Ðức Nữ Trinh Và Giáo Hội |
Thánh Công
Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế
Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen Gentium
Bản dịch
Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared
for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương VIII
Ðức Nữ
Trinh Maria Mẹ Thiên Chúa
Trong
Mầu Nhiệm Chúa Kitô
Và Giáo Hội
67*
III. Ðức Nữ Trinh Và Giáo Hội
78*
60. Ðức Kitô, Ðấng trung gian độc
nhất và Mẹ Maria.
79* Chúng ta chỉ có một Ðấng Trung Gian duy nhất,
như lời Thánh Tông Ðồ dạy: "Thực vậy, chỉ có một Thiên Chúa
duy nhất, và chỉ có một Ðấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên
Chúa với nhân loại, đó là Chúa Giêsu Kitô, là Người, đã dâng
mình làm giá chuộc mọi người" (1Tm 2,5-6). Nhưng vai trò làm
mẹ của Ðức Maria đối với loài người không làm lu mờ hay giảm
bớt vai trò trung gian duy nhất của Chúa Kitô chút nào, trái
lại còn làm sáng tỏ mãnh lực của sự trung gian ấy. Vì mọi
ảnh hưởng có sức cứu rỗi của Ðức Nữ Trinh trên nhân loại
không phát sinh từ một sự cần thiết khách thể nào, nhưng từ
ý định nhân lành của Thiên Chúa, và bắt nguồn từ công nghiệp
dư tràn của Chúa Kitô. Ảnh hưởng ấy nương tựa và hoàn toàn
tùy thuộc vào sự trung gian của Chúa Kitô, nguồn mạch mọi
quyền lực của ảnh hưởng đó. Nhưng ảnh hưởng này không làm
cản trở gì, trái lại còn giúp đỡ các tín hữu kết hiệp trực
tiếp với Chúa Kitô.
80*
61. Cộng tác vào việc cứu chuộc.
Từ muôn đời, Ðức Nữ Trinh đã được tiền định làm Mẹ Thiên
Chúa cùng một lúc với việc nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa.
Và theo chương trình của Chúa Quan Phòng, trên trần gian
Ngài đã trở nên Mẹ cao trọng của Ðấng Cứu Chuộc thần linh,
và cách đặc biệt hơn mọi người khác, Ngài là cộng sự viên
quảng đại và tôi tá khiêm hạ của Chúa. Vì đã cưu mang, sinh
hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha
trong đền thánh và cùng đau khổ với Con mình chết trên thập
giá, Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình
của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy
và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các
linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng, Ngài thật là Mẹ
chúng ta.
81*
62. Vai trò tùy thuộc trong việc
cứu rỗi. Nhưng trong nhiệm cuộc ân sủng, Ðức
Maria luôn tiếp tục thiên chức làm mẹ, từ khi Ngài tin tưởng
ưng thuận trong ngày Truyền Tin - sự ưng thuận mà Ngài đã
không ngần ngại giữ vững bên thập giá - cho tới lúc vĩnh
viễn hoàn tất việc cứu rỗi mọi người được tuyển chọn. Thật
vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài trong việc cứu độ
không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để
đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần
rỗi đời đời
15. Với tình từ mẫu, Ngài chăm sóc những anh em
của Con Ngài đang lữ hành trên dương thế và đang gặp bao
nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê
trời. Vì thế, trong Giáo Hội, Ðức Nữ Trinh được kêu cầu qua
các tước hiệu: Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Ðấng Phù Hộ và Ðấng
Trung Gian
16. Tuy nhiên phải hiểu các tước hiệu ấy thế nào
để không thêm bớt gì vào vinh dự và quyền năng của Ðấng
Trung Gian duy nhất
17.
Thực vậy,
không bao giờ có thể đặt một tạo vật ngang hàng với Ngôi Lời
nhập thể và cứu chuộc; nhưng cũng như chức linh mục của Chúa
Kitô được thông ban dưới nhiều hình thức cho các thừa tác
viên và các giáo dân, và cũng như sự tốt lành duy nhất của
Thiên Chúa được ban phát nhiều cách cho các tạo vật, thì sự
trung gian duy nhất của Ðấng Cứu Thế không những không loại
bỏ mà còn khuyến khích các thụ sinh cộng tác, trong sự tùy
thuộc vào nguồn mạch duy nhất.
Vai trò tùy
thuộc ấy của Ðức Maria, Giáo Hội không ngần ngại tuyên xưng,
mà luôn nghiệm thấy, và nhắn nhủ các tín hữu ghi nhớ trong
lòng để nhờ sự nâng đỡ và phù hộ từ mẫu của Ngài, họ gắn bó
mật thiết hơn với Ðấng Trung Gian và Cứu Thế.
82*
63. Maria trinh nữ và người mẹ là
mẫu mực của Giáo Hội.
83* Ðức Trinh Nữ nhờ ân huệ và sứ mệnh làm Mẹ
Thiên Chúa, nhờ đó Ngài được hiệp nhất với Con là Ðấng Cứu
Chuộc, và nhờ các ơn và nhiệm vụ đặc biệt khác, Ngài còn kết
hiệp mật thiết với Giáo Hội, như thánh Ambrosiô đã dạy, Mẹ
Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin,
đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô
18. Thực vậy, trong mầu nhiệm Giáo Hội, chính Giáo
Hội cũng được gọi cách hợp pháp là Mẹ và Trinh Nữ, Ðức Nữ
Trinh Maria đi tiên phong, tỏ ra là một người mẹ và một
trinh nữ gương mẫu tuyệt vời và hiếm có
19. Vì, bởi lòng tin và vâng phục, Ngài đã sinh
chính Con Chúa Cha nơi trần gian, mà không hề biết đến người
nam, nhưng được Chúa Thánh Thần bao phủ. Như một Evà mới,
Ngài đã đặt niềm tin vào sứ giả của Thiên Chúa, chứ không
đặt vào con rắn xưa, một niềm tin không bị một nghi ngờ nào
làm phai nhạt. Nhưng Người Con mà Ngài đã sinh ra, Thiên
Chúa đã đặt làm Trưởng Tử trong nhiều anh em (x. Rm 8,29),
nghĩa là các tín hữu, mà Ngài cộng tác vào việc sinh hạ và
giáo dục với tình thương của một người mẹ.
84*
64. Giáo Hội là trinh nữ và là mẹ.
Tuy nhiên, khi chiêm ngưỡng sự thánh thiện kỳ bí và noi
gương đức ái của Ðức Maria, và khi trung thành chu toàn
thánh ý Chúa Cha, Giáo Hội cũng được làm mẹ nhờ lời Thiên
Chúa mà Giáo Hội trung thành lãnh nhận: thực vậy, nhờ việc
rao giảng và ban phép Thánh Tẩy, Giáo Hội sinh hạ những
người con được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh ra
do Thiên Chúa để họ lãnh nhận một đời sống mới và bất diệt.
Giáo Hội cũng là trinh nữ đã giữ gìn toàn vẹn và tinh tuyền
lòng trung nghĩa đã hiến cho Phu Quân; và noi gương Mẹ Chúa
mình, nhờ thần lực của Thánh Thần, Giáo Hội bảo tồn cho tinh
tuyền một đức tin toàn vẹn, một đức cậy bền vững và một đức
mến chân thành
20.
85*
65. Giáo Hội phải bắt chước nhân
đức của Mẹ Maria. Tuy nhiên, Giáo Hội, qua
con người của Ðức Nữ Trinh, đã đạt tới sự toàn thiện làm cho
mình nên thanh sạch và vẹn tuyền (x. Eph 5,27), nhưng Kitô
hữu vẫn còn phải cố gắng chiến thắng tội lỗi để tiến trên
đường thánh thiện. Vì thế, họ ngước mắt nhìn lên Ðức Maria
là một mẫu gương nhân đức sáng ngời cho toàn thể cộng đoàn
những người được chọn. Nhờ thành kính tưởng nhớ Ðức Maria và
chiêm ngưỡng Ngài dưới ánh sáng của Ngôi Lời nhập thể, Giáo
Hội cung kính tiến sâu hơn vào mầu nhiệm cao thẳm, tức là
mầu nhiệm nhập thể, và nên giống Phu Quân mình ngày một hơn.
Thực vậy, Ðức Maria đã mật thiết gắn liền với lịch sử cứu
rỗi, và có thể nói là Ngài đã qui tụ và phản chiếu nơi mình
những đòi hỏi cao cả nhất của đức tin, và khi các tín hữu
nghe rao giảng về Ngài và tôn sùng Ngài, họ được Ngài mời
gọi đến kết hiệp với hy lễ của Con Ngài và yêu mến Chúa Cha.
Phần Giáo Hội càng tìm kiếm vinh quang Chúa Kitô càng nên
giống Khuôn Mẫu cao cả của mình, nhờ luôn tiến tới trong đức
tin, đức cậy, đức mến, và tìm kiếm cùng vâng theo thánh ý
Thiên Chúa trong mọi sự. Do đó, trong công cuộc tông đồ,
Giáo Hội có lý để nhìn lên Ðấng đã sinh Chúa Kitô là người
được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và được Ðức Nữ Trinh
sinh ra để, nhờ Giáo Hội, cũng sinh ra và lớn lên trong lòng
các tín hữu. Ðời sống của Ðức Nữ Trinh là một gương sáng của
tình mẫu tử thắm thiết. Tình mẫu tử ấy phải là động lực của
tất cả những ai cộng tác vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội để
tái sinh nhân loại.
86*
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo
trước)
78* Các số 60-65: Phần
II - Sự liên lạc giữa Mẹ Thiên Chúa và Giáo Hội.
Phần này
trực tiếp bàn về sự liên lạc giữa Ðức Maria và Giáo Hội.
Trước hết, Công Ðồng nhấn mạnh tới sự đồng công cứu chuộc
của Ðức Maria do sự tự ý chấp thuận việc Nhập Thể của Con
Thiên Chúa, do việc dâng hy tế trên Thánh giá và do việc cầu
bầu liên lỉ trên trời. Trong văn mạch này, giữa những tước
hiệu khác nhau Công Ðồng đề cập đến tước hiệu Ðấng Trung
Gian. Một số người trong Ủy ban thần học chưa nhìn thấy rõ
tước hiệu này nên Công Ðồng giải thích cho biết tước hiệu
này vẫn không làm lu mờ sự tuyệt hảo Ðấng Trung Gian duy
nhất là Chúa Kitô (các số 60-62). Sau đó (trong các số
63-64) Công Ðồng giải thích lý do khiến Ðức Maria, là Trinh
Nữ và là Mẹ, lại là hình bóng của Giáo Hội. Giáo lý này có
tầm quan trọng đặc biệt, vì Công Ðồng rất lưu tâm đến những
khía cạnh trổi vượt của mầu nhiệm Giáo Hội. Sau cùng (số
65), Ðức Maria được coi như gương mẫu các nhân đức.
79* Các số 60-62: Ðức
Maria trong công trình cứu chuộc.
80* Số 60: Những nguyên
tắc giáo lý.
Số này tóm
lược các nguyên tắc giáo lý và chỉ dẫn cho biết giáo lý
trình bày trong những số kế tiếp phải được hiểu theo những
nguyên tắc này. Mọi nỗ lực và hành động của Ðức Maria đều do
vị Trung Gian duy nhất là Chúa Kitô, Ðấng đã muốn cho Ðức
Maria cộng tác vào công trình cứu chuộc. Sự trung gian của
Ðức Maria biểu lộ rõ rệt hơn và còn giúp cho sự trung gian
của Chúa Kitô nữa. Chỉ vì ý muốn hoàn toàn nhưng không của
Thiên Chúa nhân từ và quyền năng, Ðấng Cứu Thế đã thông
truyền ảnh hưởng cứu rỗi cho các chi thể và đặc biệt cho Mẹ
Người, là Ðấng ngay từ đầu đã cộng tác với Người và với công
việc Người. Ðó chính là nguyên tắc của kế hoạch cứu rỗi hay
nguyên tắc ban phát đời sống thần linh. Giáo Hội sẽ trở nên
bí tích để ban phát đời sống đó. Còn Ðức Maria, là chi thể
trổi vượt đầu tiên, sẽ là khuôn mẫu cho Giáo Hội.
81* Số 61: Trong cuộc
đời trần gian.
Số này nói
rất vắn tắt đến trọng tâm việc cộng tác của Ðức Maria. Là mẹ
Thiên Chúa, là tôi tớ khiêm hạ của Chúa, Mẹ là cộng sự viên
quảng đại của Ðấng Cứu Thế và là Mẹ chúng ta trên bình diện
ân sủng. Bản văn theo sát với sự thể hiện của nhiệm vụ này.
Nhờ hoàn toàn sẵn sàng tuân theo ý Chúa, Ðức Trinh Nữ đã
mang thai Chúa Giêsu, Ðấng sẽ xóa hết tội lỗi Dân Người. Ðức
Maria đã sinh con và đã nuôi nấng. Mẹ đã dâng Con cho Chúa
Cha trong Ðền Thánh, đã đau khổ với cái chết của Con trên
Thánh Giá. Mẹ đã cụ thể hóa việc cộng tác tuyệt đối duy nhất
này trong sự tuân phục vô điều kiện, sự tuân phục thấm nhuần
đức tin, đức cậy và đức mến hăng nồng. Sự trung thành của Mẹ
trong việc chấp thuận chương trình cứu rỗi là then chốt cho
việc quảng diễn các ý tưởng khác (x. các số 53, 56, 63 và
64).
82* Số 62: Trên trời.
Là Mẹ ban ân
sủng, ở trên trời Ðức Maria tiếp tục một địa vị khác trong
công trình cứu rỗi. Tình mẫu tử của Mẹ tiếp tục hoạt động.
Chắc chắn Mẹ không ban phát ân sủng riêng, nhưng là ân sủng
Chúa Kitô, vì không có ân sủng nào khác. Sứ mệnh của Ðức
Maria là liên kết Chúa Kitô với những phần tử làm thành Giáo
Hội. Ðó là ý nghĩa của tiếng Maria, Mẹ đầy ơn. Mẹ thực hiện
sứ mệnh qua việc bầu cử cho nhân loại. Do đó, mà Giáo Hội
gọi Mẹ bằng các danh hiệu: Ðấng Bảo Vệ, Ðấng Phù Trợ, Ðức Mẹ
Hằng Cứu Giúp, Ðấng Trung Gian. Các nhà thần học tranh luận
về ý nghĩa gán cho các tước hiệu ấy, nhất là tước hiệu sau
cùng. Công Ðồng không muốn giải quyết cuộc tranh luận, nhưng
chỉ quả quyết một thực tại hoàn toàn được toàn thể Giáo Hội
chấp nhận, mà không bận tâm đến những điều xác định rõ rệt
có tính cách kỹ thuật. Công Ðồng cũng nói thêm là tước hiệu
này không làm mất cũng không thêm thắt gì vào địa vị và hành
động của Chúa Kitô, Ðấng Trung Gian duy nhất, vì không tạo
vật nào có thể đóng vai trò trên cùng một bình diện như Chúa
Cứu Thế.
83* Các số 63-64: Ðức
Maria là mẫu mực Giáo Hội.
Tính cách
song đối giữa Ðức Maria và Giáo Hội đưa ra một chủ đề hoàn
toàn mới mẻ trong khoa thần học hiện thời. Quả thực được
liên kết với Con mình trong công trình cứu chuộc, Ðức Trinh
Nữ Maria đã vượt trên mọi người khác và trở nên mẫu mực Giáo
Hội. Ðó chính là một phần tử trong nhóm đang hình thành, gây
ảnh hưởng trên người khác, lôi cuốn và làm gương cho họ. Ở
đây Công Ðồng khai triển vắn tắt chủ đề này về Ðức Maria là
hình bóng Giáo Hội, không phải hình bóng hay mẫu mực theo
nghĩa thiết lập phẩm trật hay bí tích, nhưng như người cổ
xúy đời sống thiêng liêng trong đó sự đồng trinh nẩy nở
thành tình mẫu tử.
84* Số 63: Ðức Maria là
mẫu mực Giáo Hội, như một Trinh Nữ và một người Mẹ.
Trước hết là
đức đồng trinh, nhưng hiểu theo chiều hướng thiêng liêng. Nó
hệ tại đức tin và đức cậy nhờ đó Ðức Maria đã sinh Con Chúa
do quyền phép Chúa Thánh Thần mà không có sự liên lạc xác
thịt nào với người nam, và như vậy đã trở thành người Mẹ.
Ðức Maria đã thụ thai Ngôi Lời trong tâm hồn trước khi thụ
thai trong lòng. Ðức đồng trinh tương quan với sự chấp thuận
bất khả khuyết của đức tin. Ðức Maria đi trước Giáo Hội ở
điểm này; chính do Mẹ mà Chúa Kitô được sinh ra, Ðấng sẽ làm
cho Giáo Hội thành thân thể của Người.
85* Số 64: Giáo Hội là
Mẹ và là Trinh Nữ.
Hình thức
song đối đã nói trên kết thúc ở đây: tính cách làm Mẹ đồng
trinh của Ðức Maria chính là bí tích, dấu hiệu hoặc hình ảnh
của Giáo Hội đồng trinh, cũng thụ thai và sinh dưỡng các con
cái mình. Tính cách làm mẹ của Giáo Hội, noi theo Ðức Maria,
là việc đón nhận Lời Chúa trong tâm hồn. Ðón nhận có nghĩa
là thực hành. Như thế Giáo Hội trở thành mẹ của một cuộc
sống bất tử, nhờ Thần Khí của việc sáng tạo mới. Sự đồng
trinh của Giáo Hội - là điều kiện để sinh nhiều con cái - hệ
tại việc trung thành thực thi các nhân đức đối thần, theo
gương Ðức Maria và nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần.
86* Số 65: Giáo Hội và
việc noi theo các nhân đức của Ðức Maria.
Ở đây, Công
Ðồng trình bày Ðức Maria như gương mẫu các nhân đức mà Giáo
Hội phải noi theo. Việc kính nhớ Mẹ Thiên Chúa làm cho tín
hữu thâm hiểu mầu nhiệm Nhập Thể hơn vì có nhiều khía cạnh
của mầu nhiệm này biểu hiện nơi Mẹ Thiên Chúa. Ngay từ thời
xa xưa, Giáo Hội đã cầu khẩn với Ðức Maria, nhờ thế mà Giáo
Hội tiến tới trên con đường đức tin và trên đường sứ mệnh
tông đồ, trở nên giống với mẫu mực của mình hơn.
87* Các số 66-67: Phần
III - Việc tôn kính Ðức Trinh Nữ trong Giáo Hội.
Phần này
trực tiếp nói đến sự áp dụng giáo lý vào công việc giảng
thuyết và tôn kính. Mối bận tâm mục vụ của Công Ðồng được
biểu lộ rõ rệt. Công Ðồng muốn rằng, trong Giáo Hội, việc
tôn kính và sùng mộ Ðức Maria phải chừng mực và chính đáng;
không trễ nải vì những ngờ vực vô ích hay sợ sệt; không quá
khai thác những tình cảm, tưởng tượng hoặc những điều thần
học còn mơ hồ. |
VỀ MỤC LỤC |
|
HAI GƯƠNG MẶT MỤC TỬ.
|
Hôm nay, tôi
không nhai đi nhai lại chuyện nhà đất. Tôi chỉ muốn nhìn vào
chủ chăn và sứ mệnh các ngài. Tôi nhớ lại bài giảng của cha
Vũ Khởi Phụng tại Dòng Chúa Cứu Thế Saigon, đêm 28-8-2008,
trong thánh lễ hiệp thông cầu nguyện cho Tòa Khâm Sứ và Linh
Địa Thái Hà. Ngài nói: “Mảnh đất là một biểu tượng, mảnh
đất là một cái cớ, mảnh đất là một cơ hội, để đi tìm một cái
gì khác”
Có lẽ câu nói
đó đã làm cho ngài trở thành một người đáng nghi ngờ, vì đây
không còn là vấn đề tranh chấp về một thửa đất, mà là một
vấn đề lớn hơn, một vấn đề ‘chính trị’. Thực ra, ngài đã nói
thay cho những người thấp cổ bé miệng, những người dân oan
nhưng không còn tiếng nói. Và cũng có lẽ vì thế mà đúng một
tháng sau, đêm 28-09-2008, những người hung hăng đã đến
‘cướp’ linh địa và thét lên ‘Giết Vũ Khởi Phụng - Giết Ngô
Quang Kiệt!’.
Những biến cố
này khiến tôi nhìn lại gương mặt của hai tổng giám mục tiêu
biểu cho cùng một cách làm chứng. Dù hai vị khác nhau trên
mọi phương diện - sống trong hai môi trường khác nhau, đối
diện với các tình huống khác nhau, cách trả giá cũng khác
nhau - thì hai vị đều có một mẫu số chung, ấy là làm chứng
rằng: Thời đại này, Giáo Hội tiếp tục bị bách hại, không
phải vì niềm tin của mình, mà vì Giáo hội bênh vực người
nghèo khổ, người bị áp bức, chống lại những kẻ áp bức.
Hai gương mặt ấy là TGM Ngô Quang Kiệt và TGM Oscar Romero.
Tổng Giám Mục
Ngô Quang Kiệt.
Ngày
29-06-1999, cha Giuse Ngô Quang Kiệt được phong giám mục để
phục vụ tại một giáo phận nghèo và hẻo lánh của tuyến đầu
đất nước : Lạng sơn. Nơi đây, đồng bào là những người dân
quê hiền lành mộc mạc, đời sống rất khó khăn vì hậu quả của
chiến tranh. Nước Việt Nam vốn đã chịu nhiều cảnh nghèo: dân
nghèo, địa phương nghèo thì Giáo Hội ở đó cũng nghèo theo.
Cùng hồi tưởng
lại lời chia sẻ của ngài trong lời mở đầu của bài hội thảo
tại Đại Hội Giáo Lý do Tổng Giáo Phận Los Angeles tổ chức và
tân Tổng Giám Mục Hà Nội là diễn giả: ‘Tháng 10 năm 2000,
tôi được hân hạnh tham dự đoàn hành hương Năm Thánh của một
số Giám mục Việt nam. Trong dịp vào chầu Đức Thánh Cha, Đức
Tổng Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, bây giờ là Hồng
Y đã giới thiệu tôi là một giám mục 3 không: không có toà
giám mục, không có nhà thờ chính toà, không có linh mục tu
sĩ. Và Đức Thánh Cha đã gọi tôi là ‘homeless bishop.’...
‘Chỉ có một mình, nên tôi miệt mài rong ruổi. Hết xứ nọ sang
xứ kia. Hết làng này sang làng khác. Ở trên xe nhiều hơn ở
trong phòng. Ở trên đường nhiều hơn ở trong nhà. Trời đất là
quê hương. Núi rừng là giáo phận. Đường là nhà. Xe là phòng.
Cứ đi không ngừng…’
Vâng, vị Tông
Đồ mục tử ấy, Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt, quê quán ở chính
nơi được gọi về phục vụ như là vị mục tử ngày nào ‘không
nhà’ ở Lạng Sơn. Ngài sinh ngày 4 tháng 9 năm 1952 tại Mỹ
Sơn, Lạng Sơn. Được đào tạo tại Tiểu Chủng viện Têrêsa,
thuộc giáo phận Long Xuyên rồi theo học tại Đại Chủng Viện
Tôma, trong cùng giáo phận. Hoàn cảnh đất nước đổi thay,
nhiều khó khăn cho các ơn gọi và tâm hồn ước ao tận hiến;
nhưng với riêng ngài, tuân phục ơn Chúa dẫn đưa và lòng kiên
trì theo đuổi, mùa hè năm 1991 ngài được chọn bước lên bàn
thánh cử hành sứ vụ linh mục. Sau thời gian phục vụ tại Nhà
Thờ Chính Toà Long Xuyên, ngài được theo học tại Institut
Catholique de Paris, Pháp.
Khi về nước,
cũng tiếp tục phục vụ tại giáo phận nhà cho đến khi trở
thành Giám mục coi sóc giáo phận quê quán mình. Tại đó, ngài
đã chia sẻ với những giáo dân nghèo và lam lũ trong thân
phận hẩm hiu với họ. Một giám mục phục vụ dân nghèo thì làm
gì có mũ gậy quyền bính, nhưng là một ông từ quét dọn nhà
thờ nghèo xơ xác, vừa làm ca trưởng và cũng vừa là giáo lý
viên, và là linh mục cử hành các bí tích, mục vụ cho những
người dân bản làng. Ấy thế mà ngài vẫn dành thì giờ để viết
những loạt bài chia sẻ Tin Mừng hàng tuần, và cùng với một
số linh mục anh em biên soạn sách vở, dịch thuật để giúp cho
dân Chúa thêm lương thực cho đời sống đức tin.
Chạnh Lòng
Thương - khẩu hiệu của Đức cha Giuse khi được gọi làm Giám
Mục đã được ngài sống hết mình qua những thể hiện của những
hy sinh chính bản thân mình. Bất kể thì giờ, mưa nắng, trong
những năm tháng qua, ngài đã cùng với dân làng ở Lạng Sơn
tìm kiếm lại khuôn mặt Đấng đã Chết và Sống Lại cho họ bấy
lâu đã nhạt nhoà. Mà ở đó, theo ngài ‘…Biết bao tâm hồn
thiện chí đang khao khát chờ đợi ta. Biết bao niềm tin câm
lặng đang chờ dịp tỏ lộ. Biết bao nỗi mất mát đau thương chờ
được thông cảm. Biết bao cảnh lầm than cơ cực chờ được nâng
đỡ. Những tiếng mời gọi tha thiết nhưng rất âm thầm. Phải mở
lòng ra mới nghe thấy. Phải mở trái tim ra mới hiểu được.
Hôm nay tiếng Chúa vẫn vang lên qua những lời giáo huấn của
Hội thánh. Tiếng Chúa vẫn mãnh liệt trong tâm hồn mỗi vị mục
tử. Tiếng Chúa bàng bạc, âm thầm nhẹ nhàng nhưng sâu thẳm
tha thiết ‘Hãy ra khơi ...’ (Hội Thảo 20/2/2005, ĐHGL
Los Angeles).
Tháng 5 năm
2003, bận rộn hơn vì nhiệm vụ mới, rong ruổi hơn khi ngài
được gọi về phục vụ trong nhiệm vụ Giám Quản Tông Toà Hà Nội
vì Đức Hồng Y Phạm Đình Tụng đến tuổi về hưu. Rày đây - Lạng
Sơn, mai đó - Hà Nội, bận rộn như con thoi chạy đi chạy về
vì việc nhà Chúa và bổn phận. Hai năm sau, ngày Thứ Bảy
19-03-2005, đúng vào ngày lễ Quan Thầy Giuse, ngài được
chính thức tấn phong Tổng Giám Mục Giáo Phận Hà Nội.
Dĩ nhiên, chức
vụ tổng giám mục là do Đức Giáo Hoàng cắt đặt, nhưng chính
quyền Hà Nội đã chấp nhận, nếu không nói là ‘chọn’ ngài; bởi
vì trong hiện tình đất nước Việt Nam, không một giám mục nào
có thể được cai quản giáo phận, nếu chính quyền sở tại không
đồng ý. Có lẽ chính quyền Hà Nội cũng hy vọng ngài sẽ hợp
tác để phục vụ ‘quyền lợi của nhân dân’ theo cách nghĩ và
cách làm của những vị có chức có quyền tại đó. Một trong
những lý do khiến họ an tâm, ấy là vì homeless bishop
này chẳng màng gì đến toà nhà, đến đất đai, đến quyền lợi
thế gian cả. Thế mà chỉ hai năm sau, ngài trở thành cây gai
đâm vào cái ung của bộ máy chính quyền Hà-nội, và có nguy cơ
làm vỡ tung một mụt nhọt từng làm cho người dân Hà Nội nói
riêng, và nhân dân Việt Nam nói chung, nhức nhối trong một
thời gian dài. Vâng! vị tổng giám mục ấy vẫn cứ đi không
ngừng…
Con người
‘chạnh lòng thương’ ấy - một người khiêm nhường không bao
giờ to tiếng với ai, một tổng giám mục mà mỗi lần nhấc điện
thoại thì chỉ nói đơn sơ vỏn vẹn: ‘Kiệt đây!’ - người ấy đã
khẳng khái trình bày lớn tiếng trước UBND thành phố Hà Nội
một số câu mà mọi người hiểu như sau: Tôn giáo là quyền
của chúng tôi! Chúng tôi không cần xin ai cả! Chúng tôi
không tranh chấp đất đai với chính quyền, chúng tôi chỉ muốn
lấy lại những gì thuộc về mình, mà bọn ‘ăn cướp’ đang tính
bán đi để lấy tiền bỏ túi.
Dĩ nhiên, đó
là một cú bất ngờ nhất đối với chính quyền Hà Nội! Và đó
cũng là những lời đem về cho ngài bản án tử hình. Dĩ nhiên,
vào thời buổi này, giết ngài bằng một viên đạn thì không thể
làm được, vì tình hình đã đổi thay. Nhưng họ giết ngài bằng
những phương tiện ‘hợp pháp’ như bôi nhọ trên truyền thông,
đặt lộ liễu khắp nơi những máy móc để ‘quản chế’ ngài, viết
trên văn bản gửi Hội Đồng Giám Mục yêu cầu‘ thuyên chuyển
ra khỏi Giáo Phận Hà Nội’, v.v…
Thời thế đã
đổi thay! Hẳn những người ‘có quyền bán đất’ nuối tiếc thời
25-30 năm về trước, thời mà ai cản trở quyền lợi cá nhân
mình thì chỉ cần chụp cho cái mũ ‘cấu kết với bọn phản
động’, rồi bắn bỏ mà chẳng ai có thể làm gì mình! Thời mà
chính quyền ở El Salvador đã giết tổng giám mục Oscar
Romero.
Tổng Giám Mục
Oscar Romero.
Ngày
23-02-1977, Đức cha Oscar Arnulfo Romero được tấn phong tổng
giám mục San Salvador. Những người trong chính quyền hoan
nghênh quyết định này của Tòa thánh, nhưng các linh mục dấn
thân lại e ngại vì ngài có tiếng là bảo thủ, và sợ rằng ngài
sẽ ngăn chặn mọi sự dấn thân của họ để phục vụ cho quyền lợi
của người nghèo. Thế nhưng, ngạc nhiên thay, không đầy một
tháng sau, ngày 12 tháng 3, khi bạn của ngài là linh mục
Rutilo Grande, một người đấu tranh cho người nghèo bị ám
sát, ngài đã lên tiếng đòi buộc chính quyền của Arturo
Armando Molina phải làm rõ vụ việc này, dù sau đó không ai
đáp ứng lời kêu gọi của ngài.
Với tư cách là
tổng giám mục, ngài hiểu rằng Giáo Hội là một cái gì đó cao
hơn các phẩm trật, cả Rôma, các nhà thần học hay các giáo sĩ
– nghĩa là một cái gì vượt lên trên mọi cơ chế. Cho đến một
ngày kia, ngài cảm nghiệm rằng chính người dân là Giáo Hội.
Ngài nói: “Thiên Chúa cần đến người dân để cứu lấy thế
gian… Thế giới của người nghèo dạy chúng ta rằng giờ giải
thoát đến chỉ khi nào người nghèo không còn ngửa tay ăn xin
chính quyền và giáo hội, nhưng họ trở thành người làm và
người chủ động trong cuộc chiến để giải thoát chính mình.”
Đức Cha Romero
thấy mình bất lực vì không thể ngăn cản được bạo lực. Trong
vòng một năm sau khi ngài được tấn phong, khoảng chừng 200
giáo lý viên và nông dân sống trên giáo phận ngài đã bị
giết. Sau này, hơn 7,500 người Salvador sẽ bị giết, một
triệu người rời bỏ quê hương để trốn thoát, và một triệu
người khác luôn di cư để tránh các cuộc đụng độ - trên một
đất nước có 5,5 triệu dân. Điều duy nhất mà cha Romero có
thể đem đến cho dân chúng là những bài giảng hùng hồn của
ngài, được phát thanh khắp nơi trên đất nước. Ngài trấn an
họ, bảo rằng những điều ghê tởm kia sẽ phải chấm dứt, nhưng
Giáo Hội của người nghèo, của chính họ, sẽ tiếp tục sống
mãi.
“Nếu một
ngày nào họ tiêu diệt đài phát thanh của chúng ta… nếu họ
không cho chúng ta lên tiếng, nếu họ giết hết mọi linh mục
và giám mục, và anh chị em sẽ bơ vơ không còn có linh mục,
thì mỗi anh chị em phải trở thành máy vi âm (microphone) của
Thiên Chúa, mỗi một anh chị em phải trở thành ngôn sứ.”
Năm 1980, giữa
trận cuồng phong của bạo lực, đức cha Romero viết thư cho
tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter, yêu cầu ông đừng gửi viện
trợ cho quân đội, bởi vì, theo lời ngài, ‘viện trợ ấy được
dùng để đàn áp người dân nước tôi.’ Trong vòng 12 năm liên
tục, Hoa kỳ vẫn tiếp tục gửi viện trợ cho San Salvador. Lá
thư này bị chìm trong quên lãng. Hai tháng sau ngài bị ám
sát.
Ngày
23-3-1980, đức cha Romero bước vào vùng lửa đạn. Ngài lớn
tiếng gửi lời kêu gọi đến binh sĩ xuất thân từ thành phần
nông dân, trong khi đó các tướng lãnh sợ hãi và căm ghét uy
tín của ngài. Cuối bài giảng, được truyền thanh trên khắp
nước, lời ngài vang lên: “Hỡi anh em, anh em xuất thân
cùng tầng lớp với họ, anh em giết những nông dân bạn hữu
mình… Không có một quân nhân nào buộc phải tuân hành một
mệnh lệnh đi ngược lại với thánh ý của Thiên Chúa…”
Tiếng hoan hô
vang lên như sấm nổ: ngài đã kêu gọi quân đội nổi dậy. Thế
rồi ngài gào lên: “Nhân danh Thiên Chúa, nhân danh những
người dân đau khổ, tôi yêu cầu anh em, tôi van nài anh em,
tôi ra lệnh cho anh em nhân danh Thiên Chúa: hãy ngừng chiến
dịch đàn áp này”.
Lời kêu gọi
này đồng nghĩa với lời kêu gọi của Chúa Kitô: hãy chọn lựa
người nghèo và bị áp bức. Và lời kêu gọi ấy cũng là lời nói
đem đến bản án tử hình: ngày hôm sau, 24-3-1980, ngài bị ám
sát ngay trên tòa giảng.
Trước ngày
định mệnh đó không lâu, ngài đã nói với một ký giả: “Anh
có thể nói với dân chúng rằng nếu họ (chính quyền) có giết
được tôi, thì tôi tha thứ và chúc phúc cho những người giết
tôi. May thay, họ sẽ ý thức rằng họ mất thì giờ vô ích. Một
giám mục chết đi, nhưng Dân của Chúa, nghĩa là người dân
đen, sẽ không bao giờ chết cả.”
Hai mươi tám
năm rồi, kể từ ngày viên đạn kia kết thúc cuộc đời trần thế
của ngài đúng như ngài dự kiến, thì ngài vẫn còn sống trong
lòng dân tộc của ngài. Lời xác tín của ngài đã trở thành
hiện thực:
“Thế giới mà
Giáo Hội phải phục vụ là thế giới của người nghèo. Giáo hội
bị bách hại, ấy là hệ quả của việc bênh vực người nghèo.
Mạng sống tôi đã bị đe dọa nhiều lần. Tôi cần phải tuyên
xưng, với tư cách là Kitô hữu, rằng tôi không tin mình chết
mà lại không phục sinh. Nếu họ giết tôi, tôi sẽ sống lại
trong dân tộc Salvadore”
Trần Duy Nhiên, Saigon |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG NỖI ĐAU QUÊ HƯƠNG
|
Quý độc giả
Ephata và
Giáo Sĩ Việt Nam
thân mến,
Tuổi niên thiếu của mỗi người đều để
lại những kỷ niệm, những tình cảm gắn bó với từng vùng đất,
từng biến cố. Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, cha mẹ
tôi là nông dân chấn lấm tay bùn, hai cụ lập gia dình trên
vùng đất “đồng chua nước mặn”, xây dựng sự nghiệp trên miếng
ruộng chật hẹp của cha ông chia cho. Thời cuộc khắc nghiệt
đã đẩy đưa cha tôi sớm rời đồng nội lên thành phố, mù chữ,
cha tôi hiểu thế nào là nỗi khổ thất học, từ đó ông cả đời
vừa lo học cho bản thân, lại vừa lo cho con cái được ăn học
tử tế.
Vì vừa học, vừa lo cho con cái ăn học,
nên nhà tôi đã nghèo lại càng nghèo hơn. Ý thức được những
thua thiệt, ông cứ dặn dò chúng tôi, cố gắng học, bố mẹ
không để lại cho chúng con gia tài giàu có, bố mẹ chỉ cho
chúng con cái chữ, cố gắng học sau này “mài chữ” ra mà ăn.
Cả tuổi niên thiếu và thanh niên của tôi sống trong túng
thiếu.
Đà Lạt, thành phố mộng mơ chỉ là một
ước mơ không bao giờ tôi chạm đến được. Tôi nhớ khi học lớp
đệ Tứ ( lớp 9 bây giờ ), cuối năm đó phải thi để lấy bằng
Trung Học Đệ Nhật Cấp, anh bạn tôi được gia đình thưởng cho
đi Đà Lạt một chuyến sau kỳ thi, khi trở về, những bức hình
chụp tại Đà lạt đã khiến lòng tôi cứ như bị cháy bỏng một
ước ao có ngày sẽ đến được thành phố tuyệt vời ấy.
Năm tôi học đệ Tam ( lớp 10 bây giờ ),
anh tôi vào quân ngũ, anh tôi trúng tuyển vào khóa đầu tiên
trường Đại Học Chiến Tranh ChínhTtrị Đà Lạt. Những tấm hình
anh gởi về từ quân trường càng làm tôi khát khao hơn nữa.
Nhưng nghèo như gia đình tôi, làm sao có tiền để thực hiện
một chuyến du lịch đến thành phố của người giàu, thành phố
của một thời không xa đã là “hoàng triều cương thổ” Nhà
Nguyễn.
Mê Đà Lạt đến độ, tôi có ý định theo
học trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, hoặc theo học ngành Chính
Trị Kinh Doanh của Viện Đại Học Đà Lạt lúc bấy giờ. Tôi đã
cất công tìm hiểu, xem xét tài liệu và sắp đặt đời mình như
thế để có thể đến Đà Lạt, thế nhưng Chúa đã muốn đời tôi
theo hướng khác. Tốt nghiệp hai bằng Tú Tài một và hai đều
đậu Bình ( ngày trước theo hạng từ cao xuống thấp: Tối Ưu,
Ưu, Bình, Bình Thứ và Thứ ), tôi hụt học bổng quốc gia đi
Hoa Kỳ du học, bố tôi bảo ở Sài-gòn học chờ chuyến sau vậy.
Tôi vào đại học, không ngờ đời tôi lại
bắt đầu rẽ hướng trong một chuyến đi… Đà Lạt. Mấy đứa bạn
trai chúng tôi rủ nhau đi Đà Lạt, đánh liều đi cho nó biết,
thèm quá rồi. Những ngày lang thang vất vưởng ở thành phố
mộng mơ đó, chúng tôi có dịp tâm sự nhiều với nhau, bất ngờ
tôi biết được người bạn học chung lớp là một sinh viên Dự Tu
DCCT, và định mệnh đã an bài, tôi bắt đầu bước vào đời tu từ
đó.
Khi đã gia nhập Nhà Dòng, những năm đi
thực tế môi trường, tôi chọn Đà Lạt, chọn người dân tộc
thiểu số K’Hor để yêu thương và dấn thân. Không biết có phải
tôi mê Đà Lạt nên tôi đã mê người dân tộc để dấn thân hay
không, nhưng chắc một điều là Đà lạt năm xưa trong tôi đẹp
lắm ! Đà Lạt, một thành phố thật nhiều cây, một thành phố
chìm trong rừng thông bạt ngàn, chìm trong sương mù và nhận
chìm tôi trong bầu khí thần tiên.
Tôi lải nhải từ nãy đến giờ như vậy là
vì tôi đang rất... đau, vết thương Đà Lạt trong tôi đang
mưng mủ, nay lại bộc phát dữ dội. Nhiều năm nay, mỗi lần lên
Đà Lạt, tôi thẫn thờ vì xót xa. Đà Lạt bây giờ, hết rồi
sương khói, hết rồi những rừng thông bạt ngàn, hết rồi cái
lạnh dễ thương ấm áp, Đà Lạt hết rồi đôi má ửng hồng, hết
rồi những cái áo len muôn màu sắc. Đà Lạt bây giờ hết rồi
thành phố của muôn loài hoa, hết rồi những nhánh rau tươi
tắn ngọt ngào, vết thương trong tôi cứ day đi day lại.
Hôm nay vết thương vỡ toang khi đọc bản
tin trong báo Tuổi Trẻ thứ năm, 9.10.2008:
“Khai thác 52.000ha rừng thông tự nhiên
– Ngày 8 tháng 10, tỉnh Lâm Đồng đã chính thức đưa ra đề án
có tên “Bảo vệ và phát triển lâm nghiệp đến năm 2020” tại
một hội nghị của tỉnh ủy. Theo đề án, Lâm Đồng sẽ khai thác
theo phương thức chặt trắng 52.000ha rừng thông tự nhiên,
trong đó có 14.966ha thành thục ( 60 – 70 năm tuổi )”.
Tôi không tin và không thể tin được
người ta có thể trồng rừng thông trở lại, những gì trong quá
khứ đã chứng minh cái nghi ngờ của tôi là đúng, số thông ít
ỏi còn lại người ta cũng tận diệt, Đà Lạt không còn thông,
Đà Lạt sẽ còn gì ? Người ta định làm gì nữa trên mảnh đất
một thời kiều diễm này ?
Khi tôi đang còn day dứt với những
thông tin về việc triệt hạ rừng thông trên Đà Lạt thì một
thông tin khác lại đến, báo Tuổi Trẻ số ra ngày thứ sáu
10.10.2008, viết về tình trạng một loài tảo độc đang tàn phá
Hồ Xuân Hương, bài viết của Nguyễn Hàng Tỉnh:
“Tảo lam đang “giết” Hồ Xuân Hương …Nhờ
có Hồ Xuân Hương mà Đà Lạt là một trong hai đô thị độc đáo
trong cả nước có hồ nước nằm giữa lòng phố ( cùng với Hà Nội
). Hồ Xuân Hương cũng là thắng cảnh xếp hạng quốc gia đầu
tiên ở Lâm Đồng. Trên tất cả, Hồ Xuân Hương là cảm xúc xưa
nay của du khách, là niềm tự hào của người Đà Lạt. Ở phố núi
Đà Lạt, không giữ được Hồ Xuân Hương thì giữ cái gì đây ?”
Mấy ngày nay, tin dữ từ những miền cao
cực Bắc đất nước lại dội về, từng cơn lũ quét đi tài sản và
bao nhiêu mạng người. Hỡi những ai có trách nhiệm mà còn là
người, còn có lương tâm và còn biết xót thương đồng loại, có
nghe chăng lời than của núi rừng, có nghe chăng lời than của
những con người sống mà đã mất đi niềm tin, có nghe chăng
lời than van của bao oan hồn ? Rừng núi quặn đau giẫy chết !
Lm. VĨNH
SANG, DCCT, Sài-gòn
11.10.2008 |
VỀ MỤC LỤC |
|
RA ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG (CHIA SẺ 2 Về Truyền Giáo)
|
LTS.
Loạt bài Chia Sẻ về Truyền Giáo
thông qua bằng chính kinh nghiệm bản thân, là tất cả những
gì chân thành và đầy tràn trong lòng Đức Tổng Giám Mục Giuse
Ngô Quang Kiệt, từ khi Ngài còn là Giám Mục Lạng Sơn. BBT
GSVN sẽ hân hạnh giới thiệu trong nhiều kỳ liên tiếp...
I. HOÀN
CẢNH LẠNG SƠN
Đường từ Hà nội tới Lạng sơn
năm 1999 còn xấu. Nhất là đoạn đường đi qua đèo Sài hồ, dốc
dác quanh co, nhỏ hẹp, nằm chênh vênh bên vực thẳm nên rất
nguy hiểm. Chẳng ngày nào không có tai nạn.
Đường đồi núi vắng vẻ. Xa xa
mới có một mái nhà nhỏ bé nằm khuất sau những lùm cây rậm
rạp trên sườn đồi.
Con đến Lạng sơn vào một buổi
chiều mưa rả rích. 2000 km đường dài là qua một khoảng cách
xa. Từ đồng bằng lên miền đồi núi đã thấy lạ lẫm. Từ chỗ
đông đúc đến một nơi vắng vẻ tự nhiên thấy lạnh lẽo. Nhìn
đồi núi hoang vu không một bóng người thấy cũng rờn rợn. Con
cảm thấy ngại ngùng bước chân ra đi.
Khi gặp gỡ người dân lại thấy
một khoảng cách còn xa hơn nữa. Xa ở lời ăn tiếng nói. Xa ở
lối suy nghĩ, trình bày. Xa ở những phong tục tập quán. Con
cảm thấy mình là người xa lạ, con bước vào một nền văn hoá
xa lạ.
Giáo dân Lạng sơn gồm những
cộng đoàn nhỏ bé, sống phân tán. Tâm tư lại càng phân tán
hơn. Hơn 50 năm không có người trực tiếp hướng dẫn, đoàn
chiên vốn đã nhỏ bé lại càng tan tác. Khi con về nhận chức,
chỉ còn một cha già hơn 95 tuổi và một bà sơ hơn 100 tuổi.
Chẳng có ai đón tiếp, chẳng có ai cho biết tình hình Giáo
phận. Chẳng có ai cho biết đi các xứ phải đi thế nào. Cứ tự
động đi, cứ tự động đến. Ban hành giáo từ lâu không quen
hoạt động. Giáo dân không được tổ chức. Các giáo xứ thì năm
thì mười hoạï mới có thánh lễ nên chỉ biết ngơ ngác đứng
nhìn. Con thật sự hụt hẫng như người không biết bơi mà bị
rơi xuống chỗ nước sâu.
Dần dà con khám phá ra rằng
giáo dân không hiểu biết giáo lý. Phúc âm thì hoàn toàn xa
lạ. Chỉ thuộc một ít kinh và một vài truyền thống ông bà để
lại từ trước Công đồng Vatican II.
Với tình hình, số giáo dân và
nhân sự như thế, con hiểu rằng Lạng sơn chỉ đơn thuần là một
giáo điểm, cần phải truyền giáo. Truyền giáo là sức sống của
giáo phận. Truyền giáo là ý nghĩa của giáo phận. Không tuyền
giáo, giáo phận này sẽ chẳng còn ý nghĩa, chẳng còn sức
sống.
Xác định như thế con lăn xả
vào công việc.
Việc đầu tiên là ra đi. Ra đi
không ngừng. Đi thăm viếng những xứ đạo xưa đã hoang tàn. Đi
tìm những con chiên xa lạc. Đi hoà giải những người xích
mích. Đi cử hành bí tích. Đi dạy giáo lý. Đi đám ma. Đi đám
cưới. Đường là nhà. Xe là phòng. Trời đất là quê hương. Núi
rừng là Giáo phận. Cứ thế đi không ngừng.
Việc thứ hai đó là gặp việc gì
làm việc nấy. Chưa có người nên phải làm tất cả. Làm Linh
mục nhiều hơn Giám mục. Làm Giáo lý viên nhiều hơn Linh mục.
Tập hát, tập nghi thức. Mở cửa. Kéo chuông. Bất cứ việc gì
cần phải làm, có thể làm để đưa linh hồn người ta về với
Chúa, để xây dựng cộng đoàn, để củng cố giáo xứ, để khai mở
tâm trí.
Tựa như trở về căn nhà xưa đã
bị đổ nát, cỏ dại um tùm. Không biết phải bắt đầu từ đâu.
Gặp gì làm nấy. Tay nhổ cỏ, tay nhặt đá. Tay chặt cành cây,
tay quét rác.
II.
BẢN
CHẤT CỦA GIÁO HỘI TRUYỀN GIÁO
Ở thời đại mới này, một giáo
phận không có Linh mục nào kể là chuyện hoạ hiếm. Một Giám
mục phải làm tất cả mọi việc là không thể hiểu và không thể
chấp nhận được.
Nhiều thư từ khắp nơi gửi về
phản ánh suy nghĩ đó. Một cụ ông viết :
“Con thấy Đức cha làm nhiều
việc thì thương Đức cha quá. Vì con sợ một điều là khi làm
nhiều việc như thế Đức cha quên mất việc quan trọng nhất là
làm Giám mục”.
Ông cụ quên mất rằng bản chất
của Giáo hội là truyền giáo. Nhận chức Giám mục là nhận
nhiệm vụ “Thừa sai”.
Công đồng Vatican II khẳng
định : “Tự bản chất, Giáo hội lữ hành là
Giáo hội truyền giáo, vì Giáo hội bắt nguồn từ sứ mạng của
Chúa Con và Chúa Thánh thần theo ý định của Thiên Chúa Cha”
(TG 2a).
Thật vậy, vì yêu thương Đức
Chúa Cha đã sai Con Một của Ngài xuống trần gian để “qui tụ
con cái Thiên Chúa đang tản mát khắp nơi về một mối” (Ga
11, 53), “thâu họp vạn vật dưới một đầu là Hội thánh (x. Ep
1, 10), “làm cho muôn loài muôn vật qui phục quyền tối
cao của Thiên Chúa”
(x. 1 Cr 15, 28).
Đức Giêsu đã chọn các sứ đồ để
tiếp tục công việc của Người trên trần gian. Sứ đồ có nghĩa
là người được sai đi. Lời dặn dò cuối cùng, mệnh lệnh như
một chúc thư cho các môn đệ trước khi về trời là “Các
con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho
mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).
Ra đi là bản chất của sứ đồ.
Sứ đồ không ra đi là bội phản Đấng đã chọn mình và bội phản
chính căn tính của mình. Vì thế thánh Phaolô đã nói một cách
quyết liệt : “Khốn cho thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin
mừng” (1 Cr 9, 16).
Giáo hội được xây trên nền
tảng tông đồ, được tông truyền, nên tự bản tính Giáo hội là
“Thừa sai”. Không truyền giáo là Giáo hội phủ nhận chính
mình.
Công đông Vatican II nhắc lại
: “Như thế, rõ ràng là hoạt động truyền
giáo bắt nguồn sâu xa từ bản chất của Giáo hội” (TG 6f).
Cha Gomez kết luận “Việc
truyền giáo không phải là một ‘bổn phận’, nhưng là một ‘chức
năng’ trong cơ thể Giáo hội” (TTTH số 31, tr. 86).
Từ ngày lễ Ngũ tuần, biết bao
sứ đồ hàng hàng lớp lớp ra đi. Biết bao người chết chìm
trong biển cả. Biết bao người bỏ mạng trong rừng sâu. Biết
bao người chết rũ trong tù ngục. Biết bao máu đổ đầu rơi.
Nhưng lớp này gục xuống, lớp khác đứng lên. Nhờ thế mà Tin
mừng đã loan đến tận Việt nam xa xôi chúng ta.
Đức Giêsu không có nơi tựa
đầu, để dạy cho môn đệ đừng an nghỉ. Người không là chiếc
ghế cho ta ngồi yên. Người không là chiếc giường cho ta
hưởng thụ. Người là “con đường” cho ta phải lên đường, phải
ra đi không ngừng.
III. THẾ
KỶ 20 : VIỆC TRUYỀN GIÁO ĐÌNH TRỆ
Ta phải đau buồn nhìn nhận
rằng, hiện nay việc truyền giáo xem ra đình trệ. Không còn
những Thừa sai ra đi hàng hàng lớp lớp. Không còn những
thành công vang dội, những cuộc trở lại ào ạt. Tại sao ?
Theo cha Gomez, có thể có mấy
nguyên nhân sau về thần học :
1.
Quan niệm về ơn cứu độ
Xưa kia ta tin rằng ngoài Giáo
hội không có ơn cứu độ. Những người chết mà chưa được rửa
tội thì linh hồn phải hư mất. Vì thương các linh hồn nên các
nhà truyền giáo phải vội vã lên đường, chạy đua với thời
gian, với tử thần, cứu linh hồn người ta đưa về cho Chúa.
Thánh Phanxicô Xaviê là một
điển hình. Sau khi đến Châu Á, ngài kêu gọi thanh niên Châu
Aâu hãy lên đường truyền giáo vì biết bao linh hồn đang hư
mất, ngay cả những “em bé chưa biết phân biệt tay phải tay
trái”. ( Cf. Gn 4, 11 )
Nhưng ngày nay ta tin rằng
những người chưa biết Chúa mà ăn ngay ở lành vẫn có thể được
ơn cứu độ. Chúa có thể dùng nhiều cách khác nhau để cứu độ
con người chứ không chỉ qua phép rửa tội và Giáo hội Công
giáo.
Cách nhìn này khiến các nhà
truyền giáo mất bớt nhuệ khí. Không còn hăng hái như xưa.
Không còn vội vã như xưa.
2.
Quan niệm tương đối hoá
về các tôn giáo
Xưa kia, ta tin tưởng chỉ có
Giáo hội Công giáo là của Chúa, là duy nhất tốt đẹp, chân
chính. Còn những bụt thần khác đều là ma quỉ, các tôn giáo
khác đều là sai lầm.
Nhưng nay người bình dân thì
cho rằng đạo nào cũng tốt vì cũng dạy ăn ngay ở lành. Còn
Công đồng Vatican II dạy ta kính trọng các tôn giáo. Vì các
tôn giáo cũng có những điểm tốt đẹp khiến ta phải học hỏi,
phải kính trọng. Mà đã là người ai cũng có tôn giáo. Vì thế
việc truyền giáo bị khựng lại.
3.
Quan niệm truyền giáo
và phát triển
Xưa kia truyền giáo chỉ nhằm
cứu linh hồn người ta. Nên các Thừa sai cố gắng rửa tội càng
nhiều càng tốt. Thậm chí còn ép buộc. Còn đời sống vật chất
thì không quan tâm. Vì thế tại vùng truyền giáo có những
giáo dân sống đời quá sức cơ cực, không xứng với nhân phẩm
con người.
Tình hình đó khiến Giáo hội
phải suy nghĩ, cân nhắc dù chỉ nhằm cứu chuộc linh hồn nhưng
vẫn phải quan tâm đến phần xác con người. Đã yêu thương con
người thì yêu thương trọn vẹn cả xác lẫn hồn. Vì thế, khi
đến vùng dân nghèo không phải chỉ lo truyền đạo mà còn lo
phát triển đời sống dân chúng. Đức giáo hoàng Phaolô VI đã
nói : “phát triển là tên gọi mới của hoà bình”.
Nhưng có nhiều người quá mải
mê phát triển mà quên cả truyền giáo.
Ngoài ba lý do có phần lý
thuyết kể trên, ta còn thấy mấy lý do thực tế khác như :
4.
Thái độ quá gắn bó với
cơ chế
Các giáo phận, giáo xứ được tổ
chức tương đối chặt chẽ, ổn định. Theo đà tiến của xã hội,
ta cũng muốn phát triển giáo xứ, giáo phận. Quan tâm tới
việc phát triển tự nhiên, giới hạn ta vào cơ chế. Phát triển
là xây dựng nhà cửa. Phát triển là xây dựng hội đoàn. Phát
triển là tổ chức lễ lạc. Phát triển cao hơn nữa là đào tạo
con người, xây dựng đạo đức, nâng cao học thức. Tất cả chỉ
là xây dựng giáo xứ của mình, người của mình, nhà của mình.
Ít có ai nghĩ đến phát triển truyền giáo.
Nếu có nghĩ đến truyền giáo
thì cũng như một thứ nghiệp dư, một năm làm đôi ba lần theo
phong trào.
Ngân sách dành cho truyền giáo
cũng chỉ là bớt xén chút đỉnh từ những qũi chi tiêu khác.
Nhân sự dành cho việc điều
hành giáo xứ, giáo phận là quan trọng. Dành cho việc truyền
giáo có khi là những người không còn biết phân công vào việc
gì, đành cho đi truyền giáo.
Nếu đối chiếu lời Chúa sai đi
với nếp sinh hoạt của các giáo phận, giáo xứ hôm nay, có lẽ
ai cũng phải giật mình kinh hãi. Có một khoảng cách quá xa
giữa ý định của Đức Kitô khi lập Giáo hội với thực tế Giáo
hội hôm nay. Có một khoảng cách quá xa giữa lời Chúa và sự
thực hành của Giáo hội. Phải chăng ta đã phản bội ? Phải
chăng ta đã đánh mất căn tính của mình ? Như thế làm sao
truyền giáo phát triển được ?
5.
Sự sa sút trong Giáo
hội : khối lượng, chất lượng, uy tín Đức giáo hoàng
Giáo hội không còn trong giai
đoạn cực thịnh. Từ thập niên 60, 70 là những bùng nổ đưa đến
tình trạng sa sút trong Giáo hội. Số Linh mục tu sĩ giảm
dần. Số người đi tu giảm dần. Số người lui tới nhà thờ giảm
dần. Số người đóng góp cho Giáo hội giảm dần. Uy tín Đức
Thánh Cha cũng suy giảm. Xưa kia, một thông điệp của Đức
Thánh Cha có thể gây chấn động cả thế giới và ảnh hưởng trên
xã hội rất lâu dài. Nhưng ngày nay, mỗi thông điệp chỉ được
nói đến trong vài tháng đầu. Sau đó chìm vào quên lãng và
chẳng có ảnh hưởng nhiều trên xã hội.
Trước sự sa sút, Giáo hội phải
hết sức đối phó với những thiếu hụt về mọi mặt. Lo củng cố
nội bộ. Vì thế mà quan tâm truyền giáo giảm đi.
6. Hoàn
cảnh khó khăn
Vụ Pedo ở Mỹ, những công kích
phê phán Giáo hội đến từ mọi nhóm : Cộng sản, Tư bản và ngay
trong lòng Giáo hội.
Chưa kể đến nhiều Giáo hội địa
phương có những hoàn cảnh khó khăn riêng, không phát huy
truyền giáo được. Chẳng hạn tại các nước Hồi giáo, truyền
giáo là một việc bị cấm đoán. Trở lại đạo là một trọng tội
có thể bị kết án tử hình.
Dù với lý do nào đi nữa, ai
cũng thấy một thực tế là trong thế kỷ này, việc truyền giáo
đã mất đi khí thế hăng say của những thế kỷ trước.
Dù quan niệm thần học có những
thay đổi. Nhưng mệnh lệnh truyền giáo của Đức Kitô vẫn không
thay đổi. Mệnh lệnh ấy vẫn mang tính cấp bách. Và căn tính
của Giáo hội vẫn không thể đổi khác. Đức Kitô thiết lập Giáo
hội để truyền giáo. Không truyền giáo, Giáo hội chẳng còn lý
do tồn tại.
Vì thế Đức Giáo hoàng đương
kim trong những năm sau này, đặc biệt trong thiên niên kỷ
mới đã mạnh mẽ kêu gọi truyền giáo. Hãy hăng hái ra khơi
(Duc in altum)
IV. HÃY
RA KHƠI
Nếu hôm nay Chúa đến hỏi ta
mệnh lệnh hãy ra đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin
mừng cho mọi loài thọ tạo, con đã thực hiện được bao nhiêu
phần trăm. Có lẽ ta sẽ giật mình và ngần ngại lắm khi phải
thưa với Chúa. Vì ta có loan báo Tin mừng nhưng chưa cho hết
mọi thọ tạo. Và nhất là ta có loan báo Tin mừng nhưng chưa
ra đi.
Chúa bảo hãy ra khơi thả lưới
bắt cá. Ta có bắt cá nhưng chỉ là bắt cá trong chậu, trong
nồi, trong đĩa chứ chưa ra khơi.
Đức Thánh Cha tha thiết mời
gọi ta. Hơn thế nữa người còn hướng dẫn ta : Hãy truyền
giáo, hãy ra đi đến những môi trường mới, với những phương
tiện mới và với tinh thần mới.
Môi trường mới trước hết là
những nơi xa lạ chưa in vết chân nhà truyền giáo, chưa hề
nghe Tin mừng (các cha học tập cải tạo).
Môi trường mới cũng là những
con người mới. Những người khác với ta về tôn giáo, chủng
tộc, ngôn ngữ. Những người không đồng quan điểm với ta về
chính trị, về tôn giáo, về xã hội… Môi trường mới cũng có
nghĩa là những lãnh vực mới như văn hoá, chính trị, y tế,
giáo dục, báo chí, phim ảnh…(cộng đoàn Emmanuel tại phố
Pigalle).
ĐứcThánh Cha cũng mời gọi ta :
hãy ra khơi với những phương tiện mới. Chài, lưới, vó xưa
kia đã trở thành quá thô sơ. Nay để đánh cá người ta có
những kỹ thuật hiện đại. Có máy dò cá, có máy phát ra tiếng
gọi cá… Cũng thế việc truyền giáo cần có những phương tiện
kỹ thuật mới. Ngoài sách vở báo chí còn có đài phát thanh,
truyền hình, điện thoại, fax, có mạng internet (thánh ca,
cầu nguyện chung Assisise…). Ngoài việc cầu nguyện, rao
giảng còn có gặp gỡ, trao đổi. Ngoài việc đạo đức, thờ
phượng còn có việc phát triển, phục vụ người nghèo.
Và sau cùng Đức thánh cha kêu
gọi ta hãy ra khơi với tinh thần mới. Người làm việc truyền
giáo phải có tinh thần mới. Tinh thần mới sẽ do Chúa Thánh
Thần tác tạo. Như xưa trong ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh
Thần đã đổi mới các môn đệ, biến các ông thành những nhà
truyền giáo không biết mệt mỏi, nay ta cần có Chúa Thánh
Thần để đổi mới tâm hồn ta, ban cho ta sức mạnh của Chúa
Thánh Thần để lên đường truyền giáo và đem lại kết quả tốt
đẹp.
Tinh thần mới là tinh thần vui
tươi, phục vụ, khiêm nhường. Tinh thần mới giúp ta dứt bỏ
những gì cũ kỹ, như môi trường cũ kỹ, con người cũ kỹ, công
việc cũ kỹ, thái độ bám chặt vào quá khứ, tìm an thân, an
nhàn, an nghỉ.
Tinh thần mới giúp ta hăng hái
lên đường, chấp nhận gian khổ, thiệt thòi, thách đố (Mẹ
Têrêxa)
TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SỰ SỐNG
CON NGƯỜI VÀ ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN
|
Bác sĩ
Nguyễn Tiến Cảnh, M.D
Bác sĩ Dược
khoa Nguyễn Thị Vân, R.Ph., Pharm.D.
Tuần lễ đầu
tháng 10 này, tất cả các xứ đạo, nhà thờ công giáo Hoa
Kỳ đều bắt đầu kỷ niệm phong trào “Tôn Trọng Sự Sống”.
Phong trào này đã đựoc Hội Đống Giám Mục Hoa Kỳ (HĐGMHK)
khởi xướng và phát động vào năm 1972, một năm trước khi
Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ hợp thức hóa cho phép phá thai.
Từ đó tất cả mọi người Công Giáo Hoa Kỳ lấy tháng 10 là
tháng hy sinh, dồn hết tâm trí làm tất cà mọi sự để bảo
vệ sự sống (Pro Life) và thăng tiến văn hóa sự sống.
Trong tháng 10 này, tất cả mọi cố gắng của chúng ta sẽ
đặc biệt hơn bao giờ hết. Không bao giờ chúng ta có thể
chấp nhận những đả kích, phản bác của những người chủ
trương tự do phá thai (Pro choice) chống lại niềm tin
của chúng ta là “Sự sống khởi đầu ngay từ lúc mới thụ
thai và kết thúc vào lúc lìa đời / chết một cách tự
nhiên”.
Tháng 10
này cũng là tháng tiền bầu cử, vấn đề bảo vệ sự sống và
tự do phá thai (Pro Life và Pro Choice) cũng là một đề
tài nóng bỏng và quan trọng trong cuộc tranh cử. Người
công giáo chúng ta, theo huấn thị của HĐGMHK, có bổn
phận góp phần tích cực vào những sinh hoạt công cộng. Do
đó chúng ta không thể không nghĩ đến những chương trình
và chủ trương của các ứng cử viên xem có đúng với giáo
huấn của Giáo Hội và thích hợp với niềm tin tôn giáo của
chúng ta về sự sống con người hay không trước khi chúng
ta bỏ phiếu bầu cho họ.
Ngày
2-10-08 cũng là ngày kỷ niệm 40 năm ban hành Thông Điệp
“Sự Sống Con Người / Humanae Vitae”. Chúng ta thử tìm
hiểu ý của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về sự sống con
người qua huấn từ của ngài đọc tại Hội Nghị quốc tế
chuyên đề nghiên cứu về Đời Sống Hôn Nhân và Gia Đình.
được tổ chức bởi Viện Giáo Hoàng John Paul II tại Roma.
***********
Thông điệp
Sự Sống Con Người là một tài liệu quan trọng đề cập đến
một trong những khía cạnh chính của ơn gọi đời sống hôn
nhân và những chỉ dẫn đặc biệt mà Đức cố Giáo Hoàng
Phaolo VI đã gói ghém trong đó. Đôi trai gái khi lấy
nhau là đã chấp nhận tình yêu của nhau như một tặng vật,
đồng thời mỗi người cũng được kêu gọi để tự nguyện trở
thành những tặng vật tình yêu cho nhau không mảy may
thắc mắc. Chỉ có hành sử như vậy cho nhau một cách tuyệt
đối mới thực sự là yêu nhau, đúng nghĩa là kết hợp với
nhau nên một thân xác, thông truyền với nhau thực sự
(Mc10: 7-8). Từ đó sự kết hợp tặng vật mới có thể nói
lên được cái thực chất của tình yêu vợ chồng, và nhờ ơn
Thánh Thần Linh Chúa đổ xuống chan hòa mới kết tạo thành
một đời sống chung với nhau có ý nghĩa, đời sống vợ
chồng yêu thương nhau thực sự.
Sinh con
cái, kết tạo một sự sống con người mới cũng nằm trong ý
nghĩa tặng vật giữa hai vợ chồng. Nếu cả hai tình yêu vợ
và chồng cùng phát triển và hòa hợp trọn vẹn với nhau
trong cuộc sống thì cái tình nghĩa phu thê đó tự nó sẽ
trở thành một sự liên hiệp hài hòa thông truyền cho nhau
để sinh con cái, triển nở những thế hệ tương lai…Hành
động đó không chỉ giống như tình yêu Chúa mà còn là
thông phần cộng tác với Thiên Chúa Tình Yêu, đấng đã kêu
gọi loài người tiếp nối sự sống bằng cách sinh con đẻ
cái. Loại bỏ chiều kích truyền đạt này bằng những hành
động có mục đích phá hủy sự sống tức là chối bỏ tình
nghĩa thâm sâu vợ chồng đã được Thiên Chúa chúc phúc: “
Nếu vợ hoặc chồng không muốn chu toàn trách nhiệm truyền
tiếp sự sống bằng cách sinh con cái thì đã mặc nhiên
công nhận những giới hạn không thể vượt quá được của con
người là có khả năng làm chủ thân xác mình và những
trách vụ của nó, những giới hạn mà không một ai dù là cá
nhân hay tập thể chính quyền có thể công khai phá bỏ
được. (Humnae vitae, 17).
Đây là cốt
lõi của giáo huấn mà Đức Thánh Cha Phaolo VI đã nói với
các cặp vợ chồng, và sau này Đức Gioan Phaolo II cũng đã
nhiều lần tái khẳng định được minh chứng bằng nền tảng
nhân chủng học và luân lý.
Bốn mươi
năm nay từ ngày ra thông điệp Humanae vitae / Sự Sống
Con Người, chúng ta ai cũng hiểu rằng hai tiếng “Xin
Vâng” mà đôi tân hôn trả lời trước mặt linh mục lúc
làm phép cưới nó có ý nghĩa quyết định như thế nào. Vậy
thì đứa trẻ khi họ sinh ra không còn là mục tiêu của dự
án con người nữa, nhưng là một tặng vật thực sự mà họ đã
đón nhận với một thái độ và tinh thần trách nhiệm trước
mặt Thiên Chúa là nguồn mạch tiên khởi của sự sống con
người. Hai tiếng “Xin Vâng” lúc chấp nhận tình
yêu cao cả đó chắc chắn đã nói lên lòng biết ơn của hai
cha mẹ khi đón nhận đứa con và chính đứa con cũng nhận
biết rằng sự sống của nó có một cội nguồn nơi tình yêu
cao cả và đón nhận ấy.
Về một
phương diện khác, cũng có những trường hợp đặc biệt
khiến cặp vợ chồng phải hoãn lại hoặc ngưng sinh con.
Khi đó, hiểu biết về chu kỳ sinh sản của người vợ sẽ rất
quan trọng trong đời sống lứa đôi. Những phương pháp
quan sát để biết thời kỳ rụng trứng có thể cho phép họ
thực thi ý định mà không làm mất ý nghĩa nền tảng của
tặng vật tình yêu. Họ vẫn sống hòa điệu trọn vẹn tình
yêu vợ chồng mà không làm mất tính chất của tình yêu đã
phối kết họ nên một thân xác. Dĩ nhiên việc đó đòi hỏi
một tình yêu thật sự trưởng thành; nó không thể có được
trong một sáng một chiều mà cần phải bàn hỏi, thảo luận,
lắng nghe nhau và nhất là cần phải biết lấy lòng đạo đức
mà chế ngự dục tính.
Ngày nay
nhờ những tiến bộ vượt bực của khoa sinh-y-học, người ta
đã biết dùng những phương pháp trị liệu rất hiệu nghiệm
để điều hòa sinh sản và chế ngự hiếm muộn một cách tự
nhiên, nhưng đồng thời cũng cho họ những quyền hạn và
khả năng mới có thể đưa đến những hậu quả khó có thể
lường trước được về mạng sống con người ngay từ những
bước khởi đầu sự sống. (Lời dẫn nhập “Donum Vitae”, 1).
Với viễn tượng đó, nhiều nhà nghiên cứu đã quyết tìm
mọi cách để chữa bệnh hiếm muộn. Một số vị đã đạt được
kết quả mong muốn chưa bao giờ thấy mà vẫn hoàn toàn tôn
trọng nguyên tắc sinh sản. Do đó nhà khoa học cần được
khuyến khích tiếp tục nghiên cứu để phòng ngừa cũng như
chữa trị bệnh hiếm muộn hầu giúp những cặp vợ chồng hiếm
muộn có thể sinh con mà vẫn tôn trọng nhận phẩm mình và
đứa trẻ mới sinh ra” (Lời dẫn nhập “Donum Vitae”, 8).
Chúng ta
cũng có thể tự hỏi, tại sao hiện nay trên khắp thế giới
và ngay cả những tín hữu cũng cảm thấy khó có thể hiểu
được thông điệp của Giáo Hội, tại sao Giáo Hội lại ca
tụng và bảo vệ vẻ đẹp của tình yêu vợ chồng và cung cách
biểu lộ tự nhiên của nó? Chắc chắn cách giải quyết bằng
kỹ thuật, cũng là những vấn nạn quan trọng của con
người, thì thường xem ra có vẻ rất dễ dàng, nhưng trong
thực tế nó lại ẩn tàng một vấn nạn căn bản liên quan đến
ý nghĩa của dục tính con người cũng như sự cần thiết
phải tự kiềm chế mình để khi thực hành, nó có thể nói
lên được cái tình yêu đặc thù của mình.
Trái lai,
ai cũng biết, không phải chỉ dùng lý trí là đã đủ, mà
cần phải có con tim để nhìn. Chí có một trái tim biết
nhìn, biết quan sát mới có thể hiểu được những đòi hỏi
của tình yêu cao cả có khả năng bao trùm tất cả nhân
loại. Vì lý do đó, nghi thức hôn phối và sự săn sóc mục
vụ gia đình mà Giáo Hội đã lập ra mới có thể giúp cho
những cặp vợ chồng lấy trái tim mà tìm hiểu kế hoạch kỳ
diệu của Thiên Chúa đã ghi khắc nơi thân xác con người,
giúp họ chấp nhận tất cả những gì đã dẫn họ đi tới
trưởng thành.
Những
nghiên cứu phải đánh động được những cặp hôn phối và gia
đình họ, gợi cho họ những giây phút suy tư nghiêm túc và
thực sự lắng nghe, công hiến cho họ những kết quả của
những năm tháng tìm tòi khảo cứu cả về phương diện nhân
chủng học lẫn luân lý đạo đức, theo đúng phương cách
khoa học tân kỳ hiện đại với mục đích hoàn toàn tôn
trong nguyên tắc và trách nhiệm sinh sản.
Đại Học
Trái Tim Cực Thánh Chúa / “Sacro Cuore” thuộc viện Đại
Học Công Giáo ở Roma đã đứng ra tổ chức một hội nghị
khoa hoc quốc tế chuyên đề nghiên cứu về Sinh Sản và
Hiếm Muộn do sáng kiến của Đức Cố Giáo Hoàng Phaolo VI
và đệ trình lên Đức Gioan Phaolo II, với hy vong theo
chiều hướng đó sẽ có những đáp ứng có tầm mức đại học
đúng như yêu cầu của Đức Phaolo VI. trong mục 24 của
tông thư “ Nói với con người khoa học / To the men of
science”.
Kỳ vọng này
cũng là ước mong của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI hiện
nay.
Fleming
Island, Florida 3-10-2008
NTC & NTV
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỪNG SỢ (2)
|
Vào lúc 5
tuổi, Mỹ Quyên không còn sợ con cào cào nữa. Tuy nhiên, một
ngày kia một con cào cào thật to nhảy lên người cô bé và làm
cô hết sức ngạc nhiên. Cô hét lên và lấy tay hất con cào cào
nhưng nó lại nhảy vào trong áo của cô. Cô bé cảm thấy khó
chịu vì thế cô lại hét lên, và tiếng hét của cô bé đã làm
anh cô 9 tuổi cười cô bé. Sự cố gắng để hất con cào cào càng
làm cho anh cô buồn cười hơn. Cô bé vì thế càng la to hơn vì
cô giận anh cô. Bà mẹ chạy ra khỏi nhà, mặt tái mét và run
rẫy vì sợ.
Chiều hôm
đó, anh nó đến với hai bàn tay chụm lại. “Có món quà cho em
đây!’ “Cái gì?” Anh nó mở tay ra và con cào cào nhảy ra. Cô
bé hét to và bố mẹ vội chạy ra. Bố mẹ khiển trách anh nó và
mắng cô bé về sự điên khùng của nó. Từ đó trở đi, cô bé cứ
thét cách sợ hãi khi nhìn thấy con cào cào. Nhưng cô ta biết
cô ta không thật sự sợ con cào cào như thế. Đó chính vì sự
sợ của cô có một giá trị nào đó mà cô cảm thấy được. Sự việc
bố mẹ đã mắng cô ta là điên khùng là một việc vô ích nhất mà
bố mẹ đã làm. Đây là sự thách thức càng làm chồng chất thêm
cao vị thế của cô về việc sợ hãi đó. Nếu bố mẹ đã không bị
ám ảnh bỡi sự la hét của cô bé, họ đã loại được mục đích của
sự sợ hãi của cô.
Quốc Huy
4 tuổi đang chơi với chiếc xe điện tử bên cạnh cây giáng
sinh. Thình lình nó thụt người lại và hét lên. Nó bị điện
giật. Bà mẹ ngồi gần đó nhìn thấy như vậy, bà bế nó lên và
an ủi nó: “Cưng ơi, con có sao không? Chiếc xe điện trục
trặc. Khi bố về, bố sẽ sửa cho.”
Chiều hôm
đó, ông bố tìm ra được căn bệnh và đã sửa được nó. Nhưng cậu
bé từ chối không chịu chơi với chiếc xe đó. Nó co người lại
và hành động cách sợ hãi. Nó chui đầu vào lòng mẹ mỗõi lần
mẹ nó cố gắng kéo nó lại về phía bố nó để chỉ cho nó cách
điều khiển. Cuối cùng, bố mẹ nó liếc nhìn nhau. Mẹ nó lắc
đầu nhè nhẹ. Bố nó gật đầu đồng ý, rời chiếc xe điện và ngồi
xuống với tờ báo ban chiều. Không ai nói gì cả. Cậu bé cũng
không động đậy đến chiếc xe. Hai ngày sau đó, ông bố tháo
chiếc xe cùng với những đồ trang trí giáng sinh và sắp xếp
cẩn thận vào trong hộp. Cậu bé theo dõi tiến trình một cách
chú tâm mà không nói gì. Tuy nhiên, vào lúc lên giường ngủ,
nó chồm dậy nói: “Bố ơi, con muốn chơi với chiếc xe điện của
con.” “Chúng ta sẽ lấy nó ra sớm. Con muốn bố đọc chuyện gì
tối nay?”
Cậu bé
miễn cưỡng chơi với chiếc xe lửa là chuyện tự nhiên sau một
kinh nghiệm không được vui lắm. Bố mẹ hiểu điều đó. Nhưng
khi cậu bé tiếp tục kháng cự, từ chối chấp nhận cách tin
tưởng rằng ông bố đã sửa xong, và khi nó bắt đầu kéo họ dấy
mình vào những lo lắng sợ sệt của nó, bố mẹ bỏ lửng chuyện
đó và xuôi thuyền về hướng khác. Họ nhận thấy rằng cậu bé
còn quá trẻ để hiểu những nguyên tắc của giòng điện. Họ
không muốn cố gắng thuyết phục cậu bé để hiểu về chuyện đó.
Chiếc xe được xếp qua bên. Và bây giờ nó lại khám phá ra nó
thích chơi chiếc xe đó. Sự sợ của nó không có cơ hội để trở
thành một dụng cụ hữu ích nữa. Ông bố tránh giảng giải về sự
điên rồ, cũng không cần khiển trách. Ông chấp nhận phản ứng
của đứa con và xếp chiếc xe cho vào hộp. Khi cậu bé muốn
chơi trở lại. Ông hứa lấy nó ra sớm và đổi đề tài.
Bà mẹ cố
gắng giúp bé Yến Vy 3 tuổi không sợ bóng tối. Bà đặt cô bé
vào giường, bật bóng đèn ở ngoài phòng lên, và tắt bóng đèn
ở phòng ngủ của nó. “Mẹ, mẹ!” Cô bé hét lên cách sợ hãi. Bà
mẹ yên ủi: “Cưng ơi, mẹ đây. Mẹ không rời con. Không có gì
đáng sợ. Nầy xem, mẹ ở với con.” Nhưng con muốn bật đèn lên.
Con sợ bóng tối” “Con ơi, có đèn ngoài kia rồi và mẹ ở đây
nè!” “Mẹ không rời đây nhé!” “Không, mẹ không rời đây cho
tới khi con ngủ.” Phải mất một thời gian khá lâu cô bé mới
ngủ. Cô bé thường chồm dậy để xem bà mẹ có ở đó với nó
không?
Bà mẹ
nghĩ rằng bà có thể lần lần tập cho cô bé quen dần với bóng
tối bằng cách di chuyển ánh sáng xa dần đi. Bà thất bại
không nhìn thấy cách thế cô bé dùng sự sợ để giữ mẹ gần nó
và bắt bà phục vụ cho nó. Trẻ con diễn tả sợ hãi là muốn
thuyết phục. Chúng xem ra đối với chúng ta là quá nhỏ và vô
dụng, và cuộc đời xuất hiện đáng sợ đối với chúng. Tuy
nhiên, nếu chúng ta hiểu được cái gì nằm đằng sau hành động
của nó, chúng ta có thể trở nên ý thức rằng với sự đáp ứng
của chúng ta, chúng ta không giúp được đứa trẻ, nhưng càng
làm cho nó xử dụng sự sợ hãi như một cách thế để điều khiển
chúng ta.
Bà mẹ có
thể mở đèn bên ngoài và tắt đèn phòng ngủ, đặt cô bé lên
giường, và không để ý gì đến sự sợ hãi của nó, và để nó ở đó
với lời khích lệ: “Con sẽ học không có gì phải sợ nữa.” Nếu
cô bé có khóc, bà mẹ nên hành động như cô bé đang ngủ. Nhưng
điều nầy không thể làm được ngoại trừ bà mẹ loại bỏ giả
thuyết thông thường là: bà ác độc nếu bà phớt lờ sự đau khổ
của con cái. Chúng ta cảm thấy bị ép buộc phải an ủi đứa trẻ
đang đau khổ. Tuy nhiên, khi chúng ta thấy rằng bằng cách
làm như thế, chúng ta chỉ làm tăng sự đau khổ vì đứa trẻ chỉ
muốn chúng ta chú ý đến nó hoàn toàn.
Con trẻ
chúng ta không thể giải quyết những khó khăn của cuộc đời
nếu chúng cứ luôn sợ hãi. Sự sợ không tăng khả năng ứng phó
với vấn đề. Càng sợ thì càng nguy hiểm. Nhưng sợ hãi được
dùng như phương tiện để khiến người khác chú ý và bắt người
khác phục vụ mình.
Cần dạy
con trẻ chú trọng vào những tình trạng xem ra nguy hiểm.
Nhưng chú ý và sợ hãi thì khác nhau. Chú ý là sự nhận thức
hợp lý và can đảm về những nguy hiểm có thể, trong khi sợ
hãi là một sự rút lui mất can đảm và tê liệt. Dĩ nhiên,
chúng ta phải dạy con cái chúng ta chú ý khi băng qua đường,
súng đạn là vũ khí giết người không phải đồ chơi, và bơi lội
ở độ sâu chỉ được phép nếu có khả năng. Tất cả những điều đó
có thể được dạy mà không có gì sợ sệt. Cần học mức giới hạn,
học cách biết lo đến những hoàn cảnh xem ra khó khăn hoặc
nguy hiểm. Sợ hãi làm mất sự can đảm. Sợ hãi thì rất nguy
hiểm. Đối với con trẻ, nó phục vụ cho một mục đích. Nếu bố
mẹ không đáp trả, con trẻ sẽ không khai thác, bấy giờ cả bố
mẹ lẫn con cái sẽ được tự do khỏi sự cực hình và đau khổ.
Trở lại
quá khứ xa xưa mà cậu bé Quốc Lân có thể nhớ được. Cậu đã
nghe mẹ nói chuyện đau khổ lúc sinh nở và đau khổ vì phải
mổ. Cách đây 3 tháng được khám phá ra cậu bé có một xương
mọc lộn xộn trong chân của nó nên cần đi mổ. Khi nó được báo
nó cần phải đi mổ, nó hét lên cách sợ hãi. Suốt 3 tháng nó
năn nỉ, van xin. Nó thà chết với bệnh đó hơn là mổ. Bà mẹ cố
gắng yên ủi nó nhưng vô ích. Ngày mổ đến và sự lượng sức cần
phải được lấy để cho đứa trẻ thuốc mê đủ lượng. Nó sợ quá
đến nỗi lượng thuốc thông thường của thuốc gây mê chỉ gây
ảnh hưởng chút ít hôn mê cho nó.
Sự đau
đớn là một phần của cuộc đời. Không có cách nào chạy trốn nó
được. Câu chuyện của bà mẹ kể cho con cái và các bạn bà có
thể là để cho thấy rằng bà là một anh hùng trong việc trải
qua những đau khổ như thế. Nhưng cậu bé có cảm nghiệm như là
đau thật, và trong sự tưởng tượng nó đã tạo nên những tư
tưởng về những ca giải phẫu vượt quá xa sự thật. Và trái với
mẹ nó, nó không có uớc muốn trở thành một anh hùng. Đối diện
với đe dọa đau đớn, nó không được dạy dỗ để chấp nhận điều
đó một cách can đảm. Và bà mẹ đồng cảm với sự sợ hãi của nó
vì bà có kinh nghiệm về sự hãi hùng của sự giải phẫu. Không
giúp con mình ứng phó với tình trạng khó khăn và không thể
tránh được, một cách vô thức bà đã giúp và nuôi dưỡng sự sợ
của nó trong cố gắng yên ủi và vỗ về nó.
Không cha
mẹ nào muốn thấy con cái mình đau đớn. Tuy nhiên, có những
lúc không thể tránh khỏi. Hãy biết rằng đối với đứa trẻ can
đảm, thực tế đau đớn ít. Càng sợ càng đau đớn hơn. Càng
kháng cự càng cảm thấy đau hơn. Chúng ta phải giúp con trẻ
chấp nhận sự đau đớn và buồn khổ. Chỉ vì thái độ chúng ta
quá lo lắng một cách không thích hợp mỗi khi thấy đứa trẻ sợ
hãi nên nó càng trở nên nhút nhát và sợ sệt hơn.
Lm. Lê văn Quảng, tiến
sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH MẸ - CON Ở PHỐ
ĐỨC BÀ |
Bất chấp giới hạn của tuổi tác, bất
chấp sức ép của công việc … tình Mẹ con ở căn phòng nhỏ bé ở
phố Đức Bà vẫn rực sáng và toả hương. Tình Mẹ con trong căn
phòng nhỏ bé ấy càng nồng ấm khi tuổi Mẹ, tuổi con đã xế
chiều.
Bất chấp hơi cay, dùi
cui điện, phỉ nhổ, mạ lỵ, khủng bố ... tình Mẹ con bên hang
đá ở phố Đức Bà vẫn son sắt. Tình Mẹ con bên hang đá ở phố
Đức Bà ấy còn bừng cháy hơn nữa giữa những giới hạn của ngăn
cản và cấm cách .
Tình Mẹ - con trong
căn phòng nhỏ ở phố Đức Bà :
Dòng thời
gian vẫn trôi qua nhẹ nhàng và êm ả, tiết trời Hà nội đã vào
Thu, chiếc xe lăn nhỏ bé ngày ngày đưa một bà mẹ già tới tới
lui lui dọc hành lang của phố Đức Bà. Mẹ đã một đời tần tảo
lo toan cho con cái và giờ đây khi bóng chiều đã ngã Mẹ cũng
chẳng yên lòng được khi thấy con mình còn đó những bận tâm
của cuộc đời, bận tâm của con người. Dẫu người con ấy là
linh mục như Cha Matthêu Vũ Khởi Phụng con Mẹ, dẫu người ấy
tóc cũng lấm tấm bạc đi chăng nữa trong lòng Mẹ vẫn là Mẹ và
người con ấy vẫn là một “cậu bé” bé bỏng trong vòng tay của
Mẹ già.
Có lẽ cha
Matthêu cũng như mọi người con đều cảm nhận “Nay lớn khôn
con vào đời, gặp biết bao nhiêu người thương … rồi lớn lên
con xây non cao, vượt biển khơi bay lên trăng sao, khi về
nhà xưa với cha và với mẹ như là trẻ thơ bé như ngày nào …”
để rồi tranh thủ thời gian có được để được đến và ở bên mẹ
nhiều chừng nào tốt chừng đó. Dù học cao, dù hiểu rộng và dù
có bay lên được trăng sao đi chăng nữa nhưng mãi mãi trong
vòng tay yêu dấu của Mẹ, cha Matthêu vẫn là như đứa trẻ thơ
ngày nào luôn cần đến tình Mẹ, luôn mong Mẹ chăm sóc vỗ về,
yêu thương.
Cứ mỗi
sáng, sau bữa điểm tâm và sau giấc ngủ trưa đến xế chiều
người giúp Mẹ đưa Mẹ đi đi lại lại dọc hành lang. Cái hành
lang nhỏ bé ở phố Đức Bà ấy như là điểm hẹn của tình mẹ con
giữa bà Cố và Cha Matthêu.
Sáng nay,
đợi mãi chẳng thấy con xuống, Mẹ thắc mắc với chị giúp việc
: “Sao đến giờ này mà vẫn chưa thấy cha xuống !” Hình như
linh cảm của Mẹ có điều gì chẳng lành đến với Cha Matthêu
hay sao đó nên bà Cố mới hỏi. Thì ra là sáng nay công an mời
Cha Matthêu lên làm việc nhưng tôi không dám nói cho bà Cố
biết vì chỉ sợ bà thêm lo.
Chị giúp
việc cho tôi biết thêm về Mẹ. Mẹ lo lắng lắm khi con Mẹ kêu
gọi mọi người cầu nguyện cho công lý, cho sự thật. Chẳng
biết có ai đến nói với Mẹ điều gì không nhưng sao Mẹ lo cho
Cha lắm ! Mẹ ngồi xe lăn không làm được gì nhưng Mẹ lo lắm
:
Nào là
bảo người giúp việc mua đồ cho Cha Matthêu mặc vì Mẹ thấy
Cha ăn mặc “lèng phèng” quá !
Nào là
bảo người giúp việc dặn là khi Cha Matthêu đi đâu ra ngoài
đường thì gọi taxi cho Cha đi chứ đừng đi xe ôm vì sợ kẻ xấu
hãm hại !
Những
ngày này, những ngày xảy ra biến cố tại Phố Đức Bà, thật sự
ai ai cũng quan tâm và lo lắng cho Cha Matthêu nhiều. Một
linh mục thường lang thang đây đó như Cha Matthêu, đồng hành
với những người nghèo vậy mà phải chôn mình trong bốn bức
tường của tu viện Thái Hà Ấp cảm thấy làm sao đấy. Thường
ngày, Ngài vẫn dong duỗi trên mọi nẻo đường để đồng hành với
những người nghèo : Có khi ta thấy Ngài vui vẻ chung chia
phận nghèo với những chị đồng nát, có khi ta thấy Ngài gần
gũi với các bạn sinh viên, có khi ta thấy Ngài gợi lên một
nhóm nào đó như nhóm “Tiếng Vọng” chuyên lo cho các bệnh
nhân sida đầu đường xó chợ, có khi ta lại thấy Ngài ẩn mình
gần một tuần lễ tận Trung Tâm Mai Hoà - Củ Chi - để chung
chia phận của những con người bị đẩy ra bên lề xã hội.
Với Cha
Matthêu thì cảm thấy như bó buộc ở trong nhà nhưng với Mẹ
thì Mẹ rất vui. Mẹ vui vì ngày ngày hai buổi sáng chiều con
lại ghé qua căn phòng nhỏ bé của Mẹ để Mẹ con gặp nhau chốc
lát. Có hôm xuống thăm Mẹ thì Mẹ vẫn còn ngủ nên Cha đành
lên phòng tiếp tục làm “con mọt” trong đống sách vô cùng quý
giá.
Quả thật,
tình Mẹ thật lai láng tựa dòng sông cả thăm thẳm tựa biển
sâu :
“Đi
khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha
Nước biển mênh mông không đong đầy tình Mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha
Tần tảo sớm hôm Mẹ nuôi
con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy Cha che chở đời con
Ai còn Mẹ xin đừng làm Mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt Mẹ nghen con”.
Thế đấy ! Một mối tình thiêng liêng,
mối tình nồng thắm Mẹ - con ngày ngày vẫn diễn ra ở căn
phòng nhỏ bé phố Đức Bà. Dù đi đâu, Cha Matthêu cũng hướng
lòng về người mẹ già đang chờ Ngài trở về với Mẹ trong căn
phòng nhỏ bé và ấm cúng. Dù đi đâu, Cha Matthêu cũng không
quên được tình của Mẹ. Và với Mẹ, dù tóc Mẹ có bạc, da Mẹ
có mồi đi chăng nữa thì Mẹ vẫn dõi theo từng bước đường của
người con dấu yêu.
Tình Mẹ - con bên hang đá ở phố Đức Bà
:
Trải qua
biết bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, trải qua không biết
bao nhiêu biến chuyển của bể dâu thì Đức Bà Thái Hà ấp xưa
kia vẫn là chỗ “hò hẹn” giữa Mẹ Maria kính yêu và của những
con từ khắp mọi miền đất nước. Nơi Linh địa linh thiêng ấy
Mẹ vẫn chờ để gặp các con và các con vẫn chờ để gặp Mẹ.
Thời thế
thay đổi để rồi lòng người cũng đổi thay. Mảnh đất linh
thiêng ấy được góp vào bởi biết bao nhiêu công khó của người
nghèo. Mảnh đất ấy được thánh hiến để phụng vụ dân Thánh
Chúa. Thế nhưng, do hoàn cảnh của đất nước mảnh đất ấy chưa
kịp xây dựng ngôi Thánh đường khang trang để con cái có nơi
phụng thờ Chúa, ca khen Mẹ cho phải lẽ.
Nhu cầu
gặp gỡ giữa Mẹ và con cũng như giữa con và Mẹ ngày càng cao
nên các vị mục tử phụ trách phố Đức Bà đã nhiều năm cũng như
nhiều lần nộp đơn xin lại mảnh đất thiêng ngày nào đã thánh
hiến phụng thờ Chúa. Năm lần bảy lượt, đến hẹn lại lên nhưng
khi lên thì lại hẹn xuống và cuối cùng các vị mục tử cùng
đoàn con cái của Mẹ ngậm ngùi cầm trong tay bản “quyết định
thu hồi”. Một “quyết định thu hồi” bất nhân và bất nghĩa.
Bên cạnh
cái “quyết định thu hồi” bất nhân bất nghĩa đó, họ đâu có để
cho tình Mẹ con được yên ổn. Họ dùng quá nhiều thủ đoạn để
ngăn cản tình Mẹ tình con : Nào là dùi cui điện, nào là hơi
cay để ngăn những buổi cầu nguyện của con trước nhan Mẹ.
Tưởng chừng dùi cui và hơi cay có thể ngăn được tình Mẹ -
con ấy nhưng không !
Hơi cay
và dùi cui như là phương tiện, như là chất làm tăng thêm
tình Mẹ - con thì phải. Từ muôn phương con cái của Mẹ cứ vui
vẻ dắt díu nhau trẩy hội lên Đền. Họ lại bày ra cái trò
“ngăn sông cấm chợ” thời bao cấp không cho con cái về với
Mẹ. Sau này, họ còn bày trò ác là đổ mắm tôm trộn hoá chất
để cho các con cái của Mẹ không còn đến với Mẹ nữa nhưng họ
đã lầm.
Tất cả
những biện pháp bất nhân bất nghĩa ấy không thể nào dập tắt
được tình nghĩa Mẹ - con. Giờ đây, tình Mẹ - con ở Phố Đức
Bà toả lan như hương trầm bay lên nhan Chúa vậy. Dù đi đâu,
ở bất cứ nơi nào, tình Mẹ tình con ở Phố Đức Bà đều được mọi
người biết đến và noi theo.
Thời gian
vẫn chạy, dòng đời vẫn trôi, Hà Thành vẫn ồn ào náo nhiệt
theo nhịp sống nhưng ở Phố Đức Bà nhỏ bé vẫn còn đó những
mối tình Mẹ - con thật thiêng liêng, thật quý báu. Phố Đức
Bà như là điểm hẹn, như là chỗ hẹn hò để Mẹ chia sẻ tình cho
con và con chia sẻ tình với Mẹ vậy.
Trong căn
phòng nhỏ ở phố Đức Bà, Cha giáo kính mến Matthêu của tôi
ngày ngày thỏ thẻ với Mẹ già dăm ba câu hiếu để thì bên hang
đá Mẹ, con cái của Mẹ Maria cũng thỏ thẻ với Mẹ Maria - Mẹ
Hằng Cứu Giúp - của mình những tâm sự thầm kín của một người
con thảo.
Dù đi muôn phương nhưng con cái vẫn
mong quay về với Mẹ để thỏ thẻ, để thủ thỉ, để nhỏ to tâm sự
với Mẹ những nổi trôi, những âu lo của phận người. Phần Mẹ,
khi nghe những lời con trẻ đến bên Mẹ, chẳng lẽ nào Mẹ lại
dửng dưng trước những lời thầm thĩ nguyện xin ấy. Kẻ xin ơn,
người ban ơn : thế là tình Mẹ, tình con ngày một khắng khít
giữa nhân gian đầy bạc nghĩa bội tình.
Lm. Anmai, C.Ss.R. |
VỀ MỤC LỤC |
|
“LẠY NỮ VƯƠNG RẤT THÁNH MAI KHÔI, CẦU CHO CHÚNG CON”
|
Theo Lịch Phụng Vụ, Giáo Hội dâng Tháng
Mười làm tháng kính Nữ Vương Rất Thánh Mai Khôi. Để hiệp
thông cùng quý giáo hữu sốt sắng tham gia việc đạo đức trong
tháng nầy, chúng tôi xin lược qua một số tìm hiểu, học hỏi
về Chuỗi Mai Khôi, về Lễ Đức Mẹ Mai Khôi, Tháng Mai Khôi và,
cách riêng, về nguồn gốc và ý nghĩa Kinh Kính Mừng.
Chuỗi Mai Khôi
Thánh Luy
Maria Môngpho – Louis Marie Grignion de Montfort mà
nhiều giáo hữu đoàn viên Hội Đạo Binh Đức Mẹ – Legio Mariae
đã biết danh người qua Thủ Bản Legio Mariae ( 107, tr. 77-78
) là tông đồ nhiệt thành rao giảng về Chuỗi Mai Khôi. Thánh
nhân là “hội viên tích cực truyền bá cho Hội Mai Khôi, hội
của người tín hữu mỗi tuần tối thiểu lần hột Mai Khôi 150
kinh” ( ba chuỗi Mai Khôi ). Theo Thủ Bản Legio Mariae ( số
605, tr. 372 ), đây là “một hội có nhiều ân xá nhất, ta cần
vào để hưởng cho hết các ơn ích của chuỗi Mai Khôi.” Về bí
quyết chuỗi Mai Khôi, Thánh Môngpho nói:
“Chuỗi
Mai Khôi chính yếu gồm có kinh Chúa Giêsu dạy ( Kinh Lạy Cha )
và lời chào mừng của Thiên Sứ ( Kinh Kính Mừng ) và vinh
danh Ba Ngôi Thiên Chúa ( Kinh Sáng Danh ). Tuy đã từ lâu
đời, các tín hữu sốt sắng với việc tôn sùng Mai Khôi, những
mãi đến năm 1214, Giáo Hội mới nhận được chuỗi Mai Khôi như
ta đọc ngày nay do Thánh Đaminh truyền lại theo sự chỉ dẫn
của Thánh Nữ Đồng Trinh giúp chiến thắng bè rối Albigensian
và giúp những kẻ có tội ăn năn trở lại cùng Chúa.
Albigensian từ nguyên thủy là tổ chức
có tên Cathari, ở Languedoc, miền Nam nước Pháp, một bè rối
chống phá Công Giáo liên quan đến Đức Tin vào Chúa Giêsu
Kitô từ thế kỷ 11 và phát triển mạnh ở thành phố Albi, Đông
Bắc Toulouse ( 1181 ), nên được gọi là Albigensian. Cả hai
Công Đồng Tours ( 1163 )
và Công Đồng Latêranô 3 ( 1179 ) đều
không giải quyết được và Đức Giáo Hoàng Innôcent III ( 1198
– 1216 )
phải kêu gọi Thập Tự Chiến để đánh quân Albigensian, nhưng
còn nhiều khó khăn không thắng nổi.
Trong
sách De Dignitate Psalterii ( Về phẩm chức của Ca Vịnh ),
Chân Phước Alan de la Roche ghi lại: “Năm 1213, khi thấy tội
lỗi quá nặng nề của nhân dân và của quân rối Albigensian ở
Miền Nam nước Pháp, cha Đaminh vào rừng gần Toulouse, Pháp,
và cầu nguyện liên miên ba ngày, ba đêm, xin Chúa nguôi cơn
giận. Người hãm mình, đánh tội cho đến ngất xỉu. Lúc đó, Đức
Mẹ, có ba thiên thần chầu quanh, hiện ra và phán bảo:
- Này Đaminh, con có biết Ba Ngôi Thiên
Chúa chí thánh muốn dùng vũ khí nào để cải thiện thế gian
chăng ?
- Thưa Mẹ, Mẹ biết hơn con vì Mẹ ở kề
bên Chúa Giêsu, Con Mẹ, và Mẹ đồng công chuộc tội loài người
chúng con.
Mẹ nói:
“Phương cách chính là Lời
Chào Mừng của Thiên Sứ, đá tảng của Tân Ước. Nếu con muốn
đạt đến tâm hồn cứng cỏi của người tội lỗi và vượt thắng họ,
thì phải rao giảng Kinh Kính Mừng đó.”
Đaminh trỗi dậy, sốt sắng tìm gặp những
người tội lỗi, bằng cách đi thẳng tới Nhà Thờ Chính Tòa
Toulouse. Bỗng có những thiên thần bí mật rút chuông triệu
tập dân chúng tề tựu. Khi Đaminh bắt đầu giảng thì bão táp
nổi lên, trái đất rung chuyển, mặt trời trở nên tối tăm, các
tia chớp lòe sáng và sấm sét nổ vang, khiến cho mọi người
hoảng sợ. Nỗi lo sợ càng mãnh liệt khi dân chúng nhìn thấy
Đức Bà hiện ra, giơ hai tay lên trời ba lần, xin Thiên Chúa
trừng phạt họ, nếu họ không chịu trở lại, cải thiện đời
sống, và chạy đến khẩn cầu Mẹ Thiên Chúa hộ phù.
Thánh Đaminh cầu nguyện và rao giảng
chuỗi Mai Khôi, rồi cùng với nhịp hùng hồn của người, bão
táp lại lặng dần. Nhân dân Toulouse nghe lời người, cùng
nhau lần hạt Mai Khôi và thống hối, cải thiện đời sống, trở
về với Chúa. Nhờ ơn Đức Mẹ, bè rối Albigenxian tan rã tại
thành Muret ( 1213 ).
Thánh
Đaminh được Chúa Thánh Thần soi sáng và Thánh Nữ Đồng Trinh
Maria dạy bảo, đã rao giảng chuỗi Mai Khôi suốt đời ngài,
vừa giảng vừa lần hạt Mai Khôi, làm gương sáng cho Dân Chúa,
cũng như cho kẻ tội lỗi và người theo bè rối, từ thành nọ
đến thành kia suốt miền Nam nước Pháp.
Các Tu Sĩ
Dòng Đaminh tiếp tục truyền bá chuỗi Mai Khôi của Thánh
nhân, và, năm 1460, Tu Sĩ Alan de la Roche, hoàn chỉnh chuỗi
Mai Khôi, gọi là Thánh Vịnh Chúa Giêsu và Mẹ Maria vì, tương
tự như 150 Thánh Vịnh vua Đavít mà các Tu Sĩ dùng để đọc
kinh hằng ngày trong các Dòng Tu, Chuỗi Mai Khôi có 150 kinh
Kính Mừng Maria.” ( Louis Marie Grignion de Montfort: The
Secret of the Rosary )
Lễ Đức Mẹ Mai Khôi
7 tháng 10
Chiến
thắng Lepanto: Năm 1498, quân Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ chiếm
Lepanto, một hải cảng quan trọng tại Hy Lạp ăn thông ra vịnh
Côri-tô. Suốt thời 11 Giáo Hoàng, từ Đức Alêxanđrô VI (
1492-1503 ), đến Piô III ( 1503 ), Giuliô II ( 1503-13 ),
Lêô X ( 1513-21 ), Ađrian VI ( 1522-23 ), Clêmentê VII (
1523-34 ), Phaolô III ( 1534-49 ), Giuliô III ( 1550-55 ),
Macxêlô II ( 1555 ), Phaolô IV ( 1555-59 ), Piô IV ( 1559-65
), đạo quân Thập Giá ủng hộ Giáo Hội đều thất bại không sao
thắng được quân Thổ.
Thời Đức
Piô V khởi sự từ 1566, các phong trào lần hạt Mai Khôi được
phát động mạnh mẽ. Ngày Chúa Nhật thứ nhất tháng 10 năm 1571
tại Rôma, Hội Huynh Đệ Mai Khôi tổ chức cuộc rước kiệu trọng
thể tôn vinh Đức Mẹ Maria. Cùng một lúc, có tin đoàn tàu ủng
hộ đức giáo hoàng, gồm có quân Tây Ban Nha, Venise và Gênes,
dưới quyền chỉ huy của tướng Don John, người Áo, đã chiến
thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Lepanto. Ngày ấy là 7.10.1571.
Tuy vào
các năm sau đó, quân Thổ cũng đánh trả quyết liệt, nhưng,
chính yếu, quân Hồi Giáo Thổ không khôi phục được Lepanto.
Và mãi đến 1827, quân Hy Lạp mới làm chủ tình thế. ( Ngày
nay, giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, vẫn thường xuyên có xích
mích, khi thì chính trị, khi thì quân sự. ).
Đức Giáo
Hoàng Piô V ( 1566 – 72, sau khi qua đời được phong Thánh
ngày 22.5.1712 ) đã lập lễ kính nhớ thắng trận Lepanto mà
ngài gọi là “Chiến
thắng của Chuỗi Mai Khôi”,
và đặt tên ngày 7 tháng 10 là Lễ Đức Mẹ Mai Khôi. Năm 1671,
Đức Giáo Hoàng Clêmentê X ( 1670 – 76 ) cho phép cả nước Tây
Ban Nha mừng Lễ Mai Khôi, và chính Đức Clêmentê XI ( 1700 –
21 ), ban hành Lễ Đức Mẹ Mai Khôi ngày 7.10.1716 cho toàn
thể Giáo Hội Công Giáo khắp hoàn vũ.
Sau đó,
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã ra thông điệp Quod Auctoritate
( 22.12.1885 ) công bố Năm Thánh, nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của chuỗi Mai Khôi. Ngày 20.9.1887, ngài nâng Lễ Đức
Mẹ Mai Khôi lên lễ nhớ bậc hai, và thêm câu
“Nữ
Vương truyền phép Rất Thánh Mai Khôi”
vào kinh
cầu Đức Bà, gọi là Kinh Cầu Lôrêtô ( Sách Mục Lục Việt Nam
2004, tr. 95 ).
Nguồn gốc tháng 10, Tháng Mai Khôi
Từ các
thế kỷ qua, có nhiều vị giáo hoàng rất sốt sắng với kinh
nguyện Mai Khôi. Vị Giáo Hoàng, cách đây 124 năm ( 1884-2008
), được mệnh danh là kẻ biện hộ và cao rao mạnh mẽ việc đạo
đức Mai Khôi là Đức Giáo Hoàng Lêô XIII ( 1878-1903 ). Trong
25 năm làm Giáo Hoàng, ngài đã ban hành 12 tông huấn, cùng
nhiều huấn từ, thông điệp liên quan đến chuỗi Mai Khôi.
Ngày 1.9.1883, ngài ban hành tông huấn
Supremi Apostulatus ( Việc Tông Đồ của Đấng Cao Cả ), đặt
Tháng 10 thành Tháng Mai Khôi mời gọi giáo hữu sốt sắng lần
Chuỗi Mai Khôi. Nhắc đến chiến thắng Lepanto, ngài nói:
“Nhân kỷ niệm hồng ân cao cả Đức Mẹ ban cho người Kitô hữu
nhờ lòng sùng kính Mai Khôi, nay Giáo Hội ước mong nhờ lòng
sùng kính như vậy của toàn thể thế giới Công Giáo, Đức Trinh
Nữ Rất Thánh cầu bầu cùng Chúa nguôi cơn giận, đoái
thương cứu giúp chúng ta khỏi mọi khốn khó phải gánh chịu.”
Nguồn gốc và ý
nghĩa Kinh Kính Mừng
Khi lần mỗi chuỗi Mai Khôi, người giáo
hữu đọc 53 Kinh Kính Mừng ( 3 kinh đầu và 50 kinh sau ).
Kinh Kinh Mừng gồm có những lời chào mừng và phần cầu xin:
Lời chào mừng lấy từ Tin Mừng theo
Thánh Luca ( Lc 1, 28 ) khi Thiên sứ Gaprien truyền tin cho
Đức Mẹ: “Kính mừng Maria, đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng
Bà”. Và lời mừng của bà Isave khi Đức Mẹ đến viếng thăm ( Lc
1, 42 ): “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng
Bà gồm phúc lạ.”
Phần cầu xin:
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho
chúng con là kẻ có tội khi nầy và trong giờ lâm tử. Amen.”
Để việc
đọc kinh Kính Mừng thêm sốt sắng, xin hãy lắng nghe lời diễn
giải của Thánh Luy Môngpho:
Khi lâm cơn khốn khổ vì tội lỗi, anh
chị em hãy dâng lên Mẹ “Kính mừng” có nghĩa “con tha thiết
kính chào Mẹ là Đấng vô nhiễm nguyên tội, xin Mẹ cứu con
khỏi sự dữ của tội lỗi.
Khi ở trong tối tăm lầm lạc, xin hãy
đến cùng Mẹ và đọc “Kính mừng Maria” với niềm xác tín Mẹ
được chiếu sáng bởi những tia mặt trời công chính và Mẹ sẽ
thông phần ánh sáng cho chúng con.
Khi sợ mất ơn nghĩa thánh Chúa, chúng
ta hãy tôn vinh Mẹ “Đầy ơn phúc” và đầy hồng ân Chúa
Thánh Thần, Mẹ sẽ thông phần ơn phúc cho chúng ta.
Khi gặp cảnh đơn độc, cảm thấy mất sự
che chở của Chúa, xin hãy kêu lên “Đức Chúa Trời ở cùng Bà”
vì Mẹ kết hợp với Chúa Giêsu trong lòng Mẹ, như đền thờ Ba
Ngôi Thiên Chúa.
Khi sợ Chúa chúc dữ vì tội lỗi, chúng
ta hãy ca khen Mẹ “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ” và
nhờ ơn lành của Mẹ, chúng ta sẽ được chúc phúc thay vì chúc
dữ.
Khi đói bánh ơn thánh, bánh trường
sinh, xin hãy đọc sốt sắng “và Giêsu con lòng Bà gồm phúc
lạ”, Giêsu Mẹ đã cưu mang và sinh ra, là Đấng chữa lành con
người bệnh hoạn vì tội lỗi; cho kẻ chết sống lại và cứu
chuộc nhân loại.
Lời cầu “Thánh Maria” xác tín với tư
cách Mẹ Thiên Chúa là Đấng Thánh muôn đời.
“Đức Mẹ Chúa Trời” cũng là Mẹ chúng
con, Đấng phù hộ các giáo hữu và thông ban ơn thánh Chúa.
“Cầu cho chúng con là kẻ có tội” vì Mẹ
từ bi nhân hậu, là Mẹ Đấng Cứu Thế không từ bỏ tội nhân.
“Khi này” giữa đời tạm mỏng manh, chóng
qua, chúng con luôn bị bao quân thù vây hãm, tấn công.
“Và trong giờ lâm tử” đầy gian nguy
trong khi chúng con có thể kiệt sức, với lòng trí lẫn thể
xác bị rã rời vì đau khổ và sợ hãi. Xin Mẹ cứu giúp những kẻ
yếu hèn; dẹp tan quỷ dữ trong giờ lâm chung.
Amen – Chúng con vững tin vào Mẹ.
Trong tháng 10, Tháng Mai Khôi, chúng
ta hãy cùng nhau hiệp thông nhiệt thành cầu nguyện: Lạy Nữ
Vương Rất Thánh Mai Khôi – Cầu cho chúng con.
Tài liệu tham khảo:
“Bí quyết lạ lùng của Chuỗi Mai Khôi
Rất Thánh” ( Secret admirable du Très Saint Rosaire )
Louis-Marie Grignion de Montfort.
Kỹ
sư TRẦN VĂN TRÍ, 10.2008
(Trích từ Halleluyah 95)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Ý NIỆM VỀ CON
CÁI TRONG HÔN NHÂN
|
Quan niệm về hôn nhân và về con cái ngày nay đang có những
thay đổi hết sức trầm trọng. Và điều này ảnh hưởng đến việc
lưu truyền nòi giống, đến việc thực hành lời hôn ước là đón
nhận những người con như hồng ân của Thiên Chúa và như hoa
trái của yêu thương giữa hai vợ chồng.
Những khảo cứu về vai
trò con cái đối với hạnh phúc hôn nhân gia đình đang có phần
đúng theo với cái nhìn và quan niệm sống của nhiều cặp vợ
chồng ngày nay. Quan niệm ấy là con cái chính là một trong
những lý do đưa đến ly dị. Có nghĩa là, người ta kết hôn với
nhau vì yêu nhau. Vì yêu nhau người ta kết hợp với nhau để
sinh con cái. Nhưng vì con cái mà nhiều người lại bỏ nhau.
Trường họp
1: Bạn tôi chỉ có một người con trai duy nhất. Hai vợ chồng
người con này đều là
những người có địa vị, học thức, và dư thừa tài chánh. Nhưng
điều anh chị mong mà vợ chồng ấy không có, đó là đứa cháu
nội để “nối dõi tông đường”. Mong mãi mà vẫn chưa được bế
cháu nội. Lý do là con dâu không muốn sinh con vì cho rằng
có con lúc này sẽ ảnh hưởng đến nghề nghiệp, đến sắc đẹp.
Mỗi lần nghe anh chị đề cập đến vấn đề con cái, cả hai đều
trả lời: “Chờ vài năm nữa khi công việc ổn định, có thêm tài
chánh lúc đó sinh con vẫn chưa muộn. Bây giờ công việc đang
bận rộn, và chưa sẵn sàng”. Thất vọng, vợ anh đã có lần tâm
sự với anh: “Chúng nó chỉ cắm đầu vào làm giầu, mua nhà cao
cửa rộng, sắm xe hơi sang trọng. Nhưng để làm gì. Chờ cho
đến lúc già mới nghĩ đến có con thì e rằng đã muộn. Đúng là
có nhiều mà tốt, có một mà không nên thân. Tôi buồn quá!”
Trường hợp
2: Tại văn phòng tôi có một nhân viên rất dễ thương. Cô ta
lập gia đình đã 3
năm, cô rất muốn có con nhưng chồng cô lại không muốn. Cô và
chồng cô đã nhiều lần bàn tính với nhau về vấn đề này, đôi
lúc đã đi đến gay gắt và khó chịu. Nhưng kết quả là cô ta
vẫn không có con để bế, vì chồng cô không muốn. Một vài lần
cô đã tâm sự rằng, tôi rất thích có con, nhưng chồng tôi lại
không thích. Chồng tôi lý luận rằng có con chỉ làm cho nhà
cửa ồn ào, mất thứ tự. Vợ chồng không có thời giờ cho nhau,
và đôi khi làm cho tài chính và ngân quĩ gia đình thiếu hụt.
Chồng cô còn cho rằng, bản thân anh sinh ra trong một gia
đình mà bố mẹ không bao giờ cười với nhau. Con cái không bao
giờ ngừng tranh cãi, nhiều lần đã ẩu đả nhau. Những điều này
làm cho anh chán nản và không bao giờ muốn nghĩ đến việc có
con.
Trường hợp
3: Một cặp vợ chồng trẻ mà tôi quen biết cho đến nay vẫn
chưa có con. Người vợ
trẻ này cũng là một người rất thích có con. Ngược lại, chồng
cô lại không thích. Lý do đơn giản là có con, con sẽ khóc
đêm và như vậy sẽ làm anh mất ngủ. Tuy không thích con,
nhưng anh lại rất thích games và xe hơi. Xe hơi để anh o bế,
lau lọt, chùi rửa. Anh không bao giờ tỏ ra mệt mỏ trong việc
o bế chiếc xe của anh. Có thể nói, còn hơn nhiều người o bế,
và săn sóc con cái họ. Còn video games là trò giải trí mà
anh không thể thiếu. Vợ anh đã có lần tâm sự: “Anh ấy ôm
computer có khi còn kỹ hơn và nhiều hơn anh ôm em.” Và đó
cũng là lý do vợ chồng anh đã đi đến chỗ ly dị.
1. Hôn nhân
ngày nay:
Hôn nhân ngày nay đối
với nhiều người không gì hơn là một khế ước song phương giữa
hai người nam và nữ. Ý niệm về một khế ước dựa trên thực tế
rõ ràng là bao lâu những điều được ghi nhận trong khế ước
còn được tôn trọng, tôi và anh còn sống chung hòa bình, hạnh
phúc. Nhưng khi những mối lợi hoặc những điều được ghi trong
đó bị lợi dụng, bị tổn hại, thì bất bình, giằng co, và tranh
cãi sẽ nổi lên. Nếu may mắn những điều này được giải quyết
tốt đẹp, thì cuộc sống chung vẫn được duy trì, nhưng nếu
những bất đồng ấy không được giải quyết, thì quyết định sau
cùng sẽ là ly dị.
3 trường hợp trên chỉ
là tượng trưng cho những gì đang xẩy ra trong đời sống hôn
nhân gia đình ngày nay. Vì hôn nhân được đặt trên một khế
ước, nên để bảo vệ mình hoặc cả hai, phần lớn những cặp vợ
chồng trẻ ngày nay đã không nghĩ đến việc có con, hoặc cùng
lắm thì chỉ 1 hoặc 2 con. Điều này cho thấy tại sao vấn đề
ngừa thai, phá thai, hoặc hôn nhân đồng tính tuy là những
điều bị luân lý, đạo đức lên án, nhưng vẫn được đa số chấp
nhận. Ngược lại những gì mà luân lý, đạo đức ca ngợi, khuyến
khích lại bị nhiều người từ chối, chẳng hạn việc vợ chồng
chung thủy, việc cha mẹ phải có bổn phận và trách nhiệm sinh
thành, nuôi nấng, và dưỡng dục con cái.
Gần đây, Đại Học New
Jersey vừa phổ biến một tài liệu nói về thái độ đối với con
cái của những cặp vợ chồng người Hoa Kỳ. Theo tài liệu này,
thì con số những người bước vào đời sống hôn nhân mà không
có con hoặc sinh con trễ đang mỗi ngày một nhiều.
Cũng theo tài liệu
trên, thế hệ của chúng ta tức những người trên 50 tuổi, vấn
đề con cái là một phần quan trọng trong đời sống hôn nhân
gia đình, và việc có con sau khi lập gia đình là một việc hệ
trọng. Ở vào thế hệ cha ông chúng ta, hễ lập gia đình sau
một năm mà không có con là bị cho là có vấn đề. Ngược lại,
những người trẻ thuộc thế hệ gần đây thì con cái trong hôn
nhân không phải là một việc quan trọng, và do đó, những cặp
vợ chồng lấy nhau mà không có con càng ngày càng đông.
Theo Barbara Dafoe
Whitehead và David Popenoe, thì vấn đề nuôi dưỡng và giáo
dục con cái gần đây đang trở thành một đề tài tranh cãi. Đối
với nhiều người, có con không phải là một vấn đề hấp dẫn và
tạo hạnh phúc. Ngược lại, con cái chính là một ngãng trở
hạnh phúc hôn nhân của nhiều cặp vợ chồng.
2. Ý niệm về
con cái:
Vẫn theo thống kê trên,
nhiều phụ nữ cho rằng họ chỉ sẵn sàng có con khi hoàn cảnh
thuận lợi, và tương lai bảo đảm rằng việc có con là một cái
gì đem lại hạnh phúc. Và nếu họ chờ đợi cơ hội thuận lợi lâu
quá, thì phần lớn họ sẽ không nghĩ đến chuyện có con nữa.
Theo những người chủ trương không con, thì có con cũng không
phải là lý do giữ được vợ chồng khỏi ly dị. Vì thế, những ai
đang có trong đầu mình tư tưởng ly dị, phần lớn đều cố tránh
phải có con.
Theo tài liệu Văn Phòng
Thống Kê mà hai tác giả trên dùng để nghiên cứu thì:
- Năm 1970, số tuổi
trung bình của phụ nữ khi kết hôn là dưới 21. Ngày nay, tuổi
trung bình cho một phụ nữ kết hôn là 26 tuổi. Đối với những
phụ nữ có bằng cấp 4 năm đại học, số tuổi này dĩ nhiên cao
hơn.
- Năm 1970, có 73.6%
phụ nữ tuổi từ 25-29 đã có con và có ít nhất một con nhỏ
đang sống với họ. Năm 2000, con số này giảm xuống còn 48.7%.
Đối với nam giới cùng tuổi, năm 1970 có 57.3% sống với con.
Năm 2000 giảm xuống chỉ còn 28.8%.
- Năm 1960, có 71% phụ
nữ có con sau 3 năm đầu kết hôn. Đến 1990, con số này giảm
xuống chỉ còn 37%. Điều này cho thấy, khuynh hướng không có
con đang tăng vọt trong những cặp vợ chồng sau khi cưới
nhau.
- Năm 1970, có 27.4%
phụ nữ và 39.5% đàn ông lứa tuổi 50-54 có ít nhất một người
con tuổi vị thành niên sống trong gia đình. Con số này đến
năm 2000 chỉ còn 15.4% và 24.7%.
Phụ nữ không muốn có
con ngày càng gia tăng. Năm 1976, có khoảng 1/10 phụ nữ
không muốn có con, đến năm 2004, con số ấy là 1/5.
Thống kê cũng cho
thấy, con số các gia đình có con cũng giảm dần từ ½ ở năm
1960, đến nay lên đến 1/3, một tỷ lệ được coi là thấp nhất
trong lịch sử của Hoa Kỳ.
3. Lý do bào
chữa:
Một cách chung, trước
đây thời gian có con sau khi lập gia đình thường là ngắn sau
khi tốt nghiệp và sau thời gian lập gia đình. Một số ít sinh
viên sau khi tốt nghiệp sẽ học thêm lên; nhưng phần đông sẽ
kiếm một nghề rồi lo kết hôn và sinh con cái. Thời gian dành
cho việc sinh sản, nuôi nấng, và giáo dục con thường kéo dài
đến khoảng 50 hoặc 60 tuổi. Khi về hưu ở tuổi 65 là lúc
người ta an hưởng đúng nghĩa. Nghỉ ngơi không bận rộn công
việc và an vui với con, cháu. Hiện nay số người ở tuổi 50-60
mà có cháu đang từ từ tăng dần, vì con họ không lập gia
đình, mà nếu lập gia đình thì lại không muốn sinh con, hoặc
có con quá trễ. Thí dụ, một thanh niên trên 30 tuổi mới lập
gia đình, và chờ đến khoảng 35 hoặc hơn nữa mới có con, nên
kết quả là ông bà ở tuổi 50 hoặc 60 vẫn không có cháu bế.
-
Cá nhân chủ nghĩa:
Nhưng với trào lưu mới
ngày nay, thì thời gian dành cho riêng mình cả trước và sau
kết hôn đã tăng vọt. Những cặp vợ chồng không con được coi
là may mắn và hạnh phúc. Ngược lại, con cái đối với nhiều
người và nhiều cặp vợ ngày nay được gói gọn trong câu nói:
“Con là nợ. Vợ/chồng là oan gia”. Không những thế, người ta
đã cố tình tránh né hoặc không muốn vâng nghe lời của Thiên
Chúa: “Hãy sinh sản ra nhiều mặt đất và hãy làm chủ trái
đất. Hãy thống trị cá biển, chim chóc trên bầu trời và mọi
loài di chuyển trên trái đất” (Sáng Thế Ký 1:28). Một cách
dễ hiểu, là người ta không muốn có con.
Truyền thống văn hóa
Việt Nam vẫn coi trọng việc có con. Quan niệm này cho rằng
nhiều con, nhiều cháu là giầu sang, phú quý: “Đa tử, đa tôn,
đa phú quý.” Theo Khổng Học, không có con còn là một bất
hiếu, là một hình phạt: “Cây khô không lộc, người độc không
con”. Đó là lời châm biếm, mỉa mai của người Việt Nam dành
cho những ai không con cái. Nhận xét này tuy chủ quan, nhưng
không hẳn là không có ý nghĩa.
Đời sống không con,
ngày nay bắt nguồn từ quan niệm như một đời sống dành cho
chính mình. Một đời sống chú tâm vào cái tôi, và được coi là
lối sống ích kỷ “cá nhân chủ nghĩa”. Tôi biết một người khá
đầy đủ về vật chất và tài chánh, đã lập gia đình lâu năm và
chủ trương không có con. Nhà bà gồm 4 phòng ngủ, 1 cho vợ
chồng bà, 1 làm văn phòng cho chồng bà, 1 để dành tiếp đón
khách và bạn hữu, và 1 dành cho 2 con chó và 1 con mèo.
Nhiều lần tôi đã nghe bà than thở về sự mệt mã và tốn kém
cho việc chăm sóc 2 con chó và 1 con mèo mà bà vẫn thường
gọi là những đứa con cưng của bà. Theo bà, nào là tiền hớt
lông, tóc, cắt móng chân, và xỉa răng hàng tháng. Rồi tiền
mua thức ăn, tiền bảo hiểm, tiền bác sĩ mỗi khi chúng đau
ốm. Đã có lần tôi nói với bà: “Sao bà không sinh mấy đứa con
mà yêu thương, chăm sóc cho bõ công.” Nhưng dường như tiếng
“con” làm bà hoảng sợ. Và mỗi lần như vậy, bà đều phản ứng
một cách gay gắt: “Người ta có quyền có con, tôi có quyền
không có con”.
Ngoài ra, việc mang
thai, sinh nở đối với nhiều phụ nữ ngày nay còn mang ý nghĩa
tự quyết: thân xác tôi, tôi có quyền quyết định. Ngừa thai,
phá thai theo quan niệm của những phụ nữ này cũng nằm trong
quan niệm đó.
Trước đây được làm cha
mẹ là một vinh dự, hạnh phúc lớn lao. Nhiều phụ huynh không
ngại hy sinh tất cả vì con cái. Vất vả, lo lắng và hy sinh
bản thân mình miễn sao con cái an vui, hạnh phúc là mình
thấy hạnh phúc. Nhưng quan niệm ấy ngày nay đang từ từ thay
đổi. Hình ảnh những cha mẹ hy sinh cho con cái đang lu mờ,
trước hình ảnh những đôi vợ chồng trẻ dành thời giờ tại các
phòng trà, các câu lạc bộ, các cuộc du hý và du lịch. Đó là
chưa kể đến hằng chục triệu thai nhi mỗi năm bị chính cha mẹ
mình giết bỏ trước khi chúng được nhìn thấy ánh sáng mặt
trời, vì cha mẹ chúng không muốn mang trách nhiệm, và không
muốn hy sinh.
2. Trốn
tránh trách nhiệm giáo dục:
Việc giáo dục con cái
ngày nay cũng là một ngãng trở và đã khiến nhiều cha mẹ
không muốn có con hoặc không muốn có nhiều con. Những trẻ em
ngày nay mang các hội chứng tâm lý chậm phát triển như
Autism, Down Syndrome, hoặc ADHD tăng nhiều. Hằng trăm thứ
cám dỗ, và hằng trăm những thử thách của tuổi dậy thì, cộng
thêm những khắc nghiệt của đời sống, của công ăn việc làm
của cha mẹ khiến nhiều người không nghĩ đến việc có con.
Hình ảnh nhiều phụ huynh phải vác chiếu hầu tòa về mang tội
“hành hung con cái”, trong khi chính con cái mới là kẻ “hành
hung cha mẹ”vì những bướng bỉnh, mất dậy và vô lễ, coi
thường công ơn cha mẹ là mộtï trong những ám ảnh đối với
nhiều phụ huynh.
Thật ra, vấn đề giáo
dục không phải là một thách đố quá sức của bậc làm cha mẹ,
và việc con cái hư hỏng cũng còn tùy ở chính tư cách, quan
niệm và lối sống của cha mẹ nữa.
Một điều tương phản là
cha mẹ thì cho rằng con cái khó dậy, hư hỏng vì không vâng
lời mình. Ngược lại, những hồ sơ tâm bệnh, những hồ sơ của
thiếu niên phạm pháp lại tố cáo sự chểnh mảng, vô trách
nhiệm của những người làm cha mẹ. Câu nói: “Cha mẹ sinh con
trời sinh tính” chỉ có nghĩa đối với những cha mẹ coi thường
và lơ là trong vấn đề giáo dục con cái. Bầu khí gia đình cãi
vã, cha mẹ đánh chửi nhau là một bầu khí làm cho con cái
chán nản, bỏ nhà đi hoang. Đặc biệt là những cha mẹ làm
gương xấu cho con cái bằng chính quan niệm, lối sống, và tư
cách của mình.
Tuy nhiên, không ai
chối cãi rằng vấn đề giáo dục con cái ngày nay đang gặp phải
nhiều khó khăn do môi trường, hoàn cảnh, và những cám dỗ của
thế giới văn minh, vật chất.
Tóm lại, đời sống hôn
nhân ngày nay đang bị chao đảo vì bị lôi cuốn vào những tư
tưởng và lối sống phóng đãng, tự do và ích kỷ. Vì nền tảng
hôn nhân bị lung lay, sụp đổ, nên hệ quả của đời sống này là
gia đình cũng bị ảnh hưởng. Ảnh hưởng rõ ràng nhất là con
người ngày nay không muốn có trách nhiệm, nhưng chỉ muốn
hưởng thụ. Không muốn vất vả vun trồng cho thế hệ tương lai,
nhưng chỉ nhằm hưởng cái lợi trước mắt. Quan niệm và lối
sống này hoàn toàn khác với những gì mà Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI đã huấn dụ trong bài giảng lễ bế mạc Ngày Họp Mặt
Thế Giới Về Gia Đình lần thứ 5: “Bằng một tình yêu cha mẹ
chúng ta đã vui mừng đón nhận chúng ta và đã đồng hành với
chúng ta từ những bước đầu trong thế giới này, giống như dấu
chỉ của bí tích và sự tiếp nối tình yêu ân sủng của Thiên
Chúa, từ đó chúng ta vào đời”.
Cảm
nghiệm được đón tiếp và yêu thương bởi cha mẹ, theo Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI, “luôn là một nền tảng vững chắc cho
việc phát triển và lớn lên vững vàng, giúp chúng ta trưởng
thành trên con đường dẫn tới tình yêu, chân lý và vượt qua
chính chúng ta để tiến vào sự thông hiệp với người khác và
với Thiên Chúa”. Đó là những nét tích cực và cao cả của sứ
mạng làm cha mẹ. Rất tiếc con người ngày nay không quan tâm
nhiều đến những điều này, bù lại, họ sống và hưởng thụ một
cách ích kỷ.
Tiến Sĩ Trần Mỹ Duyệt |
VỀ MỤC LỤC |
|
MỞ rỘng cỬa lòng |
Tác Phẩm
CHÚA VẪN THƯƠNG
Lm. MICAE-PHAOLÔ TRẦN MINH HUY pss
8. MỞ rỘng
cỬa lòng
Chính Chúa đang đứng
ngoài, bạn hãy mở cửa ra cho Chúa, Chúa muốn dùng bữa tối
với bạn. Chúa chỉ xin bạn một điều, là bạn hãy mở cửa
lòng bạn ra, Chúa sẽ đổ vào đó tình yêu của Chúa.
Bạn hãy đến với Chúa
như trẻ nhỏ, đừng như người lớn, vì người lớn không biết làm
thế nào. Hãy đến với Chúa như trẻ còn măng sữa đang khát.
Bạn hãy đến như trẻ nhỏ, hãy đến với sự đơn sơ của trẻ nhỏ.
Bạn có một vị thượng tế
siêu phàm là Con Thiên Chúa, đã băng qua các tầng trời mà
đến với bạn. Bạn hãy giữ vững lời tuyên xưng Đức Tin. Không
phải là Chúa không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của bạn
đâu, vì Ngài cũng chịu thử thách về mọi phương diện như bạn.
Bởi thế bạn hãy mạnh dạn đến gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân
sủng để được xót thương và lãnh nhận ơn trợ giúp mỗi khi
cần.
Đâu là niềm hi vọng của
bạn? Đâu là lòng tin tưởng tín nhiệm của bạn? Đức Tin là bảo
đảm cho những điều bạn hy vọng, là bằng chứng cho điều bạn
không thấy. Chúa muốn rằng bạn liên kết mật thiết với Ngài,
từ chiều cho đến sáng, từ sáng cho đến chiều. Trong tất cả
những việc bạn làm, Chúa rất muốn bạn bám chặt ở bên Chúa.
Nếu bạn không muốn đến
gần bên Chúa, bạn hãy giữ lấy khoảng cách của bạn, đó là
chọn lựa của bạn. Bạn tự do. Nhưng bạn nên biết rằng Chúa
chờ đợi bạn đến gần bên Chúa, rằng bạn muốn tạo một con
đường cho mình, nhưng bạn không thể làm được một mình đâu!
Nếu bạn muốn gắn bó với
con đường của Chúa, thì đó là con đường viên mãn mà bạn chỉ
có thể làm được với Chúa, không phải với chỉ một mình bạn,
cũng không phải với một người nào khác. Bạn có muốn thiết
nghĩa với Chúa không? Chúa sẽ dọn đường, san bằng chướng
ngại. Chính lòng ao ước và quyết định của bạn là quan
trọng.
Chúa biết nỗi khó khăn
hiện giờ của bạn. Chúa biết là khó cho bạn trong lúc này.
Nhưng bạn hãy ở yên, bạn đừng lo lắng gì. Chúa sẽ chỉ cho
bạn con đường để thoát ra. Hiện giờ, bạn hãy ca ngợi Chúa.
Bạn hãy vui lên đi, vì Chúa là Chúa Trời của bạn, một Thiên
Chúa quyền năng, và Chúa sẽ chỉ cho bạn con đường. Bạn đừng
nhìn xuống bước chân bạn, nhưng hãy nhìn lên trời, chính
Chúa đang dẫn dắt bạn mà!
Bạn hãy sống đơn sơ với
Chúa. Bạn đừng làm cho cuộc sống ra phức tạp, bạn hãy
sống như đứa nhỏ với Ba nó, ông hằng yêu thương nó. Hãy tín
nhiệm vào Chúa và đừng sợ chi. Chỉ một mình Thên Chúa là
Chúa Trời Thật, và Chúa là Chúa Trời của bạn, bạn luôn luôn
được tự do để rút lui khỏi Chúa, hay để đến theo Chúa. Chúa
là một vị Thiên Chúa của Tự Do. Chúa quá tôn trọng mỗi
một thọ tạo của Chúa.
Bạn quá buồn là bạn
thiếu Đức Tin đó. Chúa đang bao bọc bạn. Chúa lặp lại cho
bạn, Lời Chúa nói cho bạn biết điều đó. Bạn đã thấy rằng
Chúa bao bọc bạn, nhưng bạn lại làm như thể Chúa không bao
bọc bạn, dường như bạn cô đơn một mình, hoàn toàn cô đơn,
một mình phải gánh vác tất cả mọi sự.
Bạn hãy mở to mắt bạn
ra, hãy mở rộng tai bạn ra, hãy đụng vào Chúa, hãy nhìn Chúa
hành động, và bạn sẽ reo vui, sẽ múa nhảy vì vui sướng.
Bạn làm như thể bạn cô
đơn là không đúng sự thật, bạn hãy biết rằng như vậy là bạn
thiếu hy vọng, bạn tưởng mọi sự nằm yên, không có gì thay
đổi cả. Đâu là Đức Tin của bạn vào Chúa? Chúa là Đấng tạo
nên những con tim mới, những bầu trời mới.
Bạn hãy reo vui, hãy
nhảy mừng lên vì Chúa là Chúa Trời của bạn, Thiên Chúa của
Niềm Vui và Tự Do. Và ngay chiều nay, Chúa muốn ban cho bạn
niềm vui của Chúa. Bạn hãy nhận lấy niềm vui của Chúa.
Bạn đừng kết án niềm
vui của kẻ khác, có những niềm vui sôi nổi bộc lộ ra ngoài,
có những niềm vui khác lại kín đáo nội tâm. Bạn hãy nhìn
người khác với lòng tốt, với hảo ý, mỗi người có cách của
mình, mỗi người có kinh nghiệm riêng của mình, và mỗi người
có cuộc sống riêng của mình với Chúa. Bạn đừng kết án, bạn
hãy nhận lấy niềm vui của Chúa.
Bạn hãy để cho mình
tràn ngập Thần Khí của Chúa, bạn hãy để cho bạn tràn ngập
tình yêu của Chúa. Chúa muốn làm cho bạn trở nên thật tốt
đẹp. Bạn đừng sợ gặp gỡ Chúa trong giây phút này. Bạn đừng
sợ gặp gỡ Chúa, hãy để cho Chúa đến gần bạn. Chúa đang có
mặt đây, Chúa đang đứng nơi cửa của bạn.
Cảm ơn bạn đã nghe
Chúa, cảm ơn bạn đã muốn thực hành Lời Chúa dạy, cảm ơn bạn
đã đến với Chúa không ngừng. Bạn hãy gìn giữ cẩn thận những
gì Chúa đã ban cho bạn, Lời của Chúa và niềm vui của Chúa,
bạn hãy sống triệt để. Đó là kho tàng Chúa ban cho bạn, nó
sẽ chiếu sáng cho nhiều người, nếu bạn để cho nó tăng
trưởng.
Cảm ơn bạn đã mở cửa
cho Chúa, cảm ơn bạn đã mở một cánh cửa, cho dù không phải
là cửa chính… Nhưng ngay cả khi đó chỉ là một cánh cửa phụ,
Chúa cũng sẽ ngang qua cánh cửa đó mà vào với bạn. |
VỀ MỤC LỤC |
|
THÓI QUEN TỐT, XẤU
|
Mỗi khi ngồi vào xe, ông Phương đều với
tay cài dây an toàn, điều chỉnh ghế ngồi và kính chiếu hậu
để nhìn phía sau cho rõ rồi mới tra chìa vào ổ khóa, rồ máy
xe. Cẩn thận như vậy là vì ông đã nhiều lần lãnh giấy phạt
vì quên cài nịt an toàn.
Cụ Vĩnh thì sau mỗi bữa ăn đều thả rong
bách bộ trong sân mươi phút, để “cho nó tiêu cơm”, cụ nói
vậy.
Còn cô Lan thì trước khi đi dự dạ hội
với người yêu, rềnh ràng cả giờ đồng hồ tô môi, bôi phấn, kẻ
lông mày, chải tóc, thử quần áo… Tình lang sốt ruột, ra vào
hút hết gần nửa gói thuốc, nhắc khéo. Thì lần nào cô cũng
ngúng nguẩy làm mặt giận.
Các hành vi đó đã tiêm nhiễm vào nếp
sống của các nhân vật vừa kế từ nhiều năm và đã trở thành
thường xuyên đối với họ. Họ thực hiện một cách tự nhiên, máy
móc, không suy nghĩ sau thời gian dài học hỏi, bắt chước
hoặc do kinh nghiệm bản thân. Họ đã tạo ra một số “Thói
Quen”.
Riêng cô Lan thì vừa có thói quen hành động rềnh rang lại
còn tật phản ứng làm nũng, bực mình đối với người yêu.
Tự điển Việt Nam của tác giả Lê Ngọc
Trụ định nghĩa “thói quen” là “Việc làm thường thành tật,
bắt buộc làm hoài”.
Tác giả Nguyễn Như Ý trong Đại Từ Điển
Tiếng Việt giải thích “Thói quen” rõ ràng hơn như sau:
“Lối, cách sống hay hành động do lặp lại lâu ngày trở thành
nếp, rất khó thay đổi”.
“Bắt buộc làm hoài” hoặc “thành nếp khó
thay đổi” nói lên tính cách lâu dài và không tự chủ khi các
thói quen đã thành hình.
Nhà Tâm lý học John F. Tristany:
“Thói quen là một loạt những hành vi thâm căn cố đế do học
hỏi mà có và được liên tục củng cố bởi các yếu tố môi
trường, cảm xúc và tâm lý. Nó dựa trên nguyên tắc khoái lạc
của con người là chỉ muốn có niềm vui và tuyệt đối tránh khó
khăn, đau khổ”.
Bản tánh của con người đều giống nhau,
nhưng bởi nhiễm thói quen thành ra khác nhau”. Người mình
vẫn thường nói “Nhân chi sơ, tính bản thiện”.
Thói quen mạnh “ăn sâu” khi hành động
nhắc lại nhiều lần, khi cá nhân cảm thấy thích thú với hành
động. Ngược lại khi quyết tâm loại bỏ thì thói quen sẽ giảm
dần hoặc hết đi.
Thói quen rất dễ lây lan, bắt chước.
Mignon McLaughin đã ví von “Trong gia đình, thói quen lan
nhanh hơn là bệnh sởi”.
Thói quen có thể tốt hoặc xấu.
Xấu như tập tành bắt chước hút thuốc lá
đến nỗi ho xù xụ, khò khè hen suyễn rồi ung thư phổi.
Sáng sớm vừa mới tới sở là đã lấm lét
thầm thì gossip nói xấu, kể lể chuyện riêng tư người khác.
Hơi một tý là gắt gỏng với con.
Nhiệm vụ phải hoàn tất mà cứ chần chừ
trì hoãn, gây ra thiệt hại.
Cứ ra tới chợ là phải sà vào hàng bún
ốc làm một tô đầy mới an tâm mua bán…
Thói quen tốt cũng nhiều và rất đáng
khuyến khích tạo ra nhiều hơn.
“Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, “Ăn
ba phần đói, bẩy phần no” là thói quen tốt để tránh mập phì.
Trước khi băng qua đường, có thói quen
nhìn phải trái để tránh xe đụng.
Trong việc dinh dưỡng, ngủ nghỉ có thói
quen điều hòa, vừa phải.
Các cụ ta vẫn thường nói “đẹp đẽ
khoe ra, xấu xa đậy lại”. Nhưng với thói quen, nếu xấu,
nếu ảnh hưởng tới nếp sống, tới giao tế xã hội, tới sức khỏe
thì cũng nên thay đổi, loại bỏ càng sớm càng tốt.
Vì theo Samuel Johnson “Mới đầu,
những mắt xích của thói quen quá nhỏ để nhận ra, cho tới khi
chúng quá lớn thì khó mà tháo gỡ”.
Ngạn ngữ Tây Ban Nha có câu:
“Thói quen ban đầu là mạng nhện, sau là
dây cáp”
Somerst Maugham đã có kinh nghiệm rằng:
“Điều bất hạnh ở cõi đời này là chúng ta từ bỏ thói quen
tốt dễ dàng hơn là loại bỏ thói quen xấu”.
Bỏ thói quen xấu
Bỏ một thói quen xấu không phải dễ
dàng. Lý do là thói quen đã được thành hình sau cả chục năm
làm đi làm lại, đã trở nên “tự nhiên”, có vẻ như cần thiết
với con người.
Quen ăn mặn, uống nhiều rượu bia, ngại
vận động, sống bê tha hoang loạn… từ tuổi thiếu niên mà khi
thức tỉnh muốn bỏ ở tuổi trung niên, cũng cần thời gian cả
tháng, có khi cả năm. Và cũng cần một sự sáng suốt, kiên
nhẫn với một kế hoạch cụ thể, thực tế.
1. Cân nhắc điều hơn lẽ thiệt
Ngoài sự quyết tâm, cũng cần thời gian
và nghị lực để tập trung vào hành vi của mình, rồi thay đổi
Trước khi muốn từ bỏ một thói quen xấu,
hãy đặt câu hỏi tại sao phải bỏ, không bỏ thì sao. Xác định
coi mình có thực tâm muốn loại bỏ thói xấu đó không. Thay
thế bằng thói quen tốt nào.
Liệt kê lợi hại của thói quen lên một
tờ giấy trắng, lâu lâu coi lại để tự nhắc nhở.
Hút thuốc lá cho cảm giác thoải mái,
giúp suy nghĩ dễ dàng, coi có vẻ trưởng thành “người lớn”.
Nhưng nếu bỏ thuốc lá thì tránh được
rủi ro ung thư, con cái không bị ảnh hưởng xấu vì hít phải
khói thuốc dư, tiết kiệm được hơn 4 mỹ kim mỗi ngày cho một
bao thuốc. Và thuốc lá là thủ phạm của 35% tử vong của loài
người….
2. Bắt tay hành động
Muốn bỏ tật xấu không phải dễ, vì tạo
ra tật xấu thì dễ mà thay đổi nó thì khó hơn rất nhiều.
Nhưng vạn sự khởi đầu nan. Khi đã quyết định thì nên hành
động ngay.
Leo Aikman có nói:
“Thói quen xấu nên loại bỏ ngay ngày
hôm nay hơn là đợi tới ngày mai. Cách tốt nhất để loại bỏ
thói quen là hãy thẳng tay ném nó đi”.
Vì “Nếu không chống lại, thói quen
sớm trở thành sự cần thiết”, theo St Augustine
Khi dã quyết định bỏ thuốc lá thì ném
tất cả những điếu thuốc lá có trong nhà, trong xe, tại sở
làm.
Đừng tiếc nuối: để lại vài điếu nhỡ khi
cơn ghiền hành thì hít vài khói cho đỡ ngáp ngắn ngáp dài.
Hoặc để đó mai cho anh hàng xóm kẻo ném đi, phí của trời…
3. Loại bỏ “quyến rũ”
ngựa quen đường cũ của người muốn bỏ
thuốc lào, “đã chôn điếu
xuống lại đào điếu lên”.
Miếng thịt nướng hôm nay ngon tuyệt,
hay là ta làm một điếu thuốc lá cho thêm thú vị… Đang bí
nguồn cảm hứng viết bài, hít vài khói thuốc cho có “yên sĩ
phi lý thuần” inspiration.
4. Thay thế thói quen xấu bằng thói
quen tốt
Gandhi có nói, đừng bao giờ thay đổi
một điều gì cho tới khi chắc chắn là điều mới tốt hơn điều
mà mình muốn thay thế.
Thay vì điếu thuốc lá để có nguồn cảm
hứng thì bước ra ngoài thở hít không khí trong lành, thư
giãn tâm trí vài ba phút. Hoặc thưởng thức vị ngọt của mấy
miếng cam cho dịu miệng, tỉnh táo.
5. Kêu gọi sự hỗ trợ của gia đình, bạn
bè.
Cho họ hay là mình đang bỏ thuốc lá để
họ tiếp tay, khích lệ, nhắc nhở khi “cầm lòng chẳng đặng”
trước khói thuốc cuộn tròn bay trong không gian
6. Ghi diễn tiến cuộc xóa bỏ thói quen
xấu
Có bị cơn “thèm” hóa chất nicotine hành
không. Làm gì để vượt qua cơn hành thuốc đó. Từ ngày bỏ
thuốc lá, trong người thấy ra sao. Còn ho khan, còn khò khè
không. Trẻ con trong nhà có thấy thoải mái, không “ngộp thở,
hắt hơi” vì khói thuốc, không nhăn mũi vì mùi hôi của
nicotine trên mùng màn, quần áo.
7. Tự tán thưởng,
khích lệ khi đã lấy lại được quyền “kiểm soát” hành động chứ
không thụ động, chiều lòng tật xấu.
Với số tiền không mua thuốc lá, ta đưa
gia đình đi ăn bữa cơm chay thanh tịnh, vừa nhẹ nhàng, dễ
tiêu lại vừa ít cholesterol, không sợ tắc nghẽn động mạch,
suy tim, tai biến não.
8. Nếu chẳng may vướng
lại thói quen cũ thì đừng tự dày vò,
thoái chí buông xuôi mà bình tâm tìm hiểu lý do tái phạm rồi
cương quyết đối phó.
Thèm một điếu thuốc ư?
Hãy nghĩ tới những cơn hen ho khó thở
đã xảy ra hoặc những rủi ro ung thư có thể đến.
Cũng hãy nghĩ tới mấy tuần lễ không hút
thuốc trong người khoan khoái làm sao.
Rồi kiên tâm với kế hoạch bỏ thuốc.
9. Gia nhập nhóm “đồng
bệnh” để “tương lân”
Thói quen xấu có nhiều, mà người mắc
phải cũng vô số.
Cho nên đã có những nhóm, những hội
người có thói quen xấu. Họ đến với nhau để kể lể nỗi lòng,
nói cho nhau nghe nguyên do đưa tới thói quen xấu, hậu quả
ra sao và bây giờ muốn gì. Họ hỗ trợ nhau, tiếp tay với nhau
để cùng nhau thay đổi, “xóa bỏ tật xưa”.
Kết luận
Thói quen do hành động cá nhân tạo ra
chứ không là bẩm sinh.
Nhiều ngàn năm về trước, hiền triết
Khổng Tử có viết: “Tánh tương
cận dã, tập tương viễn dã. Ý nói là con người bản tính đều
giống nhau, nhưng bởi nhiễm thói quen thành ra khác nhau”.
Thói quen tốt thì nên giữ nhưng nên sớm
loại bỏ những thói quen xấu, có ảnh hưởng không tốt cho đời
sống.
Như George Bernard Shaw góp ý:
“Người thành công ở đời tìm kiếm
những hoàn cảnh lý tưởng và nếu họ không tìm thấy thì họ sẽ
tự tạo ra”.
Bác sĩ
Nguyễn Ý-Đức
Texas- Hoa Kỳ. |
VỀ MỤC LỤC |
NHỮNG NẺO ĐƯỜNG
CÔ ĐƠN Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Gã chẳng cần
phải nói thì bàn dân thiên hạ cũng đã biết : Xã hội Việt Nam
ngày xưa là một xã hội sống bằng nghề nông. Mà đã sống bằng
nghề nông thì cần phải có nhiều người, thì mới kham nổi
những công việc nặng nhọc nơi đồng áng.
Vì thế, các cụ
ta rất coi trọng việc dựng vợ gả chồng cho con cái :
- Đi thi, cưới
vợ, làm nhà,
Trong ba việc
ấy, thực là khó khăn.
Ngoài những
trường hợp tảo hôn, nghĩa là lấy nhau quá sớm, do cha mẹ đôi
bên thỏa thuận và đính ước với nhau, ngay khi một người hay
cả hai vẫn còn là những đứa con nít :
- Bồng bồng
cõng chồng đi chơi,
Đi đến chỗ
lội đánh rơi mất chồng.
Còn bình
thường, tuổi dành cho hôn nhân đã được qui định rõ ràng :
- Gái thập tam,
nam thập lục. Có nghĩa là gái mười ba, giai mười sáu là lý
tưởng nhất.
Vì thế, con gái
mà bước vào tuổi “hăm” mà vẫn còn cô đơn lẻ bóng thì quả là
một vần đề nan giải.
Trước hết,
chính đương sự sẽ phải âu lo thắc thỏm :
- Bắc thang lên
đến tận trời,
Bắt ông
Nguyệt lão đánh mười cẳng tay.
Đánh thôi,
lại trói vào đây,
Hỏi ông
Nguyệt lão : Nào dây tơ hồng ?
Nhưng có lẽ
những người băn khoăn xao xuyến hơn cả chính là cha mẹ của
cô gái. Nỗi băn khoăn xao xuyến này được diễn tả một cách
rất cụ thể như sau :
- Có con gái
nhớn trong nhà, chẳng khác gì như chứa một trái bom nổ chậm,
chẳng biết nó sẽ phát nổ lúc nào ?
- Có con gái
nhớn trong nhà, chẳng khác gì như chứa một hũ mắm tôm, chẳn
biết nó sẽ…xì ra lúc nào.
Vì thế, hễ có
người dạm hỏi, là những bậc làm cha làm mẹ chỉ muốn gả phứt
đi cho xong, như trút được một gánh nặng. Thậm chí có một
vài người còn chơi trò đánh lận con đen để giải quyết vấn
đề.
Thực vậy, trong
gia đình cô em thường đẹp hơn cô chị. Thế nhưng, nếu cô chị
chưa “theo chàng về dinh” thì chắc chắn sẽ xảy ra nạn…kẹt
xe, ùn tắc giao thông, khiến cho các cô em cứ bị tồn kho,
khó có người dám dòm tới.
Hơn thế nữa,
thời bấy giờ các cụ ta triệt để áp dụng nguyên tắc luân lý
của Khổng Mạnh, đó là “nam nữ thọ thọ bất thân”, thậm chí có
những đôi tới khi lấy nhau mà vẫn còn chưa biết mặt nhau,
chứ không như thời buổi bây giờ, “nam nữ cọ cọ rất là…giật
gân”, chưa lấy nhau mà xem ra như “con ong đã tỏ đường đi
lối về”.
Trong một nhà
kia, bố mẹ sinh một mạch được những ba bốn cô con gái, bị
mồm mép thiên hạ gán cho cái tên là “lũ vịt giời”. Giải
quyết hết cái lũ vịt giời này cũng làm cho cụ ông cụ bà đau
đầu và nhức óc.
Vì thế khi có
người đến coi mắt, thì ông bố bà mẹ đưa cô em ra trình diện
với bàn dân thiên hạ. Còn khi tới nhà thờ làm lễ cuới thì
lại đánh tráo cô chị vào chỗ cô em…Và rồi mọi chuyện cũng đã
được kết thúc một cách rất tốt đẹp, giống như lời một ông bố
kia đã phát biểu :
- Tao với mẹ
chúng mày ngày xưa làm gì có tìm hiểu, làm gì có thông cảm
với nhau, ngay cả cái bản mặt của nhau cũng chẳng biết nữa
là, thế mà vẫn ăn ở đời kiếp với nhau và đẻ ra chúng mày rầm
rầm ấy. Còn chúng mày bây giờ sao mà bày đặt quá.
Đã lấy nhau
rồi, thì phải cố gắng mà sinh nở, đẻ càng nhiều càng tốt, để
mai mốt chẳng những có người nối dõi tông đường, mà nhất là
có những người kề vai gánh vác những công việc nặng nhọc.
Vì thế,trong
những dịp đầu xuân năm mới người ta thường cầu chúc cho nhau
:
- Đa tử, đa
tôn, đa phú quí.
Hay :
- Đông con,
nhiều cháu, sống lâu tới ba bốn đời.
Nhất là đối với
những anh chị vừa lập gia đình, mà đi tết mới, thế nào cũng
được thiên hạ cầu chúc :
- Đầu năm sinh
con giai, cuối năm sinh con gái.
Chứ không theo
kiểu nhà nước bây giờ phát động chương trình hạn chế dân số
và kế hoạch hóa gia đình :
- Dù gái hay
trai, chỉ hai là đủ.
Quá chỉ tiêu
này, coi chừng bị giáng chức và bị phạt tiền…ngu nữa là đàng
khác.
Vì chủ trương
thoải mái đẻ, vô tư đẻ, thậm chí đẻ cho hết…trứng thì mới
thôi. Vì thế, gã biết một vài anh bạn, con cái thật đông
đúc, cứ y như phim Hồng Kông nhiều tập : sổ gia đình công
giáo một cuốn chẳng đủ, thì xin ghi tiếp cuốn hai, cuốn ba
và khi tới bữa cơm phải tập họp điểm danh xem còn sót đứa
nào vì mải chơi chưa chịu về hay không ?
Và cũng có
những cô gái đã lâm vào cảnh :
- Lấy anh từ
thuở mười ba,
Đến năm mười
tám, thiếp đà năm con.
Ra đường
thiếp hãy còn son,
Về nhà thiếp
đã năm con với chàng.
Tuy nhiên, như
gã đã trình bày : thế gian và lòng người ngày nay đã ra
khác, và dường như thiên hạ muốn đi ngược lại với những điều
cha ông ngày xưa đã từng sống.
Chẳng hạn như
ngày xưa càng đông con càng tốt, còn ngày nay càng ít con
càng hay.
Chẳng hạn như
ngày xưa thành vợ thành chồng rồi, thì sinh con đẻ cái, còn
ngày nay một số người chủ trương “hôn nhân thử”, sống tạm
với nhau một thời gian, hợp thì tiến tới, bằng không thì
đường ai người ấy đi.
Rồi lại còn
muốn có con mà không cần tới ông chồng hay bà vợ, đứa con
chỉ có một người mẹ, hay một người cha mà thôi.
Riêng dân choi
choi mới nhớn thì lại thích ăn cơm trước kẻng.
Chẳng hạn như
ngày xưa người ta chủ trương lấy vợ lấy chồng càng sớm càng
tốt, còn ngày nay lấy chồng lấy vợ càng muộn càng hay, thậm
chí có những người muốn ngãng ra, chẳng còn thích lấy vợ lấy
chồng nữa.
Chính vì thế,
chủ nghĩa độc thân đang có xu hướng gia tăng và liên tục
phát triển tại nhiều nơi trên thế giới. Vậy đâu là những nẻo
đường cô đơn cho những bước chân âm thầm ? Đâu là những lý
do hấp dẫn khiến cho một số người đầu quân vào binh
chủng…phòng không ? Đâu là những nguyên nhân làm phát sinh
và phát triển chủ nghĩa độc thân ?
Dĩ nhiên là có
rất nhiều nẻo đường, rất nhiều lý do, rất nhiều nhiều nguyên
nhân dẫn tới tình trạng trên, nhưng gã chỉ xin trình bày đôi
ba điểm chính yếu mà thôi.
Một là
điều kiện bản thân hơi bị…thấp.
Về phía con gái
thì chẳng may “trời bắt xấu”. Hình dong và tướng mạo bên
ngoài cứ như Thị Nở trong truyện Chí Phèo của Nam Cao, hay
như cô gái Sơn Tây được ca dao ưu ái đã diễn tả :
- Cô gái Sơn
Tây, yếm thủng bằng giần,
Răng đen hạt
nhót, chân đi cù lèo.
Tóc rễ tre
chải lược bồ cào,
Sù sì da cóc,
hắc lào tứ tung.
Trên đầu chấy
rận như sung,
Rốn lồi quả
mít, má hồng trôn niêu.
Còn về phía con
giai, thì lâm vào tình trạng thất nghiệp, hay có nghề nghiệp
nhưng thu nhập lại quá kém, thành thử chẳng ma nào đoái nhìn
tới, bởi vì rút tỉa từ kinh nghiệm cuộc sống, thiên hạ đã
đưa ra một cái vòng tròn, tựa vào nhau và chi phối lẫn nhau
:
- Anh đờn ông
kiếm tiền để nhử chị đờn bà, chị đờn bà lấy nhan sắc để nhử
anh đờn ông và anh đờn ông nai lưng ra kiếm tiền để nhử chị
đờn bà, rồi cứ thể mà luẩn quẩn với nhau.
Đôi khi vì ông
bố quá nghiêm khắc hay bà mẹ quá dữ dằn, chỉ kém sư tử Hà
Đông có một chút xíu, nên bàn dân thiên hạ rất ngao ngán,
chẳng ai dám nhào vô kiếm ăn cả.
Hai là
tiêu chuẩn kén chọn hơi bị…cao.
Đối với hạng
người này, thì điều kiện bản thân không bị kém, đôi khi còn
tuyệt vời nữa là đàng khác : tiền bạc rủng rỉnh, có chức có
tước ngoài xã hội…Thế nhưng, họ cứ chọn mãi chọn hoài mà vẫn
chẳng tìm thấy được một người yêu lý tưởng cho con tim của
mình, thành thử có khi tuổi đời đã xế bóng mà vẫn cứ đi sớm
về khuya một mình.
Báo chí đã nói
nhiều về vấn đề này. Gã xin lượm lặt để bàn dân thiên hạ đọc
cho vui.
Trước hết là về
phía đờn ông con giai.
Báo Phụ Nữ chủ
nhật số 29 ra ngày 30 tháng 7 năm 2000, có một bài viết mang
tựa đề “Anh tôi ê…sắc” của Nga Bích như sau :
Những ấn tượng
về phụ nữ với anh coi bộ ghê gớm.
Anh bảo “cái nết đánh
chết cái đẹp” đã xưa rồi, con gái bây giờ thích cạnh tranh,
con gái bây giờ thích tùm lum. Tôi bảo với anh :
- Tại anh khó quá.
Anh nóng mũi :
- Em đi với anh một tuần
lễ là biết liền hà.
…Một buổi sáng đẹp trời,
anh tôi và tôi đang ngồi ăn sáng trong một tiệm phở. Anh
nghiêm túc tằng hắng và chỉ cho tôi một cô gái có thân hình
mảnh mai đang ngồi cách bàn chúng tôi chỉ một khoảng thôi.
Cô ta đang thơ thẩn mơ màng, ngồi gần như bò xoài ra bàn. Và
trời ạ, cô ta “xì tin” thời trang Hàn Quốc với một chiếc áo
lửng và quần jeans lưng trễ, phần lưng phía dưới nhô lên một
khúc độ 3 đốt ngón tay là khúc ren mỏng tong teo của
cái…quần sịp. Bởi vì quần trễ, lưng quần hở ra một khúc mà
lị. Giũa thanh thiên bạch nhật như vậy, tôi dòm vô cũng đủ
ngượng chín mặt, thế mà người đẹp vẫn cứ tỉnh bơ, tay uể oải
bưng ly nước cam nhấp nháp.
Một lần nữa, anh em chúng
tôi đi siêu thị Nhật Nam, trong lúc khoan khóai đẩy xe đi
lựa nước trái cây đóng hộp thì gặp một tốp các cô gái trẻ.
Các cô tò mò nhìn vào xe chúng tôi và reo lên :
- Có nước trái đào kìa.
Một cô cười toe tóet và
thọc sâu vào xe chúng tôi, cầm lon nước lên săm soi :
- Anh mua ở đâu vậy ?
Anh tôi mỉm cười :
- Ở quầy trong kia kìa.
Một cô vẫn cười toe :
- Ở trỏng xa quá, tụi em
lấy của anh nghe.
Miệng nói, tay bỏ mấy hộp
nuớc vào giỏ của mình đi cái rụp. Nụ cười của anh tôi bỗng
trở thành thiểu não, anh nhìn tôi :
- Đấy em xem, con gái bây
giờ rất tự nhiên.
…Rồi một ngày, tôi và anh
thong thả đi trên đường, phía trước là hai cô gái mặc áo bà
ba, quần đen, dáng dấp rất nền nã. Anh tôi chặc lưỡi :
- Đã lâu không gặp, nhìn
đẹp quá.
Nhưng khi tới gần, thấy
hai cô đang vui vẻ hàn huyên, một cô bỗng :
- Đ.M.
Và cô kia đáp lại cũng y
như thế. Anh tôi bỗng sa sầm nét mặt :
- Đồ gà móng đỏ.
…Má tôi thở dài :
- khó tính khó nết, chừng
nào mới có bồ đây.
Anh tôi tỉnh bơ đáp :
- Khi nào gặp một cô gái
biết đỏ mặt trước sự lộ liễu.
Tôi không dám nói, nhưng
trong mắt anh tôi, con gái biết mắc cở, biết nhu mì e ấp thì
hình như bây giờ hơi bị…hiếm. Và anh tôi ê sắc dài dài thôi.
Một ông giáo đã 62 tuổi,
nhưng lại muốn chọn một đối tượng vừa trẻ, vừa đẹp, vừa thu
nhập cao, lại vừa có năng lực lớn. Có lần bạn bè giới thiệu
cho ông một cô giáo tiểu học, thế mà ông ấy lại còn muốn tới
trường của cô giáo để nghe giảng, hầu kiểm tra năng lực,
khiến cho người bạn không còn dám tiếp tục giúp đỡ ông ấy
nữa.
Tiếp đến là về phía đờn
bà con gái.
Hình như cũng trên báo
Phụ nữ Chủ nhật, tác giả Thiên Thạch đã đưa ra một vài
trường hợp điển hình cho tiêu chuẩn kén chọn hơi bị cao như
sau :
Có một cô gái rất xinh,
nhưng không hiểu sao từ lúc tôi biết cô ấy đến giờ, đã tròn
sáu năm, mà chưa thấy cô ấy có một người bạn trai. Mấy đứa
bạn thấy cô ấy suốt ngày cứ đi hết với nhỏ này tới nhỏ khác
mà không thấy “anh” nào cả, cũng ái ngại, nên đã giới thiệu
cho cô ấy một vài người. Người nào cũng đàng hoàng tử tế,
nhưng người nào cũng bị cô ấy cũng chê. Người thì lùn quá,
người thì cao quá, người thì bị loại khỏi vòng chiến chỉ vì
lỡ được sinh ra trong một gia đình…nông dân.
Cứ thế và cứ thế, nên đến
giờ này cô ấy vẫn còn “liêu xiêu con đường nhỏ” đi về.
Những cô gái đại loại như
vậy, đa số đều học hành đến nơi đến chốn, gia đình tương đối
khá giả, ngoại hình tuy không sắc nước hương trời, nhưng
cũng đủ mặn mà, có duyên, đủ để đánh gục được khối chàng
trai hơi kiêu kỳ một chút.
Các cô ấy cứ đinh ninh
trong đầu rằng :
- Cỡ như mình, chắc chắn
phải lấy được một anh chồng ngon lành.
Vì vậy, các cô ấy cứ chọn
lựa, chọn lựa và chọn lựa để rồi mang tiếng “ê sắc” lúc nào
cũng không hay, còn vị hoàng tử trong mộng của các cô ấy cứ
biền biệt tận phương nao, thì chỉ có trời mới biết được mà
thôi.
Đây cũng là một kinh
nghiệm để đời mà các cụ đã nói tới :
- Già kén, kẹn hom.
Hay ca dao cũng đã diễn
tả :
- Đi đâu mà chẳng lấy
chồng ?
Người ta lấy hết, chổng
mông mà gào.
Gào rằng : Đất hỡi trời
ơi!
Sao không thí bỏ cho
tôi chút chồng.
Ông trời ngoảnh mặt mà
trông :
Mày hay kén chọn, ông
không cho mày.
Để kết thúc về tiêu chuẩn
kén chọn hơi bị cao này, gã xin kể lại một mẩu chuyện cổ
tích tây phương như sau :
Người ta hỏi một ông già
cô đơn :
- Tại sao lại không lập
gia đình ?
Ông già cô đơn bèn kể lể
về cuộc đời ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh của mình :
Tôi đã dành trọn thời
gian của tuổi thanh xuân để tìm kiếm một người đờn bà hoàn
hảo. Tại Cairô, thủ đô nước Ai Cập, tôi đã gặp một người đờn
bà vừa trẻ đẹp lại vừa thông minh, nhưng rất tiếc người đờn
bà này chẳng có được một chút dịu hiền, nàng hung dữ như bà
chằng lửa.
Tôi đành bỏ Cairô mà tìm
đến Bagdah, thủ đô nước Irak, với hy vọng tìm ra người đờn
bà lý tưởng của lòng tôi. Tại đây, tôi đã gặp một người đờn
bà đúng như lòng tôi mong ước. Nàng vừa trẻ đẹp lại vừa
thông minh, vừa quảng đại lại vừa dịu hiền. Chỉ kẹt một nỗi,
đó là hai đứa chúng tôi chẳng bao giờ nhất trí được với nhau
về bất cứ chuyện gì. Hễ ngồi tâm sự với nhau là bắt đầu cãi
vã, ông nói gà bà nói vịt, trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
Vì thế, tôi đành phải chào thua.
Và như vậy, hết người đờn
bà nọ tới người đờn bà kia. Kẻ được điều này, người mất điều
khác. Tôi như kẻ đốt đuốc đi tìm người yêu lý tuởng, mà
dường như chẳng bao giờ thấy.
Thế rồi một hôm tôi gặp
được nàng, người đờn bà của mơ uớc. Nàng đã kết hợp được tất
cả những đức tính mà tôi thầm vẽ ra trong đầu óc. Vừa trẻ
đẹp lại vừa thông minh, vừa quảng đại lại vừa dịu hiền, vừa
tế nhị lại vừa ăn ý với tôi ngay cả trong những điều nhỏ mọn
nhất. Nhưng cuối cùng, tôi vẫn cứ phải gân cổ lên mà ca
solo, cam chịu cảnh gối chiếc suốt đời. Các bạn có biết tại
sao không ?
Trong lúc mọi người suy
nghĩ, ông già cô đơn đáng thương khẽ kéo một hơi thuốc lá,
rồi kể tiếp :
- Sở dĩ như thế là vì
người đờn bà ấy cũng đang đi tìm một người đờn ông lý tưởng.
Và thật chẳng may cho tôi, bởi vì dưới mắt nàng, tôi chỉ là
một thằng đờn ông tồi với biết bao nhiêu thói hư tật xấu.
Rồi ông già cô đơn đã
khuyên nhủ cánh trẻ với một cung giọng hơi bị cay cú :
- Đi tìm một người yêu lý
tưởng, một người tình hoàn hảo chỉ là một việc làm hão huyền
và vô ích mà thôi, bởi vì người yêu lý tưởng và người tình
hoàn hảo ấy làm gì tồn tại được trên trái đất này. Nhân vô
thập toàn. Đã mang lấy thân phận con người, ai mà chẳng có
những sai lỗi và khuyết điểm.
Sau cùng, ba là đã
bị tình yêu đá lên đá xuống, làm cho sứt đầu xẻ tai.
Nói cách khác là đã từng
mang lấy ít nữa một vết thương quá sâu và quá đậm trong tình
yêu.
Còn nói cách cụ thể là đã
bị thất bại và tan vỡ trong tình yêu, chẳng như bị người
tình đầu tiên lừa gạt cho leo cây cái rụp, hay chọn lầm phải
một anh chàng sở khanh, đã quất ngựa truy phong, vội vã bỏ
trốn, sau khi đã ưu ái tặng cho nàng một dấu ấn tàn đời…Do
đó nảy sinh tâm lý sợ hãi tình yêu, thậm chí còn oán hận một
cách mãnh liệt đối với người khác giới.
Giống như con chim một
lần bị sập bẫy hay bị trúng tên, nhưng may mắn thoát chết,
nên bây giờ nhìn đâu cũng thấy nguy hiểm, để rồi lúc nào
cũng phải đề cao cảnh giác và sẵn sàng chống đối…
Thí dụ cô gái nọ yêu một
chàng trai tha thiết, cả hai đã tính đến chuyện cưới xin.
Nhưng đùng một cái, vì lý do không hạp nhau, anh chàng đã
nói lời chia tay. Kể từ đó, cô ấy không còn rung cảm với bất
kỳ một người đờn ông nào nữa. Chẳng biết thời gian sắp tới,
cô ấy có “rung” lại được nữa hay không và khi nào thì
“rung”, chứ đợi tới lúc trở thành bà lão rồi mới “rung” được
với một ông lão thì tiêu đời cô ấy mất thôi.
Cũng có những người chỉ
vì nhìn thấy cảnh đổ vỡ ngay trong chính gia đình của mình,
chẳng hạn ông bố đèo bồng bồ nhí, bà mẹ san sẻ tình yêu với
kép nhỏ, để rồi tan đàn xẻ gánh, đường ai người ấy đi, cho
con cái bơ vơ lạc lõng.
Hay chỉ vì nhìn thấy cha
mẹ suốt ngày tất bật với công việc làm ăn, tìm tiền kiếm
bạc, sao nhãng bổn phận đối với con cái, khiến cho con cái
lún sâu vào đường hư hỏng và gia đình bị nhếch nhác.
Rồi từ đó, họ sợ hôn
nhân, họ sợ tình yêu, họ sợ phải đi lập gia đình vì không
muốn đi vào vết xe đổ của những vị tiền bối là cha mẹ của
mình.
Có những người cho rằng
một khi đã lập gia đình, thì phải đối mặt rất nhiều với vấn
đề cơm áo gạo tiền, cũng như nước mắm nước muối. Họ không
muốn bị ràng buộc vào một cuộc sống nặng nề và phức tạp như
vậy, nên đã chọn con đường không kết hôn, sống độc thân, dù
có phải trải qua những ngày tháng trống vắng và buồn tênh.
Riêng một vài cô gái thì
lại muốn bắt cá hai tay, vừa muốn có một cuộc sống êm ấm lại
vừa muốn có một cuộc sống mộng mơ, nên rốt cuộc vẫn cứ vò
võ, đêm đêm nhìn bóng hình mình trên vách, bởi vì hai sự ấy
khó mà đi đôi với nhau :
- Hôn nhân lãng mạn thì
không ổn định. Còn hôn nhân ổn định thì không lãng mạn.
Sách vở tây phương có một
câu nói làm cho gã nhớ mãi. Câu nói ấy như thế này :
- Tương lai của mỗi người
tùy thuộc vào vài chọn lựa, đồng ý hay không đồng ý, mà mình
nói ra trong lứa tuổi từ mười sáu đến hai mươi.
Chọn lựa cho mình một bậc
sống cũng là một chọn lựa cam go, ảnh hưởng sâu đậm tới
tương lai hậu vận. Thế nhưng, chúng ta đã thực sự chọn lựa
và dấn thân vào bậc sống ấy hay chưa ?
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|