Vai
Trò Ðức Nữ Trinh
Trong Nhiệm Cuộc Cứu Rỗi |
Thánh Công
Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế
Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen Gentium
Bản dịch
Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared
for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương VIII
Ðức Nữ
Trinh Maria Mẹ Thiên Chúa
Trong
Mầu Nhiệm Chúa Kitô
Và Giáo Hội
67*
II. Vai Trò Ðức Nữ Trinh
Trong Nhiệm Cuộc Cứu Rỗi
72*
55. Mẹ Ðấng Cứu Thế trong Cựu Ước.
Thánh Kinh, Cựu Ước cũng như Tân Ước, và Thánh Truyền đáng
kính, trình bày ngày một sáng tò hơn vai trò của Mẹ Ðấng Cứu
Thế trong nhiệm cuộc cứu rỗi và đưa vai trò ấy ra cho chúng
ta chiêm ngắm. Thực vậy, các sách Cựu Ước thuật lại lịch sử
cứu rỗi, trong đó ngày Chúa Kitô xuất hiện trên thế giới
được chuẩn bị cách tiệm tiến. Các tài liệu tiên khởi này,
như Giáo Hội vẫn đọc và về sau hiểu theo ánh sáng mạc khải
trọn vẹn, dần dần cho thấy rõ ràng hơn hình ảnh người nữ, Mẹ
Ðấng Cứu Thế. Theo ánh sáng mạc khải ấy, người nữ này đã
được phác họa trước trong lời hứa chiến thắng con rắn, lời
hứa mà Tổ Tông đã nhận được sau khi phạm tội (x. Stk 3,15).
Cũng thế, Ngài là Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai tên
là Emmanuel (x. Is 7,14 so sánh với Mik 5,2-3; Mt 1,22-23).
Ngài trổi vượt trên các người khiêm hạ và khó nghèo của
Chúa, là những người tin tưởng, hy vọng và lãnh nhận ơn cứu
độ nơi Chúa. Cuối cùng, sau đêm dài mong đợi lời hứa được
thực hiện, với Ngài, người Thiếu Nữ cao sang của Sion, thời
gian đã nên trọn và Nhiệm Cuộc mới được thiết lập: khi Con
Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân loại nơi Ngài để giải thoát
con người khỏi tội lỗi nhờ các mầu nhiệm của thân xác Chúa.
73*
56. Ðức Maria trong việc truyền
tin. Nhưng Chúa Cha rất nhân từ đã muốn sự
ưng thuận của người mẹ được tiền định trước khi Chúa Con
nhập thể, để như một người nữ đã hợp tác cho sự chết, thì
cũng một người nữ hợp tác cho sự sống. Ðiều đó đặc biệt
thích hợp với Mẹ Chúa Giêsu, vì Ngài đem đến cho thế giới
chính Nguồn Sống cải tạo mọi sự, và đã được Chúa ban cho
nhiều ơn cân xứng với sứ mệnh cao cả như thế. Do đó, không
có gì lạ, nếu các Thánh Giáo Phụ đã thường xưng tụng Mẹ
Thiên Chúa là Ðấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội
nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác
thành
5. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ
lúc mới được thụ thai, Ðức Trinh Nữ thành Nazareth được
Thiên Thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và kính chào là
"Ðấng đầy ân phúc" (x. Lc 1,28). Và Trinh Nữ đã đáp lời
Thiên Sứ rằng: "Này tôi là Tôi Tá Chúa, xin hãy xảy ra cho
tôi theo lời Ngài" (Lc 1,38). Như thế, Ðức Maria, con cháu
Adam, vì chấp nhận lời Thiên Chúa, đã trở nên Mẹ Chúa Giêsu.
Hết lòng đón lấy ý định cứu rỗi của Thiên Chúa, vì không một
tội nào ngăn trở Ngài, Ðức Maria đã tận hiến làm tôi tớ
Chúa, phục vụ cho thân thể và sự nghiệp của Con Ngài, và nhờ
ân sủng của Thiên Chúa toàn năng, phục vụ mầu nhiệm cứu
chuộc dưới quyền và cùng với Con Ngài. Bởi vậy, các Thánh
Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng
Ðức Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác
vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của
Ngài. Thực vậy, Thánh Ireneô nói: "Chính Ngài, nhờ vâng
phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn
thể nhân loại"
6. Và cùng với thánh Ireneô còn có rất nhiều Thánh
Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: "Nút
dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra
nhờ sự vâng phục của Ðức Maria; điều mà trinh nữ Evà đã buộc
lại bởi cứng lòng tin, Ðức Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ
lòng tin
7; và so sánh với Evà, các ngài gọi Ðức Maria là
"Mẹ kẻ sống"
8, và thường quả quyết rằng: "bởi Evà đã có sự
chết, thì nhờ Maria lại được sống"
9.
74*
57. Ðức Maria và thời thơ ấu Chúa
Giêsu. Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công
cuộc cứu rỗi được tỏ rõ từ khi Ðức Maria thụ thai Chúa Kitô
cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết. Thực vậy, trước
hết, Ðức Maria vội vã đến thăm bà Elizabeth và được bà ấy
chào mừng là người có phúc vì đã tin vào sự cứu rỗi Chúa đã
hứa, trong lúc đó vị tiền hô nhảy trong lòng mẹ (x. Lc 1,
41-45). Rồi ngày sinh nhật, Mẹ Thiên Chúa đã vui mừng giới
thiệu với các mục đồng và các nhà bác học đứa Con đầu lòng
của mình, mà khi sinh ra đã không làm giảm bớt nhưng còn
thánh hiến sự trinh khiết toàn vẹn của Ngài
10. Trong đền thánh, sau khi hiến lễ vật ấn định
cho người nghèo, Ðức Maria dâng Con lên cho Thiên Chúa, và
đã nghe Simeon báo trước Con mình sẽ là dấu chỉ sự phản
kháng, và một lưỡi gươm sẽ đâm thấu lòng mẹ, nhờ đó tư tưởng
trong lòng nhiều người sẽ được bày tỏ (x. Lc 2, 34-35). Khi
trẻ Giêsu lạc mất, Cha Mẹ đã lo âu tìm kiếm và gặp lại Con
trong đền thánh đang bận tâm lo việc của Cha Người. Các Ngài
không hiểu lời Con nói; nhưng Mẹ Chúa Giêsu giữ lấy tất cả
các điều ấy và suy gẫm trong lòng (x. Lc 2, 41-51).
75*
58. Ðức Maria và đời sống công
khai Chúa Giêsu. Trong cuộc đời công khai của
Chúa Giêsu, Mẹ Người cũng đã xuất hiện rõ ràng, và ngay từ
đầu, trong tiệc cưới thành Cana xứ Galilêa, vì động lòng
thương xót, Ngài đã cầu bầu, khiến Chúa Giêsu, Ðấng Thiên
Sai, làm phép lạ đầu tiên của Người (x. Gio 2, 1-11). Trong
thời gian Chúa truyền đạo, Ðức Maria đã đón nhận lời của Con
Ngài, những lời nâng cao Nước Trời lên khỏi những lý do và
liên hệ huyết nhục, và tuyên bố là có phúc cho những ai nghe
và giữ lời Thiên Chúa (x. Mc 3,35 và song song; Lc 11,27-28)
như chính Ngài hằng thực hành những điều đó cách trung tín
(x. Lc 2,19 và 51). Như thế Ðức Nữ Trinh cũng đã tiến bước
trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con
cho đến bên thập giá, là nơi mà theo ý Thiên Chúa, Ngài đã
đứng đó (x. Gio 19,25). Ðức Maria đã đau đớn chịu khổ cực
với Con một của mình và dự phần vào hy lễ của Con, với tấm
lòng của một người mẹ hết tình ưng thuận hiến tế lễ vật do
lòng mình sinh ra. Và cuối cùng chính Chúa Giêsu Kitô khi
hấp hối trên thập giá đã trối Ngài làm Mẹ của môn đệ qua lời
này: "Thưa Bà, này là con Bà" (x. Gio 19,26-27)
11.
76*
59. Ðức Maria sau khi Chúa lên
trời. Vì Thiên Chúa không muốn tỏ bày mầu
nhiệm cứu rỗi nhân loại cách long trọng trước khi Ngài đổ
tràn Thánh Thần Chúa Kitô đã hứa, nên chúng ta thấy các Tông
Ðồ trước ngày Hiện Xuống "đã kiên tâm hiệp ý cầu nguyện,
cùng với các phụ nữ, với Ðức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và với
anh em Người" (CvTđ 1,14). Ðức Maria cũng tha thiết cầu xin
Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Ðấng đã bao phủ lấy Ngài trong
ngày Truyền Tin. Sau cùng, được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi
vết tội nguyên tổ
12, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Ðức Nữ
Trinh Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả
hồn lẫn xác
13, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ
trụ, để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa
(x. Kh 19,16), Ðấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết
14.
77*
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo
trước)
72* Các số 55-59: Phần
I - Ðịa vị và vai trò của Ðức Maria trong nhiệm cuộc cứu
rỗi.
Bố cục phần
này rất rõ ràng, vì dựa theo các dữ kiện lịch sử mạc khải về
Mẹ Thiên Chúa trong Thánh Kinh, bắt đầu từ Cựu Ước tới thời
kỳ Giáo Hội, qua sự kiện truyền tin, tới cuộc đời thơ ấu và
công khai của Chúa Giêsu. Cứ như bản phúc trình chính thức
đã nói, đây là phần chính yếu nhất trong Chương VIII.
73* Số 55: Trong Cựu
Ước.
Thứ tự của
số này theo sát lịch sử cứu rỗi như thấy trong Cựu Ước, để
chúng ta thấy rằng người phụ nữ làm Mẹ Chúa Kitô trong Phúc
Âm cũng là Mẹ Thiên Chúa mà chúng ta nhận biết qua thần học
và qua việc tôn kính nơi các dân Kitô giáo. Như thế là Công
Ðồng cho biết sự tiến triển của mạc khải về Ðức Maria và
không ngần ngại chấp thuận phương pháp lịch sử cứu rỗi, một
phương pháp mà một số người chuyên về Thánh Mẫu học không
mấy tin tưởng. Không muốn gây ra cuộc bút chiến, nên Công
Ðồng chỉ nhằm trình bày một "bản tiểu sử" về người Phụ Nữ,
dựa trên toàn thể chứng từ được linh ứng của Mạc Khải trọn
vẹn và trên chứng từ của đời sống Giáo Hội.
74* Số 56: Truyền tin.
Công Ðồng
theo vết các Giáo Phụ, coi câu chuyện truyền tin rất quan
trọng, vì nhìn thấy ở đó thái độ căn bản của mọi Kitô hữu.
Giáo Hội thuở đầu đã bày tỏ lòng tin của họ vào thái độ chấp
nhận này của Ðức Maria, vì là kết quả của đức tin và tình
yêu của Mẹ. "Chấp nhận" không những là tiếng nói then chốt
trong cả câu chuyện nhưng đồng thời còn là tiếng nói lược
tóm tất cả viễn ảnh đời sống của Kitô hữu: ưng thuận khi
Chúa đến và để ý định cứu rỗi hoàn tất trong ta, vừa biết
quảng đại phục vụ cho công cuộc cứu thế; cũng như Ðứa Maria,
chúng ta tích cực cộng tác mà không tự mãn, và qua việc chấp
nhận ấy, ân sủng đem lại sự sống: trong Chúa Kitô, Ðức Maria
đã ban cho thế giới Nguồn Sống đổi mới mọi sự.
75* Số 57: Ðức Maria và
cuộc đời thơ ấu Chúa Giêsu.
Câu đầu tiên
của số này nêu lên ý tưởng chỉ dẫn: Ðức Maria liên kết với
Chúa Con trong công cuộc cứu thế từ lúc thụ thai Chúa Giêsu
mà vẫn đồng trinh cho tới mầu nhiệm cuộc tử nạn của Chúa.
Công Ðồng trình bày chân lý này rõ ràng hơn bao giờ hết. Chủ
đề trở lại ba lần: lần Ðức Maria đi thăm bà Elizabeth, lần
sinh Chúa ở Bêlem và lần dâng Chúa trong đền thờ. Câu chuyện
tìm thấy Chúa trong đền thờ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự
liên kết ấy.
76* Số 58: Ðức Maria và
cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.
Một cách vắn
tắt, Công Ðồng đóng khung hoạt động của Ðức Maria trong cuộc
đời công khai của Chúa, vì theo thánh Gioan, lúc khởi đầu và
kết thúc sứ vụ công khai đều có sự hiện diện của Ðức Maria.
Trong hai lúc này Ðức Maria mới chỉ được gọi là "Bà". Ðó là
lúc ở tiệc cưới Cana và khi đứng dưới chân Thánh Giá. Hai
lời Chúa nói xem ra như hất hủi Ðức Maria. Việc can thiệp
của Ðức Maria có nhiều ý nghĩa, nhưng lại nằm trong văn mạch
mới đầu có thể coi là kỳ lạ. Ý tưởng chính là: Nước Thiên
Chúa vượt quá mọi mối liên hệ xác thịt và hoàn toàn ở trên
sự tính toán của con người. Câu chính trong số này trình bày
một ý tưởng ít quen thuộc hơn: Ðức Maria cũng tiến tới trong
cuộc hành trình Ðức Tin qua đau khổ và u tối.
77* Số 59: Ðức Maria
sau khi Chúa lên trời.
Có hai vấn
đề nói ở đây: 1) Lời cầu nguyện của Ðức Maria trước lễ Hiện
Xuống cùng với các Tông Ðồ, các phụ nữ và các anh em Chúa.
Ðức Maria ở giữa dân chúng chứ không ở trong số những người
điều khiển cộng đoàn. Mẹ tham dự vào kinh nguyện chung. Mẹ
thuộc thành phần Giáo Hội cầu nguyện đang chuẩn bị thi hành
sứ mệnh của mình, và Mẹ cầu nguyện với tước hiệu duy nhất là
Mẹ Chúa Giêsu (CvTđ 1,14). 2) Công Ðồng tái xác nhận hai tín
điều đã được Giáo Hội tuyên bố khi lập lại những lời của các
câu định tín liên hệ. Hai tín điều này có liên quan mật
thiết với nhau. Ðức Maria được suy tôn làm Nữ Vương của vũ
trụ, để trở nên giống với Con Mẹ là Chúa các Chúa một cách
hoàn toàn hợn, và được suy tôn là Ðấng chiến thắng tội lỗi
và sự chết.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
HỌC THUYẾT XÃ HỘI, BÀI VI. KINH TẾ (202 – 250) tiếp theo |
76.
Trách nhiệm của nhà nước trong việc duy trì trật tự kinh tế
như thế nào?
Một trong những nhiệm vụ của
nhà nước đó là giám sát và hướng dẫn việc thực thi nhân
quyền trong lãnh vực kinh tế. Nhà nước có bổn phận dùy trị
sự ổn định cho các hoạt động kinh doanh bằng cách tạo điều
kiện để đảm bảo cơ hội nghề nghiệp cho người dân, đặc biệt
trong những điều kiện khủng hoảng. Xa hơn, nhà nước có quyền
can thiệp khi sự độc quyền làm cản trở hay chậm lại sự phát
triển. Trong một vài trường hợp ngoại lệ, nhà nước có thể
thực hiện chức năng thay thế khi một bộ phận kinh tế bị lũng
đoạn. Những biện pháp can thiệp hổ trợ này chỉ nên thực hiện
trong những trường hợp khẩn thiết và nhằm phúc lợi cho công
ích, nên tránh việc can thiệp quá đà vào các lãnh vực đã ổn
định; điều này làm tổn hại cả cho kinh tế và quyền tự do của
công dân. (cf. Centesimus Annus, # 48).
77.
Nhà nước cần áp dụng nguyên tắc nào khi can thiệp vào lãnh
vực kinh tế?
Khi can thiệp vào các lãnh vực
xã hội nói chung và kinh tế nói riêng, theo ĐGH Piô XI,
nguyên tắc hổ trợ được xem là nguyên tắc căn bản được áp
dụng. Tức là “một tập thể cấp cao không được can thiệp vào
nội bộ tập thể cấp thấp đến độ tước mất các thẩp quyền của
nó, nhưng đúng hơn phải nâng đỡ nó khi cần thiết, và giúp nó
phối hợp hoạt động với những tập thể khác, để mưu cầu ích
chung” (x. CA 48 – Pio XI). Như vậy, sự can thiệp quá mức sẽ
đe dọa đến sáng kiến và tự do cá nhân. Vì các hoạt động xã
hội theo bản chất tự nhiên là giúp đỡ các thành viên của nó,
không bao giờ hủy diệt nó hay làm cho nó bị sát nhập.
78.
Người ta có lợi dụng khả năng làm việc để hạ phẩm giá của
nhau không?
Thật đáng buồn khi đức tính
cao đẹp của con người bị lợi dụng cho việc này. Thật vậy,
chăm chỉ làm việc là một đức tính tốt nhờ đó khi chăm chỉ
làm việc con người sẽ trở nên con người tốt hơn. Nhưng có
những nơi người ta dùng công việc như là những phương cách
nhằm hạ thấp phẩm giá con người. Đặc biệt trong các trại cải
tạo tập trung nơi mà người ta sử dụng sức lao động như là
một hình phạt để bóc lột sức lao động con người. Việc hạ
thấp phẩm giá này không chỉ nhắm tới việc làm hao mào thể
chất của người lao động, nhưng xa hơn nữa, nó gây tổn hại
đến phẩm giá của người lao động như là một con người chủ thể
(cf. Laborem Exercens, # 9).
79.
HTXH khuyến khích quyền sáng kiến kinh tế ra sao?
“Mỗi người có quyền sáng kiến
trong sinh hoạt kinh tế, sử dụng chính đáng tài năng của
mình để góp phần làm ra nhiều của cải cho mọi người được
hưởng, và gặt hái những hiệu quả chính đáng do các nỗ lực
của mình. Họ phải để tâm tuân theo các qui định do chính
quyền hợp pháp đề ra vì công ích” (GLCG # 2429).
Thật đáng quan tâm khi thế
giới ngày nay có những nơi quyền sáng kiến trong sinh hoạt
kinh tế cũng bị cấp đoán. Quyền này không chỉ quan trọng cho
mỗi cá nhân nhưng còn quan trọng cho lãnh vực công ích. Kinh
nghiệm cho thấy, nhân danh “bình đẳng” để giới hạn hay tước
đoạt quyền này, trong thực tế là đã hủy diệt tinh thần sáng
kiến của chủ thể công dân. Và kết quả là, nó không mang lại
sự “bình đẳng” thật sự mà còn đào thêm hố sâu ngăn cách giữa
con người với nhau (cf. Sollicitudo Rei Socialis, #
15).
80.
HTXH nói đến “chủ nghĩa tiêu thụ” như thế nào?
Sự phát triển thái quá đến mức
thừa mứa của cải vật chất của một số bộ phận trong xã hội đã
làm cho người ta dễ dàng trở nên nộ lệ cho những của cải ấy.
Nền văn minh “tiêu thụ” hay “chủ nghĩa tiêu thụ” nghĩa là
liên quan đến khái niệm “ném đi” hay “bỏ đi”. Nhưng cần hiểu
rằng, khi ta sở hữu một tài sản, tài sản ấy chỉ có giá trị
khi nó giúp người chủ sở hữu trưởng thành và làm cho mình
phong phú hơn. Nhưng ngược lại, nếu tài sản ấy không đóng
góp vào việc giúp nhận thức ơn gọi làm người, thì chúng sẽ
không mang giá trị hữu ích gì cả. (cf.
Sollicitudo Rei Socialis,
# 28).
Thực ra, sẽ không có gì sai
trái khi chúng ta muốn có một đời sống tốt hơn, nhưng sẽ sai
khi người ta quan niệm một đời sống chỉ nhắm đến việc chiếm
hữu; muốn có nhiều hơn để nhằm hưởng thụ và coi nó như là
cùng đích thay vì nhìn nhận đời sống như nó là (cf.
Centesimus Annus, # 36).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
XIN MẸ
THƯƠNG NHỮNG ĐỨA CON CÔI CÚT |
Mẹ ơi Mẹ! Đức Mẹ Hằng Cứu
Giúp!
Mẹ thông ban ơn Chúa tự trời
cao
Mẹ Nữ vương thần thánh ở thiên
trào
Mẹ rất xứng danh hiệu Hằng Cứu
Giúp!
Xin Mẹ thương những đứa con
côi cút!
Đang bị ba thù vây bủa xung
quanh*
Chúng tấn công và múa vuốt nhe
nanh
Chúng trù dập, làm những điều
gian ác!
Cùng nguyện cầu, đàn con Mẹ ca
hát
Xin Chúa thương ban ơn đánh
động lòng
Cho Công bằng và Nhân ái, Bao
dong
đến ngự trị nơi cuộc đời hung
hiểm!
Phép lạ Mẹ làm, xưa nay không
hiếm
Mẹ ban Bình an, Tương ái,
Tương thân
Để Thiện căn và Bác ái nẩy mầm
Để danh Chúa Nhân Lành được cả
sáng!
Để thế giới này thoát vòng mê
loạn
Người trở nên chính trực, biết
thương nhau
Để lời Chúa về thưởng phạt đời
sau
Sẽ mãi mãi là phương châm cứu
độ!
Mẹ ơi Mẹ! Xin Mẹ thương hỗ trợ
Chúng con dâng Yêu mến với lời
kinh
Cho chúng con Nhẫn nhục, đức
Hi sinh
Để xứng đáng đoàn con yêu của
Me!
28-9-2008
Xuân Vũ Trần Đình Ngọc
*thế gian, ma quỷ và xác thịt |
VỀ MỤC LỤC |
|
PHONG-KIẾN TÂM-LINH |
Khi
nhận-định về ảnh-hưởng của tôn-giáo trong sinh-hoạt tư-tưởng
của con người, Karl Marx đã phê-phán rằng tôn-giáo chính là
một thứ “ma-túy” làm mê-hoặc nhân-tâm hoặc làï “tiếng thở
dài của thân-phận bị áp-bức”. Điều này có nghĩa là tôn-giáo
bị lên án như là một tác-nhân gây băng-hoại sự
thăng-tiến trong nhận-thức con người, như một cách-thế ru
ngủ nhân-loại. Lối nhận-xét này sẽ chỉ có tác-dụng như một
lời phiếm-luận mà ai cũng biết là để tuyên-truyền cho
chủ-trương vô-thần khi đứng trên căn-bản nhận-thức từ
giá-trị nguyên-ủy của các tôn-giáo. Thế nhưng nếu nhìn vào
một vài khía cạnh mà khi tôn-giáo đã bị con người lạm-dụng
để củng-cố quyền-lực và vinh-danh thân-phận mình thì lối
định-nghĩa trên của Karl Marx cũng có phần đúng; song cái
đúng ở đây không phải do ở bản-chất minh-nhiên của tôn-giáo
đã có điều bất ổn khiến người ta có thể uốn nắn những
nguyên-tắc đạo-đức thành ý-niệm méo mó như trên, mà đúng ở
đây là vì những kẻ thừa-hành chức-năng rao truyền chân-lý
hay hoằng-dương đạo pháp đã sai đường, lạc lối để "nên cớ
cho người vấp phạm".
Tôn-giáo
nào đến giữa đời cũng đều là để giúp con người tìm ra lẽ
tự-thân của mình trong tư-thế của một tạo-vật tự-do và
độc-lập để quyết-định cho mình một hướng sống phù-hợp
nhu-cầu tâm-linh hướng-thượng. Có điều cái cách-thế độc-lập
tự-do này không bao hàm ý-nghĩa về một sự tách rời đơn độc
mà cần phải có sự liên-đới và hòa-đồng giữa những người cùng
chung một ý-thức tôn-giáo khi niềm tin đã trưởng-thành. Các
giáo-hội vì vậy ngay từ buổi đầu đã hình-thành những cơ-chế
và rồi dần dần được hệ-thống-hóa trong chủ-trương giúp nhau,
dẫn giắt nhau, hợp sức cùng nhau xây-dựng một thế giới
tốt-đẹp như tâm-nguyện của các bậc giáo-chủ cao-minh đã vì
đời mà dâng hiến.
Song le,
thế-gian là một cõi ta-bà nên lòng người với ý trời càng
ngày càng nghịch biến và đến bây giờ thì hầu như tôn-giáo
nào cũng bị lâm nạn. Đó là cái nạn bị chính những môn-đồ của
mình mưu hại bằng những cái cực-đoan, lạm-dụng quyền-bính
quá độ rồi từ đó dẫn đến những ngộ-nhận xuyên qua một số kẽ
hở trong cơ-chế vì, cơ-chế nào – ngay cả cơ-chế tôn-giáo –
cũng có những kẽ hở để con cái thế-gian như loài rắn đêm
nguy-hiểm ẩn mình, để luồn lách bằng đủ mọi chiều kích của
cái tính xác thịt, tính thế-gian. Những cái “tính” này cùng
một lúc được kết-hợp với “năng quyền đã được ủy-thác” bị cố
ý để trong nghĩa mập-mờ thì chúng sẽ trở thành tác-phong của
kẻ thống-trị chứ không còn là hành-sự của thừa-tác-viên
Hội-thánh và nhất là chiến-sĩ Nước Trời nữa. Đạo không xa
người, nhưng chính người bỏ xa đạo là vì thế; xa đến độ
không định-vị nổi tự-thân mình đang ở đâu và đang làm gì nữa
mới là khốn khó cho Giáo-hội và cho chính Đức Ki-tô.
Trong
chế-độ phong-kiến xa xưa, vua được tôn là thiên-tử, là đấng
cửu ngũ chí-tôn lãnh mệnh trời để cai trị bàn dân thiên-hạ.
Rồi cũng từ cái thế được làm “con trời “ này mà phát-sinh
nhiều tội lụy và oan-khiên kiểu thuận ta thì sống mà nghịch
ta thì nếu không chết cũng bị kết tội loạn-thần, cho nên
người ta vội ngừng ngay ở ý-niệm này để lúp-xúp tung-hô vạn
tuế cả minh-quân lẫn hôn-quân cho yên việc. Mà theo thói
thường tự cổ chí kim thì minh-quân quá hiếm khi so với lượng
số hôn-quân, bạo chúa trong đời cho nên nhìn đâu cũng chỉ
thấy uy-lực và quyền hạn của “con trời” mà không mấy ai dám
luận về sự hiểu biết trách-nhiệm làm con của trời thì cũng
phải làm theo ý trời muốn là “dân vi quý, xã-tắc thứ chi,
quân vi khinh”. Không những thế, cái bóng quyền-lực này còn
tỏa lan đến một hệ-thống cơ-chế “ăn theo” rộng rãi để
khuynh-loát xã-hội đến độ thất điên bát đảo vì những hành-vi
vô-đạo, vô-pháp, của những cá-nhân vô kỷ, vô cương mà vẫn
hống-hách dạy đời theo kiểu ta đây là dân chi phụ-mẫu mà
theo quan-niệm của Nho giáo thì đó là những kẻ tiểu-nhân.
Ngược lại với những kẻ tiểu-nhân này là người quân-tử, đầu
đội trời, chân đạp đất để sống bình-hoà, trung chính.
“Quân-tử trung-dung, tiểu-nhân phản trung-dung. Quân-tử chi
trung-dung giã, quân-tử nhi thời trung; tiểu-nhân chi phản
trung-dung giã, tiểu-nhân nhi vô-kỵ đạn giã” (Trung-dung –
Hữu đệ nhị chương); nghĩa là bậc quân-tử là những người có
đạo-đức thì giữ được đức trung-dung. Còn kẻ tiểu-nhân là
hạng kém đạo-đức thì trái với đức trung-dung. Người quân-tử
giữ được đức trung-dung là bất kỳ giờ phút nào cũng giữ gìn
được cái tâm chính-trực, không bị hoàn-cảnh lôi kéo làm cho
lệch-lạc, nghiêng ghé; còn kẻ tiểu-nhân đi ngược lại với đức
trung-dung nên tâm địa khuất-tất, lòng tư-dục mạnh hơn
nhân-cách nên không màng tới tu-đạo mà chỉ mê chạy theo
ngoại giới thành ra chẳûng còn biết kiêng dè, sợ-sệt chi
cả.
Khi xưa
Đức Ki-tô thường dùng dụ-ngôn để giảng dạy và đám đông theo
Người đã bị ý nghĩa của những dụ-ngôn đó lôi kéo càng ngày
càng thêm số để chúng ta có một Hội-thánh đông đảo như hiện
tại. Ngày nay, phần lớn những dụ-ngôn đó hình như đã bị
người ta cho rằng chỉ còn giá-trị của loại truyện cổ-tích
không hay lắm hay sao mà ít khi được các thầy giảng đem ra
dẫn chứng hay phân-tích tỉ-mỉ mà thay vào đó là những chuyện
tình, chuyện phim hay tiểu-thuyết với đầy đủ từng khía cạnh
tâm-lý của mỗi nhân-vật.
Chẳng hạn
dụ-ngôn về những nén bạc (Mt 25, 14-30: Lc 19, 11-27) thường
khi đã chỉ được diễn-giải xuôi chiều kiểu hơi khoe khoang,
tự mãn để người nghe phải suy ra như đấy chính là giấy chứng
nhận khả-năng, đức-độ và quyền-hạn của những người được trao
nhận mà không được thấy nhấn mạnh rằng đấy chính là những số
lượng yêu-sách mà Chúa đòi phải được đáp trả đúng với sứ-vụ
của Người đã giao cho. Ý nghĩa của việc làm cho các nén bạc
sinh lời thật là tự-nhiên, dễ suy dễ luận nhưng lại cũng rất
khó cho người đứng giảng dạy phải phân-tích và minh-chứng
kết quả lời lãi qua việc thực-thi nếp sống tu-đức và
đạo-hạnh hàng ngày của cả người nói lẫn người nghe. Thành ra
người ta bỏ qua các dụ-ngôn hơi nhiều là vì vậy; bởi vì nếu
nói phớt qua thì chỉ là sự lập lại thừa-thãi hoặc giải-thích
sơ sài những ý nghĩa quá hàm súc, mà nói vào nội-dung thì
phiền quá, vừa phải suy-nghĩ vừa dễ đụng chạm mà có khi còn
là điều nhức-nhối cho chính cả người nói nữa.
Ngày xưa,
sự uý kỵ mạnh nhất là đụng chạm đến ngôi vị thiên-tử. Từ một
tứ thơ ngâm vịnh của kẻ sĩ hào-sảng nào đó đến một câu văn
hay một điển-cố được nêu ra trong quyển thi, các sĩ-tử cũng
phải cân nhắc để tránh bị suy diễn và bị kết tội xúc-phạm
đến chính đấng thiên-tử chí-tôn hoặc bất cứ những gì có
liên-đới với quyền uy này. Tội danh nặng nhất bị cột buộc là
mưu phản hoặc khi quân phạm-thượng. Ngày nay, con người đã
trưởng-thành nhiều trong ý-thức về quyền-lực cai-trị cũng
như vị-thế của những người lãnh-đạo cho nên các tội danh
kiểu như vậy không còn nữa. Chẳng hạn cho dù có là vị
tổng-thống một nước mạnh như Bill Clinton mà làm bậy cũng
vẫn bị dân chúng chỉ-trích, phê-bình thẳng mặt và còn bị
đàn-hặc hoặc chất-vấn nữa. Có tinh-thần dân-chủ như vậy thì
nhân-quyền mới được tôn-trọng, cá-nhân người lãnh-đạo mới
biết tự-chế để tránh lạm-dụng tước quyền mà lộng-hành,
độc-đoán và đất nước mới đỡ được nạn thối nát, độc-tài để
nhờ vậy mà uy-quyền quốc-gia có giá-trị và được tôn-trọng.
Và vậy là kể như một thời phong-kiến đã qua, đỡ cho bao
nhiêu người khỏi mắc vạ oan-khiên để yên thân làm một người
công-dân tự-do.
Thế nhưng
với những người công-dân tự-do Ki-tô hữu thì họ lại còn có
thêm một vị-thế nữa là làm công-dân Nước Trời nên cũng phải
liên-đới trong trách-nhiệm ngôn-sứ thiêng-liêng để như hai
thánh Tông-đồ Phê-rô và Gio-an đã tuyên-bố với
thượng-hội-đồng Sanhédrin của Do-thái rằng “Chúng tôi không
thể làm gì khác hơn là chỉ nói về những gì đã thấy và
đã nghe” (Tông-đồ Công-vụ 4, 20). Và sứ-vụ không-thể-làm-gì-khác-hơn-được
này sau hai ngàn năm vẫn còn phải tiếp-tục như lời Đức
Giáo-hoàng Gio-an Phao-lô II trong Thông-điệp Ngày
Truyền-thông Thế-giới lần thứ 34:“Dĩ nhiên, cục-diện và hoàn
cảnh đã thay đổi một cách phi-thường trong hai ngàn năm
qua. Thế nhưng nhu cầu rao giảng về Đức Ki-tô vẫn tồn-tại.
Bổn phận chúng ta làm chứng tá cho sự chết và sự sống lại
của Chúa Giê-su và làm chứng cho sự hiện diện cứu rỗi của
Người trong chính bản thân chúng ta. Đây là một bổn phận
thực và khẩn thiết giống như bổn-phận của các môn-đệ đầu
tiên của Chúa vậy” và thông-diệp kết-luận bằng một lời chúc
những người đang sinh-hoạt trong lãnh-vực truyền-thông
là “Ước nguyện Thiên-Chúa chúc lành muôn ơn của Người
trên hết thảy những ai tôn-vinh và loan truyền Con Thiên
Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, trong thế-giới mênh
mông của các phương tiện truyền thông đại chúng” (Thông-điệp
Ngày Truyền Thông Thế-giới kỳ thứ 34).
Thực ra
không phải đến bây giờ Giáo-hội mới đặt nặng vai-trò của
truyền-thông trong việc rao giảng Tin Mừng. Trước đây gần
nửa thế-kỷ, Công-đồng Vatican đã chinh-thức côïng-nhận
vai-trò, trách-nhiệm và hiệu-năng của ngành này bằng
Sắc-lệnh về các phương-tiện truyền-thông xã-hội . Tuy nhiên
hình như Sắc-lệnh này còn rất xa-lạ với Giáo-hội Việt-Nam,
cho nên đa-số giáo-sĩ và tu-sĩ vẫn còn mang não-trạng thiếu
cởi mở với những cơ-quan truyền-thông do giáo-dân phụ-trách.
Mà nếu có thì sẽ bị mắc vạ từ tám hướng đưa hơi độc về tội
danh “chống cha, chống Giáo-hội và chống Chúa” nếu như có
chút nhận-định nào đó gây đụng chạm đến các vị có chức thánh.
Đấy chính là cách kết tội kiểu bá-quyền, giống như những
hôn-quân, bạo-chúa xưa kia cả đời ngồi trên ngôi thiên-hạ
chí-tôn chỉ đọc một câu sách trị nước cắt đầu, bỏ đuôi là
“quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” mà không đọc những
câu khác như “quân quân, thần thần” để làm vua cho ra cách
làm vua. Có điều chẳng hiểu từ lúc nào và dựa trên cơ-sở gì
mà cứ mỗi khi có một tiếng nói trung-thực nào đó được gióng
lên về những chuyện chằng nên của từng cá-nhân linh-mục,
tu-sĩ là bị ghép ngay vào cái tội “chống cha, chống Giáo-hội
và chống Chúa”. Ba danh-xưng này không thể tách rời nhau vì
một mối giây thiêng-liêng ràng buộc để thành một chữ “đạo”
đẹp nét; nhưng nếu đem giản-lược cả ba lại thành một
thực-tại bất-khả xâm-phạm thì rất ư là không ổn, không đúng
tín-lý cũng như không có nguyên-tắc ăn theo như vậy bao giờ.
Vả chăng, ai cũng hiểu rằng giữa thiên-chức linh-mục và
người đang mang thiên-chức đó có sự tách-biệt rõ ràng.
Không ai phủ-nhận ý-nghĩa cũng như giá-trị của chức linh-mục,
song ý-nghĩa và giá-trị này sẽ không bị đồng-hoá với
cá-tính hay nhân-cách của những người mang chức thánh này.
Cho nên khi một bài báo lên tiếng phê-bình hay nhận xét về
hành-sự của linh-mục nào thì chỉ có nghĩa là người viết muốn
nói thẳng rằng cá-nhân ông linh-mục đó đã bất xứng với
thiên-chức đang mang. Đồng thời để bảo toàn sự đáng tôn đáng
quý của chức thánh này mà không thể làm ngơ để cho từng
cá-nhân bất xứng hay lầm lạc làm “ố danh sự đạo và chức
linh-mục”. Thành ra những luận-điệu cứ gom hết mọi sự vào
một mối tội chống linh-mục, chống giáo-sĩ mà không minh-xác
là linh-mục nào, giáo-sĩ nào với những hành-sự ra sao thì
thật tình không khác chi tác-phong của những hôn-quân,
bạo-chúa thời phong-kiến có quyền “xuất-nhập nhân tội”
hay“gắp lửa bỏ bàn tay” bất kỳ kẻ nào nói chạm đến mình.
Trong lời
mời mở đầu Thông-điệp Ngày Truyền-Thông Thế-giới lần thứ 34,
Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã nói về sứ-vụ và ơn gọi
làm truyền-thông là “Loan báo Chúa Ki-tô qua truyền-thông
ngay từ buổi bình-minh của Thiên-niên mới. Đây là lời
mời gọi chúng ta nhìn về tương-lai đối-diện với những
thách-đố mới, cũng như nhìn về quá-khứ trong buổi bình-minh
của chính Ki-tô giáo chúng ta để tìm ra ánh sáng và sự can-đảm
mà chúng ta cần đến. (Thông-điệp ngày Truyền-thông Thế-giới).
Sự can-đảm này đối với Giáo-hội Việt-Nam phải chăng là phải
thay đổi được não-trạng độc tôn hạn hẹp của phần lớn giáo-sĩ,
tu-sĩ chỉ muốn giáo dân lúc nào cũng là những con cừu đần
độn dễ bảo, dễ sai cũng như mặc-cảm “phạm tội” sai trái của
đa số tín-hữu thụ-động cứ nghĩ rằng giữ đạo tốt là “lạy cha”
cho nhiều, cứ nghe cha mọi đàng là ngoan đạo mà quên rằng
“cha” thì cũng là huynh-đệ của mình trong đoàn lữ-hành đức
tin và cũng cần phải tỉnh-thức từng giây từng phút để
thăng-tiến tâm-linh và trui rèn tu-đức. Giáo dân cũng phải
có trách-nhiệm liên-đới với giáo-sĩ, tu-sĩ vì cùng chia-sẻ
một nhiệm-vụ làm ngôn-sứ, cùng nhau ra khơi như Đức Ki-tô
hằng mong muốn. Trong Hội-thánh Chúa, không có giai-cấp
thống-trị và cũng không có thành-phần bị trị mà là một
cộng-đồng hiệp-thông trong ơn soi dẫn của Thánh-linh để mọi
con cái Người vì đời mà dấn-thân và phục-vụ tuỳ vào những
nén bạc đã nhận để làm sao chúng sinh được nhiều lợi ích.
Phạm Minh-Tâm |
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT CHÚT TÂM TƯ
|
Khi ông Adam và
bà Eva cãi lời Chúa ăn trái cấm, đã bị thiên thần Chúa sai
xuống đuổi ra khỏi vườn địa đàng là nơi hai ông bà đang
hưởng mọi sung sướng, không biết đau khổ chết chóc là gì.
Chúa đã quở mắng hai ông bà: Ngươi và con cháu ngươi sau
này sẽ phải đổ mồ hôi máu mới có cơm ăn áo mặc, đau khổ sẽ
luôn luôn ở bên cạnh ngươi như hình với bóng và đời đời ám
ảnh ngươi. Ngươi sẽ phải chết.
Thực vậy, đời
người không có gì kinh hãi cho bằng ĐAU KHỔ, dù là đau khổ
thể xác hay tinh thần. Vì vậy bản tính con người là ham SỐNG
sợ CHẾT, luôn luôn tìm kiếm sung sướng và tránh né đau khổ
nhưng vẫn bị đau khổ ám ảnh hành hạ. Con người ít ai được
thỏa mãn với sung sướng hạnh phúc, trái lại đau khổ thì
triền miên. Đau khổ và hạnh phúc trở thành những hiện tượng
tâm lý triết học cho đến nay vẫn chưa một triết gia, một nhà
đạo đức học, xã hội học hay tôn giáo nào có thể cắt nghĩa
một cách toàn bích và giải quyết thỏa đáng. Nó giống như SỰ
SỐNG và SỰ CHẾT, chẳng ai có thể giải quyết được, ngoại trừ
Thiên Chúa.
Đau khổ và hạnh
phúc là những cái gì vô hình vô tượng, nó mờ ảo mung lung,
lúc ẩn lúc hiện, lúc cùng cực thanh thản, lúc triền miên sâu
thẳm, lúc nhởn nhơ hời hợt, đến ở vô lường. Nó luôn luôn ở
những cực đối kháng của tận cùng tâm tư. Có những lúc con
người tự mình muốn tìm cái chết / tự tử, phải chăng vì họ
thấy rằng không thể trốn thoát khỏi đau khổ và lưỡi hái tử
thần.
* * *
Ông Lân được
bác sĩ C. cho nhập viện để điều trị bệnh ung thư từ hơn một
tháng nay. Bây giờ thì tình trạng vẫn nhập nhằng không giảm
không tăng, nhưng có chiều đi đến nguy kịch khó thoát khỏi
tử thần. Đôi lúc ông rất tỉnh táo bình thản, đôi lúc hốt
hoảng như người mất hồn, có lúc cười nói quá độ, có lúc sầu
thảm không nói không rằng, có lúc hung dữ cáu kỉnh. Bất
định. Hạnh phúc, đau khổ, sự sống, sự chết đang quay lộn
trong đầu ông. Ông thất vọng buồn nản đến điên khùng vì
chẳng ai biết ông, chẳng ai hiểu ông, hiểu biết nổi tâm
trạng ông, cái khốn cùng ghê rợn và đau đớn tận cùng của
ông.
-Đừng gọi
tôi bằng LÂN nữa . Cô không có quyền gọi như vậy. Tôi là ông
Lân, ông Nguyễn văn Lân.
Anh bận bộ đồ
nhà thương màu xanh lam đã ngả màu trắng nhạt. Anh ngồi yên
bất động, thân tựa vô thành giường, nhưng lòng thì bồn chồn
khôn tả,. Anh nóng lòng chờ bác sĩ đến khám. Hôm nay là ngày
anh khám định kỳ bác sĩ chuyên môn ung thư máu. Cứ sáu tháng
một lần. Anh đã đợi ít nhất là mười lăm phút trong cái
phòng này mà anh biết chắc nó giống y chang cái phòng mà ông
Lân đang la hét trong đó. Tập hồ sơ bệnh lý dày cộm của anh
có đánh dấu màu đặc biệt đã được bà y tá để sẵn trên cái kệ
sắt ngay cửa phòng. Anh bước tới đứng trước tấm gương treo
trên tường chỗ bàn rửa mặt, ngắm nhìn mặt mình lần chót xem
có giống một người bình thường mạnh khỏe tráng kiện không.
Trong phòng không có được một tờ báo, dù là nhật trình hay
nguyệt san..., chỉ độc nhất có một tấm lịch với ngày tháng
năm dần dần mỏng đi. Anh nhìn chăm chú vào tấm lịch, cố gắng
tưởng tượng và nhớ xem bác sĩ C. và hắn sẽ hoạch định chương
trình trị liệu hóa học ra sao, rồi anh như cái máy tự động
đi đi lại lại quanh phòng không ngừng. Bất thần anh dừng
lại, lắng nghe những tiếng động trong không gian, nơi bệnh
viện và những phòng chung quanh đây đó. Anh muốn nghe lén
xem thiên hạ đang bàn tán, truyện trò, than vãn, trách móc,
uất hận hay buồn phiền, chấp nhận những gì.
Hình như có
tiếng cô y tá trẻ đang nói.
-Tôi thành
thật xin lỗi ông. Chúng tôi thường kêu mọi người và bệnh
nhân trống không bằng cái tên gọi cho nó thân mật. Thực tình
tôi không cố ý coi thường ông đâu.
-Cô đã làm
tôi bực mình khó chịu. Cô không có quyền làm như vậy. Trong
đời tôi, chỉ có một mình vợ tôi có quyền gọi tôi bằng tên
trống không như vậy mà thôi. Không phải cô.
Có tiếng
một bệnh nhân đồng cảnh ngộ tiếp tục cằn nhằn gắt gỏng trách
móc như vậy ở phòng số 3 thì phải ?
Được rồi, ông
Lân, ông cứ tiếp tục ý kiến và lập trường của ông đi. Tôi
muốn cùng với ông la hét lên như vậy. Đừng để cho họ hay bất
cứ ai lấy đi một tý nhân phẩm nào của ông. Ông là một bệnh
nhân. Ông bị ung thư. Ông là con người. Ông là một người có
nhân trí. Người ta không biết, không hiểu và cũng không tài
nào có thể hiểu biết nổi cái khốn cùng đớn đau của ung thư.
Không cần biết có bao nhiêu người như chúng tôi hàng ngày ra
vào nơi bệnh viện này, trong những phòng khám và điều trị
như thế này. Họ không tài nào hiểu nổi cái khốn cùng của con
người khi phải cởi bỏ tất cả áo quần, thân xác trần truồng
để được khám xét cẩn thận từng ly từng tý trên thân xác. Chỉ
một sự duy nhất còn lại là kinh hãi và bẽ bàng.
-Ông Lân,
tôi xin lỗi vì đã làm ông phật lòng. Tiếng bác sĩ C. nói khi
cô y tá vừa đóng cánh cửa phòng lại.
Những bực bội
khó chịu chớp nhoáng qua đi nhưng còn muôn vàn thứ đang
chồng chất trong anh. Bây giờ anh ngồi tê cứng ở cuối bàn
khám, hai chân bỏ thõng xuống, hai cánh tay ôm chặt lấy ngực
như muốn che kín cả thân xác mà vẫn cảm thấy trống trải,
lạnh lẽo, bẽ bàng. Anh thắc mắc phân vân nghĩ về dĩ vãng xa
xưa năm năm trước lúc bác sĩ báo tin cho anh biết anh bi
bệnh ung thư Hodgkin’s. Biết bao tiếng xì xào oán hận buồn
rầu mà anh nghe được vừa phát ra từ những phòng chung quanh.
Biết bao con mắt mất thần của những bệnh nhân còn sống sót
mà anh nhìn thấy lúc ngồi bên cạnh họ trong phòng đợi và nơi
hành lang bệnh viện. Anh quan sát và cảm thông. Biết bao mẩu
chuyện đối thoại giữa các bệnh nhân từ lâu cất kỹ trong óc
giờ đây đang dồn dập trở lại thao diễn trong đầu anh với mọi
chi tiết tỷ mỉ và sáng chói sầu bi. Một bà trạc tuổi trung
niên hôm đó ngồi bên cạnh anh đang đợi làm thủ tục nhập
viện, bất thần thốt lên:
-Tại sao
lại xẩy ra cho tôi nhỉ? Con trai tôi chết vì ung thư máu;
chồng tôi bị bệnh tim. Chúng tôi phải tự săn sóc giúp đỡ
nhau.
Bà tiếp tục lẩm
bẩm trong miệng điều gì không ai nghe rõ nhưng như muốn anh
thốt ra những lời an ủi kỳ diệu có sức biến đổi thế giới và
cuộc đời của bà thành bình thường như mọi người bình thường.
Ung thư, bệnh
hoạn, đớn đau có thể nói nhưng không ngôn ngữ nào có thể
diễn tả cho bạn hiểu được hết mọi ngóc ngách hãi hùng và sầu
thảm của nó. Chỉ cách duy nhất để biết và hiểu, cảm nhận và
chia sẻ cảm thông là chính kinh nghiệm bản thân mình. Hai
người bị bệnh loét / ung thư bao tử ngồi nói chuyện với
nhau, kể cho nhau nghe cái đau âm ỉ, lâm râm, lúc nhói quặn
lúc tê tái. Họ hiểu nhau, cảm nhận cái đau của nhau và chỉ
có họ mới hiểu nhau thấm thía cái bực bội, âm ỉ và chát chúa
đau đớn ấy.
-Đúng
vậy, tôi cũng thế, tôi cũng thế.....
Câu nói bao hàm
và đầy đủ trọn vẹn giữa hai người cùng cảnh ngộ với nhau mà
thôi.
“...Nỗi ấy, ai có qua cầu mới
hay.” (ND)
Một cô gái trạc
tuổi mười sáu ngồi thinh lặng ở một góc phòng, ánh mắt buồn
vời vợi lơ đãng nhìn vào không gian vô định, mái tóc óng ả
chảy dài xuống đôi vai gầy càng làm tăng vẻ đẹp liễu trai.
Nhưng có ai biết rằng cô không còn tóc. Cô đội tóc giả. Cô
đang mơ ước trở thành một cô gái bình thường, vui tươi hạnh
phúc, nhởn nhơ hưởng thụ cuộc đời như trăm ngàn cô gái khác
cùng lứa tuổi. Nhưng bỗng cô đanh mặt lại, nổi khùng như
muốn đốt cháy bệnh viện, đập phá mọi sự và cả thế giới chung
quanh cho quả địa cầu xụp đổ tan tành để mọi người cùng chết
với cô. Cô mím môi, cắn răng, nắm chặt bàn tay như trút hết
tất cả những nỗi buồn phiền uất hận, căng thẳng thần kinh ra
ngoài, hiện trên làn da, móng tay khóe mắt. Cô đổi sắc từ
buồn rầu ảm đạm thê lương qua hung tàn giận dữ. Bất thần cô
hét lên một tiếng hãi hùng.
Bà y tá mở cửa
đưa mắt ngó quanh phòng. Nhân viên nhà thương nhốn nháo chạy
tới để xem chuyện gì xẩy ra. Mọi sự vẫn bình thường. Cô vẫn
ngồi bất động như pho tượng. Các bệnh nhân trong phòng đợi
chẳng ai thèm để ý đến tiếng cô gái la hét. Hình như mọi
người đang theo đuổi tâm tư ý nghĩ riêng của mình . Có người
ngước mắt nhìn cô rồi bỏ lơ. Có người vẫn cúi đầu thê thảm.
Có người đang lẩm bẩm một mình hoặc thì thầm với người bên
cạnh như phân trần than van, chấp nhận...Họ cảm thông nỗi
xót xa đớn đau của cô gái.- Họ cũng như cô, đã qua những
đoạn đời, những tâm tư sầu muộn, uất hận ấy. Một ông già
ngồi trên xe lăn, da nhăn nheo, mặt xanh như tàu lá màu áo
nhà thương. Người ông chỉ còn da bọc xương như một cái xác
không hồn, đôi mắt hết tinh anh, lơ đãng rảo quanh phòng,
nhìn xuống đôi bàn tay gầy guộc bất động đặt trên hai cái
đùi ốm tong teo run rẩy. Không biết động lực nào đã thúc đẩy
ông tiếp tục đều đặn trở lại nơi đây để chữa trị khi ông coi
như đã chết rồi.
Những con mắt
đang ngước lên trời cao như khẩn cầu Thượng Đế ban ơn lành
phép lạ. Những con mắt đang cúi gằm xuống sàn nhà như muốn
đếm từng cọng chỉ của tấm thảm trong phòng đợi. Những gia
đình đang bàn tán về vở kịch trên truyền hình đêm qua; không
biết lát nữa họ có còn nhìn thấy đứa con yêu dấu của họ nằm
trên giường tay lủng lẳng những giây, những kim, những thuốc
đang từng giọt nhỏ chảy thấu vào mạch máu, lạnh lùng, đơn
côi. Cảnh tượng hai người còn đang lay lắt sống. Ông Lân
đang la hét cô y tá.
Biết bao là vấn
nạn, thắc mắc, ẩn khúc của cuộc đời đang chờ đợi chỉ một trả
lời đơn giản. Sống hay Chết ?
Tôi là người
quan sát, nhìn cuộc đời của những bệnh nhân ung thư, những
người đã chết, những người đang chết và những người may mắn
còn sống sót. Giống như một xã hội thần bí, tôi nhận biết họ
trên những nẻo đường phố vắng bóng người, những nơi đô hội
ồn ào bon chen. Những thành phố đồ sộ nhà trọc trời, đèn
điện sáng trưng, xe cộ tấp nập ngày đêm, dân chúng ăn chơi
hưởng thụ xa hoa, những thương gia đang bận rộn tính toán
lời lỗ, những sinh viên đang cắp sách đến trường, những nhà
truyền giáo đang hùng hồn thuyết pháp hay đang âm thầm
nguyện cầu Chúa cho nhân loại, những nhà bác học đang cặm
cụi trong phòng thí nghiệm. Những nơi bùn lầy nước đọng, nhà
tranh vách đất, lụp xụp, ổ chuột tối tăm ẩm thấp, người dân
cơ cực nghèo khổ bệnh tật, trẻ con thất học. Họ phải sống.
Họ tranh sống. Yêu thương. Hận thù. Ức hiếp và chèn ép.
Những ông thánh, ông tiên, ông phật, những thằng quỉ, những
kẻ yếm thế, những người yêu đời, những nhà tranh đấu cho tự
do dân chủ và nhân quyền, những nhà độc tài áp bức, người
sang trọng quyền chức sung sướng hạnh phúc, kẻ nghèo hèn
khốn cùng khổ đau. Ai là người đồng hành với những con bệnh,
ngồi bên cạnh họ, sống với họ để cảm thông với họ, chia sẻ
với họ một chút tình người, mong rằng có thể mở rộng tâm tư
ý nghĩ, cõi lòng mình hầu hóa giải, góp phần xoa dịu một
chút ít kiếp nhân sinh phù du mà mọi người chúng ta ai cũng
phải một lần qua bằng cách này hay cách khác. Cái bí ẩn thâm
sâu của tâm hồn. Hạnh phúc và đau khổ. Sống và chết.
Nghe tiếng ông
Lân la hét như một dấu hiệu, không biết là đón chào hay giã
từ, của một bộ lạc xa xưa vắng bóng lạc loài đâu đó từ ngàn
năm trước. Họ là những hiệp sĩ đang can trường chiến đấu
quyết liệt cho một giá trị tột cùng nào đó, hơn cả tấc đất
mảnh đồi góc rừng của họ, quan trọng hơn cả những tín điều
của mọi tôn giáo. Bộ đồ đồng phục nhà thương như cánh thiên
thần bừng nở hoa trong bệnh viện; những mái tóc giả như
những triều thiên sáng chói ánh hào quang; những nét mực đen
vẽ trên thân xác như những bút thần hướng dẫn những tia
phóng xạ có hiệu lực phi thường xóa bỏ mọi tật bệnh, đớn đau
và sầu muộn. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm được như
đang cố tập trung lại, dàn trận phối hợp với những bộ lạc
lạc loài ấy hầu quyết liệt một phen, làm sống lại những an
vui hạnh phúc bình thường của con người. Nhưng hàng ngày họ
vẫn thường xuyên nhận được những hung tin:
-Tôi
rất buồn phải báo tin...Ông, bà, anh, chị, cô...bị ung
thư....
Ông Lân, ông
hãy la hét lên thật lớn cho nguôi cơn đau khổ. Nhưng ông
không phải là kẻ cô đơn. Hãy la lên, la lên để tôi biết rằng
tôi vẫn còn anh còn chị, còn cha còn mẹ, còn ông bà, còn bạn
bè, còn những người anh em huynh đệ, còn gia đình xã hội
quốc gia, còn tôn giáo, còn những cơ quan từ thiện, những
người thiện chí như những hiệp sĩ đang chiến đấu can trường
ngày đêm ở bên cạnh.
Bác sĩ, y tá,
nhân viên bệnh viện có thể làm tất cả mọi sự để cứu bệnh
nhân, bơm đủ mọi hóa chất, thuốc men vào người chúng ta, lột
trần truồng chúng ta trong phòng khám, phòng điều trị, kêu
anh bằng Lân, ông Lân, anh hay cô, cậu, ông hay bà....Nhưng,
linh hồn của chúng ta thì phải gọi thế nào? Chúng ta có LINH
HỒN bất biến, nhân tính và nhân vị nhân quyền.
Chúng ta là
những hiệp sĩ đang ngày đêm tiếp tục trở lại chiến trận
chiến đấu cho sự sống của chúng ta. Hãy cùng đi với tôi, ông
Lân ơi. Hãy đi với tôi, hỡi ông anh bà chị, cụ ông cụ bà,
những người anh em huynh đệ can đảm còn đang sống sót....
Có tiếng gõ cửa
làm tôi giật mình trở lại với thực tế. Tôi vươn vai đứng
thẳng người, nắn sửa bộ đồ nhà thương cho ngay ngắn. Tim tôi
hồi hộp đập nhanh, miệng cố mỉm cười tự nhiên.
-Xin
mời vào.
Tôi vừa trả lời
thì bác sĩ C. mở cửa phòng bước vào.
…………………………………………………………………………..
SAVI.
Pace Gardens,
Florida
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh |
VỀ MỤC LỤC |
|
VĂN HOÁ VIỆT
NAM VỚI ĐẠO CÔNG GIÁO |
Giống như lửa đốt cháy cây củi
nhưng khi củi cháy lại làm cho ngọn lửa bốc cao lên, đạo
Công giáo ảnh hưởng đến văn hoá Việt Nam thì văn hoá nước ta
cũng tác động trở lại tôn giáo này. Chính quá trình tương
tác hai chiều này vừa làm phong phú văn hoá dân tộc vừa làm
biến đổi, “Việt hoá” đạo Công giáo. Đường hướng “ Sống
Phúc âm giữa lòng dân tộc” của Giáo hội Công giáo Việt Nam
là kết quả của sự tương tác đó.
1. Văn hóa
Việt Nam- một nhân tố góp phần làm biến đổi đạo Công giáo xa
lạ thành một tôn giáo gần gũi với văn hóa dân tộc
Khái niệm “ Hội nhập văn
hoá” ( Inculturation) được Giáo hội dùng
vào những năm 70 của thế kỷ trước. Nội dung của nó là “nhập
thể Phúc âm vào nền văn hoá bản xứ và cũng là việc dẫn nhập
các nền văn hoá đó vào đời sống giáo hội”. Lúc đầu nó chỉ
mang tính một chiều, có nghĩa là “Tin mừng được tháp nhập
vào nền văn hoá để sàng lọc và thanh tẩy nó”. Vì vậy mới
có hiện tượng bắt giáo dân phải phá bàn thờ tiên tổ, cắt
tóc ngắn, mang tên thánh nước ngoài… Năm 1979, nó mới thêm
chiều thứ hai là chọn lọc tinh hoa văn hoá các dân tộc đưa
vào sinh hoạt của đạo như dùng các làn điệu dân ca, kiến
trúc, nhạc cụ, ngôn ngữ dân tộc…
Những chống đối và cả thất bại
buổi đầu truyền giáo đã buộc các giáo sĩ phải “ nhập gia tuỳ
tục”. Trước tiên, để có thể giao tiếp với người dân và
truyền giáo được thì phải biết tiếng Việt. Vậy là nhiều giáo
sĩ đã học tiếng Việt, rồi tìm cách để ghi lại thứ tiếng “
như chim hót” này. Kết qủa là chữ quốc ngữ đã ra đời.
Tiếp đó, nhiều kinh, sách của đạo được dịch ra tiếng
Việt, tiếng dân tộc thiểu số như Banar, Chàm, Khơme, Cơ Ho
từ khá sớm và ngày càng gần gũi với người dân. Tiếng Latinh
được thay thế dần bằng tiếng Việt hoặc chữ các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam. Để không trở thành xa lạ, người Công
giáo Việt Nam đã sớm gọi tên các danh từ riêng hay kinh nhà
đạo của mình theo ngôn ngữ Việt. Ví dụ: Xuân Bích, Biển
Đức, Vinh Sơn Đắc Lộ hay Đức Chúa Trời thay vì gọi là
Sulpicien, Benedict, Vincent, Alexandre de Rhodes hay Deus…
Về phong tục, điều may mắn là
đối với Việt Nam, tinh thần hội nhập văn hoá đã có từ rất
sớm. Ngay từ khi cử hai Giám mục đầu tiên là F.Pallu và
Lambert de la Motte, năm 1659, Roma đã căn dặn: “Các ngài
phải cẩn thận giữ mình, đừng ra sức bảo các dân tộc ấy từ bỏ
nghi lễ, tập tục, phong cách của họ, miễn là điều đó không
ngang nhiên ngược với đạo thánh và phong hoá tốt” . Thế
nhưng trên thực tế, không hiểu vì quá nhiệt thành hay vì
cứng nhắc mà một số giáo sĩ đã bắt người tân tòng khi gia
nhập đạo phải bỏ y phục truyền thống, cắt tóc ngắn, bỏ tên
cúng cơm cha mẹ đặt cho, thậm chí phá bàn thờ tiên tổ… Một
số giáo sĩ tiến bộ như Đắc Lộ đã phản đối cách làm này và
ủng hộ các tập tục làm đám ma trọng thể, cắm cây nêu ngày
tết của người Việt… Tinh thần canh tân của Công đồng Vatican
2 cùng với áp lực từ chính văn hoá của cộng đồng, giáo hội
Việt Nam cũng dần chấp nhận cho người Công giáo được làm các
nghi lễ theo truyền thống dân tộc qua Thông cáo ngày 14-6-
1965 và Quy định 6 điểm ngày14-11-1974 .
Quan sát một lễ hội Công giáo,
người ta cũng thấy không khác đám rước làng bao nhiêu. Cũng
trống cái, trống con, hội bát âm, cờ ngũ sắc. Nhìn một đám
cưới hay đám tang người Công giáo cũng thế. Bây giờ người
Công giáo không chỉ thắp hương trước di ảnh người quá cố mà
có nơi còn ghi cả những ước nguyện ra giấy và đốt đi trước
bàn thờ nữa.
Một ảnh hưởng của văn hoá Việt
là góp phần làm thay đổi thái độ đối với các tôn giáo khác.
Văn hóa Việt Nam vốn khoan dung về tôn giáo nên chấp nhận
“tam giáo đồng nguyên”, “tam giáo đồng quy”. Khi đạo Công
giáo xuất hiện đã coi tất cả các tôn giáo khác là ma quỷ, là
đạo dối. Thái độ này bị phản ứng dữ dội của các tôn giáo
khác và cả cộng đồng. Đạo Công giáo đã dần dần thay đổi quan
niệm. Từ chỗ chỉ chấp nhận hôn nhân cùng đạo đến chỗ gọi các
tôn giáo khác “là bạn”, khuyến khích các tín đồ đối thoại,
thăm viếng nhau là một bước tiến dài (Thư chung 2003). Từ
chỗ độc quyền “ơn cứu độ”, tranh luận để chứng minh Công
giáo là đạo chính, lôi kéo tín đồ của các tôn giáo khác đến
chỗ thừa nhận giá trị của các tôn giáo bạn, không đặt mục
tiêu phát triển tín đồ thành ưu tiên hàng đầu là một thay
đổi lớn trong thái độ của đạo Công giáo với các tôn giáo
khác. Đây là điều kiện thuận lợi để đồng bào các tôn gíao
trong các làng “xôi đỗ” sống chan hòa với nhau. Những hình
ảnh các nhà sư ngồi cạnh các linh mục, giám mục trong các
buổi mit tinh hay đồng bào các tôn giáo cùng chung nhau xây
nhà thờ, dâng hương trước bàn thờ Phật là minh chứng sinh
động cho tình đoàn kết các tôn giáo ở Việt Nam.
Một ảnh hưởng nữa của văn hoá
dân tộc là đã tạo ra một diện mạo mới, một bản sắc riêng cho
đạo Công giáo ở Việt Nam trên nhiều bình diện từ nghệ thuật
kiến trúc, hội hoạ, thánh nhạc đến các nghi lễ trong Phụng
vụ.
Về kiến trúc, không ít nhà thờ
Công giáo dù được xây dựng dưới thời Pháp thuộc, người
phương Tây cai trị cả phần đạo lẫn phần đời nhưng vẫn mang
đậm phong cách Việt. Có thể kể ra kiến trúc như Cam Ly ( Đà
Lạt), Bảo Nham ( Nghệ An), quần thể Phát Diệm (Ninh Bình), …
Tại Phát Diệm người ta sử dụng các vật liệu quen thuộc là
gỗ, đá, các nét kiến trúc đình chùa truyền thống như cổng
tam quan hay mái ngói cong, nhiều tầng. Còn tới thăm nhà thờ
Cam Ly( Đà Lạt), người ta lại thấy thấp thoáng ngôi nhà sàn
của đồng bào Thượng. Dĩ nhiên, ngay cả trong các kiến trúc
phỏng theo phương Tây như nhà thờ Đức Bà Thành phố Hồ Chí
Minh hay Phú Nhai (Nam Định), nhà thờ lớn Hà Nội… người ta
vẫn nhận ra bản sắc văn hoá dân tộc qua bàn tay thi công
khéo léo của những người thợ Việt Nam. Tại rất nhiều nhà
thờ, có các kiến trúc phụ như núi đá nhân tạo, hồ ao, cây
xanh như một vũ trụ thu nhỏ theo quan niệm “thiên địa nhân
nhất thể” của người phương Đông. Các bức chạm khắc quanh nhà
thờ cũng đủ cả đào, cúc, trúc, mai, long, ly, quy, phượng.
Các gian nhà thờ cũng thường là số lẻ 5,7,9 còn chỗ ngồi thì
chia ra “ nam tả, nữ hữu”. Nhiều nhà thờ mới xây dựng gần
đây như nhà thờ Cửa Nam (Lạng Sơn) cũng mang dáng dấp kiến
trúc nhà ở của người dân tộc Tày, Nùng. Còn nhà thờ
Pleichuet (Gia Lai) lại thiết kế giống hệt ngôi nhà rông
của người Jarai, Bahnar với chiếc mái cao 35m trông như một
lưỡi rìu khổng lồ…
Về hội
hoạ, từ trước tới nay, các tranh ảnh đạo hầu hết là do các
hoạ sĩ
phương Tây sáng tác nhất là giai đoạn Phục hưng và được coi
là ảnh thánh. Thế nhưng, nhiều hoạ sĩ Công giáo Việt Nam vẫn
băn khoăn, tại sao người Việt cũng được dựng lên theo hình
ảnh Chúa mà tranh đạo toàn thấy gương mặt người châu Âu? Một
số hoạ sĩ thử tìm tòi và đã thành công. Có thể kể ra
Madalena dưới chân Thập giá của Lê Văn Đệ, bức tranh sơn
dầu Đức Mẹ Việt Nam của Nam Phong, Giáng Sinh của danh
hoạ Nguyễn Gia Trí, những tranh lụa về Đức Mẹ của hoạ sĩ
Nguyễn Thị Tâm…Các nhân vật trong tranh thật gần gũi, cũng
nón lá, áo dài tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ. Xen vào đó là
hình ảnh con trâu, khóm tre bên mái nhà tranh đơn sơ…Một số
tác phẩm đã đoạt giải quốc tế và được trưng bày ở bảo tàng
nước ngoài.
Theo con đường Việt hoá này,
thánh nhạc Việt Nam đã gặt hái được khá nhiều thành công.
Ngôn ngữ dùng trong nghi lễ, phụng vụ Công giáo trước đây là
latinh vì vậy mới có câu: “Các thày đọc tiếng latinh/ Các cô
con gái thưa kinh dịu dàng”. Nhưng trong điều kiện dân trí
còn thấp làm sao người ín hữu có thể miệng đọc tâm suy được?
Thế là một số nhạc sĩ đã thử dịch các bài thánh ca ra tiếng
Việt, rồi dùng các điệu dân ca như lưu thuỷ hành vân, nam
ai, hát đò để ghi lại. Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh với nhiều
tên tuổi nổi tiếng như Hùng Lân, Tâm Bảo, Nguyễn Khắc
Xuyên, Hoài Đức… đã ra đời chuyên viết thánh nhạc với phương
châm “Về nội dung phụng sự Thiên chúa và Tổ quốc…Về nghệ
thuật lấy dân ca cổ truyền làm cấu trúc âm thanh” . Một số
tác phẩm đã nổi danh trên thế giới như Đêm đông của Hải
Linh, Kinh hoà bình của Kim Long… Giai điệu quen thuộc từ
các làn điệu dân ca ở Bắc bộ đến hát then xứ Lạng, từ quan
họ Bắc Ninh duyên dáng đến Jarai, Banar bốc lửa…đều có thể
tìm thấy trong các bản thánh ca.
Về văn
học, nếu ngay từ buổi đầu của đạo Công giáo ở Việt Nam đã
có nhiều người dùng các thể loại thơ ca truyền thống để ghi
lại sự tích Kinh thánh, giáo lý thì ngày nay cách làm này
vẫn được duy trì. Các bản dịch Kinh thánh, sách lễ ngày càng
sát và hay hơn với ngôn ngữ tiếng Việt và cả tiếng các dân
tộc thiểu số nữa. Nếu trước đây việc xuất hiện một bản Các
Thánh truyện của Majorica bằng chữ Nôm, một vở tuồng Thương
khó của Giám mục Nguyễn Bá Tòng là rất hiếm thì ngày nay
nhiều tác phẩm thơ văn, ca kịch cũng được viết bằng ngôn
ngữ, phong cách dân tộc như các tập thơ của Hàn Mặc Tử, Xuân
Ly Băng; các tác phẩm ký của Hồng y Trịnh Văn Căn, Giám mục
Nguyễn Văn Sang…cũng đã được các Nhà xuất bản giới thiệu với
bạn đọc.
Một nội dung mà bản Monita đã
viết năm 1659 là phải đào tạo hàng ngũ giáo sĩ người bản xứ
vì nếu Giáo hội Việt Nam vẫn do hàng giáo sĩ người nước
ngoài điều hành thì khó có thể hội nhập văn hoá được. Tiếc
rằng, điều này thực hiện rất chậm chạp. Mãi sau 135 năm
truyền giáo mới có 4 người Việt được phong chức linh mục
(1668) và 400 năm sau, năm 1933 mới có vị Giám mục đầu tiên
là người Việt. Số liệu thống kê từ năm 1863 đến năm 1945 cho
thấy chỉ có 153 tu sĩ Việt Nam được lên chức linh mục. Năm
cao nhất là năm 1937 có 10 tân linh mục, còn các năm khác
chỉ có 5- 6 vị. Nguyên nhân là do đầu óc kỳ thị người bản xứ
của hàng giáo sĩ nước ngoài. Chỉ đến khi nước nhà độc lập,
hàng giáo sĩ Việt Nam mới được tăng trưởng mau chóng. Năm
1960, Toà thánh đã thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam và đến
cuối năm 2006 số linh mục Việt Nam đang sống và làm việc là
3404 vị và 43 Giám mục, 2 Hồng y.
2. Văn hóa
Việt Nam góp phần hình thành và phát triển con đường “đồng
hành cùng dân tộc” của Công giáo Việt Nam.
Khái niệm “đồng hành” không
phải mới xuất hiện từ Thư chung 1980 mà đã được danh nhân
Nguyễn Trường Tộ nêu lên từ năm 1863 và chính bản thân ông
cũng là chứng từ sống động cho con đường đồng hành cùng dân
tộc. Theo tinh thần của đạo Công giáo thì “đồng hành cùng
dân tộc” đó là: giáo hội cùng chia sẻ trách nhiệm với
dân tộc và người tín hữu tốt phải là một công dân tốt. Tuy
nhiên, trong một số văn kiện, khái niệm “đồng hành cùng (hay
với) dân tộc” còn được giáo hội dùng theo nghĩa rộng hơn tức
là bao gồm cả việc xây dựng lối sống, nghi lễ của đạo theo
bản sắc dân tộc tức hội nhập văn hoá( Tc 1980, số 9).
Yêu nước là truyền thống của
người Việt Nam và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt văn hóa Việt.
Chính truyền thống quý báu này đã thôi thúc nhiều thế hệ
người Công giáo đứng lên chống Pháp. Người đầu tiên đáng nêu
tên là nhà cải cách Nguyễn Trường Tộ. Ông đã dâng lên vua 58
bản điều trần mà ngày nay vẫn còn làm ngạc nhiên giới nghiên
cứu vì những tư duy táo bạo, đổi mới, vượt lên thời đại bấy
giờ. Có những vấn đề ông nêu ra vẫn nóng bỏng tính thời sự
đến hôm nay như vấn đề chống tham nhũng, sùng hàng ngoại,
rồi “ làm cho dân giàu mà nước cũng giàu”… Nguyễn Trường Tộ
cũng là một nhà tư tưởng, một triết gia lớn ở Việt Nam.
Chẳng hạn ông viết: “ánh sáng cũng là vật chất trong vũ
trụ”(1). Đây là quan điểm duy vật không chỉ mới lạ ở nước ta
mà cả với thế giới hồi cuối thế kỷ XIX.
Còn Linh mục Đặng Đức Tuấn
(1806- 1874) lại đưa ra Hiếu sách bình Tây rồi Minh đạo
bình Tây sách tố cáo thực dân Pháp mượn tiếng bảo vệ đạo
để xâm chiếm nước ta. Tại Yên Mô ( Ninh Bình), sĩ phu công
giáo Đinh Văn Điền, năm 1868 cũng tâu lên vua một loạt kế
sách “đặt doanh điền, khai mỏ vàng, đóng tàu thuỷ, mở cửa
mời người nước ngoài, lập ra Ty bình chuẩn để lưu thông
hàng hoá, tăng lương cho binh lính để chuyên cần tập luyện,
khi lâm sự hậu thưởng phẩm vật, khi chết xét dùng con cháu,
khi bị thương tật, cấp dưỡng suốt đời” (2). Nhiều người Công
giáo cũng tham gia phong trào Cần vương để chống Pháp và
trở thành những vị chỉ huy can đảm như Đội Vũ (người Nghĩa
Hưng Nam Định), Lãnh Phiên (người Quảng Bình)… Ngay cả những
giáo sĩ đã được đào tạo, huấn luyện bởi người Pháp cũng tham
gia các hoạt động chống Pháp. ở Nghệ An, đầu thế kỷ XX,
nhiều tên tuổi Công giáo yêu nước được nhắc đến như tu sĩ
Mai Lão Bạng, Lê Khánh, các linh mục Nguyễn Văn Tường,
Nguyễn Thần Đồng, Đậu Quang Lĩnh… Họ cũng bị bắt, bị đày
Côn Đảo và có người đã chết trong tù ngục. Có một số người
đã đi theo cách mạng và trở thành cán bộ cao cấp sau này như
Trương Vân Lĩnh (1902-1946), Trần Tử Bình (1903-1967)…
Cách mạng tháng Tám năm 1945
thành công đã thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước, tinh thần dân
tộc của người Công giáo. Trong rừng người diễu hành qua
quảng trường ngày 2-9-1945 có cả đoàn các linh mục, chủng
sinh và giáo dân. Bốn giám mục Việt Nam lúc đó đã gửi hai
điện văn cho Toà thánh và tín hữu toàn cầu, đề nghị ủng hộ
chính phủ Hồ Chí Minh với lời lẽ rất cảm động.
Nhờ chính sách đúng đắn và mềm
dẻo của Nhà nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đa số
người Công giáo Việt Nam đã tin tưởng đi theo cách mạng.
Những ngày đầu kháng chiến gian khổ, giám mục Hồ Ngọc Cẩn
(Bùi Chu) đã ủng hộ cả dây chuyền vàng cho chính phủ Việt
Minh. Trong nhiều chức vụ quan trọng của Chính phủ, Quốc
hội, người ta thấy có mặt người Công giáo như Phạm Bá Trực,
Ngô Tử Hạ, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Đình Tụng…Tại miền Nam có nhà
cả 3 linh mục, 2 nữ tu đều theo kháng chiến như gia đình
linh mục liệt sĩ Nguyễn Bá Luật. Liên đoàn công giáo kháng
chiến Nam bộ đã ra đời sau đó là Uỷ ban liên lạc Công giáo
kháng chiến đã tập hợp nhiều tên tuổi như các linh mục Võ
Thành Trinh, Hồ Thành Biên, luật sư Nguyễn Thành Vĩnh… ở
miền Bắc, nhiều cá nhân, tập thể đông người Công giáo đã
được tặng danh hiệu anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ
trang… Chiến thắng vĩ đại ngày 30- 4- 1975 đã đem lại cho
người Công giáo một cơ hội mới và thổi sinh khí vào lá Thư
chung năm 1980 với đường hướng
“Sống Phúc
âm giữa lòng dân tộc”.
Vì xác tín đồng hành cùng dân
tộc nên nhiều vấn đề bức xúc của xã hội đã được giáo hội
hướng dẫn thực hiện như vấn đề học hành ở vùng giáo, ngăn
chặn các tệ nạn như cờ bạc, ma tuý, kêu gọi giáo dân tham
gia bầu cử, chấp hành luật giao thông hay quyên góp ủng hộ
các nạn nhân bị thiên tai…Có những vấn đề thuộc loại tế nhị
như vấn đề dân số, các giám mục cũng mạnh mẽ phê phán quan
niệm trời “sinh voi trời sinh cỏ” và cho rằng, quan niệm đó
chỉ thích hợp với hoàn cảnh nông nghiệp “ đất rộng người
thưa”, còn bây giờ phải “sinh đẻ có trách nhiệm và giáo dục
con cái” (Tc 1992, số 11).
Khi xã hội bước vào nền kinh
tế thị trường, nhiều mặt trái gây ra những bức xúc cho dư
luận như đạo đức bị xói mòn, tệ nạn xã hội gia tăng… giáo
hội Công giáo đã chủ động đẩy mạnh những hoạt động từ thiện,
bác ái. Giới Công giáo khắp nơi đã đứng ra tổ chức nhiều
lớp học tình thương, phòng khám bệnh miễn phí, những nhà săn
sóc trẻ em lang thang và người già cô đơn… Mặc dù luật pháp
hiện hành vẫn chưa cho các tôn giáo trong đó có Công giáo
tham gia vào các chương trình y tế, giáo dục, từ thiện một
cách độc lập và không bị giới hạn. Đây là một thiệt thòi lớn
không chỉ cho công giáo mà cả cộng đồng dân tộc vì công giáo
vốn có thế mạnh về các lĩnh vực này. Trước năm 1975, đạo
công giáo ở miền Nam đã quản trị 1030 trường tiểu học vơi
258409 học sinh công giáo và 97347 học sinh ngoài công giáo,
226 trường trung học với 82827 học sinh công giáo và 70101
học sinh ngoài công giáo, 41 bệnh viện, 239 nhà phát thuốc,
36 nhà hộ sinh, 9 trại phong cùi, 82 cô nhi viện, 29 trại
dưỡng lão (3).
Tóm lại, nhờ gắn bó với văn
hoá dân tộc, đạo Công giáo đã có những biến đổi về chất để
trở thành Công giáo Việt Nam chứ không phải là đạo Công
giáo ở Việt Nam.
Chú
thích:
1- Trương
Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.pHCM
1999, tr419;
2- Đại
Nam thực lục chính biên,Nxb KHXH 1974, tr.262-263
3- Theo
Linh mục Nguyệt san, Sài Gòn 1970, số 105, tr.618-619
Tiến sĩ Phạm Huy Thông
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VĂN MINH MỲ GÓI VÀ ẢNH HƯỞNG CUỘC SỐNG TÂM LINH
|
Trong loạt bài “Văn Minh Mỳ
Gói”, kỳ trước người viết đã đề cập đến ảnh hưởng của nó
liên quan đến đời sống hôn nhân gia đình. Lần này xin được
đề cập đến ảnh hưởng của văn minh này trong đời sống tâm
linh.
Dĩ nhiên, đời sống thể lý gắn
liền với loại văn minh mỳ gói, mỳ ăn liền hơn, bởi vì những
thứ ấy đi liền và gắn bó hơn với thể lý và những nhu cầu tự
nhiên của con người. Nhưng vì con người gồm đời sống tự
nhiên (thể lý), tâm lý, và tâm linh, nên những gì ảnh hưởng
đến đời sống này đều liên quan đến đời sống kia. Bởi vì con
người là một sự kết hợp khăng khít bất khả phân ly giữa ba
đời sống thể lý, tâm lý và tâm linh.
Khi đề cập đến những ảnh hưởng
của nền văn minh mỳ gói, điều trước hết phải kể đến, đó là
ảnh hưởng của sự dồn nén, vội vàng, hấp tấp, và hưởng thụ
trên đời sống tâm linh của con người. Thí dụ, trong việc cử
hành các bí tích, trong đời sống cầu nguyện, và trong nếp
sống đạo thường ngày.
1. ĐỜI SỐNG BÍ TÍCH:
Khi đề cập đến đời sống nội
tâm, điều quan trọng nhất chính là sức sống và năng lực của
các Bí Tích; đặc biệt là Thánh Lễ. Nhưng đời sống bí tích
hiện nay đang bị ảnh hưởng của văn minh mỳ gói chi phối. Sự
chi phối này không những xâm chiếm và tác dụng đối với các
tín hữu, mà còn ảnh hưởng một cách mạnh mẽ nơi thành phần
giáo sỹ và tu sỹ nữa.
Thật vậy, suốt một tuần lễ,
người tín hữu bận bựu với công việc sinh nhai, việc gia đình
và việc xã hội đến nỗi phần đông như “quên” Chúa. Cũng may,
còn có ngày Chúa Nhật – ngày của Chúa - để mọi người quây
quần bên bàn thánh dâng lời chúc tụng, tạ ơn, và cầu xin.
Xin ơn tha thứ lỗi lầm, tội khiên, và xin mọi ơn cần thiết
cho cuộc sống tâm linh và vật chất. Cốt lõi của ngày họp mặt
gia đình này là việc học hỏi, lắng nghe và suy tôn Lời Chúa
và việc Bẻ Bánh. Nói một cách gọn gàng là tham dự Thánh Lễ
Chúa Nhật.
Nhưng than ôi! Trong nhiều
thánh lễ linh mục giảng giải cho có lệ. Nói rông rài, đôi
khi còn văn chương, thơ phú bóng bẩy, và ca hát theo kiểu
tài tử. Trong những thánh lễ như vậy, giáo dân cứ thế mà
chịu trận, cho đến một lúc, nhìn đồng hồ quá 30 phút. Và thế
là phần còn lại, trong tất cả các lễ qui, lời nguyện, và kể
cả lời Truyền Phép, linh mục đọc như một cái máy, đọc nhanh
và đọc lướt qua, liến thoắng đến nỗi những giáo dân lớn tuổi
và già cả không nghe kịp và cũng chả hiểu “cha” đọc và làm
gì nữa.
Cũng một cách thức tương tự,
nhiều linh mục ngồi tòa, ban các Bí Tích như thói quen máy
móc. Và đó là lý do tại sao khi được hỏi về sức thu hút và
hấp dẫn của đời sống tôn giáo, của Giáo Hội, phần lớn giới
trẻ Công Giáo đã cho là không thuyết phục và hấp dẫn. Thống
kê dưới đây cho biết:
-
39% đối với thành phần
không hoặc hiếm hoi đến thánh đường cho rằng sinh hoạt của
Giáo Hội quá buồn tẻ.
-
41% bạn trẻ lâu lâu mới
đến với thánh đường một lần cũng cho rằng Giáo Hội và sinh
hoạt Giáo Hội buồn nản.
-
29% bạn trẻ thường
xuyên đến thánh đường cũng đã cho rằng Giáo Hội và sinh hoạt
Giáo Hội thiếu hấp dẫn và buồn chán.
Đó là chưa kể đến những giáo
lý và luật lệ mà tuổi trẻ cũng như phần lớn Kitô hữu ngày
nay đều cho rằng khó khăn, không hợp thời, hoặc cần phải đặt
lại vấn đề. Thí dụ, luật cấm ngừa thai. Luật cấm phá thai.
Luật cấm ly dị. Luật đối với thành phần đồng tính và hôn
nhân đồng tính. Luật độc thân của linh mục...
Ảnh hưởng của văn minh mỳ gói,
văn minh vật chất, văn minh sự chết thật sự đã tác dụng và
chi phối đời sống tâm linh của những người nhẽ ra qua họ,
người ta nhìn thấy Chúa Kitô như các linh mục, tu sĩ nam nữ,
và giáo dân.
2. ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN:
“Không cầu nguyện thì không
cần phải ma quỷ cám dỗ. Tự mình ta, ta sẽ gieo mình xuống
hỏa ngục” (Thánh Têrêsa D’avila). Chúa Giêsu cũng bảo Kitô
hữu phải cầu nguyện không ngừng: “Hãy cầu nguyện luôn để
khỏi sa chước cám
dỗ”.
Trong thế giới chạy đua với
tốc lực, với sức mạnh của tiền bạc, câu “thời giờ là vàng
bạc” quả rất đúng. Nó đúng đến độ người ta không còn giờ để
đọc kinh, không còn giờ để cầu nguyện. Nhất là không còn giờ
để cùng cầu nguyện với nhau trong gia đình. Cầu nguyện giữa
vợ chồng. Cầu nguyện giữa cha mẹ và con cái. Tại các nước
văn minh nhất thế giới như Hoa Kỳ, con số những gia đình còn
giữ được tập quán cầu nguyện có thể nói là một con số ít ỏi
và hiếm hoi.
Nhưng nếu thời giờ cùng nhau
cầu nguyện không có, thì ngược lại, thời giờ gia đình quây
quần bên chiếc TV, xem truyền hình, nghe tin tức, xem thể
thao, hát karaoke hoặc xem phim chưởng lại luôn luôn có và
có rất dồi dào. Nhiều người còn có thời giờ cho những buổi
hò hẹ, xem xinê, tham dự các cuộc vui văn nghệ, và đi vào
các sòng bài. Đó là những lý do người ta thiếu giờ cầu
nguyện. Thiếu giờ dành cho đời sống tâm linh.
Một trong những lý do là Chúa
“chậm chạp” quá. Cầu nguyện sốt ruột lên mà Chúa vẫn chưa
trả lời. Cầu một ngày, cầu một tuần, cầu một năm. Có khi cầu
đến chục năm mà Chúa vẫn chưa nghe. Sốt ruột quá! Mất thời
gian tính quá! Và có lẽ vì Chúa chậm nghe, chậm trả lời, nên
con người phải tự tìm cách giải quyết những vấn nạn của đời
mình, nếu không thời giờ qua đi mà không làm gì được.
Do ảnh hưởng của mỳ ăn liền,
càphê uống liền, fast food ăn liền đã tạo nên một tâm thức
rất nóng nẩy, rất bất an và bất nhẫn, và rất dễ sốt ruột. Mà
vì Chúa không biết sốt ruột, nên khi thấy mình sốt ruột, con
người đã tìm cách tự giải quyết lấy. Chúa không cho tiền để
sinh sống. Được! Phá thai. Vì sinh con nhiều mà không có
tiền để nuôi nấng, dậy dỗ thì thà đừng sinh ra còn hơn. Chúa
không cho tiền. Được! Con tìm vào casino, ở đây dễ kiếm tiền
và mau làm giầu hơn. Chúa không cho ly dị. Được! Không lấy
vợ, không lấy chồng nữa. Lấy rồi thì khó bỏ. Ở vậy có nhiều
bồ hơn mà muốn bỏ lúc nào cũng được.
Trong cái lẫn lộn và hoang
mang giữa thiện và ác. Giữa đời và đạo. Giữa vật chất và
tinh thần ấy, phần đông con người nghiêng về những gì là vật
chất, là thực tế, và dễ dãi để rồi bỏ cầu nguyện. Bỏ kết hợp
với Chúa.
3. SỐNG ĐẠO THƯỜNG NGÀY:
Cũng như con số thống kê mà
chúng ta vừa tìm thấy nơi các bạn trẻ. Phần đông người Kitô
hữu lúc này xem ra cũng không muốn sống đạo với lời giảng
dậy, mặc dù Chúa Giêsu đã nói cách rõ ràng: “Ai bền đỗ đến
cùng mới được cứu
rỗi” (Mt 10:22). Và câu hỏi là đến cùng là bao lâu?
Một vị linh mục thân từ Pháp
qua chơi thăm Hoa Kỳ, đã tâm sự rằng tại Pháp lúc này các
linh mục được cho đi “vacation” dài dài. Lý do vì chẳng ai
tham dự thánh lễ, xưng tội, và họa may có đôi trường hợp xin
rửa tội, rước lễ lần đầu, và làm phép xác. Điều này đã được
Đức Gioan Phaolô II hết sức hô hào để Giáo Hội Pháp lấy lại
vị thế Trưởng Nữ của Giáo Hội. Một Giáo Hội mà từ đó Kitô
Giáo được mang đi truyền thụ hầu khắp thế giới, nhưng nay
lại nghèo nàn, co cụm, và già nua. Nếp sống đạo này chắc
chắn có chịu phần ảnh hưởng của văn minh mỳ gói. Người trẻ
không tham dự đứng đắn đời sống hôn nhân gia đình. Không có
con, đến tuổi già sức yếu, cảm thấy cô đơn và buông xuôi.
Lòng đạo đức không được hun đúc và tập luyện ngay trong bầu
khí gia đình, lớn lên vào đời bị lôi cuốn và chi phối bởi
những lý thuyết và triết lý sống ngoại lai lấy văn minh sự
chết, lấy cá nhân, lấy những hào nhoáng và sự thoả mãn vật
chất làm nền tảng, tự nhiên đời sống tâm linh bị đẩy lùi, và
bị xóa nhòa.
Ai cũng biết, dù hô hào, dù cố
tình phủ nhận, thì tâm thức đạo đức và ý thức về Thiên Chúa
vẫn có đó trong lương tâm con người. Nếu không vậy, Thiên
Chúa sẽ không có cơ sở và căn bản để thưởng phạt. Nhưng vì
lương tâm ấy không được tinh luyện và làm cho sống động bằng
những việc làm tôn giáo, do đó, sẽ dần dà bị lu mờ. Và đó là
ảnh hưởng tai hại của thứ văn minh mỳ gói. Thứ văn minh mà
dù những căn bản đời đời, dù những vấn đề thuộc lãnh vực tâm
linh cũng muốn mang ra để giải quyết cấp thời, nhanh và gọn.
Một lối sống và suy tư như không còn tin vào ngày mai, phủ
nhận quyền vạn năng của Thiên Chúa.
Nhân loại ngày nay đang đi về
đâu trong niềm tin của mình? Câu trả lời thật khó khăn nhưng
cũng rất dễ. Tuy nó bị gằng co bởi rất nhiều những yếu tố
phần lớn là do trí khôn con người, do ham muốn, và do những
đam mê thôi thúc. Dĩ nhiên, Satan và bọn quỷ thần chúng đang
cố tình gieo vào lòng trí con người những triết lý và suy tư
ấy, mà một trong những triết lý sống đang làm đảo lộn niềm
tin của nhiều người là triết lý và lối sống mỳ gói, mỳ ăn
liền.
Con người ngày nay thật ra
không có giờ cho nhau trong một bữa ăn gia đình đầm ấm.
Không có giờ cho nhau trong một buổi trà đàm thân mật. Không
có giờ cho nhau bằng những buổi thăm viếng, an ủi, và gần
gũi nhau. Không có giờ cầu nguyện. Không có giờ sống niềm
tin của mình. Nhưng ngược lại, họ có tất cả mọi giờ giấc cho
những đòi hỏi quay cuồng đến chóng mặt. Họ muốn loay hoay tự
mình giải quyết mọi chuyện để rồi nóng lòng muốn có ngay kết
quả. Họ đã quên hay không muốn dành cho mình ít phút để đọc
và niệm lời Chúa Giêsu đã nói với Martha: “Martha, con lo
lắng, bối rối nhiều chuyện quá” (Luca 10:41).
Tiến Sĩ Trần Mỹ
Duyệt |
VỀ MỤC LỤC |
|
CÓ THỂ CHIẾN
THẮNG SỰ GIAN DỐI.
|
Ngày 3
tháng 8 vừa qua, đại văn hào Nga Aleksandr Isayevich
Solzhenitsyn qua đời; và ngày 6, lễ
nghi an táng của ông được cử hành rất long trọng tại đan
viện Donskoy, Maskva, thủ đô nước Nga. Ông là người từng bị
đày đọa tột cùng và cũng từng hưởng vinh dự rất cao ngay
trên quê hương mình. Ông đã được trao giải thưởng Nobel văn
học vào năm 1970, thời mà nước Nga còn do Đảng Cộng Sản lãnh
đạo.
Diễn
từ ông gửi đến hội đồng Nobel cách đây gần 40 năm vẫn còn
nóng bỏng chất thời sự, đối với thế giới hôm nay, và đặc
biệt đối với nước Việt Nam thân yêu của chúng ta trong những
ngày vừa qua. Vì thế tôi dịch lại phần cuối cùng để chúng ta
- nhất là những người cầm bút ở bất cứ môi trường nào - đọc
lại mà thấm thía. Ai muốn xem trọn văn bản bằng tiếng Anh,
xin vào địa chỉ:
http://nobelprize.org/nobel_prizes/literature/laureates/1970/solzhenitsyn-lecture.html
Tác giả:
Alexandr Solzhenitsyn.
Chuyển
ngữ: Trần Duy Nhiên
Tôi đã
hiểu và cảm nhận rằng văn học thế giới không còn là một
tuyển tập trừu tượng, hoặc một tổng hợp do các nhà phê bình
văn học tạo nên; nhưng đúng hơn đấy là một thân thể và một
tinh thần chung, một sự thống nhất tình cảm phản ánh sự hiệp
nhất ngày càng lớn lên giữa các thành phần nhân loại. Biên
giới giữa các nước vẫn còn đỏ rực, hừng hực vì dây điện và
những tràng súng liên thanh; và nhiều bộ nội vụ vẫn nghĩ
rằng văn học cũng là ‘nội vụ’ đặt dưới quyền điều khiển của
mình; các tít báo vẫn còn chạy: “Không được can thiệp vào
chuyện nội bộ chúng tôi!”. Thế nhưng không còn chuyện gì là
CHUYỆN NỘI BỘ trên cái thế giới đất hẹp người đông của chúng
ta hiện nay! Và cách duy nhất để giải cứu nhân loại hệ tại ở
mọi công việc mà mỗi người làm trong lãnh vực mình; ở việc
những người phương đông thực sự quan tâm đến những gì mà
người ta suy nghĩ tại phương tây, và người phương tây thực
sự quan tâm đến nhưng gì đang xảy ra tại phương đông. Và văn
chương, với tư cách là phương tiện nhạy cảm và đáp ứng kịp
thời nhất mà loài người có được, là một trong những nhân tố
đi hàng đầu để tiếp thu, hòa nhập và nắm bắt được cái cảm
thức về sự hiệp nhất ngày càng lớn mạnh của cộng đồng nhân
loại. Vì thế, tôi tin tưởng ngỏ lời với thế giới văn chương
hôm nay - với hằng trăm bạn hữu mà tôi chưa bao giờ gặp được
con người bằng xương bằng thịt và có thể tôi sẽ không bao
giờ gặp được.
Hỡi các
bạn! Chúng ta hãy cố gắng giúp đỡ, nếu chúng ta còn một giá
trị nào đó! Từ thời xa xưa đến nay, ai làm nên sức mạnh hiệp
nhất, chứ không phải chia rẽ, trên các đất nước chúng ta,
những đất nước bị xâu xé bởi các đảng phái, phong trào, đẳng
cấp và phe nhóm chống đối nhau? Tự bản chất, người cầm bút
có một vị trí: họ là những người thể hiện tiếng mẹ đẻ của
mình, là lực lượng liên kết chính yếu của một quốc gia, của
chính mảnh đất mà người dân cư ngụ và - ở mức cao nhất - của
tinh thần quốc gia.
Tôi tin
rằng thế giới văn học tự mình có sức mạnh giúp đỡ nhân loại,
trong những giờ phút nhiễu nhương này, để nhân loại tự nhìn
ra rõ chính mình, bất chấp sự tuyên truyền của những người
và những đảng phái đầy định kiến. Thế giới văn học có sức
mạnh để chuyển tải kinh nghiệm tích lũy ở một miền đất này
sang một miền đất khác, hầu cho chúng ta không còn bị chia
cắt và đui mù, hầu cho các bậc thang giá trị khác nhau được
mọi người đồng thuận, và một quốc gia nhất định sẽ học được
một cách đúng đắn và cô đọng lịch sử chân chính của một quốc
gia khác, với tinh thần thừa nhận và với cảm thức đớn đau
như thể chính mình đang trải qua kinh nghiệm đó; và như
thế, quốc gia ấy sẽ tránh phải lặp lại những sai lầm thảm
khốc tương tự. Có lẽ trong những điều kiện hiện nay, văn sĩ
chúng ta có thể vun xới trong bản thân mình mảnh đất cho một
tầm nhìn bao quát TOÀN THỂ THẾ GIỚI: tại trung tâm thì quan
sát như một người khác ở bên cạnh mình, tại ngoài viền thì
chúng ta bắt đầu kéo về những gì xảy ra từ mọi nơi trên thế
giới. Và chúng ta sẽ nối kết, sẽ tôn trọng sự cân bằng của
thế giới này.
Nếu không
phải là những người cầm bút, thì ai sẽ đánh giá, không chỉ
về việc quản lý thiếu hiệu quả trên đất nước mình, (mà trong
nhiều nước thì đây là cách kiếm ăn dễ nhất, một công việc mà
bất cứ người nào không làm biếng cũng có thể làm), mà còn
đánh giá về chính người dân, về sự nhẫn nhục đê hèn hoặc về
sự yếu kém đầy tự mãn của họ? Ai sẽ đánh giá về cuộc chạy
đua nhẹ dạ của thế hệ trẻ, và về những tên ăn cướp trẻ đang
chìa dao găm ra?
Người ta
sẽ hỏi: văn học thì có thể làm gì để chống lại sự tấn công
khốc liệt của bạo lực công khai? Vậy thì chúng ta đừng quên
điều này: bạo lực không sống một mình và không có khả năng
sống một mình; nó buộc phải đan xen với dối trá. Giữa chúng
có một mối dây liên kết tự nhiên, mật thiết và sâu đậm nhất.
Bạo lực lấy gian dối làm nơi trú ẩn, gian dối lấy bạo lực
làm chỗ nương tựa. Người nào từng một lần tuyên bố lấy bạo
lực làm PHƯƠNG PHÁP thì người đó buộc phải chọn dối trá làm
NGUYÊN TẮC. Khi mới ra đời, bạo lực hoành hành một cách công
khai và thậm chí vênh vang. Nhưng khi nó mạnh rồi, có ghế
ngồi vững vàng rồi, nó cảm thấy bầu không khí quanh mình
loãng ra nên không thể sống được nếu không hạ xuống mà nấp
vào lớp mây của gian dối, ngụy trang mình bằng những lời
đường mật. Không nhất thiết là lúc nào nó cũng công khai cắt
cổ người ta đâu, mà thường thường nó đòi buộc dân đen của
mình thề trung thành với dối trá, đồng lõa với dối trá.
Bước đi
bình thường của người can đảm bình thường là không tham gia
vào dối trá, không ủng hộ dối trá. Cứ để NÓ xâm nhập vào thế
giới, thậm chí cai trị thế giới này - mà không có sự trợ lực
của mình. Nhưng văn sĩ và nghệ sĩ thì có thể làm hơn như
thế: họ có thể CHIẾN THẮNG SỰ GIAN DỐI! Trong cuộc chiến
chống lại gian dối thì nghệ thuật đã từng chiến thắng và sẽ
chiến thắng mãi. Một cách rõ ràng và không thể phủ nhận
được, vì mọi người! Gian dối có thể khuất phục nhiều thứ
trên thế giới này, nhưng không thể khuất phục nghệ thuật
được.
Và ngày
nào gian dối bị xua tan thì bạo lực trần trụi sẽ tỏ lộ thân
hình gớm ghiếc - và bạo lực, thối rữa, sẽ đổ nhào. |
VỀ MỤC LỤC |
|
CON PHẢI LÀM GÌ?
|
Tôi ngồi đối diện với bà. Giữa khu
rừng vắng. Nhưng tôi thấy lòng mình càng vắng hơn. Tôi
trống rỗng, nhìn vào khoảng không trước mặt, không biết phải
nói gì. Ngoài tiếng cây lá rung rinh, vẫn chỉ là tiếng nấc
của bà. Tôi thấy mình nhỏ bé – không biết phải làm gì.
Cuối cùng tôi cũng lên tiếng: “ngày mai cha sẽ vào tù thăm
chồng bà, sẽ nói chuyện với ông xem sao?”
************************
Hôm nay là một ngày khá buồn trong đời
Linh Mục của tôi.
9:00 AM sáng dâng lễ với giáo dân.
10:00AM thăm, cầu nguyện và sức dầu một
giáo dân bị ung thư giai đoạn cuối tại tư gia.
11:00AM tham dự nghi thức an táng tại
nghĩa trang của một linh mục trong giáo phận. 12:30PM ghé
thăm hai người giáo dân bị “căng thẳng” tinh thần phải nhập
vào bệnh viện dành riêng cho người có triệu chứng “tâm
thần.”
3:00 PM ghé McDonald ăn trưa
3:30 PM ghé thăm một vợ ông D. Bà đang
bị khủng hoảng về mọi mặt- tinh thần lẫn vật chất.
*********************
Tôi quen biết ông D từ những ngày đầu
tiên tôi về giáo xứ này - thỉnh thoảng tôi thấy ông đi lễ
với vợ - một người phụ nữ bị tật ở chân. Nhưng có vẻ ông
không hiểu tôi nói gì! Sau này tôi mới biết ông bị điếc.
Bà vợ của ông cho tôi biết là ông bắt đầu đi lễ lại từ ngày
tôi về nhận xứ vì… “cha là người Việt
Nam!”
Câu chuyện chỉ dừng lại ở đó – và tôi
vẫn cứ miệt mài công việc và tìm hiểu “đoàn chiên” mới của
mình. Cho đến một hôm cũng đã sau 5 giờ chiều. Tôi vừa rời
văn phòng bước và bước vào cửa nhà xứ, trút bỏ bộ quần áo
chuẩn bị tắm thì điện thoai reo.
- Cha ơi, có ông D nói muốn gặp cha. Bên kia là giọng nói
của bà thư ký.
- Có chuyện gì gấp không, vì ông ta không có hẹn với cha hôm
nay.
- Dạ có, ông ta nói cần phải nói chuyện với Cha ngay.
- Nói ông ta đợi một tí, cha phải mặc đồ lại rồi trở lại văn
phòng ngay.
Tôi mời ông vào văn phòng, thế là ông bắt đầu kể:
- Con đã giữ điều này từ lâu lắm rồi nhưng hôm nay con muốn
nói chuyện với cha. Trước đây con ghét người Việt
Nam lắm. Trước hhi nghe cha về giáo xứ này là con đã bỏ
không đi lễ. Sau đó vợ con thuyết phục mãi con mới đi lại.
Vợ con bảo “Cha tốt và vui lắm chứ không phải như những
người Việt
Nam mà anh đã gặp đâu.”
- Cám ơn ông, nhưng cha chỉ cố gắng làm những gì trong khả
năng của cha và phục vụ với chính con người thật của cha
thôi.
- Đó là điều làm cho con phục nhất – Con người thật của cha.
Chính vì vậy hôm nay con mới tới đây. Và câu chuyện ông bị
điếc 100% bắt đầu như sau.
Ông gia nhập quân đội Mỹ khi còn là một thanh niên trẻ.
Năm 1967 ông được gởi qua chiến trường Việt
Nam và làm người giữ khẩu súng máy bắn tỉa từ cửa trực thăng
(helicopter door gunner) trong không đoàn Airborn 101. Và
ông có mặt trong trận chiến “đồi thịt băm – Hamberger hill”
năm 1968, mà sau này đã được dựng thành phim. Ông đã bị
thương rất nặng và được đưa đi cấp cứu. Lúc tỉnh dậy ông
thấy đầu và cổ mình được giữ rất chặt bằng những thanh sắt
và khi ông nhìn lên trần thì thấy một hàng chữ được gián để
cho ông đọc “learn how to read lips”, xin được tạm dịch là:
Anh cần phải bắt đầu tập học nhìn môi người đối thoại để có
thể hiểu họ nói gì.” Thế là từ hôm đó, từ năm 1968 đến nay,
đã 40 năm ông không còn nghe được tiếng nói hay tiếng động
chung quanh. Và cũng đã 40 năm nay ông căm ghét người Việt Nam.
Sau khi bình phục ông trở về Mỹ và bắt đầu những bước đi
chập chững của một cuộc đời mới. Của người điếc nhưng không
câm. Ông bảo có những lần ông muốn nổi điên và “giết chết”
ai đó khi họ biết ông điếc và phải nhìn môi người đối diện
để biết người ta nói gì, và họ cứ nhấp môi liên tục nhưng
thực ra không nói gì. Tuy vậy số phận cũng không quá tệ với
ông, một năm sau khi trở về từ Việt Nam ông đã có người yêu và 3 tháng sau đã nên duyên vợ chồng.
- Cha biết không, ngày 1 tháng 5 vừa qua là kỷ niệm 38 năm
ngày cưới đó. Có lúc vui, lúc buồn; lúc giận, lúc hờn; lúc
ghét, lúc thương, nhưng đó là 38 năm hạnh phúc đó cha! Ông
nói chắc như đinh đóng cột với nụ cười rạng rỡ.
- Cha xin chúc mừng ông bà!
- Cám ơn cha, nhưng hôm nay con đến đây là không phải vì vậy
mà muốn giải toả những “đè nén” của hận thù của gần 40 năm
qua với người Việt
Nam. Con muốn nói với cha và với họ một lời xin lỗi.
- Không, ông không có lỗi gì. Khi có chiến tranh chắc chắn
có những hoàn cảnh riêng của nó.
- Con hiểu, nhưng con vẫn muốn xin lỗi cho tâm hồn con được
thanh thảnh!
- Vậy thì cha xin thay mặt cho những người Việt
Nam nhận lời xin lỗi của ông.
- Cám ơn cha! Ông ta nói 3 chữ đó bằng tiếng Việt trơn tru.
Đã 40 năm nay, con thuộc lòng ba chữ đó bằng tiếng việt,
nhưng hôm nay mới nói với cha lần đầu đó!
Tôi tiễn ông ra cửa rồi quay trở về nhà xứ. Những bước nặng
nhọc nhưng đầy niềm vui! Cảm ơn ông D, và cảm tạ hồng ân
Chúa. Tôi không bị điếc như ông, nhưng có lẽ đã lâu lắm rồi
tôi chưa nghe được những tiếng xin lỗi từ chính miệng tôi
nói ra. Có lẽ vì tôi đã bị điếc tâm hồn! Hôm nay một người
điếc đã mở tai tôi, một người không điếc để có thể nghe rõ
hơn tiếng gọi của Thiên Chúa trong lòng đời hôm nay!
***********************
Tưởng rằng mọi sự sẽ vui sau câu chuyện
đó, nhưng - cuộc đời lại đưa đẩy và ông đã trở về với những
cơn say mèm. Tiền chính phủ cho ông mỗi tháng hơn 3 ngàn
cũng không đủ cho ông uống rượu. Những cơn say khướt; những
lời lẽ nặng nề với vợ; những lúc không kìm chế được bản
thân, ông đã đánh vợ; và cuối cùng thì căn nhà cũng bị ngân
hàng… đòi lại. Ông và vợ thuê apartment để ở. Nhưng vẫn
không yên, trong một cơn say mèm, ông đã “vô tình” nổi lửa
và đốt căn hộ đó. Thế là từ hôm đó ông và vợ đã trở thành
“lữ khách” của khu rừng gần giáo xứ của tôi.
Đã nhiều lần, ông đến “thăm” tôi để xin
chút đồ ăn hay một vài đồng lẻ. Cũng đã nhiều lần tôi đi bộ
vào rừng tìm ông để mang đồ ăn cho ông. Lần nào cũng thế,
ông vẫn say mèm. Tuy vậy ông vẫn rất tôn trọng tôi. Tôi đã
khuyên bảo ông, cũng như tìm mọi cách giúp đỡ ông, nhưng…
đâu lại hoàn đó. Ông bà vẫn “nội trú” trong khu rừng đó.
Và ông vẫn là khách hàng ngày của quán rượu. Rồi có những
lần ông bị cảnh sát bắt, tôi lại đến thăm ông. Khi được thả
ra, ông lại vẫn thế.
************************
Rồi đến chiều hôm nay. Một buổi chiều
ảm đạm. Tôi đã đến “khu rừng” quen thuộc để gặp bà. Ông
không có ở đó. Bà bảo, “ông đã bị cảnh sát câu lưu – do vi
phạm probation.” Lần này có thể ông sẽ bị nhốt cho đến
tháng 3 năm 2009. Có nghĩa là khoảng 10 tháng.
Bà thì tá túc ở khu rừng này
nhưng không có tiền để sống. Số tiền hơn 3 nghìn mỗi tháng
được chính phủ deposit trực tiếp vào ngân khoản của ông. Và
bà thì không có quyền để lấy tiền ra. Những giọt nước mắt
của bà tuôn dài trên má. Tiếng khóc đó, tuy nhẹ nhàng,
nhưng vang vọng cả một khu rừng vắng. Bà khóc cho ông. Bà
khóc cho chính bà. Khóc cho một quá khứ. Và khóc cho cả
tương lai mù mịt.
Tôi ngồi đối diện với bà. Giữa khu
rừng vắng. Nhưng tôi thấy lòng mình càng vắng hơn. Tôi
trống rỗng, nhìn vào khoảng không trước mặt, không biết phải
nói gì. Ngoài tiếng cây lá rung rinh, vẫn chỉ là tiếng nấc
của bà. Tôi thấy mình nhỏ bé – không biết phải làm gì.
Cuối cùng tôi cũng lên tiếng: “ngày mai cha sẽ vào tù thăm
chồng bà, sẽ nói chuyện với ông xem sao?”
Sau đó tôi chào bà, lê những bước nặng
nhọc ra khỏi khu rừng. Miên man suy nghĩ. Dừng lại giữa
khu rừng vắng lặng, tôi ngước mặt lên trời và… than với:
“Lạy Chúa, con phải làm gì?”
Ân sủng và bình an,
LM. Martino Nguyễn
Bá Thông
www.hayyeuthuongnhau.org
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Loan báo Tin MỪng |
Tác Phẩm
CHÚA VẪN THƯƠNG
Lm. MICAE-PHAOLÔ TRẦN MINH HUY pss
7. Loan
báo Tin MỪng
Bình an cho chiên của
Chúa, Chúa gởi cho bạn sự dịu dàng của tình yêu Chúa. Chúa ở
với bạn, bạn đừng sợ chi hết, bạn hãy coi xem cần thiết cái
gì, nhất là bạn hãy ở trong niềm vui, Chúa muốn đưa bạn đi
thật xa để loan báo Danh Chúa. Bạn sẽ luôn đi
cùng đường với Chúa. Bạn hãy để Thần Khí Chúa tác động. Bạn
hãy ở trong niềm vui, vì phần thưởng của bạn sẽ lớn lao ở
trên trời. Bạn hãy sẵn sàng cho những gì Chúa xin bạn trong
khiêm tốn. Bạn đang có những phương tiện quá hạn chế, nhưng
bạn sẽ thấy sự vinh hiển của Chúa.
Bạn hãy quy tụ bạn hữu
bạn lại, bạn hãy dẫn họ tới, đôi khi bạn hãy nài nỉ họ, vì
sự sống của họ, vì hạnh phúc của họ. Đối với một số người
trong họ, đây là cả vấn đề Sống - Chết nữa đó.
Bạn có thực sự chờ đợi
ở Thánh Thần Chúa không? Bạn có thực sự muốn đón Thánh Thần
Chúa không? Hãy cho Chúa sự lo âu sợ hãi của bạn, Chúa sẽ
làm những điều kỳ diệu ngang qua bạn.
Bạn hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Bạn
đừng tưởng rằng bạn có thể tồn tại mà không loan báo về
Chúa. Loan báo về Chúa là một điều thiết yếu. Bạn đừng ở yên
đó với Tin Mừng đã nhận lãnh. Như vậy chẳng khác gì một hồ
nước đọng, chẳng tốt đâu, bạn hãy đi tới trước mà loan báo
về Chúa.
Người đầu tiên được
hưởng lợi sự loan báo này chính là bạn. Bạn sẽ ngỡ ngàng về
niềm vui và hạnh phúc mà bạn sẽ rút ra được từ lời loan báo
ấy, mặc dầu điều đó làm cho bạn sợ dấn thân. Bạn hãy biết rõ
điều đó, không có chọn lựa nào khác. Đó là điều thực sự
chính yếu, cho bạn và cho toàn thế giới: “Vô phúc cho
tôi, nếu tôi không rap giảng Phúc Âm.”
Chúa đã ban sức mạnh
của Chúa cho bạn chẳng để làm gì sao? Chẳng để làm gì mà
Chúa đã mạc khải Chúa cho bạn sao? Không phải chỉ để riêng
cho bạn mà thôi đâu. Bạn không có quyền giữ lại kho tàng ấy
cho riêng mình.
Hỡi bạn, nếu bạn không
loan báo Tin Mừng, Chúa sẽ mạnh mẽ chất vấn bạn: bạn có thực
sự tin vào Chúa? vào Tin Mừng? vào tình yêu Chúa dành cho
bạn? Phải chăng bạn không tin rằng sức mạnh sự dữ đang lồng
lộn lên? Bạn có tin không? Nếu bạn tin thì bạn không thể làm
thinh được.
Bạn hãy để Thánh Thần
tràn ngập bạn. Bạn hãy để Chúa làm việc trong bạn, đó là một
sự cần thiết sống chết, một mất một còn. Chúa đã chọn bạn
làm chứng nhân cho Chúa, trong lời nói cũng như trong hành
động.
Bạn không thể làm thinh
được. Chớ gì bạn biết được tất cả những gì Chúa muốn dẫn bạn
đến! Chớ gì bạn biết được tất cả những gì Chúa muốn tỏ cho
bạn, mạc khải cho bạn, làm cho bạn sống!
Hỡi bạn, Chúa đã muốn
liên kết bạn vào chương trình yêu thương lớn lao của Chúa,
chương trình kỳ diệu mà bạn không thể tự mình nắm bắt được,
và Chúa muốn liên kết bạn vào nhiều hơn nữa. Chớ gì bạn biết
được Chúa muốn liên kết bạn dường nào! Chúa muốn bạn liên
kết với Chúa. Bạn đang ở trong nhà Chúa, bạn hãy dùng thời
giờ mà thờ phượng, rồi bạn sẽ hiểu.
Chính Thần Khí mới làm
cho sống, Lời Chúa đã nói với bạn là Thần Khí và là Sự Sống,
nhưng có một số người không tin. Làm sao bạn muốn đánh động
lòng họ, nếu bạn không nói với họ về Chúa. Bạn đợi gì mà
không nói về Chúa cho họ? Bạn chậm nói về Chúa quá!
Hỡi bạn, bạn có tin đó
là Tin Mừng bạn phải loan báo không? Những lời bạn sẽ loan
báo là những lời ban sự sống, nhờ Thần Khí của Chúa. Hãy lên
đường, hỡi bạn, mùa gặt của Chúa lớn lắm, bao la vô cùng!
Chúa sẽ ở với bạn và bạn sẽ ở trong niềm vui, một niềm vui
lớn lao, và bạn sẽ làm những điều kỳ diệu nhân Danh Chúa.
Chúa muốn dẫn bạn đi thật xa để loan báo Danh Chúa. Và điều
Chúa xin bạn, chính là hãy để Chúa làm việc trong bạn và qua
bạn.
Hãy ra đi, hỡi bạn,
Chúa chờ bạn nói về Chúa. Chúa ở với bạn và Chúa sẽ nhìn
bạn. Chúa sẽ ở bên cạnh bạn. Bạn hãy mau lên đường.
Chúa biết rằng bạn kém
cỏi, không quả quyết, bập bềnh… Nhưng chẳng hề chi, Chúa yêu
bạn. Chúa đặt kho tàng trong bạn, những kho tàng đến từ
Chúa, từ công cuộc sáng tạo của Chúa, những kho tàng mà bạn
không biết được, những kho tàng mà Chúa rất muốn mạc khải
cho bạn.
Chúa biết bạn được làm
nên bằng gì, Chúa biết lịch sử của bạn. Có những cái bạn
phải chịu trách nhiệm, có những cái khác bạn không phải lãnh
trách nhiệm. Bạn đừng xấu hổ, đừng sợ hãi. Chính Chúa làm
tất cả công việc, chính Chúa mạc khải cho bạn biết được bạn.
Chính Chúa mạc khải cho bạn biết được những kho tàng, nhưng
bạn hãy đến đụng vào Chúa, níu lấy tay Chúa. Chúa yêu bạn,
đó là cái quan trọng nhất. |
VỀ MỤC LỤC |
|
BỆNH LO ÂU |
Lo âu là
chuyện thường thấy trong đời sống của con người và là phản
ứng bình thường khi có một khó khăn, căng thẳng, một hoàn
cảnh ngang trái, đe dọa.
Hàng
ngày, đa số mỗi người chúng ta không nhiều thì ít ai cũng có
chuyện này chuyện kia để mà lo nghĩ. Lo âu đôi khi cũng có
lợi. Nó giúp ta vượt qua khó khăn hoặc đề phòng hoàn cảnh
hiểm nguy có thể xảy ra.
Nhưng
nếu quá lo âu, nghĩ ngợi đến nỗi mất ăn, mất ngủ, không làm
công việc hàng ngày được thì là bất thường và có thể là bị
bệnh: Bệnh Lo Âu (Anxiety Disorder).
Lo âu là một
bệnh rất phổ biến.
Tại Hoa
Kỳ, Lo âu đứng hàng đầu trong số các tâm bệnh nhưng chỉ 25%
bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị.
Bệnh lo
âu thấy ở mọi người, mọi giới, mọi tuổi nhưng nữ giới thường
bị bệnh nhiều gấp đôi.
Nguy cơ đưa
tới bệnh lo âu
Bệnh có
thể gây ra do yếu tố di truyền, thừa kế gia đình, do tác
dụng phụ của vài loại thuốc, hoặc do hậu quả một số bệnh thể
chất.
1- Di
truyền:
Đã có
nhiều bằng chứng là bệnh lo âu có thể xảy ra cho nhiều thành
viên trong một gia đình.
Nghiên
cứu cho thấy nếu một bé sinh-đôi đồng-tính (identical-twin)
bị bệnh thì bé kia có nhiều khả năng bị lo âu hơn là
ttruong72 hợp sinh-đôi-anh-em (Fraternal twins).
2- Thay đổi
hóa chất ở não bộ
Vì dấu
hiệu của bệnh lo âu thường thuyên giảm với dược phẩm có tác
dụng thay đổi hóa chất ở não, nên các khoa học gia tin là
hóa chất ở não có vai trò vào sự thành hình bệnh này.
3- Cá tính
con người
Nghiên
cứu cho thấy hành vi cá tính có thể gây ra bệnh lo âu, đặc
biệt là những người kém tự tin và kém khả năng đối phó với
sự việc.
Ngược
lại thì lo âu xảy ra ở tuổi niên thiếu có thể đưa tới kém tự
tin, tự chủ khi lớn lên.
4- Kinh
nghiệm đời sống
Chịu
đựng những lạm dụng bạo hành, bất công nghèo khó trong thời
gian lâu dài cũng có liên hệ tới việc phát sinh bệnh lo âu.
Đôi khi
lo âu cũng là hậu quả của lạm dụng thuốc gây ghiền như
amphetamines, LSD hoặc Ectasy, thuốc “lắc”.
Ngay cả
khi tiêu thụ quá nhiều caffeine cũng tạo ta cảm giác hồi
hộp, lo âu.
Diễn tiến
bệnh
Bệnh
nhân có cảm giác lo sợ rất mạnh, kèm theo nhiều thay đổi về
tâm trạng, về sự suy nghĩ và vế các hành vi của mình.
Nếu
không được điều trị, bệnh trở nên trầm trọng và gây khó khăn
cho đời sống.
Bệnh
nhân sẽ liên tục bị những cơn hoảng sợ ám ảnh, hành hạ, có
những ý nghĩ không hợp lý, những hành vi kỳ quặc, những cơn
ác mộng, hồi tưởng cũng như nhiều dấu hiệu thể chất đáng
ngại.
Cơn
hoảng sợ có thể đi đôi với nhiều bệnh cấp tính như cơn đau
tim, cơn suyễn, cơn kinh phong, giảm đường huyết hoặc cường
chức năng tuyến giáp...
Phân loại:
Bệnh Lo Âu được chia ra làm nhiều loại:
1- Bệnh
hoảng sợ (Panic disorder).
Bệnh
nhân có nhiều cơn hốt hoảng (panic attack) với sợ hãi tột
độ, tim đập nhanh, đau tức ngực, đổ mồ hôi, người run rẩy,
khó thở, chóng mặt, nghẹt cuống họng, cảm giác tê liệt, mất
định hướng, tưởng như sắp chết...
Mỗi cơn
kéo dài có khi tới cả 10 phút, đôi khi lâu hơn.
Người
hay bị cơn hoảng sợ có thể gặp nhiều khó khăn trong đời
sống.
Chẳng
hạn nếu cơn hoảng sợ xảy ra ở một nơi công cộng thì họ sẽ sợ
đám đông, không dám bén mảng, lai vãng.
Hoặc cơn
hoảng sợ xẩy ra trong cầu thang máy, thì không bao giờ họ sử
dụng phương tiện lên xuống này.
Bệnh
nhân thường cũng hay bị trầm cảm, buồn phiền, xa lánh mọi
người. Lâu ngày, họ sẽ rơi vào vòng lạm dụng rượu, cần sa ma
túy, để mong thoát sự lo âu.
Bệnh có
thể điều trị bằng dược phẩm, liệu pháp tâm lý hoặc liệu pháp
nhận thức. Bệnh nhân được hướng dẫn tìm hiểu về bệnh tình
của mình và thay đổi hành vi, suy nghĩ.
2- Bệnh lo
âu toàn diện (Generalized Anxiety Disorders)
Người
bệnh luôn luôn ở trong tình trạng căng thẳng, sợ hãi mà
không có nguyên nhân.
Chẳng
hạn họ sợ rằng thiên tai bão lụt sẽ sẩy ra trong khi thời
tiết rất tốt. Họ cứ cho là sức khỏe của họ rất kém, mặc dù
họ vẫn sinh hoạt, ăn ngủ bình thường.
Bệnh
nhân không nghỉ ngơi thư giãn được, dễ giật mình, rối loạn
giấc ngủ, cảm thấy mệt mỏi, đau nhức toàn thân, ăn không
ngon, buồn nôn, tay chân run rẩy, đổ mồ hôi, chóng mặt, khó
thở…
Không
điều trị, bệnh không những gây ảnh hưởng xấu cho đời sống mà
còn gây khó khăn trong công việc làm ăn.
Thuốc
chống lo âu, liệu pháp tâm lý có nhiều công hiệu để điều trị
bệnh lo sợ toàn diện này.
3- Bệnh ám
ảnh sợ hãi (Phobia).
Người
bệnh có những nỗi sợ quá đáng với các hoàn cảnh thường nhật,
những sự việc thường xảy ra và những nơi thường tới. Họ trở
nên thu mình, không dám đi ra ngoài.Có người sợ đi xe hơi,
máy bay vì nghĩ tới tai nạn có thể đến.
Ám ảnh
sợ hãi đáp ứng tốt với tâm lý trị liệu.
4- Bệnh ám
ảnh cưỡng bức (Obsessive-compulsive
disorder).
Bệnh
nhân có những ý nghĩ hoặc hành động cố chấp và tái diễn.
Vì sợ
hãi một sự kiện nào đó, họ nghĩ rằng có thể kiểm soát được
sự việc bằng cách làm đi làm lại cùng một động tác.
Chẳng
hạn vì ám ảnh với sợ bị lây bệnh, họ rửa tay liên tục nhiều
lần.
Hoặc đã
khóa cửa trước cửa sau trước khi đi ngủ, nhưng họ vẫn chưa
yên tâm, trở lại kiểm soát cửa ngõ nhiều lần.
Tâm lý
trị liệu và một vài dược phẩm có thể được dùng để điều trị
sự ám ảnh này.
5- Hậu chấn
thương căng thẳng (Post traumatic stress disorder)
Bệnh xẩy
ra sau khi bệnh nhân là nạn nhân hoặc chứng kiến những biến
cố trầm trọng gây ra thương tích thể chất và tinh thần. Các
biến cố có thể là chiến tranh, khủng bố, tù đầy, bắt cóc,
hiếp dâm, mất việc, mất người thân yêu...
Bệnh
nhân trở nên lạnh nhạt với mọi người, tránh không muốn nghe
những hoàn cảnh có thể gợi lại biến cố cũ, nhưng ban đêm lại
hay có ác mộng về biến cố. Tính tình của họ thay đổi, trở
nên nóng nẩy, khó tính, hay gây sự đôi khi hung giữ.
Bệnh có
thể chữa được bằng dược phẩm và liệu pháp hành vi.
Ðiều trị
Bệnh lo
âu có thể điều trị được bằng dược phẩm và tâm lý trị liệu.
Bệnh nhân được hỗ trợ, giải thích để có thể kiểm soát các
phản ứng sợ hãi với hoàn cảnh hoặc sự việc
Nếu cho
là đang có bệnh lo âu, nên nói cho bác sĩ gia đình biết các
triệu chứng bệnh và yêu cầu giới thiệu tới một bác sĩ chuyên
khoa tâm lý. Vị bác sĩ này sẽ chẩn đoán bệnh và chữa trị cho
mình.
Ngoài
ra, có nhiều cơ quan tư vấn hoặc đường dây điện thoại cấp
cứu mà người bệnh có thể sử dụng, nhất là khi cơn lo âu,
hoảng sợ đưa tới ý định quyên sinh tự tử hoặc bạo động, hành
hung.
Bác sĩ
Nguyễn Ý Ðức, Texas –Hoa Kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
ĐỜN ÔNG…ĐẤU
TRANH Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Tình cờ đọc một
tờ báo, gã thấy một bài thơ hay hay của một tác giả tên là
Hà Hà, bèn ghi lại để bàn dân thiên hạ cùng đọc cho vui. Bài
thơ ấy mang tựa đề “Phụ nam…ngâm khúc” :
- Trăm năm
trong cõi người ta,
Ai không cưới
vợ thật là đại…khôn.
Chiều về ghé
quán dùng cơm,
Tối rà quán
nhậu thảo thơm bạn hiền.
Khuya về lăn
ngủ…như tiên,
Một mình xài
hết trọn tiền kiếm ra.
Chẳng cần
phải nộp cho bà,
Chẳng cần lấm
lét vào ra hỏi trình.
Khi nào quần
áo hôi rình,
Nước hoa
xịt…xịt, thì mình lại thơm.
Khi nhà đầy
những rác rơm,
Mở cho quạt
thổi…tinh tươm tức thì!
Alô! Em út vu
vi,
Chờ mong đến
hẹn đến thì lại lên!
Lỡ mà trong
túi hết tiền,
Mạnh tay ký
nợ căng-tin sáng chiều.
Một mình sung
suớng bao nhiêu.
Có lẽ tác giả
đã nghiền ngẫm thân phận nghiệt ngã của kẻ làm chồng, để rồi
viết ra cái “ngâm khúc” trên, mà tán tụng kiếp sống “phòng
không”, trăm năm cô đơn của mình. Cạch cho đến già cũng
chẳng dám hó hé hay tơ tưởng đến “cái ghế” làm chồng của
mình nữa :
- Kiếp sau xin
chớ làm chồng,
Thà làm một
gốc cây thông trong rừng!!!
Gã còn nhớ có
lần gã đã bàn rộng tán dài về sự hẩm hiu của cánh đờn ông
con giai. Bây giờ chỉ xin tóm tắt lại trong một vài điểm
chính yếu.
Trước hết, xã
hội đã cư xử tệ bạc với anh ta, coi anh ta chẳng có một gờ
ram nào trong bậc thang giá trị, bởi vì :
- Thứ nhất con
nít, thứ hai đờn bà và thứ ba là con chó.
Cũng giống như
ông bố đã tuyên bố thật hách xì xằng trước mặt cậu con giai
:
- Thà rằng làm
con chó nhà Đức Chúa Trời, còn hơn làm vương làm tướng ngoài
thế gian!
Tiếp đến, xã
hội đã cư xử bất công đối với hắn ? Trong khi phe đờn bà con
gái được dành cho biết bao nhiêu lễ hội để mà tôn vinh cũng
như tưởng nhớ công ơn, nào là ngày tình yêu, ngày mẹ hiền,
ngày quốc tế phụ nữ, ngày phụ nữ Việt Nam…thì anh ta lại
chẳng có một lễ hội nào cả.
Trong những
ngày thê lương và ảm đạm ấy, anh ta chỉ biết móc cái ví vốn
dĩ đã xẹp lép, mà mua quà cáp. Anh ta mà lỡ quên, thì chắc
chắn chiến tranh lạnh sẽ xảy ra và không chừng cục diện thế
giới sẽ bị lật nhào.
Ngay tại Việt
Nam, chỉ thấy ông nhà nước ra rả ca tụng những bà mẹ anh
hùng, mà chẳng thấy dành được một lời cỏn con nào để tán
dương những ông bố anh hùng cả.
Vì thế, thời
gian đã chín mùi. Đây là lúc phe đờn ông con giai phải vùng
lên mà đòi quyền sống, phải giải phóng mình khỏi gánh nặng
cuộc đời cũng như khỏi cơn ác mộng về công danh sự nghiệp,
phải đấu tranh để đòi quyền được đối xử bình đẳng ít nữa
cũng phải ngang với đờn bà con gái.
Bàn về sự đấu
tranh, cũng như về sự giải phóng cho phe đờn ông con giai,
gã thấy có rất nhiều lãnh vực cần phải điều chỉnh lại cho
hợp tình và hợp lý. Tuy nhiên, trong phạm vi hạn hẹp của mục
chuyện phiếm, gã chỉ xin đưa ra hai lãnh vực nho nhỏ mà
thôi.
Thứ nhất,
đờn ông con giai phải được giải phóng khỏi gánh nặng của
công danh và sự nghiệp.
Thực vậy, từ
ngàn xưa và ngay cả cho tới ngày hôm nay, phe đờn ông con
giai vốn được coi là phái khỏe, phái mạnh, cho nên phải xốc
vác, phải cáng đáng những công việc ngoài xã hội.
Sống trong cuộc
đời, anh đờn ông con trai đầu phải đội trời và chân phải đạp
đất. Muốn xứng đáng với cái bản mặt của một đấng mày râu hay
của một bậc tu mi nam tử, thì cần phải có công danh và sự
nghiệp.
Quan niệm này,
gã thấy nổi bật trong thơ văn của Nguyễn Công Trứ, mà hồi
xưa gã đã từng phải học thuộc lòng.
Thực vậy, đã là
anh đờn ông con giai, thì phải ươm mơ giấc mộng lớn và phải
quyết tâm thực hiện giấc mộng lớn ấy trong cuộc đời mình,
chứ không thể sống tầm thường, chịu mục nát như cỏ cây :
- Trót sinh ra
thì phải có chi chi,
Chẳng lẽ tiêu
lưng ba vạn sáu!
Đối với anh đờn
ông con giai, sự nghiệp và công danh là như một món nợ cần
phải dứt khóat thanh toán :
- Vòng trời đất
dọc ngang ngang dọc,
Nợ tang bồng
vay trả trả vay.
- Tang bồng hồ
thỉ nam nhi trái,
Cái công danh
là cái nợ nần.
- Đã mang tiếng
ở trong trời đất,
Phải có danh
gì với núi sông.
Trong cuộc
trần ai ai dễ biết,
Rồi ra mới tỏ
mặt anh hùng.
Vì thế anh ta
phải dồn mọi thời giờ, mọi công sức cho vấn đề công danh và
sự nghiệp. Đây là vấn đề “số một” đối với anh ta. Chuyện
công danh sự nghiệp phải đi trước, rồi chuyện gia đình, vợ
con mới bước theo sau :
- Cũng có lúc
mưa dồn sóng vỗ,
Quyết ra tay
buồm lái với cuồng phong.
Chí những
toan xẻ núi lấp sông,
Làm nên đấng
anh hùng đâu đấy tỏ.
Ngoài ra, trong
bất kỳ xã hội nào cũng đều có một sự phân công. Chẳng hạn
như trong gia đình, đã bế em thì khỏi phải rửa bát. Hay nói
cách khác đã rửa bát thì khỏi phải bế em.
Cũng vậy, một
khi anh đờn ông con giai đã lăn xả vào những công việc bên
ngoài, đã kề vai gánh lấy trách nhiệm về phương diện xã hội,
thì đương nhiên, mọi công việc trong gia đình, từ chuyện
nuôi dưỡng và dạy bảo con cái, đến chuyện bếp núc và nồi
niêu soong chảo, nghĩa là toàn bộ công việc tề gia nội trợ
đều được anh ta đá sang phần đất phía đờn bà con gái. Chẳng
thế mà bàn dân thiên hạ đã ưu ái phong tặng cho người vợ
danh hiệu là…nội tướng!
Tuy nhiên, cùng
với những năm tháng dài, thế gian đã ra khác và quan niệm
trên cũng đã bị đổi thay. Phong trào giải phóng đờn bà con
gái hay cũng nói cách khác, phong trào đờn bà con gái vùng
lên đòi quyền…sống đã khuyến khích chị em lăn xả vào những
hoạt động xã hội, bên ngoài ngưỡng cửa gia đình. Và các chị
em cũng đã gặt hái được những thành quả to lớn, không thiếu
gì những người đã làm tới tổng thống và thủ tướng, dân biểu
và nghị sĩ, bộ trưởng và giám đốc này kia kia nọ…
Vậy thì chuyện
gia đình sẽ phải đá sang phần đất của ai ? Chẳng lẽ lại như
chim tu hú hay sao ? Thực vậy, tu hú là một loại chim lông
hơi vàng, và không biết làm tổ nên phải đẻ nhờ trong tổ quạ:
- Tu hú sẵn tổ
mà đẻ.
Sau đó, lại còn
phó mặc cho quạ mẹ ấp trứng và nuôi dạy đàn con tu hú. Thành
thử việc nuôi dạy này không thể nào đạt được chất lượng cao,
khiến bàn dân thiên hạ đã phải phê bình :
- Nuôi như quạ
nuôi tu hú.
Con nhà có đạo
thì nhận ra bàn tay quan phòng tuyệt vời của Thiên Chúa qua
sự việc này. Số là tu hú được trao cho trọng trách canh giữ
các khu rừng, để khỏi bị sâu bọ tàn phá. Nếu tu hú cũng làm
tổ và ấp trứng như những loài chim khác, thì rất có thể chỉ
trong một thời gian ngắn sâu bọ sẽ làm cho những cánh rừng
trở nên xơ xác. Vì thế, tu hú phải nhờ tới loài quạ giúp đỡ.
Cũng vậy, một
khi chị đờn bà con gái đã đội mũ bước ra khỏi ngưỡng cửa gia
đình, thì đương nhiên anh đờn ông con giai phải chui đầu vào
bếp, nếu muốn giữ lấy cái thế cân bằng cho gia đình khỏi sụp
đổ.
Mà đã chui đầu
vào bếp thì cũng đương nhiên phải giảm bớt những công việc
và trách nhiệm ngoài xã hội. Chứ nếu phải đảm đương cả hai
lãnh vực, thì e rằng ép người quá đáng, ngoài cả sức tưởng
tượng, anh đờn ông con giai chắc chắn sẽ không chịu đựng
nổi, chỉ còn nước thở hắt ra mà chết.
Tuy nhiên, có
rất nhiều chị đờn bà hơi bị tham lam, muốn anh chồng của
mình phải được cả danh lẫn lợi, nghĩa là vừa có địa vị cao
ngoài xã hội, được mọi người nể trọng, lại vừa kiếm được lắm
của nhiều tiền, mang về nuôi sống vợ con :
- Chàng đi cho
thiếp đi cùng,
Ấm no thiếp
ở, cơ hàn thiếp…lui.
Thế nhưng, một
khi anh ta đã “tung cánh chim tìm về tổ ấm”, nghĩa là đã
bước vào ngưỡng cửa nhà mình và trở về với vợ con, thì phải
anh ta phải để cho chị vợ toàn quyền xử dụng và sai bảo theo
kiểu một bài thơ của Bắc Tiếu :
- Vợ tui là
khéo nhất nhà,
Rất hay sai
vặt, nhưng mà sai hay.
Anh ơi giúp
em tí này,
Mang hộ
cái đấy vào đây anh à!
Cái này
giùm em mang ra,
Mang vào
cái đấy, mang ra cái này!
Vào ra,
giúp hộ tối ngày,
Cái tai
vẫn khóai, cái tay vẫn đều.
Vợ tui
đúng thật là siêu,
Sai mà sai
khéo, sai yêu, sai tình.
Cách đây
khoảng 15 năm, một tờ báo bên Nước Anh mở một cuộc thi tuyển
có tên là “Người chồng gương mẫu nhất nước”. Kết quả là ông
John Lavangham đã dành được cái tước hiệu này.
Không ai
phàn nàn về sự tuyển lựa này vì mỗi sáng ông đều mang cà phê
vào tận giường cho vợ. Giúp vợ rửa chén bát, đi chợ giùm vợ
và nếu có chuyện gì vợ lên tiếng mắng chửi thì ông không bao
giờ hé môi nói lại nửa lời.
Chỉ có thế
cũng đủ khiến ông hạ đo ván 569 đối thủ khác ngon lành.
Ngoài tước hiệu “Người chồng gương mẫu nhất nước” ông còn
được một giải thưởng bằng Anh kim tương đương 570,000 đô la
Mỹ.
Thế nhưng
oái oăm thay, vừa lãnh tiền xong thì ông đã điện thoại cho
một vị luật sư giỏi để làm một lá đơn ly dị vợ. Sở dĩ như
vậy vì ông ta đã sống 16 năm trời trong áp bức, khổ sở mà
hôm nay ông mới hy vọng thoát ra khỏi đó.
Thành thử
theo gã nghĩ, cái thế trung dung vẫn là cái thế cần phải
được áp dụng. Nghĩa là cả vợ lẫn chồng, cả đờn bà lẫn đờn
ông đều phải chia sẻ trách nhiệm chăm lo cho gia đình, cũng
như phải tham gia những hoạt động ngoài xã hội. Điều cần
thiết là đừng quá chú trọng bên này và coi thường bên kia,
hay dành cho bên này trọn vẹn thời giờ để rồi chểnh mảng và
nhếch nhác đối với bên kia, bởi vì :
- Phàm cái
gì thái quá cũng đều bất cập.
Chính trong
chiều hướng ấy, tác giả Trịnh Trung Hòa, trong một bài đăng
trên báo “Kiến Thức Ngày Nay”, đã viết như sau :
“Có thể
nói, với đàn ông hiện đại, sự nghiệp và gia đình quan trọng
như nhau. Thành công trong sự nghiệp mà gia đình không ấm êm
hạnh phúc, thậm chí tan vỡ mỗi người một nơi, con cái ly tán
thì như thế cùng lắm mới chỉ thành công một nửa. Vì thế,
theo quan niệm mới, gia đình hạnh phúc là một trong hai mục
tiêu chính của đời người đàn ông, là thành công quan trọng
không kém gì sự nghiệp. Chỉ như thế, đàn ông mới dành thời
gian công sức cho gia đình, tạo điều kiện cho vợ tham gia
công việc xã hội. Không những thế nỗ lực xây dựng một gia
đình hạnh phúc và phấn đấu để có một sự nghiệp phải được coi
như hai quá trình tương hỗ, được tiến hành song song, cái nọ
thúc đẩy cái kia, chứ không đối nghịch nhau, triệt tiêu nhau
như nhiều người lầm tưởng”.
Thứ
hai, đờn ông con giai phải kiên quyết đấu tranh đòi cho mình
quyền được đối xử bình đẳng, ngang hàng với đờn bà con gái.
Không phải
chỉ trong lãnh vực lễ hội, mà hầu như trong mọi lãnh vực phe
đờn bà con gái luôn được ca tụng. Nào văn chương, nào hội
họa, nào điện ảnh…Làm sao kể ra cho hết những tác phẩm nghệ
thuật đề cao hình ảnh người mẹ, người vợ, người chị, người
em gái…Còn những tác phẩm đề cao hình ảnh người cha, người
chồng, người anh thì thật là họa hiếm, lơ thơ như tơ liễu
buông mành.
Gã rất lấy
làm tâm đắc với một vài nhận xét của tác giả Trịnh Trung Hòa
trên báo Kiến Thức Ngày Nay, và xin mượn tạm để rồi dựa vào
đó mà bàn rộng bàn dài, tán hươu tán vượn cho thỏa chí toại
lòng.
Hình như bàn
dân thiên hạ không tiếc lời ngợi khen đối với phe đờn bà con
gái, nhưng lại rất hà tiện đến độ sẻn so đối với cánh đờn
ông con giai. Quả là bất công hết chỗ nói. Và đau hơn nữa,
những kẻ to miệng hơn cả lại thuộc cánh…đờn ông con giai.
Đúng là đâm sau lưng chiến sĩ.
Dĩ nhiên gã
cũng rất ủng hộ việc ca tụng và ngợi khen những người mẹ và
những người vợ đã giãi nắng dầm mưa, một sương hai nắng vì
chồng vì con. Thậm chí cả những người chị đã cam chịu số
kiếp cô đơn để nuôi dạy đàn em nên người, khi cha mẹ chẳng
may mất sớm.
Thế nhưng,
bàn dân thiên hạ cũng cần phải mở to đôi mắt để nhìn nhận,
rồi lên tiếng ca tụng và ngợi khen những gian khổ và mệt
mỏi, những đắng cay và chua xót của người cha và người
chồng. Không thiếu gì những người cha đã can đảm chấp nhận
cảnh gà trống nuôi con, theo đúng bài bổn “hy sinh đời bố,
để củng cố đời con”. Và những hy sinh to lớn này cũng đáng
đồng tiền bát gạo lắm chứ.
Không thể
chỉ nói tới nỗi khổ của đờn bà con gái, mà quên béng nỗi khổ
của đờn ông con giai, bởi rất nhiều khi họ cũng xất bất xang
bang vì vợ vì con. Nếu chị vợ bực bội trước thói rượu chè và
đèo bòng bồ nhí của anh chồng, thì anh chồng cũng bực bội
không kém trước tật ghen bóng ghen gió và tiêu xài vung vít
theo kiểu con nhà lính tính nhà quan của chị vợ.
Không thể
chỉ nói tới những khó khăn của đờn bà con gái mà lờ tít
những khó khăn của đờn ông con giai, bởi rất nhiều lần họ
cũng ba chìm bảy nổi và chín cái lênh đênh vì vợ vì con. Gã
cảm thấy Thiên Chúa thật công bằng trong lãnh vực này.
Thực vậy,
sách Sáng Thế Ký kể lại rằng : Sau khi hai ông bà nguyên tổ
là Adong Eva phản bội cùng Thiên Chúa bằng cách giơ tay ngắt
trái cấm mà ăn, thì Ngài đã hiện ra và công bố án phạt.
Với Eva,
Ngài phán :
- Ta sẽ làm
cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ
phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi,
và nó sẽ thống trị ngươi.
Với Adong,
Ngài phán :
- Vì ngươi
đã nghe lời vợ mà ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng
: Ngươi đừng ăn nó, nên đất đai sẽ bị nguyền rủa vì ngươi;
ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm
được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho
ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi
trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất,
ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi
đất.
Gã rất lấy
làm tâm phục khẩu phục sự phân minh của Thiên Chúa. Nếu chị
vợ phải mang nặng đẻ đau, thì anh chồng cũng phải đầu tắt
mặt tối mới tìm được chén cơm manh áo. Thật đúng với một câu
nói đã được xếp vào hàng “ranh ngôn” :
- Phía sau
hình ảnh của một chị đờn bà chưng diện là bóng dáng của một
anh đờn ông đang…kéo cày, nhễ nhãi đổ mồ hôi sôi nước mắt.
Trong xã hội
Việt Nam ngày xưa, dĩ nhiên là có chuyện “trọng nam khinh
nữ”, đề cao đờn ông con giai để rồi chèn ép và áp bức đờn bà
con gái. Nhưng thực ra đại đa số đờn ông con trai thời bấy
giờ cũng là những nạn nhân, bị chèn ép và áp bức bởi một số
ít đờn ông của giai cấp thống trị.
Một trong
những vấn đề nổi cộm đang được mọi người chú trọng tới trên
thế giới cũng như tại Việt Nam, đó là vấn đề bạo lực trong
gia đình.
Có những anh
chồng nổi tiếng là vũ phu, đã thượng cẳng chân hạ cẳng tay,
sút gọn chị vợ vào góc tủ như đá trái banh lọt tỏm vào cầu
môn, hay đánh đập chị vợ đến thâm tím cả mặt mày. Những
trường hợp trên cần được xử lý nghiêm khắc.
Thấy hai anh
chồng cũng thuộc vào hàng cục mịch, suốt ngày chỉ tìm cách
gây sự để mà đánh vợ. Ông hàng xóm bèn tìm cách khuyên nhủ.
Với anh
chồng thứ nhất, ông ta nói :
- Đờn bà con
gái là phái yếu, ta không nên đánh đập họ. Và nếu cần phải
đánh thì hãy dùng cành hoa mà đánh.
Và anh chồng
thứ nhất đã trả lời :
- Chẳng cần
phải hoa với hoét, tôi cứ dùng ngay cái búa tạ mà phang
là…xong tuốt.
Với anh
chồng thứ hai, ông ta nói :
- Đờn bà con
gái là những bông hồng, ta không nên vùi dập họ.
Và anh chồng
thứ hai đã trả lời :
- Tôi đâu có
vùi dập họ, mà chỉ bẻ bớt những gai nhọn của bông hồng nhà
tôi mà thôi.
Thế nhưng,
dường như bàn dân thiên hạ chỉ nhìn thấy những vết bầm tím,
nghĩa là chỉ nhìn thấy sự bạo hành ngoài thân xác mà anh
chồng đã ưu ái ghi lại cho chị vợ, mà lại chẳng bao giờ nhìn
thấy những “vết thương lòng đang rỉ máu”, nghĩa là chẳng bao
giờ nhìn thấy sự bạo hành trong tinh thần mà chị vợ đã tức
tối mang đến cho anh chồng.
Chị vợ có
thể thực hiện sự bạo hành trong tinh thần đối với anh chồng
bằng những lời lẽ từ cay nghiệt đến độc ác, bằng những thái
độ cư xử từ lạnh lùng đến tàn tệ. Mỗi lời nói và mỗi thái độ
cư xử như thế chẳng khác gì một lưỡi lam khía vào trái tim
anh chồng. Những vết thương rỉ máu trong cõi lòng cũng đau
đớn không kém, và thậm chí nhiều khi còn đau đớn hơn cả
những bầm tím ngoài thân xác.
Gã xin kể
lại một trường hợp điển hình đã được tăng tải trên tuần báo
“Gia Đình” như sau :
“Phát
hiện ra anh chồng có bồ nhí, chị vợ đã rình bắt quả tang,
rồi đánh ghen ầm ĩ và tìm mọi cách để giành lại chồng. Thế
nhưng khi anh chồng quay về, thì cũng chị vợ là người đẩy
anh chồng xa lìa tổ ấm một cách bất đắc dĩ.Chị vợ quá cố
chấp và luôn soi mói, nghi ngờ anh chồng. Chị vợ yêu cầu anh
chồng không được giao du với bạn bè khác giới “kẻo ngựa lại
quen đường cũ, sa ngã lúc nào không hay”. Chị vợ còn kiểm
soát chặt chẽ tiền lương và thời gian làm việc của anh
chồng. Anh ta đi đâu mà về muộn là lập tức bị lục vấn, tra
khảo căn kẽ và chưa kịp nghe lời giải thích, chị vợ đã gán
luôn cho anh ta cái tội “hú hí với con nào”. Mỗi lần vợ
chồng giận nhau, thì chị vợ bèn nhắc lại chuyện phản bội
này ngay cả trước mặt con cái và nguyền rủa anh chồng là
“thằng chồng thiếu chung thủy, là đồ tồi, là tên ba lăng
nhăng…”Anh chồng chán đời vì muốn đem tất cả thiện chí của
mình để chuộc lỗi lầm mà cũng không xong. Tuyệt vọng, anh la
cà quán xá với bè bạn, không muốn trở về ngôi nhà lúc nào
cũng bao phủ không khí ngột ngạt, não nề…”
Rồi sự gì
phải đến ắt sẽ đến. Và họ đã chia lìa nhau.
Ngoài ra lại
còn một sự bất công khác nữa, đó là khi đờn bà con gái và
nhất là chị vợ chẳng may bị bạo hành, chẳng may bị ngược
đãi, thì họ có thể báo cảnh sát và lập tức mấy “thầy phú
lít” đến can thiệp liền tù tì. Họ cũng có thể vác đơn trình
ba tòa quan lớn mà kiện. Và những vị quan tòa “chí tư vô
công” này dường như lúc nào cũng sẵn sàng bênh vực, và ủng
hộ cho họ. Nếu tình huống xấu nhất xảy ra như chuyện tan đàn
xẻ nghé, thì họ cũng được thừa hưởng chí ít là 50% tài sản.
Ngược lại,
khi đờn ông con giai và nhất là anh chồng chẳng may bị bạo
hành, chẳng may bị ngược đãi thì biết làm sao bây giờ. Nói
ra thì chẳng ai thèm tin. Muốn báo thì báo ở đâu ? Muốn kiện
thì kiện ở đâu ? người ta chẳng cười vào mũi cho ấy. Mà nếu
có kiện thì cũng mất cả chì lẫn chài, không chừng còn bị
thân bại danh liệt nữa là đàng khác.
Thôi thì hãy
mau mắn lắng nghe theo lời xúi dại sau đây của gã :
- Hỡi tất cả
đờn ông con giai,
Hãy đoàn
kết lại.
Ta phải đấu
tranh.
Ta phải giải
phóng mình khỏi gông cùm xiềng xích.
Cho dù đó
chỉ là những gông cùm êm ái,
và những
xiềng xích nhẹ nhàng.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|