Chương VI: Tu Sĩ
|
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội Lumen
Gentium
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Chương VI: Tu Sĩ
55*
43. Những lời khuyên Phúc Âm trong
Giáo Hội. Những lời khuyên Phúc Âm về đức
khiết tịnh để hiến mình cho Thiên Chúa, về đức nghèo khó và
vâng lời, đều đặt nền tảng trên lời nói cùng gương lành của
Chúa, đã được các Tông Ðồ và các Giáo Phụ, các tiến sĩ và
các chủ chăn Giáo Hội khuyên giữ. Các lời khuyên ấy là ân
huệ thần linh mà Giáo Hội đã nhận lãnh bởi Chúa mình và luôn
gìn giữ nhờ ơn Người. Theo sự hướng dẫn của Thánh Thần,
chính giáo quyền ân cần giải thích các lời khuyên của Phúc
Âm, hướng dẫn cách thực hành, cùng thiết lập những lối sống
cố định dựa trên những lời khuyên ấy. Do đó, như một cây đâm
chồi nẩy lộc um tùm và kỳ diệu từ hạt giống Chúa gieo vãi
trong cánh đồng của Người, thì cũng có nhiều lối sống khác
nhau: đơn độc hay cộng đồng, và dòng tu khác nhau mà phần
sản nghiệp dồi dào đem lại lợi ích cho các chi thể của dòng
cũng như toàn Thân Thể Chúa Kitô
1. Thực vậy, các dòng ấy mang lại cho các chi thể
những trợ lực bền bỉ trong một đời sống vững vàng hơn, một
học thuyết vững chắc giúp đạt đến trọn lành, một mối hiệp
thông huynh đệ trong đạo binh Chúa Kitô, và một sự tự do
được đức vâng lời củng cố; thế nên, họ có thể an tâm chu
toàn và trung thành gìn giữ lời khấn cùng hoan hỷ tiến bước
trên con đường đức ái
2.
Xét theo
thể chế của Giáo Hội do Chúa thiết lập và có phẩm trật, thì
bậc sống tu trì không ở giữa bậc giáo sĩ và giáo dân; thực
vậy Thiên Chúa kêu gọi một số Kitô hữu ở cả hai bậc giáo sĩ
và giáo dân đến hưởng lấy ân huệ đặc biệt trong đời sống
Giáo Hội, và mỗi người một cách góp phần vào sứ mệnh cứu độ
của Giáo Hội
3.
56*
44. Bản tính và tầm quan trọng của
bậc tu trì. Người Kitô hữu tự buộc mình tuân
giữ ba lời khuyên của Phúc Âm qua lời khấn hay qua những
ràng buộc thánh khác tương tự như lời khấn dòng; nhờ đó họ
hiến thân hoàn toàn cho Thiên Chúa chí ái, để phụng sự và
làm vinh danh Ngài với một danh hiệu mới mẻ và đặc biệt. Nhờ
phép Thánh Tẩy, họ đã chết cho tội lỗi và được cung hiến cho
Thiên Chúa; nhưng để có thể thâu lượm dồi dào ơn ích của bí
tích ấy, người Kitô hữu muốn nhờ việc khấn giữ ba lời khuyên
của Phúc Âm trong Giáo Hội, thoát ly khỏi những ngăn trở có
thể làm họ không nhiệt tâm yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa
cách hoàn hảo; và họ tận hiến để phụng sự Thiên Chúa cách
thân tình hơn
4. Việc cung hiến đó càng trở nên hoàn hảo hơn khi
việc Chúa Kitô hiệp nhất với Giáo Hội, hiền thê của Người,
bằng mối dây bất khả phân ly càng được phản ảnh trong những
mối dây ràng buộc chắc chắn và vững bền hơn.
Những lời
khuyên của Phúc Âm đưa đến đức ái
5, và nhờ đức ái, những lời khuyên ấy kết hiệp các
tu sĩ cách đặc biệt với Giáo Hội và với mầu nhiệm Giáo Hội.
Bởi đó, đời sống thiêng liêng của họ cũng phải mưu cầu lợi
ích cho toàn thể Giáo Hội. Do đó, mỗi người tùy sức và ơn
gọi của mình, bằng kinh nguyện hay bằng hành động tích cực,
có bổn phận làm cho Nước Chúa Kitô ăn rễ sâu và vững mạnh
trong các tâm hồn và bành trướng trên khắp vũ trụ. Vì thế,
Giáo Hội duy trì và nâng đỡ đặc tính riêng biệt của các tu
hội.
Việc khấn
giữ các lời khuyên của Phúc Âm thực là một dấu chỉ có thể và
phải lôi cuốn hữu hiệu tất cả mọi chi thể của Giáo Hội đến
việc can đảm chu toàn ơn gọi làm Kitô hữu. Thực vậy, dân
Thiên Chúa không đặt thành trì vĩnh viễn ở đời này, nhưng đi
tìm một thành trì mai sau. Bậc tu trì giải thoát người tu sĩ
bớt những lo lắng trần tục, cùng tỏ lộ cách hoàn hảo hơn cho
mọi tín hữu thấy của cải trên trời đã có ngay dưới trần gian
này, và làm chứng rằng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô đã đem lại
một đời sống mới và vĩnh cửu, đồng thời tiên báo sự phục
sinh tương lai và vinh quang của Nước Trời. Hơn nữa, bậc
sống tu trì bắt chước cách chính xác hơn và thực hiện liên
tục trong Giáo Hội nếp sống mà Con Thiên Chúa đã nhận khi
Người xuống thế để thi hành thánh ý Chúa Cha và cũng là nếp
sống mà Người đã đề ra cho các môn đệ theo Người. Sau cùng,
bậc sống ấy đặc biệt cho ta thấy Nước Thiên Chúa vượt trên
mọi sự trần thế và những đòi hỏi của Nước ấy cao cả biết
bao; nó cũng cho mọi người thấy quyền lực cao trọng tuyệt
vời của Chúa Kitô Vua và quyền năng vô cùng của Chúa Thánh
Thần đang hoạt động cách kỳ diệu trong Giáo Hội.
Vì thế, bậc
sống được thiết lập do việc tuyên khấn các lời khuyên của
Phúc Âm, tuy không liên quan đến cơ cấu phẩm trật của Giáo
Hội, nhưng dĩ nhiên cũng gắn chặt với đời sống và sự thánh
thiện của Giáo Hội.
57*
45. Quyền bính Giáo Hội và bậc tu
trì. Vì trong Giáo Hội, giáo phẩm có nhiệm vụ
chăn dắt và dẫn đưa Dân Chúa đến những đồng cỏ phì nhiêu (x.
Ez 34,14), nên có nhiệm vụ dùng các luật lệ mà hướng dẫn
cách khôn ngoan việc thực hành những lời khuyên của Phúc Âm,
vì đó là phương thế đặc biệt để cổ võ đức ái trọn hảo đối
với Thiên Chúa và tha nhân
6. Ngoan ngoãn vâng theo sự thúc đẩy của Chúa
Thánh Thần, giáo phẩm đón nhận những luật dòng do những nam
nữ sáng lập viên lỗi lạc đề nghị, và chính thức phê chuẩn
sau khi tu chỉnh. Và do quyền hành của mình, giáo phẩm luôn
có mặt để săn sóc và bảo trợ những dòng tu được thiết lập
khắp nơi nhằm xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, để các dòng tu
ấy phát triển và sinh hoa kết quả theo tinh thần các đấng
sáng lập.
Ðàng khác,
để đáp ứng cách hữu hiệu hơn nhu cầu của toàn thể đoàn chiên
Chúa, Ðức Giáo Hoàng, vì có quyền tối thượng trong toàn thể
Giáo Hội và để phục vụ ích chung, có thể tách bất kỳ dòng tu
hay tu sĩ nào khỏi quyền tài thẩm của các Ðấng Bản Quyền và
chỉ đặt dưới quyền duy nhất của ngài
7. Cũng thế, có thể có những dòng tu và những tu
sĩ được để lại hoặc giao phó cho thẩm quyền riêng của các
Giáo Chủ. Khi chu toàn phận vụ đối với Giáo Hội qua cách
sống đặc biệt của mình, các tu sĩ phải kính trọng và vâng
lời các Giám Mục theo giáo luật, vì phải tôn trọng quyền mục
vụ của các ngài trong Giáo Hội địa phương và vì cần phải có
sự đồng tâm nhất trí trong việc tông đồ
8.
Giáo Hội
không chỉ phê chuẩn việc khấn dòng để đưa đời tu lên địa vị
bậc sống theo giáo luật, nhưng qua việc cử hành phụng vụ,
Giáo Hội còn trình bày việc khấn dòng ấy như một bậc sống
cung hiến cho Thiên Chúa. Với quyền hành Chúa ban, chính
Giáo Hội nhận lời tuyên khấn của các tu sĩ; qua lời kinh
công cộng, Giáo Hội xin Chúa ban ân sủng và trợ giúp họ, phó
thác họ cho Thiên Chúa, chúc lành thiêng liêng cho họ, và
kết hợp sự tận hiến của họ vào hy lễ tạ ơn.
58*
46. Sự cao cả củaviệc tận hiến.
Các tu sĩ phải đem hết tâm lực làm cho Giáo Hội, qua con
người của họ, thực sự biểu dương Chúa Kitô ngày một hoàn hảo
hơn cho các tín hữu cũng như các lương dân: biểu dương Chúa
Kitô đang cầu nguyện trên núi, hoặc đang loan báo Nước Thiên
Chúa cho dân chúng, hoặc chữa lành những kẻ đau yếu tàn tật,
hay hoán cải các tội nhân trở lại đời sống phong phú, hoặc
đang chúc phúc cho trẻ em, ban ơn lành cho mọi người, và
trong mọi sự luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Ðấng đã sai
Người đến
9.
Sau cùng,
mọi tu sĩ nên biết rằng việc khấn giữ các lời khuyên Phúc
Âm, tuy bao gồm sự từ bỏ những của cải mà dĩ nhiên phải được
quí trọng, sẽ không làm ngăn trở việc phát triển đích thực
nhân vị, trái lại do bản chất của nó còn có lợi cho con
người. Thực vậy, các lời khuyên Phúc Âm, mà các tu sĩ đã
tình nguyện chấp nhận theo ơn gọi riêng của mình, góp phần
không ít vào việc thanh luyện tâm hồn và phát huy tự do
thiêng liêng, và không ngừng khích lệ sống bác ái nhiệt
thành, nhất là có sức làm cho người Kitô hữu ngày càng nên
giống đời sống trinh khiết và khó nghèo mà Chúa Kitô đã chọn
và Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Người, đã sống, như gương lành của
bao đấng sáng lập dòng đã chứng tỏ. Không ai được nghĩ rằng,
vì tận hiến như thế, các tu sĩ trở nên xa lạ với mọi người
và vô dụng đối với xã hội trần thế. Vì dù đôi khi không trực
tiếp phụ giúp người đồng thời với mình nhưng tu sĩ lại hiện
diện cùng họ cách sâu xa hơn trong lòng Chúa Kitô và cộng
tác một cách thiêng liêng với họ, để việc xây dựng xã hội
trần thế luôn đặt nền móng nơi Chúa và luôn hướng về Người
hầu những người xây dựng xã hội trần thế sẽ không luống công
10.
Vì thế,
Thánh Công Ðồng công nhận và khen ngợi nam nữ tu sĩ sống
trong tu viện, trường học, bệnh viện hoặc trong các xứ
truyền giáo, đang trang điểm Hiền Thê Chúa Kitô bằng tấm
lòng khiêm hạ và kiên trung trong sự tận hiến và quảng đại
phục vụ mọi người dưới muôn vàn hình thức.
59*
47. Khuyến khích sự kiên tâm và
thăng tiến. Vậy mỗi tu sĩ được gọi để tuyên
khấn, hãy chuyên tâm sống bền đỗ trong ơn thiên triệu Chúa
đã gọi mình và hãy mãi mãi tiến bộ để làm cho sự thánh thiện
của Giáo Hội thêm phong phú hơn và sự vinh hiển của Thiên
Chúa Ba Ngôi duy nhất và bất phân thêm cao cả hơn. Trong và
nhờ Chúa Kitô, Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch và nguyên ủy mọi
sự thánh thiện.
60*
Chú
Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo
trước)
55* Việc chuẩn bị chủ
đề để soạn thảo cho chương này khá sôi nổi. Trong lược đồ
đầu tiên, tất cả chương VI đề cập đến tu sĩ. Khi lược đồ
được làm lại và đưa lên để Công Ðồng nghị trình trong kỳ họp
thứ hai, chương nói về tu sĩ lại được xen vào chương V bàn
chung về lời kêu gọi nên thánh trong Giáo Hội. Làm thế cũng
gây nên nhiều bất tiện. Như vậy, chúng ta thấy có hai khuynh
hướng: khuynh hướng thứ nhất đòi soạn thảo một chương đặc
biệt về tu sĩ, khuynh hướng thứ hai cương quyết cứ để xen
chung vào chủ đề về lời kêu gọi nên thánh. Sau nhiều cuộc
bàn cãi, việc phân tách hai chương được chấp thuận, như
chúng ta thấy trong bản văn chung quyết. Vị trí của chương
này trong toàn thể Hiến Chế là do những quan sát thực tiễn.
Ðặt nó liền sau chương nói về lời kêu gọi nên thánh là để
bày tỏ giá trị và tầm quan trọng của đời tận hiến cho Giáo
Hội để thánh hoá và minh chứng. Kết cấu của chương này đơn
giản: sau khi mô tả nguồn gốc và sự tiến triển của các hình
thức đời sống tu trì (số 43), Công Ðồng phân tích bản tính
đời sống tu trì (số 44), và sau đó xét đến vai trò của quyền
bính Giáo Hội đối với tu sĩ (số 45) và nhiệm vụ của đời sống
tu trì trong việc phát triển nhân phẩm của chính tu sĩ, hoặc
trong đời sống Giáo Hội (số 46); sau cùng là đôi lời khuyên
nhủ vắn tắt kết thúc cho chương này (số 47).
56* Số 43: Nhập đề.
Công Ðồng
mô tả nguồn gốc và sự tiến triển của các hình thức tu trì,
một trật cũng bày tỏ thánh ý Chúa và vai trò của quyền bính
Giáo Hội. Ðời sống tu trì là một hồng ân Chúa Cha ban cho
Giáo Hội, Giáo Hội phải trung thành gìn giữ và hướng dẫn. Do
lời giảng dạy và gương mẫu của Người, Chúa Kitô là nền tảng
các lời khuyên Phúc Âm. Công Ðồng còn minh định thêm rằng
đời sống tu trì không nằm trong hệ thống cơ cấu phẩm trật
(giáo sĩ - giáo dân), nhưng trong hệ thống cơ cấu đoàn sủng.
Dầu các lời khuyên là do Chúa ban, và đời sống tu trì thực
hành những lời khuyên đó là thuộc phạm vi đoàn sủng, Giáo
Hội cũng phải thiết lập một hình thức định chế để thực hành
đời sống ấy.
57* Số 44: Bản tính của
đời sống tu trì.
Trước hết
Công Ðồng thừa nhận trong đời sống đó có một sự thánh hiến
cho Thiên Chúa để hoàn bị sự thánh hiến của bí tích Thánh
Tẩy. Do lời khấn hay việc dấn thân tương tự mà có việc dâng
hiến, nhờ đó đời sống của tu sĩ và cả thế giới được thần hóa
nhiều hơn (x. số 31). Sự thánh hiến này hoàn tất trong tình
yêu trọn vẹn nhất: tình yêu ưu tiên dành cho Thiên Chúa
trong Chúa Kitô. Ðời sống tu trì chính yếu cũng là phục vụ
Giáo Hội, để làm cho việc tông đồ được bành trướng. Nhưng vì
là một sự thánh hiến nội tâm, nên việc phục vụ trước hết là
cộng tác vào việc mở mang nước Chúa bằng thái độ nhiệt
thành, bằng kinh nguyện và cũng có thể bằng hoạt động. Bởi
thế, việc phục vụ này không chỉ là một hình thức tông đồ bên
ngoài. Giá trị dấu hiệu của việc tuyên xưng các lời khuyên
Phúc Âm phát xuất từ sự thánh hiến nội tâm này: dấu hiệu
cánh chung của đời sau và của hạnh phúc trên Trời, giá trị
của sự cao trọng Nước Chúa. Ðể kết luận, Công Ðồng tuyên bố
đời sống tu trì không thể tách lìa khỏi đời sống và sự thánh
thiện của Giáo Hội. Như vậy chúng ta hiểu rằng, một đàng
Giáo Hội cần được sự đóng góp của đời sống tu trì nên phải
cổ võ đến mức tối đa cho đời sống ấy, đàng khác đời sống ấy
nói lên sức mạnh của Giáo Hội. Cứ theo những điểm vừa nói
thì đời sống tu trì là một thực tại sống động trong Giáo
Hội.
58* Số 45: Giáo Hội và
đời sống tu trì.
Vai trò
quyền bính Giáo Hội nằm trong những điều quy định tổng quát:
lập luật để làm qui tắc hướng dẫn việc thực hành các lời
khuyên, chuẩn y các điều lệ, lưu ý đến sự trung thành và
tăng triển các hội dòng. Sau đó Công Ðồng đề cập đến những
người nắm giữ quyền bính này: Ðức Giáo Hoàng là Vị mà các
hội dòng miễn trừ phải tùy thuộc; các Giáo Chủ, các Giám Mục
là những người mà mọi tu sĩ phải kính trọng và tuân phục. Sự
quả quyết Giáo Hội góp phần trong phương diện phụng vụ và
thiêng liêng vào việc tuyên khấn cũng nói lên rằng những mối
tương quan với quyền bính không chỉ có tính cách pháp lý.
Theo Hiến Chế, sự đóng góp vào phụng vụ mặc ba hình thức:
Giáo Hội dùng quyền bính chấp nhận các lời khấn, dùng lời
kinh công cộng xin Chúa ban ơn, kết hợp sự tận hiến của
người tuyên thệ vào hy lễ tạ ơn.
59*
Số 46 : Vai trò của đời sống tu trì.
Sau khi khuyên nhủ tu sĩ biết minh chứng
Chúa Kitô trong các hoạt động, Công Ðồng nhắc nhở cho họ
biết đời sống tu trì làm phát triển nhân cách con người vì
là một sự tự hiến, phát xuất từ hành động tự do của ý chí đi
theo chiều hướng của ơn gọi cá nhân; đời sống ấy còn định
hướng nhân phẩm theo như điều mà chương trình của Chúa muốn
dung hợp, và như vậy làm cho nhân phẩm được nẩy nở hoàn
toàn. Công Ðồng đề cập ba khía cạnh của việc nẩy nở đó: tự
do thiêng liêng trong tâm hồn trong sạch hoàn toàn, bác ái
hăng say nhờ đó mà nhân phẩm con người được phát triển đích
thực, dung hợp với lối sống mà chính Chúa Kitô đã theo, lối
sống mà Mẹ Maria là gương mẫu hoàn hảo. Công Ðồng cũng nhắc
lại rằng đờisống tu trì còn cộng tác một cách thiêng liêng
vào công cuộc kiến tạo trần gian. Sự hiện diện tinh thần của
tu sĩ còn đích thực hơn cả sự hiện diện hữu hình bên ngoài.
Cố nhiên Công Ðồng không nói tu sĩ hiện diện nơi người khác
nhưng hiện diện trong trái tim Chúa Kitô. Do sự kiện cộng
tác thiêng liêng vào công cuộc kiến tạo trần gian, tu sĩ trở
nên hữu ích cho xã hội và cộng tác vào việc tái tạo một thế
giới xây dựng trên Chúa Kitô. Sau cùng Công Ðồng tuyên bố
công nhận và khen ngợi lối sống của tu sĩ.
60*
Số 47 : Kết luận.
Trong câu kết luận vắn tắt, Công Ðồng khuyên
nhủ tu sĩ kiên trì và thăng tiến trong ơn gọi để Giáo Hội
được thánh thiện và để làm vinh danh Thiên Chúa.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THƯ GỬI
NGƯỜI ANH EM LINH-MỤC CỦA TÔI |
Kính cha,
Tôi mới được tin cho biết rằng
sắp đến ngày kỷ-niệm chẵn hai mươi lăm năm linh-mục của cha.
Chỉ đối với một người sống đời bình-thường thôi thì
thời-gian hai mươi lăm năm cũng đã là một đoạn đường dài
đáng kể để tính sổ đời rồi; huống chi đây lại là một chặng
đời trong thiên-chức linh-mục thì khỏi phải nói cũng dư lẽ
là cha đã cảm-nghiệm được biết bao cam-go, thử-thách để vượt
thắng, để tiếp-tục đi tới trên con đường thánh-ý đã vạch
ra. Hai mươi lăm năm hồng-ân để sống và làm việc trong một
đời linh-mục quả là có quá nhiều điều để vui mừng cũng như
để duyệt lại cho chín-chắn hơn. Trong dịp vui đáng kể như
thế này, chắc-chắn là cha sẽ nhận được rất nhiều lời chúc
mừng, khen tặng và có thể còn cả những lời tán-dương nũa vì
thực ra cũng đáng lắm chứ, phải không? Riêng tôi thì lại
muốn lợi-dụng ý-nghĩa sâu-sắc của cái mốc điểm thời-gian này
để chia-sẻ chút suy nghĩ của mình; bởi vì không hiểu tại sao
mà đã từ lâu rồi, nội-tâm tôi vẫn có một nỗi thao-thức đến
độ gần như bất ổn với hai chữ "linh-mục" mà chưa một lần có
dịp được giãi-bày. Cho nên hôm nay trong tình gia-đình, thay
vì gửi về cha những lời mừng, lời chúc, lời khen tặng như
của bất cứ người thân, quen nào; tôi xin được chia-sẻ với
cha chút cảm-nghĩ trong tâm-tư mình về ơn gọi linh-mục của
cha qua các sinh-hoạt mục-vụ mà trong đó giáo-dân chúng tôi
là đối-tượng cụ-thể nhất để cha vừa có trách-nhiệm, vừa phải
liên-đới trong nghĩa tình huynh-đệ bằng sự tôn-trọng lẫn
nhau. Tôi sẽ cố gắng giảm bớt càng nhiều càng tốt tính-cách
chủ-quan trong liên-hệ thân-tình để khách-quan hơn với
tâm-hồn một tín-hữu, một giáo-dân đã và đang và vẫn có những
mong đợi nơi cha, một linh-mục trong thiên-niên-kỷ mới.
Hy-vọng rằng trên căn-bản của niềm xác-tín và với tinh-thần
huynh-đệ, mình có thể nhân dịp này giúp nhau nhìn lại đoạn
đường đã qua trong ánh sáng của Đức-tin để biết đâu có thể
từ đấy mà ta tìm thêm ra được đôi điều khả-dĩ khai mở được
hết ý tình tri-ngộ của cái duyên may một thuở được mời gọi
làm môn-đệ, làm linh-mục giữa cộng-đồng dân Chúa và được sai
đi để đến giữa muôn dân.
Tôi phải nói trước và nhấn
mạnh rằng tôi tuyệt-đối thâm-tín về hiệu-năng của tác-vụ đặt
tay đối với cha trong ngày lễ phong chức chính là nguồn mạch
thần-khí tuyệt-đối và chuyên-nhất từ nơi Đức Ki-tô vẫn
liên-tục để cha được truyền-thụ. Thành ra, như nội-dung của
bài hát "Linh-mục, người là ai" đã viết, tôi thật tình thấy
không ngoa hay sáo chút nào cả khi tác-giả đã trả lời câu
hỏi này bằng một chuỗi dài các ý-niệm cụ-thể rằng
·
là ánh sáng trần-gian
·
là muối cho mặn đời
·
là hiện-thân Chúa ta,
là hồng-ân Chúa Cha
·
là chứng-nhân tình yêu;
là tôi tớ tốt lành, tín-trung, dịu-hiền
·
là người được sai đi
đem tin mừng, an-bình gieo khắp nơi
·
là người anh em suốt
đời hiến thân phục-vụ...vân vân...
nhưng trong đó tôi tâm-đắc
nhất là câu "người là một bài ca cho hiển-danh Chúa ta".
Như tôi vừa nói, những lời lẽ
và ý-niệm tác-giả kia dùng không phải là ngoa-ngôn, sáo-ngữ
nên cha cũng đừng bảo rằng tôi đang để cha "đi tầu bay giấy"
nhé. Thực-chất sứ-mạng của cha đang sống từng ngày là phải
chú-tâm hướng vào những ý-nghĩa ấy đấy. Ấy vậy mà có lẽ tôi
lại là một trong số không nhỏ những người, những giáo-dân
luôn mang nặng trong đầu nhiều bất ổn về thiên-chức linh-mục
mà cha đang thừa-hành. Thậm-chí đã có lắm khi bị mang tiếng,
bị nhiều người ngoan đạo kết tội là bổ-báng, là chống
giáo-sĩ chỉ vì tôi đã không cứ đời cha, cha lo; việc tôi,
tôi tính; lại hay bạo gan, bạo phổi ưu-tư và đặt vấn-đề về
phong-cách mục-vụ của một số vị đã liên-quan và ảnh-hưởng
đến đời sống tâm-linh của các tín-hữu.
Chẳng hạn như mới đây, trong
dịp lễ giỗ tại một gia-đình trong họ, tôi được nhờ đứng ra
cảm-ơn quan-khách đến đự. Tôi đã không theo thói thường của
giáo-dân xưa nay, bao giờ cũng phải trình lạy cha trước hết
và trên hết mọi sự mà đã căn-cứ theo tuổi-tác để thưa với
các cụ, các ông bà đứng tuổi trước rồi mới thưa đến linh-mục
chủ-tế vì thấy vị này mới chỉ ở độ tuổi trung-niên. Thế là
tôi bị một số các ông bà ngoan đạo xầm-xì là bất-kính với
cha, là làm những chuyện gở lạ, ngược-ngạo. Nhưng mọi người
đã chưng-hửng khi vị linh-mục này tiếp lời liền để cảm ơn
tôi đã thật tế-nhị giúp cho ông được tư-nhiên hơn trong thế
đứng của mình giữa mọi người vì với tuổi-tác và theo đúng
truyền-thống văn-hoá dân-tộc, ông cũng chỉ là ở vào hàng con
cháu của các cụ, đâu có lẽ nào nhảy tót (chữ của ông dùng
chứ không phải tôi) lên cao chót-vót như vậy. Ông còn nói là
chính cái thói quen tôn-sùng các vị tu-hành quá đáng mà
giáo-dân Việt-nam mình đã vô-tình làm hư-luống quá nhiều
giá-trị tinh-thần của thiên-chức linh-mục. Đấy là thái-độ
sùng-bái không phải kiểu chứ không phải là tôn-trọng.
Tôi hoàn-toàn đồng-ý với
tội-trạng vị linh-mục kia cáo-buộc giáo-dân một cách quá
chính-xác như vậy. Song nếu công-bằng hơn một chút,
tâm-thành thêm một chút thì cha có nghĩ là mình phải cưa đôi
phần lỗi phải, chứ đổ hết tội-vạ cho giáo-dân như vậy là hơi
oan không? Bởi vì nếu giáo-dân làm sai, làm lố thì cha phải
chỉnh lại cho chính-xác, phải giúp họ sửa đổi chứ lẽ đâu lại
im-lặng và nhất là cứ để cho mọi người coi mình như thánh
như tướng vậy và như thế thì có khác gì là thái-độ bằng
lòng, thỏa-hiệp với những điều không ổn đó. Lại nữa, đấy
cũng không phải là giáo-huấn của Hội-Thánh, mà chỉ do sự
suy-nghĩ lệch-lạc mà ra thôi thì lại càng phải mau mắn
điều-chỉnh lại mới là phải lẽ chứ, phải không cha. Hội-Thánh
luôn kêu gọi con dân nhà Chúa phải canh-tân nếp sống đạo,
lấy tình bác-ái huynh-đệ đối-đãi nhau mà chúng ta cứ cố-thủ
những cái thói-tục lỗi thời, lỗi đạo như vậy mãi sao? Cụ-thể
hơn, cha sẽ cảm thấy sao khi nghe các ông bà cụ già khoảng
bảy, tám mươi tuổi hoặc kém hơn một chút cứ khúm-na khúm-núm
với một điều cha dạy con thế này, hai điều cha bảo con thế
kia và mình thì khơi-khơi xưng "tôi" với các vị ấy mà không
cần giải-thích chữ "cha" chỉ là một danh-xưng, một chức
trong Giáo-Hội thì đâu tuyệt-đối phải bắt theo khuôn phép và
vai vế như cha con trong ơn-nghĩa sinh-thành, phải đảo lộn
niên-kỷ như thế. Nhất là đối với truyền-thống văn-hoá
Việt-Nam, chữ "Lễ" rất quan-trọng vì nó là điều-kiện hàng
đầu trong đường lối ứng-xử; đồng thời, sự khiêm-tốn dễ cảm
lòng người lại cũng cần vô-cùng trong đời sống Đức-tin. Vả
chăng “sự tôn-kính mà người dân Á-châu vốn dành cho những
người nắm quyền bính cần được hòa-hợp với sự ngay thẳng
trong sáng về phía những người có trách-nhiệm phục-vụ trong
Giáo-hội” (EA 43. Tuyên-bố kết-thúc Đại-hội lấn thứ 7
LHHĐGM.AC)
Giáo-dân chúng tôi sẽ chẳng
bao giờ nhìn nhận ra mình đã sai tín-lý nếu cha không
phân-tích ra, không mạnh dạn xác-định và chỉnh-đốn lại. Với
thiên-chức linh-mục của Đức Ki-tô, cha có phần trách-nhiệm
nặng nề trong sự thông chia với hàng Giám-mục về ba
thẩm-quyền giáo-huấn, quản-trị và thánh-hóa đã được trao
ban, vậy cha nghĩ sao khi người linh-mục cứ để cho một số
giáo- dân mặc tình tự biên, tự diễn những hình-thái tâm-linh
ngụy-tín cũng như mặc tình chế-tác các lối hành-xử sai
tín-lý và giáo-lý mà không lên tiếng sửa đổi hay uốn nắn
lại? Là linh-mục, cha thường nhật có mặt bên cạnh cuộc
sinh-hoạt của giáo-dân hơn các vị Giám-mục, cho nên tôi nghĩ
cha không thể thiếu bổn-phận thi-hành thẩm-quyền giáo-huấn
của Hội-thánh trong thừa-tác-vụ mục-vụ của mình. Nếu cha
không là muối thì họ cứ ươn-lười giữ đạo kiểu cha truyền con
nối, cứ nghĩ rằng khoán trắng mọi sự cho cha là xong hết, vì
cha đã nhận chức thánh, đã thay mặt Chúa, nên cha nói sao
thì sao đi. Miễn là cha ban đủ các phép là được. Phần
giáo-dân chúng tôi cứ đều-đặn mỗi ngày đến nhà thờ "xem" cha
làm lễ là đủ, chẳng bao giờ tìm đọc Công-đồng, các tông-thư,
tông-huấn làm gì vì như vậy cũng đỡ mất thời-giờ cho cha
phải giảng-giải và chúng tôi phải nghe những điều mà xét ra
bất lợi cho cả người nói lẫn người nghe. Thế là cả cha và
chúng tôi đều nhàn vì đứng bên ngoài dòng sinh-hoạt luôn
canh-tân và sám-hối để vươn lên của Hội-Thánh, để thăng-tiến
đời sống tâm-linh của mỗi người tin. Thật chẳng khác gì mình
là những kẻ giậm chân tại chỗ trong khi Hội-Thánh thì không
ngừng tác-vụ giáo-huấn: Bước vào thiên-niên-kỷ mới sẽ
khuyến-khích cộng-đoàn Ki-tô hữu mở rộng tầm nhìn đức tin về
những chân trời mới để loan-báo Nước Thiên-Chúa. Trong
hoàn-cảnh đặc-biệt này, cần phải trung-tín trở về với lời
dạy của Công-đồng Va-ti-ca-nô II, vốn mang lại một soi sáng
mới mẻ về dấn-thân truyền-giáo của Giáo-hội trước những
yêu-sách hiện nay của việc Phúc-âm-hoá...(Tông-thư Mầu-nhiệm
Nhập-thể, số 2). Chắc chắn cha đã nắm vững thế nào là
"những yêu-sách của việc Phúc-âm-hoá" mà Hội-thánh đòi hỏi
hơn chúng tôi nhiều; song tôi nghĩ nó cũng không ra ngoài
cái mẫu-mực của Đức Ki-tô là sống giữa trần-gian, làm mọi
việc của trần-gian, trừ tội-lỗi, để thánh-hoá trần-gian.
Có khi nào cha chợt thấy chạnh
lòng về cái não-trạng giáo-dân chúng tôi như vậy, có nhận ra
sự theo đạo ù-lì pha thêm chút mê-tín và sai-lạc của
giáo-dân chúng tôi khi cứ đều-đặn cúi đầu lạy cha không biết
chán như vậy không? Đúng là vô tình tín-hữu đã ru ngủ
thiên-chức của cha bằng lòng tôn-kính lệch-lạc, đã lắm phen
đưa cha vào thế tự-cao, tự-đại như thực sự thay quyền
Thiên-Chúa và cha cũng vui vẻ ngủ yên trong đó, đến độ có
thể không nghe thấy lời Đức Thánh-Cha đánh-thức: "Bởi thế,
trong khi thiên-niên thứ hai gần hết, Giáo-hội cũng cần
phải hoàn-toàn nhận-thức được tội-lỗi của con cái mình, nhớ
lại tất cả những lúc, trải qua theo dòng lịch-sử, họ đã xa
rời tinh-thần của Chúa Ki-tô và Phúc-âm của Người; thay vì
hiến cho thế-giới một chứng-từ của đời sống được thúc-đẩy
bởi những giá-trị đức-tin, thì lại tìm thỏa-mãn bằng những
cách suy-tư cũng như bằng tác-hành dưới những hình-thức
thực sự phản chứng-tá và gây sương mù...(Tông-thư Ngàn
Năm Thứ Ba đang đến, số 33). Và cũng trong Tông-thư này, Đức
Thánh-Cha đã nhận-định về một thực-tại là: Vấn-đề được đặt
ra là có bao nhiêu Ki-tô hữu thực sự hiểu biết và thực-hành
những nguyên-tắc giáo-huấn của Giáo-hội về xã-hội...(số 36).
Đấy mới là nhận-định chung chung mà Đức Thánh-Cha còn đặt
một câu hỏi khiêm-tốn như vậy; còn riêng trong xứ-đạo của
cha thì sao đây trước vấn-đề như thế? Và cha có trách-nhiệm
gì trong việc chia-sẻ mối ưu-tư của vị Cha Chung đã đặt ra
qua tác-vụ thông-phần với thẩm-quyền giáo-huấn mà Đức Ki-tô
đã trao ban cho Hội-Thánh? Tôi cũng đang tự hỏi mình như thế
về mức-độ hiểu biết của bản-thân mình bấy lâu nay đây. Nhưng
nếu chỉ hỏi không mà thiếu đối-thoại hay chia-sẻ thì ích
gì.
Viết đến đây, tôi nhớ đến
những dòng tâm-sự của một người bạn cũng rất nhiệt-thành
trong những thao-thức nội-tâm. Tôi thấy cũng nên chép lại ở
đây để cha có thêm đôi chút cảm-nghiệm về một thành-phần
giáo-dân thật sự đi sát với sự tiến-triển của Giáo-hội.
- Tôi thấy chúng ta cũng cần
lên tiếng gửi-gắm đôi điều đến những người trẻ đang nắm
vai-trò gọi là chăn dắt (pastorize) dân Chúa để họ biết
khiêm-tốn cả từ cung-cách xưng-hô với giáo-hữu của mình,
trong đó có cả thái-độ và lối hành-xử như họ vẫn thường quen
đối-xử với giáo-dân hiện nay. Một điều tôi thấy rất lạ là
đối với các linh-mục được đào-tạo từ A đến Z tại hải-ngoại
là khi làm mục-vụ với dân bản-xứ thì họ rất dân-chủ và
cấp-tiến; nhưng với giáo-dân Việt-Nam thì họ lại trở về
thời-kỳ tiền Công-đồng, nghĩa là vẫn thích người ta "xin
phép lạy cha" và vâng-phục tuyệt-đối, không được có ý-kiến
lôi-thôi trái ý mình, muốn nói gì thì nói, không cần đắn-đo.
Trong cách ứng-xử với những người cộng-sự với mình thì
độc-tài, bảo-thủ và nhất là trong những dịp vui mừng như lễ
ngân-khánh chẳng hạn thì cứ để mặc sức cho cộng-đồng tín-hữu
thưa bẩm dài dòng văn-tự trong nhà thờ để xưng-tụng và
tán-dương công-đức mình nhiều hơn là nói về Chúa như lời
Thánh-vịnh “non nobis Domine, sed tuo nomini da gloriam”.
Aáy vậy nhưng khi hòa nhập với các sinh-hoạt trần-thế
thì lại chiều theo thị-hiếu của giáo-dân trong những
thói-tục rườm-rà, mặc tình muốn bày vẽ lẽ nào cũng được.
Thậm chí lại thích hát cả nhạc đời trong nhà thờ vào những
dịp lễ Mothers' Day, Fathers' Day hay Valentine Day...và kể
cả những chuyện tiếu-lâm chẳng ăn nhập gì với Lời Chúa mà
chỉ cốt cho người nghe cười cho vui tai thôi. Nhiều khi tôi
đi lễ bị chia-trí quá sức nên rất bực mình, nhưng biết làm
sao. Còn mấy ông được đào-tạo ở Việt-Nam, khi còn là
chủng-sinh thì xem ra rất khiêm-tốn, nhưng khi đã lên chức
"cụ" rồi thì được giáo-dân kính-trọng quá mức nên bắt đầu
quan-liêu, ăn chơi và thích quan-hệ với người giầu rồi quên
bẵng đi giáo-dân nghèo khổ của mình. Ôi thôi nhiều thứ lắm,
nhưng tôi chỉ dám chia sẻ với người nhà thôi, chứ nói ra
ngoài lỡ bị vạ tuyệt-thông thì khốn.
Thực ra đây không phải là
tình-trạng chung, nhưng cũng không
phải là ít đâu, cha ạ; song vì như ca ông bà mình có nói là
sự thật mất lòng nên chẳng ai nỡ nói, dám nói và muốn nói
vì cũng dễ làm nản lòng nhau lắm đấy. Tuy nhiên, có một điều
không thể chối cãi được là theo kinh-nghiệm của tôi mỗi khi
tiếp-xúc và chia sẻ với những người - nhất là giới trẻ –
đang nhạt-nhoà lòng đạo để sống khô khan, nguội lạnh (không
kể thành-phần đang sống trái ngang trong hôn-nhân) về niềm
tin thì thay vì trả lời về chính mình, họ lại làm một thôi
một hồi về nếp sống tục-hóa của một số linh-mục; cứ như đấy
là động-cơ đẩy họ xa đạo vậy. Tôi biết đôi khi đó cũng là
cái cớ để biện-minh, song cũng không nên hoàn-toàn chối bỏ
tầm ảnh-hưởng này. Tôi không phải chỉ quy và đòi hỏi
trách-nhiệm của cha thôi đâu vì tất cả chúng ta đều được mời
gọi cả mà; song le thừa-tác-vụ của cha vẫn là chính-yếu.
Trước đà chuyển mình không
ngừng của xã-hội, Giáo-Hội cũng luôn luôn nỗ-lực canh-tân để
giúp con người dung-hoà được phần tâm-linh với nếp sống
văn-minh vật-chất đang trên đà phát-triển đến cao-độ. Dựa
vào quan-điểm của Hội-Thánh và bằng vào Lời Chúa đã dặn-dò
lúc sai đi, tôi nghĩ hành-trình rao giảng của cha không thể
quá ngắn chỉ từ bục giảng đi xuống cuối nhà thờ, rồi đi ra
đến sân nói nói cười cười với tín-hữu là đủ. Hoặc cũng có ra
khỏi cổng nhà xứ, nhưng chỉ là đi lòng-vòng trong họ đạo để
mọi người chắp tay, cúi đầu lạy cha như cái máy mà còn
nhiệm-vụ phải đến với muôn dân nữa kìa. Mà để có thể bước đi
vững-vàng, mạnh dạn trên con đường phục-vụ này, cha dư biết
mỗi người chúng ta cần phải có bao nhiêu hành-trang để đem
theo ngoài số vốn cha đã học trong chủng-viện.
Một số bạn bè ngoài Công-giáo
mình bảo tôi rằng họ rất muốn gặp-gỡ, đối-thoại và lắm khi
cũng cần cộng-tác với những linh-mục Công-giáo để trong tình
huynh-đệ, nghĩa đồng-bào, cần phải cùng nhau phục-vụ xã-hội
và đất nước trong một số địa-hạt. Họ cũng rất thích lắng
nghe và chia sẻ những kinh-nghiệm tâm-linh từ những tín-lý
khác nhau trên cùng một căn-bản tư-tưởng Việt-Nam, nhưng
tiếc một điều là cái điểm chung để gặp-gỡ này lại không có.
Tuy nhận-định này có tính-cách "vơ đũa cả nắm" nhưng cũng
không phải là vô-bằng vì như đã có lần tôi được nghe một
linh-mục tâm-sự rằng vì ông phải lo trách-nhiệm mục-vụ mãi
tận miền cao-nguyên hẻo-lánh xa-xôi nên rất muốn lợi-dụng
những dịp được gặp-gỡ anh em linh-mục để cùng chia sẻ và học
hỏi thêm về kinh-nghiệm mục-vụ; nhưng thật buồn khi gặp nhau
thì toàn nói những chuyện bâng-quơ, chẳng ăn nhập gì đến đời
sống nội-tâm. Có lẽ vì vậy mà đã có rất nhiều linh-mục khi
đứng trên tòa giảng thì toàn dùng các tình-tiết của một cốt
chuyện tiểu-thuyết hay một cuốn phim để làm nền cho bài
giảng. Cha đừng buồn khi tôi muốn nói thẳng rằng có rất
nhiều vị, sau khi "đỗ cụ" rồi thì thật cứ yên-trí rằng mình
đã làm "cha" thiên-hạ, không thấy có nhu-cầu phải học hỏi
thêm nữa ngay cả về thần-học, tín-lý, còn nói gì đến việc
mở-mang thêm kiến-thức về văn-hoá, học-thuật và lịch-sử của
dân-tộc. Bởi thế mới tạo cho những người anh em khác cái
điều ngộ-nhận tai-hại kia. Ở điểm này, tôi phải nhìn nhận là
giáo-dân chúng tôi đã có rất nhiều người sống đúng nghĩa của
hai chữ dấn-thân. Họ tín-trung với giáo-huấn của Hội-Thánh,
rất chuyên-tâm sốt-sắng trau-giồi đời sống nội-tâm và
thể-hiện được ý-tình là môn-đệ của Đức Ki-tô bằng tình-tự
dân-tộc ngoài xã-hội. Đây không phải là lý-luận riêng
cá-nhân ai đâu, mà là Trong bản tuyên-bố kết-thúc Đại-hội
lần thứ 7 Liên-hiệp các Hội-đồng Giám-mục Á-châu họp tại
Samphran, Thái-Lan từ ngày 03 đến 13-01-2000, có ghi “…từ
chiều sâu của những âu lo và hy-vọng của châu Á, chúng
tôi lắng nghe tiếng gọi của Thánh Thần gửi đến các Giáo-hội
địa-phương tại châu Á. Đó là tiếng gọi đổi mới, đổi mới
sứ-mạng yêu thương và phục-vụ. Đó là tiếng gọi gửi đến các
Giáo-hội địa-phương vốn trung-thành với những giá-trị
văn-hóa, tâm-linh và xã-hội của châu Á và vì thế là những
Giáo-hội mang dấu ấn văn-hóa địa-phương thực sự…Đổi mới
nhằm thi-hành sứ mạng yêu thương và phục-vụ đòi hỏi một hiểu
biết mới và điểm nhấn mới…Chúng ta cần cảm-nhận và hành-động
“cách toàn-diện”. Khi đối-diện với những nhu-cầu của thế-kỷ
21, chúng ta đối-diện bằng con tim Á châu trong sự liên-đới
với người nghèo và người bị loại ra bên lề, trong sự
hiệp-nhất với mọi anh chị em Ki-tô hữu và bắt tay với mọi
người nam nữ tại châu Á thuộc nhiều niềm tin khác nhau…”
Cha đừng hiểu lầm là giáo-dân
chúng tôi thích các cha phải cấp-tiến. Không đâu, thưa cha.
Chúng tôi chỉ mong đợi ở cha hãy thực-sự gột bỏ cái tệ-trạng
cha chú chủ-quan xưa nay về những đặc-quyền, đặc-lợi của
thế-gian; có vậy mới làm sáng lên được ý-nghĩa cao-quý và
giá-trị siêu-nhiên của hai chữ linh-mục giữa cuộc sống.
Chúng tôi mong đợi cha hãy đi sát và đi kịp theo sự
hướng-dẫn của Hội-Thánh để kéo giáo-dân ra khỏi cái nếp xưa
nay vẫn cứ chỉ tà-tà, đủng-đỉnh sáng đi lễ, tối đi nhà thờ
và chăm-chỉ đọc kinh tối sáng ngày thường, rồi cha cũng
quay mòng-mòng theo với lòng mến của giáo-dân qua
cảm-tính rồi những lời huấn-thị của vị cha chung sẽ lọt tai
ai.
Thật tình mà nói, trong tư-thế
giáo-dân, chúng tôi rất muốn và mong-mỏi được có dịp
thường-xuyên ngồi lại với linh-mục, không phải để ăn nhậu
hay nói chuyện phiếm, mà là để chia-sẻ những ưu-tư về
tâm-linh; cũng có khi là cùng nhau học hỏi hay tham-khảo một
văn-thư của Toà-Thánh hay đọc một tông-huấn của Đức
Giáo-Hoàng. Chúng tôi muốn được cùng linh-mục hoà mình vào
trong một số sinh-hoạt của cuộc sống như một cách-thế
Phúc-âm-hoá môi-trường. Nhưng hình như từ xưa đến nay ở
Việt-Nam không có cái nề-nếp sinh-hoạt kiểu như thế này. Cha
mà nói với giáo-dân thì chỉ có giảng hoặc dạy chứ không có
cùng tìm hiểu, trao-đổi; còn giáo-dân thì chỉ có vâng, dạ
nghe lời cha dạy và thưa "Amen", phải vậy không cha? Ngay dù
cho giáo-dân có là cao tuổi đời và nhiều kiến-thức cũng như
kinh-nghiệm thì cũng phải cúi đầu vâng nghe ông cha non trẻ
hơn mình mọi mặt. Cha hài lòng hay hoảng-hốt khi nghe bà con
vâng-phục rằng lời cha là Lời Chúa, lắng nghe cha là lắng
nghe Chúa và khi nhận-định về những sai-sót của linh-mục
tu-sĩ là có tội? Nói phạm đến cha thì sẽ không được cha
"ban" các phép cho.
Cha ạ, cha có nghĩ tương-quan
giữa linh-mục và giáo-dân cần phải được canh-tân như
canh-tân đời sống không? Cha có thấy ngoài những tác-vụ
thiêng-liêng trong phụng-vụ ra thì ngay trong công-tác
mục-vụ, cha vẫn cần có thêm những người bạn cùng chí-hướng
mở-mang Nước Trời; cùng suy nghĩ rồi cùng bắt tay thực-hành
các huấn-thị của Giáo-Hội. Nhưng phải là những huynh-đệ cùng
bắt tay nhau chứ không phải những tay chân để sai bảo, để
chạy việc. Đức Ki-tô đã chẳng nói không gọi chúng ta là
tôi-tớ sao? “Hơn thế nữa, người dân Á-châu mong muốn nhìn
thấy các mục-tử của mình không chỉ như những nhà quản-trị
các hiệp-hội hoặc cung-ứng các dịch-vụ, nhưng “như những
người mà tâm-trí hướng về những gì thuộc Thần Khí”
(Tuyên-bố kết-thúc Đại-hội lần thứ 7 LHHĐGM.AC)
Chúng tôi mong linh-mục hoà
mình với xã-hội như một thái-độ dấn-thân nhưng không phải là
đồng-hoá với mọi thói-tục trần-thế; chẳng hạn như cũng chén
chú chén anh đến say mèm, hát nhạc tình rẻ tiền và kể chuyện
tiếu-lâm thiếu lành mạnh để cử-tọa vỗ tay tán-thưởng khen
cha bình-dân. Chúng ta chỉ hoà mình sống theo ý-hướng của
Giáo-Hội trước những ưu-tư cụ-thể như..."Chẳng hạn, chúng
ta làm sao có thể giữ im lặng về tình-trạng lạnh nhạt
đạo-đức làm cho nhiều người hiện nay sống như không có
Thiên-Chúa, hay sống theo một lòng đạo mơ-hồ, không có
khả-năng nắm vững vấn-đề chân-lý...cũng như phải kể đến
tình-trạng lẫn-lộn trong lãnh-vực đạo-lý, ngay cả về những
giá-trị căn-bản trong việc tôn-trọng sự sống và gia-đình. Về
mặt này, ngay những ngưòi con nam nữ của Giáo-Hội nữa cũng
cần phải xét mình lại. Họ đã bị nhuốm phải bầu khí của
phong-trào tục-hóa (secularism) và khuynh-hướng đạo-lý
tương-đối (ethical relativism)...không chứng-tỏ được dung
nhan chân thậât của Thiên-Chúa...bởi đã không sống theo cuộc
sống tôn-giáo, luân-lý hay xã-hội của mình (Hiến-chế Gaudium
et Spes, đoạn 19) (Tông-thư Ngàn Năm Thứ Ba đang đến. Số
36).
Nói quanh đi quẩn lại cũng
vẫn trở về khởi-điểm
cuộc hành-trình đức-tin của chúng ta thôi, riêng với cha thì
lại còn mang nhiều giá-trị tâm-linh trong cuộc sống nữa. Cho
nên có nói gì thì cũng chỉ là mong cha một khi đã cầm đèn
sáng trong tay rồi thì nên chịu khó khêu cho sáng thêm, cho
cao thêm, sao cho chúng ta cùng nhìn thấy ngả đường trước
mặt rõ hơn mà bước đi với tâm-tình bình-an và đẹp lành mọi
sự trong Đức Ki-tô. Ước gì đoạn đường 25 của cha cũng sẽ là
cái mốc điểm thời-gian chung cho chúng ta cùng nhìn lại đời
sống tâm-linh mình. “Chúng ta là một Hội-thánh cần được
thanh-tẩy. Chúng ta phải nhìn nhận rằng bằng nhiều cách, ta
đã sống không trọn ơn gọi thi-hành sứ-mạng yêu thương và
phục-vụ” (Tuyên-bố của Đại-hội LHHĐGM.AC). Hy-vọng cha
hiểu tâm-ý của tôi cũng như tâm-ý bao người khác đều muốn
được thấy âm-vang của tên gọi linh-mục của cha đúng là một
bài ca làm hiển-danh Chúa ta.
Phạm Minh Tâm |
VỀ MỤC LỤC |
|
Vai Trò của Nhà
Nước (tiếp theo) |
HỌC HỎI VỀ HỌC
THUYẾT XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (BÀI V)
V. Vai Trò của
Nhà Nước (178 – 201)
61. HTXH nêu lên
quyền lựa chọn thể chế chính trị ra sao?
Hiến chế Vui
Mừng và Hy Vọng dạy rằng: “Có quyền bính là do
bởi Thiên Chúa an bài, nhưng việc định đoạt những thể chế
chính trị hay cắt cử người cầm quyền, vẫn là quyền tự do của
mọi công dân” (GS # 74).
“Về mặt luân lý,
các thể chế chính trị có thể khác nhau, miễn sao các thể chế
này mang lại lợi ích chính đáng cho cộng đoàn đã thừa nhận
chúng. Các thể chế có bản chất trái ngược với luật tự nhiên,
với trật tự công cộng và các quyền căn bản của con người,
thì không thể đem lại công ích cho những quốc gia đang theo
thể chế đó” (GLCG # 1901).
Như vậy, nếu một
thể chế nhà nước vừa không do người dân chọn lựa lại vừa
trái với luật tự nhiên, thì thế chế ấy không xứng đáng để
tồn tại.
62. Thông điệp
nào nêu rõ nguyên nhân và mối nguy hiểm của nhà nước độc
tài?
Trong thông điệp
Centesimus Annus, ĐGH Gioan Phaolô II đã nói rất rõ
và mạnh mẽ rằng: Trong thời hiện đại, chế độ độc tài dưới
chủ nghĩa Marxit- Lenin… duy trì quan điểm rằng họ không mắc
sai lầm và vì thế trở nên kêu căng thi hành quyền lực một
cách tuyệt đối…Nguyên nhân sâu xa của chế độ độc tài trong
thời hiện đại là vì họ khước từ sự nhìn nhận phẩm giá siêu
việt của con người như là hình ảnh của Thiên Chúa. Vì con
người là chủ thể của các quyền nên không một cá nhân nào,
tập thể nào, giai cấp nào, dân tộc hay quốc gia nào có quyền
xâm phạm các quyền này được…
Đối với những nhà nước hay
đảng phái tự cho rằng mình có sứ mạng lịch sử dẫn đầu [mọi
người] đến sự hoàn thiện, và tự đặt mình lên trên các giá
trị khác, thì các nhà cầm quyền này cũng không chấp nhận các
tiêu chuẩn khách quan về sự thiện và sự ác vượt ra khỏi ý
chí của họ. Vì như các tiêu chuẩn này, trong những hoàn cảnh
nhất định sẽ xét xử các hành động của họ. Đó là lý do tại
sao nhà nước độc tài tìm mọi cách để tiêu diệt Giáo hội, hay
ít nhất cũng làm cho Giáo hội trở nên phục tùng và trở thành
cộng cụ trong cơ cấu ý thức hệ của nó (cf. Centesimus
Annus, # 44–45).
63. Theo HTXH, chúng ta hiểu
như thế nào là dân chủ ?
Giáo hội
đề cao thể chế dân chủ là vì nó bảo đảm sự tham gia của
người dân vào việc lựa chọn thể chế chính trị, bảo đảm được
việc điều hành chính phủ và có thể thay đổi nó một cách bình
yên khi phù hợp. Nhưng Giáo hội không thể khuyến khích việc
hình thành các tổ chức nhằm chiếm đoạt quyền hành vì tư lợi
cá nhân hay mục đích ý thức hệ. Như thế, nền dân chủ thực
thụ chỉ hiện diện trong một quốc gia khi quốc gia ấy tôn
trọng luật pháp và có những quan niệm đúng đắn về nhân vị
con người (cf. Centesimus Annus, # 46).
Mặt khác,
dân chủ không thể bị thần tượng hóa đến mức như là sự thay
thế cho nền đạo lý hoặc như một thần dược cho sự vô luân.
Thực ra, dân chủ là một “hệ thống” và như là một phương tiện
chứ nó không phải là cùng đích. Giá trị luân lý của nó không
mang tính tự động, nhưng phụ thuộc vào sự tuân theo luật
luân lý, mà như tất cá các hình thức cư xử khác của con
người là chủ thể. Nói cách khác, luân lý dân chủ được quyết
định bởi hậu quả luân lý mà nó theo đuổi và phương tiện mà
nó sử dụng (cf. Evangelium Vitae, # 70).
64. Hậu quả của một nền dân
chủ không giá trị sẽ ra sao?
Một nền
dân chủ không giá trị là một nền dân chủ không dựa trên sự
thật và phẩm giá con người. Thực vậy, nếu không hướng đến sự
thật trọn hảo, thì các hoạt động chính trị, các tư tưởng và
giáo điều dễ dàng bị nhào nặn nhằm mục đích bảo vệ quyền
lực. Như lịch sử đã chứng minh, nền dân chủ không có giá trị
sẽ dễ dàng biến thành một chủ nghĩa độc tài biến dạng. Vì
thế, mọi lãnh vực của cá nhân, gia đình, xã hội, luân lý cần
phải được đặt trên nền tảng sự thật và mở lòng trong sự thật
để hướng đến sự tự do chân thật (cf. Veritatis Splendor,
# 101).
65. Bằng chứng nào cho thấy
một nhà nước có dân chủ thật sự?
Thông
điệp Tin Mừng Sự Sống giúp cho ta thấy bằng chứng nền
dân chủ của một quốc gia có thật hay không: [Một quốc gia]
“sẽ không có một nền dân chủ thực sự nếu sự nhận thức về
phẩm giá và quyền của mỗi người không được nhìn nhận; và dĩ
nhiên, ở nơi đó cũng sẽ không có hòa bình nếu sự sống không
được bảo vệ và ủng hộ” (Evangelium Vitae, # 101). Rõ
ràng, bất cứ ở nơi đâu chính quyền không tôn trọng phẩm giá
con người và không bảo vệ sự sống con người thì ở nơi đấy
không có nền dân chủ thực sự.
Br. Huynhquảng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ALEXANDRE SOLJENITSYNE, CHỨNG NHÂN CỦA LƯƠNG TRI
|
Các nền văn minh và các thể
chế chính trị rồi cũng qua đi với thời gian; nhưng nhân tính
và lương tri vẫn luôn tồn tại. Alexandre Soljenitsyne không
phải chỉ là một nhà văn hóa ý thức được chân lý vĩnh viễn
đó, nhưng còn hơn thế nũa, ông đã vươn mình lên trên các nhà
tư tưởng đương thời để đóng vai trò chứng nhân cho phẩm giá
và tự do đích thực của con người.
Trong cuốn “Quần đảo Goulag”,
Alexandre Soljenitsyne, một chứng nhân và cũng là tiếng nói
của lương tri trong thế kỷ 20, diễn tả phần vụ chứng nhân
cho chân lý để hoàn thành nhân tính qua câu nói ngắn gọn,
nhưng dứt khoát : “Cứ câm nín trước tội ác, cứ để nó thấm
nhập vào thân thể chúng ta, cứ như thế là chúng ta đang thực
sự gieo rắc điều ác”.
Điều ác nguy hại không phải
chỉ vì nó là ác, nhưng điều ác tác hại khi nó được che đậy
và biện minh. Điều ác không phải chỉ đáng trách cứ lên quan
đến kẻ gieo rắc sự ác, nhưng còn do kẻ bao che nó. Năm 1974,
trước khi bị trục xuất khỏi quê hươngđể kéo lê 20 năm lưu
đày trên đất khách, Soljenitsyne đã gởi ra một thông điệp
tối hậu không những cho người Nga mà còn cho cả nhân loại:
“Chìa khóa đơn giản và dễ tìm nhất cho việc giải phóng mà
cho đến nay chúng ta cố ý lờ đi chính là đừng để cá nhân
mình tham dự vào sự dối trá”.1
Chính vì là phát ngôn của
tiếng nói lương tri, tiếng nói không thuộc về một nên văn
minh nào, một thể chế chính trị nào, nên Soljenitsyne không
chỉ dừng lại ở khung Trời Đông cộng sản kinh hoàng để có thể
câm nín trước tai họa của Phương Tây vô hồn đang quên lãng
chiều sâu tâm linh của nhân tính. Năm 1978, khi vừa đến tỵ
nạn tại Hoa Kỳ, Soljenitsyne đã làm sửng sốt ngay cả những
người ái mộ ông trong đại giảng đường Đại học Harvard bằng
những lời cảnh báo nặng nề dành cho một xã hội duy vật, cá
nhân chủ nghĩa, thiếu nền tảng và sức mạnh đạo đức. Theo
ông, Phương Tây ấy đang lẫn lộn tài vật với Thiện hảo, tiền
tài thay cho hòa hợp, hưởng thụ thay cho hạnh phúc.
Alexandre Soljenitsyne không
phải chỉ là một đại văn hào của nước Nga, một cây bút sắc
bén đã chặt đứt rễ cây nuôi sống một chế độ phi nhân, nhưng
hơn thế nữa, ông còn là nhà tư tưởng tiên tri, phát ngôn cho
Lời muôn thủa thắp sáng ý nghĩa sâu kín của nhân tính. Nhà
sử học chuyên khoa về nước Nga và cũng là tổng thư ký của
Hàn Lâm Viện Pháp quốc, nữ văn sĩ Hélène Carrère d'Encausse,
đã nhận định về nhà tư tưởng ngoại hạng nầy khi hay tin ông
tạ thế trong đêm tối chủ nhật 3 rạng sáng ngày thứ hai 4
tháng 8 năm nay rằng: “Điều đáng lưu ý là, cùng với cung
cách rất Nga, Alexandre Soljenitsyne là hiện thân cho khía
cạnh đạo đức con người đối diện với gông cùm của một chế độ
độc tài. Công trình sáng tác to lớn của ông, nguồi cảm hứng
thi ca của ông gần với văn hào Tolstoi, còn về chiều sâu tư
tưởng ông đứng ngang hàng với Dostoievski. Đối với ông,
chính con người mới là điều đáng được lưu ý, phẩm giá con
người trên tất cả”.2
Qua kinh nghiệm sống của từng
cá nhân và tập thể, cũng như người Nga, người Việt đồng cảm
được sứ điệp về nhân phẩm và tự do mà Soljenitsyne suốt đời
tranh đấu và rao giảng. Nhưng bao giờ chân lý và ước mơ đó
trở thành hiện thực trên quê hương Việt Nam?
Định
Hướng Số 53
1 A. Soljenitsyne, Les droits
de l'écrivain, Paris, Seuil, 1974, p.44
2 Cf. Le Figaro, ngày 4 tháng
8 năm 2008 |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐẠO CÔNG GIÁO VỚI VĂN HOÁ VIỆT
|
Đạo Công
giáo du nhập vào nước ta từ đầu thế kỷ XVI. Các sử gia Công
giáo lấy mốc năm 1533 vì có ghi trong Khâm định sử thông
giám cương mục. Nhưng tư liệu này không chắc chắn vì ghi
theo “ dã sử”. Hơn nữa, giáo sĩ Inikhu nói ở sách này, cho
đến nay vẫn không ai rõ tung tích. Đồng thời cả trong phần “
cương” và “mục” của sách trên cũng nói rằng, “ trước đã có
lệnh cấm rồi”. Chứng tỏ tôn giáo này có trước cả thời điểm
1533. Tuy nhiên, có thể khẳng định chắc chắn, đạo Công giáo
đã có nhiều đóng góp với văn hoá Việt.
1. Trước hết, đạo Công giáo là
cầu nối giao lưu giữa văn hoá Việt Nam và thế giới.
Đạo Công
giáo ra đời từ Tiểu á nhưng lại phát triển mạnh ở châu Âu
nên khi vào Việt Nam, nó cũng mang theo cả văn hoá, văn minh
phương Tây vào theo. Thông qua Công giáo, người dân Việt Nam
được thưởng thức những bản nhạc bất hủ của thế giới như Ave
Maria, Holly Night, Jingle bell hay các hoạ phẩm Bữa tiệc
ly, Đức Mẹ đồng trinh của các hoạ sĩ thiên tài L.Vinci,
Raphael. Rồi những kiến trúc nhà thờ độc đáo kiểu gotic,
roman, basilique của phương Tây cũng đã xuất hiện khắp nơi
trên dải đất hình chữ S.
Trong số
những nhà truyền giáo buổi đầu, không ít người được đào tạo
bài bản trong các dòng tu, học viện phương Tây nên họ cũng
là những nhà khoa học tinh thông nhiều lĩnh vực. Alexandre
de Rhodes (Đắc Lộ) năm 1627 đã mang biếu Chúa Trịnh chiếc
đồng hồ chạy bằng bánh xe và cuốn Kỷ hà nguyên bản của nhà
toán học Euclide, đồng thời giảng giải cho Trịnh Tráng
nghe. Giáo sĩ Badinoti ( người ý) năm 1626 cũng được vời về
phủ chúa để giảng về thiên văn, địa lý và toán học. Các giáo
sĩ Da Coxta, Langerloi đã mang vào Đàng Trong phương pháp
chữa bệnh theo lối Tây y nên được nhà chúa cho mở nhà thương
( bệnh viện). Có hai giáo sĩ là J.B Sanna ( người ý) và
S.Piere (người Bồ) được phong ngự y dưới thời Minh Vương.
Các giáo sĩ cũng phổ biến kỹ thuật dệt vải mịn và khổ rộng
bằng khung dệt mang từ nước ngoài vào để sản xuất tại dòng
Mến Thánh giá Di Loan ( Quảng Trị) và sản phẩm đã được trưng
bày tại hội chợ Paris năm 1867. Kỹ thuật in ấn của ta trước
đây là bản khắc gỗ rất lâu công. Các giáo sĩ đã đưa kiểu in
bằng con chữ đúc đồng hay chì. Nhà in Vĩnh Trị thời Giám mục
Jacques Longer (1752-1831) đã sử dụng kỹ nghệ mới về nghề
in. Người ta cũng ghi nhận chính các giáo sĩ đã đưa giống
cừu vào Phan Rang để nuôi và linh mục Henry cũng là người
đầu tiên đưa cây phi lao về trồng ở xứ Hà úc ( Huế)…
Mặc dù
sinh trưởng ở phương Tây nhưng nhiều giáo sĩ lại rất coi
trọng văn hoá Việt. Linh mục Bunzomi, người đặt chân lên đất
Đàng Trong ngày 18-1-1615 nhận xét: “ Nhờ Khổng giáo, xã hội
và gia đình Việt Nam đã có một tổ chức rất cao, người dân
Việt Nam có những đức tính và phong tục rất đáng khâm
phục”(1). Đắc Lộ thì khen cả pháp luật nước ta lúc đó “
không rườm rà, lôi thôi”, các lương y của Việt Nam thì
“chẳng thua gì các bác sĩ của ta và hơn nữa trong một vài
môn, họ giỏi hơn nữa…họ luôn dùng ba ngón tay để bắt mạch và
thực ra họ rất thành thạo. Thuốc của họ không khó uống và
thứ đắt nhất cũng chẳng giá hơn 5 xu” (2). Khi in ấn các tác
phẩm của mình ra nước ngoài như Từ điển Việt- Bồ – La,
Hành trình truyền giáo, Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài của
Đắc Lộ hay Truyện xứ Đông Kinh của Bunzomi, Từ điển Việt –
La, La- Việt của P.de Behaine và Tabert, Di tích lịch sử
Quảng Bình, Lũy Thày Đồng Hới của L. Cadiere…Thế giới phương
Tây đã biết đến Việt Nam và chắc không ít người cũng đã
ngạc nhiên như Đắc Lộ: “Tôi không biết vì sao đất nước rất
xinh đẹp này lại không được biết tới, vì sao các nhà địa lý
châu Âu không biết tên gọi và gần như không ghi trong bản đồ
nào cả. Tuy họ chép đầy đủ tên các nước trên thế giới” (3).
Chính các
giáo sĩ cũng đã giới thiệu cách làm kinh tế mới như rẻ mua,
đắt bán, cho vay lấy lãi vừa phải và nhiều ghi chép của họ
còn là bằng chứng về chủ quyền của nước ta ngày nay. Ví dụ,
Giám mục J.Louis Tabert viết trên tạp chí Journal of the
Royal Asian society of Bengal tháng 9-1837 như sau: “ Quần
đảo Panacels mà người Việt gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa gồm
nhiều đảo chằng chịt với những đảo nhỏ và bãi cát mà các nhà
hàng hải khiếp sợ một cách chính đáng do người Việt xứ Đàng
Trong chiếm cứ…Năm 1816, vua Gia Long cắm cờ trên quần đảo
này”.
2- Công giáo với việc xây dựng
chữ Quốc ngữ
Chữ Quốc
ngữ là công trình tập thể của nhiều giáo sĩ nước ngoài với
sự cộng tác của người Việt. Dĩ nhiên mục đích của các nhà
truyền giáo lúc đầu là để truyền giáo được dễ dàng hơn nhưng
nó lại phù hợp với tiến trình phát triển và tinh thần độc
lập, tự cường dân tộc nên các chí sĩ của phong trào Đông
kinh nghĩa thục coi đó là “ một trong sáu phương kế để mở
mang dân trí”. Nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm nhận xét:
“Các giáo sĩ người Âu đặt ra chữ quốc ngữ, chủ ý là có được
một thứ chữ để viết tiếng ta cho tiện và dùng cho việc
truyền giáo cho dễ. Không ngờ rằng, vì thế lịch sử xui
khiến, chữ ấy nay đã thành văn tự phổ thông cho cả dân tộc
ta. Đành rằng, cũng như các công trình do người ta sáng tạo
ra, thứ chữ ấy cũng có vài khiếm khuyết điểm, nhưng ta nên
nhận rằng, ở trên hoàn cầu này không có thứ chữ nào tiện lợi
và dễ học bằng thứ chữ ấy”(4). Thành công của chiến dịch
“diệt giặc dốt” sau cách mạng tháng 8-1945 và cả việc học
sinh, sinh viên Việt Nam ngày nay dễ dàng học ngoại ngữ, tin
học càng khẳng định vai trò của chữ Quốc ngữ.
Cũng cần
nói rõ thêm là việc Hội Trí Tri cho dựng bia ghi công của
Đắc Lộ trước đền Bà Kiệu ( Hà Nội) năm 1941 và dịp sinh nhật
lần thứ 400 của ông, tên Đắc Lộ đã được trả lại cho một
đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh, rồi tấm bia trên sau một
thời gian lưu lạc ở bờ đê sông Hông và bị một người dân lấy
về làm cầu ao đã được Nhà nước đề nghị cho dựng lại ở Thư
viện Quốc gia (tiếc rằng đến hôm nay nó vẫn còn nằm trong
kho ở công viên Thống Nhất) không có nghĩa nói rằng chỉ Đắc
Lộ là người duy nhất có công trong việc sáng tạo ra chữ Quốc
ngữ. Vậy mà một số người như ông Bùi Kha cố tình vu cáo rằng
Nhà nước Việt Nam đã “ tôn vinh nhầm một tên gián điệp, đạo
văn…”. Lý do như ông Bùi Kha đưa ra là Đắc Lộ có qua Pháp
gặp vua Pháp và Pina mới là có công đầu với chữ quốc ngữ
(5). Thật lạ, chẳng lẽ cứ qua Mỹ như ông Bùi Kha là làm gián
điệp cho Mỹ cả hay sao? Còn chuyện Pina thì Đắc Lộ đã nói rõ
trong cuốn Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài khi in bằng tiếng ý
năm 1650, tiếng Pháp năm 1651 và tiếng Latinh năm 1652 rồi.
Liên quan
đến vai trò chữ Quốc ngữ, cũng có người cho rằng do thứ chữ
này mà đạo Công giáo đã làm đứt đoạn văn hoá dân tộc vì
người dân phải từ bỏ chữ Hán, chữ Nôm. Điều này cũng không
chính xác. Bởi vì chỉ sau khi chính quyền bảo hộ từ năm
1910, buộc dùng chữ Quốc ngữ trong thi cử và giấy tờ hành
chính thì chữ Hán , chữ Nôm mới mất vị trí phổ thông. Nhưng
trong nhiều chủng viện Công giáo, các chủng sinh vẫn buộc
phải học chữ Hán, chữ Nôm và rất nhiều ấn phẩm Công giáo
được ghi bằng thứ văn tự này như Majorica (1591-1656) đã để
lại 45 tác phẩm chữ Nôm với khoảng 1,2 triệu chữ. Cuốn Thánh
giáo kinh nguyện bằng chữ Nôm vẫn được in tại Hà Nội năm
1929.
Chúng tôi
không tán thành việc đề cao quá mức sự kiện xuất hiện chữ
Quốc ngữ nhưng cũng không tán thành ý kiến cho rằng “ sở dĩ
mấy con rồng Đông Nam á trở thành rồng vì họ vẫn dùng chữ
Hán đến ngày nay” (6). Bởi văn tự không phải là nhân tố
quyết định sự phát triển của một đất nước. Thế nhưng chỉ một
hiện tượng, nhiều giáo sĩ có chủ trương latinh hoá tiếng bản
xứ như ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên nhưng chỉ có Việt
Nam là thành công, đã chứng tỏ tài năng của những người sáng
lập chữ Quốc ngữ và kể cả sự nhanh nhạy nhìn xa của dân tộc
Việt Nam nữa.
3- Văn hoá Công giáo làm phong
phú văn hoá Việt
Tôn giáo
là một thành tố quan trọng của văn hoá và bản thân tôn giáo
cũng là văn hoá nên việc đạo Công giáo vào Việt Nam đã làm
phong phú cho văn hoá Việt không chỉ thêm một tôn giáo mới
mà còn bổ sung rất nhiều sắc thái mới khác nữa.
Công giáo
là một đề tài mới cho văn học nghệ thuật nên đã có nhiều tác
phẩm mới ra đời như Giáng sinh của các hoạ sĩ Nguyễn Gia
Trí, Nguyễn Văn Chung và của nhiều nhạc sĩ, nhà văn khác như
Văn Cao, Phú Quang, Chu Văn, Nguyễn Khải…Dòng văn học Công
giáo cũng xuất hiện rất sớm với Truyện thày Lazaro Phiền của
Nguyễn Trọng Quản in năm 1887- được coi là truyện vừa đầu
tiên của văn học nước ta lấy trạng thái tâm lý làm đối tượng
miêu tả. Rất nhiều tác giả người Công giáo cũng để lại dấu
ấn của mình trên văn đàn như Hàn Mặc Tử, Hồ Dzếnh, Nguyên
Hồng, Bàng Bá Lân…Cả một kho tàng ca dao, tục ngữ Công giáo
cũng đã được lưu hành để phản ánh về phong tục, tập quán của
cộng đoàn này. Ví dụ các câu ghi kinh nghiệm sản xuất:
- Lễ
Rosa (7-10) thì tra hạt bí
Lễ Các
thánh (1-11) thì đánh bí ra.
- Lễ
Các thánh gánh mạ đi gieo
Lễ Sinh
nhật (25-12) giật mạ đi cấy…
Tranh
tượng, thánh ca, kiến trúc, lễ hội Công giáo cũng làm thành
một “trường phái”riêng đóng góp vào vườn hoa rực rỡ sắc màu
của văn hoá Việt. Bây giờ lễ Valentin, Noel đâu còn phải là
của riêng người Công giáo mà đã là lễ hội chung của rất
nhiều người Việt nhất là giới trẻ. Báo chí Công giáo như tờ
Nam Kỳ địa phận xuất hiện ở Sài Gòn ngày 26-11-1908 là một
trong những tờ báo bằng chữ Quốc ngữ sớm nhất ở nước ta.
Những nhà báo Công giáo như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của
là những người đã đưa lối làm báo “ nói viết như thường” từ
phương Tây vào Việt Nam qua tờ Gia định báo. Sang đầu thế kỷ
XX, không giáo phận, dòng tu Công giáo nào không có báo
riêng. Có tờ rất nổi tiếng như tờ Vì Chúa của linh mục
L’Abbe Thích ở Cửa Tùng mà Phan Bội Châu thường cộng tác.
Các tờ báo Công giáo ở miền Nam trước 4-1975 như Sống đạo,
Đất nước, Đối diện, Chọn, Tin mừng hôm nay…cũng góp nhiều
tiếng nói cho cuộc đấu tranh chô công bằng, tự do và dân
chủ.
Cũng
không thể không nói đến những danh nhân văn hoá người Công
giáo như Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Nguyễn Trường Tộ (1830-
1871), Đắc Lộ (1593-1660), L.Cadiere (1869-1955), Hàn Mặc Tử
(1912-1940)…và chắc viết về mỗi người thì không thể nói hết
trong vài trang giấy được. Ngay cả các nhà nghiên cứu về
Công giáo hiện nay, không ai là không phải đọc các tác phẩm
của các tác gia Công giáo như Bùi Đức Sinh, Trần Tam Tỉnh,
Kim Định, Thanh Lãng, Hoàng Sĩ Quý, Đỗ Quang Chính…Cũng
chính các tác gỉa này cùng với đạo Công giáo đang là một
kênh quan trọng để giới thiệu hình ảnh đất nước con người
Việt Nam ngày nay ra thế giới. Một chuyến đi của Hồng y
Crescenzio Sepe – Tổng trưởng Bộ Truyền giáo qua Việt Nam
cuối năm 2005 chắc chắn sẽ hữu ích hơn cả hàng trăm bài giới
thiệu về Việt Nam với bạn bè quốc tế.
4- Giáo lý Công giáo góp phần
xây dựng lối sống lành mạnh trong xã hội
Cũng như
nhiều tôn giáo khác, đạo Công giáo cũng luôn buộc các tín
hữu phải sống lành mạnh, hướng thiện. Giáo lý Công giáo
không chỉ cấm giáo dân làm điều ác mà cấm cả suy nghĩ không
lành mạnh, trong sáng như ước ao chiếm dụng của cải, vợ
chồng của người khác ( điều răn thứ 9). Có nghiã là ngăn
chặn tội ác từ trong ý nghĩ. Hôn nhân một vợ một chồng cũng
là tiến bộ của xã hội và của giáo lý Công giáo. Theo số liệu
của Toà án nhân dân tối cao, mỗi năm trước 1982 nước ta có
trung bình 5672 vụ ly hôn. Năm 1991 tăng lên 22000 vụ, năm
1994 có 34376 vụ. Năm 1995 có 35684 vụ. Trong khi đó, ở làng
Công giáo Trung Thành ( Hải Vân Hải Hậu, Nam Định), nơi có
6000 giáo dân sinh sống mà suốt 5 năm 1990-1995 chỉ có 2 cặp
ly thân. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với người ngoài Công giáo
đến với tôn giáo này.
Đạo Công
giáo cũng cổ vũ cho các hoạt động bác ái, từ thiện nên các
tấm gương của các nữ tu ở các trại phong cùi, chăm sóc bệnh
nhân HIV/AIDS, chất độc màu da cam đã được xã hội tôn vinh
như nữ tu Nguyễn Thị Mậu 40 năm ở trại phong Di Linh ( Lâm
Đồng) đã được phong anh hùng lao động. Chị Nguyễn Thị Mai (
Quảng Bình) dũng cảm cứu người trong trận lũ lịch sử ngày
26-4-2004 và hy sinh đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu
liệt sĩ. Còn vợ chồng anh Tống Phước Phúc ở Nha Trang đã
giúp đỡ nhiều cô gái lỡ mang thai được mẹ tròn con vuông và
làm hẳn nghĩa trang cho hàng ngàn thai nhi đã được Chủ tịch
nước Nguyễn Minh Triết gửi thư khen…Nếu trước đây, giáo hội
cấm đoán giáo dân không được rượu chè, cờ bạc, dâm dật thì
ngày nay lại ra sức mời gọi mọi người ngăn chặn nạn nghiện
hút, sự đổ vỡ của gia đình cũng như phải chăm lo giáo dục
con cái. Chính điều này đã làm cho cuộc sống ở những vùng
đông giáo dân an bình, đỡ tội phạm hình sự hơn. Người Công
giáo không chỉ tích cực tham gia các hoạt động bác ái mà con
số cũng không nhỏ (Ví dụ Uỷ ban bác ái xã hội của HĐGMVN từ
2001-2007 đã trợ giúp 24,5 tỷ đồng cho các chương trình từ
thiện) mà còn chủ động góp công của xây dựng quê hương như
xã Quỳnh Thanh ( Nghệ An) nơi có hơn 11.300 người Công giáo
sinh sống thì 26,2% kinh phí xây dựng cơ bản tại địa phương
( làm trường, đường, trạm y tế, nhà máy nước…) là của các
linh mục . Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc hội kiến với
Giáo hoàng Benedicto XVI tại Vatican ngày 25-1-2007 đã nhận
xét: “ ở Việt Nam, cộng đồng những người Công giáo là một
cộng đồng năng động, kính Chúa, yêu nước và có những đóng
góp tích cực trong việc xây dựng và phát triển đất nước”.
Rõ ràng,
đạo Công giáo đã để lại nhiều dấu ấn trên văn hoá nước ta và
đây là điều người Công giáo Việt Nam có thể tự hào. Dĩ
nhiên, không có sự tác động nào đơn phương một chiều cả.
Giống như lửa thiêu cháy củi thì củi cháy lại làm cho ngọn
lửa bốc cao hơn nên Công giáo ảnh hưởng đến văn hoá Việt Nam
thì văn hoá Việt Nam cũng biến đổi tôn giáo này ngày càng
gần gũi với văn hoá Việt. Đây là một đề tài thú vị mà chúng
tôi hy vọng có thể trình bày trong một dịp khác.
---------------------
Chú
thích:
* TS Đại
học Đông Đô
1-
Nguyễn Hồng- Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, tập 1, SG Hiện
Tại, 1959.
2- A.
Rhodes: Hành trình truyền giáo, Tủ sách Đại kết 1994, tr.89
3-
A.Rhodes: Hành trình…sđ d, tr.143.
4- Việt
Nam văn học sử yếu, Sài Gòn 1960, tr.180
5- Bùi
Kha: Alexandre de Rhodes và những nhầm lẫn đáng tiếc, Tạp
chí Huế xưa và nay, số 7-8 năm 2004, tr.55.
6- Xem
Nguyễn Hưng: Sơ thảo thư mục Hán Nôm Công giáo VN, Lưu hành
nội bộ năm 2000, tr.13
Tiến sĩ Phạm Huy Thông |
VỀ MỤC LỤC |
|
LỜI CẦU TRONG CƠN ĐAU
|
(Xin dâng
lời cầu và hiệp thông cùng tất cả các gia đình và cộng đoàn
có thành viên trong tai nạn thảm khốc tại Sherman, trên
đường đi Ngày Thánh Mẫu 2008)
Đoàn con
hiền thảo, dặm đường xa
Nô nức về
nơi tháp báu ngà
Lòng trĩu ưu
tư, tìm dẫn dắt
Hưởng nguồn
thiên phúc, Chúa bao la
Hung tin vụt
đến, nghẹn lời ca
Hiệp nhất
muôn tim, lệ thấm nhoà
Mẹ hẳn thấu
tình con thảo hiếu
Cúi đầu vâng
ý nhiệm mầu Cha.
Cõi lòng
hiền mẫu, Ma ri a
Cầu Chúa ủi
an lúc xế tà
Thống khổ
cõi trần còn rướm máu
Vết thương
hằn dấu trên mình da
Lòng con đến
với Mẹ thương yêu
Như những
đoá hoa thật mỹ miều
Diệu vợi
đường dài con vội vã
Cánh kia bay
bổng đến huyền siêu
Truân chuyên
lữ thứ, bước trần gian
Cõi sống
vĩnh hằng, phúc vượt ngàn
Kiên vững
niềm tin thờ kính Chúa
Bước đường
thánh giá chẳng từ nan
L.M. Tân
Trần
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MẸ VỀ TRỜI SAO
CÒN XUỐNG ĐỂ KHÓC?!
|
Ngày 15 tháng 8 hằng năm, Giáo Hội Công Giáo khắp hoàn vũ
long trọng mừng kính biến cố vô cùng trọng đại và vinh dự
của Đức Maria, đó là việc Mẹ được Thiên Chúa cho về trời cả
hồn lẫn xác. Trên nơi cao thẳm ấy, Mẹ được tôn phong làm Nữ
Vương trời đất, để cùng với Chúa Giêsu, Mẹ cầu bầu cho con
cái Mẹ còn đang sống giữa ba đào trần gian.
Qua vai trò Nữ Vương và với lòng yêu thương con cái, đôi lần
xẩy ra trong lịch sử Giáo Hội và nhân loại, Mẹ đã từ trời
xuống lại trần gian hiển lộ để thông báo, cảnh tỉnh, hoặc
phù trợ con cái loài người. Thí dụ, Mẹ đã hiện ra tại Lộ Đức
để mặc khải cho nhân loại biết về đặc ân cao cả mà Chúa đã
ban cho Mẹ, đó là đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Hoặc như lần
Mẹ hiện ra tại Fatima ban cho nhân loại phương thức để biến
đổi thế giới, cải thiện lòng người hầu tránh những đại họa
mà Thiên Chúa công thẳng muốn giáng phạt loài người, đó là
chủ thuyết Cộng Sản vô thần. Riêng tại Việt Nam, trong thời
kỳ bách hại, người Công Giáo Việt Nam cũng được Mẹ thương
hiện ra tại La Vang để an ủi, và khích lệ.
Gần đây nhiều người đã nô nức, chen lấn nhau mong được nhìn
tận mắt những giọt lệ trên gò má của Mẹ tại trước Vương Cung
Thánh Đường Saigòn, trên núi Tàpao, và tại Bạch Lâm. Nước
mắt chảy ra trên gò má Mẹ, nước mắt thắm lệ và hóa thành
máu, chuỗi hạt trên tay Mẹ lónh lánh như những hạt sương, và
áo Mẹ tung bay trước gió. Những sự kiện trên đã được quay
thành phim và phổ biết khắp năm châu trên các màn điện
toán. Vậy, là những Kitô hữu, nhất là những Kitô hữu có
lòng yêu mến và sùng kính Mẹ, chúng ta phải nhìn những biến
cố này như thế nào?
Phải chăng đây là những biến cố được xây trên những cảm tình
bồng bột, và được thêu dệt thêm bằng ảo tưởng, ảo ảnh và áo
giác?! Hay phải chăng đây chỉ là những tác dụng của tâm lý
quần chúng? Hoặc có thể, đây là chỉ những dụng ý của kẻ thù
Thiên Chúa muốn nhân những cơ hội này làm lung lạc Đức Tin,
dẫn niềm tin chúng ta vào những suy tư tình cảm, mê tín để
rồi khi những cảm tình, lòng sốt sắng nhất thời qua đi,
chúng ta lạc mất niềm tin, hoặc giảm sút lòng yêu mến đối
với Mẹ. Thật ra, không phải đợi cho đến bây giờ mà ngay từ
thời Chúa Giêsu, Ngài cũng đã cảnh tỉnh con người như
sau:
“Hãy coi chừng đừng để mình bị lừa gạt. Vì sẽ có nhiều người
nhân danh Thầy mà nói: “Chính ta là Đức Kitô” và lừa gạt
nhiều người. Các con sẽ nghe nói về chiến tranh và những lời
đồn đãi về chiến tranh, nhưng đừng xao xuyến. Vì những
chuyện đó cần phải xẩy ra trước, nhưng chưa phải là hết
thời. Quốc gia này sẽ dấy lên chống lại quốc gia khác và dân
này sẽ đánh lại dân kia. Sẽ có đói khổ, động đất khắp nơi.
Mọi chuyện ấy là khởi điểm như những đau đớn của việc chuyển
bụng. Người ta sẽ nộp các con để bị đánh đòn, và giết các
con. Các con sẽ bị mọi dân tộc ghét bỏ vì danh Thầy. Và bấy
giờ họ sẽ vấp ngã, thù ghét và phản bội nhau. Sẽ có nhiều
tiên tri giả lừa gạt nhiều người. Vì sự dữ gia tăng nên lòng
mến của nhiều người sẽ nguội lạnh. Nhưng ai bền đỗ đến cùng
sẽ được cứu rỗi” (Mt 24:4-13).
Đức Tin dậy chúng ta rằng, sau khi Giáo Hội đã đóng sổ kho
tàng Mặc Khải bằng cuốn Khải Huyền của Thánh Gioan, thì mọi
mặc khải phổ quát đều được chấm dứt. Có nghĩa là những gì
Thiên Chúa muốn tỏ lộ và nói với con người nhân danh tình
yêu và vì phần rỗi nhân loại thì đã được Ngài thực hiện
xong. Tuy nhiên, cũng vẫn theo Thánh Kinh, qua lời dậy của
Thánh Phaolô, thì những lần hiển lộ đó đây với người này,
người kia vẫn được Thiên Chúa dùng như những tiếng nhắc nhở
có liên quan đến phần rỗi của một số người, hoặc chung cho
nhiều người. Thánh Phaolô đã trình
bày về giáo lý này tương tự như những lời tiên tri và cho
rằng không nên từ chối, nhưng cũng không nên vội vàng, hấp
tấp, mà phải cẩn thận suy nghĩ, nghiệm xét. Từ đó, Giáo Hội
cho đây là những mặc khải tư, và không buộc tín hữu phải tin
theo nhưng để tùy lòng sốt sắng và sự đón nhận của mỗi tâm
hồn.
Năm 1917 tại Fatima, hoặc tại Lộ Đức hơn 150 năm trước, hay
ngay tại La Vang hơn 300 năm ngay trong thời gian những Kitô
hữu Việt Nam bị bách hại, những lần hiện ra đó Mẹ đã nhắn
nhủ, khuyên bảo, và ban muôn ơn lành cho những tâm hồn thiện
tâm muốn đón nghe sứ điệp của Mẹ. Những cảm tính thuộc lãnh
vực tình cảm, những gì có tính cách ồn ào, dị đoan hay mê
tín đều không tồn tại. Chính vì thế, những hiện tượng dồn
dập gần đây xẩy ra tại Sàigòn, Tàpao hay Bạch Lâm khiến
chúng ta phải suy nghĩ. Tại sao Mẹ lại khóc? Tại sao Mẹ đã
về trời, đang vinh hiển cùng với Thiên Chúa và muôn vàn thần
thánh lại còn phải xuống trần gian để khóc. Những giọt nước
mắt, những giọt máu đang chảy ra từ khóe mắt Mẹ mang ý nghĩa
gì? Phải chăng những lời khuyên nhẹ nhàng của Mẹ năm xưa tại
Fatima đã không còn sức đánh động lòng người, nên Mẹ đành
phải khóc?
Trong truyện các Thánh kể rằng một hôm Thánh Lui nước Pháp
được vị quan trong triều cho biết một phép lạ đã xẩy ra,
Thánh Thể Chúa đang bay lơ lửng trên không sau khi một linh
mục đọc lời truyền phép. Vị vua đạo đức này đã trả lời, là
nếu ai chưa tin thì đi mà xem còn mình thì vẫn tin là Chúa
Giêsu ở trong Phép Thánh Thể. Nếu vua Thánh Lui sống ở vào
thời đại của chúng ta, có lẽ ngài cũng nói với chúng ta rằng
nếu ai còn hồ nghi lòng yêu thương và sự quan tâm của Đức Mẹ
thì hãy đi mà nhìn xem những hiện tượng ấy, còn phần mình,
ngài vẫn luôn tin rằng Đức Trinh Nữ Maria luôn luôn yêu
thương và lo lắng cho mỗi người chúng ta.
Thật vậy chính Đức Tin mới làm cho chúng ta tin nhận tấm
bánh sau khi truyền phép là Thánh Thể Chúa, chứ việc con mắt
xác thịt nhìn xem vẫn không thay thế được niềm tin. Trên
khắp thế giới, cứ mỗi 4 giây là có một thánh lễ được dâng
lên, nhưng đã có bao nhiêu lần trong các thánh lễ ấy Thánh
Thể Chúa bay lơ lửng trên không. Cũng thế, chính do lòng yêu
mến, tin tưởng, và phó thác cho Mẹ mới đem lại cho chúng ta
sức mạnh cải thiện, gia tăng đức ái, và hăng say sống chứng
nhân cho Thiên Chúa theo lời Mẹ khuyên chứ không phải việc
chen lấn để được nhìn xem những giọt nước mắt lăn trên gò má
của các thánh tượng Mẹ.
Xưa trên đồi Gongotha, Mẹ đã âm thầm, can đảm đứng dưới chân
thập giá Chúa. Mẹ đã khóc thương Chúa vì bị nhân loại chối
từ và đóng đinh. Ngày nay, giữa những vong ân, bội nghĩa của
con cái loài người đối với Thiên Chúa. Và vì con người ngày
càng xa lìa tiếng mời gọi yêu thương của Chúa và Mẹ. Tiếng
mời gọi sống bác ái, yêu thương, và vâng giữ các huấn lệnh
Chúa, nên không lạ gì mà Mẹ phải khóc. Không riêng gì những
người không tin Chúa, người Công Giáo lúc này cũng đang phá
thai, cũng đi theo lối sống đồng tính và hôn nhân đồng tính,
và cũng hăm hở chạy theo những đam mê, dục vọng. Một số các
linh mục, số giám mục, và nam nữ tu sỹ đã bỏ quên không thực
hiện những lời khấn hứa: vâng phục, khiết tịnh, và khó
nghèo. Nhiều vị còn để mình bị cuốn hút bởi sức mạnh quyền
lực, danh vọng, và vì thế, đời sống tận hiến đã mất giá trị,
và gương chứng nhân đã bị vỡ nát, khiến cho người khác không
thể nhìn thấy Chúa Giêsu qua họ.
Mẹ đã về trời cả hồn lẫn xác, đang
vinh hiển bên Con Chí Thánh, nhưng nay phải xuống trần để
khóc quả là những biến cố cần chúng ta phải suy nghĩ. Không
phải bằng những cảm tình nhất thời, nhưng bằng với ánh mắt
Đức Tin để nhìn ra đâu là những sứ điệp mà Mẹ muốn giử cho
mỗi người. Người con ngoan thì không làm mẹ mình phải
khóc.
Trần Mỹ Duyệt, tiến sĩ
tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
TRUYỆN BÂY GIỜ MỚI VIẾT
|
Bây gìơ
mới viết, nhưng không phải là truyện cổ tích ngày xửa ngày
xưa 100% mà chỉ là ‘ngày xửa ngày xưa…đôi ta chung nón…’ mới
đây thôi. Vì thế cho nên… tên tuổi của những nhân vật trong
truyện được đổi để tránh phiền phức, nghi kỵ hoặc hiểu
lầm...(nhỡ ra).
Truyện tháng 4
năm 1975
Hôm ấy là
ngày 27 tháng Tư, Sài Gòn đi từ ngột ngạt sang đến lo sợ.
Chiến tranh cứ từng giờ từng phút gần lại với thủ đô như con
nước lũ điên khùng không ai cản được. Đường ra Vũng Tầu đã
bị cắt và đường về Miền Tây cũng đã bị chặn. Tin tức xấu và
những bình luận bi quan được nghe bàn khắp nơi, từ những
đuờng phố chính ngập người tỵ nạn đến các con hẻm nhỏ vắng
người. Phong và tôi đến tìm thăm Tân, ở xứ Bùi Phát, trên
đường Trương Minh Giảng. Gia đình Tân đang xúm nhau làm giấy
tờ để di tản đi Mỹ vì anh của Tân làm sở Mỹ. Công ty Mỹ cho
mỗi nhà mười người đi, nhưng nhà Tân chỉ có chín và em trai
của Tân lại vướng cô bạn gái nên không chịu đi. Thế là dư
hai chỗ. Vì phải quyết đinh và chuyển giấy tờ cấp tốc nên
Phong và tôi được ghi tên vào gia đình của Tân và nằm chờ để
được gọi ra phi trường Tân Sơn Nhất. Thật không ngờ, nhưng
tâm tư lúc ấy đang rối bời nên tôi chẳng thấy vui tí nào,
chỉ mong sao thoát ra khỏi SaiGon đang trong cơn hoảng loạn
tứ tán mà thôi.
Chẳng may
chiều hôm ấy, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích nặng nên
việc di tản của chúng tôi không thành. Chia tay nhau, Phong
nói: ‘Mẹ kiếp, đã vậy tụi mình ở lại làm chứng nhân cho
những người vô thần. Chết là cùng thôi’. Tôi im lặng và
trong đầu thoáng hiện ra những hình ảnh trong phim ‘Ánh Sáng
Miền Nam’, ‘Chúng Tôi Muốn Sống’… mà kinh hãi. Nhưng biết
làm sao được… Thôi kệ, chuyện gì phải đến sẽ đến…
Ngày 30
tháng 4, Sài Gòn thất thủ. Người chiến thắng thì vui mừng và
ngạo nghễ, còn kẻ chiến bại thì buồn tủi và căm phẫn.
Khoảng
đầu tháng Sáu sau đó, tôi trở lại Dalat tiếp tục học mặc dù
tâm tư vẫn còn rất nhiều giao động. Kinh nghiệm của các cha
giáo người nước Hungary, BaLan, và Trung Hoa Luc Địa trong
học viện… cho thấy đời sống tôn giáo không có gì sáng sủa
trong những nước cộng sản. Rất bất ổn, nhưng thấy các vị
thầy ngoại quốc vẫn bình tĩnh ở lại Việt Nam, rồi bạn bè từ
Miền Trung và Miền Tây dần dần trở lại trường nên tôi thấy
bớt lo lắng. Có những đứa bạn rất hăng say. Tôi nhớ trong
một buổi họp lớp, Khanh - gốc Qui Nhơn - đã chia sẻ: ‘Con
chó sói mà ăn thịt chiên hoài rồi cũng hiền lành ra thôi… Sợ
gì…’.
Chẳng
biết Phong và Khanh tự nghĩ ra hay lấy những ý tưởng ‘anh
hùng’ này ở đâu. Chỉ biết tuổi trẻ có những hăng say của
nó.
‘Mẹ kiếp, tụi mình
ở lại làm chứng nhân cho những người vô thần. Chết là cùng
thôi’
‘ Con chó sói mà
ăn thịt chiên hoài rồi cũng hiền lành ra thôi…Sợ gì’
Ba mươi
ba năm sau, tác giả của câu nói số một giờ này thì đang làm
linh mục tuyên úy cho một xứ đạo lớn, không phải ở Việt Nam,
mà ở bên Đức. Có lần Phong gọi điện thoại tâm sự với tôi:
‘Mẹ kiếp tụi Đức nó bỏ đạo nhiều lắm mày ạ. Nhiều nhà dòng
và chủng viện giờ này vắng tanh, chẳng còn ngoe nào tu cả …’
Phong ơi, bạn đang làm chứng nhân cho những người đang bỏ
đạo, chứ không phải cho những người vô thần như bạn dự tính.
Bạn thấy đàng nào dễ hơn’?
Còn tác
giả câu nói số hai thì cũng đang làm một linh mục giáo sư ở
Việt Nam sau hơn mười năm mang kiếp… Linh Mục… chui..
’Khanh ơi, đến giờ này thì con
chiên vẫn còn sống. Con chó sói có gặm mất của bạn miếng
thịt ba chỉ nào chưa? Và nó có hiền hơn tí nào không’?
Truyện năm
1978
Khoảng
tháng Mười năm 1975 thì toàn bộ giáo sư ngoại quốc của Giáo
Hoàng Học Viện, Dalat bị trục xuất về nước. Chúng tôi lại
một lần nữa hoang mang, nhưng vẫn bám trụ ở lại trường. Vừa
lao động vừa học. Đi phá rừng làm rẫy cách thành phố DaLat
cả 10 cây số. Trời lạnh và ăn uống rất kham khổ, nhưng vẫn
kiên trì và vui bên nhau. Đến khoảng giữa năm 1977 thì công
an Dalat ra lệnh giải tán toàn bộ nhà trường. Mỗi tu sĩ được
cấp một tấm giấy ‘về nhà làm ăn vĩnh viễn với gia đình’.
Ngao ngán lắm, nhưng hành trang trên đường ‘về thế gian’ của
chúng tôi vẫn là những thùng sách thần học. Tuổi đời vừa quá
hai mươi, tương lai thì không thấy, nhưng lòng thì vẫn hăng
say: chứng nhân, chết là cùng.
Chạy chọt
về giúp xứ đạo Rạch Giá, sau thánh lễ một buổi sáng Chúa
Nhật năm 1978, một anh bộ đội kéo tôi ra cuối nhà thờ bảo:
-
Tôi muốn nói truyện với ông
một tí.
‘Truyện
gì đây. Tôi đâu có phê bình nặng nề Ruồi Trâu hay Ngày Lễ
Thánh như cha phó Tuấn. Tôi đâu có làm trung gian vượt biên.
Tôi đâu có trốn công tác thủy lợi hay nói xấu cách mạng…’.
Thấy tôi yên lặng đi theo, anh bộ đội nói tiếp:
- Tôi hỏi
ông về đạo ấy mà.
Tôi nhẹ
người. Được. Tôi mới học xong Thần học đây. Anh muốn hỏi cỡ
nào.
Ngồi
xuống ghế đá. Anh nói ngay:
-
Các ông cha ông thầy trong nhà
thờ cứ dậy bổn đạo về Chúa. Vậy ông chứng minh là có Chúa
cho tôi xem.
Như một
học sinh vớ được bài học tủ khi vào phòng thi, bài tủ ấy lại
mới được tôi soạn để dạy đám thiếu nhi hồi tuần trước, nên
tôi thao thao chứng minh cho anh bộ đội sự Hiện Hữu của
Thượng Đế. Các lý thuyết của Thánh Augustinô, của Thánh
Tôma d’Aquin được tôi lôi hết ra sân cho anh bộ đội xem.
-
Trên đời này, anh thấy có cái
gì tự mình mà có không? Đôi dép anh mang, cái áo anh mặc đều
là do những người thợ làm ra. Cơm gạo anh ăn cũng vậy… Và
chính thân xác của anh đây nữa. Anh đâu tự mình mà có. Cha
mẹ sinh ra anh. Rồi ông bà sinh ra cha mẹ anh… và cứ thế, cứ
thế truy lên thì …Phải có một Đấng Tự Hữu sinh ra muôn loài.
Rồi anh thấy đó. Có vật gì tự mình chuyển động được không?
Con tàu chạy trên sông trước mắt kia là do cái chân vịt quay
và đẩy nước. Chân vịt quay là do động cơ nổ. Động cơ nổ là
do xăng và không khí được đốt trong buống máy. Mặt trăng
xoay quanh trái đất, và trái đất xoay quanh mặt trời được là
do đâu? Ai làm cho muôn vật sống và chuyển động? Phải có
Đấng tự mình có cái lực làm ra mọi chuyển động chứ? Anh thấy
không nào?
Anh bộ
đội vu vơ nhìn lên trời:
-
Con người ta bởi khỉ mà ra mà?
-
Chưa ai chứng minh được điều
này một cách khoa học anh ạ. Mà cho dù con người bởi khỉ mà
ra đi nữa thì cũng chẳng sao cả. Phải có Đấng dựng nên con
khỉ chứ. Con khỉ, con vượn, hay con đười ươi đâu tự mình mà
có. Biết đâu Chúa đã chẳng dựng nên con khỉ rồi một ngày cho
nó đột biến thành con người có linh hồn, có trí khôn…Điều
quan trọng là có sự can thiệp của Chúa trong các bước tạo
dựng. Cho nên tôi chẳng ngại nếu có ai bảo tổ tiên tôi là
khỉ đột, miến là Chúa đã dựng nên loài khỉ ấy…
Anh bộ
đội cũng đưa ra một mớ lý thuyết khoa học để chứng minh
không có Chúa. Tôi không nhớ hết chi tiết mình đã dùng để
‘bẻ lại’ thế nào, chỉ nhớ là rất thuyết phục vì anh nghe tôi
chăm chú, và tôi nói thêm với anh: không thể chứng minh niềm
tin bằng khoa học hay toán học được.
Sau gần
hai giờ ‘tranh luận’, thấy anh bộ đội có vẻ hơi hơi ‘đuối
lý’, nhưng vẫn còn ‘cứng lòng’ nên tôi kể cho anh nghe
truyện cá độ của Pascal về Niềm Tin và sự Thiên Chúa Hiện
Hữu: “Nếu không có Chúa và ta không tin thì chả bên nào mất
mát gì. Còn nếu không có Chúa mà ta tin thì ta cũng chả
thiệt thòi gì. Nếu có Chúa mà ta tin thì là một điều vô cùng
tốt đẹp. Còn nếu có Chúa mà ta không tin thì là một mất mát
to lớn”. Anh nghe tôi có vẻ thích thú.
Thực ra
tôi rất mến anh bộ đội và kính trọng sự thành tâm của anh.
Còn anh thì hình như cũng có cảm tình với tôi, nhưng cuối
cùng thì chúng tôi cũng chia tay nhau. Anh bộ đội bước ra
khỏi cổng nhà xứ, tay vẫn tiếp tục cầm đèn đi tìm chân lý.
Còn tôi thì thấy khô cổ và đói bụng, nhưng lòng thì khoan
khoái y như vừa làm xong bài Vạn Vật trúng tủ hồi thi Tú Tài
II ở trường Chưởng Bình Lễ, Long Xuyên ngày nào.
Cho đến
khi gặp cha phó Tuấn, Ngài bảo tôi: ‘Thầy nói gì mà hăng
thế!!’. Tôi chột dạ và thấy quê quê, rồi nghĩ lại: mình vừa
bảo anh bộ đội là không thể dùng toán học hay khoa học để
chứng minh niềm tin vậy mà mình lại muốn dùng triết lý để
chứng minh sự Thiên Chúa hiện hữu cho anh. Đúng là HUNG quá
hóa thành HĂNG quên rằng niềm tin tôn giáo chỉ có thể cảm
nghiệm chứ không thể chứng minh. Một nhà sư trên chùa Linh
Sơn Da lat đã bảo tôi thế khi ông phải tranh luận về Đạo
Phật với những người ghét đạo. Thật rõ là tôi ‘hung hăng con
bọ xít’.
Truyện năm
ngoái.
Cha Vàng
mới từ Việt Nam qua Mỹ chơi. Bạn bè với nhau nhiều năm, nhất
là trong những ngày tháng khổ cực sau năm 1975, nên khi
không có ‘người ngoài’ thì chúng tôi vẫn nói truyện với
nhau… ‘như ngày xưa’. Như ngày xưa có nghiã là chúng tôi gọi
nhau ‘ông’ với ‘tôi’ hoặc dùng bất cứ đại danh từ nào thích
hợp cho bạn bè chứ không phải Cha-Con một cách long trọng.
Hôm ấy rủ Ngài ra sân hút thuốc, tôi mở đầu:
-
Hey cha Vàng ơi, cho tui hỏi
truyện chút được không?
-
Gì nữa đây. Nói truyện với ông
cũng phải ý tứ, không thì nguy hiểm lắm. Tui mới qua Mỹ
chơi, còn lọng cọng. Ông đừng làm khó dễ đưa tui lên báo chí
nữa à nha.
-
Cái này thì có thể là hơi khó,
nhưng không nguy hiểm gì đâu.
-
Rồi. Tới luôn để còn cà phê cà
pháo nữa.
-
Cha làm linh mục đã trên dưới
20 năm rồi. Chắc chắn cha đã giảng dậy lời Chúa và rửa tội
cho rất nhiều người, nhưng hỏi thật Cha là có ai vì cha, vì
gương lành gương sáng của cha, vì lời giảng dạy của cha mà
trở lại đạo chưa?
Cha Vàng
câu giờ:
-
Ông hỏi làm chi vậy? Ông muốn
gài độ tôi gì đây. Có chứ. Nhóc gì. Mấy bà mấy cô nghe tui
giảng là đi theo đầy hết. Hi hi hi!!! Giỡn chơi thôi chứ
cũng có mấy ca, nhưng tui không hẳn là tác giả chính. Đúng
ra là do sự thân thiện, sự giúp đỡ trước đó nhiều hơn là lời
nói.
-
Cha nói đúng đấy. Của ăn và sự
giúp đỡ vật chất phải đi trước mới được. Hồi tôi ở trại tỵ
nạn Leamsing, Thái Lan và trại Galang, Indonesia cũng vậy,
rất nhiều người theo đạo Tin Lành vì được giúp đỡ về tinh
thần và vật chất. Tôi nghĩ mình là đạo gốc chứ thực ra ngày
xưa ông cố tổ của mình lúc đầu trở lại đạo chắc cũng không
phải vì được nghe giảng mà vào đạo đâu. Cho nên tôi đồng ý
là những phương tiện vật chất cũng đóng vai trò quan trọng.
Cha Danh gì ở Hà Nội mới sang đây chơi cũng đã nói: ‘Cứ
trồng chuối, nếu cây mẹ không được tốt, cây bố không được
hoàn chỉnh thì cây con, cây cháu sẽ ngon hơn’. Hơn nữa, đức
tin là việc của Chúa làm chứ đâu phải của con người…Vậy hỏi
thêm cha câu nữa nghe.
Cha Vàng
cắt ngang:
-
Ông nói hỏi chút thôi mà sao
hỏi tới hoài vậy. Mấy thằng Bắc Kỳ như ông ăn gian thấy bà…
-
Thì một chút của người Bắc là
vậy đó. Giống như Nam Kỳ của cha vậy thôi: nói ăn ba hột mà
ăn tới ba chén cơm đầy dung. Còn nói nhậu lai rai ba sợi mà
nhậu tới ba lít. Rồi nói thủng thẳng mà bắt người ta đợi từ
sáng tới chiều, có khi… cho lèo luôn. Có ai vì cha mà bỏ
Chúa, mà xa Nhà Thờ không?
-
Chà, vụ này coi bộ căng ạ. Để
tui xét mình chớ… Theo tôi biết thì không đâu. Hoặc nếu có
thì cũng vì vô tình mà thôi. Ông biết rồi sống dưới chế độ
cộng sản đâu phải dễ. Họ không ưa đạo, nhưng họ cũng là
những rào cản cho mình giữ được nhiều thứ và tránh được
nhiều gương xấu…Giáo dân cũng vậy. Một ông cha trong chế độ
cộng sản không phải làm dâu 100 họ mà là 105 họ đó ông…Muối
đang mặn mà nhạt đi hoặc đèn đang sáng mà tắt ngủm thì phiền
lắm. Cho nên tu cũng khổ lắm ông ạ.
Tôi hỏi
cha bạn những điều mà tôi đã hỏi chính tôi và đã hỏi nhiều
lần.
Nghĩ lại
thì trong một phương diện nào đó, tôi thua xa thằng cháu,
con nuôi của anh chị tôi. Nó lấy vợ ngoại, vợ nó trở lại
đạo, hai đứa con của nó cũng được rửa tội ngon lành. Trên
giấy tờ sổ sách, nó đưa tới ba linh hồn về với Chúa rồi. Còn
tôi…
Truyện hôm qua.
Tay Prak
người Ấn Độ nhiều tuổi nhất trong đám IT của tôi nên được nể
trọng nhiều nhưng đôi lúc hắn thật buồn cười. Kiến thức
chuyên môn thì hắn không mấy nắm vững, mà lại muốn tỏ ra
mình biết-hết-mọi-sự, nhất là những lãnh vực ngoài công
việc. Có lần hắn nhất định cãi là dân số Liên Xô đông thứ
nhì sau Trung Quốc cho đến khi Internet nói dân số Ấn Độ là
1.1 tỷ.
Trưa hôm
qua cả bọn đi ăn, Nakwon, người Đại Hàn hỏi: ‘Các ông có
biết hôm nay là ngày Phật Đản không?’ Dĩ nhiên tay Prak lên
tiếng trước: ‘Biết chứ, sinh nhật thứ 5000 của Đức Phật
đấy’. Rồi tiếp ‘Đức Phật là người Ấn Độ, thuộc Hoàng Tộc,
lấy vợ, sinh con rồi bỏ Hoàng Cung đi giảng đạo, sau một
thời gian Ngài biến mất’. Tôi muốn nghe Prak kể tiếp vì thấy
ngộ ngộ, nhưng vì con số quá sai biệt nên phải cãi: ‘Không
phải sinh nhật thứ 5000, mà 2550 gì đó thôi’. Còn truyện Đức
Phật gốc Ấn Độ hay Nepal, tôi không nhắc đến vì có lẽ thời
đó biên giới hai nước chưa rõ ràng. Tay Prak như hãnh diện
về Đạo Phật nên hỏi Nakwon:
-
Bên Đại Hàn có đạo nào không?
-
Có, đạo Phật, đạo Tin Lành,
đạo Công Giáo.
-
Đạo gì xa xưa thuộc dân tộc
Đại Hàn cơ?
-
Xa xưa thì có đạo thờ ông bà,
và trước đó có lẽ là những totem.
Biết
nhiều mà biết không sâu nên Prak ngô nghê hỏi lại cả đám
-
Totem là cái gì?
Nakwon
giải thích totem cho Prak xong thì Prak quay sang hỏi tôi:
-
Còn Việt Nam? Có đạo gì không?
-
Việt Nam có đạo Phật, đạo Công
Giáo, đạo Muslim, đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài… Gàn đây lại mới
có thêm đạo thờ Đô-La.
Nghe thấy
đạo thờ Đô-La, Prak lại ngây ngô hỏi ngay:
-
Vậy đạo Đô-La để cái gì trên
bàn thờ?
Cả bọn
cười ồ.
Ngồi vào
bàn, Madhavi (người Ấn phát âm không rõ tên tôi) hỏi tôi:
-
Tái, ông đến nhà thờ ngày Chúa
Nhật để làm gì?
Để kéo sự
chư ý của cả nhóm, tôi nói:
-
Để nhìn ngắm các người đẹp.
Và khi
thấy cả bàn đã chú ý, tôi nghiêm chỉnh:
-
Đùa thôi, chứ tôi đến nhà thờ
để tôn thờ Thiên Chúa là đấng tạo dựng mọi loài, trong đó có
các bạn và tôi. Cảm tạ Thiên Chúa về những điều Ngài đã ban
như sự sống, nhà xe, đồ ăn, bạn bè. Và cầu xin ơn bình an
cho mình và cho những người quen thân, cho Dipankar, cho
Jeeva, và Prakash…đây.
Vừa nói
tôi vừa nghĩ: không dễ có dịp mà nói về Chúa cho người Ấn
nên phải lợi dụng, tôi cũng nhớ lại ngày xưa đã từng HUNG
HĂNG nên tôi rất nhẹ nhàng.
Madhvi
nói tiếp:
-
Ông cũng cầu xin trước lúc ăn
nữa mà.
-
Ừ, không chỉ lúc ăn đâu, cả
những lúc tôi nhận tấm check lương từ Dipankar những ngày
Thứ sáu, những lúc Paul đưa cho tôi project khó, và những
lúc vợ tôi cho tôi hard time nữa…
Thấy
Jeeva mải ăn, tôi pha trò:
-
Jeeva, bạn muốn lên Thiên
Đàng, lên Niết Bàn, hay xuống… mà không nói gì cả vậy?
Jeeva vốn
ít nói, nhưng khi nói thì lại nói rất lớn:
-
Chỉ có đời sống hiện tại thôi.
Chết là hết.
Madhavi
tiếp ngay:
-
Có đạo hay không có đạo thì
chết cũng không phải là hết. Chắc chắn mỗi người có linh hồn
và phải đối diện với những gì mình đã làm khi còn sống.
Thấy
Madhvi theo Ấn Giáo và nói điều ấy cho cả nhóm hầu hết là Ấn
Độ trong bàn, tôi lợi dụng nói theo:
-
Tôi tin chắc như thế.
Cả bọn ăn
uống vui vẻ. Khi tản bộ sang tiệm Boboa để kiếm cà-phê,
Jeeva đến bên tôi hỏi:
-
Tái, ông có thương con cái ông
không? Chắc chắn chứ! Vậy tình yêu giữa ông với con ông và
tình yêu giữa Thượng Đế và ông thì cái nào hoàn chỉnh hơn.
Tôi biết
câu trả lời, nhưng lại làm như suy nghĩ:
-
Tình yêu của Thượng Đế với tôi
chắc chắn phải hoàn chỉnh hơn, vĩ đại hơn vì Ngài là Thượng
Đế. Còn tình cha con thì gần gũi thiết tha đấy, nhưng không
hoàn thiện vì cha có thể tức giận với con, cha có thể ghét
con, từ con… nhưng Thượng Đế thì không.
-
Nếu vậy thì làm gì có Hỏa
Ngục.
Tôi nhận
ra Jeeva coi vậy mà không phải vây, nên chia sẻ:
-
Đạo Công Giáo dậy là có Hỏa
Ngục, tôi phải tin, nhưng có ai ở đó lại là truyện khác. Nói
thật với anh, tôi nghĩ Hỏa Ngục chỉ dành cho những người
không muốn vào Thiên Đàng mà thôi.
Và truyện hôm nay.
Cha Ngô
Đình Hòa dòng Chúa Cứu Thế từng là tuyên úy Sư Đoàn Nhảy Dù
của Việt Nam Cộng Hòa, đã đi tù cải tạo nhiều năm, hôm nay
đã gần 80 tuổi, cha có mặt ở đây với chúng tôi như vị linh
hướng.
- Chúng
con mời cha lên để chia sẻ kinh nghiệm
Cha Hòa
bước lên máy khuyếch âm, mỉm cười rồi từ từ kể như mẹ kể
truyện cổ tích cho các con:
-
Đây chỉ là kinh nghiệm nhỏ
thôi. Sau năm 1975, khi tôi đang ở trong tù thì có cô cháu
của ông nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh gởi cho tôi một quyển
Kinh Thánh nhỏ. Từ đó, hằng ngày tôi cứ lấy ra đọc. Có một
anh Thiếu Tá cảnh sát tù chung thấy tôi đọc Kinh Thánh thì
cũng tò mò mượn đọc. Đọc rồi anh hỏi tôi về nhiều thứ anh
thắc mắc, tôi biết gì thì trả lời vậy. Anh ta thích thú lắm,
nhưng tôi cũng bảo anh rằng tôi chỉ giúp anh được một tí
thôi, quan trọng nhất là anh cứ đọc và người soi sáng và
giúp anh hiểu chính là Chúa vì đây là Kinh Thánh chứ không
phải sách truyện đời thường. Một thời gian sau, anh xin được
trở lại công giáo. Tôi rất vui, nhưng cũng bắt anh đợi thêm
một thời gian nữa cho chắc… Sau đó tôi rửa tội cho anh. Bây
giờ anh và cả gia đình đã sang Mỹ và mỗi tháng anh vẫn gởi
cho tôi một trăm đô-la và dặn ‘con gởi cho cha, cha muốn làm
gì thì làm. Cha làm lễ, đọc kinh cầu nguyện cho con hay cha
cho ai cũng được’.
Cha linh
hướng Ngô Đình Hòa có nhiều truyện đời rất sống động và đạo
đức, nhưng Ngài luôn kể với lòng khiêm tốn và chân thành như
thế đấy.
Đúng là
Sống Niềm Tin rồi Nói cho người khác về Niềm Tin mới dễ.
Sống Đạo thực sự rồi Nói cho người khác về Đạo mới có hiệu
năng. ‘Hữu xạ tự nhiên hương’ Đời hay Đạo vẫn đúng.
Rồi Ngài
cũng chỉ dùng lời dậy đã viết trong sách mà kết luận:
Nếu chúng ta theo Chúa mà không nói
hoặc không dám nói về Chúa thì ai nói đây.
Nghe vậy,
tôi nhớ một cha xứ nọ cũng đã giảng cho giáo dân quê mùa
vùng Cái Sắn quê mùa về nhiệm vụ giảng đạo vào nhứng thập
niên 60 của thiên kỷ trước rằng:
“Bây giờ cha nói bằng tiếng Latinh để anh chị em dễ hiểu và
dễ nhớ rằng Quod isti et istae, cur non nos? Si non nos,
quis ergo? Si non nunc, quando ergo? Si non hic, ubi ergo?
“(1)
Lạy Chúa
tôi, cha xứ nói hay quá, nhưng chẳng ai hiểu gì.
Joseph Vũ 06/20/2008 |
VỀ MỤC LỤC |
|
HÃY ĐỨNG NGOÀI CUỘC (3)
|
Một bà mẹ
ngồi trên hành lang nói chuyện với những người láng giềng.
Kim Chi 4 tuổi đi vào nhà và đứa em trai Minh Quân chạy theo
sau. Cu bé đi chậm hơn để leo lên những bậc thang nên chị nó
đã đi vào phòng khi nó đến nơi. Cô bé cẩn thận đóng cữa lại
khi em nó đến. Cậu bé thét lên . Bà mẹ phóng lên cầu thang,
mở cữa phòng, chộp lấy cô bé và đánh nó.
“Con muốn
gì khi đối xử với em con như thế? Con có thể làm kẹt ngón
tay nó. Bây giờ con ở trong nầy cho tới khi con biết tử
tế.”
Bà mẹ bế
cu bé Minh Quân lên, trở lại chỗ cũ, và đặt nó lên vế bà.
Không bao lâu nó leo xuống và tiếp tục trò chơi của nó.
Trong khi đó những tiếng khóc thầm được nghe thấy từ trong
phòng. Nhiều phút trôi qua. Cuối cùng bà mẹ đi vào phòng cô
bé.
“Bây giờ
con có sẵn sàng để trở thành một đứa con gái ngoan chưa?”
Nó càng
khóc nhiều hơn. Bà mẹ bế cô bé lên, cô bé gục đầu vào vai
mẹ. Bà mẹ mang nó ra ngoài và ngồi xuống, đặt cô bé ngồi lên
vế bà và nói:
“Bây giờ
con là đứa con gái ngoan của mẹ. Mẹ biết con không còn bết
nữa!”
Không
phải tất cả những trận chiến giữa con trẻ đều trên bình diện
ngôn từ. Cậu bé chiếm được quá nhiều chú ý. Cô bé dĩ nhiên
là ganh tức về sự xuống ngôi của nó. Sự ganh tị ngày càng
tăng thêm và càng ngày càng chồng chất thêm cao. Cô bé khát
khao sự chú ý của mẹ như một dấu hiệu của tình yêu. Nó khám
phá ra rằng sau hình phạt là tình yêu. Nếu bà mẹ thật sự
nhìn thấy cái gì đã xảy ra thì lẽ ra bà phải biết rằng cô bé
rất cẩn thận đóng cữa mà không hề làm kẹt ngón tay của em
nó. Điều nầy cho thấy một ước muốn chú ý hơn là hận thù. Nếu
là hận thù thì cô bé đã làm nát ngón tay của em nó rồi. Cô
không có ý làm tổn thương em nó nhưng có chút liên quan đến
mẹ nó – muốn khiêu khích mẹ nó hơn là em nó và muốn có tình
yêu của mẹ nó sau khi bị la rầy. Và sơ đồ đã được thực hiện
một cách tuyệt vời.
Nếu những
lần tranh cãi dẫn đến sự đánh lộn với đứa trẻ hơn, bố mẹ có
thể chắc chắn rằng những đứa lớn muốn tạo một rối loạn hơn
là làm hại em nó. Và đây là chia xẻ của một bà mẹ ở tại
trung tâm hướng dẫn về giáo dục con trẻ.
Bà đi qua
cữa của phòng chơi vào chính lúc nhìn thấy cậu bé Vinh Thắng
4 tuổi cầm chiếc xe đưa lên đầu cô em bé Liên 11 tháng tuổi.
Cậu bé Vinh Thắng xem ra đang sẵn sàng dùng chiếc xe đánh
vào đầu em bé nó. Cô bé bắt đầu hét. Lưu ý đến những cảnh
cáo: phải tránh nhập cuộc mà bà đã lãnh hội được ở trung tâm
hướng dẫn về giáo dục con trẻ, bà lấy can đảm nắm chặt bàn
tay và tiếp tục đi qua cữa. Tuy nhiên, bà nhìn qua khe cữa.
Điều bà thấy đã làm bà ngạc nhiên. Cậu bé nhìn cữa mà bà vừa
đi qua và cùng lúc nó nhè nhẹ hạ cái xe xuống trên đầu đứa
em và xoa nhẹ đầu em với cái xe trên tay.
Bây giờ
bà mẹ thật sự tin điều bà đã được nghe. Cả hai đứa trẻ đã
cộng tác để làm bà phải quan tâm. Dầu mới 11 tháng, cô bé
cũng biết rằng nếu có hét, bà mẹ sẽ chạy đến và cái gì sẽ
xảy ra cho anh nó. Và cậu bé cũng biết nếu nó làm cho em nó
hét lên, bà mẹ sẽ chạy đến ngay. Con trẻ đã hành động như
một tổ hợp để làm bà mẹ vội vàng chạy đến.
Như một
qui luật, khi đứa nầy đe dọa đứa khác với một vật nguy hiểm,
bà mẹ có thể yên lặng đến và cất nó đi. Điểm chính ở đây là
làm điều đó cách yên lặng mà không cần phải nói gì cả.
Ngồi vào
bàn ăn, cha mẹ không có cơ hội nói chuyện mà không bị con
cái cắt ngang câu chuyện. Gia đình gồm có Yến Nhi 4 tuổi và
Minh Đức 6 tuổi, là những đứa con riêng của bà thuộc hôn
nhân trước, Minh Trí và Yến Thanh, 5 tuổi và 7 tuổi, những
đứa con riêng của ông bố. Yến Nhi đong đưa chân đụng vào
chân của Minh Trí.
“Bố ơi,
Yến Nhi đá chân con” cu Trí càm ràm.
Bà mẹ xen
vào:
“Yến Nhi,
đừng đụng đậy chân nữa. Để ý cung cách của con.” Yến Nhi
ngồi yên ăn.
“Bố, Minh
Đức không để con lấy muối,” Yến Thanh lẩm bẩm.
“Đức, con
chuyển hũ muối sang,” bà mẹ ra lệnh. Cu Đức chuyển hũ muối
sang.
“Mẹ, Minh
Trí cứ thúc vào cùi chỏ con,” Minh Đức càm ràm.
Lần nầy
ông bố nặng giọng:
“Minh Trí
để cùi chỏ vào chỗ con.” Cu bé lui cùi chỏ về.
“Mẹ, Yến
Thanh lấy giấy của con” Yến Nhi khóc.
“Yến
Thanh, trả tờ giấy lau miệng cho Yến Nhi,” ông bố ra lệnh.
Lần lượt
hết đứa nầy đến đứa khác kiện cáo, chúng chọc phá nhau và
nạn nhân tức khắc kêu cầu công lý. Cuối cùng ông bố nổi
cơn:
“Khi nào
thì các con không tranh chấp nhau nữa? Chúng ta không có
được một bữa ăn trong bình an sao? Bố chán và mỏi mệt lắm
rồi. Bây giờ đứa nào không giữ luật sẽ bị phạt.”
Bấy giờ,
các bé kết thúc bữa ăn mà không gây ra một bất ổn nào khác,
nhưng mọi người xem ra căng thẳng và không được vui.
Sự tranh
chấp của con cái khiến cha mẹ bận rộn. Cần lưu ý: mỗi đứa
trẻ phàn nàn với cha mẹ riêng nó và cha mẹ phía bên kia cố
gắng sửa đổi tình thế. Đứa trẻ phía nầy trêu chọc đứa trẻ
phía kia vì đó là cách bảo đảm nhất để tạo nên hành động của
bố mẹ. Bố mẹ có khuynh hướng xem con trẻ là bất an và cảm
thấy cưỡng bách phải gìn giữ một tiến trình công bình. Vì
thế, mỗi đứa bây giờ cố gắng kích động đứa trẻ phía bên kia
để giữ bố mẹ mình bận rộn với mình. Chúng làm việc cách khéo
léo.
Trong một
vài gia đình, bố mẹ cố gắng bảo vệ con riêng của người bạn
mình, nhưng cũng có người bảo vệ con riêng của họ. Nhưng
trong mỗi trường hợp, con trẻ thường khích động bất cứ ai
đáp trả cách hữu hiệu nhất.
Vấn đề là
con trẻ chỉ ngưng chiến khi bị đe dọa trừng phạt cho thấy
rằng mục đích của chúng là gây sự chú ý. Nếu không, sự đe
dọa như thế lẽ ra đã dẫn đến sự lộn xộn hơn. Vì thế, mỗi đứa
trẻ đều chịu thuần phục sau khi đã thành công trong việc
chiếm được sự chú ý của bố mẹ. Điều nầy cũng cho thấy cuộc
chiến là giá cho sự chú ý.
Cả hai bố
mẹ chỉ có thể giúp con cái họ khi họ ngưng sự chú ý quá đáng
và để cho con cái họ tự giải quyết vấn đề của chúng. Nếu
thái độ của con cái họ ở bàn ăn quấy rối sự an bình của gia
đình, bố mẹ có thể từ chối ăn uống với chúng cho tới khi nào
chúng muốn có một bữa ăn gia đình đầm ấm. Bao lâu có sự bất
đồng nổi lên, cả 4 đứa có thể được nói lý do và bị yêu cầu
rời khỏi bàn ăn. Trong cách thế đó, chúng mới có thể học
sống chung với nhau ở bàn ăn. Trong việc yêu cầu chúng rời
khỏi bàn ăn, bố mẹ không nên đi vào xung khắc, không nên dự
vào cuộc tranh cãi, và phải tỏ ra cứng rắn.
Lm. Lê Văn Quảng, tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
Lòng Chúa lỚn hơn lòng
bẠn |
Tác Phẩm Chúa Vẫn Thương
Lm. MICAE-PHAOLÔ TRẦN MINH HUY pss
Phần một
BẠn thẾ nào Chúa yêu bẠn thẾ Ấy Tình
yêu đáp trẢ tình yêu
4
Lòng Chúa
lỚn hơn lòng bẠn
Nếu lòng bạn kết án
bạn, Chúa không kết án bạn đâu. Lòng Chúa lớn hơn lòng
bạn, và Chúa không nhìn bạn như chính bạn nhìn bạn đâu.
Chúa biết bạn quá bé nhỏ, Chúa biết bạn yếu đuối, Chúa biết
bạn bị giới hạn, và Chúa là Chúa Trời của bạn, Chúa đưa tay
ra cho bạn.
Bạn hãy thôi đừng hoảng
hốt nhìn chung quanh bạn như vậy. Chúa đó, bạn hãy nhìn đi.
Chính Chúa là Đấng Cứu Độ bạn, chính Chúa là Đá Tảng của
bạn. Không có gì lay chuyển được Chúa và Chúa muốn chăm sóc
bạn. Bạn hãy trông cậy vào Chúa.
Bạn quá nhỏ bé, nhưng
Chúa đang ở với bạn và điều đó làm thay đổi tất cả mọi sự.
Bạn hãy đến thật gần bên Chúa. Chính ở bên Chúa mà bạn tìm
được những gì bạn cần. Hãy lại gần bên Chúa, Chúa có tất cả
những gì bạn cần, một cách phong phú.
Mỗi người chỉ cần bước
một bước nhỏ để đến gần bên Chúa, một lạch suối phải băng
qua, hay một bước rất nhỏ, có lẽ chẳng đáng chi với một ít
người. Thần Trí Chúa có đây, chiều nay, để soi sáng cho bạn.
Nếu bạn thật lòng muốn điều đó. Hãy tìm và bạn sẽ được gặp.
Hãy gõ và người ta sẽ mở cho bạn.
Chúa đang ở thật gần
bạn, đừng tìm Chúa ở đâu khác, Chúa đang ở thật gần bạn,
Chúa ở ngay bên cạnh bạn. Chúa sẽ dẫn bạn đi, nếu bạn thật
lòng muốn. Chúa thực sự có mặt đây, bạn đừng sợ. Bạn hãy ở
gần Chúa, như người bạn thích ở gần bạn mình. Bạn hãy ở
trong Chúa như Chúa ở trong bạn.
Bạn hãy để Chúa làm nổi
lên những kho tàng Chúa đã đặt trong đáy lòng bạn. Hãy để
Chúa làm theo những đường lối của Chúa. Bạn hãy đến với Chúa
như một đứa con, một đứa con bé nhỏ. Bạn không biết đến ba
phần tư những kho tàng Chúa đặt trong đáy lòng bạn. Chúa
không phải là Đấng Sáng Tạo nên bạn sao? Chúa biết cái Chúa
đặt trong bạn chứ: những phần nhỏ của chính Chúa. Chúa muốn
làm cho chúng sáng lên. Chúa muốn chúng sáng tỏa ra chung
quanh, để bạn được vui mừng.
Bạn thế nào hãy đến
bên Chúa như vậy,
và không cần nói Chúa phải làm gì. Hãy cứ để
mặc Chúa làm. Sau đó, bạn sẽ hiểu, các vấn đề sẽ tự chúng
rơi xuống, vì bạn sẽ được chiếu sáng bởi một ngày mới. Bạn
thế nào hãy đến với Chúa như vậy.
Hãy để các vấn đề của
bạn lại đó, Chúa là tất cả. Chúa là tất cả mọi sự cho bạn.
Chúa nắm tất cả mọi sự trong tay Chúa. Bạn hãy cất bước đến
với Chúa. Bạn cứ co quắp lại nơi chính mình bạn. Bạn biết
Chúa hành động cho bạn, nhưng bạn lại dẫm chân tại chỗ. Hãy
nhảy lên trên các chướng ngại vật bằng cách đến với Chúa.
Không có con đường nào khác. Hãy trông vào Chúa, bạn sẽ nhảy
lên vui mừng.
Bạn muốn bước đi theo
Chúa, tốt lắm hỡi bạn. Chúa gọi bạn bước đi theo Chúa, nhưng
chân bạn không được cứ dán chặt xuống đất, bạn phải thực sự
bước đi theo Chúa. Bạn cần phải nhảy xuống nước nhưng phải
tin tưởng, không một chút nghi nan, nếu bạn không muốn chìm
xuống.
Hãy tin vào Lời Chúa,
hãy đem Lời Chúa ra thực hành, không tìm để được thấy trước,
bạn sẽ thấy sau. Đó là bước đi theo Chúa. Chính Lời Chúa sẽ
hướng dẫn bạn chứ không phải là những ‘lời người ta nói.’
Cũng không phải là thói quen hằng ngày, nhưng chính là Lời
của Chúa. Đó cũng là đặc sủng vậy.
Bạn hãy đến theo Chúa,
cho dù đôi khi lòng bạn thấy lo âu. Bạn không phải là người
đầu tiên như các Tông Đồ, các môn đệ… Nhưng họ đã xác tín,
họ đã tin. Chúa kêu gọi mỗi người hãy theo Chúa như thế. Bạn
hãy đến theo Chúa, bạn sẽ thấy những điều kỳ diệu, và nhân
danh Chúa bạn sẽ làm những điều kỳ diệu.
Một số người muốn đi
nhanh hơn, một số khác lại muốn đi chậm hơn. Hãy để Chúa
hành động, bạn đừng sợ chi. Chính Chúa tạo nên và điều khiển
nhịp độ diễn tiến. Chính Chúa ban những đặc sủng cần thiết
cho bạn. Bây giờ bạn chịu để Chúa làm. Tốt lắm!
Bạn không có gì phải sợ
cả. Chúa sẽ làm mọi sự theo ý Chúa, bạn hãy sẵn sàng. Đó là
tất cả những gì Chúa đòi hỏi nơi bạn. Nếu bạn không nói về
Chúa thì ai sẽ nói về Chúa? Bạn phải bạo dạn, bạn không thể
tưởng tượng được những gì người khác đang chờ đợi ở bạn. Họ
đang hư mất, họ đang đi tìm một ánh sáng, một bàn tay, một
nụ cười, một lợi ích cho họ. Thế gian đang khát, khát khủng
khiếp! Đừng để ánh sáng của bạn ở dưới đáy thùng.
Nếu bạn hổ ngươi về
Danh Chúa, Chúa sẽ hổ ngươi về bạn. Hỡi bạn, Chúa xin bạn
hãy vất bỏ sợ hãi của bạn đi, Chúa không muốn nghe nói tới
chúng nữa. Có nhiều người sợ hãi và do dự. “Thiên Chúa
không ban cho chúng ta một Thần Khí nhát sợ, nhưng là một
Thần Khí đầy sức mạnh, tình thương và khôn ngoan… Hãy
để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây
nên Đền Thờ thiêng liêng. Này, Ta đặt tại Sion một viên đá
quý được lựa chọn làm Đá Góc Tường, kẻ nào tin vào đó sẽ
không phải thất vọng.”
Bạn không cảm thấy ước
muốn Chúa đặt nơi bạn sao? Ước muốn đến nơi ở của Chúa, ước
muốn lại gần Chúa hơn, ước muốn biết Chúa nhiều hơn, ước
muốn mãnh liệt được thuộc về Chúa, chính Chúa đã đặt ước
muốn đó ở trong bạn.
Bạn có thể để ước muốn
đó bị bóp nghẹt đi. Bạn có thể làm cho ước muốn đó lớn lên.
Bạn hãy vui mừng trong ước muốn ấy, bất kể là gì đi nữa: sự
yếu đuối của bạn, những khó khăn của bạn, những giới hạn của
bạn, những mối liên hệ của bạn, cả những tội lỗi của bạn.
Chính ước muốn đó là đáng kể đối với Chúa. Chính ước muốn đó
là quan trọng nhất, những gì còn lại, Chúa chẳng bận tâm.
Nếu bạn biết được ơn của Thiên Chúa, bạn hãy nhận lấy tình
yêu của Chúa. |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐÔI ĐIỀU VỀ CÀ PHÊ,
NƯỚC UỐNG
|
1- Câu hỏi được nêu ra là “vì sao uống
nước trà đậm thì mất ngủ”?
Chúng ta biết rằng trà cũng như cà phê
có chất caffeine.
Caffeine là một hóa chất hữu cơ thuộc
nhóm purines.
Tác dụng chính của caffeine là kích
thích hệ thần kinh trung ương, tăng sinh hoạt trí tuệ, làm
ta tỉnh táo nhất là khi con người mỏi mệt hoặc chán nản. Với
giấc ngủ thì ảnh hưởng tùy người: có người gặp khó khăn, có
người không khi uống cà phê.
Caffeine làm thư giãn cơ thịt trong
thành động mạch, tăng sức bóp của tim, tăng máu từ tim đưa
ra, tăng huyết áp.
Caffeine tăng dịch vị bao tử nên nhiều
người ưa uống cà phê sau khi ăn để dễ tiêu hóa thực phẩm.
Caffeine làm tăng sự dẻo dai của lực sĩ
thể thao, vì thế Ủy Ban Thế Vận kiểm soát coi họ có dùng quá
nhiều chất kích thích này.
Caffeine làm tăng sự bài tiết nước
tiểu.
Sau khi uống, caffeine thấm nhập rất
mau vào khắp các bộ phận của cơ thể. Thời gian bán hủy là 3
giờ nên caffeine không tích tụ trong cơ thể. Đa số caffeine
được thải khỏi cơ thể qua nước tiểu.
Mỗi người có đáp ứng khác nhau với
caffeine.
Do đó có người uống ba bốn ly trà hoặc
cà phê một lúc mà không cảm thấy thay đổi gì. Trong khi đó,
người không quen với caffeine, chỉ uống một ly trà hoặc cà
phê là đã thấy nóng nảy, hồi hộp, tim đập nhanh.
Một người đã quen dùng caffeine rối mà
ngưng tức thì, họ sẽ cảm thấy mệt mỏi, nhức đầu, buồn ngủ.
Nếu họ ngưng từ từ thì không bị các khó khăn này.
Liều lượng trung bình của caffeine là
200mg, tùy theo từng người.
Khi dùng tới số lượng trên 1000 mg thì
trong người thấy mất ngủ, bất an, tim đập nhanh, thở hổn
hển, buồn tiểu, ù tai, xót ruột.
Tử vong có thể xảy ra khi dùng tới trên
10 gram (80- 100 ly) caffeine.
Đã có nhiều nghiên cứu về tác dụng
“tỉnh ngủ” của caffeine.
Các nghiên cứu này đều tập trung vào
hóa chất adenosine do não bộ sản xuất khi ta không ngủ hoặc
khi làm việc. Cơ thể càng làm việc nhiều thì Adenosine sản
xuất càng cao.
Hóa chất này sẽ bám các thụ thể ức chế
của tế bào thần kinh, làm thần kinh giảm hoạt động và ta cảm
thấy buồn ngủ. Đây cũng là phản ứng tốt, vì nếu cứ kéo dài
sự làm việc thì cơ thể sẽ mau suy nhược. Giấc ngủ là cơ hội
để cơ thể nghỉ ngơi, bồi dưỡng sinh lực, sẵn sàng cho các
hoạt động kế tiếp.
Caffeine có cấu trúc tương tự như
adenosine. Chúng chiếm chỗ của adenosine nơi các thụ thể
thần kinh và kích thích hệ thần kinh. Hệ thần kinh hoạt động
nhiều hơn và một trong những hậu quả là ta thấy tỉnh táo,
nhanh nhẹn hơn. Vì thế các tài xế lái xe đường trường, những
người làm việc trí óc nhiều… đều uống cà phê để trở nên sáng
suốt.
Caffeine cũng khiến cho cơ thể tăng sản
xuất adrenaline vì tưởng như có chuyện khẩn trương xẩy ra.
Con ngươi mở rộng, mạch máu giãn nở để đưa nhiều máu ra
ngoại vi, tim đập nhanh, hơi thở tăng để sẵn sàng đối phó.
Caffeine còn ảnh hưởng lên hóa chất
Dopamine, một chất gây cảm giác sảng khoái tương tự như
heroine, amphetamine. Caffeine kích thích não, sản xuất
nhiều dopamine hơn.
Nói chung, caffeine khiến cho cơ thể ở
trong tình trạng tỉnh táo.
Vậy thì tại sao nhiều người uống trà
hoặc cà phê mà vẫn ngủ như thường, Điểm này chưa có giải
thích rõ ràng, chính xác.
Tuy nhiên, như đã trình bầy ở trên, mỗi
người có mẫn cảm khác nhau với caffeine. Nhiều người uống cà
phê, nước trà như uống nước lã, mà họ vẫn ngủ say như chết.
Trong các trường hợp này, có thể là họ quen nhờn với tác
dụng của caffeine. Ngược lại, có người chỉ thử một ly trà
nhỏ đã trằn trọc suốt đêm, không ngủ được.
Caffeine kích thích tim mạch, cho nên
khi tiêu thụ, nhịp tim nhanh hơn, huyết áp hơi tăng, hơi thở
hơi nhanh. Các thay đổi này chỉ thoảng qua, sau khi caffeine
bị loại ra khỏi cơ thể trong vài ba giờ.
Cũng như theophylline, caffeine là chất
lợi tiểu nhẹ nhưng không ảnh hưởng nhiều lắm tới mức độ nước
trong cơ thể. Vì thế, nhiều người cứ uống cà phê vô là mót
tiểu tiện.
Nhân đây, cũng xin nói thêm là mặc dù
chất caffeine trong cà phê, nước trà đã được nghiên cứu khá
nhiều, nhưng nhiều người vẫn có một vài ngộ nhận về hóa chất
này.
Có nghiên cứu nói là cà phê có thể gây
ra ung thư, bệnh tim mạch, khuyết tật trẻ em…Nhưng điều này
chưa được các khoa học gia thống nhất đồng ý.
Theo Cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ cũng
như Cơ quan Y tế Thế giới, nếu dùng vừa phải, caffeine không
có ảnh hưởng xấu cho cơ thể. Vừa phải là khoảng 300 mg
caffeine mỗi ngày, tương đương với ba ly cà phê.
2- Ít nhất Tám ly nước mỗi ngày
Liên quan tới việc uống nước, một lời
khuyên thường được nêu ra là:
“Phải uống ít nhất 8 ly nước, mỗi ly 8
oz, mỗi ngày. Rượu bia, cà phê không được gộp vào số lượng
này”.
Quy luật này từ đâu mà ra. Liệu có phải
uống 8x8” mỗi ngày như lời khuyên. Nếu không thì uống bao
nhiêu là đúng.
Thực ra, chưa có trả lời chính xác về
nguồn gốc của quy luật bất thành văn 8x8” này.
Năm 2002, nhà sinh học Heinz Valtin của
Đại học Y khoa Darmouth, Lebanon, New Hampshire, đã cố gắng
tìm kiếm xuất xứ của 8x8” và chỉ thấy câu văn sau đây do nhà
dinh dưỡng có uy tín của Hoa Kỳ, bác sĩ Fredrick J. Stare
viết vào năm 1974:
“Bao nhiêu nước mỗi ngày? Điều này được
quy định bới nhiều nguyên tắc sinh lý khác nhau, nhưng với
một người trưởng thành bình thường, khoảng từ 6 tới 8 ly
trong 24 giờ và số lượng này có thể từ cà phê, trà, nước có
hơi, rượu bia vv. Các loại trái cây và rau cũng là nguồn
cung cấp nước rất tốt”.
Theo tiến sĩ Valtin, nội dung câu viết
của bác sĩ Stare có ba điều cần lưu ý:
-Chưa có bằng chứng khoa hoc nào hỗ trợ
cho ý kiến của bác sĩ Stare
-Bác sĩ Stare viết uống từ 6 tới 8 ly
mỗi ngày chứ không phải là 8 ly.
-Trà, cà phê và rượu được coi như bao
gồm trong số lượng 6-8 ly mỗi ngày.
-Số lượng nước tiêu thụ được quy định
theo các hoàn cảnh sinh lý của cơ thể mỗi người.
Theo các nhà dinh dưỡng, tuy không có
dẫn chứng khoa học hỗ trợ, nhưng quy luật 8x8” này được coi
như một hướng dẫn cho việc tiêu thụ nước và các chất lỏng
khác. Và cũng nhờ sự quá phổ biến của quy luật này mà mọi
người lưu tâm tới việc uống nước: đi chơi, đi làm cũng kè kè
một chai chất lỏng tinh khiết.
Thực ra, nhu cầu nước của cơ thể tùy
thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng cơ thể, khỏe mạnh hay
yếu đuối, sinh hoạt ra sao và sống ở địa phương nào.
Điều rõ ràng là nước rất cần cho cơ thể
để loại bỏ chất có hại ra ngoài, để chuyên chở chất dinh
dưỡng nuôi mô bào, để mang độ ẩm cho các bộ phận cơ thể.
Nước chiếm 70% trọng lượng toàn thân.
Số chất lỏng này không phải nằm cố định
trong người mà hao hụt đi mỗi ngày qua nước tiểu 1.5 lít
cộng thêm khoàng 1 lit qua phẩn, mồ hôi, hơi thở. Do đó cơ
thể cần được bổ sung số lượng chất lỏng thất thoát để duy
trì sự sống.
Trong điều kiện sức khỏe bình thường,
với môi trường khí hậu ôn hòa, vận động làm việc vừa phải,
Viện Y khoa Hoa kỳ khuyên đàn ông nên tiêu thụ 3 lít chất
lỏng mỗi ngày còn phụ nữ cần khoảng 2.5 lít.
Chất lỏng nói chung bao gồm cả nước,
nước trái cây, các loại giải khát có caffeine, nước ngọt,
bia rượu và chất lỏng trong thực phẩm. Thực phẩm cung cấp
tới 20% chất lỏng vì nhiều loại có rất nhiều nước như dưa
hấu, cà chua…
Điều cần để ý là không nên coi rượu
bia, nước uống có cà phê là nguồn cung cấp chất lỏng chính
yếu.
Như vậy, mỗi ngày chúng ta tiêu thụ một
lượng chất lỏng để khỏi cảm thấy khát nước đồng thời loại ra
khoảng 1.5 lit nước tiểu trong là ta đã đáp đúng nhu cầu
chất lỏng của cơ thể.
Những trường hợp sau đây cần tiêu thụ
thêm chất lỏng:
-Vận động cơ thể, sống trong môi trường
khô, nóng đều làm toát nhiều mồ hôi hơn thường lệ. Vận động
nhiều giờ liên tục cần dùng thêm muối sodium vì mồ hôi toát
ra làm tiêu hao muối khoáng này của cơ thể.
-Bệnh hoạn với nóng sốt, ói mửa, nhiễm
độc đường tiểu tiện, sỏi thận, tiểu đường
-Có thai hoặc cho con bú sữa mẹ. Viện Y
Khoa Hoa Kỳ khuyên bà mẹ có thai nên uống 2.3 lít và khi cho
con bú cần 3.1 lít chất lỏng mỗi ngày.
Ngoài vai trò căn bản của chất lỏng như
đã nói, cũng có rất nhiều nghiên cứu kể ra những ích lợi
khác của nước như giảm cân, giảm ung thư. Tuy nhiên, các kết
quả này chưa được đa số các nhà nghiên cứu đống ý.
Nhiều loại nước trên thị trường quảng
cáo có thêm sinh tố khoáng chất. Dân chúng thấy hấp dẫn,
cũng mua dùng, nhưng trong lòng vẫn thắc mắc là liệu có ích
lợi gì không.
Theo các nhà dinh dưỡng, việc pha thêm
sinh tố vào nước cũng chẳng giúp ích gì. Thực phẩm có đủ
loại sinh tố khoáng chất. Nếu ta ăn uống đầy đủ thì chẳng
cần dùng thêm các chất dinh dưỡng tý hon này. Ấy là chưa kể,
các sinh tố hòa tan trong mỡ như A, D, E, K không hòa tan
trong nước. Hoặc nếu nước uống đó lại có quá nhiều sinh tố,
khoáng chất như kali, thì lại có bất lợi.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas-Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
CẬU ẤM VÀ CÔ
CHIÊU Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Trước khi bước
vào nền văn minh hiện đại, hầu như mọi dân mọi nước đều trải
qua một thời gian phát triển nông nghiệp lâu dài. Trong nền
văn minh nông nghiệp này, sức người là chủ yếu. Vì thế,
người ta luôn mong ước có được đông con nhiều cháu.
Trong dịp đầu
xuân năm mới bàn dân thiên hạ thường cầu chúc cho nhau :
- Đa tử, đa
tôn, đa phú qúi.
- Đông con,
nhiều cháu, sống lâu đến ba bốn đời.
Trong xã hội
nông nghiệp này, không con là điều bất hạnh. Và nhất là theo
luân lý Khổng Mạnh, thì không có con trai để nối dõi tông
đường quả là một tội “đại bất hiếu”.
Vì thế, những
cặp vợ chồng son sẻ, hay hiếm muộn đều phải làm đủ vành đủ
chước để có được…tí con. Nào là thuốc men và chữa chạy. Nào
là van xin và khấn vái. Do đó mới nảy sinh ra tục lệ cầu tự.
Dựa cuốn “Việt
Nam phong tục” của Phan Kế Bính và cuốn “Con người Việt Nam”
của Toan Ánh, gã xin điểm qua những nét chính yếu về tục lệ
này.
Cầu tự là cầu
xin thần thánh ban cho mình một đứa con để lập tự về sau.
Người ta thường cầu tựï ở đình chùa hay đền miếu, chẳng hạn
như đền Và ở Sơn Tây thờ thần núi Tản Viên, đền Phủ Giầy ở
Nam Định thờ công chúa Liễu Hạnh…Tuy nhiên, có hai nơi được
coi là “linh” hơn cả, đó là chùa Hương ở Hà Tây thờ Phật Bà
Quan Âm và đền Kiếp Bạc ở Hải Dương thờ Hưng Đạo Vương.
Muốn đi cầu tự,
trước hết phải giữ mình cho thanh khiết, phải ăn chay niệm
Phật để lòng thành của mình động tới quỷ thần, phải tắm nước
ngũ vị để tẩy xóa mọi xú uế trần tục.
Riêng tại chùa
Hương, có một hang đá, thạch nhũ mọc lởm chởm hai bên, tục
gọi là núi Cô và núi Cậu. Những người cầu tự phải đem vàng
hương, oản quả vào lễ trong chùa, rồi sau đó đem quà bánh
tới chỗ hang thạch nhũ. Nếu muốn xin con trai, thì tới bên
núi Cậu, coi hòn nào mình thích, thì xoa tay vào đó và lâm
râm :
- Cậu về ở với
vợ chồng nhà tôi nhé.
Còn nếu muốn
xin con gái, thì qua bên núi Cô và cũng làm y như vậy.
Những người đi
cầu tự, lúc trở về phải coi như mình đã có một em bé đi
theo. Vì thế, trong suốt cuộc hành trình trở về, họ phải làm
những hành động như người mẹ dắt con, phải mua quà bánh và
đồ chơi, phải trả hai xuất tiền lúc qua đò, phải có thêm cơm
cho em bé lúc ăn…
Khi về tới cửa,
phải gọi người nhà ra đón cô hay đón cậu. Từ ngày hôm đó,
đến bữa ăn phải dọn thêm bát đũa. Thậm chí người ta còn sắm
sẵn cả chiếc nôi để chờ ngày đón nhận tin vui.
Nếu người vợ có
mang và sinh con, thì hàng năm phải đem con tới chùa để lễ
Phật mà tạ ơn.
Theo truyền
khẩu, thì những đứa con cầu tự rất khó nuôi và thường hay
chết yểu khi mới lên ba hoặc lên năm.
Đó không phải
là con do Thần, Thánh hay Phật ban cho, mà là con của lũ mẹ
Ranh đầu thai vào. Bởi vì khi người mẹ đi cầu tự, thì lũ mẹ
Ranh cũng có mặt ở chùa và xin cho con mình được đầu thai,
nhưng chỉ sau mấy năm, chúng lại bắt về, nên đứa trẻ bị
chết yểu.
Còn nếu đúng là
con do Thần, Thánh hay Phật ban cho, thì nó sẽ ở với cha mẹ
suốt đời và cũng suốt đời cha mẹ phải chiều chuộng nó, cho
dù nó đã khôn lớn.
Vì thế, ba
tiếng “con cầu tự” thường được dùng để chỉ những đứa trẻ
được cha mẹ nuông chiều.
Từ quan niệm về
những đứa con cầu tự, gã xin bàn tới quan niệm về những cậu
ấm và cô chiêu, mà gã xin viết tắt là CACC, cũng tương tự
như con ông cháu cha, mà thiên hạ gọi tắt là COCC hồi trước
năm 1975.
Vậy thế nào là
cậu ấm và cô chiêu ?
Theo “Việt Nam
Tự Điển” của Lê Văn Đức thì ấm có nghĩa là phúc đức do ông
bà cha mẹ để lại cho con cháu. Ấm cũng có nghĩa là chức tước
do triều đình ban cho con cháu các quan từ ngũ phẩm trở lên.
Còn theo “Hán
Việt Tân Từ Điển” của Nguyễn Quốc Hùng, thì ấm có nghĩa là
được che chở, hay được hưởng những đặc cân của triều đình vì
cha ông là những người có công với đất nước.
Cũng theo hai
cuốn tự điển trên thì chiêu là tiếng được dùng để gọi con
của các vị tiến sĩ từ đời Lê về sau.
Tóm lại, dựa
vào những định nghĩa trên thì cậu ấm và cô chiêu đích thực
là con ông cháu cha, tức là con cháu của nhà quan. Từ đó
người ta đi tới một định nghĩa tương đối rộng rãi hơn, cậu
ấm và cô chiêu là con cháu của những bậc “đại gia”, những
người vừa có sẵn quyền lại vừa có sẵn tiền trong tay.
Đặc tính của
các cậu ấm và cô chiêu, hay của các con ông cháu cha là họ
thường núp sau lưng và chạy theo cái bóng của cha mẹ. Họ lợi
dụng tiền bạc và quyền lực của cha mẹ để ngoi lên trong xã
hội, chứ chẳng bao giờ chịu phấn đấu và đứng thẳng trên đôi
chân của mình.
Tuy nhiên, điều
đáng trách hơn cả, đó là họ lạm dụng tiền bạc và quyền lực
của cha mẹ để làm những điều xằng bậy khiến cho cả và thiên
hạ phải nhức nhối, phải lao đao và phải kinh hoàng.
Những người
sống ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, không ít thì nhiều,
cũng đã được nghe nói tới những giai thoại về công tử Bạc
Liêu với những kiểu chơi…trội.
Công tử Bạc
Liêu tên thật là Trần Trinh Huy, biệt hiệu là Hắc Công Tử.
Ngày kia, Hắc Công Tử đã đốt tờ biên nhận cầm cố bộ lư, trị
giá tới 100 đồng, chỉ để có được một tí ánh sáng, hầu soi
tìm vật gì đó mà người đẹp đánh rơi dưới gầm bàn, sau khi
Bạch Công Tử, tức là Phước Georges ở Mỹ Tho, đã đốt mấy tờ
con công, tức là giấy bạc năm đồng, mà tìm nhưng không tìm
thấy.
Vào thời đó
khoảng năm 1920, một gịa lúa chỉ đáng giá 2 cắc bạc mà
thôi. Như vậy, một đồng được 5 gịa, 100 đồng được 500 gịa.
Và theo thời giá hôm nay, mỗi gịa là 47.000 đồng Việt Nam,
vị chi tất cả là 23 tiệu rưỡi, tương đương với gần 1.500 đô
la Mỹ, chỉ vì người đẹp và một tí ánh sáng.
Trong những
ngày gần đây tại Việt Nam, gã thấy nổi cộm lên hiện tượng
CACC, tức là hiện tượng cậu ấm và cô chiêu, được cánh báo
chí đề cập tới rất nhiều. Mẫu số chung của họ là lạm dụng
quyền lực và tiền bạc của cha mẹ để ngông nghênh, khiến cho
xã hội như xất bất xang bang và thất điên bát đảo.
Trước hết, họ
lạm dụng quyền lực của cha mẹ để quậy phá.
Báo Công An số
ra thứ bảy, ngày 24 tháng 9 năm 2005, có đăng một mẩu tin
như sau :
“21 giờ ngày
27.8.2005, tại quán karaoke số 28 Yết Kiêu, chúng tôi chứng
kiến cảnh chiếc xe hơi BMW 325 BS 29V-9119 từ đường Nguyễn
Thượng Hiền ầm ầm phóng tới, lao lên cả vỉa hè. Từ trong xe
một thanh niên cao to bước ra, tiến thẳng vào quán túm tóc
đánh đập một cô gái rất xinh đẹp và luôn miệng chửi thề loạn
xạ. Người dân kéo đến can ngăn cũng bị gã kia chửi lại. Khi
cảnh sát đến nơi thì gã đã bỏ lên xe tiếp tục ầm ầm phóng
đi. Không khó khăn lắm chúng tôi dựng lại được “chân dung”
của gã thanh niên ban nãy. Hắn tên là VH, sinh năm 1976, con
một vị quan chức bộ B…”
Một trường hợp
khác :
“HHN, con trai
cưng của giám đốc một ngành nội chính tỉnh Q, sau một chầu
nhậu bí tỉ ở nhà hàng cùng nhóm bạn lên sàn nhảy. Tại đây, N
thẳng tay đập phá tan hoang một thứ, chỉ vì nhân viên lễ tân
đã “chào tao bé quá”. Lực lượng công an có mặt, nhưng vì quá
nể bố của N, đành bất lực và ra sức khuyên bảo mà vẫn không
xong.
Nghe nói những
lần sau, mẹ N yêu cầu phải có mấy chú cảnh sát kèm mỗi khi N
đi nhậu. Không những thế, nhóm bạn bè thường xuyên tụ tập ăn
chơi quậy phá với N cũng toàn là con cái những vị quan đương
chức đương quyền tỉnh Q, mà chủ các nhà hàng hạng sang ở đó
đều biết đến với biệt danh “phi đội uống rượu tây như voi
uống philatốp”.
Cũng bài báo
ấy đã đề cập tới :
“Nhiều người
dân trên phố Nguyễn Thái Học hẳn còn nhớ một vụ việc cách
đây không lâu, vào khoảng 0 giờ một đêm mùa đông, có ba
thanh niên tóc xanh đỏ đi trên chiếc xe Toyota đời mới, biển
số tỉnh, phóng ngược chiều bạt mạng. Khi bị Cảnh sát cơ động
đuổi theo yêu cầu dừng xe, cả ba gã cùng xuống và đánh lại
hai chiến sĩ cơ động. Sau này nghe nói bọn chúng là con
“quan”ở tỉnh B và sở dĩ có hành vi càn quấy như thế là do
đã…nhậu say.
Tiếp đến. họ
lạm dụng tiền bạc của cha mẹ.
Thực vậy, Nhưng
đồng tiền ấy, không phải do công sức lao động và mồ hôi nước
mắt của mình làm ra, nó được sánh ví nhu một quà tặng từ
trên trời rơi xuống, nên họ mặc sức vung vít.
Thứ nhất là lạm
dụng tiền bạc của cha mẹ cho việc ăn chơi xả láng của mình.
Trở lại với gã
thanh niên tên VH trong bài báo :
“Từ năm 2001
đến nay hắn đã 5 lần đổi các loại xe hơi xịn đời mới nhất từ
Lexux đến BMW. Nhóm của H chơi với nhau cũng toàn con quan
chức cao cấp.
Có lần một kiều
nữ nọ đang du học ở nước ngoài về chơi, cả nhóm cùng nhau
phóng xe xuống Tuần Châu vung tiền như nước để lấy le. Bữa
tiệc sinh nhật của một thành viên trong nhóm, con quan chức
tỉnh N, riêng số rượu tây loại đắt tiền cũng hết 50 chai.
Bữa tiệc đó với đồng lương của một công chức bình thường thì
phải hết bao nhiêu năm mới đủ ?
Chuyện lấy tiền
của bố mẹ mua một lúc 9 chiếc xe @ chia cho cả nhóm cùng
nhau phóng xuống bãi biển Hạ Long để làm một bữa tiệc gây
xôn xao dư luận, chắc chắn cũng chỉ là một động tác “củng cố
độ oai” mà con cái quan chức cỡ bự mới làm được, chứ con nhà
lao động bình thường thì mua 9 chiếc xe @ bằng vàng mã cũng
còn phải đắn đo”.
Báo Công An số
ra thứ ba, ngày 21 tháng 6 năm 2005 đã lên tiếng báo động :
Học chơi ngông, học đua đòi, học làm anh chị đã trở thành
model của những cậu ấm cô chiêu đương thời. Chơi cũng phải
tạo “thương hiệu” cho riêng mình, chơi phải làm sao cho
người khác biết mặt đặt tên, đó là thực trạng báo động trong
một bộ phận học sinh, sinh viên đã trở thành những tay chơi
ngông có số má với suy nghĩ : chơi cho biết, để không thua
kém bạn bè. Học hành giỏi thì ít người biết đến, nhưng chỉ
với một vài lần chơi ngông, vung tiền lấy le, tiếng tăm đã
nổi như cồn.
Bên cạnh những
cậu ấm, thì các cô chiêu cũng chẳng kém cạnh mấy tí :
“Th ở quận Bình
Thạnh là một học sinh, mới học giữa lớp 11, thì theo bạn bè
bước vào con đường chơi bời. Cha mẹ có hoàn cảnh kinh tế khá
giả nên đã chu cấp cho Th rất nhiều tiền. Những lần thiết
đãi bạn bè của Th cũng làm cho các tay anh chị khác phải
trố mắt. Th có tiếng là dân chơi overnight và thay bồ như
thay áo. Cuộc sống phóng khoáng của một cô bé mới bước vào
tuổi 18 đã làm cho khuôn mặt cô già hẳn so với các bạn đồng
trang lứa. Theo bè bạn đàn đúm ăn chơi, nên Th đã bỏ học mà
cha mẹ cô không hề hay biết. Cô cặp bồ một lúc với 2 người
đàn ông, trong đó một người là bạn học và người kia là một
tay đáng tuổi bố cô để bạn bè của cô coi đó là “model” của
dân chơi có số má. Các phòng lắc, vũ trường, quán bar là
điểm đến hàng đêm của một cô bé mà trước đó ít lâu còn ngồi
trên ghế nhà trường”.
Thứ hai là lạm
dụng tiền bạc của cha mẹ cho việc đốt đời mình bằng những
viên thuốc lắc.
Trong những
ngày gần đây tại Việt Nam hàng loạt các “động lắc” được công
an hỏi thăm từ Hà Nội đến Saigon và những thành phố lớn. Mỗi
động lắc qui tụ hàng trăm thanh niên thiếu nữ thuộc diện cậu
ấm và cô chiêu, khiến bàn dân thiên hạ phải ngán ngẩm. Báo
Công An số ra thứ năm ngày 23 tháng 6 năm 2005 đã viết :
“Đến các tụ
điểm được dân chơi tín nhiệm, điều dễ dàng nhận thấy là hầu
hết các thanh thiếu niên có mặt trong đó đều tiêu tiền như
nước…L, chủ xị một nhóm bốn cô gái thường có mặt tại quán
bar GT Vũng Tàu cho biết :
- Hầu như tối
cuối tuần nào tụi này cũng tới đây, ở nhà không làm gì buồn
chán lắm.
Áo hai dây ngắn
cũn cỡn trên rốn, quần xẻ dọc xẻ ngang làm mấy tà, những cô
gái này đều đang là học sinh phổ thông trung học, nhưng hiểu
biết về mấy tụ điểm ăn chơi thì chẳng thua kém ai….
Ăn chơi trong
bar, vũ truờng thì cũng thú vị, nhưng không thể bằng
“bay”riêng trong mấy phòng karaoke, khách sạn được. Đó là
kinh nghiệm của N, một cô gái chơi thuốc lắc đến nỗi thần
kinh bị ảnh hưởng nặng mà chúng tôi gặp trong trung tâm cai
nghiện. Theo lời N, đi bay trong phòng riêng có thể ở lì vài
ngày đến khi hết thuốc mới chui ra, đám bạn cứ thế tha hồ
nhảy múa, gào thét đến khi nào hết sức thì lăn ra ngủ
thiếp…”
Sau cùng là lạm
dụng tiền bạc của cha mẹ cho những kiểu chơi cuồng loạn gây
kinh hoàng cho người khác.
Báo Công An số
ra thứ ba, ngày 21 tháng 6 năm 2005 đã đăng tin :
“Cách đây chưa
lâu, trên đường Điện Biên Phủ, Quận Bình Thạnh, đã diễn ra
một cuộc đua xe hơi với những chiếc xe đắt tiền như BMW,
Mercedes, Lexus…của các quý tử, làm náo động cả con đường
lúc 3 giờ sáng. Các tay đua này đều là những đứa trẻ, con
của các đại gia giàu có ở đất Saigon, cũng như một số công
tử từ tỉnh lẻ lên thành phố tranh tài, khoe của.
Điều đáng nói
là có quý tử còn được cha mẹ dùng tiền khoác lên mình cái
mác “học sinh du học” vừa trở về. Trong số các tay đua bị
bắt hôm đó nổi trội hơn cả phải nói đến tay đua chủ chiếc
Mercedes thể thao đắt tiền nhất. Cường quê ở Gia Lai, do
cuộc sống sung túc, được mẹ là một người kinh doanh gỗ giàu
có nuông chiều, thích gì mua sắm đó, nên Cường sớm tập tành
ăn chơi.
Dù đã được mẹ
bỏ ra gần 1.000 lượng vàng để mua cho cậu qúy tử một căn nhà
mặt tiền trên đường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Hồ Chí
Minh, nhưng Cường vẫn chưa bằng lòng, luôn than vãn vì
khoảng sân quá chặt hẹp, không đủ chỗ cho bạn bè đến chơi
đậu những chiếc xe đắt tiền.
Theo báo An
Ninh Thế Giới, tháng 6 vừa qua, tòa án tỉnh Bình Dương đã mở
phiên tòa xét xử một vụ cá độ bóng đá có quy mô lớn. Trong
vụ xét xử này, có 23 can phạm, tất cả đều là những cậu ấm,
con của các doanh nghiệp địa phương. Nổi tiếng nhất trong
đám là cậu LTN, có biệt danh là công tử Cám.
Sở dĩ người ta
gọi LTN là công tử Cám, bởi vì cha cậu là chủ một xí nghiệp
sản xuất cám nuôi heo nổi tiếng ở đất Bình Dương. Công tử
Cám cũng nổi tiếng không kém cha mình, nhưng ở khía cạnh
khác : Xài tiền, đá gà và cá độ. Chính vì thế mà những người
tham dự phiên tòa đã dành cho cậu một sự chú ý đặc biệt. Đây
là phiên tòa xét xử vụ cá độ bóng đá diễn ra từ World Cup
2002 từng gây xôn xao dư luận, khi số tiền tang vật lên tới
hơn 400 triệu đồng. Đây chỉ là số tiền thu được khi công an
bắt quả tang với 23 tay máu me cá độ mặt búng ra sữa. Trong
số đó, công tử Cám tham gia cả thảy 4 trận với số tiền khai
nhận là 34 triệu đồng.
Đối với công tử
Cám, cá độ bóng đá chỉ là một cuộc chơi trong những lúc ngẫu
hứng, còn thường ngày cậu ta mê đá gà như điếu đổ và đã mất
không biết bao nhiêu tiền cho thú chơi này. Công tử Cám nổi
tiếng với khoản sát gà.
Thấy con gà nào
chiến, dù giá hàng triệu, cậu cũng mua cho bằng được. Khi
mới ti toe vào nghề, cậu chỉ thua, tiền bao nhiêu cũng đem
cúng cho những tay chơi có máu mặt ở trường gà. Rút kinh
nghiệm, sau những trận thư hùng, con gà nào thắng, cậu đều
mua lại. Không những thế, cậu còn đi khắp nơi để săn lùng gà
chiến bằng bất cứ giá nào.
Cậu còn nuôi
một sư phụ gà để chuyên huấn luyện gà đá cho cậu. Nhưng sau
khi thắng độ, cậu thường đem số tiền thắng được bao dân chầu
rìa một bữa nhậu đập phá thả cửa tại những nhà hàng nổi
tiếng nhất Bình Dương.
Cùng hàng với
công tử Cám, còn có công tử Xe, một cậu ấm cũng “quậy” không
kém. Gia đình giàu có với hàng chục chiếc xe ben. Công tử Xe
mới 20 tuổi và đã tốt nghiệp lớp 12, nhưng vì ham chơi vô
độ, cậu quăng tiền như rác trong sới bạc.
Một trong những
bà mẹ của 23 cậu ấm, một phụ nữ lụa là nhưng vẫn không gột
rửa hết cái chất nông dân trên mình đã kể lại như sau :
Mười năm truớc
nhà bà nghèo lắm, chỉ giàu về đất. Đất có giá, chồng bà xắn
ra bán. Từ một gia đình nghèo bỗng lột xác trở thành một nhà
giàu có. Cậu con trai của bà vốn không phải là đứa trẻ ham
chơi, khi nhà còn nghèo nó vẫn chăm chỉ học hành, làm lụng
vất vả suốt ngày. Từ khi có tiền, chồng bà đèo bòng bồ nhí,
bỏ bê tất cả. Con bà bỏ học rồi thâu đêm suốt sáng chạy theo
đám bạn bè giàu có chơi bời lêu lổng. Tiền bạc vơi dần theo
những cuộc chơi của chồng và của con.
Càng viết, gã
càng cảm thấy bực bội và tức tối trước thói chơi ngông của
các cậu ấm và cô chiêu, nhưng đồng thời lại xót xa đau buồn
truớc những mảnh đời nghèo túng và nghiệt ngã. Gã rất đồng
tình với nhận xét của một bài báo :
“Việc muông
chiều con vô lối của một bộ phận nhỏ có chức có quyền từng
gây hậu quả khôn lường cho chính gia đình họ và tai họa cho
xã hội. Để có thể hạn chế tối đa điều này thì không phải ai
cũng nhận ra.
Con đường trở
thành một người hoàn thiện, sống có ích cho xã hội và tự hào
về chính mình thì dài, nhưng con đường để đánh mất mình và
gây ra nhiều hệ lụy thì quá ngắn.
Khi con cái nhà
quan không được đáp ứng điều gì đó, hoặc do đua đòi, coi
mình là “bố” thiên hạ, chẳng may bị pháp luật sờ gáy, chính
những ông bố bà mẹ đó lại dựa vào quyền uy, quan hệ của mình
để “cứu” con ra.
Trong truờng
hợp vô can như thế, biết bố mẹ mình thừa sức, dư tiền để lo
lót mọi chuyện, các “ông trời con” sẽ không ngại gì mà không
quậy phá, có khi còn nghiêm trọng hơn và “dã man” hơn!
Nếu làm một
cuộc điều tra bỏ túi, thì gã ghi nhận được như sau : phần
lớn những cậu ấm và cô chiêu này đều gặp phải những chuyện
bất ổn trong gia đình.
Thực vậy, rất
có thể gia đình họ đã bị đổ vỡ từ lâu: ông bố thì đèo bòng
bồ nhí, còn bà mẹ thì chạy theo kép nhỏ. Cuối cùng lôi nhau
ra tòa ly dị khiến họ cảm thấy bơ vơ như bị hụt hẫng.
Rất có thể gia
đình họ vẫn còn đó, nhưng cha mẹ lại quá bận rộn với chuyện
bắt mánh áp phe, quá bận rộn với chuyện tìm tiền kiếm bạc,
nên không còn thời giờ dành cho họ và họ cảm thấy như bị
thiếu vắng tình thương.
Cha mẹ sẵn sàng
cung cấp tiền bạc cho họ và còn cung cấp một cách thừa mứa.
Thế nhưng lại chẳng bao giờ trao ban cho một một sự quan
tâm, một sự chăm sóc, một sự an ủi hay khích lệ. Lúc bấy
giờ, tiền bạc không còn là một tên đầy tớ tốt giúp tiến lên
những bậc thang xã hội, mà đã trở thành một ông chủ hà khắc,
giết chết tương lai và cuộc đời của họ.
Vì sẵn tiền, họ
đã lao mình vào những ăn chơi trác táng làm băng hoại bản
thân họ. Vì sẵn tiền, họ đã lao mình vào những quậy phá, tạo
nên những bất ổn cho xã hội.
Nếu tương lai
của nhân loại phải đi ngang qua gia đình, thì trong lãnh vực
cá nhân, cuộc đời mình có sáng hơn cũng đều bởi gia đình.
Kinh nghiệm cho thấy : trong việc giáo dục, vai trò của gia
đình thật quan trọng vì gia đình chính là mái trường đầu
tiên dạy cho chúng ta những bài học làm người. Và trong mái
trường đầu tiên này cha mẹ là những thầy cô được tín nhiệm
và yêu mến hơn cả.
Gã chẳng nhớ
một nhà kinh tế hay chính trị nào đó đã phát biểu về việc
viện trợ như sau :
- Hãy trao cho
họ chiếc cần câu, chứ đừng trao cho họ con cá. Bởi vì con cá
ăn rồi sẽ hết, nhưng với chiếc cần câu thì cá sẽ vẫn còn
mãi.
Cùng một thể
thức ấy :
Đừng muông
chiều con cái, nhưng hãy dạy bảo chúng.
Đừng vội cho
chúng tiền bạc, mà quên mất tình yêu.
Đừng bao bọc chở
che chúng từ A đến Z, nhưng hãy tập cho chúng bước đi trên
đôi chân của mình với một nghề trong tay để kiếm sống.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|