LỜI MỞ ĐẦU
Hội Đồng
Giám Mục VN đã viết trong thư mục vụ năm 2006 như sau:
“Chúng
tôi “chọn chủ đề : Sống đạo hôm
nay, để mời gọi mỗi người sống niềm tin bằng
những hành động cụ thể, như thánh Giacôbê Tông đồ viết: “Đức
tin không có hành động quả là đức tin chết.” Gc
2,17). Quả thực, đời sống đạo vừa cần gắn bó với Thiên Chúa,
vừa phải đi đến với anh em, như Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập
thể và nhập thế đã nêu gương cho chúng ta.” (Thư MV số
1)
Để giúp
anh chị em đáp ứng lời mời gọi của Hội đồng Giám mục, tôi
gửi đến anh chị em tài liệu về :
Địa vị và sứ mệnh của người giáo
dân đã được Công đồng Vaticanô II quyết nghị và
công bố từ năm 1965.
Tôi hy
vọng tài liệu trích dẫn từ Công đòng Vaticanô II này sẽ giúp
anh chị em hiểu rõ hơn địa vị và sứ mệnh của mình trong Hội
Thánh; đồng thời tích cực thi hành sứ mệnh đối với thế giới,
nhất là với xã hội Việt Nam hôm nay.
Chương một
CÔNG ĐỒNG
1. Công đồng là gì ?
Công đồng
là một hội nghị gồm các giám mục cùng một số chức vị trong
Hội Thánh, chính thức nhóm họp với mục đích bàn luận và
quyết định những vấn đề thuộc giáo lý hoặc qui luật của Hội
Thánh.
2. Công đồng giữ thẩm quyền gì trong
Hội Thánh ?
Công đồng
giữ thẩm quyền tối thượng trong Hội Thánh. Nền tảng này dựa
vào chính ý muốn của Chúa Kitô là Đấng đã ban quyền cho các
tông đồ và những người kế vị các ngài, để dạy dỗ và điều
khiển Hội Thánh.
3. Công đồng có phải là cơ quan lập
pháp của Hội Thánh không ?
Công đồng
chung là cơ quan lập pháp và giáo huấn tối cao của Hội
Thánh. Thực ra đó chính là Giám mục đoàn qui tụ về một nơi.
Những sắc lệnh giáo lý của công đồng này giũ một gía trị
giáo thuyết rất cao : với một vài điều kiện, chúng thành bất
khả ngộ.
4. Trong lịch sử Hội Thánh có bao nhiêu
Công đồng ?
Trong
lịch sử của Hội Thánh, ngay từ thời Hội Thánh sơ khai, các
tông đồ đã tổ chức Công đồng Giê-ru-sa-lem đã được ghi trong
sách Công vụ tông đồ chương 15. Các tông đồ đã họp lại để
giải quyết vấn đề : Có nên cắt bì cho người ngoại (không
phải Do Thái) khi họ gia nhập Hội Thánh không ? Sau khi
đã bàn luận, các tông đồ đã quyết định : Không cắt bì cho
người ngoại, khi họ gia nhập Hội Thánh.
Ngoài
Công đồng tiên khởi trên đây, Hội Thánh đã tổ chức 21 Công
đồng.
5. Công đồng Vaticanô II là gì ?
Công Đồng
Vaticanô II là Công đồng thứ 21, họp tại Vaticanô lần thứ
hai. Công đồng khai mạc ngày 11-10-1962 và bế mạc ngày
08-12-1965. Công đồng đã quyết nghị nhiều vấn đề liên quan
đến các thành phần trong Hội Thánh và mối tương quan với thế
giới.
Mục đích
của Công đồng Vat. II là trở về với Chúa Kitô để canh tân
Hội Thánh theo ý Chúa và tích cực gia tăng việc tông đồ và
truyền giáo theo lệnh truyền của Chúa cứu thế.
6. Công đồng Vaticanô II đã thông qua
mấy văn kiện ?
Công dồng
đã thông qua 16 văn kiện nhu sau :
A- HIẾN CHẾ :
Viết tắt
1. Tín lý về Giáo Hội
- GH
2. Tín lý về Mạc Khải của Thiên Chúa -
MK
3. Về Phụng Vụ
- PV
4. Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay - MV
B- SẮC LỆNH :
1. Nhiệm vụ mục vụ của các Giám mục - GM
2. Chức vụ và đời sống các Linh mục -
LM
3. Đào tạo Linh
mục - ĐT
4. Canh tân thích nghi đời sống Dòng tu -
DT
5. Tông đồ giáo
dân - TĐ
6. Hoạt động Truyền giáo của Giáo hội -
TG
7. Hiệp nhất
- HN
8. Các Giáo hội Công giáo Đông Phuơng - ĐP
9. Các phương tiện Truyền thông Xã hội - TT
C- TUYÊN NGÔN :
1. Tự do Tôn giáo
- TD
2. Liên lạc của GH với các tôn giáo ngoài Kitô giáo - NK
3. Giáo dục Kitô
giáo - GD
Chương hai
ĐỊA VỊ CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN
1. Công đồng Vaticanô II đã nói gì về
người giáo dân ?
“Sau khi
xác định những chức vụ của các phẩm trật, Thánh Công Đồng
sẵn lòng đề cập đến bậc sống của những Kitô hữu được gọi là
giáo dân. Mặc dầu những gì nói về Dân Thiên Chúa đều có
liên quan đến giáo dân, tu sĩ cũng như giáo sĩ. Nhưng có một
số điều đặc biệt thuộc về giáo dân nam nữ, vì địa vị và sứ
mệnh của họ : những điều mà hoàn cảnh đặc biệt của thời đại
chúng ta đòi phải tìm hiểu nền tảng chung cách thấu đáo
hơn.” (GH số 30)
2. Giáo dân có giúp ích gì cho Hội
Thánh không ?
“Thực
thế, các chủ chăn của Dân Thánh ấy biết rõ giáo dân giúp ích
rất nhiều cho toàn thể Hội Thánh. Các ngài biết rằng Chúa
Kitô không đặt các ngài lên để một mình lãnh lấy tất cả sứ
vụ cứu độ của Hội Thánh đối với thế giới; nhưng nhiệm vụ cao
cả của các ngài là chăn dắt các tín hữu và nhận biết các
phận sự và đoàn sủng của họ, để mọi người đều góp phần vào
công cuộc chung, tùy theo cách thức của mình.”
“Vì thế,
mọi người “phải lấy bác ái mà thực hành chân lý, nhờ mọi sự
hãy lớn lên trong Đấng làm đầu là Chúa Kitô; nhờ Người, toàn
thân thể được phối hợp và kết tụ bằng sự liên lạc tương trợ
nhau, tùy theo công dụng khả năng từng phần tử, khiến thân
thể được tiến triển hầu xây dựng trong đức ái.” (Ep
4,15-16) (GH số 30)
3. Vậy người giáo dân là ai ?
“Danh
hiệu giáo dân ở đây được hiểu là tất cả những kitô hữu không
thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Hội Thánh công nhận;
nghĩa là những Kitô hữu đã được tháp nhập vào thân thể Chúa
Kitô nhờ phép Thánh Tẩy, đã trở nên Dân Thiên Chúa, và tham
dự vào chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô
theo cách thức của họ; họ là những người đang thực hiện sứ
mệnh của toàn dân Kitô giáo trong Hội Thánh và trên trần
gian theo phận vụ riêng của mình.” (GH số 31)
4. Tính cách riêng biệt và đặc thù của
giáo dân là gì ?
“Tính
cách trần thế là tính cách riêng biệt và đặc thù của giáo
dân. Thực vậy các phần tử trong hàng giáo sĩ dù đôi khi có
thể lo việc trần thế, hoặc hơn nữa, hành nghề giữa đời,
nhưng vì ơn kêu gọi đặc biệt, sứ mệnh chính yếu và rõ rệt
của họ vẫn là sứ vụ thánh. Phần các tu sĩ, do bậc sống của
họ, làm chứng cách hùng hồn và cao quý rằng người ta không
thể cải tạo thế giới và cung hiến nó cho Thiên Chúa được,
nếu không có tinh thần các mối phúc thật.” (GH số 31)
5. Ơn gọi riêng của người giáo dân là
gì ?
“Vì
ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận tìm kiếm Nước Thiên Chúa
bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý
Thiên Chúa. Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả
cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những
cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội; tất cả
những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ.”
“Đó là
nơi Thiên Chúa gọi họ, để dưới sự hướng dẫn của tinh thần
Phúc Âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng
việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng
tin, cậy, mến sáng ngời, và nhất là với những bằng chứng đời
sống, họ tỏ rõ Chúa Kitô cho kẻ khác, vì thế, họ có nhiệm vụ
đặc biệt soi sáng và xếp đặt những thực tại trần gian có
liên hệ mật thiết với họ, để chúng không ngừng phát triển và
bành trướng theo thánh ý Chúa Kitô, hầu ca tụng Đấng Tạo Hóa
và Đấng Cứu Độ.” (GH số 31)
6. Người giáo dân có được kêu gọi nên
thánh không ?
“Tất cả
mọi người trong Hội Thánh đều được kêu gọi nên thánh, như
lời thánh Phaolô dạy : “Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh
hóa” (1 Tx 4,3; Ep 1,4); sự thánh thiện này của Hội Thánh
luôn được biểu lộ và phải được biểu lộ qua những hoa trái ân
sủng mà Thánh Thần đã kết sinh nơi các tín hữu; sự thánh
thiện ấy được diễn tả dưới nhiều hình thức nơi tất cả những
ai đang cố đạt tới Đức ái trọn hảo trong bậc sống của mình
trong khi xây dựng kẻ khác.” (GH số 39)
“Quả vậy,
mọi người đều thấy rõ rằng tất cả các Kitô hữu, bất cứ theo
bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên
mãn của đời sống Kitô giáo và đến sự trọn lành của Đức ái.
Ngay trong xã hội trần thế sự thánh thiện này cũng giúp
người ta sống nhân đạo hơn.” (GH số 40)
7. Người giáo dân có phải là chi thể
của Chúa Kitô không ?
“Hội
Thánh do Chúa thiết lập được tổ chức và điều khiển theo
nhiều thể thức khác biệt rất lạ lùng. “Ví như trong một thân
thể, chúng ta có nhiều chi thể, mọi chi thể không có cùng
một nhiệm vụ; cũng vậy, chúng ta tuy nhiều người song là một
thân thể trong Chúa Kitô, nên mỗi người chúng ta là chi thể
lẫn nhau.” (Rm 12,4-5)
“Thế nên
chỉ có một Dân Thiên Chúa được Ngài tuyển chọn; “chỉ có một
Thiên Chúa, một đức tin, một phép Thánh Tẩy,” (Ep 4,5) cùng
chung một phẩm giá, những chi thể vì đã được tái sinh trong
Chúa Kitô, cùng một ân huệ được làm con cái, một ơn gọi trở
nên trọn lành, một ơn cứu độ và một niềm hy vọng duy nhất và
một đức ái không phân chia. Vì thế, trong Chúa Kitô và trong
Hội Thánh, không còn có sự hơn kém vì nguồn gốc hay dân tộc,
vì địa vị xã hội hoặc vì nam nữ, bởi lẽ “không còn là người
Do thái hoặc Hy lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ, vì anh em
hết thảy đều là một trong Chúa Giêsu Kitô.” (Gl 3,28; Cl
3,11)
“Vì thế,
tuy trong Hội Thánh, tất cả không cùng đi một đường, nhưng
tất cả vẫn cùng được mời gọi nên thánh, và đồng thừa hưởng
đức tin trong sự công chính của Thiên Chúa.” (2 Pr 1,1) (GH
số 32)
8. Người giáo dân có phải là em Chúa
Kitô ?
“Nhờ lòng
ưu ái của Thiên Chúa, giáo dân được làm em Chúa Kitô, Đấng
đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ, dù
Người là Chúa tể muôn loài (Mt 20,28). Cũng vậy, họ làm em
những người lãnh nhận chức vụ thánh, những kẻ đang lấy quyền
Chúa Kitô mà giảng dạy, thánh hóa và cai quản để chăn dắt
gia đình Chúa, hầu mọi người chu toàn giới luật mới là luật
bác ái.”
“Thánh
Au-gus-ti-nô đã dùng những lời tuyệt diệu này để nói lên
điều đó : “Là giám mục cho anh em, tôi rất sợ; làm tín hữu
với anh em, tôi rất an tâm. Giám mục là một chức vụ, tín hữu
là một ân phúc. Giám mục là danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là
một danh hiệu đem ơn cứu độ.” (GH số 32)
9. Người giáo dân có được tham dự vào
chức vụ tư tế của Chúa Kitô không ?
“Chúa
Giêsu Kitô linh mục thượng phẩm và vĩnh cửu, vì cũng muốn
giáo dân tiếp tục công việc chứng tá và việc phục vụ của
mình, nên đã nhờ Thánh Thần ban cho họ sự sống và không
ngừng thôi thúc họ thực hành những điều thiện hảo.”
“Thực
vậy, những kẻ mà Người đã cho tham dự mật thiết vào sự sống
và sứ mệnh Người, Người cũng cho họ dự phần vào chức vụ tư
tế, để họ thực hành việc phụng thờ thiêng liêng, hầu tôn
vinh Thiên Chúa và cứu rỗi loài người. Bởi thế, vì giáo dân
đã được hiến dâng cho Chúa Kitô và được Thánh Thần xức dầu,
nên họ được mời gọi và được ban ơn cách lạ lùng để Thánh
Thần sinh hoa trái nơi họ ngày càng phong phú hơn.”
“Thật
vậy, mọi hoạt động và kinh nguyện và công cuộc tông đồ, đời
sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm thường ngày,
việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, nếu họ chu toàn trong
Thánh Thần, và cả đến những thử thách của cuộc sống, nếu họ
kiên trì đón nhận, thì tất cả trở nên của lễ thiêng liêng
đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô (1 Pr 2,5), vì
những của lễ ấy được thành kính dâng lên Chúa Cha cùng với
Mình Thánh Chúa khi cử hành lễ Tạ ơn.”
“Như thế
giáo dân cung hiến thế giới này cho Thiên Chúa nhờ biết
phụng thờ Ngài bằng những hành động thánh thiện khắp nơi.
(GH số 34)
10. Người giáo dân có tham dự vào chức
linh mục của Chúa Kitô không ?
Theo Công
đồng Vaticanô II, thì người giáo dân cũng tham dự vào chức
linh mục duy nhất của Chúa Kitô, nhưng theo cách thức riêng
của mình. Công Đồng xác định như sau :
“Chức
linh mục cộng đồng của các tín hữu và chức linh mục thừa tác
hay phẩm trật tuy khác nhau không chỉ về cấp bậc mà còn về
bản chất, song cả hai bổ túc cho nhau. Th?c vậy, cả hai đều
tham dự vào chức linh mục duy nhất của Chúa Kitô theo cách
thức riêng của mình.”
“Linh mục
thừa tác, nhờ có quyền do chức thánh, đào tạo và cai quản
dân tộc tư tế, đóng vai trò Chúa Kitô, cử hành hy tế tạ ơn
và dâng của lễ ấy lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể dân
chúng.”
“Phần tín
hữu, nhờ chức linh mục vương giả, c?ng tác dâng thánh lễ, và
thi hành chức vụ đó trong việc lãnh nhận các bí tích, khi
cầu nguyện và tạ ơn, bằng đời sống chứng tá thánh thiện,
bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực.” (GH số 10)
11. Người giáo dân có tham dự vào chức
ngôn sứ của Chúa Kitô không?
“Dân
thánh Thiên Chúa cũng tham gia vào chức vụ ngôn sứ của Chúa
Kitô bằng cách phổ biến chứng tá sống động về Người, nhất là
qua đời sống đức tin và đức ái; và dâng lên Thiên Chúa của
lễ ca tụng, hoa trái của những miệng lưỡi ngợi khen thánh
danh Người. (Dt 13,15) toàn thể tín hữu được Chúa Thánh Thần
xức dầu (1 Ga 2,20.27), không thể sai lầm trong đức tin, họ
biểu lộ đức tính ấy nhờ cảm thức siêu nhiên về đức tin của
toàn thể dân Chúa, khi “từ các giám mục cho đến người giáo
dân rốt hết” đều đồng ý về những điều liên quan đến đức tin
và phong hóa.”
“Thật
vậy, nhờ cảm thức về đức tin được Thánh Thần chân lý khơi
d?y và duy trì, dưới sự giáo huấn thần linh của Hội Thánh mà
họ trung thành tuân theo, dân Thiên Chúa nhận lãnh không
phải là lời nói của loài người nữa, mà thật sự là lời của
Thiên Chúa. (1 Tx 2,13); họ gắn bó hoàn toàn “với đức tin
chỉ một lần được ban bố cho các thánh” (Gđ 3), họ tiến sâu
hơn trong đức tin nhờ phán đoán đứng đắn, và sống đức tin
cách hoàn hảo hơn.” (GH số 12)
Chương ba
SỨ MỆNH CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN
1. Việc tông đồ là gì ?
« Hội
Thánh được khai sinh là để làm cho nước Chúa Kitô rộng mở
trên khắp hoàn cầu, hầu làm vinh danh Thiên Chúa Cha : tức
là làm cho mọi người tham dự vào việc chuộc tội và cứu rỗi,
để rồi nhờ họ, toàn thể vũ trụ thực sự để qui hướng về Chúa
Kitô. Mọi hoạt động của nhiệm thể hướng về mục đích này gọi
là việc tông đồ, công việc mà Hội Thánh thực hiện nhờ tất cả
các chi thể, tùy theo những cách thức khác nhau.”
«Bởi vì ơn gọi làm Kitô hữu tự bản chất
cũng là ơn gọi làm tông đồ.
Cũng như
toàn bộ một cơ thể sống động, không chi thể nào hoàn toàn
thụ động, nhưng cũng tham dự vào đời sống và công việc của
toàn thân. Cũng thế, trong nhiệm thể Chúa Kitô tức Hội
Thánh, toàn thân “tùy theo công dụng khả năng từng phần tử
khiến thân thể được tiến triển” (Ep 4,16). Hơn nữa, các chi
thể trong thân thể này gắn bó và liên kết chặt chẽ với nhau
(Ep 4,16), đến nỗi chi thể nào không hoạt động đúng tầm mức
của mình trong việc tăng triển toàn thân đều bị coi là không
dụng ích đối với Hội Thánh cũng như với chính mình.” (TĐ số
2)
2. Người giáo dân có phải là tông đồ
của Chúa Kitô ?
“Giáo
hữu được qui tụ trong dân Thiên Chúa và cấu tạo thành thân
thể duy nhất của Chúa Kitô dưới quyền của một Đầu duy nhất;
dù họ là ai, họ vẫn được kêu gọi dùng hết sức lực đã nhận
lãnh do lòng từ ái của Đấng Tạo Hóa và do ân huệ của Đấng
Cứu Thế để như những chi thể sống động, phát triển và thánh
hóa Hội Thánh không ngừng.”
“Vì thế,
giáo dân làm tông đồ là thông phần vào chính sứ mệnh cứu độ
của Hội Thánh; nhờ lãnh nhận phép Thánh Tẩy và Thêm Sức, mỗi
tín hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ; đàng khác các bí
tích, nhất là bí tích Thánh Thể thông ban và nuôi dưỡng
trong họ đức ái đối với Thiên Chúa và đối với loài người,
nhân đức này là linh hồn của mọi hoạt động tông đồ. Nhưng
giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Hội Thánh hiện diện
và hoạt động nơi và trong những hoàn cảnh mà nếu không có
họ, thì Hội Thánh sẽ không trở thành muối của thế gian.”
Như thế,
vì những ân huệ đã lãnh nhận, mọi giáo dân vừa là chứng nhân
vừa là dụng cụ sống động do chính sứ mệnh Hội Thánh, “tùy
theo độ lượng ân sủng Đức Kitô ban cho.” (Ep 4,7) (GH số 33)
3. Người giáo dân có quyền làm tông đồ
không ?
“Giáo dân
có bổn phận và quyền làm tông đồ do chính việc kết hiệp với
Chúa Kitô là Đầu. Họ được chính Chúa chỉ định làm việc tông
đồ, vì phép Rửa Tội sát nhập họ vào nhiệm thể Chúa Kitô,
phép Thêm Sức làm cho họ nên mạnh mẽ nhờ quyền năng của Chúa
Thánh Thần. Họ được thánh hiến vào chức vụ tư tế, vương giả
và dân tộc thánh (1 Pr 2,2-10), hầu trong mọi việc họ dâng
những lễ vật thiêng liêng và làm chứng cho Chúa Kitô ở mọi
nơi trên hoàn cầu.” (TĐ số 3)
4. Có mấy hình thức làm tông đồ ?
- “Giáo
dân có thể thực hiện việc tông đồ hoặc từng ngu?i hoặc liên
kết thành cộng đoàn hay hội đoàn.” (TĐ số 15)
- “Việc
tông đồ của giáo dân, cá nhân hay tập thể, phải được đặt vào
đúng chỗ trong công cuộc tông đồ của toàn thể Hội Thánh. Hơn
nữa điều cốt yếu của việc tông đồ Kitô giáo là liên kết với
những ngu?i đã được Chúa Thánh Thần đặt lên cai trị Hội
Thánh Chúa. (Cv 20,28). Vả lại, việc cộng tác giữa các tổ
chức tông đồ khác nhau cũng cần thiết và phải được Hàng Gíao
Phẩm điều hành thích đáng.” (TĐ số 23)
a) “Việc
tông đồ cá nhân rất hiệu quả ở bất cứ nơi nào và thời nào.
Hơn nữa, trong một số hoàn cảnh chỉ có hoạt động này mới
thích hợp và mới có thể thực hiện được. Mọi ngu?i giáo dân,
dù thuộc thành nào đi nữa, dù không có cơ hội hay khả năng
để cộng tác trong các hội đoàn đều được kêu gọi và hơn nữa
phải làm việc tông đồ cá nhân.”
“Hình
thức đặc biệt của hoạt động tông đồ cá nhân là giúp giáo dân
làm chứng bằng cả đời sống phát xuất từ đức tin, đức cậy,
đức mến. Đó là dấu chỉ rất thích hợp trong thời đại chúng ta
để biểu lộ Chúa Kitô sống động trong các tín hữu của Ngài.
Cùng với việc tông đồ bằng lời nói mà trong một số hoàn cảnh
lại rất cần thiết ngu?i giáo dân rao giảng Chúa Kitô, cắt
nghĩa và phổ biến giáo lý của Ngài tùy theo hoàn cảnh và tài
năng của mỗi ngu?i, đồng thời họ cũng trung thành tuyên xưng
giáo lý của Ngài nữa.” (TĐ số 16)
b) “Hoạt
động tông đồ tập thể rất phù hợp với đòi hỏi của các tín hữu
dưới khía cạnh con ngu?i cũng như dưới khía cạnh Kitô hữu.
Đồng thời nó cũng biểu lộ được dấu chỉ hiệp thông và hiệp
nhất của Hội Thánh trong Chúa Kitô, Đấng đã phán : “Vì ở đâu
có hai, ba ngu?i họp nhau nhân danh Thầy, thì Thầy sẽ ở giữa
họ.” (Mt 18,20)
“Hoạt
động tông đồ rất quan trọng, vì trong các cộng đoàn Hội
Thánh, cũng như trong các môi trường khác nhau, hoạt động
tông đồ thường đòi hỏi phải được chu toàn do một hoạt động
chung. Bởi vì các hội đoàn được thành lập nhằm hoạt động
tông đồ tập thể, nâng đỡ và huấn luyện các hội viên làm tông
đồ, phối hợp và hướng dẫn hoạt động tông đồ của họ để có thể
hy vọng nơi họ những kết quả phong phú hơn là từng ngu?i
hoạt động riêng rẽ.”
“Vậy
trong những hoàn cảnh hiện tại, nơi nào có giáo dân hoạt
động thì hoạt động tông đồ nhất thiết phải được củng cố dưới
hình thức tập thể và có tổ chức.” (TĐ số 18)
5. Người trẻ và trẻ em có bổn phận làm
tông đồ không ?
- “Nguời
trẻ phải trở nên những tông đồ đầu tiên và trực tiếp của
giới trẻ trong khi chính họ hoạt động tông đồ giữa ngu?i trẻ
và nhờ ngu?i trẻ tùy theo môi trường họ đang sống.”
- “Trẻ em
cũng có hoạt động tông đồ riêng của chúng. Tùy khả năng,
chúng có thể thực sự là những chứng nhân giữa các bạn hữu.”
(TĐ số 12)
6. Người giáo dân làm tông đồ bằng cách
nào ?
“Giáo dân
thực sự thi hành việc tông đồ bằng công việc của mình để rao
giảng Phúc Âm và thánh hóa nhân loại, đem tinh thần Phúc Âm
thấm nhuần và hoàn hảo hóa những việc thuộc phạm vi trần
thế, sao cho công việc của họ thuộc lãnh vực này làm chứng
tỏ tường về Chúa Kitô và góp phần vào việc cứu độ nhân loại.
Vì bản chất riêng biêt của người giáo dân là sống giữa đời
và làm việc đời, nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một
khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa
đời như men trong bột.” (TĐ số 2)
“Người
giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ : rao giảng
Phúc Âm và thánh hóa. Chính chứng tá của đời sống Kitô và
những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi
kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa, vì Chúa phán
: “Sự sáng các con phải soi trước mặt người ta, như vậy để
họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con trên
trời.” (Mt 5,16)
“Tuy
nhiên việc tông đồ này không chỉ ở tại việc làm chứng bằng
đời sống. Người tông đồ đích thực còn tìm dịp loan truyền
Chúa Kitô bằng lời nói hoặc cho người chưa tin để đưa họ đến
đức tin, hoặc cho tín hữu để giáo huấn họ, củng cố và thúc
đẩy họ sống sốt sắng hơn “vì tình yêu Chúa Kitô thôi thúc
chúng ta” (2 Cr 5,14), và trong lòng mọi người phải âm vang
lời thánh Phaolô : “Thật khốn cho tôi, nếu tôi không rao
giảng Phúc Âm.” (1 Cr 9,16) (TĐ số 6)
7. Người giáo dân hoạt động tông đồ
trong những môi trường nào ?
“Gíao
dân thi hành việc tông đồ muôn mặt của mình trong Hội Thánh
cũng như giữa đời. Trong cả hai lãnh vực này, nhiều môi
trường hoạt động tông đồ khác nhau được khai mở. Ở đây chúng
tôi muốn nhắc tới những môi trường chính yếu hơn cả là : các
cộng đoàn Hội Thánh, gia đình, giới trẻ, môi trường xã hội,
các lãnh vực quốc gia và quốc tế. . .
a- Giáo xứ :
“Giáo xứ là một hình thức tông đồ cọng đồng kiểu mẫu,
vì đó là nơi qui tụ đủ mọi hạng ngu?i thành một cộng đoàn và
đem họ vào tinh thần đại đồng của hội Thánh. Giáo dân nên
tập thói quen cộng tác chặt chẽ với các linh mục của mình đ?
hoạt động trong giáo xứ. Họ cũng nên có thói quen trình bày
với cộng đoàn Hội Thánh những vấn đề riêng của cộng đoàn
mình hay của cả thế giới hoặc những vấn đề liên quan đến
phần rỗi của mọi người đ? cùng nhau góp ý kiến, nghiên cứu
và giải quyết. Họ cũng phải tùy sức mà cố gắng đóng góp vào
mọi công việc tông đồ và truyền giáo của Hội Thánh địa
phương.”
b- Giáo phận :
“Giáo dân phải luôn nuôi dưỡng ý thức về giáo phận, vì giáo
xứ như là một tế bào của giáo phận. Họ phải luôn mau mắn đáp
lại tiếng gọi của chủ chăn, và tùy sức tham gia những công
cuộc chung của giáo phận. Hơn nữa, để đáp ứng những nhu cầu
nơi thành thị cũng như ở thôn quê, họ không chỉ hạn hẹp sự
cộng tác của mình trong giới hạn trong giáo xứ hay giáo phận
nhưng họ cố gắng mở rộng phạm vi tới cả lãnh vực liên xứ,
liên giáo phận, quốc gia hay quốc tế.”
“Vì thế,
người giáo dân phải quan tâm đến những nhu cầu của Dân Thiên
Chúa ở rải rắc trên khắp hoàn cầu. Nhất là họ phải coi những
công cuộc truyền giáo như việc của chính mình, bằng cách
đóng góp về vật chất hay cả về nhân sự. Vì chưng nhiệm vụ và
vinh dự của ngu?i Kitô hữu là trả lại cho Thiên Chúa phần
của cải họ đã nhận nơi Ngài.” (TĐ số 10)
c- Môi trường xã hội :
“Làm tông đồ trong môi trường xã hội là cố gắng đem tinh
thần Kitô giáo thấm nhuần tư tưởng, phong tục, luật lệ và cơ
cấu của cộng đồng nơi họ đang sống : đó là bổn phận và trách
nhiệm của ngu?i giáo dân mà không ai có thể thay thế họ cách
đầy đủ.
Trong
lãnh vực này, ngu?i giáo dân có thể làm tông đồ cho ngu?i
đồng cảnh ngộ với mình. Ở đó, họ lấy lời nói bổ túc cho bằng
chứng của đời sống. Cũng ở đó, họ dễ dàng giúp đỡ anh em
trong môi trường làm việc hay nghề nghiệp, môi trường học
vấn, cư ngụ, giải trí cũng như trong sinh hoạt địa phương.”
“Việc
tông đồ này phải nhắm tới hết mọi ngu?i trong môi trường
hoạt động và không được loại bỏ bất cứ lợi ích thiêng liêng
hay vật chất nào có thể làm cho họ. Nhưng ngu?i tông đồ đích
thực không chỉ hài lòng với hoạt động này, mà họ còn phải
quan tâm đến việc rao giảng Chúa Kitô cho anh em bằng cả lời
nói nữa. Bởi vì nhiều ngu?i chỉ có thể nghe Phúc Âm và nhận
biết Chúa Kitô nhờ những ngu?i giáo dân sống gần họ.” (TĐ
số 13)
8. Gia đình có phải là môi trường hoạt
động tông đồ của người giáo dân không ?
- “Có một
bậc sống rất có gía trị để thể hiện nhiệm vụ đó, bậc sống
được một bí tích đặc biệt thánh hóa, đó là đời sống hôn nhân
và gia đình. Gia đình là môi trường hoạt động và trường học
tuyệt diệu cho việc tông đồ giáo dân.”
“Từ gia
đình, Kitô giáo thấm nhập vào tất cả các tổ chức cuộc sống
và dần dần biến đổi các tổ chức ấy; nơi gia đình, vợ chồng
tìm thấy ơn gọi riêng của mình là làm chứng cho nhau và cho
con cái : lòng tin và tình yêu Chúa Kitô.”
“Gia đình
Kitô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh của Nuớc Thiên Chúa
và niềm cậy trông vào một đời sống hạnh phúc. Như thế, bằng
gương lành và chứng tá, gia đình Kitô giáo làm cho thế gian
nhận biết tội lỗi mình, đồng thời sáng soi những kẻ đang
kiếm tìm chân lý.” (GH số 35)
- “Tất cả
những việc ngày xưa vốn là bổn phận vợ chồng, thì ngày nay
còn phải coi là phần quan trọng nhất của việc tông đồ. Đó là
: phải biểu lộ và chứng minh bằng đời sống tính cách bất khả
phân ly và sự thánh thiện của dây hôn phối. . .”
“Chính
gia đình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa sứ mệnh trở nên tế bào
đầu tiên và sống động của xã hội. Gia đình sẽ chu toàn được
sứ mệnh đó nếu gia đình tỏ ra như một đền thờ của Hội Thánh
trong nhà mình nhờ yêu thương nhau và cùng nhau dâng lời cầu
nguyện lên Thiên Chúa, nếu tất cả gia đình cùng tham dự vào
việc phụng vụ của Hội Thánh; sau cùng nếu gia đình tỏ ra
hiếu khách và cổ võ đức công bằng cũng như những việc thiện
khác giúp các anh em đang túng thiếu.”
“Trong công việc tông đồ của gia đình cần phải kể đến những
việc như:
- nhận làm con những đứa trẻ bị bỏ rơi,
- ân cần tiếp đón những khách lạ,
- cộng tác với học đường,
- khuyên bảo và giúp đỡ thanh thiếu niên,
- giúp những ngu?i đã đính hôn chuẩn bị cho việc hôn nhân
của họ được tốt đẹp,
- giúp dạy giáo lý,
- nâng đỡ những đôi vợ chồng cũng như những gia đình khi họ
gặp khó khăn về vật chất hay tinh thần,
- lo cho ngu?i già cả không những có những điều kiện cần
thiết, mà còn cung cấp cho họ những tiện nghi chính đáng của
tiến bộ kinh tế. . .
Để dễ dàng đạt tới những mục đích tông đồ này, các gia đình
nên qui tụ thành những nhóm.” (TĐ số 11)
9. Bác ái có phải là linh hồn của công
việc tông đồ không ?
“Đức ái như là linh hồn của tất
cả việc tông đồ, được chuyển thông và nuôi dưỡng
nhờ các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể.” (TĐ số 3)
“Thật
vậy, mọi hoạt động tông đồ phải bắt nguồn và lấy sức mạnh từ
đức bác ái. Nhưng một vài công việc tự bản chất của chúng có
thể biểu lộ tình yêu cách sống động. Chúa Kitô đã muốn những
việc đó là dấu chỉ cứu độ.” (Mt 11,4-5)
“Giới răn
quan trọng nhất trong lề luật là yêu mến Thiên Chúa hết tâm
hồn và yêu tha nhân như chính mình (Mt 22,37-40). Thật vậy,
Chúa Kitô đã làm cho giới răn bác ái đối với tha nhân thành
một giới răn riêng của Ngài và mặc cho nó một ý nghĩa mới
phong phú hơn, khi Ngài muốn đồng hóa mình với anh em như
chính đối tượng của bác ái, Ngài nói : “Bao nhiêu lần các
ngươi làm những việc đó cho một trong những người hèn mọn là
anh em Ta đây, tức là các ngươi làm cho chính Ta vậy” (Mt
25,40).
“Bởi vì
khi nhận lấy bản tính nhân loại, chính Ngài đã nối kết toàn
thể nhân loại với Ngài thành một gia đình bằng một tình liên
đới siêu nhiên, và Ngài đã dùng đức ái làm dấu hiệu riêng
của các môn đệ Ngài, khi Ngài nói : “Nếu các con yêu thương
nhau, thiên hạ cứ dấu ấy mà nhận biết các con là môn đệ
Thầy.” (Ga 13,35)
“Trong
thời sơ khai, Hội Thánh đặt bữa ăn thân tình “agapê” đi liền
với bữa tiệc Thánh Thể để biểu lộ sự hợp nhất hoàn toàn
trong tình yêu thương chung quanh Chúa Kitô. Như vậy, bất cứ
thời đại nào, người ta cũng nhận ra Hội Thánh nhờ dấu hiệu
tình yêu này và Hội Thánh đã tự đảm nhận những công cuộc bác
ái như là nhiệm vụ và quyền lợi bất khả di nhượng của mình,
dầu Hội Thánh vẫn hân hoan trước những khởi công của người
khác.”
“Vì thế,
Hội Thánh đặc biệt đề cao lòng xót thương đối với người
nghèo đói, bệnh tật, cũng như những công cuộc mệnh danh là
từ thiện và tương trợ để xoa dịu mọi nỗi thống khổ của nhân
loại.” (TĐ số 8)
10. Việc bác ái phục vụ những ai ?
“Ngày
nay, công cuộc bác ái có thể
và phải nhằm tới tất cả mọi người và mọi như cầu.
Ở đâu có người thiếu ăn, thiếu uống, thiếu mặc, thiếu nhà ở,
thiếu thuốc men, thiếu việc làm, thiếu giáo dục, thiếu những
phương tiện cần thiết để sống xứng danh con người; ở đâu có
người bị đau khổ vì nghịch cảnh, ốm yếu, chịu cảnh lưu đầy,
tù ngục, thì ở đó bác ái Kitô giáo phải tìm gặp, ân cần săn
sóc, ủi an và xoa dịu họ bằng những trợ giúp thích đáng.”
“Thi hành
bổn phận này trước hết là bổn phận của những người giàu và
các dân tộc giàu.” (TĐ số 8)
11. Bác ái thực sự là thế nào ?
“Để
thực thi bác ái mà không bị chỉ trích và để tỏ ra là bác ái
đích thực, cần phải :
1- Nhìn nhận nơi tha nhân hình ảnh Thiên Chúa, vì họ
đã được dựng nên giống hình ảnh Ngài và nhìn nhận nơi họ
chính Chúa Kitô, bởi vì bất cứ sự gì được tặng cho người
nghèo là đã thực sự được dâng cho Ngài.
2- Hết sức tế nhị tôn trọng tự do và nhân phẩm của người
được trợ giúp. Đừng làm hoen ố ý hướng ngay lành và mưu
cầu tư lợi hay vì một tham vọng thống trị nào.
3- Thỏa mãn những đòi hỏi công bình trước đã, kẻo
những tặng phẩm đem cho tưởng là vì bác ái, mà thực ra phải
đền trả vì đức công bằng. Phải loại trừ không những hậu quả
mà cả nguyên nhân gây nên sự dữ.
4- Tổ chức giúp đỡ sao cho
những người được trợ giúp dần dần thoát khỏi sự lệ thuộc
người khác và có thể tự túc.”
“Vậy
người giáo dân phải quý trọng và tùy sức giúp vào các việc
từ thiện và những công cuộc cứu trợ xã hội của tư nhân, cũng
như của quốc gia, kể cả quốc tế.”
“Nhờ
những công cuộc đó, người ta mới trợ giúp hữu hiệu cho mỗi
người và mỗi dân tộc đang lâm cảnh khốn cùng. Trong việc
này, giáo dân cần cộng tác với mọi người thiện chí.” (TĐ số
8)
12. Người tín hữu không sống bác ái, có
được cứu rỗi không ?
“Bất
cứ người tín hữu nào, “dù được tháp nhập vào Hội Thánh,
nhưng nếu không kiên trì
sống trong đức bác ái, thì vẫn không được cứu rỗi,
vì tuy “thể xác” họ thuộc về Hội Thánh, nhưng “tâm hồn” họ
không ở trong Hội Thánh.”
“Nhưng
các con cái của Hội Thánh phải nhớ rằng : Địa vị cao trọng
của họ không phải do công đức riêng mình, nhưng do đặc ân
của Chúa Kitô; nếu họ không đáp lại h?ng ân ấy bằng tư
tưởng, lời nói và việc làm, thì không những họ không được
cứu rỗi mà còn bị xét xử nghiêm khắc hơn.” (GH số 14)
13. Người giáo dân có phải là chứng
nhân của Chúa Kitô không ?
“Chúa
Kitô, vị tiên tri cao cả, Đấng đã dùng chứng tá đời sống và
sức mạnh của Lời nói để công bố Nước Chúa Cha; Ngài chu toàn
chức vụ tiên tri, cho đến lúc sự vinh hiển của Người tỏ ra
trọn vẹn; Ngài chu toàn chức vụ đó không những nhờ hàng giáo
phẩm, là những người nhân danh và lấy quyền Ngài mà giảng
dạy nhưng cũng nhờ các giáo dân; sở dĩ Ngài đã đặt họ làm
chứng nhân, đồng thời ban cho họ cảm thức đức tin và ơn dùng
ngôn ngữ nữa (Cv 2,17-18; Kh 19,10) là để sức mạnh Phúc Âm
sáng ngời trong đời sống hằng ngày, trong gia đình và ngoài
xã hội.”
“Nếu giáo
dân vững lòng trông cậy mà lợi dụng thời gian hiện tại (Ep
5,16; Cl 4,5) và kiên trì trông đợi vinh quang một ngày kia
sẽ đến (Rm 8,25), họ sẽ tỏ ra là con cái của lời giao ước;
nhưng niềm hy vọng đó, họ không nên dấu kín trong lòng, trái
lại họ phải diễn tả nó qua những cơ cấu của cuộc sống trần
gian, bằng cách hoán cải không ngừng và chiến đấu chống lại
“bá chủ của thế gian tăm tối này và bọn tà thần” (Ep 6,12).
“Như
những bí tích của luật mới, là của ăn nuôi dưỡng đời sống và
hoạt động tông đồ của tín hũu, tiên báo trời mới và đất mới
thế nào (Kh 21,1), thì giáo dân cũng mạnh mẽ loan báo lòng
tin vào điều mình trông đợi như thế (Dt 11,1), nếu họ không
ngần ngại nối kết đời sống đức tin với việc tuyên xưng đức
tin làm một.”
“Trong
cuộc rao giảng Phúc Âm đó, nghĩa là sự loan báo Chúa Kitô
bằng đời sống, chứng tá và lời nói, mang một sắc thái và
hiệu qủa đặc biệt vì được thể hiện trong những hoàn cảnh
chung của trần gian.” (GH số 35)
14. Người giáo dân có nhiệm vụ truyền
bá Phúc Âm cho thế giới không ?
“Người
giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao qúy là truyền
bá Phúc Âm cho thế giới, cả lúc họ bận tâm lo lắng những
viêc trần thế. Dù khi thiếu thừa tác viên có chức thánh hoặc
khi các ngài bị ngăn trở vì bách hại, có những giáo dân thay
thế các ngài thi hành một vài phận vụ thánh tuỳ theo khả
năng của họ; dù có một số giáo dân đã dốc toàn lực vào việc
tông đồ, tất cả vẫn phải cộng tác vào việc mở mang Nước Chúa
Kitô trên trần gian.”
“Vì vậy,
giáo dân phải khéo léo tìm hiểu sâu xa hơn chân lý Chúa mạc
khải, và tha thiết nài xin Chúa ban ơn khôn ngoan cho mình.”
(GH số 35)
“Thực thế
Chúa cũng muốn nhờ cả giáo dân để mở rộng nước Ngài, nước
của chân lý và sự sống, của ân sủng và thánh thiện, của công
lý, tình yêu và hòa bình; trong nước này, chính tạo vật cũng
được giải thoát khỏi thân phận làm nô lệ sự hư đốn, để được
hưởng tự do rạng ngời của con cái Thiên Chúa.” (Rm 8,21) (GH
số 36)
15. Người giáo dân có phải là chứng
nhân của Chúa Giêsu Phục Sinh không ?
“Trước
mặt nhân loại, mỗi giáo dân là chứng nhân của sự phục sinh
và sự sống của Chúa Giêsu, đồng thời là dấu hiệu của Thiên
Chúa hằng sống. Tất cả và mỗi người góp phần nuôi dưỡng thế
giới bằng những hoa trái thiêng liêng (x Gl 5,22), và truyền
bá cho thế gian tinh thần của những người nghèo khổ, hiền
lành và hiếu hòa, những người mà Phúc Âm Chúa đã tuyên bố là
có phúc.” (x Mt 5,3-9).
Tóm lại
“người Kitô hữu hãy làm cho thế giới sống như linh hồn làm
cho thân xác sống.” (Th Gioan Kim Khẩu) (GH số 38)
16. Người giáo dân có nhiệm vụ canh tân
trật tự trần thế không ?
“Người
giáo dân phải đảm nhận việc canh tân trật tự trần thế như là
nhiệm vụ riêng, và trong nhiệm vụ đó, được hướng dẫn nhờ ánh
sáng Phúc Âm và theo tinh thần của Hội Thánh, với bác ái
Kitô giáo thúc đẩy, họ phải trực tiếp và cương quyết hành
động.”
“Với tư
cách là công dân, họ phải đem khả năng chuyên môn cùng với
tinh thần trách nhiệm để cọng tác với các công dân khác. Họ
phải tìm sự công chính nước Thiên Chúa ở mọi nơi và trong
mọi sự. Phải canh tân trật tự trần thế cách nào để vẫn tôn
trọng toàn vẹn các định luật riêng của nó mà vẫn làm cho
trật tự đó phù hợp với các nguyên tắc cao cả của đời sống
Kitô giáo, cùng thích nghi với các hoàn cảnh khác nhau của
các địa phương, các thời đại và các dân tộc.”
“Trong
những công cuộc của việc tông đồ này nổi bật hơn cả là hoạt
động xã hội của người Kitô hữu. Thánh Công Đồng ước ao hoạt
động đó lan đến mọi lãnh vực trần thế, kể cả lãnh vục văn
hóa.” (TĐ số 7)
17. Người giáo dân có thể góp phần vào
công cuộc tông đồ của hàng
giáo phẩm không ?
“Ngoài
việc tông đồ này, mọi việc có liên quan đến mọi Kitô hữu
không trừ ai, giáo dân có thể còn được mời gọi góp phần trực
tiếp hơn và bằng nhiều cách vào công cuộc tông đồ của hàng
giáo phẩm, giống như những tín hữu nam nữ đã chịu vất vả vì
Chúa Kitô để giúp đỡ tông đồ Phaolô rao giảng Phúc Âm. (Pl
4,3; Rm 16,3 tt). Đằng khác, họ có những khả năng mà hàng
giáo phẩm có thể dùng một số phận vụ thuộc hàng giáo sĩ có
mục đích thiêng liêng.”
“Bởi vậy,
nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định cứu độ
của Thiên Chúa ngày càng lan rộng tới tất cả mọi người ở mọi
nơi và mọi thời đại. Vì thế, khắp nơi phải mở đường cho họ
tham gia vào công cuộc cứu độ của Hội Thánh, tùy sức lực họ
và tuỳ nhu cầu của thời đại.” (GH số 33)
Lm Giuse
Hoàng Kim Đại
(Trích dẫn và trình bày)