trước cái tình thế bị
động (bởi lẽ chỉ có “ông trời”, chỉ có khí hậu, chỉ có thiên
nhiên ở thế chủ động mới biết là lúc nào có bão tố mà thôi)
đấy nên chăng thành lập một cái uỷ ban mà ta tạm gọi là Uỷ
ban khắc phục hậu quả lụt bão trung ương nghe nó êm tai hơn
chăng ?
Thử đặt mình vào vị trí
của bên chủ động về thời tiết, về thiên nhiê, về bão tố ta
sẽ cảm thấy thế nào trước một kẻ bị động mà còn ngạo nghễ !
Đã không biết vị thế mình mà còn ngạo nghễ thì hỏi rằng bên
phía chủ động có dủ lòng xót thương mà hạ giá số lượng cơn
bão hàng năm không ?
Tháng 5 lại về, tháng bão
sẽ đến. Những người nằm trong uỷ ban phòng chống lụt bão
trung ương sẽ vẫn mãi an bình trong văn phòng kiên cố của
họ, còn những người dân nghèo sẽ phải hứng chịu những tan
thương tàn khốc khi cơn bão đi qua. Liệu rằng những người
trong uỷ ban phòng chống lụt bão đó có an bình được hay
không khi mà cuộc sống của họ quá ổn định, quá sung túc còn
những người nghèo thì ngược lại.
Anmai
C.Ss.R. |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỪNG
BẢO VỆ THÁI QUÁ |
Minh! Minh! Bà mẹ đứng ở
cữa trước gọi đứa con bà 7 tuổi, đang chơi cách đó một
khoảng khá xa. Không thấy trả lời, bà bách bộ đến tận nơi nó
chơi. “Minh ơi, con không nghĩ rằng con nên mặc một chiếc áo
lạnh sao? Sáng nay lạnh lắm con ơi!” “Không, không, mẹ! Con
đủ ấm rồi.” “Mẹ nghĩ con nên mặc nó! Mẹ sẽ mang đến cho
con.” Bà mẹ trở về nhà, lấy áo trở lại, và mặc cho nó.
Bà mẹ quá lo lắng bảo vệ
cho con, có uy quyền quyết định khi nào thì con mình ấm, khi
nào thì nó lạnh. Cậu bé chấp nhận quyết định của bà vì làm
thế nó giữ được bà bận rộn với nó. Bà mẹ cung cấp những dịch
vụ không cần thiết. Từ khi bà quyết định nó cần áo lạnh, nó
vẫn ở mãi chỗ mà nó đã ở, nó không lớn lên nữa. Bằng sự thụ
động, nó bắt buộc mẹ nó về nhà và trở lại. Bà mẹ thì hoàn
toàn vô ý thức về hành động tương quan đó, nghĩ rằng tốt hơn
cho bà là nên làm như vậy.
“Mẹ, con muốn vào gian
hàng tạp hóa và mua một ít đồ. Con muốn mua một ít bánh và
một bình nước chanh.” “Không, con, Bình ơi! Mẹ không thể để
con đi một mình.” “Mẹ ơi, chỉ có cách một cây số thôi.” Cậu
bé 7 tuổi nài nĩ nhưng bà mẹ vẫn không cho phép.
Bà mẹ sợ. Bà mẹ sợ có cái
gì có thể xảy ra cho con bà nếu bà để nó đi khỏi tầm mắt của
bà. Bà cố gắng bảo vệ con bà khỏi nguy hiểm. Điều đó là ước
muốn tự nhiên và bình thường. Nhưng bà mẹ quá lo lắng. Bà mẹ
nhìn thấy đủ mọi nguy hiểm thấp thoáng ở mọi nơi. Bà lo bảo
vệ quá đáng.
Chúng ta không thể tách
rời con cái chúng ta khỏi cuộc sống. Chúng ta bắt buộc giáo
dục con cái trong sự can đảm và vững tin để đối diện với
cuộc đời. Ước muốn bảo vệ con cái khỏi những tai hại có thể
xảy ra, có thể tạo nên một kết quả làm con cái nhút nhát.
Điều đó khiến con cái trở thành vô dụng và lệ thuộc vào bà.
Và đây là một dấu chỉ cho thấy thái độ sai lầm của bà.
Với lý do là quan tâm cho
lợi ích của con cái, chúng ta giữ con trẻ chúng ta lệ thuộc
và vô dụng để chúng ta xem ra là vĩ đại và có quyền hành, và
là kẻ bảo vệ dưới con mắt của con trẻ cũng như dưới con mắt
của chúng ta. Nó đặt chúng ta vào vị thế thống trị trổi vượt
và giữ con cái chúng ta luôn thuần phục. Tuy nhiên, con cái
chúng ta ngày hôm nay sẽ không chấp nhận những cố gắng như
thế và chúng sẽ nổi loạn.
Lý do thứ hai: đằng sau
những cố gắng bảo vệ thái quá của chúng ta là nghĩ rằng
chúng ta có khả năng giải quyết những vấn đề và ít tin tưởng
vào khả năng của chúng để tự lo cho chúng.
Cách thế mà đứa trẻ đáp
ứng với những cha mẹ quá bảo vệ đó thì tùy thuộc vào mục
đích của đứa trẻ. Nó xem ra nguy hiểm, nhất là biến mình
thành vô dụng. Nó có thể đầu hàng và mong đợi được bảo vệ
mãi mãi khỏi những khó khăn của cuộc đời.
Cách đây 2 tháng, cậu bé
Đăng 6 tuổi được khám phá ra có bệnh đái đường. Nó được cho
uống thuốc mỗi ngày mà mẹ nó gọi là vitamin. Cậu bé không
được cho biết gì về tình trạng bệnh của nó. Bà mẹ nghĩ rằng
bà không muốn cậu bé trở nên bất thường. Tấât cả mọi sự bàn
tính với bác sĩ đều không có mặt của cậu bé. Bà lưu ý cậu bé
mỗi ngày rằng nó chỉ được ăn cái mà bà cho để thuốc vitamin
đó có hiệu quả. Sự quan tâm của bà mẹ có thể hiểu được.
Khi một đứa trẻ bị những
khuyết tật thể lý, chúng ta cố gắng coi nó bình thường như
có thể. Tuy nhiên, sự né tránh đối đầu và sự dối trá ít khi
có hiệu quả trong trường hợp của cậu bé Đăng nầy. Bà mẹ quá
bao bọc. Bà muốn điều khiển tình thế và mang lấy trách nhiệm
cung cấp thức ăn cho nó. Rất có thể, nó sẽ biết tình trạng
sức khoẻ của nó vì chính nó sẽ phải đối đầu với vấn đề bệnh
tật ấy. Giả như cậu bé nổi sưởi, bà mẹ sẽ nói cho nó cái đó
là gì và bà sẽ chăm sóc nó suốt thời gian đó. Khi bị sưởi,
nó không nguy hiểm như bệnh đái đường, nhưng nó xem ra là
một vấn đề có ảnh hưởng lâu dài. Nó khó cắt nghĩa hơn cho
một đứa trẻ. Tuy nhiên, 6 tuổi, cậu bé đủ khôn lớn để hiểu
rằng nó cần thuốc để giúp cơ thể làm việc. Một thái độ như
thế ngay lúc đầu sẽ giúp cậu bé phát triển một thái độ lành
mạnh về chính nó. “Có một tuyến hạch trong cơ thể con không
làm việc cách thích hợp. Chúng ta phải dùng thuốc để giúp
nó. Thuốc không thể giúp được gì nếu con bắt nó làm việc quá
nhiều. Vì thế, chúng ta phải cẩn thận về việc ăn uống.” Cậu
bé có thể dần dần ý thức rằng nó có một sự rối loạn cần nên
lưu ý, nhưng nó có thể xếp đặt việc ăn uống và vẫn có cuộc
sống bình thường. Đó là vấn đề của cậu bé. Nó cần sự giúp đỡ
và khích lệ để đối phó với vấn đề đó. Khi nó lớn dần và học
hỏi thêm về chức năng của cơ thể, sự hiểu biết về sự rối
loạn của nó cũng được tăng dần. Những thử nghiệm nước tiểu
có thể được cắt nghĩa. Đây là cách thế mà chúng ta có thể
nói nếu hạch tuyến làm việc tốt đẹp hơn. Nếu bà mẹ cảm thấy
thoải mái và hữu ích, bà nên cho cậu bé phương cách cần
thiết để nhận biết vấn đề của nó. Bao lâu bà còn che dấu, bà
chối từ cho nó quyền học cách đối phó với vấn đề.
Không có gì chán hơn là
bị bắt buộc phải làm điều không thể làm. Chúng ta không thể
sắp đặt được mọi sự và làm chủ được cuộc đời theo như ý ta
muốn. Có những cố gắng trong tuyệt vọng để làm những điều
ngoài khả năng chúng ta mà phần lớn là cho những cảnh khốn
cùng chung quanh chúng ta. Con cái chúng ta học từ chúng ta
cách chiến đấu chống lại những điều không thể tránh. Nhưng
nếu chúng ta côù gắng bảo vệ chúng quá đáng khỏi những khó
khăn và những phiền toái, đứa trẻ sẽ cảm thấy rằng chúng ta
nên tiếp tục làm như thế. Và kết quả là đưa đứa trẻ đến sự
giận dữ và hận thù – không phải không bằng lòng cha mẹ mà
thôi mà còn không bằng lòng với cuộc đời nữa vì đã không cho
phép chúng xếp đặt mọi sự theo như ý chúng muốn. Đứa trẻ hư
hỏng là đứa trẻ chóng giận dữ vì cuộc đời không dễ dàng theo
ước muốn của nó. Nhưng đó là một đòi hỏi vô ích và đáng buồn
cười. Một cách không may, đứa trẻ không mất bản tính trẻ con
hư hỏng đó khi nó lớn lên. Và đó có thể là thái độ căn bản
của nó đối với cuộc đời. Khi chúng ta cưng chìu và cố gắng
bảo vệ con trẻ chúng ta khỏi những khó khăn của cuộc đời,
đây là phần thưởng mà chúng ta trao tặng cho chúng: một sự
giận dữ vô ích đối với một thế giới đầy bạo lực.
Để tránh sai lầm đó,
chúng ta phải nhận thức rằng chúng ta không phải là Đấng
Toàn Năng. Chúng ta có bổn phận giáo dục con cái chúng ta
biết tìm ra những cách thế, những phương tiện, và những thái
độ cần thiết để đối phó với cuộc đời theo công thức nầy:
trước nhất chúng ta phải xem xét cái gì đang đối diện với
chúng ta, và rồi chúng ta tìm câu trả lời cho câu hỏi: chúng
ta có thể làm gì cho vấn đề đó? Ngay cả một đứa còn quá nhỏ
cũng có thể được hướng dẫn đi vào sự phân tích một tình thế
bất ổn bằng cách dùng những câu hỏi đơn giản.Trẻ con có bộ
não rất năng động. Chúng ta hãy hướng dẫn chúng xử dụng.
“Mẹ ơi, bé Vinh xé sách
con!” Cậu bé Vương thét lên một cách giận dữ đối với hành
động của bé Vinh em nó. Cậu bé Vương tường thuật vấn đề khó
khăn của nó và tỏ rõ phản ứng đối với vấn đề đó. Nó muốn bà
mẹ giải quyết vấn đề cho nó và làm một cái gì về vấn đề đó.
Đúng ra là muốn mẹ phạt em nó.
“Ô, cưng! Mẹ rất xin lỗi
về việc em bé đã xé cuốn sách của con. Chúng ta không thể
làm gì khác hơn về việc đó. Nhưng con có thể làm gì để em
con không xé cuốn sách khác.” Cậu bé giận dữ la lên: “Con
không biết.” “Con phải làm một cái gì để chận đứng nó.” Bà
mẹ vẫn bình thản đối diện với cơn giận dữ của cậu bé. “Con
nghĩ về điều con có thể làm và chúng ta sẽ nói chuyện với
nhau về vấn đề đó sau. Con muốn làm một cái gì bây giờ?” Bà
mẹ đi vào phóng tắm. Một lúc sau, khi cậu bé nguôi giận, bà
mẹ mới gợi lại đề tài. Cậu bé vẫn còn nhớ sự bất công, thoạt
đầu trả lời với sự thù hận nhưng bà mẹ nói vòng quanh: “Con
ơi, chúng ta không thể chận đứng em con làm việc đó, con
cũng biết điều đó. Chúng ta có thể làm được điều gì khác?”
Bằng những câu hỏi liên tục, cuối cùng bà có thể làm cho cậu
bé thấy được rằng nó có thể giữ những cuốn sách của nó ngoài
tầm tay của nhóc tì em nó.
Cảm giác trổi vượt hơn
những đứa con trẻ làm chúng ta nghĩ rằng chúng quá nhỏ để
giải quyết vấn đề. Ấn tượng sai lầm nầy phải được ý thức và
được thay thế bằng sự tín thác và tin tưởng vào khả năng của
đứa bé cũng như sự ước muốn cung cấp việc hướng dẫn. Chắc
chắn chúng ta không được bỏ lơ con trẻ mặc cho số phận, cũng
không nên để đứa bé chịu quá nhiều ảnh hưởng của cuộc đời
trong cùng một lúc. Chúng ta dùng đầu óc chúng ta. Chúng ta
là những người đã có quá nhiều kinh nghiệm của cuộc đời.
Chúng ta sẵn sàng đi trước dẫn lối cho con cái chúng ta để
chúng biết được sức mạnh của chúng đối với cuộc đời đã được
bao nhiêu. Và chúng ta tiến hành tiến trình giáo dục như thế
ngay từ ngày nó được sinh ra. Từng bước, từng bước với sự
chăm sóc và hướng dẫn, chúng ta dần dần mớm cho con trẻ
chúng ta từng bước của cuộc đời với những gian lao thử thách
cũng như với những thoải mái của cuộc sống.
Lm. Lê văn Quảng, tiến sĩ tâm
lý.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Với Mẹ Maria
-
Dưới bóng Thánh Thần |
Tác
phẩm: Cầu Nguyện Cá Nhân: Bí quyết tình yêu và vui sống
Lm. Micae-Phaolô
Trần Minh Huy, pss.
Phần thứ ba:
Cẩm Nang Chỉ Đường
năm
Với Mẹ Maria
Dưới bóng Thánh Thần
Trong túi tôi luôn
có tràng chuỗi. Khi chỉ có một mình, tôi thầm thĩ lần chuỗi.
Người thời đại có lắm thứ thẻ: thẻ căn cước, thẻ tín dụng,
thẻ bảo hiểm, thẻ điện thoại... Một cách nào đó, tràng chuỗi
là thẻ truyền thông với trời. Từ thế kỷ thứ V, người ta đã
cầu nguyện với phần đầu của kinh Kính Mầng là lời của Thiên
sứ Gabriel và bà Isave (Truyền Tin và Thăm Viếng). Phần hai
được thêm vào từ thế kỷ XV theo lối kinh cầu: “Thánh Maria,
Đức Mẹ Chúa Trời, xin cầu cho chúng con.’’ Từ thời kỳ nầy đã
phát sinh Chuỗi Mân Côi, người bình dân đọc 150 kinh Kính
Mừng thay cho 150 Thánh Vịnh, lấy căn bản là suy niệm mười
lăm mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng. Nay Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II thêm “Năm Sự Sáng” nữa. Các giai đoạn cuộc đời
Chúa Cứu Thế được rảo qua cùng Mẹ Maria.
Cũng như mọi hình
thức cầu nguyện khác, cái chính yếu của Chuỗi Mân Côi nằm ở
tinh thần hơn là lời đọc. Cái ưu tiên ở đây là sự gặp gỡ
thực sự với Đức Trinh Nữ Maria. Không có Mẹ, bạn không thể
nào thâm nhập vào mối thân thiết với Thánh Tâm Chúa Giêsu
được. Thực vậy, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói:
“Ngay từ buổi đầu, Giáo Hội đã ngắm nhìn Mẹ Maria qua Chúa
Giêsu, cũng như Giáo Hội đã chiêm ngắm Chúa Giêsu qua Mẹ
Maria’’. Cái khó là khám phá ra được “cái bí quyết của Đức
Mẹ’’ như thánh Grignon de Montfort gọi. Kho tàng ấy che
khuất khỏi con mắt phàm nhân. Những kỳ công Thiên Chúa đã
thực hiện nơi Mẹ được chôn giấu trong thinh lặng, “dưới bóng
Thánh Thần’’.
Bạn hãy cầu xin cho
được hiểu ra điều đó. Nhiều người trẻ đã nhận được ơn đó qua
cuộc hành hương Đền Thánh Đức Mẹ. Đây là lời chia sẻ của một
thanh niên 19 tuổi sau cuộc Đại Hội Thánh Thể ở Lộ Đức năm
1981: “Tại đây, tôi đã khám phá được Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ
của Giáo Hội, Mẹ Maria của tôi... Làm sao có thể không biết
Mẹ, mà Chúa Giêsu đã ban làm Mẹ của chúng ta. Từ đây, tôi ký
thác mọi sự cho Mẹ, vì Mẹ biết rất rõ con của Mẹ. Nhờ Mẹ
Maria, tôi khám phá được tình yêu của Thiên Chúa, Tình Yêu
của người cha cho con cái’’.
Một thiếu nữ cũng
làm chứng: “Lúc Rước Lễ Trọng Thể, sau lời cầu nguyện với
Đức Mẹ, tôi đã thêm rằng ‘nếu có bao giờ con chống lại Con
Mẹ, thì xin cho con cũng không bao giờ rời tay Mẹ’. Sau đó,
trong những năm đen tối chống lại Thiên Chúa, tối nào tôi
cũng đọc ít nhất một kinh Kính Mừng. Mẹ đã đùm bọc tôi rất
nhiều và cuộc trở lại của tôi xảy ra trong cuộc hành hương
Thánh Thể tại đền thánh Đức Mẹ. Tôi có thể nói rằng khi ta
kêu xin Người, Mẹ Maria không bao giờ buông tay và còn cho
ta cảm nhận được sự che chở từ mẫu của Mẹ’’.
Thiên đàng của
Chúa
“Kính Mừng Maria
đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Mẹ’’
Lời Truyền Tin mở ra
mọi cánh cửa của các mầu nhiệm vui mừng: niềm vui của các
thiên thần, niềm vui của con cái Thiên Chúa, niềm vui của
mọi tạo vật, niềm vui của Mẹ Maria. Bạn có thể kín múc đầy
tràn kho tàng vô tận Thiên Chúa đã muốn đặt để nơi Mẹ cho
chúng ta. Mẹ Maria là tạo vật vô tội, hoàn toàn vô tội. Mẹ
đã bất ngờ mạc khải cho Bernadette ở Lộ Đức: “Ta là Mẹ Vô
Nhiễm.’’ Mẹ ý thức rằng mọi sự đều được ban nhưng không cho
Mẹ, Mẹ chẳng có công trạng gì riêng, ngoại trừ luôn nói
‘’xin vâng’’ với Chúa. Càng ý thức những kỳ diệu Chúa đã làm
cho mình, Mẹ càng tràn đầy lòng biết ơn. Lời kinh Magnificat
của Mẹ diễn tả rõ ràng trái tim tràn ngập tình yêu sung mãn
của Mẹ.
Ơn cứu chuộc nhân
loại được sung mãn nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu
(CĐ.Vat.II, Ánh Sáng Muôn Dân số 60) và chỉ một mình Chúa
Giêsu, nhưng Ngài đã muốn đổ xuống cho chúng ta qua Đức Mẹ.
Từ nay, Ngài muốn rằng mọi sự trao đổi giữa Ngài với chúng
ta phải qua Đức Mẹ. Vì thế bạn phải ký thác trọn vẹn cho Mẹ.
Nhưng bạn hãy coi
chừng, có những kẻ chú giải làm biến dạng vai trò của Mẹ
Maria và tập trung nơi Mẹ mọi sự tôn thờ như là đối với
Thiên Chúa. Không, ta không tôn thờ Đức Mẹ, nhưng ta tôn thờ
Thiên Chúa nơi Mẹ, hai việc rất khác biệt. Có thể diễn tả Mẹ
như vàng ròng trong suốt, nghĩa là Mẹ nhận lãnh mọi sự từ
Thiên Chúa và không giữ lại gì cho Mẹ. Trên chiếc thang bắc
thẳng lên trời, Mẹ là bậc đầu tiên, là người hướng dẫn chìa
tay ra giúp ta dễ bước lên. Nhờ Mẹ, Chúa Giêsu không còn quá
trừu tượng, quá lý tưởng khiến con người không tiếp cận
được. Nhờ Mẹ, Chúa đặt một góc thiên đàng giữa lòng thế giới
tội lỗi. Tất cả chiến thuật của Chúa là tưới gội mặt đất già
cổi của chúng ta từ cái điểm nhỏ bé nầy, “nơi Người là mọi
suối nguồn của chúng tôi’’ (TV.86,7).
Nơi nương ẩn cho
người có tội
‘’Thánh Maria Đức
Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nầy và
trong giờ lâm tử’’
Lời cầu xin nầy có
thể thích hợp cho bất cứ ai. Nơi đây, bạn đặt mình ở điểm
khởi hành, từ con số không, làm bạn đồng hành cùng những
người tội lỗi nhất. Bạn kết nối với lời kêu cứu của những
người bất hạnh bên bờ vực thẳm: Mẹ ơi, cứu con với! Khi bị
cạm bẩy tội lỗi hay khi gặp đau khổ khốn khó, bạn hãy kíp
chạy đến nơi ẩn núp của lòng từ mẫu Mẹ, như một trẻ sơ sinh.
Chính dưới chân thập giá mà Mẹ đã trở nên “Mẹ Nhân Lành’’
của tất cả mọi người. Chính ở đó, “Mẹ đã đau khổ cực độ cùng
Con Một, liên kết với hiến tế của Con bằng trái tim từ mẫu
của Mẹ, thuận ý bằng tình yêu với lễ vật sinh bởi thân xác
Mẹ’’ (Vat.II, ASMD số 58).
Bạn hãy chậm rãi đọc
lại câu căn bản nầy của Công Đồng, mỗi chữ đều được cân nhắc
kỹ. Đàng sau các lời ấy là một sự đồng cảm vô tận. Mẹ Sầu Bi
đã ngắm nhìn “hoa quả lòng Mẹ” bị hành hình trên thập giá.
Bị đâm thâu, Mẹ hiến dâng cùng Con vì phần rỗi của mọi tội
nhân. Không bao giờ trong lịch sử nhân loại có một người đàn
bà đã trải qua một cuộc tử đạo dường ấy. Những gì Chúa chịu
trên thân xác thì Mẹ chịu trong trái tim Người. Ngoài những
khổ đau thể lý, chúng ta không thể nào cân nhắc được sự rộng
lớn và sâu thẳm của mầu nhiệm ấy.
Lời tâm sự của Thánh
nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu giúp chúng ta đoán biết được cường
độ đồng cảm tình yêu giữa Trái Tim Chúa Giêsu và Trái Tim Mẹ
Maria nơi giới hạn tận cùng của cái chết: “Tôi bắt đầu đi
Đàng Thánh Giá, bỗng chốc tôi bị tình yêu Chúa mãnh liệt
chộp lấy mà tôi không giải thích được thế nào, dường như tôi
hoàn toàn bị chìm ngập vào trong lửa. Ôi, lửa và sự dịu dàng
cùng lúc! Tôi cháy lửa yêu mến và tôi cảm thấy, nếu thêm một
phút nữa, một giây nữa thôi, thì chắc tôi không thể chịu
đựng nổi sức nóng ấy mà không chết’’.
Vâng, trọn vẹn liên
kết với hiến tế của Con, Mẹ Maria đã hoàn toàn bị tiêu hao
bởi cùng một lửa tình yêu như Con. Và Chúa Giêsu đã dứt
khoát chọn giờ phút nầy để gởi gắm Mẹ cho chúng ta qua môn
đệ Gioan: “Thưa Bà, đây là con Bà... Đây là mẹ con. Từ lúc
ấy, môn đệ đưa Người về nhà mình’’ (Jn.19, 26-27).
Như Têrêxa Nhỏ, từ
nay bạn hãy nương ẩn dưới áo Mẹ. Sự đồng cảm phổ quát của Mẹ
khiến Mẹ hiểu hết tất cả mọi nhu cầu của chúng ta, với tất
cả sự nhạy cảm tế nhị như ở tiệc cưới Cana. Mẹ tin tưởng cầu
bàu cho chúng ta bên cạnh Chúa Giêsu và Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mẹ trở nên Người Kêu Xin Đầy Quyền Năng, đến độ Mẹ có thể
lấy lại Lời Chúa Giêsu đã thưa cùng Chúa Cha: “Con biết Cha
luôn luôn nhậm lời con’’ (Jn.11,42). Thiên Chúa vui lòng để
cho Mẹ diễn tả lòng thương xót vô cùng của Ngài, theo cách
từ mẫu của Mẹ. Chính vì thế mà khi lần chuỗi, ta đọc đến
mười kinh Kính Mừng cho một kinh Lạy Cha. Với sự khốn khó
của mình, tốt hơn bạn hãy ở lâu với Mẹ Maria, lời cầu nguyện
của bạn sẽ nên khiêm tốn hơn, nhưng được thanh luyện, được
bao bọc và được nên đẹp đẽ nhờ lời chuyển cầu hoàn hảo của
Mẹ, nó sẽ đi thẳng tới Trái Tim Chúa .
Suy niệm những mầu
nhiệm đau khổ thập giá, bạn đừng sợ ẩn náu nơi Mẹ Maria.
Trong mọi sự, bạn hãy luôn chạy đến với lời cầu xin từ mẫu
của Mẹ. Bạn hãy luôn ở bé nhỏ đối với Mẹ. Tôi rất thích lặp
lại câu nầy: “Dù con lớn bao nhiêu tuổi, con vẫn là con của
Mẹ. Và dù con có đi tới cùng trời cuối đất, thì lòng Mẹ vẫn
hằng theo con.’’
Bạn hãy nghe một em
bé giải thích mẫu tượng Đức Mẹ bồng ngữa Chúa Giêsu: “Nó
tượng trưng tất cả những gì em có được, Mẹ Maria và Chúa
Giêsu của em. Hãy nhìn hai khuôn mặt Chúa và Mẹ nhìn nhau và
thử đoán xem em ở chổ nào đối với hai người? Em ở giữa Trái
Tim Chúa Giêsu và Trái Tim Mẹ Maria. Đó là chổ mà em thích
nhất, vì em được nghe hai trái tim đập và em thở cùng nhịp
với chúng. Chỗ của em ở đó vì em quá nhỏ bé và yếu đuối, em
phải được che chở. Nhưng hãy tin chắc rằng vẫn có đủ chỗ cho
tất cả mọi người. Em nằm nơi cổ Chúa Giêsu và em được chấn
lại để ít dễ bị ngã hơn.’’
Mẫu gương của các
thánh
‘’Mẹ được chúc
phúc hơn mọi người nữ...’’
Vâng, Mẹ Maria là
thánh, ở mức độ không thể nào vượt qua được đối với một tạo
vật. Nhưng không có nghĩa là mọi sự đã được an bài trước và
Mẹ không có một tiến bộ nào. Đức Gioan Phaolô II, trong
Thông điệp Mẹ Đấng Cứu Thế, nói rằng cuộc đời của Mẹ như một
cuộc hành hương đức tin, mỗi ngày một lớn lên, cho đến hiến
tế cao độ nhất. Rồi tấm lòng từ mẫu thiêng liêng của Mẹ soi
sáng Giáo Hội. Sau thời gian thập giá là thời gian các mầu
nhiệm vinh hiển. Hiện diện giữa lòng cộng đoàn tín hữu đầu
tiên, Mẹ tỏa chiếu quyền năng Chúa Thánh Thần cho tất cả
những ai đến với cộng đoàn.
Những ai đi qua Mẹ
đều được uốn nắn theo hình ảnh của Đấng Thánh Độc Nhất là
Chúa Giêsu Kitô. Công Đồng Vat.II nhấn mạnh nhiều về điểm
đó: “Mẹ Thiên Chúa là gương mẫu của Giáo Hội trong lãnh vực
đức tin, bác ái và sự kết hiệp hoàn hảo với Chúa Kitô.’’
Những ai đến nương ẩn nơi Mẹ đều được làm thay đổi con tim
và tính tình. Nương tựa không có nghĩa là ấu trĩ. Tuy nhiên
cũng phải tránh những tình cảm vô bổ, ‘mê tín’...
Muốn thế, cần thiết
phải nội tâm hóa việc sùng kính Đức Mẹ, không chỉ nhìn Mẹ
như một con người được đặt trước mặt bạn, nhưng là một hiện
diện sống động ở trong bạn. Bí quyết của Đức Mẹ triệt để có
tính cách nội giới. Nhờ Mẹ, Thiên Chúa muốn cho chúng ta
hiểu được rằng cái chính yếu của đời sống chúng ta là ở
trong cuộc hành hương nội giới. Ngài chờ đợi chúng ta đủ khó
nghèo để nhận lãnh sự giáo dục mới cho tâm hồn chúng ta.
Nếu bạn muốn để Đức
Mẹ uốn nắn bạn, bạn hãy nghe lời khuyên của thánh Grignon de
Montfort: “Cần phải làm mọi việc trong Mẹ Maria, nghĩa là
phải tập quen dần dần hồi tâm hầu tạo nên trong chính mình
một ý tưởng hay một hình ảnh thiêng liêng về Trinh nữ Maria.
Mẹ sẽ là nhà cầu nguyện cho linh hồn dâng lên Thiên Chúa
những lời nguyện cầu của mình.’’
Đặc sủng tận hiến
cho Mẹ Maria dẫn tới sự tước bỏ tất cả vì Mẹ: của cải vật
chất, sức khoẻ thể lý, dự tính nhân loại, nhất là các lợi
ích thiêng liêng. Bỏ đi tất cả tinh thần sở hữu, ngay cả
những công nghiệp mà các hành động tốt mang lại cho chúng
ta. Tuyệt đối khiêm nhượng, khó nghèo thiêng liêng, hoàn
toàn sẵn sàng thưa ‘’xin vâng’’ với Chúa. Mẹ Maria chỉ có
một sự vội vã là chuyển sang cho bạn ngọn lửa ở trong Mẹ và
giao phó Mẹ cho thánh ý Thiên Chúa. Mẹ biết cách làm cho lời
Fiat của bạn thành Magnificat. Khi tinh thần của Mẹ Maria
cháy lên trong bạn và vươn cao như ngọn lửa vui mầng, bạn có
thể lấy lại chính những lời của Mẹ, nhất là sau Hiệp lễ, bạn
hãy kết hiệp với Mẹ mà hát lên “Linh hồn tôi ngợi khen
Chúa, thần trí tôi nhảy mừng trong Đấng Cứu Chuộc tôi’’. Chớ
gì lời tạ ơn nội tâm của bạn liên kết với mọi anh chị em bạn
làm nên lời kinh Magnificat vĩ đại của Giáo Hội lữ hành.
Lạy Mẹ
Đấng Cứu Thế,
Là Cửa
Trời luôn rộng mở,
Là Sao
Biển ngời sáng,
Xin hãy
đến cứu dân vấp ngã,
đang tìm chổi
dậy.
Vạn vật
bỡ ngỡ:
Mẹ đã
sinh ra Đấng dựng nên Mẹ,
mà vẫn
mãi mãi khiết trinh.
Mẹ hãy
nhận lấy lời chào thiên sứ Gabriel
Và
thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Bệnh Tay-Chân-Miệng |
Trong những
năm vừa qua, thứ dân tại mấy quốc gia Đông Nam châu Á luôn
luôn gặp phải những thiên tai, bệnh tật. Nào là cơn sóng
thần tại Thái Lan, bệnh SARS, bệnh cúm gia cầm, bệnh
Chân-Tay-Miệng…Bây giờ lại tới bão xoáy ở Miến Điện với
nhiều chục ngàn tử vong, trên triệu người không nhà cửa,
không lương thực, thiếu thuốc men, chăm sóc, động đất tại
Trung Quốc với cả ngàn người thiệt mạng.
Riêng với
bệnh Chân-Tay-Miệng thì bệnh đang là mối luu tâm của nhà
chức trách y tế tại Trung Quốc, Việt Nam, Hồng Kông .
Theo báo
cáo mới nhất, tại Trung Quốc hiện nay đã có 28000 người
nhiễm bệnh Tay-Chân-Miệng với số tử vong là 42 người. Bệnh
xảy ra từ tháng 3 mà mãi tới đầu tháng 5, chính quyền Trung
quốc mới lên tiếng báo động và đưa ra các biện pháp phòng
chữa. Dư luận thế giới có cảm tưởng rằng sự báo động này quá
trễ, chẳng khác chi trước đây họ đã trì hoãn công bố về dịch
cúm gia cầm. Nhưng đại diện Y tế Thế giới Hans Troedsson tại
Trung Quốc nói là lúc ban đầu, các trường hợp xảy ra không
rõ ràng. Ông cũng cho biết dịch bệnh Tay-Chân-Miệng không
gây ảnh hưởng cho Thế vận hội vào tháng 8 tới, vì bệnh nhân
hầu hết là trẻ em, sống xa thành phố Bắc Kinh.
Tai Việt
Nam, bệnh Chân-Tay-Miệng đang phát triển nhanh ở các tỉnh
phía nam như Sài Gòn, Kiên Giang, Đồng Tháp, Bình Dương,
Ninh Thuận, Quy Nhơn, Đà Nẵng và sẽ xảy ra ở các tỉnh phía
bắc vào những tháng tới khi thời tiết ấm nắng. Trong tháng
4, riêng bệnh viện Nhi Trung Ương 1 ở Sài Gòn đã nhận từ
40-50 bệnh nhân một ngày, nhiều gấp đôi so với tháng 3. Bệnh
viện Nhi 2 từ đầu năm nhập viện 800 trẻ trong đó 10% bị viêm
thần kinh, tim. Theo Cục trưởng Cục Y tế Dự Phòng Nguyễn Huy
Nga, tới tháng 4 vừa qua, tại Việt Nam đã có khoảng 3000 trẻ
em bị bệnh với 10 tử vong. Cũng như tại Trung Quốc, đa số
bệnh ở Việt Nam do EV71 gây ra.
Cục Trưởng
Cục Khám Chữa Bệnh Lý Ngọc Kính cho hay Hội đồng Chuyên Môn
Bộ Y Tế sẽ đưa ra Hướng dẫn điều trị bệnh Chân-Tay-Miệng
trong tuần này. Giới chức y tế đã phát động chương trình
hướng dẫn dân chúng để ý tới bệnh và các phương thức phòng
chống. Đồng thời, ban kiểm dịch tại phi trường Nội Bài đã
được lệnh từ Sở Y tế thành phố Hà Nội, đo thân nhiệt khách
nhập cảnh đến từ các quốc gia có dịch Chân-Tay-Miệng như
Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Hồng Kông, nếu mang dấu
hiệu bệnh như bóng nước trên da, miệng lở. Cũng theo các
giới chức y tế Việt Nam, bệnh có hai thời kỳ xuất hiện: đợt
dầu là tháng 4 tháng 6 rồi giảm dần cho tới đợt thứ hai từ
tháng 9-12.
Tiếng Anh
của bệnh Chân-Tay-Miệng là Foot-Hand-Mouth disease.
Nguyên
nhân
Tác nhân
gây bệnh là các virus đường ruột (enterovirus), thông thường
nhất là loại coxackiesvirus A16, đôi khi loại enterovirus 71
(EV71). Các coxackiesvirus A9, A10, B1, B5 cũng gây ra bệnh
tương tự như bệnh Chân-Tay-Miệng.
Bệnh xảy ra
ở khắp mọi nơi trên thế giới, theo mùa tại vùng có khí hậu
ôn hòa với cao độ là cuối hè đầu thu. Vùng nhiệt đới bệnh có
quanh năm.
Hiện nay,
tại Trung Quốc và Việt Nam virus đường ruột EV71 đang là tác
nhân gây bệnh chính.
EV 71 được
tìm ra đầu tiên tại tiểu bang California, Hoa Kỳ vào thời
gian từ năm 1969- 1972, ở một số bệnh nhân Tay Chân Miệng
với biến chứng viêm màng não, màng tim. Sau đó, EV71 xuất
hiện tại nhiều quốc gia.
Năm 1975,
dịch EV 75 xảy ra ở Bulgarie với 44 tử vong, năm 75 tại Hung
Gia Lợi với 45 tử vong. Trong 5 năm vừa qua, dịch EV71 xuất
hiện ở Mã lai năm 1997 với 30 tử vong, Đài Loan năm 1998 với
78 tử vong và năm 2001 với 26 tử vong, dải đất Gaza năm1997,
Cyprus năm 1996.
Thành
phố
Denver, Colorado Hoa Kỳ có một số trường hợp bệnh
Chân-Tay-Miệng do EV71 gây ra vào thời gian từ năm
2003-2005.
Enterovirus
EV75
gây ra
nhiều tổn thương thần kinh như viêm màng não vô nhiễm
(aseptic meningitis), liệt tương tự bệnh tê liệt cột sống
(poliomyelitis), viêm cuống não và viêm cơ tim. Viêm cuống
não là trầm trọng nhất với tỷ lệ tử vong rất cao, 40-80%.
Bệnh
Chân-Tay-Miệng chỉ thấy ở loài người và xảy ra nhiều hơn ở
trẻ em từ 4 tháng tới 6 tuổi. Trẻ nam có tỷ lệ bệnh cao hơn
trẻ nữ. Tại các quốc gia yếu kém về kinh tế, trẻ đã bị nhiễm
bệnh ngay từ tấm bé trong khi đó tại nơi có nền kinh tế khá
hơn thì bệnh xuất hiện trễ, ở tuổi trung niên. Người lớn
cũng có thể mắc bệnh nhưng rất hiếm.
Tác nhân
Enterovirus tập trung trong đường ruột người bệnh và tồn tại
trong phân tứ 1-18 tuần lễ sau khi lành bệnh, trong miệng từ
1- 4 tuần lễ. Virus cũng tìm thấy trong đất cát, nước, rau,
tôm cua và là nguồn lây lan bệnh qua ăn uống với thực phẩm
nhiễm virus.
Đôi khi có
sự hiểu lầm giữa hai bệnh Tay-Chân-Miệng với bệnh Chân-Miệng
(Foot-Mouth disease) ở súc vật như heo, cừu bò vì tên bệnh
hao hao như nhau. Hai bệnh không liên hệ với nhau và do
những virus khác nhau gây ra. Cả hai bệnh đều do họ virus
Picornaviridae, nhưng bệnh Chân-Tay súc vật là do loại
Aphthovirus còn bệnh Chân Tay Miệng ở người là do các virus
đường ruột Enterovirus.
Xin nhắc
lại là virus khác với vi khuẩn hay vi trùng, (bacteria).
Vi khuẩn là
các đơn bào, có nhân di truyền DNA, sinh sản bằng cách tự
phân đôi, có thể sống ngoài không gian. Đa số vi khuẩn lành
tính, chỉ có một số nhỏ gây bệnh. Bệnh chữa được bằng kháng
sinh.
Virus là
những hạt có một ít DNA bao bọc bằng màng protein. Virus rất
nhỏ mà chỉ kính hiển vi điện tử mới nhìn thấy. Muốn sống,
virus cần một tế bào “chủ trọ”. Khi đã ngự trị trong chủ
trọ, DNA của virus tiêu hủy DNA của ân nhân và tạo ra nhiều
phiên bản. Tế bào chủ tan vỡ, các phiên bản virus tung ra
khắp cơ thể, gây bệnh. Virus có thể nằm yên cả mươi năm rồi
một lúc nào đó bừng tỉnh và gây bệnh. Kháng sinh không chữa
được bệnh do virus gây ra. Một virus bị tiêu diệt thì loại
virus mới sẽ xuất hiện và nguy hại hơn.
Triệu
chứng
Tay Chân
Miệng có các dấu hiệu đặc biệt ở miệng và tứ chi.
Bệnh bắt
đầu với cơn sốt nhẹ, người bệnh thấy mệt mỏi, chán ăn uống.
Vài ngày sau, trên da nổi lên những chấm ban đỏ rất nhỏ,
chừng vài mm. Các chấm này sẽ lớn lên thành mụn nước hoặc mủ
mầu trắng đục, hình bầu dục với viền mầu đỏ. Dấu hiệu trên
da tập trung ở:
- Trong
lòng bàn tay, ngón tay
- Gan bàn
chân, ngón chân
- Hai bên
miệng, lưỡi, nướu răng, cuống họng có những vết loét lở.
- Bóng nước
đôi khi có ở hai bên mông hoặc các vùng khác của cơ thể.
Các vết
trên da không gây ngứa nhưng hơi đau khì đè ngón tay lên.
Loét trong
miệng và cuống họng gây đau, khiến cho bệnh nhân từ chối ăn,
uống và có thể đưa tới thiếu nước cơ thể.
Ở giai đoạn
này, bệnh Chân Tay Miệng có thể nhầm với bệnh thủy đậu hoặc
viêm mụn nước do vi khuẩn.
Nói chung
bệnh Chân Tay Miệng không trầm trọng và hầu hết bình phục
sau một tuần lễ.
Tuy nhiên
nếu tác nhân là loại virus EV71 thì bệnh nặng hơn.
Virus EV71
gây tổn thương cho não bộ, đưa tới viêm màng não và não.
Bệnh nhân rơi vào tình trạng rối loạn tâm trí, co giật và có
thể đưa tới tử vong. May mắn là trường hợp này cũng hiếm.
Tuy nhiên,
hiện nay, EV71 đang là mầm gây ra bệnh Tay Chân Miệng ở
Trung quốc, Việt Nam.
Lây
lan bệnh
Bệnh lây
lan vừa phải từ người qua người, do tiếp xúc trực tiếp với
nước mũi, nước miếng, nước từ các bóng nước, khi bệnh nhân
hắt hơi, nhảy mũi và trong phân người bệnh.
Những ngày
đầu của bệnh là thời gian lây lan mạnh nhất và virus tồn tại
trong phân cả mấy tuần lễ sau khi không còn dấu hiệu bệnh.
Bệnh cũng có thể truyền qua đường hô hấp khi bệnh nhân ho
hoặc hắt hơi, sổ mũi. Nước miếng chẩy ra từ em bé bị bệnh có
nhiều virus và rất lây. Cho tới khi các bóng nước trên da
khô lành, bệnh nhân vẫn là nguồn lây lan quan trọng.
Là bệnh
nhiễm nhưng không phải ai nhiễm virus cũng bị bệnh. Trẻ em
dưới 10 tuổi thường hay bị bệnh hơn cả vì các em chưa có hệ
thống miễn dịch hoàn hảo.
Phụ nữ có
thai chưa mắc bệnh bao giờ, cũng có thể bị bệnh
Tay-Chân-Miệng nhưng may mắn là bệnh thường nhẹ và không có
triệu chứng. Nếu mắc bệnh trước khi sanh thì bệnh của mẹ có
thể lây sang con nhưng không gây tổn thương cho các bộ phận
của hài nhi..
Trẻ em sinh
hoạt chung với nhau ở nhà giữ trẻ, mầm non, trường học cũng
là môi trường tốt cho bệnh lan truyền từ em này sang em
khác.
Đã mắc bệnh
đều có miễn dịch với virus của kỳ này và vẫn có thể mắc bệnh
với virus khác cùng nhóm.
Chẩn
đoán
Chẩn đoán
căn cứ trên tuổi tác của bệnh nhân, các dấu hiệu của bệnh,
khám miệng và quan sát các mụn nước trên da.
Đôi khi,
bác sĩ cũng làm thử nghiệm kiếm tác nhân gây bệnh với mẫu
phết cuống họng và phân người bệnh. Trên thực tế, vì cần
nhiều ngày mới có kết quả nên thử nghiệm ít khi được áp
dụng.
Điều
trị
Bệnh Tay
Chân Miệng thường không cần điều trị vì đa số tự lành trong
thời gian từ 7-10 ngày.
Bệnh không
điều trị bằng kháng sinh vì kháng sinh không công hiệu với
virus.
Bệnh có thể
chữa và chăm sóc tại nhà với:
- Trẻ tham
dự mẫu giáo, mầm non bị bệnh nên để ở nhà để tránh lan bệnh
cho trẻ khác
- Cho trẻ
uống nhiều nước lạnh để tránh khô nước. Có thể cho trẻ ăn
kem, que nước đá có hương vị (popsicles).
- Để tránh
đau thêm cho các vết lở ở miệng, không cho uống nước có chất
chua hoặc cay, như nước cam hoặc thức ăn cứng.
- Cho trẻ
ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng lỏng, tránh thực phẩm còn quá
nóng.
- Giảm sốt
và đau cơ thể với thuốc chống đau acetaminophen (Tylenol,
paracetamol) hoặc ibuprofen (Advil).
- Không cho
bé uống aspirin vì thuốc này có thể gây ra hội chứng Reyes
rất trầm trọng với tổn thương hệ thần kinh.
- Nếu trẻ
xúc miệng được, xúc miệng với dung dịch nước muối (một thìa
muối pha trong một ly nước ấm) để giảm đau lở loét trong
miệng.
- Thoa kem
gây tê trên vết thương ngoài da.
- Không làm
vỡ bóng nước để tránh nhiễm độc với các vi khuẩn khác. Bình
thường, bóng nước tự khô lành trong mươi ngày.
- Tránh
tiếp xúc với chất lỏng của mụn nước, có rất nhiều virus.
Trẻ em cần
được đưa vào bệnh viện cấp cứu nếu có các triệu chứng như:
- Trẻ dưới
3 tuổi liên tục nóng sốt quá 3 ngày.
- Dấu hiệu
khô nước như miệng khô, mất cân, lơ đãng, đi tiểu ít.
- Mất ngủ,
cáu kỉnh, hoảng hốt.
- Bụng
trướng, ói mửa, sợ ánh sáng, co giựt cơ thể.
- Khó thở,
đổ mồ hôi lạnh, nhịp tim tăng nhanh
- Đi đứng
không vững, chân yếu.
Phòng
tránh
Hiện nay
chưa có thuốc chủng ngừa bệnh Chân Tay Miệng.
Ý kiến
chung là bệnh Chân, Tay, Miệng cũng hơi trở ngại trong việc
phòng tránh vì đa số nguồn gây bệnh không có triệu chứng rõ
rệt. Tuy nhiên, nếu giữ gìn được vệ sinh cá nhân thì nguy cơ
lây nhiễm bệnh giảm rất nhiều.
Sau đây là
các điều cần làm:
- Hướng dẫn
mọi người trong nhà nên rửa tay thường xuyên, đặc biệt là
sau khi thay tã cho trẻ bị bệnh vì virus có thể còn sống
trong phân cả nhiều tuần lễ sau khi bệnh lành.
- Đừng để
trẻ em chơi chung đồ chơi với trẻ khác
- Không ôm
hôn khi trẻ đang bị bệnh.
- Hướng dẫn
trẻ che mũi miệng khi ho hoặc hắt hơi bằng giấy lau rồi vất
riêng.
- Mang bao
tay cao su khi thoa phấn, kem, chăm sóc thay tã cho trẻ.
- Tẩy rửa
bàn ghế, sàn nhà, vật dụng nhiễm virus với dung dịch nước
pha với chất tẩy chlorine.
- Không
dùng chung chén bát, đũa thìa, khăn mặt với người bệnh.
- Trẻ em bị
bệnh nên giữ ở nhà. Gia đình nên thông báo với trường học,
lớp mẫu giáo, mầm non về tình trạnh bệnh của con em.
- Trẻ bị
bệnh chỉ nên trở lại trường sau 2 tuần lễ hết dấu hiệu,
triệu chứng.
Kết
luận
Bệnh
Chân-Tay-Miệng tuy lành nhưng rất hay lây, đôi khi nguy
hiểm.
Để tránh
lây lan, nên bảo vệ vệ sinh môi trường, vệ sinh dụng cụ đồ
chơi của trẻ em, bảo đảm an toàn thực phẩm nước uống, loại
bỏ phân trẻ bị bệnh.
Riêng với
các em tại trường mẫu giáo, mầm non, nên cố gắng để các em
không tiếp xúc quá gần với nhau và tẩy rửa đồ chơi khi các
cháu chung vui.
Tuy là
không bắt buộc khai báo, nhưng nếu bệnh Chân-Tay-Miệng xảy
ra nhiều tại địa phương, trường học, nên thông báo cho cơ
quan y tế để được theo dõi và áp dụng phương thức phòng
tránh lây lan.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
Texas-Hoa Kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
TÚI TIỀN - Chuyện
phiếm của Gã Siêu |
Ngày nọ Khổng Tử cùng
học trò đi dạo, thấy một đứa nhỏ lấy gạch vụn xây thành ở
giữa đường đi, bèn bảo :
- Cháu tránh chỗ cho xe
ta qua.
Đứa nhỏ đáp :
- Từ xưa đến nay, xe
phải tránh thành, chứ thành nào phải tránh xe.
Khổng Tử nói :
- Cháu còn nhỏ, sao ăn
nói quỷ quyệt thế ?
Đứa nhỏ đáp :
- Con thỏ sinh ra ba
ngày thì biết chạy, con cá ba ngày thì biết lội, con người
ba tuổi thì có trí khôn, sao ngài lại gọi tôi là quỷ quyệt ?
Khổng Tử hỏi :
- Cháu ở đâu, tên gì ?
Đứa nhỏ đáp :
- Cháu ở nơi quê mùa,
họ Hạng, tên Thác.
Khổng Tử nói :
- Ta muốn cùng cháu đi
dạo chơi quanh vùng, có được chăng ?
Đứa nhỏ đáp :
- Nhà cháu có cha
nghiêm cần phải thờ, có mẹ hiền cần phải nuôi, có anh lành
cần theo, có em nhỏ cần phải dạy, có thầy sáng cần phải học,
rảnh đâu mà đi rong chơi với ngài.
Khổng Tử nói :
- Vậy trên xe có sẵn
bàn cờ, ta cùng cháu đánh chơi vài bàn cho vui.
Đứa nhỏ đáp :
- Thưa ngài, nhà vua
ham cờ bạc thì nước loạn, chư hầu ham cờ bạc thì công việc
bế tắc, sĩ nho ham cờ bạc thì bỏ bê việc học, kẻ làm ruộng
ham cờ bạc thì nghỉ mất buổi cày…
Khổng Tử nói :
- Ta muốn cùng cháu bàn
chuyện bình thiên hạ, cháu có vui lòng không ?
Đứa nhỏ đáp :
- Thiên hạ làm sao bình
được mà ngài khéo hỏi : hoặc vì có núi cao, hoặc vì có biển
rộng, hoặc vì có giai cấp. Bình núi cao thì chim chóc còn
chỗ đâu mà ở. Bình sông biển thì tôm cá chết hết còn gì. Dứt
hết giai cấp, thì lấy ai chỉ huy, lấy ai sai khiến ?
Khổng Tử thấy đứa bé
giỏi quá, bèn hỏi thêm rất nhiều câu khó khăn gấp mấy mươi
lần, đứa nhỏ đều trả lời trôi chảy cả. Ông định lên xe đi,
đứa bé liền nói :
- Nãy giờ ngài hỏi
cháu, nhất nhất câu gì cháu đều trả lời đầy đủ. Giờ đây, xin
ngài cho cháu hỏi lại vài điều để mở rộng kiến thức. Cháu
nhờ ngài giải giùm : con ngỗng con vịt nhờ đâu mà nổi được,
chim hồng chim nhạn nhờ đâu mà kêu được, cây tùng cây bá nhờ
đâu mà được xanh tươi suốt bốn mùa ?
Khổng Tử đáp :
- Ngỗng vịt nổi được là
nhờ chân vuông, hồng nhạn kêu được là nhờ cổ dài, tùng bách
luôn xanh tươi là nhờ ruột chắc.
Đứa nhỏ không thỏa mãn,
liền nói :
- Cháu e không phải
vậy. Cá tôm đâu có chân vuông sao cũng nổi, con muỗi nào có
cổ dài sao vẫn kêu, tre trúc bọng ruột sao vẫn xanh tươi ?
Thôi, xin ngài cho biết trên trời có mấy ngôi sao ?
Khổng Tử xua tay bảo :
- Chúng ta hãy bàn
chuyện dưới đất cho dễ, cháu ạ.
Đứa nhỏ nói :
- Được, cháu xin hỏi
ngài dưới đất có bao nhiêu nhà ?
Khổng Tử không trả lời,
nhưng lại nói :
- Đấy là chuyện xa vời,
cháu chỉ nên hỏi những chuyện trước mặt mà thôi.
Đứa nhỏ hỏi :
- Lông mày có mấy sợi ?
Khổng Tử lật đật lên xe
và nói với các học trò :
- Hậu sinh khả úy.
Chữ “úy” trong câu nói
của Khổng Tử vừa có nghĩa là đáng kính, lại vừa có nghĩa là
đáng sợ. Như vậy, theo luật tiến hóa, nếu người sinh sau mà
giỏi hơn thì thật là đáng kính. Còn nếu người sinh sau mà
xảo quyệt hơn thì thật là đáng sợ. Vì thế thiên hạ cũng hay
nói : hậu sinh khả…ố, có nghĩa là người sinh sau mà xằng bậy
hơn, thì thật là nhơ nhuốc và xấu xa.
Xét theo một góc cạnh
nào đó, thì quí vị con nít hôm nay có nhiều mặt nổi hơn quí
vị con nít ngày xưa. Chẳng biết đó là điều đáng mừng hay
đáng lo. Gã xin đưa ra thí dụ một điển hình mà gã mới đọc
được trên báo Phụ nữ Chủ nhật, số 15 ra ngày 24 tháng 4 năm
2005. Bài viết đưa ra những trường hợp quí vị con nít hôm
nay đã kiếm tiền và tiêu tiền như thế nào.
Trường hợp thứ nhất :
Suốt một thời gian
dài, để ý thấy cô con gái đang học lớp bảy của mình lúc nào
cũng rủng rỉnh tiền và tự mua sắm cho mình được khá nhiều
thứ, từ dụng cụ học tập đến sách vở, nhưng lại không hề mè
nheo xin tiền bố mẹ, gặng hỏi mãi thì cô bé mới thú nhận đó
là số tiền nó được bạn học cùng lớp “trả công” vì đã giúp
bạn làm bài.
Vốn là một học sinh
giỏi, cô bé được giáo viên xếp ngồi giữa hai bạn có học lực
trung bình để nhắc nhở và động viên các bạn. Không bỏ lỡ
thời cơ, cô bé được các bạn gợi ý một thỏa thuận “đôi bên
cùng có lợi”. Những lúc làm bài kiểm tra, cô bé cho các bạn
chép bài, đổi lại với những điểm 9 và 10 thì cô bé được mỗi
bạn thưởng cho 20.000 đồng, còn với những điểm 7 và 8, thì
được từ 12 đến 15.000 đồng. Từ đó, cô bé rủng rỉnh tiền
trong túi, còn hai bạn cùng bàn thì sức học có “tiến bộ”
trông thấy và nhanh chóng lọt vào danh sách “top” những học
sinh khá giỏi của lớp.
Trường hợp thứ hai :
Sau giờ học, đang
trên đường về nhà, một chú bé lớp chín vô cớ bị ba học sinh
khác chặn đường gây gỗ và đánh cho một trận tím bầm mắt
trái. Hôm sau đi học, nhận diện được các bạn đã chặn đường
và đánh mình…chú bé vào mách giám thị. Khi được mời xuống
văn phòng các bạn ấy đã thú nhận là đã đánh chú bé theo “lời
đặt hàng” của M. ban học cùng lớp, chứ chẳng có xích mích gì
với chú bé trước đó.
Theo lời các bạn. M
vốn là con của một giám đốc, nhà rất giàu, thường xuyên được
ba mẹ cho rất nhiều tiền khi đi học. M. lại tỏ ra khá hào
phóng với bạn bè, thường xuyên bao bạn bè đi ăn uống, chơi
trò chơi điện tử…thậm chí có lần một bạn bị mất tiền đóng
học phí, M. còn tặng bạn luôn số tiền đó. Do vậy, khi M. có
ý đánh chú bé, thì các bạn sẵn sàng thực hiện mà không cần
hỏi lý do vì sợ M…giận.
Nhóc tì M. này chưa
được tí tuổi đầu, thế mà đã biết dùng tiền để mua lấy quyền
và đã sử dụng quyền để chi phối đàn em đúng tác phong của
các đại ca hay những ông trùm, theo bài bổn băng đảng,
hay…Mafia trong xã hội đen.
Quí vị con nít hôm nay
không phải chỉ sử dụng đồng tiền để sai khiến bạn bè, mà còn
sử dụng đồng tiền để sai khiến cả người lớn, chẳng hạn :
Việc các em nhờ
người lái xe ôm, người bán cà phê…vào họp phụ huynh với
cương vị là cô, chú, dì, cậu…với giá 10 đến 20.000 đồng một
buổi họp, giờ đã xưa, bởi “chiêu” này đã bị nhà trường phát
hiện.
Để đối phó, các em
lại nghĩ ra cách “tinh vi’ hơn. Dẫu rất còn bé, các em đã
biết “chọn mặt gửi vàng”, tìm những bác tài xe ôm có vẻ
ngoài “sáng láng” hơn, rồi mang cà-vạt, thậm chí còn mang cả
áo quần của ba mình đến cho họ “đóng bộ”, cải trang thành
“ba”…Dĩ nhiên, yêu cầu cao hơn, thì chi phí cũng phải cao
hơn, các em sẵn sàng chi đến 50.000 đồng cho một “ca” cải
trang như thế.
Đọc xong những mẩu tin
trên, gã mới giật mình đánh thót một phát và “ngộ ra rằng ”
quí vị con nít ngày xưa mà so với quí vị con nít hôm nay,
thì chỉ là hạng “cù lần cù lèo” mà thôi. Xin tâm phục khẩu
phục sát đất.
Và như thế, ngay cả quí
vị con nít cũng hiểu được giá trị của đồng tiền. Có tiền là
có tất cả, huống lọ là dăm ba cái lẻ tẻ. Với tiền bạc, người
ta có thể mua được đủ thứ, từ bằng cấp và địa vị, đến tình
cảm và công lý.
Ai không có tiền, thì
đành phải cúi đầu xuống như muông chim và phải chấp nhận
thân phận tôi đòi, vai nặng chân trơn mà thôi.
Trái lại, ai nắm giữ
túi tiền thì cũng nắm giữ quyền bính trong tay, chịt cổ
họng người khác dễ như trở bàn tay, bởi vì chữ tiền thì liền
với chữ quyền vì cùng chung một vần :
- Hạt tiêu nó bé nó
cay,
Đồng tiền nó bé, nó
hay cửa quyền.
Trong phạm vi thế giới,
không nước nào giàu cho bằng nước Mỹ. Vì thế, người Mỹ đã tự
phong cho mình làm “sen đầm quốc tế”, mặc sức chỉ trích dân
tộc này dân tộc kia không tôn trọng nhân quyền, mặc sức can
thiệp vào nội bộ của các quốc gia và mang quân tiến vào nước
người ta như tiến vào chỗ không người.
Đúng là miệng anh nhà
giàu như “có gang có thép”.
Ta nói mà nhà ngươi
không nghe, ta cắt viện trợ cái rụp, hay ta cấm vận, phong
tỏa nhà ngươi về phương diện kinh tế, thế là nhà ngươi lập
tức mềm nhũn như con chi chi, sẵn sàng để ta sai bảo và mau
chóng trở thành chư hầu của ta.
Buồn thay cho cái thân
phận nhược tiểu!!!
Nói chuyện thế giới xem
ra có vẻ xa xôi như ở trên mây trên gió, gã xin nói chuyện
gia đình cho nó gần gũi hơn.
Trong gia đình, khi bố
mẹ còn khỏe mạnh và nắm trong tay tiền bạc, lúc đó con cái
xem ra có vẻ dễ dàng vâng phục và trọng kính. Thế nhưng, một
khi cha mẹ đã già yếu và gia tài đã được phân chia, nếu
không giữ lại cho mình một chút tiền còm, thì con cái rất dễ
có thái độ “phớt tỉnh Ăng Lê” : đói khát cũng mặc, thiếu
thốn cũng mặc, đau yếu cũng mặc. Thậm chí nhiều lúc thà nhờ
vả hàng xóm còn dễ hơn nhờ vả người nhà.
Vì thế, nhiều bậc làm
cha làm mẹ, vốn thường khôn khéo giữ lấy cho mình một phần
sản nghiệp, để không phải chìa tay ra xin xỏ con cái. Bao
giờ chết thì sẽ…hạ hồi phân giải.
Trong quan hệ vợ chồng
cũng vậy. Nhìn vào thực tế, chúng ta cũng thấy tiền bạc có
một giá trị to lớn và nắm giữ một then chốt quan trọng trong
đời sống gia đình.
Thực vậy, vì thiếu thốn
tiền bạc, nhiều người sẵn sàng bán rẻ lương tâm để rồi thực
hiện những hành vi bỉ ổi nhất như trộm cướp, giết người,
tham nhũng…như người ta thường bảo :
- Lương tâm không bằng
lương thực.
- Bần cùng sinh đạo tặc.
- Đói ăn vụng, túng làm càn.
Vì thiếu thốn tiền bạc, nhiều gia đình
đã đi đến chỗ đổ vỡ như chửi bới, cãi cọ và đánh đập nhau
từng ngày.
Tuy nhiên, nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ
thấy tiền bạc tuy cần thiết nhưng không phải là yếu tố quyết
định bởi vì không thiếu những gia đình nghèo túng mà vẫn hòa
thuận yêu thương :
- Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Đồng thời cũng không ít những gia đình
giàu sang mà luôn có những sự xích mích bất đồng. Vợ thì bài
cào tứ sắc, chồng thì vợ nọ con kia, tối ngày những mánh
mung, bỏ mặc vợ con.
Hơn nữa, một chị nàng thích lấy chồng
giàu, thì sẽ bị người đời chê cười là ham của, bên nhà chồng
sẽ dễ coi thường và hất hủi. Trái lại, một anh chàng thích
lấy vợ giàu, thì cũng sẽ bị người đời phong cho tước hiệu
“kỹ sư đào mỏ”, “chuột sa chĩnh gạo”, “đũa mốc mọc ở mâm
son”.
Sự chêânh lệch về nếp sống như vậy rất
dễ đem lại những mặc cảm tự ti và trở thành lý do sâu sa của
những cuộc cãi vã và đổ vỡ sau này. Chính vì thế, chúng ta
không ngạc nhiên khi thấy các cụ ngày xưa đã chủ trương môn
đăng hộ đối.
Quan niệm này nhiều lúc đã đi tới chỗ
quá quắt nên không còn hợp thời nữa, dầu vậy nó vẫn có lý do
và lợi ích của nó, bởi vì những người cùng một cảnh ngộ,
cùng một giai cấp thì sẽ dễ dàng đi tới chỗ hiểu biết và cảm
thông với nhau hơn.
Đó mới chỉ là những ý kiến hướng dẫn
cho thời gian chập chững bước vào ngưỡng cửa hôn nhân để đi
đến một sự chọn lựa dứt khoát. Còn bây giờ, một khi ván đã
đóng thuyền, cá đã cắn câu, nghĩa là đã trở thành vợ thành
chồng với nhau, thì chuyện tiền bạc bao giờ cũng chiếm địa
vị số một, bởi vì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng vẫn là vấn đề
tiền đâu.
Nếu anh chồng làm ra tiền, thì anh ta
có thể chi phối toàn bộ những sinh hoạt trong gia đình. Lúc
bấy giờ vợ con phải ra sức cung phụng anh ta, cũng như phải
ra sức vâng phục anh ta tối mặt. Đi làm về, anh ta cứ việc
ngồi vắt chân chữ ngũ mà đọc báo, mà coi truyền hình. Đến
bữa thì đã có sẵn cơm bưng nước rót.
Còn nếu anh chồng chẳng may rơi vào
tình trạng thất nghiệp, chẳng còn lấy một đồng xu dính túi.
Trong hoàn cảnh này, nếu chị vợ ăn nên làm ra, phất lên
trông thấy, thì chắc chắn sẽ đổi chủ thay ngôi.
Thực vậy, với thân phận ăn bám, thì làm
sao anh chồng dám ngước mặt nhìn đời, chỉ còn nước lầm lũi
vào bếp, thổi cơm nấu nướng mà thôi. Thật đúng như Tú Xương
đã diễn tả :
- Làm trai rửa bát, quét nhà,
Vợ gọi thì dạ, bẩm bà…em đây.
Trước tình trạng thay ngôi đổi chủ này,
anh chồng dường như co cụm lại, âm thầm “gậm nhấm” nỗi buồn
vì đã mất toi cái quyền hành trong tay. Nỗi buồn không được
giải tỏa và cảm thông sẽ kết đọng lại thành những cay cú và
bực tức ám vào lục phủ ngũ tạng. Nếu có cơ hội thuận tiện,
sẽ bộc phát ra những lời nói chì chiết, những thái độ quát
tháo cộc cằn.
Còn chị vợ, nếu không biết đối xử một
cách khéo léo và tế nhị, trái lại cứ vênh vang tự đắc, coi
anh chồng như là đồ bỏ, thì chắc chắn những chuyện xào xáo
và đổ vỡ sẽ xảy ra :
- Nhà kia lỗi đạo, con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua, vợ chửi chồng.
Nếu chẳng may ở vào một tình trạng
chênh lệch như thế, bên kiếm được nhiều tiền, còn bên chẳng
tìm được một đồng xu cắc bạc, thì cũng đừng vì thế mà lên
mặt, hay cũng đừng vì thế mà xấu hổ vì nào ai muốn mình bị
thất nghiệp bao giờ đâu.
Bởi vậy, hãy đối xử với nhau một cách
tế nhị và cảm thông thì mới bảo vệ được niềm hạnh phúc trong
gia đình.
Vậy phải quản lý cái túi tiền trong gia
đình như thế nào ?
Bình thường, anh chồng giao nộp tiền
lương của mình cho chị vợ quản lý, bởi vì chị chính là người
“tề gia nội trợ”. Tuy nhiên, có những trường hợp chị vung
tay quá trán khiến ngân sách bị thâm thủng nặng nề :
Một hôm đi làm về nhà, ông Thành
sửng sốt khi nghe con trai đang học đại học bảo là phải nghỉ
học vì mẹ không cho tiền đóng học phí. Ông không hiểu nổi vì
sao lại đến mức như vậy…Ông tìm hiểu mới biết bao nhiêu tiền
bà đồ hết vào quần áo, mỹ phẩm. Những bộ áo váy của bà toàn
là hàng hiệu đắt tiền và bà lại còn đổi mốt liên tục. Trên
bàn trang điểm của bà lỉnh kỉnh đủ loại mỹ phẩm, mà một lọ
nhỏ xíu giá cũng bạc triệu. Chưa hết, bà thường xuyên đến mỹ
viện và chi phí chăm sóc sắc đẹp hàng tháng của bà cũng là
con số làm ông chóng mặt! (PNCN,14).
Trong khi đó, có những chị vợ lại quản
lý quá chặt chẽ, bóc lột cho tới đồng xu cuối cùng, chẳng để
cho anh chồng tí tiền còm để cà phê cà pháo với bè bạn.
Thành thử, chị vợ giống như một thứ ngân hàng, đầu vào thì
dễ mà đầu ra thì khó. Trao tiền thì vui, còn xin tiền mặt
nhăn như bị và lại còn than thở cả tiếng.
Tuy nhiên thỉnh thoảng gã thấy có những
gia đình anh chồng quản lý túi tiền. Anh ta đích thân đi chợ
và mua sắm. Hễ đụng tới tiền bạc, thì chị vợ liền trả lời :
- Hãy cứ hỏi anh ấy.
Tuy nhiên, nếu những anh chồng có máu
đỏ đen, đam mê số đề hay cá độ bóng đá, nhất là lại đèo bòng
bồ nhí, thì có ngày nồi cơm của vợ con cũng bị đập bể.
Cũng có những trường hợp anh chồng một
quĩ, chị vợ một quĩ và chúng ta góp gạo thổi cơm chung,
khiến nhiều lúc gia đình trở nên như một quán trọ.
Ông Vĩnh và bà Thào chung sống đã
nhiều năm, nhưng lại không tin tưởng nhau về chuyện tiền
bạc.Cả hai đều có cơ sở kinh doanh riêng. Không ai biết thu
nhập của người kia là bao nhiêu. Mỗi người có quĩ riêng.
Trong phòng ngủ có hai két sắt, một của ông và một của bà,
chìa khóa két sắt của ai thì người ấy giữ.
Tất cả các khoản chi tiêu trong gia
đình, họ chia ra từng loại thanh toán : chi phí nuôi con,
học phí của con, chi tiêu và mua sắm vật dụng trong nhà mỗi
người một nửa, thuốc men bệnh tật thì phần ai nấy lo, nếu
con bệnh thì cha mẹ chia đôi chi phí, tiếp đãi bạn bè của
ai thì người ấy chi. Phương châm của họ là rạch ròi, sòng
phẳng và bình đẳng. Thoạt nghe có lý, nhưng ngẫm lại thì
buồn thay cho tình cảm vợ chồng. (PNCN, 14).
Tác giả bài viết đã chia sẻ :
Quỹ chung hay quỹ riêng ? Vợ giữ
tiền hay chồng giữ tiền ? Mỗi người có câu trả lời riêng,
tùy theo quan niệm cá nhân.
Dù sao thì quan hệ vợ chồng chỉ tốt
đẹp khi cả hai cùng có trách nhiệm trong việc quản lý và chi
tiêu tiền bạc trong gia đình.
Kinh nghiệm cho hay, nếu mọi khoản
thu nhập của gia đình được tập trung về một mối, vợ chồng
cùng thống nhất về kế hoạch quản lý và chi tiêu, đồng thời
luôn tạo ra được sự thỏa thuận về các dự kiến lớn, thì chẳng
những mức sống sẽ được ổn định và nâng cao, mà hạnh phúc
cũng luôn được bảo vệ, đồng thời mâu thuẫn thuộc dạng này
sẽ dần dần tự tan biến.
Để kết luận, gã xin kể lại một mẩu
chuyện như sau :
Ngày xưa, có một đôi nam nữ rất yêu
thương nhau. Nhưng vì hai gia đình không được môn đăng hộ
đối, nên họ đã phải trải qua nhiều khó khăn mới lấy được
nhau.
Đêm tân hôn, họ đã thề sẽ yêu thương
nhau suốt đời. Họ quy ước rằng cứ mỗi ngày được sống hạnh
phúc cùng nhau, họ sẽ bỏ vào cái chum nhỏ một hạt gạo. Gạo
càng nhiều thì hạnh phúc càng đầy và về già họ sẽ cùng nhau
đổ cái chum gạo ấy ra để nhìn lại hạnh phúc của mình.
Thế nhưng, chỉ một thời gian ngắn,
người chồng bị bệnh nặng và qua đời. Người vợ rất đau khổ.
Nàng nhìn vào chum gạo và than khóc rằng :
- Hạnh phúc không đong đầy chum.
Mong rằng các cặp vợ chồng cùng cộng
tác với nhau d? bỏ vào chum những hạt gạo hạnh phúc.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|