Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 74, Chúa Nhật 24.08.2008


MỤC LỤC 

Chương VI: Tu Sĩ                                                                                          Lumen Gentium

THƯ GỬI NGƯỜI ANH EM LINH-MỤC CỦA TÔI                                          Phạm Minh-Tâm

Vai Trò của Nhà Nước (Học Thuyết Xã Hội của GH tiếp theo)                     Br. Huynhquảng

ALEXANDRE SOLJENITSYNE, CHỨNG NHÂN CỦA LƯƠNG TRI Tập San Định Hướng Số 53

NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐẠO CÔNG GIÁO VỚI VĂN HOÁ VIỆT   Tiến sĩ Phạm Huy Thông

LỜI CẦU TRONG CƠN ĐAU                                                                             Lm. Tân Trần

MẸ VỀ TRỜI SAO CÒN XUỐNG ĐỂ KHÓC?!                                       Tiến sĩ Trần Mỹ Duyệt

TRUYỆN BÂY GIỜ MỚI VIẾT                                                                                Joseph Vũ

HÃY ĐỨNG NGOÀI CUỘC (3)                                                                 Lm. Lê Văn Quảng

Lòng Chúa lỚn hơn lòng bẠn                  Lm. MICAE-PHAOLÔ TRẦN MINH HUY pss

ĐÔI ĐIỀU VỀ CÀ PHÊ, NƯỚC UỐNG                                                   Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

CẬU ẤM VÀ CÔ CHIÊU                                                              Chuyện phiếm của Gã Siêu


Chương VI: Tu Sĩ

Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II 

Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội Lumen Gentium

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


 

Chương VI: Tu Sĩ 55* 

43. Những lời khuyên Phúc Âm trong Giáo Hội. Những lời khuyên Phúc Âm về đức khiết tịnh để hiến mình cho Thiên Chúa, về đức nghèo khó và vâng lời, đều đặt nền tảng trên lời nói cùng gương lành của Chúa, đã được các Tông Ðồ và các Giáo Phụ, các tiến sĩ và các chủ chăn Giáo Hội khuyên giữ. Các lời khuyên ấy là ân huệ thần linh mà Giáo Hội đã nhận lãnh bởi Chúa mình và luôn gìn giữ nhờ ơn Người. Theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, chính giáo quyền ân cần giải thích các lời khuyên của Phúc Âm, hướng dẫn cách thực hành, cùng thiết lập những lối sống cố định dựa trên những lời khuyên ấy. Do đó, như một cây đâm chồi nẩy lộc um tùm và kỳ diệu từ hạt giống Chúa gieo vãi trong cánh đồng của Người, thì cũng có nhiều lối sống khác nhau: đơn độc hay cộng đồng, và dòng tu khác nhau mà phần sản nghiệp dồi dào đem lại lợi ích cho các chi thể của dòng cũng như toàn Thân Thể Chúa Kitô 1. Thực vậy, các dòng ấy mang lại cho các chi thể những trợ lực bền bỉ trong một đời sống vững vàng hơn, một học thuyết vững chắc giúp đạt đến trọn lành, một mối hiệp thông huynh đệ trong đạo binh Chúa Kitô, và một sự tự do được đức vâng lời củng cố; thế nên, họ có thể an tâm chu toàn và trung thành gìn giữ lời khấn cùng hoan hỷ tiến bước trên con đường đức ái 2.

Xét theo thể chế của Giáo Hội do Chúa thiết lập và có phẩm trật, thì bậc sống tu trì không ở giữa bậc giáo sĩ và giáo dân; thực vậy Thiên Chúa kêu gọi một số Kitô hữu ở cả hai bậc giáo sĩ và giáo dân đến hưởng lấy ân huệ đặc biệt trong đời sống Giáo Hội, và mỗi người một cách góp phần vào sứ mệnh cứu độ của Giáo Hội 3. 56*

44. Bản tính và tầm quan trọng của bậc tu trì. Người Kitô hữu tự buộc mình tuân giữ ba lời khuyên của Phúc Âm qua lời khấn hay qua những ràng buộc thánh khác tương tự như lời khấn dòng; nhờ đó họ hiến thân hoàn toàn cho Thiên Chúa chí ái, để phụng sự và làm vinh danh Ngài với một danh hiệu mới mẻ và đặc biệt. Nhờ phép Thánh Tẩy, họ đã chết cho tội lỗi và được cung hiến cho Thiên Chúa; nhưng để có thể thâu lượm dồi dào ơn ích của bí tích ấy, người Kitô hữu muốn nhờ việc khấn giữ ba lời khuyên của Phúc Âm trong Giáo Hội, thoát ly khỏi những ngăn trở có thể làm họ không nhiệt tâm yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa cách hoàn hảo; và họ tận hiến để phụng sự Thiên Chúa cách thân tình hơn 4. Việc cung hiến đó càng trở nên hoàn hảo hơn khi việc Chúa Kitô hiệp nhất với Giáo Hội, hiền thê của Người, bằng mối dây bất khả phân ly càng được phản ảnh trong những mối dây ràng buộc chắc chắn và vững bền hơn.

Những lời khuyên của Phúc Âm đưa đến đức ái 5, và nhờ đức ái, những lời khuyên ấy kết hiệp các tu sĩ cách đặc biệt với Giáo Hội và với mầu nhiệm Giáo Hội. Bởi đó, đời sống thiêng liêng của họ cũng phải mưu cầu lợi ích cho toàn thể Giáo Hội. Do đó, mỗi người tùy sức và ơn gọi của mình, bằng kinh nguyện hay bằng hành động tích cực, có bổn phận làm cho Nước Chúa Kitô ăn rễ sâu và vững mạnh trong các tâm hồn và bành trướng trên khắp vũ trụ. Vì thế, Giáo Hội duy trì và nâng đỡ đặc tính riêng biệt của các tu hội.

Việc khấn giữ các lời khuyên của Phúc Âm thực là một dấu chỉ có thể và phải lôi cuốn hữu hiệu tất cả mọi chi thể của Giáo Hội đến việc can đảm chu toàn ơn gọi làm Kitô hữu. Thực vậy, dân Thiên Chúa không đặt thành trì vĩnh viễn ở đời này, nhưng đi tìm một thành trì mai sau. Bậc tu trì giải thoát người tu sĩ bớt những lo lắng trần tục, cùng tỏ lộ cách hoàn hảo hơn cho mọi tín hữu thấy của cải trên trời đã có ngay dưới trần gian này, và làm chứng rằng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô đã đem lại một đời sống mới và vĩnh cửu, đồng thời tiên báo sự phục sinh tương lai và vinh quang của Nước Trời. Hơn nữa, bậc sống tu trì bắt chước cách chính xác hơn và thực hiện liên tục trong Giáo Hội nếp sống mà Con Thiên Chúa đã nhận khi Người xuống thế để thi hành thánh ý Chúa Cha và cũng là nếp sống mà Người đã đề ra cho các môn đệ theo Người. Sau cùng, bậc sống ấy đặc biệt cho ta thấy Nước Thiên Chúa vượt trên mọi sự trần thế và những đòi hỏi của Nước ấy cao cả biết bao; nó cũng cho mọi người thấy quyền lực cao trọng tuyệt vời của Chúa Kitô Vua và quyền năng vô cùng của Chúa Thánh Thần đang hoạt động cách kỳ diệu trong Giáo Hội.

Vì thế, bậc sống được thiết lập do việc tuyên khấn các lời khuyên của Phúc Âm, tuy không liên quan đến cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội, nhưng dĩ nhiên cũng gắn chặt với đời sống và sự thánh thiện của Giáo Hội. 57*

45. Quyền bính Giáo Hội và bậc tu trì. Vì trong Giáo Hội, giáo phẩm có nhiệm vụ chăn dắt và dẫn đưa Dân Chúa đến những đồng cỏ phì nhiêu (x. Ez 34,14), nên có nhiệm vụ dùng các luật lệ mà hướng dẫn cách khôn ngoan việc thực hành những lời khuyên của Phúc Âm, vì đó là phương thế đặc biệt để cổ võ đức ái trọn hảo đối với Thiên Chúa và tha nhân 6. Ngoan ngoãn vâng theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, giáo phẩm đón nhận những luật dòng do những nam nữ sáng lập viên lỗi lạc đề nghị, và chính thức phê chuẩn sau khi tu chỉnh. Và do quyền hành của mình, giáo phẩm luôn có mặt để săn sóc và bảo trợ những dòng tu được thiết lập khắp nơi nhằm xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, để các dòng tu ấy phát triển và sinh hoa kết quả theo tinh thần các đấng sáng lập.

Ðàng khác, để đáp ứng cách hữu hiệu hơn nhu cầu của toàn thể đoàn chiên Chúa, Ðức Giáo Hoàng, vì có quyền tối thượng trong toàn thể Giáo Hội và để phục vụ ích chung, có thể tách bất kỳ dòng tu hay tu sĩ nào khỏi quyền tài thẩm của các Ðấng Bản Quyền và chỉ đặt dưới quyền duy nhất của ngài 7. Cũng thế, có thể có những dòng tu và những tu sĩ được để lại hoặc giao phó cho thẩm quyền riêng của các Giáo Chủ. Khi chu toàn phận vụ đối với Giáo Hội qua cách sống đặc biệt của mình, các tu sĩ phải kính trọng và vâng lời các Giám Mục theo giáo luật, vì phải tôn trọng quyền mục vụ của các ngài trong Giáo Hội địa phương và vì cần phải có sự đồng tâm nhất trí trong việc tông đồ 8.

Giáo Hội không chỉ phê chuẩn việc khấn dòng để đưa đời tu lên địa vị bậc sống theo giáo luật, nhưng qua việc cử hành phụng vụ, Giáo Hội còn trình bày việc khấn dòng ấy như một bậc sống cung hiến cho Thiên Chúa. Với quyền hành Chúa ban, chính Giáo Hội nhận lời tuyên khấn của các tu sĩ; qua lời kinh công cộng, Giáo Hội xin Chúa ban ân sủng và trợ giúp họ, phó thác họ cho Thiên Chúa, chúc lành thiêng liêng cho họ, và kết hợp sự tận hiến của họ vào hy lễ tạ ơn. 58*

46. Sự cao cả củaviệc tận hiến. Các tu sĩ phải đem hết tâm lực làm cho Giáo Hội, qua con người của họ, thực sự biểu dương Chúa Kitô ngày một hoàn hảo hơn cho các tín hữu cũng như các lương dân: biểu dương Chúa Kitô đang cầu nguyện trên núi, hoặc đang loan báo Nước Thiên Chúa cho dân chúng, hoặc chữa lành những kẻ đau yếu tàn tật, hay hoán cải các tội nhân trở lại đời sống phong phú, hoặc đang chúc phúc cho trẻ em, ban ơn lành cho mọi người, và trong mọi sự luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Ðấng đã sai Người đến 9.

Sau cùng, mọi tu sĩ nên biết rằng việc khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, tuy bao gồm sự từ bỏ những của cải mà dĩ nhiên phải được quí trọng, sẽ không làm ngăn trở việc phát triển đích thực nhân vị, trái lại do bản chất của nó còn có lợi cho con người. Thực vậy, các lời khuyên Phúc Âm, mà các tu sĩ đã tình nguyện chấp nhận theo ơn gọi riêng của mình, góp phần không ít vào việc thanh luyện tâm hồn và phát huy tự do thiêng liêng, và không ngừng khích lệ sống bác ái nhiệt thành, nhất là có sức làm cho người Kitô hữu ngày càng nên giống đời sống trinh khiết và khó nghèo mà Chúa Kitô đã chọn và Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Người, đã sống, như gương lành của bao đấng sáng lập dòng đã chứng tỏ. Không ai được nghĩ rằng, vì tận hiến như thế, các tu sĩ trở nên xa lạ với mọi người và vô dụng đối với xã hội trần thế. Vì dù đôi khi không trực tiếp phụ giúp người đồng thời với mình nhưng tu sĩ lại hiện diện cùng họ cách sâu xa hơn trong lòng Chúa Kitô và cộng tác một cách thiêng liêng với họ, để việc xây dựng xã hội trần thế luôn đặt nền móng nơi Chúa và luôn hướng về Người hầu những người xây dựng xã hội trần thế sẽ không luống công 10.

Vì thế, Thánh Công Ðồng công nhận và khen ngợi nam nữ tu sĩ sống trong tu viện, trường học, bệnh viện hoặc trong các xứ truyền giáo, đang trang điểm Hiền Thê Chúa Kitô bằng tấm lòng khiêm hạ và kiên trung trong sự tận hiến và quảng đại phục vụ mọi người dưới muôn vàn hình thức. 59*

47. Khuyến khích sự kiên tâm và thăng tiến. Vậy mỗi tu sĩ được gọi để tuyên khấn, hãy chuyên tâm sống bền đỗ trong ơn thiên triệu Chúa đã gọi mình và hãy mãi mãi tiến bộ để làm cho sự thánh thiện của Giáo Hội thêm phong phú hơn và sự vinh hiển của Thiên Chúa Ba Ngôi duy nhất và bất phân thêm cao cả hơn. Trong và nhờ Chúa Kitô, Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch và nguyên ủy mọi sự thánh thiện. 60*

 


Chú Thích:

(lưu ý: những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)

55* Việc chuẩn bị chủ đề để soạn thảo cho chương này khá sôi nổi. Trong lược đồ đầu tiên, tất cả chương VI đề cập đến tu sĩ. Khi lược đồ được làm lại và đưa lên để Công Ðồng nghị trình trong kỳ họp thứ hai, chương nói về tu sĩ lại được xen vào chương V bàn chung về lời kêu gọi nên thánh trong Giáo Hội. Làm thế cũng gây nên nhiều bất tiện. Như vậy, chúng ta thấy có hai khuynh hướng: khuynh hướng thứ nhất đòi soạn thảo một chương đặc biệt về tu sĩ, khuynh hướng thứ hai cương quyết cứ để xen chung vào chủ đề về lời kêu gọi nên thánh. Sau nhiều cuộc bàn cãi, việc phân tách hai chương được chấp thuận, như chúng ta thấy trong bản văn chung quyết. Vị trí của chương này trong toàn thể Hiến Chế là do những quan sát thực tiễn. Ðặt nó liền sau chương nói về lời kêu gọi nên thánh là để bày tỏ giá trị và tầm quan trọng của đời tận hiến cho Giáo Hội để thánh hoá và minh chứng. Kết cấu của chương này đơn giản: sau khi mô tả nguồn gốc và sự tiến triển của các hình thức đời sống tu trì (số 43), Công Ðồng phân tích bản tính đời sống tu trì (số 44), và sau đó xét đến vai trò của quyền bính Giáo Hội đối với tu sĩ (số 45) và nhiệm vụ của đời sống tu trì trong việc phát triển nhân phẩm của chính tu sĩ, hoặc trong đời sống Giáo Hội (số 46); sau cùng là đôi lời khuyên nhủ vắn tắt kết thúc cho chương này (số 47).

56* Số 43: Nhập đề.

Công Ðồng mô tả nguồn gốc và sự tiến triển của các hình thức tu trì, một trật cũng bày tỏ thánh ý Chúa và vai trò của quyền bính Giáo Hội. Ðời sống tu trì là một hồng ân Chúa Cha ban cho Giáo Hội, Giáo Hội phải trung thành gìn giữ và hướng dẫn. Do lời giảng dạy và gương mẫu của Người, Chúa Kitô là nền tảng các lời khuyên Phúc Âm. Công Ðồng còn minh định thêm rằng đời sống tu trì không nằm trong hệ thống cơ cấu phẩm trật (giáo sĩ - giáo dân), nhưng trong hệ thống cơ cấu đoàn sủng. Dầu các lời khuyên là do Chúa ban, và đời sống tu trì thực hành những lời khuyên đó là thuộc phạm vi đoàn sủng, Giáo Hội cũng phải thiết lập một hình thức định chế để thực hành đời sống ấy.

57* Số 44: Bản tính của đời sống tu trì.

Trước hết Công Ðồng thừa nhận trong đời sống đó có một sự thánh hiến cho Thiên Chúa để hoàn bị sự thánh hiến của bí tích Thánh Tẩy. Do lời khấn hay việc dấn thân tương tự mà có việc dâng hiến, nhờ đó đời sống của tu sĩ và cả thế giới được thần hóa nhiều hơn (x. số 31). Sự thánh hiến này hoàn tất trong tình yêu trọn vẹn nhất: tình yêu ưu tiên dành cho Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Ðời sống tu trì chính yếu cũng là phục vụ Giáo Hội, để làm cho việc tông đồ được bành trướng. Nhưng vì là một sự thánh hiến nội tâm, nên việc phục vụ trước hết là cộng tác vào việc mở mang nước Chúa bằng thái độ nhiệt thành, bằng kinh nguyện và cũng có thể bằng hoạt động. Bởi thế, việc phục vụ này không chỉ là một hình thức tông đồ bên ngoài. Giá trị dấu hiệu của việc tuyên xưng các lời khuyên Phúc Âm phát xuất từ sự thánh hiến nội tâm này: dấu hiệu cánh chung của đời sau và của hạnh phúc trên Trời, giá trị của sự cao trọng Nước Chúa. Ðể kết luận, Công Ðồng tuyên bố đời sống tu trì không thể tách lìa khỏi đời sống và sự thánh thiện của Giáo Hội. Như vậy chúng ta hiểu rằng, một đàng Giáo Hội cần được sự đóng góp của đời sống tu trì nên phải cổ võ đến mức tối đa cho đời sống ấy, đàng khác đời sống ấy nói lên sức mạnh của Giáo Hội. Cứ theo những điểm vừa nói thì đời sống tu trì là một thực tại sống động trong Giáo Hội.

58* Số 45: Giáo Hội và đời sống tu trì.

Vai trò quyền bính Giáo Hội nằm trong những điều quy định tổng quát: lập luật để làm qui tắc hướng dẫn việc thực hành các lời khuyên, chuẩn y các điều lệ, lưu ý đến sự trung thành và tăng triển các hội dòng. Sau đó Công Ðồng đề cập đến những người nắm giữ quyền bính này: Ðức Giáo Hoàng là Vị mà các hội dòng miễn trừ phải tùy thuộc; các Giáo Chủ, các Giám Mục là những người mà mọi tu sĩ phải kính trọng và tuân phục. Sự quả quyết Giáo Hội góp phần trong phương diện phụng vụ và thiêng liêng vào việc tuyên khấn cũng nói lên rằng những mối tương quan với quyền bính không chỉ có tính cách pháp lý. Theo Hiến Chế, sự đóng góp vào phụng vụ mặc ba hình thức: Giáo Hội dùng quyền bính chấp nhận các lời khấn, dùng lời kinh công cộng xin Chúa ban ơn, kết hợp sự tận hiến của người tuyên thệ vào hy lễ tạ ơn.

59* Số 46 : Vai trò của đời sống tu trì.

Sau khi khuyên nhủ tu sĩ biết minh chứng Chúa Kitô trong các hoạt động, Công Ðồng nhắc nhở cho họ biết đời sống tu trì làm phát triển nhân cách con người vì là một sự tự hiến, phát xuất từ hành động tự do của ý chí đi theo chiều hướng của ơn gọi cá nhân; đời sống ấy còn định hướng nhân phẩm theo như điều mà chương trình của Chúa muốn dung hợp, và như vậy làm cho nhân phẩm được nẩy nở hoàn toàn. Công Ðồng đề cập ba khía cạnh của việc nẩy nở đó: tự do thiêng liêng trong tâm hồn trong sạch hoàn toàn, bác ái hăng say nhờ đó mà nhân phẩm con người được phát triển đích thực, dung hợp với lối sống mà chính Chúa Kitô đã theo, lối sống mà Mẹ Maria là gương mẫu hoàn hảo. Công Ðồng cũng nhắc lại rằng đờisống tu trì còn cộng tác một cách thiêng liêng vào công cuộc kiến tạo trần gian. Sự hiện diện tinh thần của tu sĩ còn đích thực hơn cả sự hiện diện hữu hình bên ngoài. Cố nhiên Công Ðồng không nói tu sĩ hiện diện nơi người khác nhưng hiện diện trong trái tim Chúa Kitô. Do sự kiện cộng tác thiêng liêng vào công cuộc kiến tạo trần gian, tu sĩ trở nên hữu ích cho xã hội và cộng tác vào việc tái tạo một thế giới xây dựng trên Chúa Kitô. Sau cùng Công Ðồng tuyên bố công nhận và khen ngợi lối sống của tu sĩ.

60* Số 47 : Kết luận.

Trong câu kết luận vắn tắt, Công Ðồng khuyên nhủ tu sĩ kiên trì và thăng tiến trong ơn gọi để Giáo Hội được thánh thiện và để làm vinh danh Thiên Chúa.

 
VỀ MỤC LỤC
THƯ GỬI NGƯỜI ANH EM LINH-MỤC CỦA TÔI

 

Kính cha,  

Tôi mới được tin cho biết rằng sắp đến ngày kỷ-niệm chẵn hai mươi lăm năm linh-mục của cha. Chỉ đối với một người sống đời bình-thường thôi thì thời-gian hai mươi lăm năm cũng đã là một đoạn đường dài đáng kể để tính sổ đời rồi; huống chi đây lại là một chặng đời trong thiên-chức linh-mục thì khỏi phải nói cũng dư lẽ là cha đã cảm-nghiệm được biết bao cam-go, thử-thách để vượt thắng, để tiếp-tục đi tới  trên con đường thánh-ý đã vạch ra. Hai mươi lăm năm hồng-ân để sống và làm việc trong một đời linh-mục quả là có quá nhiều điều để vui mừng cũng như để duyệt lại cho chín-chắn hơn. Trong dịp vui đáng kể như thế này, chắc-chắn là cha sẽ nhận được rất nhiều lời chúc mừng, khen tặng và có thể còn cả những lời tán-dương nũa vì thực ra cũng đáng lắm chứ, phải không? Riêng tôi thì lại muốn lợi-dụng ý-nghĩa sâu-sắc của cái mốc điểm thời-gian này để chia-sẻ chút suy nghĩ của mình; bởi vì không hiểu tại sao mà đã từ lâu rồi, nội-tâm tôi vẫn có một nỗi thao-thức đến độ gần như bất ổn với hai chữ "linh-mục" mà chưa một lần có dịp được giãi-bày. Cho nên hôm nay trong tình gia-đình, thay vì gửi về cha những lời mừng, lời chúc, lời khen tặng như của bất cứ người thân, quen nào; tôi xin được chia-sẻ với cha chút cảm-nghĩ trong tâm-tư mình về ơn gọi linh-mục của cha qua các sinh-hoạt mục-vụ mà trong đó giáo-dân chúng tôi là đối-tượng cụ-thể nhất để cha vừa có trách-nhiệm, vừa phải liên-đới trong nghĩa tình huynh-đệ bằng sự tôn-trọng lẫn nhau. Tôi sẽ cố gắng giảm bớt càng nhiều càng tốt tính-cách chủ-quan trong liên-hệ thân-tình để khách-quan hơn với tâm-hồn một tín-hữu, một giáo-dân đã và đang và vẫn có những mong đợi nơi cha, một linh-mục trong thiên-niên-kỷ mới. Hy-vọng rằng trên căn-bản của niềm xác-tín và với tinh-thần huynh-đệ, mình có thể nhân dịp này giúp nhau nhìn lại đoạn đường đã qua trong ánh sáng của Đức-tin để biết đâu có thể từ đấy mà ta tìm thêm ra được đôi điều khả-dĩ khai mở được hết ý tình tri-ngộ của cái duyên may một thuở được mời gọi làm môn-đệ, làm linh-mục giữa cộng-đồng dân Chúa và được sai đi để đến giữa muôn dân.         

Tôi phải nói trước và nhấn mạnh rằng tôi tuyệt-đối thâm-tín về hiệu-năng của tác-vụ đặt tay đối với cha trong ngày lễ phong chức chính là nguồn mạch thần-khí tuyệt-đối và chuyên-nhất từ nơi Đức Ki-tô vẫn liên-tục để cha được truyền-thụ. Thành ra, như nội-dung của bài hát "Linh-mục, người là ai" đã viết, tôi thật tình thấy không ngoa hay sáo chút nào cả khi tác-giả đã trả lời câu hỏi này bằng một chuỗi dài các ý-niệm cụ-thể rằng


·        là ánh sáng trần-gian
·
        là muối cho mặn đời
·
        là hiện-thân Chúa ta, là hồng-ân Chúa Cha
·
        là chứng-nhân tình yêu; là tôi tớ tốt lành, tín-trung, dịu-hiền
·
        là người được sai đi đem tin mừng, an-bình gieo khắp nơi
·
        là người anh em suốt đời hiến thân phục-vụ...vân vân...

nhưng trong đó tôi tâm-đắc nhất là câu "người là một bài ca cho hiển-danh Chúa ta".

Như tôi vừa nói, những lời lẽ và ý-niệm tác-giả kia dùng không phải là ngoa-ngôn, sáo-ngữ nên cha cũng đừng bảo rằng tôi đang để cha "đi tầu bay giấy" nhé. Thực-chất sứ-mạng của cha đang sống từng ngày là phải chú-tâm hướng vào những ý-nghĩa ấy đấy. Ấy vậy mà có lẽ tôi  lại là một trong số không nhỏ những người, những giáo-dân luôn mang nặng trong đầu nhiều bất ổn về thiên-chức linh-mục mà cha đang thừa-hành. Thậm-chí đã có lắm khi bị mang tiếng, bị nhiều người ngoan đạo kết tội là bổ-báng, là chống giáo-sĩ chỉ vì tôi đã không cứ đời cha, cha lo; việc tôi, tôi tính; lại hay bạo gan, bạo phổi ưu-tư và đặt vấn-đề về phong-cách mục-vụ của một số vị đã liên-quan và ảnh-hưởng đến đời sống tâm-linh của các tín-hữu.

Chẳng hạn như mới đây, trong dịp lễ giỗ tại một gia-đình trong họ, tôi được nhờ đứng ra cảm-ơn quan-khách đến đự. Tôi đã không theo thói thường của giáo-dân xưa nay, bao giờ cũng phải trình lạy cha trước hết và trên hết mọi sự mà đã căn-cứ theo tuổi-tác để thưa với các cụ, các ông bà đứng tuổi trước rồi mới thưa đến linh-mục chủ-tế vì thấy vị này mới chỉ ở độ tuổi trung-niên. Thế là tôi bị một số các ông bà ngoan đạo xầm-xì là bất-kính với cha, là làm những chuyện gở lạ, ngược-ngạo. Nhưng mọi người đã chưng-hửng khi vị linh-mục này tiếp lời liền để cảm ơn tôi đã thật tế-nhị giúp cho ông được tư-nhiên hơn trong thế đứng của mình giữa mọi người vì với tuổi-tác và theo đúng truyền-thống văn-hoá dân-tộc, ông cũng chỉ là ở vào hàng con cháu của các cụ, đâu có lẽ nào nhảy tót (chữ của ông dùng chứ không phải tôi) lên cao chót-vót như vậy. Ông còn nói là chính cái thói quen tôn-sùng các vị tu-hành quá đáng mà giáo-dân Việt-nam mình đã vô-tình làm hư-luống quá nhiều giá-trị tinh-thần của thiên-chức linh-mục. Đấy là thái-độ sùng-bái không phải kiểu chứ không phải là tôn-trọng.

Tôi hoàn-toàn đồng-ý với tội-trạng vị linh-mục kia cáo-buộc giáo-dân một cách quá chính-xác như vậy. Song nếu công-bằng hơn một chút, tâm-thành thêm một chút thì cha có nghĩ là mình phải cưa đôi phần lỗi phải, chứ đổ hết tội-vạ cho giáo-dân như vậy là hơi oan không? Bởi vì nếu giáo-dân làm sai, làm lố thì cha phải chỉnh lại cho chính-xác, phải giúp họ sửa đổi chứ lẽ đâu lại im-lặng và nhất là cứ để cho mọi người coi mình như thánh như tướng vậy và như thế thì có khác gì là thái-độ bằng lòng, thỏa-hiệp với những điều không ổn đó. Lại nữa, đấy cũng không phải là giáo-huấn của Hội-Thánh, mà chỉ do sự suy-nghĩ lệch-lạc mà ra thôi thì lại càng phải mau mắn điều-chỉnh lại mới là phải lẽ chứ, phải không cha. Hội-Thánh luôn kêu gọi con dân nhà Chúa phải canh-tân nếp sống đạo, lấy tình bác-ái huynh-đệ đối-đãi nhau mà chúng ta cứ cố-thủ những cái thói-tục lỗi thời, lỗi đạo như vậy mãi sao? Cụ-thể hơn, cha sẽ cảm thấy sao khi nghe các ông bà cụ già khoảng bảy, tám mươi tuổi hoặc kém hơn một chút cứ khúm-na khúm-núm với một điều cha dạy con thế này, hai điều cha bảo con thế kia và mình thì khơi-khơi xưng "tôi" với các vị ấy mà không cần giải-thích chữ "cha" chỉ là một danh-xưng, một chức trong Giáo-Hội thì đâu tuyệt-đối phải bắt theo khuôn phép và vai vế như cha con trong ơn-nghĩa sinh-thành, phải đảo lộn niên-kỷ như thế. Nhất là đối với truyền-thống văn-hoá Việt-Nam, chữ "Lễ" rất quan-trọng vì nó là điều-kiện hàng đầu trong đường lối ứng-xử; đồng thời, sự khiêm-tốn dễ cảm lòng người lại cũng cần vô-cùng trong đời sống Đức-tin. Vả chăng “sự tôn-kính mà người dân Á-châu vốn dành cho những người nắm quyền bính cần được hòa-hợp với sự ngay thẳng trong sáng về phía những người có trách-nhiệm phục-vụ trong Giáo-hội” (EA 43. Tuyên-bố kết-thúc Đại-hội lấn thứ 7 LHHĐGM.AC)

Giáo-dân chúng tôi sẽ chẳng bao giờ nhìn nhận ra mình đã sai tín-lý nếu cha không phân-tích ra, không mạnh dạn xác-định và chỉnh-đốn lại. Với thiên-chức linh-mục của Đức Ki-tô, cha có phần trách-nhiệm nặng nề trong sự thông chia với hàng Giám-mục về ba thẩm-quyền giáo-huấn, quản-trị và thánh-hóa đã được trao ban, vậy cha nghĩ sao khi người linh-mục cứ để cho một số giáo- dân mặc tình tự biên, tự diễn những hình-thái tâm-linh ngụy-tín cũng như mặc tình chế-tác các lối hành-xử sai tín-lý và giáo-lý mà không lên tiếng sửa đổi hay uốn nắn lại? Là linh-mục, cha thường nhật có mặt bên cạnh cuộc sinh-hoạt của giáo-dân hơn các vị Giám-mục, cho nên tôi nghĩ cha không thể thiếu bổn-phận thi-hành thẩm-quyền giáo-huấn của Hội-thánh trong thừa-tác-vụ mục-vụ của mình. Nếu cha không là muối thì họ cứ ươn-lười giữ đạo kiểu cha truyền con nối, cứ nghĩ rằng khoán trắng mọi sự cho cha là xong hết, vì cha đã nhận chức thánh, đã thay mặt Chúa, nên cha nói sao thì sao đi. Miễn là cha ban đủ các phép là được. Phần giáo-dân chúng tôi cứ đều-đặn mỗi ngày đến nhà thờ "xem" cha làm lễ là đủ, chẳng bao giờ tìm đọc Công-đồng, các tông-thư, tông-huấn làm gì vì như vậy cũng đỡ mất thời-giờ cho cha phải giảng-giải và chúng tôi phải nghe những điều mà xét ra bất lợi cho cả người nói lẫn người nghe. Thế là cả cha và chúng tôi đều nhàn vì đứng bên ngoài dòng sinh-hoạt luôn canh-tân và sám-hối để vươn lên của Hội-Thánh, để thăng-tiến đời sống tâm-linh của mỗi người tin. Thật chẳng khác gì mình là những kẻ giậm chân tại chỗ trong khi Hội-Thánh thì không ngừng tác-vụ giáo-huấn: Bước vào thiên-niên-kỷ mới sẽ khuyến-khích cộng-đoàn Ki-tô hữu mở rộng tầm nhìn đức tin về những chân trời mới để loan-báo Nước Thiên-Chúa. Trong hoàn-cảnh đặc-biệt này, cần phải trung-tín trở về với lời dạy của Công-đồng Va-ti-ca-nô II, vốn mang lại một soi sáng mới mẻ về dấn-thân truyền-giáo của Giáo-hội trước những yêu-sách hiện nay của việc Phúc-âm-hoá...(Tông-thư Mầu-nhiệm Nhập-thể, số 2). Chắc chắn cha đã nắm vững thế nào là "những yêu-sách của việc Phúc-âm-hoá" mà Hội-thánh đòi hỏi  hơn chúng tôi nhiều; song tôi nghĩ nó cũng không ra ngoài cái mẫu-mực của Đức Ki-tô là sống giữa trần-gian, làm mọi việc của trần-gian, trừ tội-lỗi, để thánh-hoá trần-gian.

Có khi nào cha chợt thấy chạnh lòng về cái não-trạng giáo-dân chúng tôi như vậy, có nhận ra sự theo đạo ù-lì pha thêm chút mê-tín và sai-lạc của giáo-dân chúng tôi khi cứ đều-đặn cúi đầu lạy cha không biết chán như vậy không? Đúng là vô tình tín-hữu đã ru ngủ thiên-chức của cha bằng lòng tôn-kính lệch-lạc, đã lắm phen đưa cha vào thế tự-cao, tự-đại như thực sự thay quyền Thiên-Chúa và cha cũng vui vẻ ngủ yên trong đó, đến độ có thể không nghe thấy lời Đức Thánh-Cha đánh-thức: "Bởi thế, trong khi thiên-niên thứ hai gần hết, Giáo-hội cũng cần phải hoàn-toàn nhận-thức được tội-lỗi của con cái mình, nhớ lại tất cả những lúc, trải qua theo dòng lịch-sử, họ đã xa rời tinh-thần của Chúa Ki-tô và Phúc-âm của Người; thay vì hiến cho thế-giới một chứng-từ của đời sống được thúc-đẩy bởi những giá-trị đức-tin, thì lại tìm thỏa-mãn bằng những cách suy-tư cũng như  bằng tác-hành dưới những hình-thức thực sự phản chứng-tá và gây sương mù...(Tông-thư Ngàn Năm Thứ Ba đang đến, số 33). Và cũng trong Tông-thư này, Đức Thánh-Cha đã nhận-định về một thực-tại là: Vấn-đề được đặt ra là có bao nhiêu Ki-tô hữu thực sự hiểu biết và thực-hành những nguyên-tắc giáo-huấn của Giáo-hội về xã-hội...(số 36). Đấy mới là nhận-định chung chung mà Đức Thánh-Cha còn đặt một câu hỏi khiêm-tốn như vậy; còn riêng trong xứ-đạo của cha thì sao đây trước vấn-đề như thế? Và cha có trách-nhiệm gì trong việc chia-sẻ mối ưu-tư của vị Cha Chung đã đặt ra qua tác-vụ thông-phần với thẩm-quyền giáo-huấn mà Đức Ki-tô đã trao ban cho Hội-Thánh? Tôi cũng đang tự hỏi mình như thế về mức-độ hiểu biết của bản-thân mình bấy lâu nay đây. Nhưng nếu chỉ hỏi  không mà thiếu đối-thoại hay chia-sẻ thì ích gì.

Viết đến đây, tôi nhớ đến những dòng tâm-sự của một người bạn cũng rất nhiệt-thành trong những thao-thức nội-tâm. Tôi thấy cũng nên chép lại ở đây để cha có thêm đôi chút cảm-nghiệm về một thành-phần giáo-dân thật sự đi sát với sự tiến-triển của Giáo-hội.

- Tôi thấy chúng ta cũng cần lên tiếng gửi-gắm đôi điều đến những người trẻ đang nắm vai-trò gọi là chăn dắt (pastorize) dân Chúa để họ biết khiêm-tốn cả từ cung-cách xưng-hô với giáo-hữu của mình, trong đó có cả thái-độ và lối hành-xử như họ vẫn thường quen đối-xử với giáo-dân hiện nay. Một điều tôi thấy rất lạ là đối với các linh-mục được đào-tạo từ A đến Z tại hải-ngoại là khi làm mục-vụ với dân bản-xứ thì họ rất dân-chủ và cấp-tiến; nhưng với giáo-dân Việt-Nam thì họ lại trở về thời-kỳ tiền Công-đồng, nghĩa là vẫn thích người ta "xin phép lạy cha" và vâng-phục tuyệt-đối, không được có ý-kiến lôi-thôi trái ý mình, muốn nói gì thì nói, không cần đắn-đo. Trong cách ứng-xử với những người cộng-sự với mình thì độc-tài, bảo-thủ và nhất là trong những dịp vui mừng như lễ ngân-khánh chẳng hạn thì cứ để mặc sức cho cộng-đồng tín-hữu thưa bẩm dài dòng văn-tự trong nhà thờ để xưng-tụng và tán-dương  công-đức mình nhiều hơn là nói về Chúa như lời Thánh-vịnh “non nobis Domine, sed tuo nomini da gloriam”. Aáy vậy nhưng khi hòa nhập với các sinh-hoạt trần-thế thì  lại chiều theo thị-hiếu của giáo-dân trong những thói-tục rườm-rà, mặc tình muốn bày vẽ lẽ nào cũng được. Thậm chí lại thích hát cả nhạc đời trong nhà thờ vào những dịp lễ Mothers' Day, Fathers' Day hay Valentine Day...và kể cả những chuyện tiếu-lâm chẳng ăn nhập gì với Lời Chúa mà chỉ cốt cho người nghe cười cho vui tai thôi. Nhiều khi tôi đi lễ bị chia-trí quá sức nên rất bực mình, nhưng biết làm sao. Còn mấy ông được đào-tạo ở Việt-Nam, khi còn là chủng-sinh thì xem ra rất khiêm-tốn, nhưng khi đã lên chức "cụ" rồi thì được giáo-dân kính-trọng quá mức nên bắt đầu quan-liêu, ăn chơi và thích quan-hệ với người giầu rồi quên bẵng đi giáo-dân nghèo khổ của mình. Ôi thôi nhiều thứ lắm, nhưng tôi chỉ dám chia sẻ với người nhà thôi, chứ nói ra ngoài lỡ bị vạ tuyệt-thông thì khốn.

Thực ra đây không phải là tình-trạng chung, nhưng cũng không phải là ít đâu, cha ạ; song vì như ca ông bà mình có nói là sự thật mất lòng nên chẳng ai  nỡ nói, dám nói và muốn nói vì cũng dễ làm nản lòng nhau lắm đấy. Tuy nhiên, có một điều không thể chối cãi được là theo kinh-nghiệm của tôi mỗi khi tiếp-xúc và chia sẻ với những người  -  nhất là giới trẻ – đang nhạt-nhoà lòng đạo để sống khô khan, nguội lạnh (không kể thành-phần đang sống trái ngang trong hôn-nhân) về niềm tin thì thay vì trả lời về chính mình, họ lại làm một thôi một hồi về nếp sống tục-hóa của một số linh-mục; cứ như đấy là động-cơ đẩy họ xa đạo vậy. Tôi biết đôi khi đó cũng là cái cớ để biện-minh, song cũng không nên hoàn-toàn chối bỏ tầm ảnh-hưởng này. Tôi không phải chỉ quy và đòi hỏi trách-nhiệm của cha thôi đâu vì tất cả chúng ta đều được mời gọi cả mà; song le thừa-tác-vụ của cha vẫn là chính-yếu.

Trước đà chuyển mình không ngừng của xã-hội, Giáo-Hội cũng luôn luôn nỗ-lực canh-tân để giúp con người dung-hoà được phần tâm-linh với nếp sống văn-minh vật-chất đang trên đà phát-triển đến cao-độ. Dựa vào quan-điểm của Hội-Thánh và bằng vào Lời Chúa đã dặn-dò lúc sai đi, tôi nghĩ hành-trình rao giảng của cha không thể quá ngắn chỉ từ bục giảng đi xuống cuối nhà thờ, rồi đi ra đến sân nói nói cười cười với tín-hữu là đủ. Hoặc cũng có ra khỏi cổng nhà xứ, nhưng chỉ là đi lòng-vòng trong họ đạo để mọi người chắp tay, cúi đầu lạy cha như cái máy mà còn nhiệm-vụ phải đến với muôn dân nữa kìa. Mà để có thể bước đi vững-vàng, mạnh dạn trên con đường phục-vụ này, cha dư biết mỗi người chúng ta cần phải có bao nhiêu hành-trang để đem theo ngoài số vốn cha đã học trong chủng-viện.

Một số bạn bè ngoài Công-giáo mình bảo tôi rằng họ rất muốn gặp-gỡ, đối-thoại và lắm khi cũng cần cộng-tác với những linh-mục Công-giáo để trong tình huynh-đệ, nghĩa đồng-bào, cần phải cùng nhau phục-vụ xã-hội và đất nước trong một số địa-hạt. Họ cũng rất thích lắng nghe và chia sẻ những kinh-nghiệm tâm-linh từ những tín-lý khác nhau trên cùng một căn-bản tư-tưởng Việt-Nam, nhưng tiếc một điều là cái điểm chung để gặp-gỡ này lại không có. Tuy nhận-định này có tính-cách "vơ đũa cả nắm" nhưng cũng không phải là vô-bằng vì như đã có lần tôi được nghe một linh-mục tâm-sự rằng vì ông phải lo trách-nhiệm mục-vụ mãi tận miền cao-nguyên hẻo-lánh xa-xôi nên rất muốn lợi-dụng những dịp được gặp-gỡ anh em linh-mục để cùng chia sẻ và học hỏi thêm về kinh-nghiệm mục-vụ; nhưng thật buồn khi gặp nhau thì toàn nói những chuyện bâng-quơ, chẳng ăn nhập gì đến đời sống nội-tâm. Có lẽ vì vậy mà đã có rất nhiều linh-mục khi đứng trên tòa giảng thì toàn dùng các tình-tiết của một cốt chuyện tiểu-thuyết hay một cuốn phim để làm nền cho bài giảng. Cha đừng buồn khi tôi muốn nói thẳng rằng có rất nhiều vị, sau khi "đỗ cụ" rồi thì thật cứ yên-trí rằng mình đã làm "cha" thiên-hạ, không thấy có nhu-cầu phải học hỏi thêm nữa ngay cả về thần-học, tín-lý, còn nói gì đến việc mở-mang thêm kiến-thức về văn-hoá, học-thuật và lịch-sử của dân-tộc. Bởi thế mới tạo cho những người anh em khác cái điều ngộ-nhận tai-hại kia. Ở điểm này, tôi phải nhìn nhận là giáo-dân chúng tôi đã có rất nhiều người sống đúng nghĩa của hai chữ dấn-thân. Họ tín-trung với giáo-huấn của Hội-Thánh, rất chuyên-tâm sốt-sắng trau-giồi đời sống nội-tâm và thể-hiện được ý-tình là môn-đệ của Đức Ki-tô bằng tình-tự dân-tộc ngoài xã-hội. Đây không phải là lý-luận riêng cá-nhân ai đâu, mà là Trong bản tuyên-bố kết-thúc Đại-hội lần thứ 7 Liên-hiệp các Hội-đồng Giám-mục Á-châu họp tại Samphran, Thái-Lan từ ngày 03 đến 13-01-2000, có ghi “…từ chiều sâu của những âu lo và hy-vọng của châu Á, chúng tôi lắng nghe tiếng gọi của Thánh Thần gửi đến các Giáo-hội địa-phương tại châu Á. Đó là tiếng gọi đổi mới, đổi mới sứ-mạng yêu thương và phục-vụ. Đó là tiếng gọi gửi đến các Giáo-hội địa-phương vốn trung-thành với  những giá-trị văn-hóa, tâm-linh và xã-hội của châu Á và vì thế là những Giáo-hội mang dấu ấn văn-hóa địa-phương thực sự…Đổi  mới nhằm thi-hành sứ mạng yêu thương và phục-vụ đòi hỏi một hiểu biết mới và điểm nhấn mới…Chúng ta cần cảm-nhận và hành-động “cách toàn-diện”. Khi đối-diện với những nhu-cầu của thế-kỷ 21, chúng ta đối-diện bằng con tim Á châu trong sự liên-đới với người nghèo và người bị loại ra bên lề, trong sự hiệp-nhất với mọi anh chị em Ki-tô hữu và bắt tay với mọi người nam nữ tại châu Á thuộc nhiều niềm tin khác nhau…”

Cha đừng hiểu lầm là giáo-dân chúng tôi thích các cha phải cấp-tiến. Không đâu, thưa cha. Chúng tôi chỉ mong đợi ở cha hãy thực-sự gột bỏ cái tệ-trạng cha chú chủ-quan xưa nay về những đặc-quyền, đặc-lợi của thế-gian; có vậy mới làm sáng lên được ý-nghĩa cao-quý và giá-trị siêu-nhiên của hai chữ linh-mục giữa cuộc sống. Chúng tôi mong đợi cha hãy đi sát và đi kịp theo sự hướng-dẫn của Hội-Thánh để kéo giáo-dân ra khỏi cái nếp xưa nay vẫn cứ chỉ tà-tà, đủng-đỉnh sáng đi lễ, tối đi nhà thờ và chăm-chỉ đọc kinh tối sáng ngày thường, rồi cha cũng quay mòng-mòng theo với lòng mến của giáo-dân qua cảm-tính rồi những lời huấn-thị của vị cha chung sẽ lọt tai ai.

Thật tình mà nói, trong tư-thế giáo-dân, chúng tôi rất muốn và mong-mỏi được có dịp thường-xuyên ngồi lại với linh-mục, không phải để ăn nhậu hay nói chuyện phiếm, mà là để chia-sẻ những ưu-tư về tâm-linh; cũng có khi là cùng nhau học hỏi hay tham-khảo một văn-thư của Toà-Thánh hay đọc một tông-huấn của Đức Giáo-Hoàng. Chúng tôi muốn được cùng linh-mục hoà mình vào trong một số sinh-hoạt của cuộc sống như một cách-thế Phúc-âm-hoá môi-trường. Nhưng hình như từ xưa đến nay ở Việt-Nam không có cái nề-nếp sinh-hoạt kiểu như thế này. Cha mà nói với giáo-dân thì chỉ có giảng hoặc dạy chứ không có cùng tìm hiểu, trao-đổi; còn giáo-dân thì chỉ có vâng, dạ nghe lời cha dạy và thưa "Amen", phải vậy không cha? Ngay dù cho giáo-dân có là cao tuổi đời và nhiều kiến-thức cũng như kinh-nghiệm thì cũng phải cúi đầu vâng nghe ông cha non trẻ hơn mình mọi mặt. Cha hài lòng hay hoảng-hốt khi nghe bà con vâng-phục rằng lời cha là Lời Chúa, lắng nghe cha là lắng nghe Chúa và khi nhận-định về những sai-sót của linh-mục tu-sĩ là có tội? Nói phạm đến cha thì sẽ không được cha "ban" các phép cho.

Cha ạ, cha có nghĩ tương-quan giữa linh-mục và giáo-dân cần phải được canh-tân như canh-tân đời sống không? Cha có thấy ngoài những tác-vụ thiêng-liêng trong phụng-vụ ra thì ngay trong công-tác mục-vụ, cha vẫn cần có thêm những người bạn cùng chí-hướng mở-mang Nước Trời; cùng suy nghĩ rồi cùng bắt tay thực-hành các huấn-thị của Giáo-Hội. Nhưng phải là những huynh-đệ cùng bắt tay nhau chứ không phải những tay chân để sai bảo, để chạy việc. Đức Ki-tô đã chẳng nói không gọi chúng ta là tôi-tớ sao? “Hơn thế nữa, người dân Á-châu mong muốn nhìn thấy các mục-tử của mình không chỉ như những nhà quản-trị các hiệp-hội hoặc cung-ứng các dịch-vụ, nhưng “như những người mà tâm-trí hướng về những gì thuộc Thần Khí” (Tuyên-bố kết-thúc Đại-hội lần thứ 7 LHHĐGM.AC)

Chúng tôi mong linh-mục hoà mình với xã-hội như một thái-độ dấn-thân nhưng không phải là đồng-hoá với mọi thói-tục trần-thế; chẳng hạn như cũng chén chú chén anh đến say mèm, hát nhạc tình rẻ tiền và kể chuyện tiếu-lâm thiếu lành mạnh để cử-tọa vỗ tay tán-thưởng khen cha bình-dân. Chúng ta chỉ hoà mình sống theo ý-hướng của Giáo-Hội trước những ưu-tư cụ-thể như..."Chẳng hạn, chúng ta làm sao có thể giữ im lặng về tình-trạng lạnh nhạt đạo-đức làm cho nhiều người hiện nay sống như không có Thiên-Chúa, hay sống theo một lòng đạo mơ-hồ, không có khả-năng nắm vững vấn-đề chân-lý...cũng như phải kể đến tình-trạng lẫn-lộn trong lãnh-vực đạo-lý, ngay cả về những giá-trị căn-bản trong việc tôn-trọng sự sống và gia-đình. Về mặt này, ngay những ngưòi con nam nữ của Giáo-Hội nữa cũng cần phải xét mình lại. Họ đã bị nhuốm phải bầu khí của phong-trào tục-hóa (secularism) và khuynh-hướng đạo-lý tương-đối (ethical relativism)...không chứng-tỏ được dung nhan chân thậât của Thiên-Chúa...bởi đã không sống theo cuộc sống tôn-giáo, luân-lý hay xã-hội của mình (Hiến-chế Gaudium et Spes, đoạn 19) (Tông-thư Ngàn Năm Thứ Ba đang đến. Số 36).

Nói  quanh đi quẩn lại cũng vẫn trở về khởi-điểm cuộc hành-trình đức-tin của chúng ta thôi, riêng với cha thì lại còn mang nhiều giá-trị tâm-linh trong cuộc sống nữa. Cho nên có nói gì thì cũng chỉ là mong cha một khi đã cầm đèn sáng trong tay rồi thì nên chịu khó khêu cho sáng thêm, cho cao thêm, sao cho chúng ta cùng nhìn thấy ngả đường trước mặt rõ hơn mà bước đi với tâm-tình bình-an và đẹp lành mọi sự trong Đức Ki-tô. Ước gì đoạn đường 25 của cha cũng sẽ là cái mốc điểm thời-gian chung cho chúng ta cùng nhìn lại đời sống tâm-linh mình. “Chúng ta là một Hội-thánh cần được thanh-tẩy. Chúng ta phải nhìn nhận rằng bằng nhiều cách, ta đã sống không trọn ơn gọi thi-hành sứ-mạng yêu thương và phục-vụ” (Tuyên-bố của Đại-hội LHHĐGM.AC). Hy-vọng cha hiểu tâm-ý của tôi cũng như tâm-ý bao người khác đều muốn được thấy âm-vang của tên gọi linh-mục của cha đúng là một bài ca làm hiển-danh Chúa ta.

Phạm Minh Tâm

VỀ MỤC LỤC
Vai Trò của Nhà Nước (tiếp theo)

HỌC HỎI VỀ HỌC THUYẾT XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (BÀI V)

V. Vai Trò của Nhà Nước (178 – 201)

 

61. HTXH nêu lên quyền lựa chọn thể chế chính trị ra sao?

 

Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng dạy rằng: “Có quyền bính là do bởi Thiên Chúa an bài, nhưng việc định đoạt những thể chế chính trị hay cắt cử người cầm quyền, vẫn là quyền tự do của mọi công dân” (GS # 74).

“Về mặt luân lý, các thể chế chính trị có thể khác nhau, miễn sao các thể chế này mang lại lợi ích chính đáng cho cộng đoàn đã thừa nhận chúng. Các thể chế có bản chất trái ngược với luật tự nhiên, với trật tự công cộng và các quyền căn bản của con người, thì không thể đem lại công ích cho những quốc gia đang theo thể chế đó” (GLCG # 1901).

Như vậy, nếu một thể chế nhà nước vừa không do người dân chọn lựa lại vừa trái với luật tự nhiên, thì thế chế ấy không xứng đáng để tồn tại.

 

62. Thông điệp nào nêu rõ nguyên nhân và mối nguy hiểm của nhà nước độc tài?

 

Trong thông điệp Centesimus Annus, ĐGH Gioan Phaolô II đã nói rất rõ và mạnh mẽ rằng: Trong thời hiện đại, chế độ độc tài dưới chủ nghĩa Marxit- Lenin… duy trì quan điểm rằng họ không mắc sai lầm và vì thế trở nên kêu căng thi hành quyền lực một cách tuyệt đối…Nguyên nhân sâu xa của chế độ độc tài trong thời hiện đại là vì họ khước từ sự nhìn nhận phẩm giá siêu việt của con người như là hình ảnh của Thiên Chúa. Vì con người là chủ thể của các quyền nên không một cá nhân nào, tập thể nào, giai cấp nào, dân tộc hay quốc gia nào có quyền xâm phạm các quyền này được… Đối với những nhà nước hay đảng phái tự cho rằng mình có sứ mạng lịch sử dẫn đầu [mọi người] đến sự hoàn thiện, và tự đặt mình lên trên các giá trị khác, thì các nhà cầm quyền này cũng không chấp nhận các tiêu chuẩn khách quan về sự thiện và sự ác vượt ra khỏi ý chí của họ. Vì như các tiêu chuẩn này, trong những hoàn cảnh nhất định sẽ xét xử các hành động của họ. Đó là lý do tại sao nhà nước độc tài tìm mọi cách để tiêu diệt Giáo hội, hay ít nhất cũng làm cho Giáo hội trở nên phục tùng và trở thành cộng cụ trong cơ cấu ý thức hệ của nó (cf. Centesimus Annus, # 44–45).

 

63. Theo HTXH, chúng ta hiểu như thế nào là dân chủ ?

 

Giáo hội đề cao thể chế dân chủ là vì nó bảo đảm sự tham gia của người dân vào việc lựa chọn thể chế chính trị, bảo đảm được việc điều hành chính phủ và có thể thay đổi nó một cách bình yên khi phù hợp. Nhưng Giáo hội không thể khuyến khích việc hình thành các tổ chức nhằm chiếm đoạt quyền hành vì tư lợi cá nhân hay mục đích ý thức hệ. Như thế, nền dân chủ thực thụ chỉ hiện diện trong một quốc gia khi quốc gia ấy tôn trọng luật pháp và có những quan niệm đúng đắn về nhân vị con người (cf. Centesimus Annus, # 46).

Mặt khác, dân chủ không thể bị thần tượng hóa đến mức như là sự thay thế cho nền đạo lý hoặc như một thần dược cho sự vô luân. Thực ra, dân chủ là một “hệ thống” và như là một phương tiện chứ nó không phải là cùng đích. Giá trị luân lý của nó không mang tính tự động, nhưng phụ thuộc vào sự tuân theo luật luân lý, mà như tất cá các hình thức cư xử khác của con người là chủ thể. Nói cách khác, luân lý dân chủ được quyết định bởi hậu quả luân lý mà nó theo đuổi và phương tiện mà nó sử dụng (cf. Evangelium Vitae, # 70).

 

64. Hậu quả của một nền dân chủ không giá trị sẽ ra sao?

 

Một nền dân chủ không giá trị là một nền dân chủ không dựa trên sự thật và phẩm giá con người. Thực vậy, nếu không hướng đến sự thật trọn hảo, thì các hoạt động chính trị, các tư tưởng và giáo điều dễ dàng bị nhào nặn nhằm mục đích bảo vệ quyền lực. Như lịch sử đã chứng minh, nền dân chủ không có giá trị sẽ dễ dàng biến thành một chủ nghĩa độc tài biến dạng. Vì thế, mọi lãnh vực của cá nhân, gia đình, xã hội, luân lý cần phải được đặt trên nền tảng sự thật và mở lòng trong sự thật để hướng đến sự tự do chân thật (cf. Veritatis Splendor, # 101).

 

65. Bằng chứng nào cho thấy một nhà nước có dân chủ thật sự?

 

Thông điệp Tin Mừng Sự Sống giúp cho ta thấy bằng chứng nền dân chủ của một quốc gia có thật hay không: [Một quốc gia] “sẽ không có một nền dân chủ thực sự nếu sự nhận thức về phẩm giá và quyền của mỗi người không được nhìn nhận; và dĩ nhiên, ở nơi đó cũng sẽ không có hòa bình nếu sự sống không được bảo vệ và ủng hộ” (Evangelium Vitae, # 101). Rõ ràng, bất cứ ở nơi đâu chính quyền không tôn trọng phẩm giá con người và không bảo vệ sự sống con người thì ở nơi đấy không có nền dân chủ thực sự. 

Br. Huynhquảng

VỀ MỤC LỤC
ALEXANDRE SOLJENITSYNE, CHỨNG NHÂN CỦA LƯƠNG TRI
 

Các nền văn minh và các thể chế chính trị rồi cũng qua đi với thời gian; nhưng nhân tính và lương tri vẫn luôn tồn tại. Alexandre Soljenitsyne không phải chỉ là một nhà văn hóa ý thức được chân lý vĩnh viễn đó, nhưng còn hơn thế nũa, ông đã vươn mình lên trên các nhà tư tưởng đương thời để đóng vai trò chứng nhân cho phẩm giá và tự do đích thực của con người.

Trong cuốn “Quần đảo Goulag”, Alexandre Soljenitsyne, một chứng nhân và cũng là tiếng nói của lương tri trong thế kỷ 20, diễn tả phần vụ chứng nhân cho chân lý để hoàn thành nhân tính qua câu nói ngắn gọn, nhưng dứt khoát : “Cứ câm nín trước tội ác, cứ để nó thấm nhập vào thân thể chúng ta, cứ như thế là chúng ta đang thực sự gieo rắc điều ác”.

Điều ác nguy hại không phải chỉ vì nó là ác, nhưng điều ác tác hại khi nó được che đậy và biện minh. Điều ác không phải chỉ đáng trách cứ lên quan đến kẻ gieo rắc sự ác, nhưng còn do kẻ bao che nó. Năm 1974, trước khi bị trục xuất khỏi quê hươngđể kéo lê 20 năm lưu đày trên đất khách, Soljenitsyne đã gởi ra một thông điệp tối hậu không những cho người Nga mà còn cho cả nhân loại: “Chìa khóa đơn giản và dễ tìm nhất cho việc giải phóng mà cho đến nay chúng ta cố ý lờ đi chính là đừng để cá nhân mình tham dự vào sự dối trá”.1

Chính vì là phát ngôn của tiếng nói lương tri, tiếng nói không thuộc về một nên văn minh nào, một thể chế chính trị nào, nên Soljenitsyne không chỉ dừng lại ở khung Trời Đông cộng sản kinh hoàng để có thể câm nín trước tai họa của Phương Tây vô hồn đang quên lãng chiều sâu tâm linh của nhân tính. Năm 1978, khi vừa đến tỵ nạn tại Hoa Kỳ, Soljenitsyne đã làm sửng sốt ngay cả những người ái mộ ông trong đại giảng đường Đại học Harvard bằng những lời cảnh báo nặng nề dành cho một xã hội duy vật, cá nhân chủ nghĩa, thiếu nền tảng và sức mạnh đạo đức. Theo ông, Phương Tây ấy đang lẫn lộn tài vật với Thiện hảo, tiền tài thay cho hòa hợp, hưởng thụ thay cho hạnh phúc.

Alexandre Soljenitsyne không phải chỉ là một đại văn hào của nước Nga, một cây bút sắc bén đã chặt đứt rễ cây nuôi sống một chế độ phi nhân, nhưng hơn thế nữa, ông còn là nhà tư tưởng tiên tri, phát ngôn cho Lời muôn thủa thắp sáng ý nghĩa sâu kín của nhân tính. Nhà sử học chuyên khoa về nước Nga và cũng là tổng thư ký của Hàn Lâm Viện Pháp quốc, nữ văn sĩ Hélène Carrère d'Encausse, đã nhận định về nhà tư tưởng ngoại hạng nầy khi hay tin ông tạ thế trong đêm tối chủ nhật 3 rạng sáng ngày thứ hai 4 tháng 8 năm nay rằng: “Điều đáng lưu ý là, cùng với cung cách rất Nga, Alexandre Soljenitsyne là hiện thân cho khía cạnh đạo đức con người đối diện với gông cùm của một chế độ độc tài. Công trình sáng tác to lớn của ông, nguồi cảm hứng thi ca của ông gần với văn hào Tolstoi, còn về chiều sâu tư tưởng ông đứng ngang hàng với Dostoievski. Đối với ông, chính con người mới là điều đáng được lưu ý, phẩm giá con người trên tất cả”.2

Qua kinh nghiệm sống của từng cá nhân và tập thể, cũng như người Nga, người Việt đồng cảm được sứ điệp về nhân phẩm và tự do mà Soljenitsyne suốt đời tranh đấu và rao giảng. Nhưng bao giờ chân lý và ước mơ đó trở thành hiện thực trên quê hương Việt Nam?
 

Định Hướng  Số 53

1 A. Soljenitsyne, Les droits de l'écrivain, Paris, Seuil, 1974, p.44

2 Cf. Le Figaro, ngày 4 tháng 8 năm 2008

VỀ MỤC LỤC
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐẠO CÔNG GIÁO VỚI VĂN HOÁ VIỆT

                    

Đạo Công giáo du nhập vào nước ta từ đầu thế kỷ XVI. Các sử gia Công giáo lấy mốc năm 1533 vì có ghi trong Khâm định sử thông giám cương mục. Nhưng tư liệu này không chắc chắn vì ghi theo “ dã sử”. Hơn nữa, giáo sĩ Inikhu nói ở sách này, cho đến nay vẫn không ai rõ tung tích. Đồng thời cả trong phần “ cương”  và “mục” của sách trên cũng nói rằng, “ trước đã có lệnh cấm rồi”. Chứng tỏ tôn giáo này có trước cả thời điểm 1533. Tuy nhiên, có thể khẳng định chắc chắn, đạo Công giáo đã có nhiều đóng góp với văn hoá Việt.

 

1. Trước hết, đạo Công giáo là cầu nối giao lưu giữa văn hoá Việt Nam và thế giới.

 

Đạo Công giáo ra đời từ Tiểu á nhưng lại phát triển mạnh ở châu Âu nên khi vào Việt Nam, nó cũng mang theo cả văn hoá, văn minh phương Tây vào theo. Thông qua Công giáo, người dân Việt Nam được thưởng thức những bản nhạc bất hủ của thế giới như Ave Maria, Holly Night, Jingle bell hay các hoạ phẩm Bữa tiệc ly, Đức Mẹ đồng trinh của các hoạ sĩ thiên tài L.Vinci, Raphael. Rồi những kiến trúc nhà thờ độc đáo kiểu gotic, roman, basilique của phương Tây cũng đã xuất hiện khắp nơi trên dải đất hình chữ S.

 

Trong số những nhà truyền giáo buổi đầu, không ít người được đào tạo bài bản trong các dòng tu, học viện phương Tây nên họ cũng là những nhà khoa học tinh thông nhiều lĩnh vực. Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) năm 1627 đã mang biếu Chúa Trịnh chiếc đồng hồ chạy bằng bánh xe và cuốn Kỷ hà nguyên bản của nhà toán học Euclide, đồng thời  giảng giải cho Trịnh Tráng nghe. Giáo sĩ Badinoti ( người ý) năm 1626 cũng được vời về phủ chúa để giảng về thiên văn, địa lý và toán học. Các giáo sĩ Da Coxta, Langerloi đã mang vào Đàng Trong phương pháp chữa bệnh theo lối Tây y nên được nhà chúa cho mở nhà thương ( bệnh viện). Có hai giáo sĩ là J.B Sanna ( người ý) và S.Piere  (người Bồ) được phong  ngự y dưới thời Minh Vương. Các giáo sĩ cũng phổ biến kỹ thuật dệt vải mịn và khổ rộng bằng khung dệt mang từ nước ngoài vào để sản xuất tại dòng Mến Thánh giá Di Loan ( Quảng Trị) và sản phẩm đã được trưng bày tại hội chợ Paris năm 1867. Kỹ thuật in ấn của ta trước đây là bản khắc gỗ rất lâu công. Các giáo sĩ đã đưa kiểu in bằng con chữ đúc đồng hay chì. Nhà in Vĩnh Trị thời Giám mục Jacques Longer (1752-1831) đã sử dụng  kỹ nghệ mới về nghề in. Người ta cũng ghi nhận chính các giáo sĩ đã đưa giống cừu vào Phan Rang để nuôi và linh mục Henry cũng là người đầu tiên đưa cây phi lao về trồng ở xứ Hà úc ( Huế)…

 

Mặc dù sinh trưởng ở phương Tây nhưng nhiều giáo sĩ lại rất coi trọng văn hoá Việt. Linh mục Bunzomi, người đặt chân lên đất Đàng Trong ngày 18-1-1615 nhận xét: “ Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình Việt Nam đã có một tổ chức rất cao, người dân Việt Nam có những đức tính và phong tục rất đáng khâm phục”(1). Đắc Lộ thì khen cả pháp luật nước ta lúc đó “ không rườm rà, lôi thôi”, các lương y của Việt Nam thì “chẳng thua gì các bác sĩ của ta và hơn nữa trong một vài môn, họ giỏi hơn nữa…họ luôn dùng ba ngón tay để bắt mạch và thực ra họ rất thành thạo. Thuốc của họ không khó uống và thứ đắt nhất cũng chẳng giá hơn 5 xu” (2). Khi in ấn các tác phẩm của mình ra nước ngoài như Từ điển Việt- Bồ – La, Hành trình truyền giáo, Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài của Đắc Lộ hay Truyện xứ Đông Kinh của Bunzomi, Từ điển Việt – La, La- Việt của P.de Behaine và Tabert, Di tích lịch sử Quảng Bình, Lũy Thày Đồng Hới của L. Cadiere…Thế giới phương Tây đã biết đến Việt Nam và chắc không ít người cũng đã ngạc nhiên như Đắc Lộ: “Tôi không biết vì sao đất nước rất xinh đẹp này lại không được biết tới, vì sao các nhà địa lý châu Âu không biết tên gọi và gần như không ghi trong bản đồ nào cả. Tuy họ chép đầy đủ tên các nước trên thế giới” (3).

 

Chính các giáo sĩ cũng đã giới thiệu cách làm kinh tế mới như rẻ mua, đắt bán, cho vay lấy lãi vừa phải và nhiều ghi chép của họ còn là bằng chứng về chủ quyền của nước ta ngày nay. Ví dụ, Giám mục J.Louis Tabert viết trên tạp chí Journal of the Royal Asian society of Bengal tháng 9-1837 như sau: “ Quần đảo Panacels mà người Việt gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa gồm nhiều đảo chằng chịt với những đảo nhỏ và bãi cát mà các nhà hàng hải khiếp sợ một cách chính đáng do người Việt xứ Đàng Trong chiếm cứ…Năm 1816, vua Gia Long cắm cờ trên quần đảo này”.

 

2- Công giáo với việc xây dựng chữ Quốc ngữ

Chữ Quốc ngữ là công trình tập thể của nhiều giáo sĩ nước ngoài với sự cộng tác của người Việt. Dĩ nhiên mục đích của các nhà truyền giáo lúc đầu là để truyền giáo được dễ dàng hơn nhưng nó lại phù hợp với tiến trình phát triển và tinh thần độc lập, tự cường dân tộc nên các chí sĩ của phong trào Đông kinh nghĩa thục coi đó là “ một trong sáu phương kế để mở  mang dân trí”. Nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm nhận xét: “Các giáo sĩ người Âu đặt ra chữ quốc ngữ, chủ ý là có được một thứ chữ để viết tiếng ta cho tiện và dùng cho việc truyền giáo cho dễ. Không ngờ rằng, vì thế lịch sử xui khiến, chữ ấy nay đã thành văn tự phổ thông cho cả dân tộc ta. Đành rằng, cũng như các công trình do người ta sáng tạo ra, thứ chữ ấy cũng có vài khiếm khuyết điểm, nhưng ta nên nhận rằng, ở trên hoàn cầu này không có thứ chữ nào tiện lợi và dễ học bằng thứ chữ ấy”(4). Thành công của chiến dịch “diệt giặc dốt” sau cách mạng tháng 8-1945 và cả việc học sinh, sinh viên Việt Nam ngày nay dễ dàng học ngoại ngữ, tin học càng khẳng định vai trò của chữ Quốc ngữ.

Cũng cần nói rõ thêm là việc Hội Trí Tri cho dựng bia ghi công của Đắc Lộ trước đền Bà Kiệu ( Hà Nội) năm 1941 và dịp sinh nhật lần thứ 400 của ông, tên Đắc Lộ đã được trả lại cho một đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh, rồi tấm bia trên sau một thời gian lưu lạc ở bờ đê sông Hông và bị một người dân lấy về làm cầu ao đã được Nhà nước đề nghị cho dựng lại ở Thư viện Quốc gia (tiếc rằng đến hôm nay nó vẫn còn nằm trong kho ở công viên Thống Nhất) không có nghĩa nói rằng chỉ Đắc Lộ là người duy nhất có công trong việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ. Vậy mà một số người như ông Bùi Kha cố tình vu cáo rằng Nhà nước Việt Nam đã “ tôn vinh nhầm một tên gián điệp, đạo văn…”. Lý do như ông Bùi Kha đưa ra là Đắc Lộ có qua Pháp gặp vua Pháp và Pina mới là có công đầu với chữ quốc ngữ (5). Thật lạ, chẳng lẽ cứ qua Mỹ như ông Bùi Kha là làm gián điệp cho Mỹ cả hay sao? Còn chuyện Pina thì Đắc Lộ đã nói rõ trong cuốn Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài khi in bằng tiếng ý năm 1650, tiếng Pháp năm 1651 và tiếng Latinh năm 1652 rồi.

Liên quan đến vai trò chữ Quốc ngữ, cũng có người cho rằng do thứ chữ này mà đạo Công giáo đã làm đứt đoạn văn hoá dân tộc vì người dân phải từ bỏ chữ Hán, chữ Nôm. Điều này cũng không chính xác. Bởi vì chỉ sau khi chính quyền bảo hộ từ năm 1910, buộc dùng chữ Quốc ngữ trong thi cử và giấy tờ hành chính thì chữ Hán , chữ Nôm mới mất vị trí phổ thông. Nhưng trong nhiều chủng viện Công giáo, các chủng sinh vẫn buộc phải học chữ Hán, chữ Nôm và rất nhiều ấn phẩm Công giáo được ghi bằng thứ văn tự này như Majorica (1591-1656) đã để lại 45 tác phẩm chữ Nôm với khoảng 1,2 triệu chữ. Cuốn Thánh giáo kinh nguyện bằng chữ Nôm vẫn được in tại Hà Nội năm 1929.

Chúng tôi không tán thành việc đề cao quá mức sự kiện xuất hiện chữ Quốc ngữ nhưng cũng không tán thành ý kiến cho rằng “ sở dĩ mấy con rồng Đông Nam á trở thành rồng vì họ vẫn dùng chữ Hán đến ngày nay” (6). Bởi văn tự không phải là nhân tố quyết định sự phát triển của một đất nước. Thế nhưng chỉ một hiện tượng, nhiều giáo sĩ có chủ trương latinh hoá tiếng bản xứ như ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên nhưng chỉ có Việt Nam là thành công, đã chứng tỏ tài năng của những người sáng lập chữ Quốc ngữ và kể cả sự nhanh nhạy nhìn xa của  dân tộc Việt Nam nữa. 

3- Văn hoá Công giáo làm phong phú văn hoá Việt

Tôn giáo là một thành tố quan trọng của văn hoá và bản thân tôn giáo cũng là văn hoá nên việc đạo Công giáo vào Việt Nam đã làm phong phú cho văn hoá Việt không chỉ thêm một tôn giáo mới mà còn bổ sung  rất nhiều  sắc thái mới khác nữa.

Công giáo là một đề tài mới cho văn học nghệ thuật nên đã có nhiều tác phẩm mới ra đời như Giáng sinh của các hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Văn Chung và của nhiều nhạc sĩ, nhà văn khác như Văn Cao, Phú Quang, Chu Văn, Nguyễn Khải…Dòng văn học Công giáo cũng xuất hiện rất sớm với Truyện thày Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng  Quản in năm 1887- được coi là truyện vừa đầu tiên của văn học nước ta lấy trạng thái tâm lý làm đối tượng miêu tả. Rất nhiều tác giả người Công giáo cũng để lại dấu ấn của mình trên văn đàn như Hàn Mặc Tử, Hồ Dzếnh, Nguyên Hồng, Bàng Bá Lân…Cả một kho tàng ca dao, tục ngữ Công giáo cũng đã được lưu hành để phản ánh về phong tục, tập quán của cộng đoàn này. Ví dụ các câu ghi kinh nghiệm sản xuất:

-   Lễ Rosa (7-10) thì tra hạt bí

Lễ Các thánh (1-11) thì đánh bí ra.

-   Lễ Các thánh gánh mạ đi gieo

Lễ Sinh nhật (25-12) giật mạ đi cấy…

Tranh tượng, thánh ca, kiến trúc, lễ hội Công giáo cũng làm thành một  “trường phái”riêng đóng góp vào vườn hoa rực rỡ sắc màu của văn hoá Việt. Bây giờ lễ Valentin, Noel đâu còn phải là của riêng người Công giáo mà đã là lễ hội chung của rất nhiều người Việt nhất là giới trẻ. Báo chí Công giáo như tờ Nam Kỳ địa phận xuất hiện ở Sài Gòn ngày 26-11-1908 là một trong những tờ báo bằng chữ Quốc ngữ sớm nhất ở nước ta. Những nhà báo Công giáo như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của là những người đã đưa  lối làm báo “ nói viết như thường” từ phương Tây vào Việt Nam qua tờ Gia định báo. Sang đầu thế kỷ XX, không giáo phận, dòng tu Công giáo nào không có báo riêng. Có tờ rất nổi tiếng như tờ Vì Chúa của linh mục L’Abbe Thích ở Cửa Tùng mà Phan Bội Châu thường cộng tác. Các tờ báo Công giáo ở miền Nam trước 4-1975 như Sống đạo, Đất nước, Đối diện, Chọn, Tin mừng hôm nay…cũng góp nhiều tiếng nói cho cuộc đấu tranh chô công bằng, tự do và dân chủ.

Cũng không thể không nói đến những danh nhân văn hoá người Công giáo như Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Nguyễn Trường Tộ (1830- 1871), Đắc Lộ (1593-1660), L.Cadiere (1869-1955), Hàn Mặc Tử (1912-1940)…và chắc viết về mỗi người thì không thể nói hết trong vài trang giấy được. Ngay cả các nhà nghiên cứu về Công giáo hiện nay, không ai là không phải đọc các tác phẩm của các tác gia Công giáo như Bùi Đức Sinh, Trần Tam Tỉnh, Kim Định, Thanh Lãng, Hoàng Sĩ Quý, Đỗ Quang Chính…Cũng chính các tác gỉa này cùng với đạo Công giáo đang là một kênh quan trọng để giới thiệu hình ảnh đất nước con người Việt Nam ngày nay ra thế giới. Một chuyến đi của Hồng y Crescenzio Sepe – Tổng trưởng Bộ Truyền giáo qua Việt Nam cuối năm 2005 chắc chắn sẽ hữu ích hơn cả hàng trăm bài giới thiệu về Việt Nam với bạn bè quốc tế. 

4- Giáo lý Công giáo góp phần xây dựng lối sống lành mạnh trong xã hội

Cũng như nhiều tôn giáo khác, đạo Công giáo cũng luôn buộc các tín hữu phải sống lành mạnh, hướng thiện. Giáo lý Công giáo không chỉ cấm giáo dân làm điều ác mà cấm cả suy nghĩ không lành mạnh, trong sáng như ước ao chiếm dụng của cải, vợ chồng của người khác ( điều răn thứ 9). Có nghiã là ngăn chặn tội ác từ trong ý nghĩ. Hôn nhân một vợ một chồng cũng là tiến bộ của xã hội và của giáo lý Công giáo. Theo số liệu của Toà án nhân dân tối cao, mỗi năm trước 1982 nước ta có trung bình 5672 vụ ly hôn. Năm 1991 tăng lên 22000 vụ, năm 1994 có 34376 vụ. Năm 1995 có 35684 vụ. Trong khi đó, ở làng Công giáo Trung Thành ( Hải Vân  Hải Hậu, Nam Định), nơi có 6000 giáo dân sinh sống mà suốt 5 năm 1990-1995 chỉ có 2 cặp ly thân. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với người ngoài Công giáo đến với tôn giáo này.

Đạo Công giáo cũng cổ vũ cho các hoạt động bác ái, từ thiện nên các tấm gương của các nữ tu ở các trại phong cùi, chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS, chất độc màu da cam đã được xã hội tôn vinh như nữ tu Nguyễn Thị Mậu 40 năm ở trại phong Di Linh ( Lâm Đồng) đã được phong anh hùng lao động. Chị Nguyễn Thị Mai ( Quảng Bình) dũng cảm cứu người trong trận lũ lịch sử ngày 26-4-2004 và hy sinh đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu liệt sĩ. Còn vợ chồng anh Tống Phước Phúc ở Nha Trang đã giúp đỡ nhiều cô gái lỡ mang thai được mẹ tròn con vuông và làm hẳn nghĩa trang cho hàng ngàn thai nhi đã được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết gửi thư khen…Nếu trước đây, giáo hội cấm đoán giáo dân không được rượu chè, cờ bạc, dâm dật thì ngày nay lại ra sức mời gọi mọi người ngăn chặn nạn nghiện hút, sự đổ vỡ của gia đình cũng như phải chăm lo giáo dục con cái. Chính điều này đã làm cho cuộc sống ở những vùng đông giáo dân an bình, đỡ tội phạm hình sự hơn. Người Công giáo không chỉ tích cực tham gia các hoạt động bác ái mà con số cũng không nhỏ (Ví dụ Uỷ ban bác ái xã hội của HĐGMVN từ 2001-2007 đã trợ giúp 24,5 tỷ đồng cho các chương trình từ thiện) mà còn chủ động góp công của xây dựng quê hương như xã Quỳnh Thanh ( Nghệ An) nơi có hơn 11.300 người Công giáo sinh sống thì 26,2% kinh phí xây dựng cơ bản tại địa phương ( làm trường, đường, trạm y tế, nhà máy nước…) là của các linh mục . Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc hội kiến với Giáo hoàng Benedicto XVI tại Vatican ngày 25-1-2007 đã nhận xét: “ ở Việt Nam, cộng đồng những người Công giáo là một cộng đồng năng động, kính Chúa, yêu nước và có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng và phát triển đất nước”.

Rõ ràng, đạo Công giáo đã để lại nhiều dấu ấn trên văn hoá nước ta và đây là điều người Công giáo Việt Nam có thể tự hào. Dĩ nhiên, không có sự tác động nào đơn phương một chiều cả. Giống như lửa thiêu cháy củi thì củi cháy lại làm cho ngọn lửa bốc cao hơn nên Công giáo ảnh hưởng đến văn hoá Việt Nam thì văn hoá Việt Nam cũng biến đổi tôn giáo này ngày càng gần gũi với văn hoá Việt. Đây là một đề tài thú vị mà chúng tôi hy vọng có thể trình bày trong một dịp khác.

 ---------------------

Chú thích:

* TS Đại học Đông Đô

1-   Nguyễn Hồng- Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, tập 1, SG Hiện Tại, 1959.

2- A. Rhodes: Hành trình truyền giáo, Tủ sách Đại kết 1994, tr.89

3- A.Rhodes: Hành trình…sđ d, tr.143.

4- Việt Nam văn học sử yếu, Sài Gòn 1960, tr.180

5- Bùi Kha: Alexandre de Rhodes và những nhầm lẫn đáng tiếc, Tạp chí Huế xưa và nay, số 7-8 năm 2004, tr.55.

6- Xem Nguyễn Hưng: Sơ thảo thư mục Hán Nôm Công giáo VN, Lưu hành nội bộ năm 2000, tr.13

Tiến sĩ Phạm Huy Thông

VỀ MỤC LỤC

LỜI CẦU TRONG CƠN ĐAU

 

(Xin dâng lời cầu và hiệp thông cùng tất cả các gia đình và cộng đoàn có thành viên trong tai nạn thảm khốc tại Sherman, trên đường đi Ngày Thánh Mẫu 2008)

 

Đoàn con hiền thảo, dặm đường xa

Nô nức về nơi tháp báu ngà

Lòng trĩu ưu tư, tìm dẫn dắt

Hưởng nguồn thiên phúc, Chúa bao la

 

Hung tin vụt đến, nghẹn lời ca

Hiệp nhất muôn tim, lệ thấm nhoà

Mẹ hẳn thấu tình con thảo hiếu

Cúi đầu vâng ý nhiệm mầu Cha.

 

Cõi lòng hiền mẫu, Ma ri a

Cầu Chúa ủi an lúc xế tà

Thống khổ cõi trần còn rướm máu

Vết thương hằn dấu trên mình da

 

Lòng con đến với Mẹ thương yêu

Như những đoá hoa thật mỹ miều

Diệu vợi đường dài con vội vã

Cánh kia bay bổng đến huyền siêu

 

Truân chuyên lữ thứ, bước trần gian

Cõi sống vĩnh hằng, phúc vượt ngàn

Kiên vững niềm tin thờ kính Chúa

Bước đường thánh giá chẳng từ nan

 

L.M. Tân Trần

 
VỀ MỤC LỤC
MẸ VỀ TRỜI SAO CÒN XUỐNG ĐỂ KHÓC?!
 

Ngày 15 tháng 8 hằng năm, Giáo Hội Công Giáo khắp hoàn vũ long trọng mừng kính biến cố vô cùng trọng đại và vinh dự của Đức Maria, đó là việc Mẹ được Thiên Chúa cho về trời cả hồn lẫn xác. Trên nơi cao thẳm ấy, Mẹ được tôn phong làm Nữ Vương trời đất, để cùng với Chúa Giêsu, Mẹ cầu bầu cho con cái Mẹ còn đang sống giữa ba đào trần gian. 

Qua vai trò Nữ Vương và với lòng yêu thương con cái, đôi lần xẩy ra trong lịch sử Giáo Hội và nhân loại, Mẹ đã từ trời xuống lại trần gian hiển lộ để thông báo, cảnh tỉnh, hoặc phù trợ con cái loài người. Thí dụ, Mẹ đã hiện ra tại Lộ Đức để mặc khải cho nhân loại biết về đặc ân cao cả mà Chúa đã ban cho Mẹ, đó là đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Hoặc như lần Mẹ hiện ra tại Fatima ban cho nhân loại phương thức để biến đổi thế giới, cải thiện lòng người hầu tránh những đại họa mà Thiên Chúa công thẳng muốn giáng phạt loài người, đó là chủ thuyết Cộng Sản vô thần. Riêng tại Việt Nam, trong thời kỳ bách hại, người Công Giáo Việt Nam cũng được Mẹ thương hiện ra tại La Vang để an ủi, và khích lệ. 

Gần đây nhiều người đã nô nức, chen lấn nhau mong được nhìn tận mắt những giọt lệ trên gò má của Mẹ tại trước Vương Cung Thánh Đường Saigòn, trên núi Tàpao, và tại Bạch Lâm. Nước mắt chảy ra trên gò má Mẹ, nước mắt thắm lệ và hóa thành máu, chuỗi hạt trên tay Mẹ lónh lánh như những hạt sương, và áo Mẹ tung bay trước gió. Những sự kiện trên đã được quay thành phim và phổ biết khắp năm châu trên các màn điện toán.  Vậy, là những Kitô hữu, nhất là những Kitô hữu có lòng yêu mến và sùng kính Mẹ, chúng ta phải nhìn những biến cố này như thế nào? 

Phải chăng đây là những biến cố được xây trên những cảm tình bồng bột, và được thêu dệt thêm bằng ảo tưởng, ảo ảnh và áo giác?! Hay phải chăng đây chỉ là những tác dụng của tâm lý quần chúng? Hoặc có thể, đây là chỉ những dụng ý của kẻ thù Thiên Chúa muốn nhân những cơ hội này làm lung lạc Đức Tin, dẫn niềm tin chúng ta vào những suy tư tình cảm, mê tín để rồi khi những cảm tình, lòng sốt sắng nhất thời qua đi, chúng ta lạc mất niềm tin, hoặc giảm sút lòng yêu mến đối với Mẹ. Thật ra, không phải đợi cho đến bây giờ mà ngay từ thời Chúa Giêsu, Ngài cũng đã cảnh tỉnh con người như sau:   

“Hãy coi chừng đừng để mình bị lừa gạt. Vì sẽ có nhiều người nhân danh Thầy mà nói: “Chính ta là Đức Kitô” và lừa gạt nhiều người. Các con sẽ nghe nói về chiến tranh và những lời đồn đãi về chiến tranh, nhưng đừng xao xuyến. Vì những chuyện đó cần phải xẩy ra trước, nhưng chưa phải là hết thời. Quốc gia này sẽ dấy lên chống lại quốc gia khác và dân này sẽ đánh lại dân kia. Sẽ có đói khổ, động đất khắp nơi. Mọi chuyện ấy là khởi điểm như những đau đớn của việc chuyển bụng. Người ta sẽ nộp các con để bị đánh đòn, và giết các con. Các con sẽ bị mọi dân tộc ghét bỏ vì danh Thầy. Và bấy giờ họ sẽ vấp ngã, thù ghét và phản bội nhau. Sẽ có nhiều tiên tri giả lừa gạt nhiều người. Vì sự dữ gia tăng nên lòng mến của nhiều người sẽ nguội lạnh. Nhưng ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi” (Mt 24:4-13).

Đức Tin dậy chúng ta rằng, sau khi Giáo Hội đã đóng sổ kho tàng Mặc Khải bằng cuốn Khải Huyền của Thánh Gioan, thì mọi mặc khải phổ quát đều được chấm dứt. Có nghĩa là những gì Thiên Chúa muốn tỏ lộ và nói với con người nhân danh tình yêu và vì phần rỗi nhân loại thì đã được Ngài thực hiện xong. Tuy nhiên, cũng vẫn theo Thánh Kinh, qua lời dậy của Thánh Phaolô, thì những lần hiển lộ đó đây với người này, người kia vẫn được Thiên Chúa dùng như những tiếng nhắc nhở có liên quan đến phần rỗi của một số người, hoặc chung cho nhiều người. Thánh Phaolô đã trình bày về giáo lý này tương tự như những lời tiên tri và cho rằng không nên từ chối, nhưng cũng không nên vội vàng, hấp tấp, mà phải cẩn thận suy nghĩ, nghiệm xét.  Từ đó, Giáo Hội cho đây là những mặc khải tư, và không buộc tín hữu phải tin theo nhưng để tùy lòng sốt sắng và sự đón nhận của mỗi tâm hồn.

Năm 1917 tại Fatima, hoặc tại Lộ Đức hơn 150 năm trước, hay ngay tại La Vang hơn 300 năm ngay trong thời gian những Kitô hữu Việt Nam bị bách hại, những lần hiện ra đó Mẹ đã nhắn nhủ, khuyên bảo, và ban muôn ơn lành cho những tâm hồn thiện tâm muốn đón nghe sứ điệp của Mẹ. Những cảm tính thuộc lãnh vực tình cảm, những gì có tính cách ồn ào, dị đoan hay mê tín đều không tồn tại. Chính vì thế, những hiện tượng dồn dập gần đây xẩy ra tại Sàigòn, Tàpao hay Bạch Lâm khiến chúng ta phải suy nghĩ. Tại sao Mẹ lại khóc? Tại sao Mẹ đã về trời, đang vinh hiển cùng với Thiên Chúa và muôn vàn thần thánh lại còn phải xuống trần gian để khóc. Những giọt nước mắt, những giọt máu đang chảy ra từ khóe mắt Mẹ mang ý nghĩa gì? Phải chăng những lời khuyên nhẹ nhàng của Mẹ năm xưa tại Fatima đã không còn sức đánh động lòng người, nên Mẹ đành phải khóc? 

Trong truyện các Thánh kể rằng một hôm Thánh Lui nước Pháp được vị quan trong triều cho biết một phép lạ đã xẩy ra, Thánh Thể Chúa đang bay lơ lửng trên không sau khi một linh mục đọc lời truyền phép. Vị vua đạo đức này đã trả lời, là nếu ai chưa tin thì đi mà xem còn mình thì vẫn tin là Chúa Giêsu ở trong Phép Thánh Thể.  Nếu vua Thánh Lui sống ở vào thời đại của chúng ta, có lẽ ngài cũng nói với chúng ta rằng nếu ai còn hồ nghi lòng yêu thương và sự quan tâm của Đức Mẹ thì hãy đi mà nhìn xem những hiện tượng ấy, còn phần mình, ngài vẫn luôn tin rằng Đức Trinh Nữ Maria luôn luôn yêu thương và lo lắng cho mỗi người chúng ta.

Thật vậy chính Đức Tin mới làm cho chúng ta tin nhận tấm bánh sau khi truyền phép là Thánh Thể Chúa, chứ việc con mắt xác thịt nhìn xem vẫn không thay thế được niềm tin. Trên khắp thế giới, cứ mỗi 4 giây là có một thánh lễ được dâng lên, nhưng đã có bao nhiêu lần trong các thánh lễ ấy Thánh Thể Chúa bay lơ lửng trên không. Cũng thế, chính do lòng yêu mến, tin tưởng, và phó thác cho Mẹ mới đem lại cho chúng ta sức mạnh cải thiện, gia tăng đức ái, và hăng say sống chứng nhân cho Thiên Chúa theo lời Mẹ khuyên chứ không phải việc chen lấn để được nhìn xem những giọt nước mắt lăn trên gò má của các thánh tượng Mẹ.    

Xưa trên đồi Gongotha, Mẹ đã âm thầm, can đảm đứng dưới chân thập giá Chúa. Mẹ đã khóc thương Chúa vì bị nhân loại chối từ và đóng đinh. Ngày nay, giữa những vong ân, bội nghĩa của con cái loài người đối với Thiên Chúa. Và vì con người ngày càng xa lìa tiếng mời gọi yêu thương của Chúa và Mẹ. Tiếng mời gọi sống bác ái, yêu thương, và vâng giữ các huấn lệnh Chúa, nên không lạ gì mà Mẹ phải khóc. Không riêng gì những người không tin Chúa, người Công Giáo lúc này cũng đang phá thai, cũng đi theo lối sống đồng tính và hôn nhân đồng tính, và cũng hăm hở chạy theo những đam mê, dục vọng. Một số các linh mục, số giám mục, và nam nữ tu sỹ đã bỏ quên không thực hiện những lời khấn hứa: vâng phục, khiết tịnh, và khó nghèo. Nhiều vị còn để mình bị cuốn hút bởi sức mạnh quyền lực, danh vọng, và vì thế, đời sống tận hiến đã mất giá trị, và gương chứng nhân đã bị vỡ nát, khiến cho người khác không thể nhìn thấy Chúa Giêsu qua họ.     

Mẹ đã về trời cả hồn lẫn xác, đang vinh hiển bên Con Chí Thánh, nhưng nay phải xuống trần để khóc quả là những biến cố cần chúng ta phải suy nghĩ. Không phải bằng những cảm tình nhất thời, nhưng bằng với ánh mắt Đức Tin để nhìn ra đâu là những sứ điệp mà Mẹ muốn giử cho mỗi người. Người con ngoan thì không làm mẹ mình phải khóc.  

Trần Mỹ Duyệt, tiến sĩ tâm lý

VỀ MỤC LỤC
TRUYỆN BÂY GIỜ MỚI VIẾT

Bây gìơ mới viết, nhưng không phải là truyện cổ tích ngày xửa ngày xưa 100% mà chỉ là ‘ngày xửa ngày xưa…đôi ta chung nón…’ mới đây thôi. Vì thế cho nên… tên tuổi của những nhân vật trong truyện được đổi để tránh phiền phức, nghi kỵ hoặc hiểu lầm...(nhỡ ra). 

Truyện tháng 4 năm 1975 

Hôm ấy là ngày 27 tháng Tư, Sài Gòn đi từ ngột ngạt sang đến lo sợ. Chiến tranh cứ từng giờ từng phút gần lại với thủ đô như con nước lũ điên khùng không ai cản được. Đường ra Vũng Tầu đã bị cắt và đường về Miền Tây cũng đã bị chặn. Tin tức xấu và những bình luận bi quan được nghe bàn khắp nơi, từ những đuờng phố chính ngập người tỵ nạn đến các con hẻm nhỏ vắng người. Phong và tôi đến tìm thăm Tân, ở xứ Bùi Phát, trên đường Trương Minh Giảng. Gia đình Tân đang xúm nhau làm giấy tờ để di tản đi Mỹ vì anh của Tân làm sở Mỹ. Công ty Mỹ cho mỗi nhà mười người đi, nhưng nhà Tân chỉ có chín và em trai của Tân lại vướng cô bạn gái nên không chịu đi. Thế  là dư hai chỗ. Vì phải quyết đinh và chuyển giấy tờ cấp tốc nên Phong và tôi được ghi tên vào gia đình của Tân và nằm chờ để được gọi ra phi trường Tân Sơn Nhất. Thật không ngờ, nhưng tâm tư lúc ấy đang rối bời nên tôi chẳng thấy vui tí nào, chỉ mong sao thoát ra khỏi SaiGon đang trong cơn hoảng loạn tứ tán mà thôi.  

Chẳng may chiều hôm ấy, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích nặng nên việc di tản của chúng tôi không thành. Chia tay nhau, Phong nói: ‘Mẹ kiếp, đã vậy tụi mình ở lại làm chứng nhân cho những người vô thần. Chết là cùng thôi’. Tôi im lặng và trong đầu thoáng hiện ra những hình ảnh trong phim ‘Ánh Sáng Miền Nam’, ‘Chúng Tôi Muốn Sống’… mà kinh hãi. Nhưng biết làm sao được… Thôi kệ, chuyện gì phải đến sẽ đến… 

Ngày 30 tháng 4, Sài Gòn thất thủ. Người chiến thắng thì vui mừng và ngạo nghễ, còn kẻ chiến bại thì buồn tủi và căm phẫn. 

Khoảng đầu tháng Sáu sau đó, tôi trở lại Dalat tiếp tục học mặc dù tâm tư vẫn còn rất nhiều giao động. Kinh nghiệm của các cha giáo người nước Hungary, BaLan, và Trung Hoa Luc Địa trong học viện… cho thấy đời sống tôn giáo không có gì sáng sủa trong những nước cộng sản. Rất bất ổn, nhưng thấy các vị thầy ngoại quốc vẫn bình tĩnh ở lại Việt Nam, rồi bạn bè từ Miền Trung và Miền Tây dần dần trở lại trường nên tôi thấy bớt lo lắng. Có những đứa bạn rất hăng say. Tôi nhớ trong một buổi họp lớp, Khanh  - gốc Qui Nhơn - đã chia sẻ: ‘Con chó sói mà ăn thịt chiên hoài rồi cũng hiền lành ra thôi… Sợ gì…’.  

Chẳng biết Phong và Khanh tự nghĩ ra hay lấy những ý tưởng ‘anh hùng’ này ở đâu. Chỉ biết tuổi trẻ có những hăng say của nó. 

‘Mẹ kiếp, tụi mình ở lại làm chứng nhân cho những người vô thần. Chết là cùng thôi’ 

‘ Con chó sói mà ăn thịt chiên hoài rồi cũng hiền lành ra thôi…Sợ gì’ 

Ba mươi ba năm sau, tác giả của câu nói số một giờ này thì đang làm linh mục tuyên úy cho một xứ đạo lớn, không phải ở Việt Nam, mà ở bên Đức. Có lần Phong gọi điện thoại tâm sự với tôi: ‘Mẹ kiếp tụi Đức nó bỏ đạo nhiều lắm mày ạ. Nhiều nhà dòng và chủng viện giờ này vắng tanh, chẳng còn ngoe nào tu cả …’ Phong ơi, bạn đang làm chứng nhân cho những người đang bỏ đạo, chứ không phải cho những người vô thần như bạn dự tính. Bạn thấy đàng nào dễ hơn’? 

Còn tác giả câu nói số hai thì cũng đang làm một linh mục giáo sư ở Việt Nam sau hơn mười năm mang kiếp… Linh Mục… chui.. ’Khanh ơi, đến giờ này thì con chiên vẫn còn sống. Con chó sói có gặm mất của bạn miếng thịt ba chỉ nào chưa? Và  nó có hiền hơn tí nào không’? 

Truyện năm 1978 

Khoảng tháng Mười năm 1975 thì toàn bộ giáo sư ngoại quốc của Giáo Hoàng Học Viện, Dalat bị trục xuất về nước. Chúng tôi lại một lần nữa hoang mang, nhưng vẫn bám trụ ở lại trường. Vừa lao động vừa học. Đi phá rừng làm rẫy cách thành phố DaLat cả 10 cây số. Trời lạnh và ăn uống rất kham khổ, nhưng vẫn kiên trì và vui bên nhau. Đến khoảng giữa năm 1977 thì công an Dalat ra lệnh giải tán toàn bộ nhà trường. Mỗi tu sĩ được cấp một tấm giấy ‘về nhà làm ăn vĩnh viễn với gia đình’. Ngao ngán lắm, nhưng hành trang trên đường ‘về thế gian’ của chúng tôi vẫn là những thùng sách thần học. Tuổi đời vừa quá hai mươi, tương lai thì không thấy, nhưng lòng thì vẫn hăng say: chứng nhân, chết là cùng. 

Chạy chọt về giúp xứ đạo Rạch Giá, sau thánh lễ một buổi sáng Chúa Nhật năm 1978, một anh bộ đội kéo tôi ra cuối nhà thờ bảo:

-         Tôi muốn nói truyện với ông một tí.

‘Truyện gì đây. Tôi đâu có phê bình nặng nề Ruồi Trâu hay Ngày Lễ Thánh như cha phó Tuấn. Tôi đâu có làm trung gian vượt biên. Tôi đâu có trốn công tác thủy lợi hay nói xấu cách mạng…’. Thấy tôi yên lặng đi theo, anh bộ đội nói tiếp:

- Tôi hỏi ông về đạo ấy mà.

Tôi nhẹ người. Được. Tôi mới học xong Thần học đây. Anh muốn hỏi cỡ nào.  

Ngồi xuống ghế đá. Anh nói ngay:

-         Các ông cha ông thầy trong nhà thờ cứ dậy bổn đạo về Chúa. Vậy ông chứng minh là có Chúa cho tôi xem. 

Như một học sinh vớ được bài học tủ khi vào phòng thi, bài tủ ấy lại mới được tôi soạn để dạy đám thiếu nhi hồi tuần trước, nên tôi thao thao chứng minh cho anh bộ đội sự Hiện Hữu của Thượng Đế. Các lý thuyết  của Thánh Augustinô, của Thánh Tôma  d’Aquin được tôi lôi hết ra sân cho anh bộ đội xem.

-         Trên đời này, anh thấy có cái gì tự mình mà có không? Đôi dép anh mang, cái áo anh mặc đều là do những người thợ làm ra. Cơm gạo anh ăn cũng vậy… Và chính thân xác của anh đây nữa. Anh đâu tự mình mà có. Cha mẹ sinh ra anh. Rồi ông bà sinh ra cha mẹ anh… và cứ thế, cứ thế truy lên thì …Phải có một Đấng Tự Hữu sinh ra muôn loài. Rồi anh thấy đó. Có vật gì tự mình chuyển động được không? Con tàu chạy trên sông trước mắt kia là do cái chân vịt quay và đẩy nước. Chân vịt quay là do động cơ nổ. Động cơ nổ là do xăng và không khí được đốt trong buống máy. Mặt trăng xoay quanh trái đất, và trái đất xoay quanh mặt trời được là do đâu? Ai làm cho muôn vật sống và chuyển động? Phải có Đấng tự mình có cái lực làm ra mọi chuyển động chứ? Anh thấy không nào?

Anh bộ đội vu vơ nhìn lên trời:

-         Con người ta bởi khỉ mà ra mà?

-         Chưa ai chứng minh được điều này một cách khoa học anh ạ. Mà cho dù con người bởi khỉ mà ra đi nữa thì cũng chẳng sao cả. Phải có Đấng dựng nên con khỉ chứ. Con khỉ, con vượn, hay con đười ươi đâu tự mình mà có. Biết đâu Chúa đã chẳng dựng nên con khỉ rồi một ngày cho nó đột biến thành con người có linh hồn, có trí khôn…Điều quan trọng là có sự can thiệp của Chúa trong các bước tạo dựng. Cho nên tôi chẳng ngại nếu có ai bảo tổ tiên tôi là khỉ đột, miến là Chúa đã dựng nên loài khỉ ấy… 

Anh bộ đội cũng đưa ra một mớ lý thuyết khoa học để chứng minh không có Chúa. Tôi không nhớ hết chi tiết mình đã  dùng để ‘bẻ lại’ thế nào, chỉ nhớ là rất thuyết phục vì anh nghe tôi chăm chú, và tôi nói thêm với anh: không thể chứng minh niềm tin bằng khoa học hay toán học được. 

Sau gần hai giờ ‘tranh luận’, thấy anh bộ đội có vẻ hơi hơi ‘đuối lý’, nhưng vẫn còn ‘cứng lòng’ nên tôi kể cho anh nghe truyện cá độ của Pascal về Niềm Tin và sự Thiên Chúa Hiện Hữu: “Nếu không có Chúa và ta không tin thì chả bên nào mất mát gì. Còn nếu không có Chúa mà ta tin thì ta cũng chả thiệt thòi gì. Nếu có Chúa mà ta tin thì là một điều vô cùng tốt đẹp. Còn nếu có Chúa mà ta không tin thì là một mất mát to lớn”. Anh nghe tôi có vẻ thích thú. 

Thực ra tôi rất mến anh bộ đội và kính trọng sự thành tâm của anh. Còn anh thì hình như  cũng có cảm tình với tôi, nhưng cuối cùng thì chúng tôi cũng chia tay nhau. Anh bộ đội bước ra khỏi cổng nhà xứ, tay vẫn tiếp tục cầm đèn đi tìm chân lý. Còn tôi thì thấy khô cổ và đói bụng, nhưng lòng thì khoan khoái y như vừa làm xong bài Vạn Vật trúng tủ hồi thi Tú Tài II ở trường Chưởng Bình Lễ, Long Xuyên ngày nào.  

Cho đến khi gặp cha phó Tuấn, Ngài bảo tôi: ‘Thầy nói gì mà hăng thế!!’. Tôi chột dạ và thấy quê quê, rồi nghĩ lại: mình vừa bảo anh bộ đội là không thể dùng toán học hay khoa học để chứng minh niềm tin vậy mà mình lại muốn dùng triết lý để chứng minh sự Thiên Chúa hiện hữu cho anh. Đúng là HUNG quá hóa thành HĂNG quên rằng niềm tin tôn giáo chỉ có thể cảm nghiệm chứ không thể chứng minh. Một nhà sư trên chùa Linh Sơn Da lat đã bảo tôi thế khi ông phải tranh luận về Đạo Phật với những người ghét đạo. Thật rõ là tôi ‘hung hăng con bọ xít’. 

Truyện năm ngoái. 

Cha Vàng mới từ Việt Nam qua Mỹ chơi. Bạn bè với nhau nhiều năm, nhất là trong những ngày tháng khổ cực sau năm 1975, nên khi không có ‘người ngoài’ thì chúng tôi vẫn nói truyện với nhau… ‘như ngày xưa’. Như ngày xưa có nghiã là chúng tôi gọi nhau ‘ông’ với ‘tôi’ hoặc dùng bất cứ đại danh từ nào thích hợp cho bạn bè chứ không phải Cha-Con một cách long trọng. Hôm ấy rủ Ngài ra sân hút thuốc, tôi mở đầu:

-         Hey cha Vàng ơi, cho tui hỏi truyện chút được không?

-         Gì nữa đây. Nói truyện với ông cũng phải ý tứ, không thì nguy hiểm lắm. Tui mới qua Mỹ chơi, còn lọng cọng. Ông đừng làm khó dễ đưa tui lên báo chí nữa à nha.

-         Cái này thì có thể là hơi khó, nhưng không nguy hiểm gì đâu.

-         Rồi. Tới luôn để còn cà phê cà pháo nữa.

-         Cha làm linh mục đã trên dưới 20 năm rồi. Chắc chắn cha đã giảng dậy lời Chúa và rửa tội cho rất nhiều người, nhưng hỏi thật Cha là có ai vì cha, vì gương lành gương sáng của cha, vì lời giảng dạy của cha mà trở lại đạo chưa?

Cha Vàng câu giờ:

-         Ông hỏi làm chi vậy? Ông muốn gài độ tôi gì đây. Có chứ. Nhóc gì. Mấy bà mấy cô nghe tui giảng là đi theo đầy hết. Hi hi hi!!! Giỡn chơi thôi chứ cũng có mấy ca, nhưng tui không hẳn là tác giả chính. Đúng ra là do sự thân thiện, sự giúp đỡ trước đó nhiều hơn là lời nói.

-         Cha nói đúng đấy. Của ăn và sự giúp đỡ vật chất phải đi trước mới được. Hồi tôi ở trại tỵ nạn Leamsing, Thái Lan và trại Galang, Indonesia cũng vậy, rất nhiều người theo đạo Tin Lành vì được giúp đỡ về tinh thần và vật chất. Tôi nghĩ  mình là đạo gốc chứ thực ra ngày xưa ông cố tổ của mình lúc đầu trở lại đạo chắc cũng không phải vì được nghe giảng mà vào đạo đâu. Cho nên tôi đồng ý là những phương tiện vật chất cũng đóng vai trò quan trọng. Cha Danh gì ở Hà Nội mới sang đây chơi cũng đã nói: ‘Cứ trồng chuối, nếu cây mẹ không được tốt, cây bố không được hoàn chỉnh thì cây con, cây cháu sẽ ngon hơn’. Hơn nữa, đức tin là việc của Chúa làm chứ đâu phải của con người…Vậy hỏi thêm cha câu nữa nghe.

Cha Vàng cắt ngang:

-         Ông nói hỏi chút thôi mà sao hỏi tới hoài vậy. Mấy thằng Bắc Kỳ như ông  ăn gian thấy bà…

-         Thì một chút của người Bắc là vậy đó. Giống như Nam Kỳ của cha vậy thôi: nói ăn ba hột mà ăn tới ba chén cơm đầy dung. Còn nói nhậu lai rai ba sợi mà  nhậu tới ba lít. Rồi nói thủng thẳng mà bắt người ta đợi từ sáng tới chiều, có khi… cho lèo luôn. Có ai vì cha mà bỏ Chúa, mà xa Nhà Thờ không?

-         Chà, vụ này coi bộ căng ạ. Để tui xét mình chớ… Theo tôi biết thì không đâu. Hoặc nếu có thì cũng vì vô tình mà thôi. Ông biết rồi sống dưới chế độ cộng sản đâu phải dễ. Họ không ưa đạo, nhưng họ cũng là những rào cản cho mình giữ được nhiều thứ và tránh được nhiều gương xấu…Giáo dân cũng vậy. Một ông cha trong chế độ cộng sản không phải làm dâu 100 họ mà là 105 họ đó ông…Muối đang mặn mà nhạt đi hoặc đèn đang sáng mà tắt ngủm thì phiền lắm. Cho nên tu cũng khổ lắm ông ạ. 

Tôi hỏi cha bạn những điều mà tôi đã hỏi chính tôi và đã hỏi nhiều lần.  

Nghĩ lại thì trong một phương diện nào đó, tôi thua xa thằng cháu, con nuôi của anh chị tôi. Nó lấy vợ ngoại, vợ nó trở lại đạo, hai đứa con của nó cũng được rửa tội ngon lành. Trên giấy tờ sổ sách, nó đưa tới ba linh hồn về với Chúa rồi. Còn tôi… 

Truyện hôm qua. 

Tay Prak người Ấn Độ nhiều tuổi nhất trong đám IT của tôi nên được nể trọng nhiều nhưng đôi lúc hắn thật buồn cười. Kiến thức chuyên môn thì hắn không mấy nắm vững, mà lại muốn tỏ ra mình biết-hết-mọi-sự, nhất là những lãnh vực ngoài công việc. Có lần hắn nhất định cãi là dân số Liên Xô đông thứ nhì sau Trung Quốc cho đến khi Internet  nói dân số Ấn Độ là 1.1 tỷ.

Trưa hôm qua cả bọn đi ăn, Nakwon, người Đại Hàn hỏi: ‘Các ông có biết hôm nay là ngày Phật Đản không?’ Dĩ nhiên tay Prak lên tiếng trước: ‘Biết chứ, sinh nhật thứ 5000 của Đức Phật đấy’. Rồi tiếp ‘Đức Phật là người Ấn Độ, thuộc Hoàng Tộc, lấy vợ, sinh con rồi bỏ Hoàng Cung đi giảng đạo, sau một thời gian Ngài biến mất’. Tôi muốn nghe Prak kể tiếp vì thấy ngộ ngộ, nhưng vì con số quá sai biệt nên phải cãi: ‘Không phải sinh nhật thứ 5000, mà 2550 gì đó thôi’. Còn truyện Đức Phật gốc Ấn Độ hay Nepal, tôi không nhắc đến vì có lẽ thời đó biên giới hai nước chưa rõ ràng. Tay Prak như hãnh diện về Đạo Phật nên hỏi Nakwon:

-         Bên Đại Hàn có đạo nào không?

-         Có, đạo Phật, đạo Tin Lành, đạo Công Giáo.

-         Đạo gì xa xưa thuộc dân tộc Đại Hàn cơ?

-         Xa xưa thì có đạo thờ ông bà, và trước đó có lẽ là những totem.

Biết nhiều mà biết không sâu nên Prak ngô nghê hỏi lại cả đám

-         Totem là cái gì?

Nakwon giải thích totem cho Prak xong thì Prak quay sang hỏi tôi:

-         Còn Việt Nam? Có đạo gì không?

-         Việt Nam có đạo Phật, đạo Công Giáo, đạo Muslim, đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài… Gàn đây lại mới có thêm đạo thờ Đô-La.

Nghe thấy đạo thờ Đô-La, Prak lại ngây ngô hỏi ngay:

-         Vậy đạo Đô-La để cái gì trên bàn thờ? 

Cả bọn cười ồ.  

Ngồi vào bàn, Madhavi (người Ấn phát âm không rõ tên tôi) hỏi tôi:

-         Tái, ông đến nhà thờ ngày Chúa Nhật để làm gì?

Để kéo sự chư ý của cả nhóm, tôi nói:

-         Để nhìn ngắm các người đẹp.

Và khi thấy cả bàn đã chú ý, tôi nghiêm chỉnh:

-         Đùa thôi, chứ tôi đến nhà thờ để tôn thờ Thiên Chúa là đấng tạo dựng mọi loài, trong đó có các bạn và tôi. Cảm tạ Thiên Chúa về những điều Ngài đã ban như sự sống, nhà xe, đồ ăn, bạn bè. Và cầu xin ơn bình an cho mình và cho những người quen thân, cho Dipankar, cho Jeeva, và Prakash…đây.

Vừa nói tôi vừa nghĩ: không dễ có dịp mà nói về Chúa cho người Ấn nên phải lợi dụng, tôi cũng nhớ lại ngày xưa đã từng HUNG HĂNG nên tôi rất nhẹ nhàng.

Madhvi nói tiếp:

-         Ông cũng cầu xin trước lúc ăn nữa mà.

-         Ừ, không chỉ lúc ăn đâu, cả những lúc tôi nhận tấm check lương từ Dipankar những ngày Thứ sáu, những lúc Paul đưa cho tôi project khó, và những lúc vợ tôi cho tôi hard time nữa…

Thấy Jeeva mải ăn, tôi pha trò:

-         Jeeva, bạn muốn lên Thiên Đàng, lên Niết Bàn, hay xuống… mà không nói gì cả vậy?

Jeeva vốn ít nói, nhưng khi nói thì lại nói rất lớn:

-         Chỉ có đời sống hiện tại thôi. Chết là hết.

Madhavi tiếp ngay:

-         Có đạo hay không có đạo thì chết cũng không phải là hết. Chắc chắn mỗi người có linh hồn và phải đối diện với những gì mình đã làm khi còn sống.

Thấy Madhvi theo Ấn Giáo và nói điều ấy cho cả nhóm hầu hết là Ấn Độ trong bàn, tôi lợi dụng nói theo:

-         Tôi tin chắc như thế. 

Cả bọn ăn uống vui vẻ. Khi tản bộ sang tiệm Boboa để kiếm cà-phê, Jeeva đến bên tôi hỏi:

-         Tái, ông có thương con cái ông không? Chắc chắn chứ! Vậy tình yêu giữa ông với con ông và tình yêu giữa Thượng Đế và ông thì cái nào hoàn chỉnh hơn.

Tôi biết câu trả lời, nhưng lại làm như suy nghĩ:

-         Tình yêu của Thượng Đế với tôi chắc chắn phải hoàn chỉnh hơn, vĩ đại hơn vì Ngài là Thượng Đế. Còn tình cha con thì gần gũi thiết tha đấy, nhưng không hoàn thiện vì cha có thể tức giận với con, cha có thể ghét con, từ con… nhưng Thượng Đế thì không.

-         Nếu vậy thì làm gì có Hỏa Ngục.

Tôi nhận ra Jeeva coi vậy mà không phải vây, nên chia sẻ:

-         Đạo Công Giáo dậy là có Hỏa Ngục, tôi phải tin, nhưng có ai ở đó lại là truyện khác. Nói thật với anh, tôi nghĩ Hỏa Ngục chỉ dành cho những người không muốn vào Thiên Đàng mà thôi. 

Và truyện hôm nay

Cha Ngô Đình Hòa dòng Chúa Cứu Thế từng là tuyên úy Sư Đoàn Nhảy Dù của Việt Nam Cộng Hòa, đã đi tù cải tạo nhiều năm, hôm nay đã gần 80 tuổi, cha có mặt ở đây với chúng tôi như vị linh hướng.

- Chúng con mời cha lên để chia sẻ kinh nghiệm

Cha Hòa bước lên máy khuyếch âm, mỉm cười rồi từ từ kể như mẹ kể truyện cổ tích cho các con:

-         Đây chỉ là kinh nghiệm nhỏ thôi. Sau năm 1975, khi  tôi đang ở trong tù thì có cô cháu của ông nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh gởi cho tôi một quyển Kinh Thánh nhỏ. Từ đó, hằng ngày tôi cứ lấy ra đọc. Có một anh Thiếu Tá cảnh sát tù chung thấy tôi đọc Kinh Thánh  thì cũng tò mò mượn đọc. Đọc rồi anh hỏi tôi về nhiều thứ anh thắc mắc, tôi biết gì thì trả lời vậy. Anh ta thích thú lắm, nhưng tôi cũng bảo anh rằng tôi chỉ giúp anh được một tí thôi, quan trọng nhất là anh cứ đọc và người soi sáng và giúp anh hiểu chính là Chúa vì đây là Kinh Thánh chứ không phải sách truyện đời thường. Một thời gian sau, anh xin được trở lại công giáo. Tôi rất vui, nhưng cũng bắt anh đợi thêm một thời gian nữa cho chắc… Sau đó tôi rửa tội cho anh. Bây giờ anh và cả gia đình đã sang Mỹ và mỗi tháng anh vẫn gởi cho tôi một trăm đô-la và dặn ‘con gởi cho cha, cha muốn làm gì thì làm. Cha làm lễ, đọc kinh cầu nguyện cho con hay cha cho ai cũng được’.  

Cha linh hướng Ngô Đình Hòa có nhiều truyện đời rất sống động và đạo đức, nhưng Ngài luôn kể với lòng khiêm tốn và chân thành như thế đấy.  

Đúng là Sống Niềm Tin rồi Nói cho người khác về Niềm Tin mới dễ. Sống Đạo thực sự rồi Nói cho người khác về Đạo mới có hiệu năng. ‘Hữu xạ tự nhiên hương’ Đời hay Đạo vẫn đúng. 

Rồi Ngài cũng chỉ dùng lời dậy đã viết trong sách mà kết luận: Nếu chúng ta theo Chúa mà không nói hoặc không dám nói về Chúa thì ai nói đây. 

Nghe vậy, tôi  nhớ một cha xứ nọ cũng đã giảng cho giáo dân quê mùa vùng Cái Sắn quê mùa về nhiệm vụ giảng đạo vào nhứng thập niên 60 của thiên kỷ trước rằng: “Bây giờ cha nói bằng tiếng Latinh để anh chị em dễ hiểu và dễ nhớ rằng  Quod isti et istae, cur non nos? Si non nos, quis ergo? Si non nunc, quando ergo? Si non hic, ubi ergo? “(1) 

Lạy Chúa tôi, cha xứ nói hay quá, nhưng chẳng ai hiểu gì. 

Joseph Vũ 06/20/2008

VỀ MỤC LỤC

HÃY ĐỨNG NGOÀI CUỘC (3)

 

Một bà mẹ ngồi trên hành lang nói chuyện với những người láng giềng.   Kim Chi 4 tuổi đi vào nhà và đứa em trai Minh Quân chạy theo sau. Cu bé đi chậm hơn để leo lên những bậc thang nên chị nó đã đi vào phòng khi nó đến nơi. Cô bé cẩn thận đóng cữa lại khi em nó đến. Cậu bé thét lên . Bà mẹ phóng lên cầu thang, mở cữa phòng, chộp lấy cô bé và đánh nó. 

“Con muốn gì khi đối xử với em con như thế? Con có thể làm kẹt ngón tay nó. Bây giờ con ở trong nầy cho tới khi con biết tử tế.” 

Bà mẹ bế cu bé Minh Quân lên, trở lại chỗ cũ, và đặt nó lên vế bà. Không bao lâu nó leo xuống và tiếp tục trò chơi của nó. Trong khi đó những tiếng khóc thầm được nghe thấy từ trong phòng. Nhiều phút trôi qua. Cuối cùng bà mẹ đi vào phòng cô bé. 

“Bây giờ con có sẵn sàng để trở thành một đứa con gái ngoan chưa?” 

Nó càng khóc nhiều hơn. Bà mẹ bế cô bé lên, cô bé gục đầu vào vai mẹ. Bà mẹ mang nó ra ngoài và ngồi xuống, đặt cô bé ngồi lên vế bà và nói: 

“Bây giờ con là đứa con gái ngoan của mẹ. Mẹ biết con không còn bết nữa!” 

Không phải tất cả những trận chiến giữa con trẻ đều trên bình diện ngôn từ. Cậu bé chiếm được quá nhiều chú ý. Cô bé dĩ nhiên là ganh tức về sự xuống ngôi của nó. Sự ganh tị ngày càng tăng thêm và càng ngày càng chồng chất thêm cao. Cô bé khát khao sự chú ý của mẹ như một dấu hiệu của tình yêu. Nó khám phá ra rằng sau hình phạt là tình yêu. Nếu bà mẹ thật sự nhìn thấy cái gì đã xảy ra thì lẽ ra bà phải biết rằng cô bé rất cẩn thận đóng cữa mà không hề làm kẹt ngón tay của em nó. Điều nầy cho thấy một ước muốn chú ý hơn là hận thù. Nếu là hận thù thì cô bé đã làm nát ngón tay của em nó rồi. Cô không có ý làm tổn thương em nó nhưng có chút liên quan đến mẹ nó – muốn khiêu khích mẹ nó hơn là em nó và muốn có tình yêu của mẹ nó sau khi bị la rầy. Và sơ đồ đã được thực hiện một cách tuyệt vời. 

Nếu những lần tranh cãi dẫn đến sự đánh lộn với đứa trẻ hơn, bố mẹ có thể chắc chắn rằng những đứa lớn muốn tạo một rối loạn hơn là làm hại em nó. Và đây là chia xẻ của một bà mẹ ở tại trung tâm hướng dẫn về giáo dục con trẻ. 

Bà đi qua cữa của phòng chơi vào chính lúc nhìn thấy cậu bé Vinh Thắng 4 tuổi cầm chiếc xe đưa lên đầu cô em bé Liên 11 tháng tuổi. Cậu bé Vinh Thắng xem ra đang sẵn sàng dùng chiếc xe đánh vào đầu em bé nó. Cô bé bắt đầu hét. Lưu ý đến những cảnh cáo: phải tránh nhập cuộc mà bà đã lãnh hội được ở trung tâm hướng dẫn về giáo dục con trẻ, bà lấy can đảm nắm chặt bàn tay và tiếp tục đi qua cữa. Tuy nhiên, bà nhìn qua khe cữa. Điều bà thấy đã làm bà ngạc nhiên. Cậu bé nhìn cữa mà bà vừa đi qua và cùng lúc nó nhè nhẹ hạ cái xe xuống trên đầu đứa em và xoa nhẹ đầu em với cái xe trên tay. 

Bây giờ bà mẹ thật sự tin điều bà đã được nghe. Cả hai đứa trẻ đã cộng tác để làm bà phải quan tâm. Dầu mới 11 tháng, cô bé cũng biết rằng nếu có hét, bà mẹ sẽ chạy đến và cái gì sẽ xảy ra cho anh nó. Và cậu bé cũng biết nếu nó làm cho em nó hét lên, bà mẹ sẽ chạy đến ngay. Con trẻ đã hành động như một tổ hợp để làm bà mẹ vội vàng chạy đến. 

Như một qui luật, khi đứa nầy đe dọa đứa khác với một vật nguy hiểm, bà mẹ có thể yên lặng đến và cất nó đi. Điểm chính ở đây là làm điều đó cách yên lặng mà không cần phải nói gì cả. 

Ngồi vào bàn ăn, cha mẹ không có cơ hội nói chuyện mà không bị con cái cắt ngang câu chuyện. Gia đình gồm có Yến Nhi 4 tuổi và Minh Đức 6 tuổi, là những đứa con riêng của bà thuộc hôn nhân trước, Minh Trí và Yến Thanh, 5 tuổi và 7 tuổi, những đứa con riêng của ông bố. Yến Nhi đong đưa chân đụng vào chân của Minh Trí.  

“Bố ơi, Yến Nhi đá chân con” cu Trí càm ràm. 

Bà mẹ xen vào: 

“Yến Nhi, đừng đụng đậy chân nữa. Để ý cung cách của con.” Yến Nhi ngồi yên ăn. 

“Bố, Minh Đức không để con lấy muối,” Yến Thanh lẩm bẩm. 

“Đức, con chuyển hũ muối sang,” bà mẹ ra lệnh. Cu Đức chuyển hũ muối sang. 

“Mẹ, Minh Trí cứ thúc vào cùi chỏ con,” Minh Đức càm ràm. 

Lần nầy ông bố nặng giọng: 

“Minh Trí để cùi chỏ vào chỗ con.” Cu bé lui cùi chỏ về. 

“Mẹ, Yến Thanh lấy giấy của con” Yến Nhi khóc. 

“Yến Thanh, trả tờ giấy lau miệng cho Yến Nhi,” ông bố ra lệnh. 

Lần lượt hết đứa nầy đến đứa khác kiện cáo, chúng chọc phá nhau và nạn nhân tức khắc kêu cầu công lý. Cuối cùng ông bố nổi cơn: 

“Khi nào thì các con không tranh chấp nhau nữa? Chúng ta không có được một bữa ăn trong bình an sao? Bố chán và mỏi mệt lắm rồi. Bây giờ đứa nào không giữ luật sẽ bị phạt.” 

Bấy giờ, các bé kết thúc bữa ăn mà không gây ra một bất ổn nào khác, nhưng mọi người xem ra căng thẳng và không được vui. 

Sự tranh chấp của con cái khiến cha mẹ bận rộn. Cần lưu ý: mỗi đứa trẻ phàn nàn với cha mẹ riêng nó và cha mẹ phía bên kia cố gắng sửa đổi tình thế. Đứa trẻ phía nầy trêu chọc đứa trẻ phía kia vì đó là cách bảo đảm nhất để tạo nên hành động của bố mẹ. Bố mẹ có khuynh hướng xem con trẻ là bất an và cảm thấy cưỡng bách phải gìn giữ một tiến trình công bình. Vì thế, mỗi đứa bây giờ cố gắng kích động đứa trẻ phía bên kia để giữ bố mẹ mình bận rộn với mình. Chúng làm việc cách khéo léo. 

Trong một vài gia đình, bố mẹ cố gắng bảo vệ con riêng của người bạn mình, nhưng cũng có người bảo vệ con riêng của họ. Nhưng trong mỗi trường hợp, con trẻ thường khích động bất cứ ai đáp trả cách hữu hiệu nhất. 

Vấn đề là con trẻ chỉ ngưng chiến khi bị đe dọa trừng phạt cho thấy rằng mục đích của chúng là gây sự chú ý. Nếu không, sự đe dọa như thế lẽ ra đã dẫn đến sự lộn xộn hơn. Vì thế, mỗi đứa trẻ đều chịu thuần phục sau khi đã thành công trong việc chiếm được sự chú ý của bố mẹ. Điều nầy cũng cho thấy cuộc chiến là giá cho sự chú ý. 

Cả hai bố mẹ chỉ có thể giúp con cái họ khi họ ngưng sự chú ý quá đáng và để cho con cái họ tự giải quyết vấn đề của chúng. Nếu thái độ của con cái họ ở bàn ăn quấy rối sự an bình của gia đình, bố mẹ có thể từ chối ăn uống với chúng cho tới khi nào chúng muốn có một bữa ăn gia đình đầm ấm. Bao lâu có sự bất đồng nổi lên, cả 4 đứa có thể được nói lý do và bị yêu cầu rời khỏi bàn ăn. Trong cách thế đó, chúng mới có thể học sống chung với nhau ở bàn ăn. Trong việc yêu cầu chúng rời khỏi bàn ăn, bố mẹ không nên đi vào xung khắc, không nên dự vào cuộc tranh cãi, và phải tỏ ra cứng rắn. 

Lm. Lê Văn Quảng, tiến sĩ tâm lý

VỀ MỤC LỤC
Lòng Chúa lỚn hơn lòng bẠn

Tác Phẩm Chúa Vẫn Thương

Lm. MICAE-PHAOLÔ TRẦN MINH HUY pss

Phần một

BẠn thẾ nào Chúa yêu bẠn thẾ Ấy Tình yêu đáp trẢ tình yêu

Lòng Chúa lỚn hơn lòng bẠn

Nếu lòng bạn kết án bạn, Chúa không kết án bạn đâu. Lòng Chúa lớn hơn lòng bạn, và Chúa không nhìn bạn như chính bạn nhìn bạn đâu. Chúa biết bạn quá bé nhỏ, Chúa biết bạn yếu đuối, Chúa biết bạn bị giới hạn, và Chúa là Chúa Trời của bạn, Chúa đưa tay ra cho bạn. 

Bạn hãy thôi đừng hoảng hốt nhìn chung quanh bạn như vậy. Chúa đó, bạn hãy nhìn đi. Chính Chúa là Đấng Cứu Độ bạn, chính Chúa là Đá Tảng của bạn. Không có gì lay chuyển được Chúa và Chúa muốn chăm sóc bạn. Bạn hãy trông cậy vào Chúa.  

Bạn quá nhỏ bé, nhưng Chúa đang ở với bạn và điều đó làm thay đổi tất cả mọi sự. Bạn hãy đến thật gần bên Chúa. Chính ở bên Chúa mà bạn tìm được những gì bạn cần. Hãy lại gần bên Chúa, Chúa có tất cả những gì bạn cần, một cách phong phú. 

Mỗi người chỉ cần bước một bước nhỏ để đến gần bên Chúa, một lạch suối phải băng qua, hay một bước rất nhỏ, có lẽ chẳng đáng chi với một ít người. Thần Trí Chúa có đây, chiều nay, để soi sáng cho bạn. Nếu bạn thật lòng muốn điều đó. Hãy tìm và bạn sẽ được gặp. Hãy gõ và người ta sẽ mở cho bạn. 

Chúa đang ở thật gần bạn, đừng tìm Chúa ở đâu khác, Chúa đang ở thật gần bạn, Chúa ở ngay bên cạnh bạn. Chúa sẽ dẫn bạn đi, nếu bạn thật lòng muốn. Chúa thực sự có mặt đây, bạn đừng sợ. Bạn hãy ở gần Chúa, như người bạn thích ở gần bạn mình. Bạn hãy ở trong Chúa như Chúa ở trong bạn. 

Bạn hãy để Chúa làm nổi lên những kho tàng Chúa đã đặt trong đáy lòng bạn. Hãy để Chúa làm theo những đường lối của Chúa. Bạn hãy đến với Chúa như một đứa con, một đứa con bé nhỏ. Bạn không biết đến ba phần tư những kho tàng Chúa đặt trong đáy lòng bạn. Chúa không phải là Đấng Sáng Tạo nên bạn sao? Chúa biết cái Chúa đặt trong bạn chứ: những phần nhỏ của chính Chúa. Chúa muốn làm cho chúng sáng lên. Chúa muốn chúng sáng tỏa ra chung quanh, để bạn được vui mừng. 

Bạn thế nào hãy đến bên Chúa như vậy, và không cần nói Chúa phải làm gì. Hãy cứ để mặc Chúa làm. Sau đó, bạn sẽ hiểu, các vấn đề sẽ tự chúng rơi xuống, vì bạn sẽ được chiếu sáng bởi một ngày mới. Bạn thế nào hãy đến với Chúa như vậy. 

Hãy để các vấn đề của bạn lại đó, Chúa là tất cả. Chúa là tất cả mọi sự cho bạn. Chúa nắm tất cả mọi sự trong tay Chúa. Bạn hãy cất bước đến với Chúa. Bạn cứ co quắp lại nơi chính mình bạn. Bạn biết Chúa hành động cho bạn, nhưng bạn lại dẫm chân tại chỗ. Hãy nhảy lên trên các chướng ngại vật bằng cách đến với Chúa. Không có con đường nào khác. Hãy trông vào Chúa, bạn sẽ nhảy lên vui mừng. 

Bạn muốn bước đi theo Chúa, tốt lắm hỡi bạn. Chúa gọi bạn bước đi theo Chúa, nhưng chân bạn không được cứ dán chặt xuống đất, bạn phải thực sự bước đi theo Chúa. Bạn cần phải nhảy xuống nước nhưng phải tin tưởng, không một chút nghi nan, nếu bạn không muốn chìm xuống. 

Hãy tin vào Lời Chúa, hãy đem Lời Chúa ra thực hành, không tìm để được thấy trước, bạn sẽ thấy sau. Đó là bước đi theo Chúa. Chính Lời Chúa sẽ hướng dẫn bạn chứ không phải là những ‘lời người ta nói.’ Cũng không phải là thói quen hằng ngày, nhưng chính là Lời của Chúa. Đó cũng là đặc sủng vậy.

Bạn hãy đến theo Chúa, cho dù đôi khi lòng bạn thấy lo âu. Bạn không phải là người đầu tiên như các Tông Đồ, các môn đệ… Nhưng họ đã xác tín, họ đã tin. Chúa kêu gọi mỗi người hãy theo Chúa như thế. Bạn hãy đến theo Chúa, bạn sẽ thấy những điều kỳ diệu, và nhân danh Chúa bạn sẽ làm những điều kỳ diệu. 

Một số người muốn đi nhanh hơn, một số khác lại muốn đi chậm hơn. Hãy để Chúa hành động, bạn đừng sợ chi. Chính Chúa tạo nên và điều khiển nhịp độ diễn tiến. Chính Chúa ban những đặc sủng cần thiết cho bạn. Bây giờ bạn chịu để Chúa làm. Tốt lắm! 

Bạn không có gì phải sợ cả. Chúa sẽ làm mọi sự theo ý Chúa, bạn hãy sẵn sàng. Đó là tất cả những gì Chúa đòi hỏi nơi bạn. Nếu bạn không nói về Chúa thì ai sẽ nói về Chúa? Bạn phải bạo dạn, bạn không thể tưởng tượng được những gì người khác đang chờ đợi ở bạn. Họ đang hư mất, họ đang đi tìm một ánh sáng, một bàn tay, một nụ cười, một lợi ích cho họ. Thế gian đang khát, khát khủng khiếp! Đừng để ánh sáng của bạn ở dưới đáy thùng. 

Nếu bạn hổ ngươi về Danh Chúa, Chúa sẽ hổ ngươi về bạn. Hỡi bạn, Chúa xin bạn hãy vất bỏ sợ hãi của bạn đi, Chúa không muốn nghe nói tới chúng nữa. Có nhiều người sợ hãi và do dự. “Thiên Chúa không ban cho chúng ta một Thần Khí nhát sợ, nhưng là một Thần Khí đầy sức mạnh, tình thương và khôn ngoanHãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Đền Thờ  thiêng liêng. Này, Ta đặt tại Sion một viên đá quý được lựa chọn làm Đá Góc Tường, kẻ nào tin vào đó sẽ không phải thất vọng.”

Bạn không cảm thấy ước muốn Chúa đặt nơi bạn sao? Ước muốn đến nơi ở của Chúa, ước muốn lại gần Chúa hơn, ước muốn biết Chúa nhiều hơn, ước muốn mãnh liệt được thuộc về Chúa, chính Chúa đã đặt ước muốn đó ở trong bạn.  

Bạn có thể để ước muốn đó bị bóp nghẹt đi. Bạn có thể làm cho ước muốn đó lớn lên. Bạn hãy vui mừng trong ước muốn ấy, bất kể là gì đi nữa: sự yếu đuối của bạn, những khó khăn của bạn, những giới hạn của bạn, những mối liên hệ của bạn, cả những tội lỗi của bạn. Chính ước muốn đó là đáng kể đối với Chúa. Chính ước muốn đó là quan trọng nhất, những gì còn lại, Chúa chẳng bận tâm. Nếu bạn biết được ơn của Thiên Chúa, bạn hãy nhận lấy tình yêu của Chúa.

VỀ MỤC LỤC
ĐÔI ĐIỀU VỀ CÀ PHÊ, NƯỚC UỐNG
 

 

1- Câu hỏi được nêu ra là “vì sao uống nước trà đậm thì mất ngủ”?

 

Chúng ta biết rằng trà cũng như cà phê có chất caffeine.

 

Caffeine là một hóa chất hữu cơ thuộc nhóm purines.

 

 Tác dụng chính của caffeine là kích thích hệ thần kinh trung ương, tăng sinh hoạt trí tuệ, làm ta tỉnh táo nhất là khi con người mỏi mệt hoặc chán nản. Với giấc ngủ thì ảnh hưởng tùy người: có người gặp khó khăn, có người không khi uống cà phê.

 

Caffeine làm thư giãn cơ thịt trong thành động mạch, tăng sức bóp của tim, tăng máu từ tim đưa ra, tăng huyết áp.

 

Caffeine tăng dịch vị bao tử nên nhiều người ưa uống cà phê sau khi ăn để dễ tiêu hóa thực phẩm.

 

Caffeine làm tăng sự dẻo dai của lực sĩ thể thao, vì thế Ủy Ban Thế Vận kiểm soát coi họ có dùng quá nhiều chất kích thích này.

 

Caffeine làm tăng sự bài tiết nước tiểu.

 

Sau khi uống, caffeine thấm nhập rất mau vào khắp các bộ phận của cơ thể. Thời gian bán hủy là 3 giờ nên caffeine không tích tụ trong cơ thể. Đa số caffeine được thải khỏi cơ thể qua nước tiểu.

 

Mỗi người có đáp ứng khác nhau với caffeine.

 

Do đó có người uống ba bốn ly trà hoặc cà phê một lúc mà không cảm thấy thay đổi gì. Trong khi đó, người không quen với caffeine, chỉ uống một ly trà hoặc cà phê là đã thấy nóng nảy, hồi hộp, tim đập nhanh.

 

Một người đã quen dùng caffeine rối mà ngưng tức thì, họ sẽ cảm thấy mệt mỏi, nhức đầu, buồn ngủ. Nếu họ ngưng từ từ thì không bị các khó khăn này.

 

Liều lượng trung bình của caffeine là 200mg, tùy theo từng người.

 

Khi dùng tới số lượng trên 1000 mg thì trong người thấy mất ngủ, bất an, tim đập nhanh, thở hổn hển, buồn tiểu, ù tai, xót ruột.

 

Tử vong có thể xảy ra khi dùng tới trên 10 gram (80- 100 ly) caffeine.

 

Đã có nhiều nghiên cứu về tác dụng “tỉnh ngủ” của caffeine.

 

Các nghiên cứu này đều tập trung vào hóa chất adenosine do não bộ sản xuất khi ta không ngủ hoặc khi làm việc. Cơ thể càng làm việc nhiều thì Adenosine sản xuất càng cao.

 

Hóa chất này sẽ bám các thụ thể ức chế của tế bào thần kinh, làm thần kinh giảm hoạt động và ta cảm thấy buồn ngủ. Đây cũng là phản ứng tốt, vì nếu cứ kéo dài sự làm việc thì cơ thể sẽ mau suy nhược. Giấc ngủ là cơ hội để cơ thể nghỉ ngơi, bồi dưỡng sinh lực, sẵn sàng cho các hoạt động kế tiếp.

 

Caffeine có cấu trúc tương tự như adenosine. Chúng chiếm chỗ của adenosine nơi các thụ thể thần kinh và kích thích hệ thần kinh. Hệ thần kinh hoạt động nhiều hơn và một trong những hậu quả là ta thấy tỉnh táo, nhanh nhẹn hơn. Vì thế các tài xế lái xe đường trường, những người làm việc trí óc nhiều… đều uống cà phê để trở nên sáng suốt.

 

Caffeine cũng khiến cho cơ thể tăng sản xuất adrenaline vì tưởng như có chuyện khẩn trương xẩy ra. Con ngươi mở rộng, mạch máu giãn nở để đưa nhiều máu ra ngoại vi, tim đập nhanh, hơi thở tăng để sẵn sàng đối phó.

 

Caffeine còn ảnh hưởng lên hóa chất Dopamine, một chất gây cảm giác sảng khoái tương tự như heroine, amphetamine. Caffeine kích thích não, sản xuất nhiều dopamine hơn.

 

Nói chung, caffeine khiến cho cơ thể ở trong tình trạng tỉnh táo.

 

Vậy thì tại sao nhiều người uống trà hoặc cà phê mà vẫn ngủ như thường, Điểm này chưa có giải thích rõ ràng, chính xác.

 

Tuy nhiên, như đã trình bầy ở trên, mỗi người có mẫn cảm khác nhau với caffeine. Nhiều người uống cà phê, nước trà như uống nước lã, mà họ vẫn ngủ say như chết. Trong các trường hợp này, có thể là họ quen nhờn với tác dụng của caffeine. Ngược lại, có người chỉ thử một ly trà nhỏ đã trằn trọc suốt đêm, không ngủ được.

 

Caffeine kích thích tim mạch, cho nên khi tiêu thụ, nhịp tim nhanh hơn, huyết áp hơi tăng, hơi thở hơi nhanh. Các thay đổi này chỉ thoảng qua, sau khi caffeine bị loại ra khỏi cơ thể trong vài ba giờ.

 

Cũng như theophylline, caffeine là chất lợi tiểu nhẹ nhưng không ảnh hưởng nhiều lắm tới mức độ nước trong cơ thể. Vì thế, nhiều người cứ uống cà phê vô là mót tiểu tiện.

 

Nhân đây, cũng xin nói thêm là mặc dù chất caffeine trong cà phê, nước trà đã được nghiên cứu khá nhiều, nhưng nhiều người vẫn có một vài ngộ nhận về hóa chất này.

 

Có nghiên cứu nói là cà phê có thể gây ra ung thư, bệnh tim mạch, khuyết tật trẻ em…Nhưng điều này chưa được các khoa học gia thống nhất đồng ý.

 

Theo Cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ cũng như Cơ quan Y tế Thế giới, nếu dùng vừa phải, caffeine không có ảnh hưởng xấu cho cơ thể. Vừa phải là khoảng 300 mg caffeine mỗi ngày, tương đương với ba ly cà phê.

 

2- Ít nhất Tám ly nước mỗi ngày

 

Liên quan tới việc uống nước, một lời khuyên thường được nêu ra là:

 

“Phải uống ít nhất 8 ly nước, mỗi ly 8 oz, mỗi ngày. Rượu bia, cà phê không được gộp vào số lượng này”.

 

Quy luật này từ đâu mà ra. Liệu có phải uống 8x8” mỗi ngày như lời khuyên. Nếu không thì uống bao nhiêu là đúng.

 

Thực ra, chưa có trả lời chính xác về nguồn gốc của quy luật bất thành văn 8x8” này.

 

Năm 2002, nhà sinh học Heinz Valtin của Đại học Y khoa Darmouth, Lebanon, New Hampshire, đã cố gắng tìm kiếm xuất xứ của 8x8” và chỉ thấy câu văn sau đây do nhà dinh dưỡng có uy tín của Hoa Kỳ, bác sĩ Fredrick J. Stare viết vào năm 1974:

 

“Bao nhiêu nước mỗi ngày? Điều này được quy định bới nhiều nguyên tắc sinh lý khác nhau, nhưng với một người trưởng thành bình thường, khoảng từ 6 tới 8 ly trong 24 giờ và số lượng này có thể từ cà phê, trà, nước có hơi, rượu bia vv. Các loại trái cây và rau cũng là nguồn cung cấp nước rất tốt”.

 

Theo tiến sĩ Valtin, nội dung câu viết của bác sĩ Stare có ba điều cần lưu ý:

 

-Chưa có bằng chứng khoa hoc nào hỗ trợ cho ý kiến của bác sĩ Stare

-Bác sĩ Stare viết uống từ 6 tới 8 ly mỗi ngày chứ không phải là 8 ly.

-Trà, cà phê và rượu được coi như bao gồm trong số lượng 6-8 ly mỗi ngày.

-Số lượng nước tiêu thụ được quy định theo các hoàn cảnh sinh lý của cơ thể mỗi người.

 

Theo các nhà dinh dưỡng, tuy không có dẫn chứng khoa học hỗ trợ, nhưng quy luật 8x8” này được coi như một hướng dẫn cho việc tiêu thụ nước và các chất lỏng khác. Và cũng nhờ sự quá phổ biến của quy luật này mà mọi người lưu tâm tới việc uống nước: đi chơi, đi làm cũng kè kè một chai chất lỏng tinh khiết.

 

Thực ra, nhu cầu nước của cơ thể tùy thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng cơ thể, khỏe mạnh hay yếu đuối, sinh hoạt ra sao và sống ở địa phương nào.

 

Điều rõ ràng là nước rất cần cho cơ thể để loại bỏ chất có hại ra ngoài, để chuyên chở chất dinh dưỡng nuôi mô bào, để mang độ ẩm cho các bộ phận cơ thể. Nước chiếm 70% trọng lượng toàn thân.

 

Số chất lỏng này không phải nằm cố định trong người mà hao hụt đi mỗi ngày qua nước tiểu 1.5 lít cộng thêm khoàng 1 lit qua phẩn, mồ hôi, hơi thở. Do đó cơ thể cần được bổ sung số lượng chất lỏng thất thoát để duy trì sự sống.

 

Trong điều kiện sức khỏe bình thường, với môi trường khí hậu ôn hòa, vận động làm việc vừa phải, Viện Y khoa Hoa kỳ khuyên đàn ông nên tiêu thụ 3 lít chất lỏng mỗi ngày còn phụ nữ cần khoảng 2.5 lít.

 

Chất lỏng nói chung bao gồm cả nước, nước trái cây, các loại giải khát có caffeine, nước ngọt, bia rượu và chất lỏng trong thực phẩm. Thực phẩm cung cấp tới 20% chất lỏng vì nhiều loại có rất nhiều nước như dưa hấu, cà chua…

 

Điều cần để ý là không nên coi rượu bia, nước uống có cà phê là nguồn cung cấp chất lỏng chính yếu.

 

Như vậy, mỗi ngày chúng ta tiêu thụ một lượng chất lỏng để khỏi cảm thấy khát nước đồng thời loại ra khoảng 1.5 lit nước tiểu trong là ta đã đáp đúng nhu cầu chất lỏng của cơ thể.

 

Những trường hợp sau đây cần tiêu thụ thêm chất lỏng:

 

-Vận động cơ thể, sống trong môi trường khô, nóng đều làm toát nhiều mồ hôi hơn thường lệ. Vận động nhiều giờ liên tục cần dùng thêm muối sodium vì mồ hôi toát ra làm tiêu hao muối khoáng này của cơ thể.

-Bệnh hoạn với nóng sốt, ói mửa, nhiễm độc đường tiểu tiện, sỏi thận, tiểu đường

-Có thai hoặc cho con bú sữa mẹ. Viện Y Khoa Hoa Kỳ khuyên bà mẹ có thai nên uống 2.3 lít và khi cho con bú cần 3.1 lít chất lỏng mỗi ngày.

 

Ngoài vai trò căn bản của chất lỏng như đã nói, cũng có rất nhiều nghiên cứu kể ra những ích lợi khác của nước như giảm cân, giảm ung thư. Tuy nhiên, các kết quả này chưa được đa số các nhà nghiên cứu đống ý.

 

Nhiều loại nước trên thị trường quảng cáo có thêm sinh tố khoáng chất. Dân chúng thấy hấp dẫn, cũng mua dùng, nhưng trong lòng vẫn thắc mắc là liệu có ích lợi gì không.

 

Theo các nhà dinh dưỡng, việc pha thêm sinh tố vào nước cũng chẳng giúp ích gì. Thực phẩm có đủ loại sinh tố khoáng chất. Nếu ta ăn uống đầy đủ thì chẳng cần dùng thêm các chất dinh dưỡng tý hon này. Ấy là chưa kể, các sinh tố hòa tan trong mỡ như A, D, E, K không hòa tan trong nước. Hoặc nếu nước uống đó lại có quá nhiều sinh tố, khoáng chất như kali, thì lại có bất lợi.

 

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Texas-Hoa Kỳ

 
VỀ MỤC LỤC
CẬU ẤM VÀ CÔ CHIÊU  Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Trước khi bước vào nền văn minh hiện đại, hầu như mọi dân mọi nước đều trải qua một thời gian phát triển nông nghiệp lâu dài. Trong nền văn minh nông nghiệp này, sức người là chủ yếu. Vì thế, người ta luôn mong ước có được đông con nhiều cháu.

Trong dịp đầu xuân năm mới  bàn dân thiên hạ thường cầu chúc cho nhau :

- Đa tử, đa tôn, đa phú qúi.

- Đông con, nhiều cháu, sống lâu đến ba bốn đời.

Trong xã hội nông nghiệp này, không con là điều bất hạnh. Và nhất là theo luân lý Khổng Mạnh, thì không có con trai để nối dõi tông đường quả là một tội “đại bất hiếu”.

Vì thế, những cặp vợ chồng son sẻ, hay hiếm muộn đều phải làm đủ vành đủ chước để có được…tí con. Nào là thuốc men và chữa chạy. Nào là van xin và khấn vái. Do đó mới nảy sinh ra tục lệ cầu tự.

Dựa cuốn “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính và cuốn “Con người Việt Nam” của Toan Ánh, gã xin điểm qua những nét chính yếu về tục lệ này.

Cầu tự là cầu xin thần thánh ban cho mình một đứa con để lập tự về sau. Người ta thường cầu tựï ở đình chùa hay đền miếu, chẳng hạn như đền Và ở Sơn Tây thờ thần núi Tản Viên, đền Phủ Giầy ở Nam Định thờ công chúa Liễu Hạnh…Tuy nhiên, có hai nơi được coi là “linh” hơn cả, đó là chùa Hương ở Hà Tây thờ Phật Bà Quan Âm và đền Kiếp Bạc ở Hải Dương thờ Hưng Đạo Vương.

Muốn đi cầu tự, trước hết phải giữ mình cho thanh khiết, phải ăn chay niệm Phật để lòng thành của mình động tới quỷ thần, phải tắm nước ngũ vị để tẩy xóa mọi xú uế trần tục.

Riêng tại chùa Hương, có một hang đá, thạch nhũ mọc lởm chởm hai bên, tục gọi là núi Cô và núi Cậu. Những người cầu tự phải đem vàng hương, oản quả vào lễ trong chùa, rồi sau đó đem quà bánh tới chỗ hang thạch nhũ. Nếu muốn xin con trai, thì tới bên núi Cậu, coi hòn nào mình thích, thì xoa tay vào đó và lâm râm :

- Cậu về ở với vợ chồng nhà tôi nhé.

Còn nếu muốn xin con gái, thì qua bên núi Cô và cũng làm y như vậy.

Những người đi cầu tự, lúc trở về phải coi như mình đã có một em bé đi theo. Vì thế, trong suốt cuộc hành trình trở về, họ phải làm những hành động như người mẹ dắt con, phải mua quà bánh và đồ chơi, phải trả hai xuất tiền lúc qua đò, phải có thêm cơm cho em bé lúc ăn…

Khi về tới cửa, phải gọi người nhà ra đón cô hay đón cậu. Từ ngày hôm đó, đến bữa ăn phải dọn thêm bát đũa. Thậm chí người ta còn sắm sẵn cả chiếc nôi để chờ ngày đón nhận tin vui.

Nếu người vợ có mang và sinh con, thì hàng năm phải đem con tới chùa để lễ Phật mà tạ ơn.

Theo truyền khẩu, thì những đứa con cầu tự rất khó nuôi và thường hay chết yểu khi mới lên ba hoặc lên năm.

Đó không phải là con do Thần, Thánh hay Phật ban cho, mà là con của lũ mẹ Ranh đầu thai vào. Bởi vì khi người mẹ đi cầu tự, thì lũ mẹ Ranh cũng có mặt ở chùa và xin cho con mình được đầu thai, nhưng chỉ sau mấy năm, chúng lại bắt về, nên đứa trẻ bị chết  yểu.

Còn nếu đúng là con do Thần, Thánh hay Phật ban cho, thì nó sẽ ở với cha mẹ suốt đời và cũng suốt đời cha mẹ phải chiều chuộng nó, cho dù nó đã khôn lớn.

Vì thế, ba tiếng “con cầu tự” thường được dùng để chỉ những đứa trẻ được cha mẹ nuông chiều.

Từ quan niệm về những đứa con cầu tự, gã xin bàn tới quan niệm về những cậu ấm và cô chiêu, mà gã xin viết tắt là CACC, cũng tương tự như con ông cháu cha, mà thiên hạ gọi tắt là COCC hồi trước  năm 1975.

Vậy thế nào là cậu ấm và cô chiêu ?

Theo “Việt Nam Tự Điển” của Lê Văn Đức thì  ấm có nghĩa là phúc đức do ông bà cha mẹ để lại cho con cháu. Ấm cũng có nghĩa là chức tước do triều đình ban cho con cháu các quan từ ngũ phẩm trở lên.

Còn theo “Hán Việt Tân Từ Điển” của Nguyễn Quốc Hùng, thì ấm có nghĩa là được che chở, hay được hưởng những đặc cân của triều đình vì cha ông là những người có công với đất nước.

Cũng theo hai cuốn tự điển trên thì chiêu là tiếng được dùng để gọi con của các vị tiến sĩ từ đời Lê về sau.

Tóm lại, dựa vào những định nghĩa trên thì cậu ấm và cô chiêu đích thực là con ông cháu cha, tức là con cháu của nhà quan. Từ đó người ta đi tới một định nghĩa tương đối rộng rãi hơn, cậu ấm và cô chiêu là con cháu của những bậc “đại gia”,  những người vừa có sẵn quyền lại vừa có sẵn tiền trong tay.

Đặc tính của các cậu ấm và cô chiêu, hay của các con ông cháu cha là họ thường núp sau lưng và chạy theo cái bóng của cha mẹ. Họ lợi dụng tiền bạc và quyền lực của cha mẹ để ngoi lên trong xã hội, chứ chẳng bao giờ chịu phấn đấu và đứng thẳng trên đôi chân của mình.

Tuy nhiên, điều đáng trách hơn cả, đó là họ lạm dụng tiền bạc và quyền lực của cha mẹ để làm những điều xằng bậy khiến cho cả và thiên hạ phải nhức nhối, phải lao đao và phải kinh hoàng.

Những người sống ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, không ít thì nhiều, cũng đã được nghe nói tới những giai thoại về công tử Bạc Liêu với những kiểu chơi…trội.

Công tử Bạc Liêu tên thật là Trần Trinh Huy, biệt hiệu là Hắc Công Tử. Ngày kia, Hắc Công Tử đã đốt tờ biên nhận cầm cố bộ lư, trị giá tới 100 đồng, chỉ để có được một tí ánh sáng, hầu soi tìm vật gì đó mà người đẹp đánh rơi dưới gầm bàn, sau khi Bạch Công Tử, tức là Phước Georges ở Mỹ Tho, đã đốt mấy tờ con công, tức là giấy bạc năm đồng, mà tìm nhưng không tìm thấy.

Vào thời đó khoảng năm 1920,  một gịa lúa chỉ đáng giá 2 cắc bạc mà thôi. Như vậy, một đồng được 5 gịa, 100 đồng được 500 gịa. Và theo thời giá hôm nay, mỗi gịa là 47.000 đồng Việt Nam, vị chi tất cả là 23 tiệu rưỡi, tương đương với gần 1.500 đô la Mỹ, chỉ vì người đẹp và một tí ánh sáng.

Trong những ngày gần đây tại Việt Nam, gã thấy nổi cộm lên hiện tượng CACC, tức là hiện tượng cậu ấm và cô chiêu, được cánh báo chí đề cập tới rất nhiều. Mẫu số chung của họ là lạm dụng quyền lực và tiền bạc của cha mẹ để ngông nghênh, khiến cho xã hội như xất bất xang bang và thất điên bát đảo.

Trước hết, họ lạm dụng quyền lực của cha mẹ để quậy phá.

Báo Công An số ra thứ bảy, ngày 24 tháng 9 năm 2005, có đăng một mẩu tin như sau :

“21 giờ ngày 27.8.2005, tại quán karaoke số 28 Yết Kiêu, chúng tôi chứng kiến cảnh chiếc xe hơi BMW 325 BS 29V-9119 từ đường Nguyễn Thượng Hiền ầm ầm phóng tới, lao lên cả vỉa hè. Từ trong xe một thanh niên cao to bước ra, tiến thẳng vào quán túm tóc đánh đập một cô gái rất xinh đẹp và luôn miệng chửi thề loạn xạ. Người dân kéo đến can ngăn cũng bị gã kia chửi lại. Khi cảnh sát đến nơi thì gã đã bỏ lên xe tiếp tục ầm ầm phóng đi. Không khó khăn lắm chúng tôi dựng lại được “chân dung” của gã thanh niên ban nãy. Hắn tên là VH, sinh năm 1976, con một vị quan chức bộ B…”

Một trường hợp khác :

“HHN, con trai cưng của giám đốc một ngành nội chính tỉnh Q, sau một chầu nhậu bí tỉ ở nhà hàng cùng nhóm bạn lên sàn nhảy. Tại đây, N thẳng tay đập phá tan hoang một thứ, chỉ vì nhân viên lễ tân đã “chào tao bé quá”. Lực lượng công an có mặt, nhưng vì quá nể bố của N, đành bất lực và ra sức khuyên bảo mà vẫn không xong.

Nghe nói những lần sau, mẹ N yêu cầu phải có mấy chú cảnh sát kèm mỗi khi N đi nhậu. Không những thế, nhóm bạn bè thường xuyên tụ tập ăn chơi quậy phá với N cũng toàn là con cái những vị quan đương chức đương quyền tỉnh Q, mà chủ các nhà hàng hạng sang ở đó đều biết đến với biệt danh “phi đội uống rượu tây như voi uống philatốp”.

Cũng  bài báo ấy đã đề cập tới :

“Nhiều người dân trên phố Nguyễn Thái Học hẳn còn nhớ một vụ việc cách đây không lâu, vào khoảng 0 giờ một đêm mùa đông, có ba thanh niên tóc xanh đỏ đi trên chiếc xe Toyota đời mới, biển số tỉnh, phóng ngược chiều bạt mạng. Khi bị Cảnh sát cơ động đuổi theo yêu cầu dừng xe, cả ba gã cùng xuống và đánh lại hai chiến sĩ cơ động. Sau này nghe nói bọn chúng là con “quan”ở tỉnh B và sở dĩ có hành vi càn quấy như thế là do đã…nhậu say.

Tiếp đến. họ lạm dụng tiền bạc của cha mẹ.

Thực vậy, Nhưng đồng tiền ấy, không phải do công sức lao động và mồ hôi nước mắt của mình làm ra, nó được sánh ví nhu một quà tặng từ trên trời rơi xuống, nên họ mặc sức vung vít.

Thứ nhất là lạm dụng tiền bạc của cha mẹ cho việc ăn chơi xả láng của mình.

Trở lại với gã thanh niên tên VH trong bài báo :

“Từ năm 2001 đến nay hắn đã 5 lần đổi các loại xe hơi xịn đời mới nhất từ Lexux đến BMW. Nhóm của H chơi với nhau cũng toàn con quan chức cao cấp.

Có lần một kiều nữ nọ đang du học ở nước ngoài về chơi, cả nhóm cùng nhau phóng xe xuống Tuần Châu vung tiền như nước để lấy le. Bữa tiệc sinh nhật của  một thành viên trong nhóm, con quan chức tỉnh N, riêng số rượu tây loại đắt tiền cũng hết 50 chai. Bữa tiệc đó với đồng lương của một công chức bình thường thì phải hết bao nhiêu năm mới đủ ?

Chuyện lấy tiền của bố mẹ mua một lúc 9 chiếc xe @ chia cho cả nhóm cùng nhau phóng xuống bãi biển Hạ Long để làm một bữa tiệc gây xôn xao dư luận, chắc chắn cũng chỉ là một động tác “củng cố độ oai” mà con cái quan chức cỡ bự mới làm được, chứ con nhà lao động bình thường thì mua 9 chiếc xe @ bằng vàng mã cũng còn phải đắn đo”.

Báo Công An số ra thứ ba, ngày 21 tháng 6 năm 2005 đã lên tiếng báo động : Học chơi ngông, học đua đòi, học làm anh chị đã trở thành model của những cậu ấm cô chiêu đương thời. Chơi cũng phải tạo “thương hiệu” cho riêng mình, chơi phải làm sao cho người khác biết mặt đặt tên, đó là thực trạng báo động trong một bộ phận học sinh, sinh viên đã trở thành những tay chơi ngông có số má với suy  nghĩ : chơi cho biết, để không thua kém bạn bè. Học hành giỏi thì ít người biết đến, nhưng chỉ với một vài lần chơi ngông, vung tiền lấy le, tiếng tăm đã nổi như cồn.

Bên cạnh những cậu ấm, thì các cô chiêu cũng chẳng kém cạnh mấy tí :

“Th ở quận Bình Thạnh là  một học sinh, mới học giữa lớp 11, thì theo bạn bè bước vào con đường chơi bời. Cha mẹ có hoàn cảnh kinh tế khá giả nên đã chu cấp cho Th rất nhiều tiền. Những lần thiết đãi  bạn bè của Th cũng làm cho các tay anh chị khác phải trố mắt. Th có tiếng là dân chơi overnight và thay bồ như thay áo. Cuộc sống phóng khoáng của một cô bé mới bước vào tuổi 18 đã làm cho khuôn mặt cô già hẳn so với các bạn đồng trang lứa. Theo bè bạn đàn đúm ăn chơi, nên Th đã bỏ học mà cha mẹ cô không hề hay biết. Cô cặp bồ một lúc với 2 người đàn ông, trong đó một người là bạn học và người  kia là một tay đáng tuổi bố cô để bạn bè của cô coi đó là “model” của dân chơi có số má. Các phòng lắc, vũ trường, quán bar là điểm đến hàng đêm của một cô bé mà trước đó ít lâu còn ngồi trên ghế nhà trường”.

Thứ hai là lạm dụng tiền bạc của cha mẹ cho việc đốt đời mình bằng những viên thuốc lắc.

Trong những ngày gần đây tại Việt Nam hàng loạt các “động lắc” được công an hỏi thăm từ Hà Nội đến Saigon và những thành phố lớn. Mỗi động lắc qui tụ hàng trăm thanh niên thiếu nữ thuộc diện cậu ấm và cô chiêu, khiến bàn dân thiên hạ phải ngán ngẩm. Báo Công An số ra thứ năm ngày 23 tháng 6 năm 2005 đã viết :

“Đến các tụ điểm được dân chơi tín nhiệm, điều dễ dàng nhận thấy là hầu hết các thanh thiếu niên có mặt trong đó đều tiêu tiền như nước…L, chủ xị một nhóm bốn cô gái thường có mặt tại quán bar GT Vũng Tàu cho biết :

- Hầu như tối cuối tuần nào tụi này cũng tới đây, ở nhà không làm gì buồn chán lắm.

Áo hai dây ngắn cũn cỡn trên rốn, quần xẻ dọc xẻ ngang làm mấy tà, những cô gái này đều đang là học sinh phổ thông trung học, nhưng hiểu biết về mấy tụ điểm ăn chơi thì chẳng thua kém ai….

Ăn chơi trong bar, vũ truờng thì cũng thú vị, nhưng không thể bằng “bay”riêng trong mấy phòng karaoke, khách sạn được. Đó là  kinh nghiệm của N, một cô gái chơi thuốc lắc đến nỗi thần kinh bị ảnh hưởng nặng mà chúng tôi gặp trong trung tâm cai nghiện. Theo lời N, đi bay trong phòng riêng có thể ở lì vài ngày đến khi hết thuốc mới chui ra, đám bạn cứ thế tha hồ nhảy múa, gào thét đến khi nào hết sức thì lăn ra ngủ thiếp…”

Sau cùng là lạm dụng tiền bạc của cha mẹ cho những kiểu chơi cuồng loạn gây kinh hoàng cho người khác.

Báo Công An số ra thứ ba, ngày 21 tháng 6 năm 2005 đã đăng tin :

“Cách đây chưa lâu, trên đường Điện Biên Phủ, Quận Bình Thạnh, đã diễn ra một cuộc đua xe hơi với những chiếc xe đắt tiền như BMW, Mercedes, Lexus…của các quý tử, làm náo động cả con đường lúc 3 giờ sáng. Các tay đua này đều là những đứa trẻ, con của các đại gia giàu có ở đất Saigon, cũng như một số công tử từ tỉnh lẻ lên thành phố tranh tài, khoe của.

Điều đáng nói là có quý tử còn được cha mẹ dùng tiền khoác lên mình cái mác “học sinh du học” vừa trở về. Trong số các tay đua bị bắt hôm đó nổi trội hơn cả phải nói đến tay đua chủ chiếc Mercedes thể thao đắt tiền nhất. Cường quê ở Gia Lai, do cuộc sống sung túc, được mẹ là một người kinh doanh gỗ giàu có nuông chiều, thích gì mua sắm đó, nên Cường sớm tập tành ăn chơi.

Dù đã được mẹ bỏ ra gần 1.000 lượng vàng để mua cho cậu qúy tử một căn nhà mặt tiền trên đường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Hồ Chí Minh, nhưng Cường vẫn chưa bằng lòng, luôn than vãn vì khoảng sân quá chặt hẹp, không đủ chỗ cho bạn bè đến chơi đậu những chiếc xe đắt tiền.

Theo báo An Ninh Thế Giới, tháng 6 vừa qua, tòa án tỉnh Bình Dương đã mở phiên tòa xét xử một vụ cá độ bóng đá có quy mô lớn. Trong vụ xét xử này, có 23 can phạm, tất cả đều là những cậu ấm, con của các doanh nghiệp địa phương. Nổi tiếng nhất trong đám là cậu LTN, có biệt danh là công tử Cám.

Sở dĩ người ta gọi LTN là công tử Cám, bởi vì cha cậu là chủ một xí nghiệp sản xuất cám nuôi heo nổi tiếng ở đất Bình Dương. Công tử Cám cũng nổi tiếng không kém cha mình, nhưng ở khía cạnh khác : Xài tiền, đá gà và cá độ. Chính vì thế mà những người tham dự phiên tòa đã dành cho cậu một sự chú ý đặc biệt. Đây là phiên tòa xét xử vụ cá độ bóng đá diễn ra từ World Cup 2002 từng gây xôn xao dư luận, khi số tiền tang vật lên tới hơn 400 triệu đồng. Đây chỉ là số tiền thu được khi công an bắt quả tang với 23 tay máu me cá độ mặt búng ra sữa. Trong số đó, công tử Cám tham gia cả thảy 4 trận với số tiền khai nhận là 34 triệu đồng.

Đối với công tử Cám, cá độ bóng đá chỉ là một cuộc chơi trong những lúc ngẫu hứng, còn thường ngày cậu ta mê đá gà như điếu đổ và đã mất không biết bao nhiêu tiền cho thú chơi này. Công tử Cám nổi tiếng với khoản sát gà.

Thấy con gà nào chiến, dù giá hàng triệu, cậu cũng mua cho bằng được. Khi mới ti toe vào nghề, cậu chỉ thua, tiền bao nhiêu cũng đem cúng cho những tay chơi có máu mặt ở trường gà. Rút kinh nghiệm, sau những trận thư hùng, con gà nào thắng, cậu đều mua lại. Không những thế, cậu còn đi khắp nơi để săn lùng gà chiến bằng bất cứ giá nào.

Cậu còn nuôi một sư phụ gà để chuyên huấn luyện gà đá cho cậu. Nhưng sau khi thắng độ, cậu thường đem số tiền thắng được bao dân chầu rìa một bữa nhậu đập phá thả cửa tại những nhà hàng nổi tiếng nhất Bình Dương.

Cùng hàng với công tử Cám, còn có công tử Xe, một cậu ấm cũng “quậy” không kém. Gia đình giàu có với hàng chục chiếc xe ben. Công tử Xe mới 20 tuổi và đã tốt nghiệp lớp 12, nhưng vì ham chơi vô độ, cậu quăng tiền như rác trong sới bạc.

Một trong những bà mẹ của 23 cậu ấm, một phụ nữ  lụa là nhưng vẫn không gột rửa hết cái chất nông dân trên mình đã kể lại như sau :

Mười năm truớc nhà bà nghèo lắm, chỉ giàu về đất. Đất có giá, chồng bà xắn ra bán. Từ một gia đình nghèo bỗng lột xác trở thành một nhà giàu có. Cậu con trai của bà vốn không phải là đứa trẻ ham chơi, khi nhà còn nghèo nó vẫn chăm chỉ học hành, làm lụng vất vả suốt ngày. Từ khi có tiền, chồng bà đèo bòng bồ nhí, bỏ bê tất cả. Con bà bỏ học rồi thâu đêm suốt sáng chạy theo đám bạn bè giàu có chơi bời lêu lổng. Tiền bạc vơi dần theo những cuộc chơi của chồng và của con.

Càng viết, gã càng cảm thấy bực bội và tức tối trước thói chơi ngông của các cậu ấm và cô chiêu, nhưng đồng thời lại xót xa đau buồn truớc những mảnh đời nghèo túng và nghiệt ngã. Gã rất đồng tình với nhận xét của một bài báo :

“Việc muông chiều con vô lối của một bộ phận nhỏ có chức có quyền từng gây hậu quả khôn lường cho chính gia đình họ và tai họa cho xã hội. Để có thể hạn chế tối đa điều này thì không phải ai cũng nhận ra.

Con đường trở thành một người hoàn thiện, sống có ích cho xã hội và tự hào về chính mình thì dài, nhưng con đường để đánh mất mình và gây ra nhiều hệ lụy thì quá ngắn.

Khi con cái nhà quan không được đáp ứng điều gì đó, hoặc do đua đòi, coi mình là “bố” thiên hạ, chẳng may bị pháp luật sờ gáy, chính những ông bố bà mẹ đó lại dựa vào quyền uy, quan hệ của mình để “cứu” con ra.

Trong truờng hợp vô can như thế, biết bố mẹ mình thừa sức, dư tiền để lo lót mọi chuyện, các “ông trời con” sẽ không ngại gì mà không quậy phá, có khi còn nghiêm trọng hơn và “dã man” hơn!

Nếu làm một cuộc điều tra bỏ túi, thì gã ghi nhận được như   sau : phần lớn những cậu ấm và cô chiêu này đều gặp phải những chuyện bất ổn trong gia đình.

Thực vậy, rất có thể gia đình họ đã bị đổ vỡ từ lâu: ông bố thì đèo bòng bồ nhí, còn bà mẹ thì chạy theo kép nhỏ. Cuối cùng lôi nhau ra tòa ly dị khiến họ cảm thấy bơ vơ như bị hụt hẫng.

Rất có thể gia đình họ vẫn còn đó, nhưng cha mẹ lại quá bận rộn với chuyện bắt mánh áp phe, quá bận rộn với chuyện tìm tiền kiếm bạc, nên không còn thời giờ dành cho họ và họ cảm thấy như bị thiếu vắng tình thương.

Cha mẹ sẵn sàng cung cấp tiền bạc cho họ và còn cung cấp một cách thừa mứa. Thế nhưng lại chẳng bao giờ trao ban cho một một sự quan tâm, một sự chăm sóc, một sự an ủi hay khích lệ. Lúc bấy giờ, tiền bạc không còn là một tên đầy tớ tốt giúp tiến lên những bậc thang xã hội, mà đã trở thành một ông chủ hà khắc, giết chết tương lai và cuộc đời của họ.

Vì sẵn tiền, họ đã lao mình vào những ăn chơi trác táng làm băng hoại bản thân họ. Vì sẵn tiền, họ đã lao mình vào những quậy phá, tạo nên những bất ổn cho xã hội.

Nếu tương lai của nhân loại phải đi ngang qua gia đình, thì trong lãnh vực cá nhân, cuộc đời mình có sáng hơn cũng đều bởi gia đình. Kinh nghiệm cho thấy : trong việc giáo dục, vai trò của gia đình thật quan trọng vì gia đình chính là mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta những bài học làm người. Và trong mái trường đầu tiên này cha mẹ  là những thầy cô được tín nhiệm và yêu mến hơn cả.

Gã chẳng nhớ một nhà kinh tế hay chính trị nào đó đã phát biểu về việc viện trợ như sau :

- Hãy trao cho họ chiếc cần câu, chứ đừng trao cho họ con cá. Bởi vì con cá ăn rồi sẽ hết, nhưng với chiếc cần câu thì cá sẽ vẫn còn mãi.

Cùng một thể thức ấy :

Đừng muông chiều con cái, nhưng hãy dạy bảo chúng.

Đừng vội cho chúng tiền bạc, mà quên mất tình yêu.

Đừng bao bọc chở che chúng từ A đến Z, nhưng hãy tập cho chúng bước đi trên đôi chân của mình với một nghề trong tay để kiếm sống.

Gã Siêu    gasieu@gmail.com

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************