ĐỨNG DẬY! TA ĐI NÀO!
Levez-Vous! Allons!
TỰ THUẬT
của
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Nhà Văn Hương
Vĩnh
chuyển ngữ
MỤC LỤC
Lời Dịch Giả
Lời Giới Thiệu
Dẫn Nhập
Chương I.- Ơn Gọi
Chương
II.- Hoạt động Giám Mục
Chương III.- Cam kết khoa học và mục vụ
Chương IV.- Tình phụ tử của Giám Mục
Chương V.- Tập thể tính Giám Mục
Chương VI.- Thiên Chúa và lòng can đảm
LỜI DỊCH GIẢ
LÊNH ĐÊNH
TRÊN MẶT ĐẠI DƯƠNG
Những ai có dịp tham gia một chuyến hải trình
bằng du thuyền sẽ đánh giá cao những vị thuyền trưởng cùng nhân viên phục
dịch trên những du thuyền đó. Đặc biệt, những du thuyền xuôi ngược theo
những hải trình ở vùng Biển Caribbean, thường ghé qua những trạm
ngừng tại Cayman Island, Cozumel, Belize city và Costa Maya với cảnh
trí thật tuyệt vời!
Trong những trạm trên đây, trạm dừng tại bãi
biển COZUMEL là nơi mà tháng 11 năm 2005 vừa qua đã xảy ra một trận bão tố
dữ dội khiến sóng biển dâng lên tràn ngập miền duyên hải và cuốn lôi những
quán xá xuống biển. Những vết tang thương hiện còn để lại nơi đó. Những hàng
dừa cao và cây xanh bóng mát xinh đẹp trước kia nay trở nên hoang tàn.
Qua mạng truyền hình trong thời gian đó,
thường xuất hiện hình ảnh những chiếc du thuyền bập bềnh trên sóng nước thật
hãi hùng! Chắc chắn các vị thuyền trưởng lúc bấy giờ phải tận dụng hết khả
năng để giữ vững con tàu vượt qua mọi cơn phong ba bão táp.
Cương vị của Đức Giáo Hoàng trong Giáo Hội
Công Giáo cũng giống vai trò của vị thuyền trưởng trên một du thuyền ở giữa
đại dương. Vị thuyền trưởng đem hết sức mình để cùng với các cấp chỉ huy và
thủy thủ đoàn cố gắng lèo lái con tàu an toàn, hầu mọi du khách được vui
hưởng những ngày thích thú bình an trong chuyến hải trình. Tương tự, Đức
Giáo Hoàng cùng với Giám Mục Đoàn ngày đêm cật lực chèo chống con thuyền
Giáo Hội vượt qua đại dương trần thế trong mọi thời kỳ đảo điên ngõ hầu đến
bến an toàn.
Ngày
02-04-2006 tới đây kỷ niệm một năm
Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II băng hà. Ngài là một vị Giáo Hoàng hiện đại
nêu gương “MỤC TỬ CHÂN CHÍNH” cho hết mọi mục tử trong Giáo Hội Công Giáo
ngày nay. Những tâm tình mục tử của ngài đã được chính ngài ghi lại trong
quyển tự thuật dưới nhan đề “LEVEZ-VOUS! ALLONS!”
(ĐỨNG DẬY! TA ĐI NÀO!) vào năm 2003, nhân dịp kỷ niệm
45 năm tấn phong giám mục và 25 năm triều đại giáo hoàng của ngài. Ngài được
yêu cầu viết ra những hoài niệm liên tục của ngài kể từ năm 1958 là năm ngài
được bổ nhiệm giám mục.
Đức Thánh Cha thuật lại những gì Chúa Quan
Phòng đã tiên liệu cho ngài. Độc giả say mê quyển sách đó vì những “TÂM TÌNH
CỦA NGƯỜI MỤC TỬ” tỏ lộ nơi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, khi Ngài còn là
Giám Mục, Tổng Giám Mục, cho đến Hồng Y rồi Giáo Hoàng.
Suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, một số giáo
hoàng đã trải qua những cơn “phong ba bão táp” kinh hồn của những thời đại
tương ứng, như Đức Thánh Cha Piô XII trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Riêng Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị cũng gặp những đại họa không kém phần dữ dội,
từ sự sụp đổ của chế độ Cộng Sản tại các nước Đông Âu và Nga Sô đến những
băng hoại về mặt luân lý mà ngài mệnh danh là “VĂN MINH SỰ CHẾT”, chà đạp
lên triệu triệu sinh mạng thai nhi và con người mỗi năm.
Khi viết về cuộc đời của Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II, những khía cạnh trên đây đã được nhiều tác giả nhắc tới. Tuy
nhiên Giáo Hội đang đứng trước một thách đố lớn lao xảy ra ngay trong lòng
Giáo Hội: đó là “THÁI ĐỘ SỐNG CỦA CÁC MỤC TỬ” trong vai trò dẫn dắt đoàn
chiên của Chúa.
Đành rành môi trưòng mục vụ của Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đã xảy ra trong một thời điểm khác, với một không gian và
thời gian đặc thù, nhưng “TINH THẦN CŨNG NHƯ TÂM TÌNH MỤC TỬ” của ngài thì
chung cho hết mọi mục tử, vượt qua mọi không gian và thời gian cố định, để
trở nên ngọn đèn soi sáng các mục tử khắp nơi, ngõ hầu “chăn dắt những
đoàn chiên con và chiên mẹ của Chúa Kitô” theo tâm tình và ý hướng của
Chúa Kitô
Khi tham gia những cuộc du thuyền trên đại
dương, những chuyện bất trắc thường xảy ra cho du khách, như bị mất tích khi
lên bờ du ngoạn, hoặc thất lạc khi đi mua sắm nhưng quên giờ giấc về tàu… Đó
cũng là những hình ảnh bi thương thường xảy ra trong con tàu Giáo Hội. Sự
kiện một số người lìa bỏ Giáo Hội ra đi một nơi vô định hay bị trễ tàu…trong
thời đại nào cũng có. Ca dao Việt-Nam có câu:
“Lênh
đênh qua cửa Thần Phù,
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.”
Trách nhiệm các cấp mục tử trong Giáo Hội thật
nặng nề biết bao! Các mục tử phải dẫn dắt Giáo Hội để không một ai bị chết
chìm hay phải hư mất giữa đại dương trần thế, như lời cầu nguyện của Chúa
Giêsu trong bữa tiệc ly: “Con đã canh giữ và không một ai trong họ phải
hư mất…” (Gio 17, 12).
Khi nhắc tới khuôn mặt khả kính của Đức Cha
Karol Jozéf Vojtyla, Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Cracovie – tức Đức
Thánh Cha Gioan Phao-lồ II sau nầy - người ta không thể quên được khuôn mặt
khả ái của Đức Cha Phi-líp-phê Nguyễn-Kim-Điền, trước đây là Tổng
Giám Mục Tổng Giáo Phận Huế, Việt-Nam.
Trong “THƯ MỤC VỤ” ngày 19/10/1985, gởi các
linh mục, nam nữ tu sĩ và toàn thể giáo dân Giáo Phận Huế, Đức Tổng Giám Mục
Phi-lip-phê Nguyễn-Kim-Điền đã viết:
“Năm 1981, khi nhóm họp Thượng Hội Đồng Giám
Mục Thế Giới, tôi đã tuyên bố điều nầy: ‘Trong quá khứ, nhiều Giám Mục đã
chết để bênh vực quyền lợi Giáo Hội. Nhưng hiện nay, có Giám Mục nào sẵn
sàng chết để bênh vực nhân quyền không?’ Ngày nay tôi được toại nguyện:
Thiên Chúa kêu gọi tôi chịu lao tù và chết để bênh vực nhân quyền và công
lý.
……
Nhưng khi luật lệ ngược với Thánh Ý Thiên
Chúa, vi phạm nhân quyền mà luật căn bản nhất là tự do tín ngưỡng, lúc đó,
như tôi đã đăng ký trong biên bản lập tại sở công an tỉnh Bình Trị Thiên
ngày 15/10/1984: ‘Như các thánh Tông Đồ khi xưa và các vị Tử Đạo mọi đời,
tôi phải tuân phục luật Chúa hơn luật loài người’.
Kết quả của việc đăng ký trên là lao tù và
chết chóc. Những kết quả nầy, vị chủ chăn của anh chị em, ngày hôm nay đã
sẵn sàng đón nhận. Ngài vui lòng đón nhận những kết quả đó như phần thưởng
Chúa ban sau 25 năm Giám Mục, trong đó, 22 năm phục vụ Giáo Phận HUẾ.
……
Giờ đây, thưa anh chị em thân mến, tôi chỉ xin
anh chị em một điều: Đội ơn Thiên Chúa với tôi, và tăng thêm lời cầu nguyện
để tôi hoàn toàn trung tín với Thiên Chúa và Giáo Hội cho đến hơi thở cuối
cùng.”
Với lời nguyện ước “trung tín cho đến hơi thở
cuối cùng”, Thiên Chúa đã ban cho ngài một cái chết đầy quả cảm, một cái
chết đã chinh phục lòng thương mến của mọi người – giáo dân cũng như lương
dân.
Trong tang lễ của ngài ngày 15 tháng 6 năm
1988, một người ngoại đạo đã thổ lộ những tâm tình thương mến qua những vần
thơ dưới đây. Tác giả đã ký tên “TỪ TÂM”, nhưng không rõ đó là tên thật, bút
hiệu hay pháp danh.
LÒNG NGƯỜI NGOẠI ĐẠO
Kính gởi
Hương Hồn Đức cố Tổng Giám Mục Phi-lip-phê
Nguyễn-Kim-Điền
ngày ngài quá cố 08-06-1988
Con
đến Phủ-Cam giữa ngày tang lễ,
Góp
nỗi buồn trong muôn vạn niềm đau.
Hàng triệu tín đồ sát cánh bên nhau,
Vạn
vật đổi thay, lòng TIN bất diệt.
Cha
với con tuy chưa từng quen biết,
Lòng kính yêu Cha vô bến vô bờ.
Sống giữa muôn người con vẫn bơ vơ,
Nhiều lúc tâm tư hướng về tôn giáo.
Nhưng, tổ tiên con tám đời ngoại đạo,
Lẽ
nào con trái ý tổ tiên mình.
Con
sống sao cho trọn nghĩa trọn tình,
Dù
quá gian lao, dù nhiều đau khổ.
Nếu
phải chết để đền ơn tri ngộ,
Con
tiếc chi chút bèo bọt hình hài.
Con
đứng từ xa, cúi mặt trước quan tài,
Tình mến bao la, ngậm ngùi trong thương tiếc.
Con
trân trọng kính gởi Cha lời CHÀO VĨNH BIỆT
Đến
Giáo Hội Việt-Nam lời chia buồn thắm thiết
Của
người con ngoại đạo kính yêu Cha.
Vừng trán thông minh, can đảm hiền hòa,
Thắm đượm tình thương qua nhiều di ảnh.
Ánh
mắt long lanh, chứa đầy sức mạnh,
Giản dị trên đầu chiếc nón bài thơ.
Cha
mất đi, một chuyện quá bất ngờ,
Đau
xót xiết bao “người còn kẻ mất”.
Thể
xác Cha nằm yên trong thánh thất,
Linh hồn Cha về cạnh Đức Chúa Trời.
Cha
để lại cho đời
Một
lòng TIN bất diệt,
Với
khuôn mặt trang nghiêm,
Với
tinh thần quyết liệt,
Lưu
lại ân tình trong hàng triệu con chiên,
Khi
nhắc tên Cha “GIÁM MỤC NGUYỄN KIM ĐIỀN”
Thánh đường Phủ-cam
Ngày tang lễ 15-06-1988
TỪ
TÂM
Khi còn là tổng giám mục Cracovie, Đức Cha
Karol Vojtyla đã hỗ trợ “Phong Trào Ốc Đảo” và ngài đã tham dự
những trại hè được tổ chức cho giới trẻ thuộc phong trào đó. Trong cuộc hành
hương vào năm 2003 ở Cracovie của Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II, những
thành viên của Phong Trào Ốc Đảo đã hát lên như sau:
Chúa đã đến bên bờ biển;
Ngài không kiếm tìm những người khôn ngoan,
những kẻ giàu có,
Ngài chỉ xin con theo Ngài.
Lạy
Chúa, Chúa đã nhìn con trong đôi mắt,
Chúa mỉm cười và gọi tên con.
Chiếc thuyền của con, con để lại trên bờ,
Cùng với Chúa con sẽ vượt qua một đại dương khác.
Và Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II đã nói với
họ: theo một nghĩa nào đó, bài hát của những ốc đảo đã đưa ngài ra khỏi quê
hương, cho tới tận Roma. Nội dung thâm sâu của bài hát đã nâng đỡ ngài, ngay
cả khi phải đối diện với sự quyết định của mật nghị các Đức Hồng Y. Và rồi,
suốt chiều dài triều đại giáo hoàng của ngài, không bao giờ ngài tách lìa
khỏi bài hát đó.
Chúa đã ban cho Đức Tổng Giám Mục Karol
Vojtyla được toại nguyện trong việc thể hiện lý tưởng ngài đã chọn lựa, cũng
như Đức Tổng Giám Mục Phi-lip-phê Nguyễn Kim Điền được hoàn tất hành trình
ngài đã dấn thân.
Trong tâm tình kính mến Đức Thánh Cha Gioan
Phao-lồ II và ước mong nhiều mục tử ngày nay sẽ theo bước chân ngài, chúng
tôi chuyển dịch tác phẩm “LEVEZ-VOUS! ALLONS!” (ĐỨNG DẬY!
TA ĐI NÀO!). Ngoài ra chúng tôi cũng mong muốn chia sẽ dịch phẩm nầy với
toàn thể Cộng Đồng Dân Chúa, vì như Đức Thánh Cha Gioan Phao-lô II đã minh
định: ơn gọi của mọi tín hữu được nhận lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, như Chúa Kitô
đã phán dạy, là “trở nên hoàn thiện như Cha trên Trời là Đấng Hoàn Thiện”.
Sách gồm có SÁU CHƯƠNG, ngoài “LỜI GIỚI THIỆU”
và phần “DẪN NHẬP”.
Những đoạn Phúc Âm trưng dẫn trong tài liệu
nầy được trích từ quyển “KINH THÁNH TRỌN BỘ - CỰU ƯỚC VÀ TÂN ƯỚC” do Tòa
Tổng Giám Mục Thành Phố Saigon thực hiện năm 1998.
Tiến trình phong thánh cho Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đã bắt đầu vào tháng 5 năm 2005 khi Giáo Phận Roma kêu gọi các tín
hữu Công Giáo đứng ra làm chứng xem Đức Thánh Cha có xứng đáng nên thánh
không.
Phải có một phép lạ xảy ra sau khi Đức Thánh
Cha băng hà để có thể tiến hành phong chân phước cho ngài. Và cần thiết phải
có một phép lạ nữa sau khi phong chân phước để có thể phong thánh cho ngài.
Toà Thánh đã chắc chắn phép lạ đầu tiên trong
tiến trình phong chân phước cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đó là việc
khỏi bệnh mà giới y khoa không giải thích được của một nữ tu người Pháp bị
bệnh Parkinson như ngài.
Trong cuộc phỏng vấn của đài truyền hình Rai
của Ý và hãng tin Reuters của Đức, Đức ông Slowomir Oder, người đứng
đầu ủy ban điều tra phong thánh cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cho
biết rằng tiến trình điều tra sơ khởi bắt đầu vào tháng 10 năm 2005, về việc
lành bịnh của một nữ tu ẩn danh ở Pháp.
Ngài nói rằng nữ tu người Pháp này bị suy yếu
giống như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong giai đoạn cuối đời của ngài và
đã được lành bệnh một cách lạ lùng khi cầu nguyện với Đức Thánh Cha sau khi
ngài qua đời. Đức Ông Slowomir Oder nói rằng những điều tra viên của Tòa
Thánh sẽ bắt đầu nghiên cứu chính thức và chi tiết hơn về sự lành bệnh lạ
lùng nầy.
Hương Vĩnh
Mùa Xuân Bính Tuất - 2006
LỜI GIỚI THIỆU
Ngài Karol Jozéf Wojtyla - trở thành
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1978 – sinh ngày 18 tháng 5 năm 1920 ở
miền Wadowice, Ba-Lan. Ngài theo học ngành kịch nghệ tại Đại Học
Cracovie. Sau khi đại học nầy bị quân đội Đức Quốc Xã đóng cửa, ngài
Karol thoát được, khỏi bị giam giữ tại các trại tập trung ở Đức quốc.
Từ năm 1942, ngài theo học ở chủng viện chui
tại Cracovie. Sau Đại Thế Chiến Thứ Hai, ngài học môn thần học ở đại học cho
tới khi được phong chức linh mục vào năm 1946. Tiếp theo sau những năm học
tiến sĩ, linh mục Wojtyla trở thành giáo sư thần học luân lý và đạo đức học
về xã hội tại Đại Chủng Viện Cracovie và Phân Khoa Thần Học ở Lublin.
Năm 1958, Đức Thánh Cha Piô XII bổ nhiệm ngài
làm Giám Mục phụ tá ở Cracovie. Năm 1964, ngài được Đức Thánh Cha Phaolô VI
bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Cracovie và được phong tước vị Hồng Y năm 1967.
Khởi từ triều đại giáo hoàng của ngài vào ngày
16 tháng 10 năm 1978, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã thực hiện nhiều
chuyến tông du tại nhiều nơi trên thế giới. Ngài đã ban hành nhiều văn kiện
tôn giáo (thông điệp, tông huấn), và xuất bản một số sách trong đó có quyển
tự thuật, nhan đề “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (năm 1994) và gần đây
là quyển “Đứng Dậy! Ta Đi Nào!” (năm 2003) – một tác phẩm chứa đựng
những suy tư về cuộc đời và sứ vụ giám mục của ngài.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết:
“Khi đến ‘giờ của Ngài’, Chúa Giêsu nói
với những người ở với Ngài trong vườn Giết-sê-ma-ni là Phê-rô, Gia-cô-bê và
Gioan – những môn đệ mà Ngài đặc biệt yêu thương: ‘Đứng dậy! Ta đi nào!’
Chúa Giêsu không phải một mình ‘ra đi’ làm trọn Thánh Ý Chúa Cha: họ cũng
phải ra đi với Ngài nữa.
Tôi nói điều đó nhằm nhắc tới nơi chốn mà tình
yêu Chúa Kitô Đấng Cứu Thế đã dẫn đưa tôi, bằng cách kêu gọi tôi ra khỏi quê
hương tôi để sinh hoa kết quả ở nơi khác, một hoa trái được tồn tại, nhờ Ân
Sủng của Ngài.
Vì vậy, để làm vang động lại lời của Thầy Chí
Thánh và Chúa chúng ta, tôi cũng lặp lại với mỗi một người trong anh em,
thưa Chư Huynh rất thân mến trong chức giám mục: ‘Đứng dậy! Ta đi nào!’
Hãy đi trong sự phó thác nơi Chúa Kitô. Ngài sẽ đồng hành với chúng ta để
đạt tới mục đích mà chỉ một mình Ngài biết được.”
DẪN NHẬP
Khi phát hành quyển sách “Ma vocation: don
et mystère” (Ơn gọi của tôi: tặng phẩm và huyền nhiệm” ghi lại
những kỷ niệm và suy tư về lúc khởi đầu cuộc đời linh mục của tôi, tôi đã
nhận được nhiều chứng từ đón tiếp nồng hậu đối với quyển sách đó, nhất là về
phía giới trẻ.
Theo những gì người ta nói với tôi, đối với
nhiều người trong giới trẻ đó, phần bổ sung của Tông Huấn “Pastores dabo
vobis” (“Thầy sẽ ban cho các con những mục tử”) được xác nhận là
một sự hỗ trợ quí báu để trao ban cho họ một sự nhận thức đúng đắn về ơn gọi
của họ.
Điều đó khiến tôi rất vui. Cầu xin Chúa Kitô
tiếp tục dùng những suy tư đó để đem nhiều người trẻ khác lắng nghe tiếng
mời gọi của Ngài: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh
thành những kẻ lưới người.” (Mc 1, 17).
Nhân dịp kỷ niệm 45 năm tấn phong giám mục và
25 năm triều đại giáo hoàng của tôi, tôi được yêu cầu ghi lại những hoài
niệm liên tục kể từ năm 1958 là năm tôi trở thành giám mục. Tôi thiết tưởng
phải chấp nhận lời thỉnh cầu đó, cũng như tôi đã chấp nhận sự gợi ý để cho
ra đời quyển sách trước đây.
Một lý do nữa để thu thập và sắp xếp cho có
thứ tự những ký ức và suy tư đó phát sinh bởi một trình tự tăng tiến của một
tài liệu dành cho sứ vụ giám mục. Đó là Tông Huấn “Pastores gregis”
(“Các mục tử đoàn chiên Chúa”) mà trong đó tôi đã trình bày một cách
có hệ thống những ý tưởng được phát biểu suốt khóa họp khoáng đại lần thứ X
của Thượng Hội Đồng Giám Mục diễn ra trong dịp kỷ niệm năm thánh 2000.
Trong khi lắng nghe những nghị phụ trình bày
cũng như nắm bắt ý nghĩa những văn bản đề nghị, tôi cảm thấy thức dậy trong
tôi nhiều kỷ niệm, cũng như nhiều năm tôi được giao phó việc phục vụ Giáo
Hội ở Cracovie và trải qua những kinh nghiệm mới tại Roma, trong tư cách
người kế vị Thánh Phê-rô.
Tôi đã cố gắng viết ra những tư tưởng đó với
niềm ước mong cũng được chia sẻ với những người khác về chứng tá tình yêu
Chúa Kitô, trải qua bao thế kỷ, luôn mời gọi những người mới kế vị các tông
đồ, ngõ hầu tuôn tràn Ân Sủng của Ngài trên con tim những anh em khác, qua
trung gian những chiếc bình sành mỏng dòn.
Những hoài niệm của tôi luôn chan chứa những
lời Thánh Phao-lô nói với vị giám mục trẻ tuổi Timothée: “Chúa đã cứu độ
và kêu gọi chúng ta, không phải vì chính những công việc chúng ta đã làm,
nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Ngài. Ân sủng đó, Ngài đã ban cho
chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu.” (2Tm 1, 9).
Tôi hiến tặng những trang sách nầy như là dấu
ấn tình yêu của tôi đối với anh em trong chức giám mục và đối với hết thảy
dân Chúa. Ước mong những trang sách nầy soi sáng cho những ai muốn biết sự
cao cả của sứ vụ giám mục và nỗi tân khổ cũng như niềm vui do sứ vụ đó mang
lại trong tác vụ hằng ngày!
Tôi mời gọi hết mọi độc giả hãy cùng tôi cất
lên bài ca “Tạ Ơn” (“Te Deum”) để cảm tạ Hồng Ân Thiên Chúa.
Hãy hướng mắt về Chúa Kitô, được nâng đỡ bởi niềm hy vọng không lừa dối,
chúng ta hãy cùng nhau tiến vào thiên niên kỷ mới: “Đứng dậy! Ta đi nào!”
(Mc 14, 42).
+
Gioan Phao-lồ II
CHƯƠNG
MỘT
ƠN GỌI
“Không phải
anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em.”
(Gio 15, 16)
1.- Nguồn gốc ơn gọi
Tôi truy cập suối nguồn ơn gọi của tôi, một ơn
gọi phập phồng trào dâng lên tại đó – tại căn phòng ở kinh thành
Giê-ru-sa-lem. Tôi cảm tạ ơn Chúa, bởi vì trong Đại Năm Thánh 2000, tôi đã
được cầu nguyện chính ở trong “căn phòng rộng rãi trên lầu” đó (Mc
14, 15), nơi mà xưa kia đã diễn ra bữa tiệc ly.
Ngay bây giờ đây, bằng ý tưởng, tôi cũng trở
về với ngày thứ năm đáng ghi nhớ đó, khi Chúa Kitô “vẫn yêu thương những
người thuộc về mình cho đến cùng” (Gio 13, 1), đã thiết lập hàng
tư tế của giao ước mới.
Tôi thấy Ngài cũng cúi xuống trước mỗi một
người trong chúng ta là những kẻ kế vị các thánh tông đồ để rửa chân chúng
ta. Và tôi nghe những lời nầy như thể được ngỏ vớì tôi: “Anh em có hiểu
việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’,
điều đó phải lắm, vì quả thật Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa,
là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.
Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.”
(Gio 13, 12-15).
Cùng với các thánh tông đồ Phê-rô, An-rê,
Gia-cô-bê và Gioan, chúng ta hãy nghe thêm: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế
nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương
của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình
thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong
tình thương của Ngài.
Các điều ấy Thầy đã nói với anh em để anh
em được hưởng niềm vui của Thầy và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh
tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực
hiện những điều Thầy truyền dạy.” (Gio
15, 9-14).
Phải chăng mầu nhiệm của đức ái (mysterium
caritatis) không bao gồm trong những lời nói đó sao? Trong những lời mà
Chúa Giêsu đã nói “vì giờ nầy mà Con đã đến” (Gio 12, 27)
chính là gốc rễ ơn gọi chúng ta trong Giáo Hội.
Từ những lời nói đó tuôn tràn nhựa sống nuôi
dưỡng ơn gọi – ơn gọi của các tông đồ và của những kẻ kế vị các tông đồ cũng
như ơn gọi của hết mọi người – bởi vì Chúa Con muốn trở thành bạn hữu của
mỗi người: chính vì tất cả mọi người mà Ngài đã trao ban mạng sống mình.
Người ta tìm thấy trong những lời nói đó tất
cả những gì quan trọng nhất, quí báu nhất, linh thánh nhất: tình yêu Chúa
Cha và tình yêu Chúa Kitô đối với chúng ta, nỗi vui của Ngài và nỗi vui của
chúng ta, cũng như sự thân tình và lòng trung tín của chúng ta được chứng tỏ
qua sự hoàn thành những điều huấn dụ của Ngài.
Những lời đó cũng chứa đựng mục đích và ý
hướng ơn gọi chúng ta: đó là “ra đi và sinh được hoa trái để hoa trái
chúng ta tồn tại”. (Gio 15, 16).
Rốt cuộc, tình yêu là sợi dây nối kết tất cả:
nối kết một cách thực thể Ba Ngôi Thiên Chúa và cũng nối kết, trên một bình
diện hoàn toàn khác biệt, những con người với nhau và vô số ơn gọi khác nhau
của họ nữa. Chúng ta đã trao phó đời sống chúng ta cho Chúa Kitô là Đấng đã
yêu thương chúng ta trước tiên và, trong tư cách là Đấng Mục Tử nhân hậu,
Ngài đã hiến tế đời Ngài vì chúng ta.
Các tông đồ Chúa Kitô đã nghe những lời nói đó
và đã đem áp dụng cho chính mình, chân nhận trong những lời nói đó một lời
mời gọi có tính cách cá nhân. Cũng thế, cả chúng ta nữa là những người kế vị
- những mục tử của Giáo Hội Chúa Kitô – chúng ta không thể không tự cảm thấy
mình là những người đầu tiên cam kết đáp lại tình yêu đó, trong sự trung
tín, sự thực thi những giới răn và hằng ngày trao ban đời mình cho những bạn
hữu của Chúa.
“Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình
cho đoàn chiên.” (Gio 10, 11). Trong bài giảng của tôi hôm 16
tháng 10 năm 2003 tại quảng trường Thánh Phêrô, nhân dịp kỷ niệm 25 năm
triều đại giáo hoàng của tôi, tôi đã đề cập đến vấn đề đó:
“Khi Chúa Giêsu nói những lời đó, các tông đồ
không biết Ngài nói về chính mình Ngài. Ngay cả Thánh Gioan là tông đồ được
thương mến cũng không biết nữa. Thánh Gioan chỉ biết điều đó ở trên đồi
Can-vê, dưới chân thánh giá, khi thấy Chúa Giêsu dâng hiến một cách thầm
lặng mạng sống mình cho ‘đoàn chiên của Ngài’.
Khi đến lượt Thánh Gioan và những tông đồ khác
phải đảm nhận cũng chính sứ vụ đó, lúc bấy giờ họ nhớ lại những lời nói của
Ngài. Họ nhận ra rằng, chỉ vì Chúa Giêsu đã đoan chắc chính Ngài đã hành
động qua sự trung gian của họ, họ mới có thể chu toàn sứ vụ cho đến hoàn
tất.”
“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng
chính Thầy đã chọn anh em và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa
trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (Gio 15, 16). Không phải
anh em, nhưng chính Thầy! Chúa Kitô nói như thế. Đó là nền tảng của hiệu
năng sứ vụ mục tử của giám mục.
2.- Ơn gọi
Đó là vào năm 1958. Với một nhóm người say mê
chèo xuồng, tôi đã ở trên chuyến xe lửa đi đến Olsztyn. (Olsztyn
là trung tâm văn hoá và du lịch –
thủ phủ miền Mazurie, ở về hướng đông nam Ba-lan.) Chúng tôi bắt đầu
kỳ nghỉ hè theo chương trình của chúng tôi kể từ năm 1953.
Chúng tôi trải qua một phần thời gian ở vùng
rừng núi mà phần lớn ở tại Bieszczady. (Bieszczady là công
viên quốc gia ở phía đông nam Ba-lan, sát biên giới Ukraine và Slovaquie).
Phần khác thời gian, chúng tôi sử dụng ở những vũng hồ thuộc miền Mazurie.
(Mazurie ở miền đông bắc Ba-lan, được mệng danh là “vùng ngàn
hồ”).
Mục đích chúng tôi nhắm tới là dòng sông Lyna.
(Lyna là một con sông ở giữa Ba-Lan và Nga-sô [Kaliningrad]). Chính
vì thế mà chúng tôi đi trên chuyến tàu đến Olsztyn, vào dịp tháng bảy. Ngỏ
lời với người có nhiệm vụ ‘đô đốc’, nếu tôi nhớ không nhầm, lúc bấy giờ là
Zdzislaw Heydel, tôi nói như sau: “Zdzislaw ạ, chỉ ít lâu nữa tôi
phải rời xuồng, bởi vì Đức Giáo Chủ muốn gặp tôi nên tôi phải trình diện
ngài.”
Sau khi Đức Hồng Y August Hlond qua đời
vào năm 1948, lúc đó Đức Hồng Y Stefan Wyszynski là giáo chủ.
‘Đô đốc’ trả lời: “Được rồi, con sẽ lo liệu.”
Và như vậy, tới ngày đó, tôi đã rời nhóm để
đến nhà ga xe lửa gần nhất là Olsztynek. (Olsztynek là một thị trấn
nhỏ ở về phía tây nam Olsztyn.)
Vì biết mình phải trình diện Đức Hồng Y Giáo
Chủ, khi vượt qua sông Lyna, tôi đã tiên liệu và để lại nơi những người mà
tôi quen biết tại Varsovie, chiếc áo dòng mặc trong những ngày lễ. Quả thật,
khó mà đến với Đức Giáo Chủ với chiếc áo dòng tôi mang theo trong những cuộc
thám hiểm bằng xuồng. Trong những cuộc thám hiểm như thế, tôi luôn mang theo
một chiếc áo dòng và những áo lễ để cử hành Thánh Lễ.
Vì vậy trước hết tôi bơi xuồng trên sông, rồi
chuyển sang một chiếc xe vận tải chở những bao bột mì cho tới Olsztynek.
Chiếc xe lửa đi Varsovie khởi hành trễ giữa đêm khuya. Vì vậy tôi đã mang
theo một chiếc áo ấm bằng lông, vì nghĩ rằng sẽ ngủ đôi chút ở nhà ga trong
khi chờ đợi chuyến tàu. Tôi đã xin một người gần đó đánh thức tôi dậy. Nhưng
điều đó không cần thiết, bởi vì tôi không thể chợp mắt được.
Tại Varsovie, tôi trình diện ở tòa tổng giám
mục, đường Miodowa, theo giờ giấc đã ấn định. Tôi nhận thấy tại tòa tổng
giám mục có ba linh mục khác cũng được triệu tập cùng với tôi.
Đó là cha Wilhelm Pluta ở Silésie. (Silésie
là một vùng ở phía tây nam Ba-lan và là đối tượng tranh chấp trong nhiều thế
kỷ ở giữa người Ba-lan và người Đức, nhưng cuối cùng thuộc về Ba-lan sau Đệ
Nhị Thế Chiến). Cha là cha xứ Bochnia thuộc giáo phận Tarnow. (Tarnow
ở vùng Carpates là một trong những thành phố cổ kính của Ba-lan, cách
Cracovie độ 80 cây số.)
Hai cha xứ kia là cha Michael Blecharczyk
và cha Jozef Drzazga ở Lublin.
Vào lúc đó, tôi không nhận ra sự trùng hợp.
Chỉ về sau tôi mới hiểu rằng chúng tôi đã được triệu tập cũng vì một nguyên
nhân giống nhau.
Khi đi vào trong văn phòng Đức Giáo Chủ là Đức
Hồng Y Stefan Wyszynski, tôi mới vỡ lẽ ra là Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm tôi
làm giám mục phụ tá cho Đức Tổng Giám Mục Cracovie. Vì chưng, vào tháng hai
cũng năm đó (1958) Đức Cha Stanislaw Rospond đã qua đời. Trong nhiều
năm, ngài là giám mục phụ tá Cracovie vào thời điểm mà Đức Tổng Giám Mục
tổng giáo phận là Đức Hồng Y hoàng tử Adam Sapieha. (Đức Hồng Y Adam
Sapieha xuất thân là một hoàng tử.)
Đợi đến khi Đức Giáo Chủ nói hết quyết định
của Tòa Thánh, tôi trả lời: “Thưa Đức Hồng Y, con còn quá trẻ: con chỉ mới
38 tuổi!”
Nhưng Đức Giáo Chủ đáp: “Đó là một khuyết điểm
mà cha sẽ tự giải kết mau chóng! Tôi xin cha đừng cưỡng lại ý muốn của Đức
Thánh Cha.”
Lúc bấy giờ tôi chỉ thưa một tiếng: “Con xin
chấp nhận.”
Đức Giáo Chủ kết thúc: “Vậy chúng ta đi ăn
trưa.”
Đức Hồng Y Stefan Wyszynski đã mời tất cả bốn
chúng tôi ăn trưa. Do đó tôi được biết cha xứ Wilhelm Pluta được bổ
nhiệm giám mục ở Gorzow Wielkopolski lúc bấy giờ là giám hạt tông tòa lớn
nhất ở Ba-lan, bao gồm Szczecin và Kolobrzeg, nghĩa là một trong những giáo
phận kỳ cựu nhất, vì chưng Kolobrzeg được thiết lập năm 1000 cùng lúc với
tổng giáo phận Gniezno mà Kolobrzeg trực thuộc, ngoài ra còn có Cracovie và
Wroclaw cũng trực thuộc nữa. (Wroclaw là thành phố đứng thứ tư xét về
mặt dân số, ở vùng Hạ-Silésie, trên sông Odra, cách Cracovie 270 cây số và
cách Varsovie 300 cây số.)
Cha xứ Jósef Drzazga được bổ nhiệm giám
mục phụ tá Lublin (về sau ngài được đổi sang Olsztyn) và cha xứ Michal
Blecharzyk ở Tarnów cũng là giám mục phụ tá nữa.
Sau cuộc yết kiến đó – xem ra rất quan trọng
đối với cuộc đời tôi – tôi nhận ra rằng tôi không thể ngay lập tức trở lại
với bạn bè của tôi cũng như với chiếc xuồng của tôi. Trước hết tôi phải đi
Cracovie để thông báo với Đức Tổng Giám Mục của tôi là Đức Cha Eugeniusz
Baziak.
Trong lúc chờ đợi chuyến tàu đêm sẽ đưa tôi đi
Cracovie, tôi đã cầu nguyện hằng giờ trong nguyện đường các nữ tu dòng
Ursuline ở đường Wislana, Varsovie.
Đức Cha Eugeniusz Baziak là tổng giám mục Lvov
theo nghi lễ La-tinh, đã chia sẻ định mệnh của hết những người được gọi là
di dân: ngài đã phải rời bỏ Lvov. (Lvov là thành phố của Ba-lan được
thành lập năm 1256 bởi các hoàng tử hạt Halicz, nhưng bị sáp nhập vào Liên
Bang Sô-viết và trở thành tây đô của Ukraine vào năm 1945.)
Lúc bấy giờ ngài định cư ở Lubaczow, một phần
nhỏ nhoi của giáo phận Lvov. (Lubaczow là một thành phố nhỏ bé ở miền
đông nam Ba-lan, gần biên giới Ukraine.) Sau hiệp định Yalta, Lubaczow sáp
nhập trở lại với Cộng Hòa nhân dân Ba-lan.
Năm trước khi qua đời, hoàng tử Adam Sapieha
là tổng giám mục Cracovie, đã xin Đức Tổng Giám Mục Baziak bị bắt buộc rời
bỏ tổng giáo phận của mình, làm phụ tá cho ngài. Như vậy sứ vụ giám mục của
tôi đã liên kết theo thứ tự niên đại vào bản thân vị giáo sĩ bị nhiều thử
thách đó.
Ngày hôm sau khi đến Cracovie, tôi trình diện
Đức Cha Eugeniusz Baziak ở số 3 đường Franciszkanska và tôi đã trao
cho ngài lá thư của Đức Hồng Y Giáo Chủ. Tôi còn nhớ lại như xảy ra ngày hôm
nay, khi Đức Tổng Giám Mục cầm tay tôi và dẫn tôi vào phòng khách mà ở đó
vài linh mục đang ngồi. Bấy giờ ngài nói lên:
“Habemus papam!” (“Chúng ta đã có Đức Thánh
Cha”).
Dưới ánh sáng của những biến cố tiếp theo sau
đó, người ta có thể nói được rằng đó là những lời nói có tính cách tiên tri.
Tôi thổ lộ với Đức Tổng Giám Mục là tôi ao ước
được trở về Mazurie để gặp lại nhóm bạn hữu của tôi đang chèo xuồng trên
sông Lyna. Ngài trả lời: “Từ nay, có lẽ điều đó không còn thích hợp nữa!”
Thay vì buồn bã bởi câu trả lời đó, tôi đã vào
nhà thờ dòng Phan-xi-cô và đi đàng thánh giá, suy ngắm những chặng đàng được
Jósef Mehơffer vẽ. Tôi tự ý vào nhà thờ đó để đi đàng thánh giá, bởi vì tôi
thích những chặng đàng vừa độc đáo vừa tân thời.
Kế đó, tôi trở lại nơi Đức Cha Baziak, lặp lại
lời cầu xin của tôi. Tôi thưa: “Thưa Đức Cha, con thấu hiểu nỗi ưu tư của
Đức Cha, nhưng con cũng cứ xin Đức Cha cho phép con trở lại Mazurie.”
Lần nầy ngài đáp: “Được, được, Đức Cha cứ đi.
Ngài còn nói thêm với một nụ cười: nhưng xin Đức Cha nhớ trở về cho kịp lễ
tấn phong.”
Ngay đêm đó, tôi lấy xe lửa đi Olsztyn. Tôi đã
mang theo quyển sách của Hemingway là “Ngư Ông và Biển Cả”. Tôi đã
đọc hầu như suốt đêm, chỉ chập chờn đôi lúc. Tôi cảm thấy một tình cảm là lạ
hầu như đang xâm chiếm lấy mình tôi…
Khi đến Olsztyn, tôi gặp lại bạn bè trong nhóm
đã tới và đang chèo xuồng theo dòng sông Lyna. Vị ‘đề đốc’ đến kiếm tôi ở
nhà ga và nói: “Vậy là họ đã chọn cha làm giám mục?”
Tôi trả lời đúng. Và anh ta nói thêm: “Đúng
thế…Trong thâm tâm con, con đã tưởng tượng ra y như thế và con xin chúc mầng
cha.”
Thật thế, trước đó ít lâu, khi cử hành Thánh
Lễ kỷ niệm 10 năm linh mục, anh ta đã cầu chúc tôi như thế. Ngày tôi được bổ
nhiệm giám mục, tôi làm linh mục chưa được 12 năm.
Tôi đã ngủ ít và khi đến nơi, tôi đâm ra mệt.
Tuy nhiên, trước khi đi nằm nghỉ, tôi đã đến nhà thờ dâng Thánh Lễ. Nhà thờ
được cha tuyên úy đại học làm quản nhiệm và lúc bấy giờ là cha Tokarczuk,
vị giám mục tương lai. Sau đó, tôi có thể đi ngủ được.
Khi thức dậy, tôi nhận thấy tin bổ nhiệm tôi
làm giám mục được loan truyền, bởi vì cha Tokarczuk đã gọi tôi bằng những
lời nầy: “Chà! vị tân giám mục, xin chúc mừng!”
Tôi cười rồi đi gặp nhóm bạn bè. Tôi kéo xuồng
ra. Nhưng khi tôi bắt đầu chèo, một lần nữa, một cảm giác hơi lạ xâm chiếm
lấy tôi. Sự trùng hợp giữa những ngày tháng đã đập mạnh vào trí óc tôi: ngày
tôi được bổ nhiệm giám mục là 4 tháng 7 và chính đó là ngày thánh hiến nhà
thờ chính tòa Wawel.
Tọa lạc trên đồi Wawel ở Cracovie, nhà thờ
chính tòa Wawel là một trong những tòa nhà kiến trúc theo kiểu “gô-tic” đẹp
nhất ở Âu châu được xây dựng giữa những năm 1320 và 1364. Những nhà nguyện
của nhà thờ chính tòa nầy đã che chở những ngôi mộ các vì vua chúa và những
vị thánh bổn mạng nước Ba-lan.
Đó là một ngày kỷ niệm luôn vang động trong
tâm trí tôi. Đối với tôi, sự trùng hợp đó xem ra muốn nói lên một điều gì.
Tôi thiết nghĩ có thể đó là lần cuối cùng tôi có thể chèo xuồng. Trong thực
tế, tôi phải nói thêm điều nầy là tôi còn có thể bơi xuồng trên những dòng
sông và những mặt hồ miền Mazurie. Thật thế, tôi có thể bơi xuồng như vậy
cho đến năm 1978.
3.- Kế vị các tông đồ
Sau kỳ nghỉ hè, tôi trở lại Cracovie. Lúc bấy
giờ bắt đầu sửa soạn lễ tấn phong được ấn định vào ngày 28 tháng 9 là ngày
lễ Thánh Venceslas, thánh bổn mạng nhà thờ chính tòa Wawel. Sự cung
hiến nhà thờ lịch sử đó cho Thánh Venceslas nhằm làm nổi bật những tương
quan cổ xưa của đất nước Ba-lan với xứ Bohême, bởi vì Thánh Venceslas là một
quận công của xứ Bohême đã tử vì đạo dưới tay anh mình. Do đó Bohême tôn
kính Ngài như thánh bổn mạng.
Cuộc tĩnh tâm trở nên một giai đoạn chủ yếu
trong việc chuẩn bị tôi được tấn phong giám mục. Tôi đã tĩnh tâm ở Tyniec. (Tyniec
là đan viện Biển Đức cách Cracovie 12 cây số về phía tây nam, được xây cất
trên một mũi nhô ra biển vào thế kỷ mười một). Tôi thường hay đến đan viện
lịch sử đó.
Lần nầy tôi lưu lại ở đó với tính cách đặc
biệt lạ thường. Tôi sẽ trở thành giám mục và kể từ đây tôi đã được bổ nhiệm.
Nhưng còn khá nhiều thời gian trước khi được tấn phong, còn hơn hai tháng
nữa. Tôi phải tận dụng thời gian tĩnh tâm nầy cách tốt đẹp nhất.
Cuộc tĩnh tâm của tôi kéo dài sáu ngày – sáu
ngày chiêm niệm. Chúa ơi, nội dung thật phong phú và có chất lượng biết bao!
“Người kế vị các tông đồ” – chính đó là những chữ mà tôi đã được nghe
trong những ngày đó, trên đôi môi của một nhà vật lý học tôi quen biết. Dĩ
nhiên, những ai tin tưởng thì chấp nhận một tầm mức quan trọng đặc biệt cho
việc kế thừa tông đồ đó.
Tôi – một “người kế vị” – tôi đã suy nghĩ đến
các tông đồ của Chúa Kitô với rất nhiều khiêm tốn, nghĩ đến một sự liên tục
lâu dài của các giám mục, qua sự đặt tay lên đầu, đã truyền lại cho những
người kế vị các ngài được tham gia vào trọng trách tông đồ. Bây giờ đây họ
cũng trao lại cho tôi nữa. Tôi cảm thấy mình trên phương diện cá nhân được
liên kết với mỗi vị trong các đấng ấy.
Một số vị trong các đấng, trong dây xích kế
tục, đã đi trước chúng ta. Và chúng ta là những giám mục ngày nay, chúng ta
biết tên các ngài nữa. Nhiều vị trong các ngài được biết đến, bởi vì những
công tác mục vụ của các ngài rất đáng ghi nhớ.
Nhưng cả trong trường hợp các giám mục thời xa
xưa cho đến nay chúng ta không biết đến, có thể nói được rằng ơn gọi giám
mục của họ và công tác của họ vẫn tồn tại mãi mãi “và hoa trái của anh em
tồn tại” (Gio 15, 16). Điều đó thể hiện được cũng nhờ chúng ta
nữa là những người kế vị các thánh tông đồ.
Nói chính xác hơn, nhờ việc đặt tay của họ,
bằng vào sự hiệu nghiệm của bí tích truyền chức, nhờ thế chúng ta được liên
kết với Chúa Kitô là Đấng đã chọn họ và chọn chúng ta “trước cả khi tạo
thành vũ trụ” (Ep 1, 4). Một tặng phẩm và huyền nhiệm tuyệt diệu
biết bao!
“Nầy đây vị thượng tế suốt đời làm đẹp lòng
Thiên Chúa …Vì vậy Thiên Chúa đã cam kết thề nguyền làm cho Ngài lớn lên
đứng đầu dân mình.” Người ta đã hát như vậy trong phụng vụ. Vị thượng tế
tối cao duy nhất của giao ước mới và đời đời, chính là Chúa Giêsu Kitô. Ngài
đã dâng hiến lễ hy sinh trong chức tư tế bằng cách chết trên thập giá và
trao ban sự sống Ngài cho đoàn chiên, cho toàn thể nhân loại.
Chính Ngài, hôm trước cuộc hiến tế đẫm máu
trên thánh giá, đã thiết lập, trong bữa tiệc ly, bí tích truyền chức thánh.
Chính Ngài cầm bánh trong tay và đọc những lời nầy: “Đây là mình Thầy bị
trao nộp vì chúng con.” Sau đó chính Ngài cầm chén rượu trong tay và đọc
những lời nầy: “Đây là chén máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và cho nhiều
người, để được tha tội.” Và cuối cùng Ngài nói thêm: “Các con hãy làm
việc nầy để nhớ đến Thầy.”
Ngài đã nói điều đó trước mặt các tông đồ,
trước mười hai vị mà Phê-rô là người đứng đầu. Ngài đã nói với họ: “Các
con hãy làm việc nầy để nhớ đến Thầy.” Chính như vậy Ngài đã đặt để
họ làm linh mục giống Ngài, Linh Mục duy nhất và tối cao của giao ước mới.
Có lẽ các tông đồ đã dự phần vào bữa tiệc ly
không hiểu tức thời tất cả ý nghĩa của những lời nói đó sẽ được thực hiện
ngày hôm sau, khi thân thể Chúa Giêsu được trao phó thật sự để chịu chết và
máu Ngài bị đổ ra khi chịu khổ hình thập giá.
Có thể ngay lúc đó, họ chỉ hiểu là họ phải làm
lại nghi lễ bữa tiệc ly với bánh và rượu. Bởi vì sách “Công Vụ Tông Đồ”
thuật lại là sau biến cố Phục Sinh, những Kitô hữu đầu tiên trung thành
trong việc “bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2, 42). Và
vào thời điểm đó, ý nghĩa lễ nghi trở nên rõ ràng cho chúng ta từ đó.
Theo nghi lễ Giáo Hội, thứ năm tuần Thánh là
ngày tưởng niệm bữa tiệc ly và việc thiết lập bí tích Thánh Thể. Từ phòng
họp ở Giê-ru-sa-lem, việc cử hành Thánh Thể dần dần lan ra cả thế giới thời
bấy giờ. Trước tiên chính các tông đồ chủ tọa việc cử hành Thánh Thể ở
Giê-ru-sa-lem. Về sau, khi Phúc Âm càng phổ biến, họ đã cử hành Thánh Thể -
bởi chính họ hay bởi những người mà họ đã “đặt tay” - ở những nơi luôn luôn
mới, bắt đầu từ Tiểu Á.
Cuối cùng, với Thánh Phê-rô và Thánh Phao-lồ,
việc cử hành Thánh Thể đã đến Roma, vào thời kỳ chủ yếu của thế giới lúc bấy
giờ. Nhiều thế kỷ sau, Thánh Thể đã được cử hành ở Vistule.
(Vistule là miền có con sông lớn nhất
của Ba-lan, dài 1092 cây số mà 940 cây số tàu bè qua lại được. Sông nầy bắt
nguồn từ phía tây Carpates và làm thành một vòng cung trong vùng đồng bằng
nước Ba-lan, băng qua Varsovie, trước khi đổ ra bể Baltique. Vùng đó khí hậu
đại lục nên dòng sông Vistule mỗi năm bị băng giá hai ba tháng. Đó là con
sông biểu hiệu cho Ba-lan, được nhiều thi sĩ ca tụng.)
Tôi hồi tưởng trong thời gian tĩnh tâm trước
khi chịu chức giám mục, tôi đã cảm tạ Chúa cách đặc biệt bởi vì Phúc Âm và
Thánh Thể đã đến vùng sông Vistule và cũng đến Tyniec nữa. Đan viện
Tyniec ở ngoại ô Cracovie mà việc xây cất khởi đầu từ thế kỷ mười một,
đúng là nơi thích hợp để tôi có thể chuẩn bị lãnh nhận việc phong chức giám
mục ở nhà thờ chính tòa Wawel.
Vào năm 2002, trong chuyến tông du mục vụ ở
Cracovie, trước khi đáp chuyến máy bay trở về lại Roma, tôi đã có thể thăm
viếng Tyniec, cho dù trong thời gian ngắn ngủi, như để trả món nợ biết ơn
đối với cá nhân tôi. Có thể không phải riêng mình tôi thôi, mà cả toàn quốc
Ba-lan nữa.
Ngày 28 tháng 9 năm 1958 từ từ tiến lại gần.
Trước khi được tấn phong, tôi đã chính thức đến Lubaczóm như là giám
mục được bổ nhiệm, nhân dịp ngân khánh giám mục của Đức Tổng Giám Mục
Baziak. Đó là ngày lễ Đức Bà Bảy Sự Thương Khó được cử hành ngày 22 tháng 9
tại Lvov.
Tôi đến đó cùng một lượt với hai giám mục ở
Przemysl là các Đức Cha Franciszek Barda và Wojciech Tomaka.
(Przemysl là thành phố tráng lệ từ thời Trung Cổ, ở phía đông nam
Ba-lan, gần biên giới Ukraine.) Cả hai ngài rất lớn tuổi hơn tôi, vì tôi chỉ
mới 38 tuổi. Tôi cảm thấy hơi bối rối. Chính đó là những “thử thách” đầu
tiên trong cương vị giám mục của tôi. Một tuần sau là lễ tấn phong giám mục
ở Wawel
4.- Nhà thờ chính tòa
Wawel
Từ thuở thiếu thời, tôi cảm nghiệm một sự gắn
bó thật đặc biệt đối với nhà thờ chính tòa Wawel. Tôi không nhớ rõ tôi đã đi
tới đó lúc nào, nhưng kể từ khi tôi bắt đầu lui tới, tôi cảm thấy nhà thờ
chính tòa đó đã hấp dẫn và liên kết tôi một cách lạ thường. Một cách nào đó,
nhà thờ chính tòa Wawel đã chứa đựng tất cả lịch sử quốc gia Ba-lan.
Tôi đã trải qua một thời kỳ bi thảm khi quân
đội Đức Quốc Xã đặt để bản doanh vị toàn quyền của họ trong lâu đài Wawel và
họ đã kéo cờ chữ vạn lên trên đỉnh đồi. Điều đó đối với tôi là một kinh
nghiệm vô cùng đớn đau. Nhưng cuối cùng đã đến ngày lá cờ chữ vạn biến mất
và những biểu hiệu của đất nước Ba-lan đã được treo lên trở lại.
Nhà thờ chính tòa hiện nay đã có từ thời đại
đế Casimir III. (Đại đế Casimir III trị vì từ 1333-1370.) Trước mắt
tôi hiện đang lần lượt diễn ra những phần khác nhau của ngôi thánh đường đó
với những tòa nhà tương ứng. Chỉ cần đi qua gian giữa và những gian bên hông
để khám phá những xác ướp của các vì vua Ba-lan.
Và nếu người ta bước xuống những hầm mộ các
thi sĩ, người ta sẽ gặp những mộ phần của Mickiewicz Adam, Slowacki Juliusz
và sau cùng Norwid Cyprian Kamil. (Mickiewicz Adam là thi sĩ Ba-lan
nổi tiếng nhất, đã phục hoạt xã hội kín của giới trí thức nhằm quảng bá lý
tưởng ái quốc để chống lại sự đàn áp của Nga hoàng. Còn Slowacki Juliusz
– thi sĩ kiêm soạn kịch gia – là một trong những thi sĩ lãng mạn nổi tiếng
của Ba-lan cùng với Mickiewicz và Norwid.)
Như tôi đã nhắc tới trong sách “Ơn Gọi Của
Tôi: Tặng Phẩm và Huyền Nhiệm”, tôi ước mong cử hành Thánh Lễ đầu tiên
của tôi ở Wawel, trong hầm mộ Thánh Léonard ở dưới nhà thờ chính toà
và đã được như thế. Hẵn nhiên điều ao ước đó đến từ tình yêu sâu lắng mà tôi
đã cảm nghiệm đối với tất cả những gì mang một dấu ấn quê hương tôi. Nơi đó
rất thân thương đối với tôi vì mỗi một viên đá nhắc nhở tới đất nước Ba-lan,
tới sự vĩ đại của Ba-lan.
Tất cả cấu trúc của ngọn đồi Wawel rất thân
thương đối với tôi: nhà thờ chính tòa, đền đài và cung điện. Gần đây khi tôi
trở lại Cracovie, tôi cũng đã đến nhà thờ chính tòa Wawel và ở đó tôi đã cầu
nguyện trên mộ phần Thánh Stanislas. Tôi không thể đánh mất một dịp thăm
viếng nhà thờ chính tòa đó đã đón tiếp tôi trong hai mươi năm trước đây.
Nơi tôi quí mến nhất ở trong nhà thờ chính tòa
Wawel là hầm mộ Thánh Léonard. Đó là phần cổ kính của nhà thờ chính
tòa lùi lại thời vua Boleslas III. (Vua Boleslas III Krzywousty
[1102-1138] là nhà vua đã thống nhất Ba-lan nhưng lại thiết lập “viện trưởng
lão” cho phép phân chia vương quốc giữa các hoàng tử: điều nầy trong thực tế
đã đưa đến việc chia cắt đất nước.)
Chính hầm mộ chứng tỏ những thời kỳ cổ xưa hơn
nữa, bởi vì nhắc nhở lại những vị giám mục đầu tiên vào lúc khởi đầu thế kỷ
mười một – thời kỳ bắt đầu phả hệ giám mục Cracovie. Những vị giám mục đầu
tiên mang những tên hơi huyền bí: Prokop và Prokulf, hình như
có nguốn gốc Hy-lạp.
Rồi dần dần xuất hiện rất thông thường những
tên thuộc dân tộc “Slave” như Stanislas Szczepanów đã trở
thành giám mục Cracovie năm 1072. Vào năm 1079, ngài bị ám sát bởi những
người do vua Boleslas II sai tới khi ngài đang dâng Thánh lễ. Về sau, vua
nầy phải trốn khỏi nước và có lẽ đã chấm dứt những ngày còn lại ở Osjak, như
để sám hối. Ngài được phong thánh năm 1253 và là một trong những vị thánh
bổn mạng Ba-lan.
Khi tôi trở thành tổng giám mục Cracovie, và
từ Roma trở về Cracovie, tôi đã dâng Thánh Lễ ở Osjak. Và chính nơi
đó tôi cảm thấy gợi lại một cách thi vị biến cố xảy ra biết bao thế kỷ rồi
về bài thơ nhan đề Stanislas.
Thánh Stanislas là “Người Cha của Tổ Quốc”.
Chúa nhật tiếp theo sau ngày 8 tháng 5, người ta đi kiệu trọng thể từ Wawel
đến Skalka. Dọc theo lộ trình, những người tham dự hát những bài hát được
xen kẻ bởi điệp khúc: “Lạy Thánh Stanislas, thánh bổn mạng chúng tôi, cầu
cho chúng tôi!”
Cuộc rước kiệu từ trên đồi Wawel đi xuống,
băng qua các con đường Stradon và Krakowska, tiếp tục về hướng Skalka mà ở
đó thường có một vị giám mục được mời tới dâng Thánh Lễ. Sau Thánh Lễ, đoàn
rước kiệu trở lại cũng những con đường đó cho đến nhà thờ chính tòa và những
thánh tích của Thánh Stanislas được rước đi trong hòm thánh tích lộng lẫy
được đem đặt trên bàn thờ.
Dân chúng Ba-lan tin chắc sự thánh thiện của
vị giám mục đó và họ đã nhiệt thành ra sức xin phong thánh cho Ngài và kết
quả đã xảy ra ở Assise vào thế kỷ mười ba. Ở trong thành phố Ombrie, người
ta đã cất giữ cho tới ngày nay những bức tranh về Thánh Stanislas.
Trong nhà thờ chính tòa Wawel, bên cạnh Tòa
Giải Tội của Thánh Stanislas là ngôi mộ Thánh nữ hoàng Hedwige
cũng tạo nên một kho tàng vô giá. Những thánh tích của nữ thánh được đặt
dưới cây thánh giá nổi tiếng của Wawel vào năm 1987, nhân chuyến tông du thứ
ba của tôi trên đất nước tôi.
Ở dưới chân thánh giá đó, Hedwige lúc lên mười
hai tuổi, đã quyết định kết hôn với hoàng tử nước Lituanie là Ladislas
Jagellon. Quyết định đó vào năm 1386 đã đưa nước Lituanie vào trong đại
gia đình những nước Kitô giáo.
Tôi nhớ lại ngày 8-6-1997 với nhiều xúc động
khi ở Blonia Cracovie, trong lễ phong thánh cho vị nữ hoàng, tôi đã
bất đầu bài giảng bằng những lời nầy: “Hởi Hedwige, bà đã chờ đợi ngày trọng
đại nầy rất lâu…gần sáu trăm năm sau.” Nhiều hoàn cảnh khác nhau khó nói ra
hết được lúc bây giờ, đã góp phần vào việc trễ tràng nầy.
Đã từ lâu, tôi ấp ủ niềm ao ước là “Người Đàn
Bà ở Wawel” có thể mang tước hiệu nữ thánh theo ý nghĩa của giáo luật một
cách chính thức và ngày đó đã được thể hiện. Tôi cảm tạ Chúa. Sau bao thế kỷ
chờ đợi, Chúa đã chấp thuận cho tôi thực hiện niềm khát vọng đó rất thân
tình trong con tim của nhiều thế hệ dân nước Ba-lan.
Tất cả những kỷ niệm đó được nối kết một cách
nào đó nhân ngày lễ tấn phong giám mục của tôi. Theo một nghĩa nào đó, lễ
tấn phong nầy đã trở thành một biến cố lịch sử, bởi vì lễ tấn phong giám mục
trước đây đã diễn ra khá lâu, vào năm 1926. Lúc bấy giờ vị tiến chức là Đức
Cha Stanislaw Rospind. Và bây giờ chính là tôi.
5.- Ngày lễ tấn
phong: trung tâm điểm Giáo Hội
Bấy giờ đã đến ngày 28 tháng 9 – ngày lễ kính
nhớ Thánh Venceslas. Lễ tấn phong giám mục của tôi được ấn định vào
ngày đó. Biến cố trọng đại nầy luôn diễn ra trước mắt tôi. Có thể nói được
vào thời kỳ đó phụng vụ phong phú hơn bây giờ.
Tôi nhớ lại mỗi một người đã dự phần vào đó.
Theo tập quán, người ta hiến dâng những tặng phẩm tượng trưng cho Đức Giám
Mục chủ phong. Một thùng rượu nhỏ và một mẩu bánh mì là những của lễ trong
những thứ khác được vài bạn hữu của tôi mang lên.
Trước hết là Zbyszek Silkowski, bạn học
lúc còn ở bậc trung học và Jurek Ciesielski ngày nay là Tôi Tớ Chúa.
Thứ đến là Marian Wójtowicz và Zdzislaw Heydel. Hình như còn
có Stanislaw Rybicki nữa. Chắc chắn cha Kzimierz Figlewicz là
linh hoạt nhất.
Ngày đó mây mù, nhưng cuối cùng mặt trời cũng
đã xuất hiện. Như một điềm lành, một tia sáng mặt trời đã giọi xuống trên vị
tiến chức đáng thương là tôi.
Sau khi đọc Phúc Âm, ca đoàn xướng lên bài
hát:
Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến
Thăm viếng những tâm hồn Ngài;
Làm đầy ân sủng từ trời cao
Trên những con tim Ngài đã tạo dựng…
Tôi đã lắng nghe bài thánh ca đó và một lần
nữa – cũng như khi tôi được phong chức linh mục – một sự trong sáng còn lớn
hơn nữa đã làm sống dậy nơi tôi ý thức rằng tác nhân của lễ tấn phong trong
thực tế là Thánh Thần Chúa.
Đối với tôi, đó là một niềm an ủi khi đứng
trước mọi nỗi sợ hãi của con người phải nhận lãnh một trọng trách nặng nề
như thế: Thánh Thần Chúa sẽ soi sáng tôi, ban sức mạnh cho tôi, an ủi tôi,
dạy dỗ tôi…Phải chăng đó không phải là lời hứa Chúa Kitô đã cam kết với các
tông đồ sao?
Trong nghi thức phụng vụ, những hành động khác
nhau mang tính cách tượng trưng đã nối tiếp, mỗi hành động có ý nghĩa riêng.
Đức Giám Mục chủ phong đặt những câu hỏi liên hệ đến đức tin và đời sống.
Câu hỏi cuối cùng như sau:
“Đức Cha có muốn kêu xin Chúa toàn năng
không ngừng nghỉ cho dân thánh Chúa và thi hành một cách không thể chê trách
chức vụ đại tư tế và mục tử không?”
Để trả lời câu hỏi đó, vị tiến chức thưa:
“Dạ, con muốn, với ơn Chúa.”
Lúc bấy giờ Đức Giám Mục chủ tế kết thúc như
sau:
“Xin chính Thiên Chúa hoàn tất nơi Đức Cha
những gì Ngài đã bắt đầu!
Lại một lần nữa ý tưởng nầy xảy đến trong trí
óc tôi, mang lại một sự tín thác bình tâm trọn vẹn: giờ đây Chúa bắt đầu nơi
bạn công việc của Ngài; bạn đừng sợ hãi, hãy ký thác đường đời của bạn cho
Chúa; chính Ngài sẽ hành động và sẽ hoàn tất những gì Ngài đã thực hiện (xem
Tv 36 [37], 5).
Trong hết mọi cấp bậc tấn phong (phó tế, linh
mục, giám mục), vị tiến chức nằm phủ phục trên mặt đất. Đó là dấu hiệu tận
hiến chính mình cho Chúa Kitô, cho Đấng – để hoàn thành sứ vụ tư tế - “đã
hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân,
sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng
lòng chịu chết và chết trên cây thập tự.” (Phi-líp 2, 7-8).
Một cử chỉ như thế tái diễn mỗi thứ sáu tuần
thánh khi linh mục chủ tọa cộng đoàn phụng vụ, cũng nằm xuống trong thinh
lặng. Trong tam nhật phục sinh, không cử hành Thánh lễ vào ngày đó: Giáo Hội
trầm tĩnh để suy tư sự Thương Khó của Chúa Kitô, bắt đầu từ cơn hấp hối của
Ngài ở vườn Giết-sê-ma-ni, khi chính Ngài sụp mình xuống đất cầu nguyện.
Trong tâm hồn vị chủ tế luôn vang động mạnh mẽ tiếng đồng vọng của lời Ngài
cầu xin: “Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” (Mt 26,
38).
Tôi nhớ lại thời điểm đó, khi tôi nằm xuống
đất và dân chúng hát kinh cầu các Thánh, Đức Giám Mục chủ tế đã mời gọi cộng
đồng:
“Đối với người đã được tuyển chọn, cùng với
tất cả các Thánh ở trên trởi, chúng ta hãy cầu xin Chúa là Chúa chúng ta:
trong lòng từ nhân của Ngài và vì lợi ích của Giáo Hội, xin Chúa ban cho vị
tiến chức Ân Sủng dồi dào.”
Rồi thì kinh cầu các Thánh bắt đầu:
Xin Chúa thương xót chúng con,
Xin Chúa Kitô thương xót chúng con…
Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa,
Thánh Mi-ca-e,
Các thánh thiên thần của Chúa…,
Cầu cho chúng con!
Tôi sùng kính thiên thần bản mệnh một cách đặc
biệt. Từ thuở thiếu thời, có lẽ cũng như những đứa trẻ khác, tôi đã kêu cầu
vô số lần: “Lạy thiên thần của Chúa, Ngài là người canh giữ tôi, xin soi
sáng cho tôi, giữ gìn tôi, hướng dẫn tôi và cai quản tôi…” Thiên thần
bản mệnh của tôi biết tôi đang làm gì. Sự tín thác của tôi nơi Ngài, trước
sự hiện diện che chở của Ngài, không ngừng lắng sâu ở trong tôi.
Thánh thiên thần Mi-ca-e, Gabriel, Raphael là
những tổng lãnh thiên thần mà tôi năng kêu cầu trong lời kinh nguyện. Tôi
cũng nhớ lại bài chuyên luận tuyệt đẹp của Thánh Tô-ma về các thiên thần,
những thần tinh khiết.
Thánh Gioan Bao-ti-xi-ta,
Thánh Giu-se,
Thánh Phê-rô và Phao-lồ,
Thánh An-rê,
Thánh Charles…,
Cầu cho chúng tôi!
Như người ta đã biết, tôi được phong chức linh
mục vào ngày lễ trọng thể kính Các Thánh Nam Nữ. Đối với tôi, ngày đó luôn
luôn là một đại lễ. Nhờ lòng từ nhân của Chúa, tôi được dâng lễ kỷ niệm chịu
chức linh mục của tôi vào ngày mà toàn thể Giáo Hội kính nhớ cộng đồng các
Thánh ở trên trời.
Từ trên trời cao, các Thánh cầu bàu nguyện
giúp để cộng đoàn giáo sĩ lớn lên trong sự hiệp thông dưới tác động của
Thánh Thần Chúa thúc đẩy việc thực hành đức bác ái: “Cũng như sự hiệp thông
giữa Kitô hữu trên hành trình dương thế dẫn đưa chúng ta tới gần Chúa Kitô
hơn, cũng thế sự hiệp thông với các Thánh ở trên trời kết hợp chúng ta với
Chúa Kitô, để từ đó tuôn tràn, như từ Nguồn Suối và từ Đầu, hết mọi ân sủng
và sự sống của chính Dân Chúa.” (Ánh Sáng Muôn Dân, 50).
Sau khi kinh cầu các Thánh chấm dứt, vị tiến
chức đứng dậy và tiến lại gần vị chủ phong để vị nầy đặt tay lên đầu. Theo
Truyền Thống lùi lại từ thời các thánh tông đồ, cử chỉ chủ yếu đó mang ý
nghĩa sự truyền đạt Thánh Thần Chúa. Ngay sau đó, hai vị giám mục đồng tấn
phong cũng đặt tay trên đầu vị được tấn phong. Rồi vị giám mục chủ phong
cùng với hai vị giám mục đồng tấn phong đọc lời nguyện phong chức. Và như
thế đã kết thúc cao điểm của buổi lễ tấn phong giám mục.
Cần nhắc lại ở đây những ngôn từ của Hiến Chế
Công Đồng ‘Ánh Sáng Muôn Dân’:
“Để chu toàn những trọng trách lớn lao đó, các
tông đồ đã được tràn đầy những ơn đặc biệt do Chúa Thánh Thần đổ tràn xuống
trên họ (xem Cv 1, 8; 2, 4; Gio 20, 22-23) và chính họ đã trao
lại cho những cộng sự viên của họ, qua việc đặt tay lên đầu (xem 1Tm
4, 14; 2Tm 1, 6-7), ơn tặng của Chúa Thánh Linh là ơn được trao ban
cho chúng ta qua việc tấn phong giám mục…
Rõ ràng Thánh Truyền, nhất là được diễn tả
trong những nghi thức phụng vụ và trong việc Giáo Hội – Đông cũng như Tây –
qua sự đặt tay và những lời lẽ tấn phong, ơn Chúa Thánh Thần được ban xuống
và tính cách linh thánh được in sâu, cho đến đỗi các giám mục, bằng một cách
cao siêu và rõ rệt, đóng vai trò của chính Chúa Kitô là Thầy, là Mục Tử và
Thượng Tế, đã hành động trong chính cá nhân Ngài.” (số 21).
6.- Những Giám Mục
tấn phong
Tôi không thể không nêu lên ở đây cá nhân vị
chủ phong chính là Đức Tổng Giám Mục Eugeniusz Baziak. Tôi đã nhắc
đến tiểu sử phức tạp về đời sống và thừa tác vụ giám mục của ngài. Nguồn gốc
của ngài trong tư cách giám mục đã có một tầm vóc quan trọng đối với tôi,
bởi vì ngài là mắt xích nối kết trong sự kế thừa các tông đồ.
Ngài được tấn phong bởi Đức Tổng Giám Mục
Boleslaw Twardowski. Trước kia vị nầy đã được tấn phong bởi Đức Giám Mục
Jósef Bilczewski mà tôi rất vui mầng đã phong thánh thời gian gần đây
tại Lvov, ở Ukraine. Đức Thánh Giám Mục Bilczewski thì được tấn phong bởi
Đức Hồng Y Jan Puzyna, tổng giám mục Cracovie và hai vị giám mục đồng
tấn phong cho ngài là chân phước Jósef Sebastian Pelczar, giám mục
tại Przemysl, và tôi tớ Chúa là ngài Andrzej Szeptycki, tổng giám mục
Công Giáo Hy-lạp.
Phải chăng tất cả những điều đó không đưa
đường dẫn lối để tôi noi theo hay sao? Có thể nào tôi vượt ra ngoài truyền
thống thánh thiện của những vị đại mục tử đó của Giáo Hội được sao?
Dịp lễ tấn phong của tôi, hai vị giám mục đồng
tấn phong kia là Đức Cha Franciszek Jop ở Opole và Đức Cha
Boleslaw Kominek ở Wroclaw. Tôi nhớ tới các ngài với một lòng kính trọng
lớn lao và thâm sâu.
Trong thời gian Hồng Quân chiếm đóng, Đức Cha
Franciszek Jop đã được Chúa Quan Phòng gởi tới cho Cracovie. Đức Cha
Baziak bị biệt giam và Đức Cha Jop được chỉ định làm giám mục phó cho
Cracovie. Nhờ ngài, Giáo Hội của thành phố đó đã sống còn mà không bị thiệt
hại lớn lao nào trong thời gian đó.
Đức Cha Boleslaw Kominek cũng có những
liên hệ với Cracovie. Trong thời gian Hồng Quân chiếm đóng, lúc bấy giờ ngài
đã là giám mục Wroclaw, chính quyền Cộng Sản cấm ngài không được vào trong
giáo phận của ngài. Bấy giờ ngài định cư ở Cracovie như một giám mục. Chỉ về
sau đó ngài mới có thể tiếp nhận giáo phận Wroclaw của ngài theo đúng nghĩa
giáo luật. Năm 1965, ngài được phong chức hồng y.
Cả hai ngài là những viên chức lớn lao của
Giáo Hội, qua những thời kỳ khó khăn, đã nêu gương cá nhân cao cả và qua đó
minh chứng lòng trung thành với Chúa Kitô và Phúc Âm Ngài. Làm sao tôi không
thể xét xem sự “thăng tiến” can trường thiêng liêng đó?
7.- Những cử chỉ
phụng vụ trong lễ tấn phong
Những cử chỉ phụng vụ đầy ý nghĩa khác của lễ
tấn phong giám mục lại trở về trong ký ức tôi. Trước hết là việc đặt để
quyển Thánh Kinh lên vai tiến chức, khi hát lời nguyện tấn phong. Ở đây, sự
giao hòa giữa biểu tượng và lời nói thật hùng hồn.
Ấn tượng đầu tiên khiến người ta tưởng tới
gánh nặng thuộc trách nhiệm của vị giám mục đối với Phúc Âm, tức tầm mức lời
mời gọi của Chúa Kitô đưa đến việc rao giảng Tin Mừng cho tới tận cùng trái
đất, bằng cách đem mạng sống mình ra minh chứng cho việc rao giảng.
Nhưng khi tiến sâu hơn vào trong ý nghĩa biểu
tượng đó, người ta nhận thấy chính điều đang thực hiện, bắt nguồn từ Phúc Âm
và đâm rễ sâu nơi Phúc Âm. Do đó vị được tấn phong giám mục có thể múc lấy
sự an ủi và cảm hứng trong sự nhận thức như thế. Chính ở dưới ánh sáng Tin
Mừng của sự Phục Sinh Chúa Kitô người ta mới hiểu được những lời kinh dưới
đây một cách hiệu nghiệm:
“Lạy Chúa xin đổ tràn trên người mà Chúa đã
chọn, sức mạnh đến từ Chúa, xin Thánh Thần Chúa tác động và dẫn dắt, Thánh
Thần mà Chúa đã ban cho Con yêu dấu của Chúa là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã ban
chính mình Ngài cho các thánh tông đồ…”
(Sách Lễ Roma, Lời Nguyện Tấn Phong)
Trong phụng vụ tấn phong giám mục, việc kế
tiếp là xức dầu thánh. Cử chỉ đó đã đâm rễ sâu trong những bí tích trước,
khởi đầu là bí tích thánh tẩy và thêm sức. Khi phong chức linh mục, dầu được
xức ở nơi tay; khi tấn phong giám mục, chính ở trên đầu. Cử chỉ đó còn nói
lên sự thông truyền Thánh Thần Chúa đi vào bên trong, chiếm hữu con người
được xức dầu và trở nên công cụ của Chúa Thánh Linh.
Việc xức dầu trên đầu đó mang ý nghĩa kêu mời
vị tiến chức nhận lãnh những trách nhiệm mới: bởi vì ở trong Giáo Hội vị
giám mục sẽ mang trọng trách điều khiển, điều đó ràng buộc ngài một cách
trọn vẹn. Việc xức dầu bởi Chúa Thánh Thần đó cũng bắt nguồn từ việc xức dầu
của Chúa Giêsu Kitô - Đấng Khâm Sai.
Danh từ Christos, “Kitô”, được
dịch ra tiếng Hy-lạp từ tiếng Do-thái Masiah, “Đấng Khâm Sai”,
có nghĩa là “được xức dầu”. Đối với dân Do-thái, được xức dầu nhân
danh Chúa là những người được Chúa chọn lựa để thi hành một sứ vụ đặc biệt.
Có thể đó là sứ vụ ngôn sứ, tư tế hay vương giả.
Nhưng danh xưng “khâm sai” trước tiên ám chỉ
người phải đến để vĩnh viễn thiết lập nưóc Thiên Chúa trong đó những lời hứa
về sự cứu rỗi phải được thực hiện. Chính Đấng đó phải “được xức dầu” bởi
Thánh Thần Chúa như ngôn sứ, tư tế và vương giả.
Cụm từ “Đức Kitô được xức dầu” đã trở
nên danh xưng đặc biệt của Chúa Giêsu, bởi vì ở nơi Ngài đã thực hiện một
cách trọn vẹn sứ vụ linh thánh được diễn tả bởi từ ngữ đó. Phúc Âm không nói
Chúa Giêsu được xức dầu bên ngoài bao giờ, như trong Cựu Ước, David
hay Aaron đã được xức dầu và dầu thơm chảy xuống trên bộ râu của họ
(Xem TV 132 [133], 2).
Khi người ta nói tới việc “xức dầu”, người ta
muốn ám chỉ việc xức dầu trực tiếp của Chúa Thánh Thần ở trong tâm trí mà
biểu hiệu và chứng từ là sự thực thi trọn vẹn bởi Chúa Giêsu về sứ vụ mà
Chúa Cha đã trao phó cho Ngài.
Đó là điều mà Thánh Giám Mục Irénée đã
diễn tả rất đúng: “Danh xưng Kitô hàm ý Đấng xức dầu: Đấng đó đã được xức
dầu và dầu thánh mà Đấng đó đã được xức. Đấng xức dầu chính là Chúa Cha;
Đấng đã được xức dầu, chính là Chúa Con; và được xức dầu trong Thánh Linh,
chính là dầu thánh.” (Xem Contre les heresies, III, 18, 3: Sources
chrétiennnes, Paris 1984, p. 362).
Khi Chúa Giêsu sinh ra, các thiên thần loan
báo cho mục đồng: “Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em, trong
thành vua Đavid. Ngài là Đấng Kitô Đức Chúa.” (Lc 2, 11). Đức
Kitô, chính là Đấng Được Xức Dầu.
Với Ngài cũng nảy sinh việc xức dầu phổ cập,
thuộc về Đấng Cứu Thế và có tính cách cứu rỗi mà hết thảy những ai nhận lãnh
bí tích thánh tẩy đều được dự phần, cũng như việc xức dầu đặc biệt mà chính
Ngài – Đức Kitô – đã muốn các giám mục và linh mục dự phần: họ là những
người được tuyển chọn với trách vụ tông đồ đối với Giáo Hội của Ngài.
Dầu thánh, biểu hiệu quyền năng của Thánh
Thần Chúa đã đổ xuống trên đầu chúng ta, đã ghi khắc chúng ta vào công trình
của Chúa Cứu Thế cho phần rỗi. Cũng một trật, việc xức dầu đó mà chúng ta đã
nhận lãnh một cách đặc biệt xét về phương diện phẩm chất, ba chức năng: ngôn
sứ, tư tế và vương giả.
8.- Dầu Thánh
Tôi cảm tạ Chúa về “dầu thánh” tôi đã nhận
lãnh lần đầu tiên ở trong thành phố tôi sinh trưởng là Wadowice. (Wadowice
ở cách Cracovie 50 cây số). Điều đó đã xảy ra vào ngày tôi nhận lãnh bí
tích Thánh Tẩy. Với việc thánh tẩy đó, tất cả chúng ta trở nên công chính
hóa nhờ Chúa Kitô và được ghép vào Ngài. Chúng ta cũng lãnh nhận ơn Chúa
Thánh Thần lần đầu tiên.
Chính việc xức dầu thánh là biểu hiệu sự tuôn
tràn Thánh Linh mang lại cho chúng ta đời sống mới trong Chúa Kitô và làm
cho chúng ta có thể sống trong sự công chính của Chúa. Việc xức dầu thánh
lần đầu đó được bổ túc bởi ấn tín của Chúa Thánh Thần trong bí tích Thêm
Sức.
Mối liên kết thâm sâu và trực tiếp ở giữa các
bí tích đó được nổi bật trong nghi lễ rửa tội người lớn. Các Giáo Hội Đông
phương cũng còn duy trì sự liên kết trực tiếp đó trong nghi thức rửa tội các
trẻ em: cùng lúc được rửa tội, các em cũng nhận lãnh bí tích thêm sức luôn.
Sự liên kết giữa hai bí tích hàng đầu đó và sự
huyền nhiệm thánh của chính bí tích Thánh Thể với ơn gọi linh mục và giám
mục thì bền chặt và thâm sâu cho đến nỗi chúng ta có thể luôn luôn tái khám
phá sự phong phú, với một tấm lòng biết ơn.
Đối với chúng ta là những giám mục, chúng ta
không những nhận lãnh những bí tích đó, mà còn được sai đi để rửa tội, để
tập họp Giáo Hội chung quanh bàn tiệc của Chúa, để củng cố đức tin cho những
môn đệ của Chúa Kitô bằng ấn tín của Chúa Thánh Linh trong bí tích thêm sức.
Trong mục vụ của mình, rất thường khi vị giám
mục có cơ hội cử hành bí tích thêm sức, trao ban cho họ việc xức dầu thánh
và truyền đạt cho họ Ơn Chúa Thánh Thần là suối nguồn sự sống trong Chúa
Kitô.
Ở nhiều nơi, trong Thánh Lễ phong chức, người
ta thường nghe giáo dân hát:
“Hỡi dân tư tế, dân vương giả, cộng đồng
các thánh, dân của Chúa, hãy hát ca mừng Chúa chúng ta.”
Tôi yêu thích bài hát đó, bởi vì nội dung
phong phú:
“Chúng con hát ca mừng Ngài, hỡi Con yêu
dấu của Chúa Cha!
Chúng con tán dương Ngài, hỡi sự Khôn Ngoan
muôn thuở và Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Hỡi Con của Đức Trinh Nữ Maria, chúng con
hát mừng Ngài.
Hỡi Đức Kitô, người Anh của chúng con đã
đến cứu chuộc chúng con, chúng con tán dương Ngài.
Hỡi Đấng Cứu Thế mà những kẻ khốn khó trông
chờ, chúng con hát mừng Ngài.
Ôi Đức Kitô là Vua chúng con, hiền lành và
khiêm nhượng trong lòng, chúng con tán tụng Ngài.
[…]
Hỡi cây nho của sự sống, chúng con là những
cành nho của Ngài, chúng con hát mừng Ngài.
Hết mọi ơn gọi đều được nảy sinh trong Chúa
Kitô và rõ ràng chính đó là điều được biểu lộ mỗi khi xức dầu thánh: khởi
đầu là bí tích Thánh Tẩy cho tới việc xức dầu thánh lên đầu giám mục. Chính
việc xức dầu đó mà phát sinh phẩm cách chung cho hết mọi ơn gọi của Kitô
hữu.
Xét về phương diện đó, tất cả các ơn gọi đều
bình đẳng. Sự khác biệt đến từ vai trò mà Chúa Kitô phân định cho mỗi người
được gọi trong cộng đồng Giáo Hội và từ trách nhiệm bởi đó mà ra.
Phải rất để ý đến điều Chúa Giêsu đã cầu xin “không
một ai trong họ phải hư mất” (Gio 17, 12): không một ơn gọi nào
phải tàn lụi, bởi vì mỗi ơn gọi đều quí giá và thiết yếu. Đối với mọi sinh
mạng, vị Mục Tử Nhân Hậu đều trao ban sự sống. Đó là trách nhiệm của vị giám
mục.
Ngài phải biết nhiệm vụ của ngài là làm thế
nào để trong Giáo Hội có thể nảy sinh và phát triển hết mọi ơn gọi, hết mọi
chọn lựa con người đối với Chúa Kitô, cho dẫu là người thấp kém nhất.
Chính vì điều đó mà Đức Giám Mục – cũng như
Chúa Kitô – kêu mời, tập họp và dạy dỗ chung quanh bàn tiệc Mình Máu Thánh
Chúa. Đồng thời, ngài hướng dẫn và phục vụ. Ngài cũng phải trung thành với
Giáo Hội, nghĩa là với mỗi một thành viên trong Giáo Hội, cho tới người nhỏ
bé nhất mà Chúa Kitô đã kêu gọi và tự đồng hóa (Xem Mt 25, 45). Như
là dấu ấn của sự trung thành đó, đức giám mục nhận lãnh chiếc nhẫn đeo tay.
9.- Nhẫn đeo và áo
choàng
Chiếc nhẫn đeo vào ngón tay giám mục có nghĩa
là ngài đã làm lễ cưới với Giáo Hội.
“Hãy nhận lấy chiến nhẫn nầy, biểu tượng
của lòng trung tín: hãy gìn giữ, trong sự thuần khiết của đức tin, hiền thê
của Chúa là Giáo Hội thánh.
Hãy trung thành cho đến chết…”
Đó là lời khuyên bảo trong sách Khải Huyền: “Hãy
trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống.” (Kh
2, 10). Chiếc nhẫn đó, biểu tượng hôn nhân, là một biểu hiệu đặc biệt sự
liên kết của giám mục với Giáo Hội. Đối với tôi, chiếc nhẫn biểu thị lời mời
gọi hằng ngày đối với sự thành tín.
Đó là một sự tự vấn thầm lặng vang động trong
lương tâm: tôi có tự hiến trọn vẹn cho hiền thê của tôi là Giáo Hội không?
Tôi có “phục vụ” đầy đủ những cộng đoàn, những gia đình, giới trẻ và người
già cả, cũng như những thai nhi chưa sinh ra không?
Chiếc nhẫn cũng nhắc nhở tôi sự cần thiết phải
trở nên một mắt xích dũng mãnh trong dây xích thừa kế nối kết với các tông
đồ. Quả thật sự bền chặt của một dây xích được đo lường bởi mắt xích yếu kém
nhất. Tôi phải trở nên một mắt xích bền chắc do sức mạnh của Chúa: “Chúa
là sức mạnh, là khiên mộc chở che tôi.” (Tv 28 [27], 7). “Lạy
Chúa, dẫu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng
Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.” (Tv 23 [22], 4).
Các Đức Giám Mục của Cracovie có được đặc ân,
theo chỗ tôi biết, chỉ dành riêng cho bốn giáo phận trên thế giới mà thôi.
Các ngài được quyền mang áo choàng gọi là “rationnal”. Về hình thức
bên ngoài, đó là một biểu tượng nhắc nhở tới dây “pallium”.
Ở Cracovie, trong kho tàng của đền thờ Wawel,
có chiếc áo choàng “rationnal” là tặng phẩm của nữ hoàng Hedwige. Chính
chiếc áo đó không mang một biểu hiệu gì. Chiếc áo đó chỉ có ý nghĩa khi Đức
Tổng Giám Mục mang vào mà thôi. Lúc bấy giờ chiếc áo biểu tượng cho quyền uy
và sự phục vụ của ngài. Nói đúng hơn, vì ngài có quyền uy nên ngài phải phục
vụ.
Theo một ý nghĩa nào đó, người ta có thể thấy
ở đó biểu tượng của sự thương khó Chúa Kitô và tất cả các Thánh Tử Đạo. Khi
mang chiếc áo đó vào, hơn một lần đã đến trong trí óc tôi những lời sau đây
mà Thánh Phao-lô lúc bấy giờ đã già nua, ngỏ với giám mục Timothée đang còn
xuân xanh: “Anh đùng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng
đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên
Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.” (2Tm
1, 8).
10.- “Hãy bảo toàn
giáo lý đã được giao phó” (1Tm
6, 20)
Sau lời nguyện tấn phong, nghi lễ dự kiến việc
đặt quyển Thánh Kinh lên đầu vị giám mục được tấn phong. Cử chỉ đó có ý
nghĩa là vị giám mục phải đón nhận và loan báo Tin Mừng: đó là biểu hiệu sự
hiện diện của Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh, trong Giáo Hội. Do đó sự giáo huấn
thuộc phần nòng cốt của ơn gọi giám mục: ngài phải là một bậc thầy.
Chúng ta biết có bao nhiêu giám mục lỗi lạc,
từ thời Thượng Cổ cho tới ngày nay, đã đáp lại tiếng gọi đó một cách gương
mẫu. Họ đã biết dùng cho có lợi ích lời cảnh cáo thận trọng của thánh tông
đồ Phao-lô, khi tự cảm thấy bản thân mình cũng bị liên hệ: “Anh Timothée,
hãy bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho anh, tránh những chuyện nhảm nhí,
trống rỗng và những vấn đề của trí thức giả hiệu.” (1Tm 6, 20).
Những giám mục là những bậc thầy có phẩm chất
bởi vì các ngài đã tập trung cuộc sống thiêng liêng của mình vào việc lắng
nghe và rao giảng Lời Chúa. Nói cách khác, các ngài đã biết từ bỏ những hư
từ để đem hết tất cả nghị lực dùng vào “chỉ một chuyện cần thiết mà thôi”
(Lc 10, 42).
Quả thật nhiệm vụ của vị giám mục là làm cho
mình trở nên người phục vụ Lời Chúa. Rõ ràng với tư cách là bậc thầy, ngài
chủ tọa trên ngai tòa giám mục - tức trên ngai được đặt để một cách biểu
tượng trong thánh đường được gọi một cách rất đúng là “nhà thờ chính tòa” -
để giảng dạy, loan báo và cắt nghĩa Lời Chúa.
Thời đại chúng ta có những đòi hỏi mới đối với
các vị giám mục trong tư cách là những thầy dạy, nhưng cũng cống hiến những
phương tiện mới thật tuyệt vời để giúp đỡ các ngài loan báo Tin Mừng.
Sự xê dịch dễ dàng đã cho phép các ngài thăm
viếng thường xuyên những nhà thờ khác nhau và những cộng đoàn trong giáo
phận các ngài. Các giám mục được sử dụng hệ thống truyền thanh, truyền hình,
mạng lưới điện toán, báo chí.
Để rao giảng Lời Chúa, các giám mục được giúp
đỡ bởi các linh mục và phó tế, bởi các giáo lý viên và giáo viên, bởi các
giáo sư thần học cũng như bởi một số luôn quan trọng hơn thuộc thành phần
giáo dân học thức và trung thành với Phúc Âm.
Tuy nhiên không gì có thể thay thế sự hiện
diện của đức giám mục an tọa trên ngai tòa hay hiện diện trên tòa giảng
trong nhà thờ chính tòa và ngài đích thân dẫn giải Lời Chúa cho những ai
được tập họp chung quanh ngài. Ngài cũng như vị “kinh sư, trở thành môn
đồ Nước Trời, thì giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả
cái mới lẫn cái cũ.” (Mt 13, 52).
Tôi lấy làm sung sướng để nhắc nhở ở đây Đức
Tổng Giám Mục hồi hưu Milan là Đức Hồng Y Carlo Maria Martini mà
những buổi giảng dạy giáo lý ở trong nhà thờ chính tòa Milan đã lôi cuốn rất
đông người. Ngài đã vén lên cho họ kho tàng Lời Chúa. Đó chỉ là một thí dụ
trong nhiều thí dụ khác cho thấy sự khát khao Lời Chúa nơi tín hữu lớn lao
đến mức nào!
Tôi luôn xác tín rằng, nếu tôi muốn làm cho no
thỏa sự khát khao nội tâm đó ở nơi người khác, trước tiên tôi phải theo
gương Mẹ Maria để chính tôi nghe Lời đó của Chúa và “suy đi nghĩ lại
trong lòng” (Lc 2, 19).
Cùng một trật, càng lâu tôi càng hiểu thêm
rằng giám mục cũng phải biết lắng nghe những người mà ngài loan báo Tin
Mừng. Đối diện với trận đại hồng thủy hiện nay do bởi những ngôn từ, hình
ành và âm thanh, rất quan trọng đối với giám mục là đừng để mình bị choáng
váng. Ngài phải lắng nghe tiếng Chúa và nghe những đối thoại viên của mình,
trong niềm xác tín rằng tất cả chúng ta liên kết trong chính huyền nhiệm Lời
Chúa đối với phần rỗi.
11.- Mũ gậy giám mục
Ơn gọi trở thành giám mục hẵn nhiên mang lại
một vinh dự. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là ứng viên được lựa chọn giữa
nhiều người khác là một cá nhân lỗi lạc và một Kitô hữu lỗi lạc. Vinh dự qui
hướng về ngài do bởi sứ vụ của ngài được đặt để ở trung tâm Giáo Hội, để trở
thành người đứng đầu trong đức tin, đứng đầu trong đức ái, đứng đầu trong sự
trung tín và đứng đầu trong việc phục vụ.
Nếu ai chỉ tìm kiếm trong chức vụ giám mục
vinh dự cho mình, người đó sẽ không hoàn tất tốt đẹp sứ vụ giám mục. Sự biện
minh đầu tiên cho vinh dự đối với giám mục và là sự biện minh quan trọng
nhất, hệ tại bởi trách nhiệm gắn bó với sứ vụ của ngài.
“Một thành xây trên núi không tài nào che
giấu được” (Mt 5, 14). Giám mục luôn luôn ở trên núi, ở trên cột
đèn, mọi người đều trông thấy. Ngài phải ý thức rằng tất cả những gì xảy đến
trong cuộc đời của ngài đều có một tầm mức quan trọng dưới con mắt cộng
đoàn: “Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Ngài” (Lc 4,
20).
Cũng như một người cha gia đình đào luyện con
cái theo đức tin trước tiên phải nêu gương tốt của đời sống đạo đức và kinh
nguyện của mình, cũng vậy giám mục cảm hóa tín hữu với tất cả phong cách của
mình. Vì vậy tác giả Thư thứ nhất của Thánh Phê-rô đã khẩn khoản van xin các
giám mục “hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1Pr 5, 3).
Trong viễn tượng đó, trong phụng vụ truyền
chức, biểu tượng trao mũ giám mục đã nói lên một cách hùng hồn đặc biệt. Đức
tân giám mục nhận lãnh chiếc mũ như một sự cảnh báo ngài phải đội lên đầu
để “rực sáng nơi ngài ánh sáng chói lọi của sự thánh thiện” hầu ngài được
xứng đáng nhận lãnh triều thiên vinh quang không héo tàn khi Chúa Kitô là
“hoàng tử của các mục tử” sẽ xuất hiện. (Xem Sách Lễ Phong Chức Roma).
Giám mục được kêu gọi đặc biệt trở nên thánh
thiện trên cương vị cá nhân để góp phần vào việc tăng trưởng sự thánh thiện
của cộng đoàn giáo sĩ mà ngài được phó thác. Chính ngài chịu trách nhiệm
việc thực thi ơn gọi phổ cập để trở nên thánh thiện như đã đề cập nơi chương
V Hiến Chế Công Đồng “Lumen gentium” (“Ánh sáng muôn dân”).
Như tôi đã viết trong dịp Đại Năm Thánh 2000:
trong ơn gọi đó, người ta tìm thấy sự “linh động nội tại và đặc trưng”
của môn Giáo Hội học (Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, số 30).
Dân Chúa “được kết hợp với sự duy nhất của
Cha, Con và Thánh Thần” là một dân thuộc về Đấng “Thánh! Thánh! Thánh!”
(Is 6, 3). Như tôi đã viết: “Khi nói Giáo Hội là thánh có nghĩa là
trình bày bộ mặt Giáo Hội là hiền thê Chúa Kitô mà Ngài đã trao nộp
mình để thánh hóa” (Xem Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, số 30).
Tặng vật thánh thiện đó trở nên một nghĩa vụ.
Phải luôn luôn nhận chân rằng tất cả đời sống Kitô hữu phải được qui hướng
về nghĩa vụ đó: “Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh.” (1Tx
4, 3).
Vào đầu năm 1970, tôi đã viết, khi qui chiếu
vào Hiến Chế Lumen gentium (Ánh sáng muôn dân): Lịch sử cứu độ
là lịch sử của toàn dân Chúa; lịch sử đó cũng trải qua bởi đời sống các cá
nhân, lại được cụ thể hóa ở nơi mỗi cá nhân. Ý nghĩa căn bản của sự thánh
thiện hệ tại điểm nầy: sự thánh thiện luôn luôn là sự thánh thiện cá nhân.
Điều đó được xác nhận bởi lời mời gọi “tổng
quát” trở nên thánh thiện. Hết mọi thành phần dân Chúa đều được mời gọi nên
thánh, nhưng mỗi người một cách duy nhất, không thể trùng hợp” (U podstaw
odnowy. Studium o realizacji Vaticanum II, Cracovie 1972, tr. 165).
Nói tóm lại, sự thánh thiện của mỗi một người
đóng góp vào sự tăng trưởng của khuôn mặt Giáo Hội, hiền thê của Chúa Kitô,
bằng cách làm cho sứ điệp của Ngài được thế giới hiện đại chấp nhận dễ dàng.
Trong nghi lễ truyền chức giám mục, việc tiếp
theo là trao gậy chủ chăn. Đó là biểu hiệu quyền uy qui về vị giám mục trong
việc thực thi nghĩa vụ của ngài chăn dắt đoàn chiên. Biểu tượng đó cũng đi
vào viễn tượng kêu mời cộng đồng dân Chúa nên thánh.
Bởi vậy mục tử phải trông coi và che chở mỗi
một con chiên cùng dẫn đưa họ đến những đồng cỏ xanh tươi (Tv 23
[22], 2) – trên những đồng cỏ đó các con chiên sẽ khám phá sự thánh thiện
không phải là “một cuộc sống ngoại lệ mà chỉ vài bậc ‘thiên tài’ về sự thánh
thiện có thể thực hành mà thôi. Những nẻo đường đưa tới sự thánh thiện thì
rất nhiều và thích ứng cho mỗi cá nhân.” (Xem Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến,
số 31).
Tuyệt đẹp biết bao tiềm năng ân sủng ẩn tàng
trong đoàn dân đông đảo của những người được thanh tẩy! Tôi không ngừng cầu
xin để Thánh Thần Chúa thắp sáng lên ngọn lửa của Ngài ở trong con tim chúng
ta là những giám mục để rồi chúng ta trở nên những bậc thầy về sự thánh
thiện, ngõ hầu có thể đào luyện tín hữu bởi gương sáng chúng ta.
Lời giả biệt đầy xúc động của Thánh Phao-lồ
đối với những kỳ mục Giáo Hội Ê-phê-xô trở về trong ký ức của tôi: “Anh
em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt
anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh
Người đã mua bằng máu của chính mình.” (Cv 22, 28).
Mệnh lệnh của Chúa Kitô ám ảnh mỗi một mục tử:
“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.” (Mt
28, 19). Hãy đi và đừng bao giờ ngừng nghỉ! Chúng ta đã biết sự mong đợi của
Thầy Chí Thánh: “Thầy đã cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa
trái và hoa trái của anh em tồn tại.” (Gio 15, 16).
Cây gậy giám mục có hình thánh giá mà hiện tại
tôi đang cầm trong tay được mô phỏng theo cây gậy của Đức Thánh Cha Phaolô
VI. Tôi thấy rõ ràng cây gậy đó tượng trưng ba chức vụ: sự ân cần, sự hướng
dẫn và trách nhiệm.
Cây gậy giám mục không phải là một biểu tượng
quyền uy theo nghĩa thông thường của từ ngữ đó. Đó không phải là một biểu
tượng ngôi thứ hay ưu thế trên những người khác: đó là một biểu tượng phục
vụ. Như thế, đó chính là biểu tượng của sự ân cần đối với đoàn chiên: “Tôi
đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Gio 10, 10).
Giám mục phải điều khiển và hướng dẫn. Ngài sẽ
được tín hữu nghe theo và yêu mến trong chừng mực mà ngài bắt chước Chúa
Giêsu là vị Mục Tử Nhân Hậu, Đấng “đến không phải để được người ta phục
vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.”
(Mt 20, 28). “Phục vụ!” – tôi yêu thích từ ngữ đó biết bao! Tư tế
‘mục vụ”, từ ngữ tuyệt vời…
Có khi người ta nghe ai đó cất tiếng bênh vực
quyền bính giám mục được hiểu như ngôi thứ. Người ta nói: chính những con
chiên phải đi theo sau mục tử và không phải mục tử đi sau đoàn chiên. Có thể
người ta đồng ý như thế, nhưng trong ý nghĩa đó, chính mục tử phải đi dẫn
đầu để “hy sinh mạng sống vì những con chiên”; chính ngài phải là
người đầu tiên tự hiến và tự trao ban chính mình.
“Ngài đã sống lại, Vị Mực Tử Nhân Hậu, đã hy
sinh mạng sống mình vì các con chiên. Ngài đã phó nộp mình chịu chết vì yêu
thương những kẻ thuộc về mình.” (Xem Phụng Vụ Các Giờ Kinh, phần đối
đáp II, Chúa nhật IV mùa Phục Sinh).
Giám mục đứng đầu về ngôi thứ trong tình yêu
quảng đại đối với tín hữu và đối với Giáo Hội, theo gương Thánh Phao-lô: “Tôi
vui mầng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn
phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ sức, vì lợi ích cho thân thể
Người là Hội Thánh.” (Col
1, 24).
Chắc chắn quở trách cũng là một phần trong vai
trò mục tử. Về phương diện đó, tôi thiết tưởng có lẽ tôi đã hành xử hơi ít.
Tương quan giữa quyền bính và phục vụ luôn luôn trở thành vấn nạn. Có lẽ tôi
phải tự trách tôi là đã không tìm cách điều khiển đầy đủ.
Trong một chừng mực nào đó, điều nầy phát xuất
bởi tính khí của tôi. Nhưng một cách nào đó, điều nầy cũng có thể phát xuất
từ ý muốn của Chúa Kitô đã xin các tông đồ đừng quá điều khiển hơn là phục
vụ.
Theo bản chất tự nhiên, quyền uy thuộc về giám
mục, nhưng tất cả tùy thuộc vào cách thức mà quyền uy đó được thi hành. Nếu
đức giám mục dựa vào quyền uy hơi quá đáng, lập tức dân chúng tưởng rằng
ngài không biết điều khiển.
Trái lại, nếu ngài tự đặt mình trong một tư
thế phục vụ, tự nhiên các tín hữu cảm thấy được thúc đẩy đề nghe ngài và tự
ý tuân phục quyền bính của ngài.
Nếu đức giám mục nói: “Ở đây chỉ mình tôi cai
quản”, hay: “Chỉ mình tôi phục vụ ở đây”, có thiếu sót một điều gì! Đó là
ngài phải phục vụ trong khi cai quản và cai quản trong khi phục vu.
Về điều đó, chính Chúa Kitô đã nêu cho chúng
ta một mẫu mực hùng hồn: Ngài đã phục vụ không ngừng, nhưng trong tinh thần
phục vụ của Con Thiên Chúa, Ngài cũng biết đuổi những người buôn bán ra khỏi
đền thờ khi cần thiết.
Cho dù tôi cảm thấy những đối kháng bên trong
đáng chê trách, tuy nhiên tôi thiết nghĩ tôi đã lấy những quyết định cần
thiết. Với tư cách là tổng giám mục Cracovie, tôi đã làm hết sức để đi tới
những quyết định đó theo cung cách giám mục đoàn, nghĩa là bằng cách tham
khảo những giám mục phụ tá và những cộng sự viên của tôi.
Mỗi tuần, chúng tôi có nhũng buổi họp ban điều
hành giáo phận, trong đó được bàn thảo hết mọi vấn đề trong tầm nhìn mang
lại điều lợi ích tốt đẹp nhất cho tổng giáo phận. Câu hỏi đầu tiên: “Chân
lý nào thuộc về đức tin chiếu giải trên vấn đề đó?” Và câu hỏi thứ hai:
“Ai là người mà chúng ta tham khảo hay để giúp đỡ chúng ta?”
Tìm ra động cơ tôn giáo để hành động và nhân
vật đủ khả năng để chu toàn một phần vụ rõ rệt, tạo thành điều kiện tiên
quyết tốt đẹp đem lại hy vọng rất nhiều cho sự thành công đối với những sáng
kiến mục vụ.
Với việc trao ban cây gậy giám mục, nghi lễ
tấn phong chấm dứt. Tiếp theo là Thánh lễ mà đức tân giám mục hiến dâng cùng
với những giám mục đồng tấn phong. Tất cả những điều đó mang đầy đủ ý nghĩa,
suy tư và ý thức cá nhân cho đến nỗi không thể diễn tả trọn vẹn hay cả việc
thêm vào đó một điều gì nữa.
12.- Hành hương đền
kính Đức Mẹ
Sau khi Thánh Lễ chấm dứt, tôi đi từ Wawel đến
thăm đại chủng viện, ở đó có cuộc tiếp tân. Tuy nhiên, ngay chiều hôm đó,
tôi đi đến Czestochowa với nhóm bạn hữu thân tình và ở đó tôi đã dâng
Thánh Lễ sáng hôm sau trong nguyện đường có tượng Đức Mẹ làm phép lạ.
Đối với dân Ba-lan, Czestochowa là một nơi
được ưu đãi, vì tự đồng hóa với quốc gia Ba-lan và lịch sử nước đó, nhất là
lịch sử tranh đấu giành độc lập cho đất nước. Ở đó có đền thờ quốc gia được
gọi là Jasna Góra (Clarus mons - Ngọn Đồi Trong Sáng): Tên gọi
đó gợi lại ánh sáng đánh tan bóng tối, mang một ý nghĩa đặc biệt đối với dân
chúng Ba-lan đã sống qua những giờ phút đen tối vì chiến tranh, phân chia và
chiếm đóng.
Mọi người đều biết nguồn gốc ánh sáng hy vọng
đó là sự hiện diện của Mẹ Maria trong bức tượng kỳ diệu. Thật đúng như thế,
có lẽ lần đầu tiên, trong khi quân đội Thụy Điển chiếm đóng mà trong lịch sử
gọi là “cơn hồng thủy”. Trong trường hợp đó – việc thật có ý nghĩa - đền thờ
được dựng nên như một pháo đài mà quân xâm lăng không tài nào chinh phục
được.
Bấy giờ quốc gia giải mã biến cố đó như là một
lời hứa hẹn chiến thắng. Sự tin tưởng nơi bàn tay che chở của Đức Mẹ đã mang
lại cho dân chúng Ba-lan sức mạnh để chiến thắng kẻ xâm lăng.
Kể từ đó, đền thờ Jasna Góra, theo một ý nghĩa
nào đó, đã trở thành chiến lũy của đức tin, của tinh thần, của văn hóa và
tất cả những gì tạo nên căn tính quốc gia Ba-lan. Và cũng đã xảy ra như thế,
bằng một cách đặc biệt, trong thời gian lâu dài của những cuộc phân tranh và
mất chủ quyền quốc gia.
Chính đó là điều mà Đức Thánh Cha Piô XII đã
nhắc tới khi ngài quả quyết trong thời Đệ Nhị Thế Chiến: “Quốc gia Ba-lan đã
không biến mất và sẽ không bao giờ biến mất bởi vì Ba-lan tin tưởng, cầu
nguyện và có đền thờ Jasna Góra.” Nhờ Ơn Chúa, những lời nói đó đã được kiểm
chứng.
Tuy nhiên về sau, một thời kỳ mới đen tối
trong lịch sử chúng tôi, đó là thời kỳ Cộng Sản chiếm đóng. Nhà cầm quyền
của đảng Cộng Sản ý thức điều mà đền thờ Jasna Góra đã có ý nghĩa như thế
nào đối với dân chúng Ba-lan. Đó là thánh tượng kỳ diệu và lòng sùng kính vô
bờ bến đối với thánh tượng Đức Mẹ đó ngay từ đầu.
Chính vì vậy, khi do sáng kiến của Hội Đồng
Giám Mục và đặc biệt là của Đức Hồng Y Stefan Wyszynski, cuộc hành hương của
“Đức Me Đen”, khởi hành từ Czestochowa, đã thăm viếng hết mọi giáo xứ
và mọi cộng đoàn trên đất nước Ba-lan, chính quyền Cộng Sản đã làm hết sức
ngăn cản cuộc “thăm viếng” đó.
Khi thánh tượng bị cảnh sát “ngăn” lại, đoàn
hành hương vẫn tiếp tục với khung tượng trống trơn và sứ điệp đó càng trở
nên hùng hồn hơn. Trong khung tượng không có tượng, người ta có thể đọc được
dấu hiệu câm nín về sự thiếu tự do tôn giáo.
Dân chúng biết rằng họ có quyền tự do tôn giáo
đó và họ càng cầu nguyện hơn nữa để đuợc tự do đó. Cuộc hành hương đã kéo
dài gần hai mươi lăm năm và làm nảy sinh nơi dân chúng Ba-lan một sự vững
mạnh lạ thường trong đưc tin, đức cậy và đức mến.
Tất cả những người dân Ba-lan có lòng tin đều
đi hành hương Czestochowa.
Tôi cũng thế, từ tấm bé, tôi đã đi đến đó bằng cách tham dự những cuộc hành
hương khi nầy hay khi khác.
Năm 1936, có một cuộc hành hương lớn của giới
trẻ đại học trên toàn quốc Ba-lan và kết thúc bằng cuộc tuyên thệ long trọng
trước thánh tượng. Và sau đó, cuộc tuyên thệ được lặp lại mỗi năm.
Trong thời gian quân Đức Quốc Xã chiếm đóng,
tôi làm cuộc hành hương đó khi tôi đang còn là sinh viên đại học về ngành
văn chương Ba-lan tại phân khoa triết học thuộc đại học Jagellon. Tôi nhớ
lại một cách đặc biệt bởi vì, để duy trì truyền thống đó, chúng tôi đã đi
đến Czestochowa như là những đại biểu, gồm có Tadeuz Ulewicz, tôi và một
người thứ ba nữa.
Đền thờ Jasna Góra bị quân đội Hitler bao vây.
Các linh mục ẩn tu Saint Paul đã ân cần tiếp đón chúng tôi. Họ biết chúng
tôi là một đoàn đại biểu, nhưng tất cả đều kín đáo. Như thế, chúng tôi rất
lấy làm hài lòng, dù sao đi nữa, đã thành công trong việc duy trì truyền
thống đó. Cũng về sau nầy, tôi thường đi tới đền thờ, tham dự nhiều cuộc
hành hương khác – nhất là cuộc hành hương Wadowice.
Hằng năm ở Jasna Góra có cuộc tĩnh tâm của các
giám mục, thông thường bắt đầu tháng chín. Tôi đã tham dự lần đầu khi tôi
chỉ mới được bổ nhiệm làm giám mục. Đức Cha Baziak đã dẫn tôi đi. Tôi nhớ
lần đó vị thuyết giảng là cha Jan Zieja, một linh mục có nhân cách
lỗi lạc. Dĩ nhiên chỗ thứ nhất dành cho Đức Giáo Chủ là Đức Hồng Y Stefan
Wyszynski, một người quả thật được Chúa Quan Phòng gởi tới trong thời đại
chúng tôi đang sống.
Có lẽ do những cuộc hành hương đó mà đã nảy
sinh điều ao ước trong những bước khởi đầu hành hương khi làm giáo hoàng đã
đưa tôi đến một đền thờ Đức Mẹ. Chính điều ao ước đó, trong cuộc tông du đầu
tiên đến Mễ-tây-cơ, đã dẫn đưa tôi đến dưới chân Đức Mẹ Guadalupe.
Trong tình yêu mến của dân chúng Mễ-tây-cơ và
nói một cách chung, của những người dân Trung Mỹ và Nam Mỹ đối với Đức Mẹ
Guadalupe - một tình yêu mến được thổ lộ một cách hồn nhiên và nhạy cảm,
nhưng rất mãnh liệt và sâu sắc – có nhiều điểm tương đồng với sự sùng kính
Đức Mẹ của dân chúng Ba-lan; điều đó cũng tạo thành linh đạo của tôi.
Họ gọi Đức Mẹ một cách tríu mến là “la
Virgen Morenita”, một danh xưng có thể tạm dịch là: “Đức Mẹ ngăm ngăm
đen”. Ở đó có một bài hát phổ thông rất được nhiều người biết đến khi nhắc
tới tình yêu của một người con trai đối với một thiếu nữ. Dân chúng
Mễ-tây-cơ áp dụng bài hát đó cho Đức Trinh Nữ Maria. Tôi luôn luôn nghe văng
vẳng những âm điệu du dương đó:
Tôi biết một thiếu nữ xinh xắn ngăm ngăm
đen…
Và tôi yêu mến nhiều.
Chiều tối, say mê và trìu mến, tôi đã đến
thăm nàng.
Ngắm nhìn đôi mắt nàng, tình yêu tha thiết
của tôi gia tăng gấp bội.
Hỡi nàng con gái tóc nâu, tôi không bao giờ
quên nàng được.
Tình yêu giữa hai chúng ta lớn lao biết
bao…
Tôi đã thăm viếng đền thờ Guadalupe vào tháng
giêng 1979, nhân chuyến tông du đầu tiên, theo lời mời tham dự đại hội Hội
Đồng Giám Mục Mỹ Châu La-tinh ở Puebla de Los Angeles. Cuộc hành hương nầy,
theo một ý nghĩa nào đó, đã gây nguồn cảm hứng và điều hướng tất cả những
năm kế tiếp thuộc triều đại giáo hoàng của tôi.
Trước tiên tôi dừng chân ở Saint Dominique và
từ đó tôi tới Mễ-tây-cơ. Thật cảm động không thể tả khi đi đến nơi mà chúng
tôi phải nghỉ đêm, chúng tôi đã đi ngang qua những con đường người đen như
kiến.
Cuối cùng khi chúng tôi đến nơi trú ngụ, dân
chung vẫn tiếp tục ca hát và đã quá nửa đêm. Vì vậy cha Stanislaw Dziwisz
bắt buộc phải ra ngoài xin dân chúng im lặng và giải thích cho họ là Đức
Giáo Hoàng cần phải ngủ nghỉ. Bấy giờ họ mới yên lặng.
Tôi nhớ lại tôi đã giải thích cuộc hành hương
ở Mễ-tây-cơ như là một thứ “thông hành” có thể mở đường cho tôi đi hành
hương ở Ba-lan. Thực tế tôi nghĩ rằng chính phủ Cộng Sản Ba-lan không thể từ
chối việc cho phép tôi trở về thăm quê hương tôi sau khi tôi đã được đón
tiếp trong một xứ sở mà Hiến Pháp hoàn toàn thế tục như quốc gia Mễ-tây-cơ
lúc bấy giờ. Tôi muốn đi Ba-lan và điều đó đã được thực hiện vào tháng sáu
cùng năm.
Guadalupe, đền thánh lớn nhất của toàn thể Mỹ
châu cũng như Czestochowa đối với Ba-lan. Đó là hai thế giới hơi khác biệt
nhau: Guadalupe thuộc thế giới Mỹ châu La-tinh, Czestochowa thuộc thế giới
“slave”, Đông Âu.
Người ta có thể nhận chân điều đó trong Ngày
Giới Trẻ Thế Giới năm 1991, khi lần đầu tiên có mặt tại Czestochowa những
người trẻ đến từ bên kia biên giới phía đông Ba-lan: Những người trẻ
Ukraine, Lettonie, Nga…tất cả những vùng đất ở Đông Âu đều có mặt.
Chúng tôi còn trở lại Guadalupe. Vào năm 2002,
tôi được dâng Thánh Lễ gần đền thánh đó nhân dịp phong thánh cho chân phước
Juan Diego. Đó là một cơ hội tuyệt diệu để cảm tạ ơn Chúa.
Sau khi nhận lãnh sứ điệp Kitô giáo, Juan
Diego, không chối từ căn tính bản xứ của mình, đã khám phá ra chân lý thâm
sâu đối với nhân loại mới, trong đó hết thảy mọi người được mời gọi trở nên
con cái Thiên Chúa trong Đức Kitô. “Lạy Cha…con xin ngợi khen Cha, vì Cha
đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại
mặc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11, 25). Và trong huyền
nhiệm đó, Mẹ Maria đã đóng một vai trò thật đặc biệt.
CHƯƠNG
HAI
HOẠT ĐỘNG GIÁM MỤC
“Chu toàn chức vụ của anh”
(2Tm 4, 5)
1.- Những phần vụ
giám mục
Trở về Cracovie sau chuyến hành hương đầu tiên
của tôi như là giám mục ở Jasna Góra, tôi bắt đầu định cư ở tòa giám mục.
Lập tức tôi được bổ nhiệm làm giám mục phó.
Tôi có thể nói một cách rất chân tình là tôi
đã kết thân với tất cả những nhân viên của tòa giám mục Cracovie. Đó là cha
Stefan Marszowski, cha Mieczyslaw Satora, cha Mikotaj
Kuczkowski, Đức Ông Bobdan Niemczewski. Chính Đức Ông, trong tư
cách niên trưởng, là người về sau nầy đã ủng hộ cách mạnh mẽ việc bổ nhiệm
tôi làm tổng giám mục, cho dù gặp trở ngại về truyền thống quý tộc.
Thật thế, ở Cracovie, các đức tổng giám mục
thông thường được chọn lựa giữa những người quý tộc. Thật là một điều ngạc
nhiên, sau khi nhiều vị quý tộc được lựa chọn, chính tôi là một ‘người vô
sản’ lại được bổ nhiệm. Nhưng điều đó đã xảy đến về sau nầy, vào năm 1964.
Tôi sẽ trở lại vấn đề đó.
Tôi cảm thấy thoải mái ở tòa giám mục và tôi
hồi tưởng những năm đã qua ở Cracovie với một mối cảm tình và một sự biết ơn
lớn lao. Các linh mục bắt đầu tìm đến tôi, thổ lộ những vấn đề khác nhau.
Tôi đã bắt đầu làm việc một cách hăng say. Vào mùa thu là khởi đầu những
cuộc thăm viếng mục vụ.
Tôi dần dần đi vào vai trò mới của tôi trong
giới giáo sĩ. Với ơn gọi giám mục và lễ tấn phong, tôi đã chấp nhận những
công việc mới. Điều đó được diễn tả như là một sự tổng hợp thiết yếu trong
nghi lễ tấn phong giám mục.
Như đã nói trên kia, vào thời điểm tôi được
tấn phong giám mục năm 1958, lễ nghi tấn phong đã có nhiều sự thay đổi, mặc
dù nội dung vẫn giữ nguyên như cũ. Tập tục cũ được thiết lập bởi các Giáo
Phụ bắt buộc phải hỏi vị giám mục tương lai, trước sự hiện diện của dân
chúng, là ngài có cam kết duy trì sự nguyên vẹn của đức tin và chu toàn mục
vụ được giao phó không.
Hiện nay những câu hỏi được đặt ra như sau:
Thưa Anh Em thân mến,
Anh Em có chấp nhận trọng trách mà các tông
đồ đã ủy thác và chúng tôi sẽ trao ban cho Anh Em qua việc đặt tay không?
Anh Em có muốn loan truyền Phúc Âm của Chúa
Kitô một cách trung tín và không ngừng nghỉ không?
Anh Em có muốn giữ gìn một cách tinh tuyền
và nguyên vẹn di sản đức tin theo như truyền thống luôn luôn nhận được từ
các thánh tông đồ và giữ gìn khắp nơi trong Giáo Hội không?
Anh Em có muốn hoạt động để kiến tạo chi
thể Chúa Kitô là Giáo Hội, và sống trong sự hiệp nhất với Giáo Hội và với
toàn thể các giám mục dưới quyền bính của người kế vị Thánh Phê-rô không?
Anh Em có muốn, cùng với các linh mục và
phó tế, chăm sóc dân thánh Chúa như một người cha, và hướng dẫn họ trên hành
trình cứu rỗi không?
Anh Em có muốn, với một con tim nhân hậu và
từ bi, nhân danh Chúa Kitô, đón tiếp những người nghèo khó, những người xa
lạ và những ai túng thiếu không?
Anh Em có muốn, trong vai trò mục tử nhân
hậu, ra đi tìm kiếm những con chiên lạc để tập họp lại trong đàn chiên của
Chúa không?
Anh Em có muốn cầu nguyện Chúa không ngừng
cho dân thánh Chúa và chu toàn công việc của mục tử và đại tư tế một cách
không bị chê trách không?
(Sách Lễ Roma, Tấn Phong Giám Mục).
Những lời vừa được trích dẫn chắc chắn ghi sâu
vào tâm khảm hết mọi giám mục. Trong những lời đó vang vọng những câu hỏi mà
Chúa Giêsu đã hỏi Thánh Phê-rô bên bờ hồ Galilée:
“Này anh Si-mon, con ông Gioan, anh có mến
Thầy hơn các anh em nầy không?...Chúa Giêsu nói với ông: Hãy chăm sóc chiên
con của Thầy. Ngài lại hỏi: Này anh Si-mon, con ông Gioan, anh có mến Thầy
không?...Ngài nói:Hãy chăn dắt chiên con của Thầy. Ngài hỏi lần thứ ba: Nầy
anh Si-mon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không? Ông Phê-rô buồn vì
Ngài hỏi tới ba lần: Anh có yêu mến Thầy không? Ông đáp: Thưa Thầy, Thầy
biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu bảo: Hãy chăm sóc
chiên của Thầy.” (Gio 21, 15-17).
Không phải chiên của anh, chiên của các anh,
mà là chiên của Thầy! Quả thật, chính Ngài đã tạo dựng con người.
Chính Ngài đã chuộc lại con ngươì. Chính Ngài đã chuộc lại tất cả chúng ta,
cho đến người rốt hết, bằng giá máu của Ngài!
2.- Mục tử
Truyền thống Kitô giáo đã thu thập ba hình ảnh
Phúc Âm về người mục tử: đó là hình ảnh người mang con chiên lạc trên vai,
người dẫn dắt đoàn chiên trên những đồng cỏ xanh tươi, người cầm gậy trong
tay tập họp đàn chiên và bảo vệ chúng khỏi mọi hiểm nguy.
Trong ba hình ảnh đó, cũng một sứ điệp được
nhắc lại: “Ngưởi chăn chiên vì đàn chiên và không phải đàn chiên vì người
chăn chiên.” Người chăn chiên đã liên kết với bầy chiên cho đến nỗi, nếu
người đó là một mục tử chân chính thì sẵn sàng “hy sinh mạng sống cho đàn
chiên.” (Gio 10, 11).
Hằng năm trong những tuần lễ thường niên thứ
XXIV Và XXV, trong Phụng Vụ Các Giờ Kinh, được trình bày một bài
giảng dài về các mục tử của Thánh Augustinô. Khi nhắc đến Sách
tiên tri Ezéchiel, giám mục giáo phận Hippone đã mạnh mẽ quở trách các mục
tử xấu, nghĩa là những mục tử không chăm sóc đàn chiên, chỉ chăm sóc chính
mình mà thôi:
“Hãy xem những gì Lời Chúa đã nói với những
mục tử tìm kiếm lương thực của mình và không phải lương thực của đàn chiên:
Các ngươi đã uống sữa của chúng, các ngươi đã dùng lông của chúng làm áo
mặc, các ngươi đã cắt tiết những con chiên béo tốt, các ngươi không phải là
những người chăn dắt đàn chiên của ta.
Các ngươi đã không tăng sức lực cho con chiên
ốm o gầy còm, không chữa trị con chiên đau yếu, không săn sóc con chiên bị
thương tích. Các ngươi không đem con chiên lạc trở về chuồng, không tìm kiếm
con chiên bị thất lạc. Con chiên nào mạnh khỏe thì các ngươi bắt nạt. Những
con chiên của ta đã tản mát bởi vì không có người chăn dắt.”
(Phụng Vụ Các Giờ Kinh, tuần lễ XXIV,
ngày thứ hai).
Cho dù thế, Thánh Augustinô đã kết luận với
một sự quả quyết đầy lạc quan:
“Những mục tử tốt không thiếu và người ta tìm
thấy họ là một…Người ta tìm thấy tất cả những mục tử tốt là một; họ chỉ làm
thành một. Họ chăn nuôi đàn chiên và chính Chúa Kitô chăn nuôi chúng…chính
tiếng nói của Ngài vang lên nơi họ, chính đức ái của Ngài ở nơi họ.”
(Phụng Vụ Các Giờ Kinh, tuần lễ XXV,
thứ sáu).
Về phương diện đó, những suy tư mà Thánh
Grégoire Cả để lại thật đầy xúc cảm:
“Thế giới đầy dẫy những linh mục, nhưng hiếm
khi người ta gặp được một người thợ trong mùa gặt của Chúa. Chúng ta lãnh
nhận tác vụ linh mục một cách đứng đắn, nhưng chúng ta không chu toàn công
việc của tác vụ đó…
Chúng ta bỏ phế mục vụ rao giảng và theo tôi
tưởng, chính để trừng phạt chúng ta mà người đời gọi chúng ta là giám mục,
bởi vì chúng ta mang tước vị đó, nhưng chúng ta không có phẩm giá. Thật vậy,
những ai được giao phó cho chúng ta đều rời bỏ Thiên Chúa và chúng ta im hơi
lặng tiếng.”
(Phụng Vụ Các Giờ Kinh, tuần lễ XXVII,
mùa thường niên, ngày thứ bảy).
Đó là điều mà phụng vụ nhắc nhở lương tâm
chúng ta mỗi năm bằng cách khuyến khích chúng ta theo đúng tinh thần trách
nhiệm đối với Giáo Hội.
3.- “Tôi biết chiên
của tôi” (Gio 10, 14)
Người mục tử nhân hậu biết chiên của mình và
chiên của người đó biết người đó (Xem Gio 10, 14). Chắc hẳn nhiệm vụ
của giám mục là phải thận trọng làm thế nào để rất nhiều người làm nên Giáo
Hội tại địa phương có thể biết ngài một cách trực tiếp. Về phần ngài, ngài
sẽ tìm cách gần gũi họ, để tìm hiểu điều kiện sinh sống của họ, tìm hiểu
điều gì làm cho con tim họ vui lên hay bị rối loạn.
Nền tảng của sự hiểu biết hỗ tương đó không
phải do những cuộc hội ngộ ngẫu nhiên cho bằng sự quan tâm đích thực những
gì xảy đến trong quả tim con người, không kể đến tuổi tác, điều kiện xã hội
hay quốc tịch mỗi người. Đó là một sự quan tâm nối kết những người gần cũng
như kẻ ở xa. (Xem Sắc Lệnh về trách nhiệm giám mục “Christus Dominus”,
số 16).
Khó mà đưa ra một công thức về một lý thuyết
có hệ thống đối với cách thức giao tiếp với người khác được. Tuy nhiên, đối
với tôi, tôi đã được giúp đỡ nhiều bởi “chủ nghĩa nhân cách” mà tôi đã
nghiền ngẫm trong những năm theo đuổi môn triết học.
Mỗi người là một cá nhân duy nhất và do đó
không ai có thể lập chương trình trước về một thứ giao thiệp khả dĩ thích
ứng cho hết mọi người. Nói đúng hơn, phải học cách giao thiệp trong mọi hoàn
cảnh khởi đầu từ số không.
Đó là điều được diễn tả một cách hiệu nghiệm
trong bài thơ của Jerzy Liebert:
Hởi người, tôi đang chỉ dạy cho ngươi,
Tôi chỉ dạy ngươi từ từ.
Con tim vừa khổ đau vừa thích thú
Về bài học khó khăn đó.
(Poezje, Varsovie 1983, tr. 144).
Đối với một giám mục, thật là quan trọng để có
một cuộc tiếp xúc tốt với những người khác và đạt được khả năng giao tiếp
với họ một cách thích ứng. Riêng tôi, rõ ràng tôi không bao giờ có cảm tưởng
là có quá nhiều cuộc gặp gỡ.
Dù sao đi nữa, nỗi ưu tư thường xuyên của tôi
là trong mỗi một trường hợp nên duy trì tính cách cá nhân của mỗi cuộc giao
tiếp. Mỗi cuộc giao tiếp chính là một chương sách. Tôi luôn luôn hành động
theo niềm tin đó.
Nhưng tôi chân nhận rằng hấp lực đó không thể
do học hỏi mà có. Đó là điều người ta sở đắc hoàn toàn tự nhiên, bỏi vì điều
đó đến từ bên trong.
Sự quan tâm đến kẻ khác khởi đầu bằng lời cầu
nguyện, trong cuộc trò chuyện với Chúa Kitô là Đấng đã phó thác “những
người thuộc về Ngài”. Lời cầu nguyện đã chuẩn bị giám mục cho những cuộc
gặp gỡ đó. Vừa khi tâm trí mở ra, những cuộc gặp gỡ đó cho phép họ biết nhau
và hiểu nhau, cho dẫu khi người ta không có nhiều thời giờ.
Đối với tôi, tôi thường cầu nguyện cho tất cả
mọi người, ngày nầy qua ngày khác. Khi tôi gặp một người nào, tôi đã cầu
nguyện cho người đó rồi và điều nầy luôn luôn làm cho sự giao tiếp trở nên
dễ dàng.
Thật khó cho tôi để nói ra người ta nhận thức
điều đó như thế nào. Nên hỏi ngay họ. Tuy nhiên tôi có nguyên tắc là đón
tiếp ai như thể người đó được Chúa gởi tới cho tôi và cũng một trật Chúa phó
thác họ cho tôi.
Tôi không thích từ ngữ “quần chúng” vì mang
tính cách vô danh. Tôi thích từ ngữ “số đông” hơn. (Xem Mc 3,
7; Lc 6, 17; Cv 2, 6; 14, 1…) Chúa Kitô đi trên những con
đường xứ Palestine và thường khi rất “đông” người đi theo Ngài. Đối với các
tông đồ cũng thế.
Đương nhiên trách nhiệm mà tôi thi hành khiến
tôi gặp gỡ nhiều người, đôi khi là những số đông thực sự. Chẳng hạn ở
Manille đã có từng triệu người trẻ. Nhưng trong trường hợp đó, một cách
chính đáng không nên nói đó là khối quần chúng vô danh. Đó là một cộng đồng
được thúc đẩy bởi một lý tưởng chung. Vì vậy thật dễ dàng để tạo lập một sự
giao tiếp. Và đó là điều xảy ra gần như mọi nơi.
Ở Manille, tôi có trước mắt toàn thể lục địa Á
châu. Có biết bao Kitô hữu và biết bao triệu triệu người trên lục địa đó còn
chưa biết Chúa Kitô! Tôi đặt hy vọng rất nhiều nơi Giáo Hội sống động ở
Phi-luật-tân và Đại-hàn. Á châu: đó là trách nhiệm chung của tất cả chúng ta
ở đệ tam thiên niên kỷ nầy!
4.- Sự ban hành các
bí tích
Các bí tích làm thành kho tàng lớn lao nhất,
sự phong phú dồi dào nhất đối với giám mục. Các linh mục do ngài tấn phong
đã giúp đỡ ngài trong việc ban hành các bí tích. Kho tàng đó đã được Chúa
Kitô trao lại cho các tông đồ và những người kế vị các ngài bằng chính “di
chúc” của Ngài.
Nên hiểu từ ngữ “di chúc” theo nghĩa thần học
sâu sắc nhất cũng như sự chấp nhận thuần túy nhân bản. Chúa Kitô “biết
giờ của Ngài đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha” (Gio
13, 1), “bằng của ăn cho mười hai tông đồ, Ngài tự trao mình do chính đôi
tay của Ngài” (xem Thánh ca Pange lingua), đã khuyên bảo họ làm lại
lễ nghi bữa tiệc ly “để nhớ đến Ngài”: bẻ bánh và trao tặng chén rượu, dấu
ấn nhiệm tích của xác thân Ngài “bị nộp” và của máu Ngài “bị đổ ra”.
Kế tiếp, sau khi Ngài chết và phục sinh, Ngài
đã trao phó cho họ thừa tác vụ tha tội và sự ban hành các bí tích khác nữa,
khởi đầu là bí tích thánh tẩy. Các tông đồ đã chuyển giao kho tàng đó lại
cho các người kế vị.
Ngoài việc rao giảng Lời Chúa, việc ban hành
các bí tích là nhiệm vụ đầu tiên của các giám mục mà từ đó các trách vụ khác
đều phụ thuộc vào. Trong cuộc sống cũng như trong hành động của giám mục,
tất cả phải nhắm tới mục đích đó.
Như đã biết, để đạt được điều đó, chúng ta cần
sự giúp đỡ: “Lạy Chúa, ngày hôm nay đây, xin đến giúp đỡ cho sự yếu đuối của
con và ban cho chúng con những cộng sự viên mà chúng con cần đến để thi hành
chức tư tế tông đồ” (Sách Lễ Roma, Phong chức linh mục).
Đó là lý do chúng ta chọn lựa cùng chuẩn bị
những ứng viên xứng hợp và chúng ta phong chức cho họ làm phó tế cùng linh
mục. Cùng với chúng ta, họ có bổn phận rao giảng Lời Chúa và cử hành bí
tích.
Đó là triển vọng phải soi sáng và sắp đặt
những công việc hằng ngày, những cam kết choán đầy sổ nhật ký chúng ta. Rõ
ràng không chỉ cử hành Thánh Thể hay ban phép thêm sức trong khi chúng ta ở
trung tâm điểm cộng đoàn giáo sĩ, mà còn cử hành bí tích thánh tẩy cho trẻ
con và nhất là người lớn, được chuẩn bị bởi cộng đoàn Giáo Hội địa phương để
trở nên môn đệ Chúa Kitô.
Cũng không nên đánh giá thấp việc giải tội cá
nhân hay thăm viếng cùng xức dầu bệnh nhân, một nhiệm tích đã được thiết lập
đặc biệt cho họ. Giữa những trách vụ giám mục, còn phải làm nổi bật sự ân
cần mời gọi nên thánh trong bậc hôn nhân. Điều đó được thể hiện qua trung
gian các cha xứ đã đành, nhưng trên phương diện cá nhân, giám mục cũng phải
chủ tọa, khi có thể được, các lễ cưới và chúc lành cho họ.
Dĩ nhiên, với tư cách cộng sự viên của giám
mục, các linh mục đảm nhận phần lớn những sứ vụ đó. Tuy nhiên, sự cam kết có
tính cách cá nhân của vị mục tử giáo phận trong việc cử hành các bí tích sẽ
nêu gương tốt cho cộng đoàn dân Chúa mà ngài được phó thác, đối với giáo dân
cũng như linh mục. Đối với tất cả mọi người, đó là biểu hiệu rõ rệt nhất của
sự liên kết giữa ngài với Chúa Kitô đang hiện diên và tác động qua tất cả
những nghi lễ nhiệm tích.
Chính Chúa Kitô muốn chúng ta trở nên những
khí cụ của công trình cứu chuộc mà Ngài thực hiện qua các bí tích của Giáo
Hội. Rõ ràng trong những dấu ấn hữu hiệu của ân sủng, với đôi mắt của tâm
hồn, người ta nhìn ra bộ mặt của Chúa Kitô, Chúa Cứu Thế từ bi và Mục Tử
Nhân Hậu. Một giám mục khi đích thân cử hành các nhiệm tích hiển nhiên xuất
hiện trước mọi người như là biểu tượng của Chúa Kitô luôn sống động và hoạt
động trong Giáo Hội Ngài.
5.- Những cuộc thăm
viếng mục vụ
Như tôi đã nhắc lại trên đây, tôi đến tòa giám
mục thường xuyên để làm việc, nhưng một cách đặc biệt, tôi ưa thính những
cuộc thăm viếng mục vụ hơn. Điều đó làm cho tôi hài lòng nhiều lắm bởi vì
khiến tôi có thể giao tiếp thẳng với các cá nhân. Lúc đó tôi có cảm tưởng
một cách mạnh mẽ hơn là tôi đã “đào luyện” họ.
Những linh mục và giáo dân tìm gặp tôi, những
gia đình, những người già trẻ, những kẻ khỏe mạnh cũng như đau yếu, những
cha mẹ và con cái cùng với những khó khăn của họ: tất cả đã đến với mọi lý
do. Đời sống là như vậy đó.
Tôi nhớ rất rõ cuộc thăm viếng mục vụ đầu tiên
của tôi ở Mucharz, gần Wadovice. Ở đó có một cha xứ già nua, một linh
mục rất được kính trọng, một giáo sĩ cao cấp. Tên ngài là Józef Motyka.
Ngài biết đó là cuộc thăm viếng mục vụ đầu tiên của tôi và ngài tỏ ra
xúc động. Ngài nói: đối với ngài, có lẽ đó là lần cuối cùng.
Ngài cho biết ngài có thể làm hướng dẫn viên
cho tôi. Cuộc thăm viếng suốt cả địa hạt đó kéo dài hai tháng – tháng năm và
tháng sáu. Sau những tháng hè, tôi thăm viếng địa hạt nguyên khởi, đó là địa
hạt Wadowice.
Những cuộc thăm viếng mục vụ xảy ra vào mùa
xuân và mùa thu. Tôi không có thời giờ thăm viếng hết trên ba trăm giáo xứ
(mặc dù tôi lưu lại đó trong hai mươi năm trên cương vị giám mục mà cũng
không có thời giờ thăm viếng hết).
Tôi nhớ lại giáo xứ cuối cùng của Tổng Giáo
Phận Cracovie mà tôi thăm viếng là giáo xứ Thánh Giuse ở Zlote Lany,
trong một khu gia cư ở Bielsko-Biala. Trong thành phố đó, cha Józef Sanak
là cha sở giáo xứ Chúa Quan Phòng mà tôi đã nghỉ qua đêm.
Sau cuộc thăm viếng đó trở về, tôi đã dâng
Thánh Lễ cầu hồn cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô I vừa mới qua đời và sau đó
tôi đến Varsovie tham gia những công việc của hội đồng giám mục rồi đi
Roma…mà không mảy may có chút ý nghĩ là tôi phải ở lại đó mãi mãi.
Những cuộc thăm viếng mục vụ của tôi kéo dài
khá lâu: có lẽ vì thế mà tôi không có thời giờ thăm viếng hết các giáo xứ.
Quả thật có một mô hình cổ truyền theo đó tôi
đã khởi đầu ở Mucharz, như tôi đã nhắc nhở trên đây. Vị giáo sĩ già nua mà
tôi gặp gỡ đã trở nên hướng dẫn viên quí báu cho tôi trong lãnh vực đó.
Nhưng về sau, do những kinh nghiệm thu thập
dần dần, tôi nhận thấy cần đem vào những sự đổi mới. Tính cách nặng nề về
pháp lý mà trưóc kia người ta đưa vào trong cuộc thăm viếng không làm tôi
thích thú mấy. Tôi muốn đem nội dung mục vụ vào càng nhiều càng tốt.
Vì vậy tôi thiết lập một sơ đồ. Cuộc thăm
viếng luôn luôn bắt đầu bằng một nghi thức chào mừng mà nhiều người và nhiều
nhóm khác nhau tham dự: người lớn, giới trẻ và con nít. Kế đó, tôi được đón
vào nhà thờ để đọc một diễn văn với chủ tâm thiết lập một nhịp cầu giao tiếp
đầu tiên với mọi người. Ngày kế tiếp, trước tiên tôi ngồi tòa giải tội một
hai tiếng đồng hồ, tùy theo hoàn cảnh, để đón tiếp những hối nhân.
Tiếp đến là Thánh Lễ và những cuộc thăm viếng
các tư gia, trước hết là những nhà có người đau yếu, nhưng không loại trừ
những người khác. Rủi thay những người Cộng Sản không cho phép tôi vào các
bệnh viện thăm viếng. Các bệnh nhân được mang tới nhà thờ để tôi gặp gỡ họ.
Nhân vật trong giáo phận đảm trách việc đưa các bệnh nhân thăm viếng như thế
là nữ tì của Chúa Hanna Chrzanowska.
Tôi luôn có một ý thức rõ rệt về sự đóng góp
chủ yếu mà các người đau khổ mang đến trong đời sống Giáo Hội. Tôi nhớ lại,
trong những cuộc gặp gỡ đầu tiên, các bệnh nhân đã làm cho tôi tụt rè e sợ.
Phải có một mức độ can đảm khá cao mới có thể đứng trước những người chịu
đớn đau và theo một ý nghĩa nào đó, đi vào trong sự đau khổ thể xác lẫn tâm
thần của họ, mà không để cho mình bị ảnh hưởng bởi sự kiện đó, bằng cách
chứng tỏ ít nhất là một chút lòng trắc ẩn trìu mến.
Về sau nầy tôi đã khám phá ra ý nghĩa thâm sâu
của huyền nhiệm về sự khổ đau nhân loại. Trong sự yếu kém của các bệnh nhân,
tôi luôn nhận thấy xuất hiện rõ ràng hơn sức mạnh của lòng trắc ẩn. Theo một
ý nghĩa nào đó, bệnh nhân “khơi động” lòng trắc ẩn.
Qua lời cầu nguyện và bằng sự dâng hiến, không
những họ nhận được sự trắc ẩn, mà họ còn tạo ra “không gian của lòng trắc
ẩn”, hay đúng hơn họ “mở ra những không gian” cho lòng trắc ẩn. Thật thế,
qua bệnh hoạn và sự khổ đau, họ khơi dậy những hành vi trắc ẩn và mang lại
một sự thực hiện có thể có được.
Trong những cuộc thăm viếng mục vụ, tôi cũng
cử hành những bí tích: tôi ban phép thêm sức cho người lớn và làm phép cưới
cho những đôi tân hôn.
Và rồi tôi đã gặp gỡ riêng rẽ những nhóm người
khác nhau, chẳng hạn giới trẻ, những giáo viên, những nhân viên làm việc cho
các giáo xứ. Cũng có một cuộc gặp gỡ đặc biệt ở trong nhà thờ với tất cả các
đôi hôn phối: bắt đầu bằng Thánh Lễ và kết thúc bằng một phép lành đặc biệt,
ban cho từng đôi riêng biệt.
Trong những cuộc gặp gỡ như thế, hiển nhiên có
một bài giảng dành riêng cho các đôi hôn phối. Tôi luôn cảm thấy một sự xúc
động đặc biệt khi gặp gỡ các gia đình đông con, cũng như những bà mẹ đang
trông chờ ngày sinh đẻ. Tôi muốn tỏ bày sự quí mến của tôi đối với tình mẫu
tử cũng như tình phụ tử.
Từ khi bắt đầu làm linh mục, tôi đã vun đắp
một sự cam kết mục vụ đối với những đôi hôn phối và các gia đình. Trong tư
cách tuyên úy đại học, tôi có thói quen tổ chức những khóa dự bị hôn nhân và
sau nầy, khi làm giám mục, tôi đã cổ võ mục vụ các gia đình.
Chính những kinh nghiệm đó, những cuộc gặp gỡ
đó với các vị hôn phu và vị hôn thê, với các đôi vợ chồng và với các gia
đình mà tôi đã cho ra đời những bi kịch có tính chất thơ như “La Boutique
de l’orfèvre” (“Cửa tiệm của người thợ kim hoàn”) hay quyển sách
“Amour et responsabilité” (“Tình yêu và trách nhiệm”) và gần
đây là “La Lettre aux familles” (“Tâm thư gởi các gia đình”).
Cũng có những cuộc gặp gỡ riêng tư với các
linh mục. Tôi muốn dành cho mỗi linh mục cơ hội để họ thổ lộ tâm tình, chia
sẻ niềm vui cũng như những ưu tư trong đời sống mục vụ của họ. Đối với tôi,
những cuộc gặp gỡ đó tự biểu lộ những cơ hội quí báu để đón nhận từ nơi các
linh mục những kho tàng khôn ngoan tích lũy qua những năm dài vất vả do hoạt
động tông đồ.
Diễn tiến của cuộc thăm viếng mục vụ tùy thuộc
những đặc điểm của từng giáo xứ. Thật thế có những cảnh ngộ rất khác nhau.
Cuộc thăm viếng cộng đồng giáo xứ nhà thờ chính tòa Đức Bà Mông Triệu Thăng
Thiên ở Cracovie chẳng hạn kéo dài hai tháng, bởi vì ở đó có nhiều nhà thờ
và nhà nguyện.
Trường hợp Nowa Huta hoàn toàn khác
hẳn: ở đó, không có nhà thờ, mặc dù có nhiều ngàn cư dân: chỉ có một nhà
nguyện nho nhỏ, phụ thuộc một ngôi trường cũ. Phải lưu ý đến sự kiện nầy là
chúng tôi đang ở vào thời kỳ hậu Staline và đang diễn ra cuộc đấu tranh
chống tôn giáo. Trong một “thành phố xã hội” như Nowa Huta, chính phủ không
cho phép xây cất những nhà thờ mới.
(Nowa Huta theo nguyên ngữ là “Công
Nghiệp Luyện Thép Mới”, theo thói quen dịch là “Thành Phố Mới”, được xây
dựng năm 1950, được xem như “thành phố Cộng Sản lý tưởng”. Năm 1960, một
cánh tay sắt đã giao đấu ở giữa chính quyền và những tín đồ mong ước xây lên
một nhà thờ ở đó. Đức Tổng Giám Mục Karol Wojtyla hỗ trợ cuộc đấu tranh đó
của các giáo dân và năm 1969 đích thân ngài đến đặt viên đá đầu tiên để xây
ngôi thánh đường Bienczyce, trước sự hiện diện của năm mươi ngàn người.)
6.- Cuộc đấu tranh
xây cất nhà thờ
Đúng thế, ở Cracovie - Nowa Huta đã diễn ra
một trận chiến trong việc xây cất nhà thờ. Trong khu vực đó cư ngụ hằng ngàn
người dân, phần lớn là những nhân công đến từ cả nước Ba-lan, làm việc cho
đại kỹ nghệ luyện kim. Theo dự án của chính quyền, Nowa Huta phải là một khu
“xã hội” kiểu mẫu, nghĩa là cắt đứt mọi liên hệ với Giáo Hội. Tuy nhiên
không thể làm như thể những người đó đến kiếm việc làm, có thể từ bỏ gốc rễ
Công giáo của mình được.
Trận chiến bắt đầu trong một khu gia cư rộng
lớn ở Bienczyce. Khởi đầu, sau những áp lực đầu tiên, chính quyền
Cộng Sản nhượng bộ cho phép xây nhà thờ và ngay cả cấp đất nữa. Dân chúng đã
dựng lên ở đó một cây thánh giá. Nhưng rồi giấy phép chấp thuận vào thời Đức
Tổng Giám Mục Baziak đã bị rút lại và chính quyền quyết định gỡ cây thánh
giá đi. Dân chúng đã phản đối dữ dội.
Và kết quả là một trận chiến thật sự với cảnh
sát: đã có những nạn nhân, những người bị thương. Thị trưởng đã yêu cầu “làm
cho dân chúng dịu xuống”. Đó là một trong những hành động đầu tiên của một
trận chiến lâu dài cho tự do và nhân phẩm của dân chúng đó mà số phận đã
được đặt để trong khu vực tân lập ở Cracovie.
Cuối cùng người ta đã thắng trận chiến nhưng
phải trả bằng giá của “trận giặc thần kinh” cạn kiệt. Tôi điều hành những
cuộc mặc cả với chính quyền, nhất là với ông thủ trưởng Ban Tôn Giáo tỉnh.
Đó là một người có tư cách đứng đắn trong những cuộc thảo luận nhưng đặc
biệt cứng rắn và không nhượng bộ trong những quyết định tiếp theo sau đó, và
để lộ một tinh thần đầy ác cảm.
Cha xứ là Józef Gorzelany đảm trách
việc xây nhà thờ và ngài đã thi hành sứ vụ đó cách tốt đẹp. Ngài đạt lời mời
giáo dân mỗi người mang một viên đá để xây nền móng và dựng tường là một
sáng kiến mục vụ khôn ngoan. Như thế mỗi người cảm thấy cá nhân mình
dính dấp đến việc xây đắp nền móng thánh đường mới.
Chúng tôi đã trải qua một hoàn cảnh tương tự ở
trung tâm mục vụ Mistrzejowice. Người chủ chốt của biến cố đó là linh
mục quả cảm Józef Kurzeja đã tới gặp tôi và tự nguyện đi đến khu vực
đó thi hành mục vụ. Ở đó có một ngôi nhà nhỏ mà trong đó ngài đề nghị bắt
đầu dạy giáo lý với hy vọng có thể dần dần tạo nên giáo xứ mới.
Điều đó đã xảy ra, nhưng cha Józef đã phải trả
giá bằng chính mạng sống mình cho những cuộc đấu tranh xây nhà thờ ở
Mistrzejowice. Đương đầu với những sự phiền nhiễu do chính quyền Cộng Sản
gây ra, ngài đã bị cơn biến động mạch máu não và từ trần lúc ba mươi chín
tuổi đời.
Trong trận chiến xây nhà thờ Mistrzejowice,
ngài được cha Mikolaj Kuczkowski giúp đỡ. Cha nầy cũng gốc Wadowice
như tôi. Tôi nhớ lại khi còn là một luật sư, ngài đã đính hôn với Nastka,
một cô gái trẻ đẹp, chủ tịch Công Giáo Tiến Hành giới trẻ. Khi chị nầy qua
đời, cha đã quyết định làm linh mục. Năm 1039, cha vào chủng viện và bắt đầu
học triết thần. Cha học xong năm 1945.
Tôi đã có những giao tiếp rất thân thiết với
cha và cha cũng rất thương yêu tôi. Cha đã có ý “làm cho tôi nên một con
người nào đó” như người ta thường nói. Sau khi tôi được tấn phong giám mục,
đích thân ngài lo việc dọn nhà cho tôi đến ở tòa giám mục Cracovie, số 3
đường Franciszkanska.
Tôi thường có dịp quan sát ngài đã thương yêu
cha Józef Kurzeja, cha xứ đầu tiên của Mistrzejowice, như thế nào. Về chính
cha Józef, tôi có thể nói ngài là một người đơn giản và tốt lành. (Một trong
những chị em của ngài là Nữ Tu Dòng Thánh Tâm).
Như tôi đã nói, cha Kuczkowski đã giúp đỡ cha
Józef rất nhiều trong sinh hoạt cá nhân. Và khi cha Józef qua đời, ngài đã
từ chức chưởng ấn của tòa giám mục để kế vị cha lo cho giáo xứ
Mistrzejowice. Cả hai vị đã được an táng trong hầm mộ ở dưới nhà thờ do
chính họ xây cất.
Tôi có thể kể ra đây rất nhiều điều về họ. Đối
với tôi, họ nêu gương quả cảm về lòng bác ái giữa các linh mục mà, trong tư
cách giám mục, tôi đã chứng kiến và được khích lệ với nhiều ngưỡng mộ: “Người
bạn trung thành là một nơi nương tựa vững chắc, ai gặp được người bạn như
thế là gặp được kho tàng quí giá” (Hc 6, 15). Tình bạn
chân chính bắt nguồn từ Chúa Kitô: “Thầy gọi anh em là bạn hữu…” (Gio
15, 15).
Chính Đức Cha Ignacy Tokarczuk, giám
mục giáo phận kế cận là Przemysl, đã cổ động một cách hữu hiệu việc xây cất
những ngôi thánh đường trong nước Cộng Hòa Nhân Dân Ba-lan. Ngài đã xây cất
các nhà thờ bất chấp luật lệ, với giá của nhiều hy sinh và nhiều sự nhiễu
nhương về phía chính quyền Cộng Sản địa phương.
Tuy nhiên trong trường hợp của ngài, tình thế
có phần nào thuận lợi hơn, bởi vì những cộng đoàn trong giáo phận của ngài
phần lớn được làm thành bởi những làng xã và đó là môi trường ít khó khăn
hơn. Thật thế, dân chúng ở thôn quê, ngoài sự kiện họ nhạy cảm hơn đối với
vấn đề tôn giáo, họ còn ít bị công an kiểm soát chặt chẽ.
Tôi tưởng tới những cha xứ đã xây dựng những
ngôi thánh đường trong thời gian đó với lòng ngưỡng mộ và biết ơn. Lòng
ngưỡng mộ của tôi cũng lan rộng tới hết những người xây dựng thánh đường
trên tất cả mọi phần đất thế giới. Tôi luôn cố gắng hỗ trợ họ.
Những Thánh Lễ đêm Giáng Sinh cử hành lộ thiên
ở Nowa Huta, mặc dù trời lạnh đông đá, là một sự biểu lộ việc hỗ trợ đó.
Trước kia tôi cũng đã cử hành Thánh lễ như thế ở Bienczyce và cả sau đó ở
Mistrzejowice cũng như trên những ngọn đồi Krzeslawice.
Trong những cuộc mặc cả với chính quyền, điều
đó đã làm nên một luận cứ có tính cách yêu sách hơn về quyền của tín hữu
được có những điều kiện nhân bản trong các cuộc công khai biểu lộ đức tin.
Tôi đã nhắc lại điều đó bởi vì kinh nghiệm của
chúng tôi lúc bấy giờ chứng tỏ những trách vụ của một giám mục có thể đa
dạng đến mức nào. Trong những cuộc thăng trầm đó, luôn luôn vang động lại
điều mà một mục tử sống tiếp cận với đàn chiên đã được giao phó.
Tôi có thể đích thân nhận ra điều mà trong
Phúc Âm đã nói về những con chiên đi theo chủ chăn: “Chúng không theo
người lạ vì chúng nhận biết tiếng của chủ chăn. Nhưng người đó biết còn có
những con chiên khác không ở trong đàn chiên. Những con chiên đó nữa, cũng
phải dẫn đưa chúng về.” (Gio 10, 4-5, 16).
CHƯƠNG
BA
CAM KẾT
KHOA HỌC VÀ MỤC VỤ
“...đầy
thiện chí, thừa hiểu biết”
(Rm
15,14)
1.- Phân khoa thần
học trong khung cảnh những phân khoa đại học khác
Với tư cách là giám mục Cracovie, tôi cảm thấy
bắt buộc phải bảo vệ phân khoa thần học được thiết lập bên cạnh đại học
Jagellon. Tôi xét thấy đó là bổn phận của tôi. Nhà Nước khẳng định phân
khoa đó đã được chuyển về Varsovie. Chứng cớ mà họ dựa vào đó là việc thiết
lập vào năm 1953 ở Varsovie Viện Hàn Lâm Thần Học Công Giáo, được đặt dưới
sự quản lý của Nhà Nước. Cuộc chiến đấu đó được thắng lợi nhờ sự kiện về sau
nầy phát sinh ở Cracovie phân khoa giáo hoàng tự trị về thần học, rồi Hàn
Lâm Viện giáo hoàng về thần học.
Trong cuộc chiến đấu đó, tôi đã được khẳng
định bởi niềm xác tín là khoa học, trong những biểu tượng của nhiều môn học,
là một di sản vô giá đối với đất nước. Dĩ nhiên, trong cuộc đối thoại với
chính quyền Cộng Sản, đối tượng bênh vực trước tiên của tôi là môn thần học,
bởi vì môn đó đang bị đe dọa một cách đặc biệt.
Nhưng tôi không bao giờ quên những ngành khác
của kiến thức, ngay cả những ngành xem ra không liên hệ gì đến thần học. Tôi
đã tiếp cận với những lãnh vực khác của khoa học, nhất là qua trung gian của
những nhà vật lý học. Chúng tôi đã gặp gỡ nhau thường xuyên và đã bàn luận
những khám phá rất gần đây trong lãnh vực vũ trụ học.
Đó là một tiến trình hấp dẫn quả quyết điều mà
Thánh Phaolô đã xác quyết theo đó một sự hiểu biết chắc chắn về Thiên Chúa
cũng có thể đạt được qua sự hiểu biết về vũ trụ được tạo dựng (xem Rm
1, 20-23). Những cuộc gặp gỡ đó ở Cracovie thỉnh thoảng cũng được tiếp nối ở
Roma và ở Castel Gandolfo. Các cuộc gặp gỡ được tổ chức bởi giáo sư Jerzy
Janik.
Tôi luôn luôn thao thức bởi vấn đề cần tổ chức
mục vụ thích hợp cho các khoa học gia. Vị tuyên úy lâu năm ở Cracovie là
giáo sư Stanislaw Nagy, một linh mục gần đây tôi đã nâng lên chức
Hồng Y. Qua cử chỉ đó, tôi cũng muốn biểu lộ lòng biết ơn của tôi đối với
nền khoa học Ba-lan.
2.- Giám mục và thế
giới văn hóa
Người ta biết các giám mục hầu hết không tỏ ra
hứng thú đặc biệt trong việc đối thoại với những nhà nghiên cứu khoa học.
Phần đông các ngài ưa thích những công tác mục vụ hơn – theo ý nghĩa bao
quát của cụm từ đó – so với việc tiếp xúc với các khoa học gia. Tuy nhiên,
theo quan điểm của tôi, các thành phần giáo sĩ – giám mục cũng như linh mục
– nên có những liên hệ cá nhân với thế giới khoa học và với những người chủ
yếu trong thế giới đó.
Cách riêng, giám mục phải chăm sóc các trường
cao đẳng Công giáo thuộc về mình. Giám mục cũng phải duy trì một sự giao
tiếp thân tình với toàn thể sinh hoạt đại học: phải đọc tài liệu, gặp gỡ
giao tiếp, được thông báo về tất cả những gì xảy ra trong môi trường đó.
Hiển nhiên chính giám mục không được kêu gọi
để trở thành khoa học gia, nhưng là một mục tử. Tuy nhiên, trong tư cách là
mục tử, giám mục không thể không quan tâm đến thành phần đó của đoàn chiên
mình, bởi vì cũng nằm trong trách nhiệm của ngài là phải nhắc nhở các nhà
nghiên cứu khoa học bổn phận phục vụ chân lý và như thế là cổ võ sự lợi ích
chung.
Ở Cracovie, tôi cũng tìm cách duy trì những
liên lạc thường xuyên với các triết gia như Roman Ingarden, Wladyslaw
Strózewski, Andrzej Póltawski, và cũng với các linh mục triết gia như
Kazimierz Klósak, Józef Tischner và Jósef Zycinski. Lập trường
triết học cá nhân của tôi có thể nói được là ở giữa hai thái cực: học thuyết
của Thánh Tôma và hiện tượng luận của Edmund Husserl.
Tôi đặc biệt liên hệ với tư tưởng của Edith
Stein, một khuôn mặt khác thường, nhất là vì hành trình hiện sinh của
chị: vốn là một phụ nữ Do-thái sinh ở Wroclaw, chị đã gặp gỡ Chúa Kitô, nhận
lãnh bí tích Thánh Tẩy, vào tu ở đan viện Cát-minh, trải qua một thời gian
sống ở Hòa Lan và từ đó bị quân đội Đức Quốc Xã đày đi giam ở trại
Auschwitz. Ở đó chị bị đưa vào lò hơi ngạt cho chết và thi thể của chị bị
đốt trong các lò hỏa thiêu.
Chị đã học với triết gia Husserl và là bạn
đồng môn của triết gia Ingarden. Tôi vui mầng đã phong chân phước cho
chị ở Cologne, rồi phong thánh cho chị ở Roma. Tôi đã công bố Thánh Edith
Stein – nữ tu Têrêxa Bênêđita Thánh Giá – là thánh bảo trợ Âu châu, cùng
với Thánh Brigitte Thụy Điển và Thánh Catherine de Sienne. Đó
là ba thánh nữ bảo trợ bên cạnh ba thánh nam: Bênêditô, Cyrille và
Méthode.
Tôi ưa thích triết lý của Thánh Edith Stein.
Tôi đã đọc những văn bản của chị, đặc biệt quyển “Hữu Hạn và Vô Biên”,
nhưng nhất là tôi say mê bởi đời sống đặc biệt và số phận bi đát của chị đã
được chia sẻ bởi triệu triệu nạn nhân khác vô phương tự vệ trong thời đại
chúng ta. Chị là đệ tử của triết gia Edmund Husserl, là nhà truy tầm chân lý
hăng say, nữ tu kín, nạn nhân của chế độ Hitler: thật là một cuộc “nhân
sinh” đặc biệt lạ thường…
3.- Sách vở và việc
học
Những gánh nặng đổ lên vai một giám mục thì
rất nhiều. Cá nhân tôi đã có kinh nghiệm và tôi nhận thấy rằng thật sự không
sao đủ thời giờ được. Nhưng kinh nghiệm đó cũng đã dạy cho tôi đến mức độ
nào sự thinh lặng và học hỏi cần thiết cho một giám mục.
Ngài cần có một sự đào luyện thâm sâu về thần
học luôn được cập nhựt hóa và cũng cần một lợi ích rộng lớn hơn đối với cuộc
sống trí thức và rao giảng. Đó là những kho tàng quí báu mà các ngài suy tư
và trao đổi cho nhau. Vì vậy tôi muốn trình bày đôi điều về vấn đề đọc sách
trong đời sống giám mục của tôi.
Tôi luôn luôn phân vân: phải đọc những gì? Tôi
cố gắng chọn lựa những gì thiết yếu nhất. Sản phẩm biên soạn thì nhiều vô
kể. Điều đó không có nghĩa là tất cả mọi sách đều có một giá trị như nhau và
tất cả cũng đều hữu ích. Phải biết chọn lựa và hỏi ý kiến về những sách gì
nên đọc.
Tôi yêu đọc sách từ thuở tấm bé. Cha tôi đã
làm cho tôi ưa thích đọc sách. Chẳng hạn cha tôi có thói quen ngồi cạnh tôi
và đọc cho tôi nghe những sách của Sienkiewicz hay của những văn sĩ
Ba-lan khác. Khi mẹ tôi qua đời, chúng tôi sống khắng khít bên nhau: cha tôi
và tôi. Và người không ngừng khai tâm cho tôi biết đọc những sách có giá
trị. Người cũng không cản trở tôi yêu thích kịch nghệ.
Nếu chiến tranh đã không xảy ra và hoàn cảnh
không thay đổi một cách triệt để, có thể những viễn tượng mà những môn học ở
đại học mở ra đã thu hút tôi hoàn toàn. Khi tôi cho Mieczyslaw Kotlarczyk
hay quyết định của tôi trở thành linh mục, anh ta la lên: “Mầy làm gì ở đó?
Mầy muốn phung phí tài năng mà mầy có hay sao?” Chỉ Đức Cha Sapieha không
chút nghi ngờ mà thôi.
Khi còn là sinh viên ngành văn chương, tôi
khám phá nhiều tác giả đa dạng. Trước hết tôi nghiêng về văn học, đặc biệt
văn học kịch nghệ. Tôi đã đọc Shakespeare, Molière, những thi sĩ
Ba-lan như Norwid, Wyspianski và dĩ nhiên Alexander Fredro. Sự
đăm mê của tôi là trở thành diễn viên trên sân khấu.
Thường khi tôi tưởng tượng những vai trò mà
tôi thích đóng! Với Kotlarczyk, chúng tôi vui thích đóng nhiều vai trò có
thể được và tự hỏi nhau ai có thể đóng vai nào. Đó là những chuyện thuộc về
quá khứ. Kế tiếp đó, có người đã hỏi tôi: “Mầy có thiên tư…Mầy sẽ trở thành
diễn viên giỏi nếu mầy ở trong ngành kịch nghệ.”
Phụng vụ cũng là thứ huyền nhiệm (mysterium)
được trình bày, đạo diễn. Tôi nhớ lại với nhiều xúc động trào dâng khi cha
xứ là Figlewicz đã mời tôi, lúc đó được mười lăm tuổi, tham dự Tam
Nhựt (Triduum) Phục Sinh và dự phần vào Nghi Thức Đọc Sách, được
thực hành trước vào chiều thứ tư. Đối với tôi đó là một cú sốc tâm linh và
ngay cả hôm nay, Tam Nhựt Phục Sinh cũng còn là một kinh nghiệm gây
nhiều xúc động.
Kế đến là thời gian đọc văn chương triết thần.
Khi còn là chủng sinh chui, tôi nhận được tập sách giáo khoa về siêu hình
học của giáo sư Kazimierz Wais ở Lvov. Cha Kazimierz Klósak
nói với tôi: “Con hãy học đi. Khi con học xong, con sẽ qua đuợc kỳ thi khảo
hạch.” Trong nhiều tháng, tôi đã lăn xả đọc tài liệu đó. Rồi tôi dự cuộc
khảo hạch và được chấp nhận.
Đó là một khúc ngoặc trong cuộc đời tôi. Một
thế giới mới mở ra trước mắt tôi. Tôi bắt đầu mạo hiểm đọc các sách thần
học. Sau nầy, khi ở Roma, trong thời gian học vấn, tôi bắt đầu đào sâu tác
phẩm Summa Theologiae (Thần Học Yếu Lược) của Thánh Tôma.
Như vậy có hai giai đoạn trong hành trình trí
thức của tôi: giai đoạn đầu thuộc tiến trình tư tưởng từ văn chương đến siêu
hình; loại sau đưa tôi từ siêu hình đến hiện tượng luận. Đó là bước đầu rèn
luyện về khoa học. Giai đoạn đầu trùng hợp với thời kỳ chiếm đóng của Đức
Quốc Xã, ít nhất là trong thời gian đầu. Lúc đó tôi làm ở nhà máy Solvay
đồng thời học chui thần học ở chủng viện.
Tôi nhớ lại khi tôi trình diện cha giám đốc là
Jan Piwowarczyk, ngài nói với tôi: “Cha chấp nhận con, nhưng cho dẫu
mẹ con cũng không được biết là con học ở đây.” Đó là tình cảnh lúc bấy giờ.
Mặc dù thế, tôi cũng thành công trong việc tiến về phía trước. Sau nầy cha
Rózycki đã giúp đỡ tôi nhiều. Chính ngài cho tôi nơi ăn chỗ ở và cung
cấp cho tôi nền móng của công việc khoa học.
Về sau khá lâu, giáo sư Rózycki đã đề nghị với
tôi luận án thần học liên quan đến tác phẩm của Max Scheler là
“Chủ nghĩa hình thức trong đạo đức học và thực chất đạo đức của các giá trị”
(Le Formalisme en éthique et l’étique matérielle des valeurs”.
Tôi đã chuyển dịch quyển sách đó ra tiếng Ba-lan để tiện dụng, trong khi
soạn thảo luận án.
Đó là một khúc ngoặc mới. Tôi đệ trình luận án
của tôi tháng mười một năm 1953. Các báo cáo viên của bài văn nghị luận là
cha Aleksander Usowicz, Stefan Swiezawski và thần học gia
Wladyslaw Wicher.
Đó là khóa giảng dạy cuối cùng của phân khoa
thần học thuộc đại học Jagellon, trước khi bị cộng Sản giải tán. Phân khoa
thần học nầy, như tôi đã nhắc lại trên đây, được chuyển về Hàn Lâm Viện Thần
Học Công Giáo ở Varsovie.
Kế đó, kể từ mùa thu 1954, tôi bắt đầu giảng
dạy ở đại học Công giáo Lublin. Sở dĩ tôi có thể đảm trách sinh hoạt đó nhờ
giáo sư Swiezawski mà tình bạn gắn bó cho tới ngày nay.
Tôi rất thương mến cha Rózycki mà tôi
gọi bằng Ignac. Và chính ngài cũng dành cho tôi một tình bạn như thế.
Chính ngài đã khuyến khích tôi dự thi để có chân giáo sư đại học. Chúng tôi
đã sống chung với nhau trong nhiều năm. Chúng tôi đã dùng bữa chung với
nhau. Bà Maria Gromek đã nấu ăn cho chúng tôi.
Ở đó tôi có một căn phòng mà tôi còn nhớ rõ.
Đó là căn nhà dành cho các linh mục phụ tá của giáo phận Wawel ở số 19,
đường Kanoniczna. Và đó là “nhà” của tôi trong sáu năm trời. Sau đó tôi cư
ngụ ở số 12 và cuối cùng, nhờ cha chưởng ấn Mikolaj Kuczkowski, tôi đã
chuyển về dinh giám mục ở số 3 đường Franciszkanska.
Khi đọc sách cũng như học hành, tôi luôn tìm
cách kết hợp một cách hài hòa những chiều kích đức tin, trí tuệ và con tim,
bởi vì đó không phải là những lãnh vực biệt lập. Mỗi lãnh vực xuyên thấu và
linh động hóa những lãnh vực kia.
Trong tương quan hỗ tương giữa đức tin, trí
tuệ và con tim, điều gây ảnh hưởng đặc biệt chính là sự ngạc nhiên xuất phát
từ phép lạ con người, bởi sự kiện con người giống Thiên Chúa là Một và Ba,
bởi huyền nhiệm của tặng vật hỗ tương và của sự sống từ đó phát sinh, bởi
việc chiêm ngắm sự kế tục của những thế hệ loài người.
4.- Trẻ em và thanh
thiếu niên
Trong những suy tư nầy, tôi muốn dành một chỗ
đặc biệt cho trẻ em và thanh thiếu niên. Ngoài những cuộc gặp gỡ của tôi với
họ, trong những chuyến thăm viếng mục vụ, tôi luôn luôn chú ý đặc biệt đến
giới sinh viên, nhất là môi trường đại học, bởi vì thành phố Cracovie, theo
truyền thống, là một trung tâm sống động của các ngành đại học.
Tôi lưu giữ nhiều kỷ niệm đẹp về mục vụ đại
học. Những cơ hội gặp gỡ thì rất đa dạng: từ những buổi thuyết trình cũng
như thảo luận cho tới những cuộc tĩnh tâm và linh thao. Dĩ nhiên tôi duy trì
những cuộc giao tiếp thân tình với các linh mục đảm trách mục vụ trong phạm
vi đó.
Đảng Cộng Sản đã bãi bỏ tất cả những hiệp hội
Công giáo về giới trẻ. Vì vậy phải tìm phương cách để bổ túc sự thiếu sót
đó. Và chính vì thế mà cha Franciszek Blachnicki đã xuất hiện. Ngài
là người khởi xướng điều mà người ta gọi là “Phong Trào Ốc Đảo”.
Tôi đã liên hệ rất nhiều với phong trào đó và
tôi đã giúp đỡ bằng mọi cách. Tôi đã bảo vệ các “ốc đảo” chống lại chính
quyền Cộng Sản. Tôi đã hỗ trợ bằng vật chất và dĩ nhiên, tôi đã tham dự
những cuộc họp mặt của họ.
Khi những tháng hè trở về, tôi thường gia nhập
các “ốc đảo”, nghĩa là những trại hè được tổ chức cho giới trẻ thuộc phong
trào. Tôi giảng dạy, trò chuyện với giới trẻ, cùng hát hò với họ chung quanh
ngọn lửa hồng, tham dự những cuộc leo núi với họ. Thường khi tôi dâng Thánh
Lễ cho họ ở ngoài trời. Tất cả những điều đó tạo nên một chương trình mục vụ
khá dày đặc.
Trong cuộc hành hương vào năm 2003 ở Cracovie
của tôi, những thành viên ốc đảo đã hát lên như sau:
Chúa đã đến bên bờ biển;
Ngài không kiếm tìm những người khôn ngoan,
những kẻ giàu có,
Ngài chỉ xin tôi theo Ngài.
Lạy Chúa, Chúa đã nhìn con trong đôi mắt,
Chúa mỉm cười và gọi tên con.
Chiếc thuyền của con, con để lại trên bờ,
Cùng với Chúa con sẽ vượt qua một đại dương
khác.
Tôi đã nói với họ, theo một nghĩa nào đó, bài
hát của những ốc đảo đã đưa tôi ra khỏi quê hương tôi, cho tới tận Roma. Nội
dung thâm sâu của bài hát đã nâng đỡ tôi ngay cả khi tôi phải đối diện với
sự quyết định của mật nghị các Đức Hồng Y.
Và rồi, suốt cả chiều dài triều đại giáo hoàng
của tôi, không bao giờ tôi tách lìa khỏi bài hát đó. Vả lại, bài hát đó luôn
luôn nhắc nhở cho tôi, không những chỉ ở Ba-lan mà thôi, mà còn ở những xứ
khác trên thế giới.
Khi bài hát đó được nghe lại luôn luôn đưa tôi
về với những cuộc gặp gỡ giới trẻ khi tôi còn là giám mục. Tôi đánh giá rất
tích cực kinh nghiệm lớn lao đó. Tôi đã mang theo kinh nghiệm đó với tôi về
Roma. Cũng ở nơi đây, tôi đã cố gắng rút tỉa những thành quả, bằng cách gia
tăng những cơ hội gặp gỡ giới trẻ. Những “Ngày Giới Trẻ Thế Giới”,
theo một nghĩa nào đó, đã nảy sinh từ kinh nghiệm nầy.
Tôi còn tiếp cận với một phong trào khác của
giới trẻ trên hành trình giám mục của tôi: “Sacrosong”. Đó là một thứ
đại hội âm nhạc về thánh ca, kèm theo những suy tư và cầu nguyện. Những cuộc
gặp gỡ diễn ra ở những địa điểm khác nhau tại Ba-lan và đã lôi cuốn rất
nhiều người trẻ. Tôi tham dự rất nhiều lần và tôi đã hỗ trợ tổ chức đó, kể
cả về phương diện tài chánh. Tôi lưu giữ một kỷ niệm đẹp về những cuộc gặp
gỡ đó.
Tôi rất thích hát. Nói đúng ra, tôi hát mỗi
một lần cớ cơ hội. Nhưng nhất là với giới trẻ, tôi thường sẵn sàng hát.
Những bài hát rất đa dạng, tùy theo hoàn cảnh: đó là những bài dân ca, những
bài hát hướng đạo sinh, chung quanh ngọn lửa hồng.
Vào những dịp lễ quốc gia – như kỷ niệm thời
chiến tranh bùng nổ hay cuộc nổi dậy ở Varsovie – người ta hát những bài
quân ca có tinh thần ái quốc như Les Coquelicots sur le
mont Cassin, La Première Brigade
và nói chung, là những bài hát nói lên sự Nổi
Dậy và Kháng Chiến.
Nhịp điệu của năm phụng vụ hướng về việc lựa
chọn những bài thánh ca, theo một cách thích ứng. Vào dịp lễ Giáng Sinh, ở
Ba-lan, người ta luôn hát nhiều ca khúc Giáng Sinh, trong khi trước Phục
Sinh, người ta thiên về những bài hát liên quan đến Sự Thương Khó hơn. Những
thánh ca xưa đó chuyên chở cả một nền thần học Kitô giáo, tạo thành kho tàng
truyền thống sống động, thốt lên từ trong con tim mỗi thế hệ và hình thành
đức tin.
Vào tháng năm và tháng mười, ngoài những thánh
ca về Đức Mẹ, ở Ba-lan, người ta còn hát Kinh Cầu Đức Bà và Giờ Phụng Vụ
Kính Đức Mẹ. Thật là một sự phong phú về thi ca chứa đựng trong những thánh
ca bình dân đó, còn được sử dụng cho tới ngày nay!
Trên cương vị giám mục, tôi đã cố gắng làm nổi
bật giá trị những truyền thống đó và giới trẻ đặc biệt tỏ ra muốn tiếp nối.
Tôi thiết tưởng sẽ cùng nhau rút tỉa lợi ích từ kho tàng quí báu đó của một
đức tin đơn giản và sâu sắc mà cha ông chúng ta đã thu thập qua các bài
thánh ca.
Ngày 18 tháng 5 năm 2003, tôi đã phong thánh
cho mẹ Urszula Ledóchowska, một khuôn mặt lớn trong ngành giáo dục.
Mẹ sinh ra ở nước Áo, nhưng vào cuối thế kỷ mười chín, cả gia đình dời qua
Lipnica Murowana trong giáo phận Tarnów. Trong nhiều năm, chính mẹ cũng đã
sống ở Cracovie. Người chị của mẹ là Marie-Thérèse, được gọi là “Mẹ
Phi châu”, đã được phong thánh.
Gương mẫu của họ chứng tỏ lòng ao ước nên
thánh triển khai với một mãnh lực lạ thường phát sinh bởi không khí thuận
lợi của một gia đình tốt. Môi trường gia đình quan trọng biết bao! Các thánh
phát sinh và hình thành những vị thánh khác.
Khi tôi nhắc lại những nhà giáo dục như thế,
tự nhiên tôi nghĩ tới trẻ em. Trong những chuyến thăm viếng mục vụ, ngay cả
những chuyến viếng thăm ở Roma đây, tôi luôn cố gắng dành thời giờ để tiếp
xúc với trẻ em.
Tôi không bao giờ ngưng việc khuyến khích các
linh mục nên quảng đại dành thời giờ ngồi tòa giải tội. Thật quan trọng đặc
biệt phải hình thành tốt đẹp lương tâm trẻ em và thanh thiếu niên.
Gần đây tôi đã đề cập tới bổn phận phải rước
lễ một cách xứng đáng (Xem Ecclesia de Eucharistia, số 37). Một thái
độ như thế được hình thành khi xưng tội vỡ lòng trước khi chịu lễ lần đầu.
Có thể mỗi người trong chúng ta còn nhớ lại với biết bao xúc động lần xưng
tội đầu tiên khi còn là một trẻ em.
Vị tiền nhiệm của tôi là Đức Thánh Giáo Hoàng
Piô X đã nêu lên một chứng tá đầy xúc động về tình yêu mục vụ đối với trẻ em
bằng quyết định của ngài đối với việc rước lễ lần đầu. Không những ngài đã
hạ thấp tuổi cần thiết để được đến bàn thánh – điều mà chính tôi đã được
hưởng nhờ vào tháng 5 năm 1929 – ngài còn cho phép được rước lễ ngay cả
trước bảy tuổi trọn, nếu trẻ em tỏ ra có một sự suy xét đầy đủ.
Được cho rước lễ sớm là một quyết định mục vụ
đáng ca ngợi và cần được nhắc nhở. Điều đó đã mang lại nhiều hoa trái về sự
thánh thiện và mục vụ tông đồ đối với trẻ em, nhờ thế đã làm nảy sinh thuận
lợi nhiều ơn gọi linh mục.
Tôi luôn xác tín rằng nếu không biết cầu
nguyện, chúng ta sẽ không đạt tới việc giáo dục trẻ em một cách tốt đẹp.
Trên cương vị giám mục, tôi cố gắng khuyến khích các gia đình và những cộng
đoàn giáo xứ phải hình thành nơi trẻ em lòng ao ước gặp gỡ Chúa bằng lời cầu
nguyện cá nhân.
Trong tinh thần đó, gần đây tôi đã viết: “Cầu
nguyện Kinh Mân Côi cho trẻ em và còn hơn thế nữa với trẻ em…tạo
nên một sự hỗ trợ nội tâm không nên đánh giá quá thấp” (Rosarium Virginis
Mariae, số 42).
Hiển nhiên mục vụ đối với trẻ em phải được
tiếp tục đến tuổi thành niên. Việc xưng tội thường xuyên và sự hướng dẫn tâm
linh giúp đỡ những thanh thiếu niên trong việc nhận chân ơn gọi của họ và
che chở họ khỏi những lầm lạc khi đi vào đời sống trưởng thành.
Tôi còn nhớ vào tháng 11 năm 1964, trong một
cuộc yết kiến riêng, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói với tôi: “Hiền Huynh
đáng kính, ngày nay chúng ta phải rất quan tâm đến giới trẻ sinh viên. Công
việc chính của mục vụ giám mục, đó là những linh mục, thợ thuyền và sinh
viên.”
Tôi thiết tưởng đó là do kinh nghiệm cá nhân
nên ngài đã thốt lên những lời đó. Thật thế, khi ngài Giovanni Battista
Montini làm việc ở Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, trong nhiều năm ngài đã dấn
thân trong lãnh vực mục vu đại học với tư cách tổng tuyên úy của Hiệp Hội
Đại Học Công Giáo Ý (FUCI – Fédération Universitaire Catholique
Italienne).
5.- Việc giảng dạy
giáo lý
Chúa đã ủy nhiệm cho chúng ta: “hãy đi và
giảng dạy muôn dân” (xem Mt 28, 20). Trong bối cảnh xã hội hiện
nay, chúng ta có thể thực thi nhiệm vụ đó, nhất là qua việc giảng dạy giáo
lý. Việc giảng dạy đó phát sinh bởi những suy tư về Phúc Âm cũng như sự hiểu
biết những việc trên đời nầy. Phải thấu hiểu những kinh nghiệm giữa người
với người và ngôn ngữ mà họ thông đạt cho nhau. Đó là một trách nhiệm lớn
lao đối với Giáo Hội.
Đặc biệt những vị mục tử phải quảng đại gieo
vãi, cho dẫu chính những người khác gặt hái công lao của mình:
“Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem,
đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! Ai gặt thì lãnh tiền công và
thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều
hớn hở vui mầng. Thật vậy, câu tục ngữ: “kẻ nầy gieo, người kia gặt” quả là
đúng! Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả và
làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết
quả công lao của họ.” (Gio 4, 35-38).
Như chúng ta biết, khoa dạy giáo lý không chỉ
sử dụng những khái niệm trừu tượng mà thôi. Dĩ nhiên những khái niệm đó cần
thiết, bởi vì khi chúng ta đề cập tới những thực thể siêu hình, không thể
tránh được những khái niệm triết lý.
Tuy nhiên khoa giáo lý đặt để những biểu tượng
và ký hiệu đức tin vào vị trí đầu tiên của con người và sự gặp gỡ với con
người. Khoa giáo lý luôn luôn là tình yêu và trách nhiệm, một thứ trách
nhiệm phát sinh từ tình yêu đối với những người gặp gỡ nhau trong suốt hành
trình đức tin.
Cuốn sách mới về “Giáo Lý của Giáo Hội Công
Giáo” đã được đệ trình cho tôi chuẩn nhận vào năm 1992, được phát sinh
từ ý muốn làm cho ngôn từ của đức tin được con người thời nay dễ lãnh hội
hơn.
Chính hình ảnh của vị Mục Tử Nhân Hậu được
minh họa như “biểu trưng” ở bìa sách của tất cả những lần phát hành cuốn “Giáo
Lý” rất có ý nghĩa. Hình vẽ đó lấy từ một tấm mộ bia thuộc Kitô giáo vào
thế kỷ thứ III, được tìm thấy trong những hang toại đạo của Domitille.
Như người ta đã nhận thấy, bức hình gợi ra ý
nghĩa tổng quát của giáo lý: Chúa Kitô là vị Mục Tử Nhân Hậu hướng dẫn và
bảo vệ các tín hữu (con chiên) bằng quyền uy của Ngài (cây gậy), đã lôi cuốn
họ bằng khúc giao hưởng du dương của chân lý (ống sáo) và làm cho họ được
nghỉ ngơi dưới bóng mát của “cây sự sống”, tức Thập Giá cứu chuộc, mở của
Thiên Đàng. (Xem lời bình chú của “biểu trưng” trên bìa sách Giáo Lý).
Trong bức họa, người ta có thể thấy được sự
kêu mời của vị Mục Tử đối với mỗi con chiên. Đó là một sự mời gọi đầy kiên
nhẫn, bởi vì cần phải có nhiều kiên nhẫn mới tiếp cận mỗi một người
cách thích ứng nhất. Cũng phải có khiếu ăn nói, nghĩa là khả năng
nói một ngôn ngữ dễ hiểu đối với những tín hữu chúng ta. Để được như
thế, chúng ta nên khẩn cầu Chúa Thánh Linh.
Đôi khi giám mục tiếp xúc với những người lớn
dễ dàng hơn, bằng cách ngài ban phép lành cho con cái của họ và lưu lại với
họ một ít thời giờ hơn. Điều đó có ích lợi hơn là một diễn văn dài dòng về
sự kính trọng đối với kẻ yếu kém.
Ngày nay, cần nhiều trí tưởng tượng hơn để học
hỏi cách đối thoại về đức tin và về vấn nạn căn bản đối với con người. Quả
thật cần có nhiều người biết yêu mến và suy tư, bởi vì trí tưởng tượng sống
bằng tình yêu và suy nghĩ. Chính trí tưởng tượng nuôi dưỡng tư duy chúng ta
và nung nấu tình yêu chúng ta.
6.- Cơ Quan Bác Ái
(Caritas)
Sự ân cần đối với người nghèo, theo đúng nghĩa
Phúc Âm, cũng thuộc bổn phận vị mục tử. Qua sách Công Vụ Tông Đồ và
trong những Thư của Thánh Phaolô, chúng ta đã biết những cuộc lạc
quyên do các Thánh Tông Đồ tổ chức để chi cấp những thứ cần thiết cho giới
người nghèo.
Tôi muốn gợi lại nơi đây thí dụ của Thánh
Nicolas là giám mục thành Myre ở Tiểu Á vào khoảng thế kỷ thứ tư. Trong
việc sùng kính vị thánh đó mà mục vụ giám mục diễn ra vào một thời kỳ các
Kitô hữu Đông và Tây chưa bị phân rẽ, người ta tìm thấy hai truyền thống:
đông và tây. Ngài được tôn kính bởi truyền thông đông phương cũng như tây
phương.
Cho dẫu có kèm theo nhiều huyền thoại, khuôn
mặt của ngài vẫn còn hấp dẫn đáng chú ý, nhất là bởi lòng nhân từ của ngài.
Đặc biệt chính trẻ em thổ lộ với ngài một cách xác tín.
Biết bao vấn nạn vật chất có thể được giải
quyết nếu người ta bắt đầu bằng một lời cầu xin với niềm xác tín! Khi chúng
tôi còn con nít, tất cả chúng tôi đều chờ đợi Thánh Nicolas những quà tặng
ngài sẽ mang đến.
Đảng Cộng sản muốn tước đoạt sự thánh thiện
nơi chúng tôi, và để được như vậy, họ đã bày ra “Ông Nội Nước Đá”
(“Grand-Père Glace”). Bất hạnh thay, rất gần đây ở Tây phương, trong bối
cảnh kinh tế tiêu thụ, Thánh Nicolas cũng trở nên phổ thông đại chúng.
Xem như ngày nay người ta đã quên lòng nhân ái
và độ lượng của ngài mà trước tiên là tất cả thước đo của sự thánh thiện.
Quả thật ngài được nổi bật như là giám mục quan tâm đến người nghèo và những
ai có những nhu cầu thiết yếu.
Tôi nhớ lại khi còn tấm bé, tôi đã có một sự
liên hệ cá nhân với ngài. Dĩ nhiên, cũng như mọi trẻ em, tôi chờ đợi những
quà tặng mà ngài sẽ mang tới cho tôi ngày 6 tháng 12. Tuy nhiên, một sự chờ
đợi như thế cũng có một chiều kích tôn giáo.
Cũng như những trẻ em cùng tuổi với tôi, tôi
ấp ủ một lòng sùng kính đối với vị thánh đó, bằng một cách vô vị lợi, đã ban
phát những quà tặng cho nhiều người và khi làm như thế đã biểu lộ sự ân cần
đầy lòng yêu thương đối với họ.
Trong Giáo Hội, phần vụ của Thánh Nicolas, tức
là của những người chăm lo cho những nhu cầu thiết yếu của kẻ yếu kém, được
một định chế lành nghề nhận lãnh trách nhiệm, với danh xưng là Caritas
(Cơ Quan Bác Ái). Đảng Cộng Sản đã bãi bỏ cơ quan đó mà người bảo
hộ, sau thế chiến, là Đức Hồng Y Sapieha. Là người kế vị ngài, tôi đã cố
gắng hoạt động trở lại và yểm trợ cơ quan đó.
Trong lãnh vực nầy, Đức Ông Ferdynand
Machay, cha chính của Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Mông Triệu Thăng
Thiên ở Cracovie, đã giúp đỡ tôi rất nhiều. Qua sự trung gian của ngài, tôi
làm quen với nữ tì của Chúa là Hanna Chrzanowska mà tôi đã nhắc tới.
Chị là con gái của đại giáo sư Ignacy Chrzanowski, bị bắt ở đầu thế
chiến. Tôi nhớ lại vị giáo sư đó rõ lắm, mặc dù tôi không thể biết nhiều vì
không gần gũi.
Nhờ sự dấn thân của chị Hanna Chrzanowska mà
đã phát sinh và triển nở mục vụ bệnh nhân trong tổng giáo phận. Chị đã có
nhiều sáng kiến, trong đó có chương trình hồi hưu cho những bệnh nhân ở
Trzebinia. Đó là một sáng kiến mang nhiều lợi ích: nhiều người đã đóng góp
vào, kể cả những thanh thiếu niên sẵn sàng giúp đỡ.
Trong Tông Thư nhân dịp đầu tân thiên niên kỷ,
tôi đã nhắc lại với mọi người sự cần thiết phải vun trồng một tình thương
sáng tạo. Tôi đã viết: “Đây là giờ của trí tưởng tượng mới về lòng bác ái”
(Novo millennio ineunte, số 50). Làm sao, trong bối cảnh nầy, không
thể không gợi lại hình ảnh mà chúng ta đã biết về Mẹ Têrêxa
như là một “nữ thừa sai bác ái” đích thực?
Ngay từ những ngày đầu tiên tiếp theo sau cuộc
tuyển chọn tôi lên ngai tòa Thánh Phê-rô, tôi đã gặp nữ tu vĩ đại đó, trong
thân hình nhỏ bé mà từ đó Mẹ đã thường đến thăm tôi để thuật lại những nơi
chốn và thời gian mà Mẹ đã thành công trong việc mở ra những nhà mới là
những tổ ấm của sự ân cần đối với những người nghèo hèn nhất.
Sau sự sụp đổ của Đảng Cộng Sản ở Albanie, tôi
có thể thăm viếng đất nước đó. Mẹ Têrêxa cũng có mặt ở đó nữa. Thật ra
Albanie là quê hương của Mẹ. Tôi còn gặp Mẹ nhiều lần nữa, luôn luôn thu
nhặt những chứng tích mới về sự tận tụy say mê của Mẹ vì những người nghèo
hèn nhất trong số những người nghèo.
Mẹ Têrêxa qua đời ở Calcutta, đã lưu lại một
ký ức thâm sâu và một công trình phong phú nơi vô số con cái thiêng liêng
của Mẹ. Khi còn sinh thời, Mẹ đã được nhiều người xem như một vị thánh. Khi
nhắm mắt, Mẹ đã được mọi người công nhận như thế.
Tôi cảm tạ Chúa đã cho tôi được phong chân
phước cho Mẹ vào tháng 10 năm 2003, khi sắp tới lễ kỷ niệm 25 năm triều đại
giáo hoàng của tôi. Lúc bấy giờ tôi đã nói:
“Qua chứng tá của đời sống mình, Mẹ Têrêxa
nhắc nhở cho mọi người là sứ vụ Phúc Âm hóa của Giáo Hội phải trải qua đức
bác ái, được nuôi dưỡng bởi lời cầu nguyện và bởi việc lắng nghe Lời Chúa.
Chúng ta tìm gặp một biểu tượng hùng hồn của
phong cách thừa sai đó nơi hình ảnh biểu thị vị tân Chân Phước mà một tay
nắm chặt tay một em bé trong khi tay kia đang lần tràng hạt. Chiêm niệm và
hành động, Phúc Âm hóa và thăng tiến nhân sinh: Mẹ Têrêxa loan báo Tin Mừng
bằng đời sống hoàn toàn ban tặng cho người nghèo, nhưng đồng thời cũng thấm
nhuần sự cầu nguyện.” (19-10-2003).
Đó là huyền nhiệm của việc Phúc Âm hóa qua
tình thương đối với con người, phát xuất từ tình yêu đối với Thiên Chúa.
Tiến trình đó bao gồm đức ái mà giám mục phải luôn luôn múc lấy nguồn
cảm hứng trong mỗi một hoàn cảnh can dự của ngài.
CHƯƠNG
BỐN
TÌNH PHỤ TỬ
CỦA GIÁM MỤC
“Tôi quỳ trước mặt Chúa Cha, là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất.”
(Ep 3, 14-15)
1.-
Hợp tác với giáo dân
Giáo dân có thể thực hiện ơn gọi của họ giữa
trần thế và đạt tới sự thánh thiện, không những bằng cách dấn thân tích cực
cho người nghèo khó, mà còn sinh động hóa xã hội bằng tinh thần Kitô giáo,
qua việc thực thi những bổn phận chuyên môn của họ và sự chứng tá của một
đời sống gia đình gương mẫu.
Không những tôi tưởng tới những ai đang nắm
giữ những chức vụ hàng đầu ở trong xã hội, mà còn tới tất cả những người
biết biến đổi đời sống thường nhật của họ bằng lời cầu nguyện, bằng cách đặt
để Chúa Kitô ở trung tâm điểm hoạt động của họ. Chính Ngài đã lôi cuốn tất
cả mọi người về với Ngài, làm thỏa mãn “lòng dạ khao khát sự công chính
của họ” (Xem Mt 5, 6).
Đó không phải là bài học rút ra từ phần kết
luận của dụ ngôn người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu hay sao (Lc 10,
34-35)? Sau khi chính mình đã săn sóc trước tiên cho kẻ bị thương, người
Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu hướng đến người chủ quán để người nầy tiếp tục săn
sóc cho anh ta. Làm sao chủ quán có thể săn sóc cho kẻ bị thương mà không có
người Sa-mari-ta-nô nhân hậu?
Thật vậy, trong khi ở trong bóng tối, ông chủ
quán thực hiện một phần lớn công tác. Tất cả mọi người có thể hành động như
ông ta, thực thi bổn phận của họ trong tinh thần phục vụ. Hết mọi công việc
đều hiến tặng một cơ hội – trực tiếp nhiều hay ít – để giúp đỡ những ai cần
đến.
Thông thường điều đó được kiểm chứng một cách
hoàn toàn đặc biệt qua công tác của giới bác sĩ, giáo sư, chủ xí nghiệp, ít
nhất là trong trường hợp những người đó không nhắm nghiền mắt lại khi đứng
trước nhu cầu của kẻ khác.
Cũng thế, một nhân công, thợ thuyền, nông phu
có thể tìm được nhiều cách thế để phục vụ người thân cận, cho dẫu khi phải
đối diện với những khó khăn cá nhân, đôi khi thật nặng nề. Việc thực thi một
cách trung thành những bổn phận chuyên môn của mình đã là một sự thực hành
tình thương đối với người khác và đối với xã hội rồi.
Về phần mình, giám mục được kêu gọi không
những chính mình phải cổ võ những sáng kiến xã hội của Kitô giáo thuộc loại
đó, mà còn cho phép để trong Giáo Hội của mình, nảy nở những công tác được
kẻ khác gợi lên. Ngài chỉ phải lưu tâm là để cho mọi việc được thực thi
trong tình bác ái và lòng trung thành với Chúa Kitô là “Đấng khai mở và
kiện toàn lòng tin” (Dt 12, 2) mà thôi.
Nên khuyến khích người khác đã đành, nhưng
cũng cho phép bất cứ ai biểu lộ thiện chí muốn được ở lại trong ngôi nhà
chung là Giáo Hội. Với tư cách là giám mục, tôi đã yểm trợ nhiều sáng kiến
của giáo dân. Những sáng kiến đó rất đa dạng: chẳng hạn Văn Phòng Mục Vụ Gia
Đình, những cuộc gặp gỡ nghiên cứu cho các chủng sinh và sinh viên y khoa
gọi là “Kler-med”, tức Học Viện Gia Đình.
Trước thế chiến, Công Giáo Tiến Hành
rất sống động, với bốn ngành: nam, nữ, thanh nam, thanh nữ. Hiện nay Công
Giáo Tiến Hành đang hồi sinh ở Ba-lan.
Trước kia tôi cũng là chủ tịch ủy ban tông đồ
giáo dân của Hội Đồng Giám Mục Ba-lan. Tôi đã yểm trợ tạp chí định kỳ Công
giáo Tygodnik Powszechny và tôi đã cố gắng khuyến khích nhóm người
nầy. Điều đó đặc biệt cần thiết lúc bấy giờ. Tôi thấy đến với tôi những biên
tập viên, những nhà nghiên cứu, những bác sĩ, những nghệ sĩ…Đôi khi họ đi
vào cách lén lút, bởi vì chúng tôi đang ở vào thời kỳ độc tài Cộng Sản.
Người ta cũng tổ chức những hội nghị chuyên
đề: căn nhà gần như luôn luôn đầy ắp người ra kẻ vào, tràn đầy sức sống.
Và các nữ tu Thánh Tâm phải lo nuôi ăn chừng ấy người…Tôi cũng tiếp cận với
nhiều sáng kiến mới và đa dạng mà trong đó tôi nhận ra sinh khí của Thánh
Thần Chúa.
Ngược lại ở Roma, tôi chỉ gặp gỡ phong trào “Chemin
néocatéchuménal” (“Hành Trình Tân Tòng Mới”) cũng như “Opus
Dei” (“Dòng Chủ Nghiệp”) mà tôi đã nâng lên Phủ Doãn Tông Tòa vào
năm 1982. Đó là hai thực thể giáo sĩ đòi buộc một sự dấn thân rất lớn về
phía giáo dân. Hai sáng kiến đó phát sinh ở Tây-ban-nha là một xứ sở mà qua
lịch sử đã biết bao lần nảy sinh những sự thối thúc của Chúa Quan Phòng đối
với sự đổi mới tâm linh.
Vào tháng 10 năm 2002, tôi vui mầng ghi vào sổ
bộ các Thánh ngài Josémaría Escrivá de Balaguer, vị sáng lập Opus Dei
là một linh mục nhiệt thành, một tông đồ đối với giáo dân của thời đại mới.
Suốt những năm thi hành sứ vụ giám mục của tôi
ở Cracovie, tôi luôn cảm thấy sự hiện diện linh thánh của những thành viên
thuộc phong trào “Công Tác Đức Mẹ” – “Focolarini”. Tôi cảm
phục hoạt đông tông đồ năng động của họ nhằm làm sao Giáo Hội luôn trở nên
“mái ấm và học đường của sự hiệp thông” ngày càng tăng trưởng. Kể từ khi tôi
được gọi lên ngai tòa Roma, tôi đã tiếp đón chị Chiara Lubich nhiều
lần, với nhiều người đại diện thuộc nhiều ngành khác nhau của Phong Trào
Focolarini.
“Hiệp Thông và Giải Phóng” là một phong
trào khác phát sinh từ sự sống động của Giáo Hội ở quốc gia Ý. Vị khởi xướng
phong trào là Đức Cha Luigi Giussani.
Thật biết bao sáng kiến ở trong giới giáo dân
mà tôi đã tiếp cận trong suốt những năm tháng đó. Chẳng hạn ở Pháp, tôi liên
tưởng tới phong trào “Tổ Ấm” (“Arche”) cũng như “Đức Tin và Ánh
Sáng” của Jean Vanier.
Còn nhiều sáng kiến khác nữa mà tôi không thể
ghi ra hết ở đây vì danh sách quá dài. Thật đủ cho tôi để nói lên rằng tôi
đã hỗ trợ và những sáng kiến đó luôn hiện diện trong lời cầu nguyện của tôi.
Tôi đặt nhiều hy vọng nơi những sáng kiến nói trên, ước mong bằng cách đó,
được thực hiện lời mời gọi trong Phúc Âm: “Cả các anh nữa, hãy đi vào
vườn nho của tôi” (Mt 20, 4).
Về đề tài nầy, tôi đã viết trong Tông Huấn “Christifideles
laici” (“Kitô hữu giáo dân”): “Lời mời gọi không chỉ nhắm vào các
mục tử, các linh mục và nam nữ tu sĩ, mà còn mở rộng tới tín hữu giáo dân
nữa vì chính họ cũng được Chúa đích thân mời gọi. Họ nhận lãnh từ Chúa sứ vụ
đối với Giáo Hội và đối với trần thế” (số 2).
2.- Hợp tác với các
hội dòng
Tôi luôn giao hảo tốt và hợp tác với các hội
dòng. Ở Ba-lan, có lẽ Cracovie là tổng giáo phận tập trung nhiều hội dòng
nhất – nam cũng như nữ. Nhiều dòng phát sinh tại đó, nhiều dòng khác tới
định cư ở đây, chẳng hạn dòng các Nữ Tu Thánh Felix đến từ những vùng
đất thuộc vương quốc Ba-lan xưa kia.
Giờ đây tôi hướng tâm tư về với Chân Phước
Honorat Kosminski là vị sáng lập nhiều cộng đoàn nữ tu mặc thường phục –
hoa trái của lòng nhiệt thành mục vụ ở tòa cáo giải. Về phương diện đó, ngài
là một thiên tài. Dưới sự hướng dẫn của ngài có Chân Phước Maria Angela
Truskowska là vị sáng lập dòng Nữ Tu Thánh Félix. Chân Phước Truskowska
được mai táng trong nhà thờ của dòng ở Cracovie.
Điều cần nhắc nhở là ở Cracovie, những dòng tu
đông nhất là những dòng cổ xưa, bắt nguồn từ thời Trung Cổ như dòng
Phan-xi-cô và dòng Đa-minh hay vào thời kỳ Phục Hưng như dòng
Tên hay dòng Khất Sĩ. Các tu sĩ những dòng đó nói chung có những
cha giải tội nổi tiếng, ngay cả đối với các linh mục. (Ở Cracovie, các linh
mục hay xưng tội với các cha dòng Khất Sĩ).
Vào thời kỳ quốc gia Ba-lan bị phân chia,
nhiều dòng đã định cư ở tổng giáo phận Cracovie, bởi vì không thể bành
trướng trong vương quốc Ba-lan, họ đổ dồn vào vùng đất lúc bấy giờ là cộng
hòa Cracovie mà ở đó người ta có thể hưởng một sự tự do tương đối.
Chứng cớ hiển nhiên nhất về những tiếp xúc tốt
đẹp giữa tôi với các hội dòng là sự kiện Đức Giám Mục Albin Malysiak
thuộc dòng Thừa Sai. Ngài là một linh mục chánh xứ nhiệt tình của miền
Cracovie-Nowa Wies, trước khi được bổ nhiệm giám mục. Chính tôi đã tiến cử
ngài cùng với Đức Cha Stanislaw Smolenski và cũng chính tôi đã tấn
phong cả hai vị.
Các hội dòng không bao giờ làm cho đời sống
tôi trở nên khó khăn. Tôi có liên hệ tốt đẹp với tất cả các hội dòng, vì
nhận thấy nơi họ một sự hỗ trợ quan trọng cho mục vụ giám mục. Tôi cũng nghĩ
tới những nguồn trữ lượng lớn lao về năng lực tâm linh của các hội dòng
chiêm niệm.
Ở Cracovie, có hai dòng Cát-Minh (ở
đường Kopernika và Lobzowska). Còn có các nữ tu của Thánh Claire
(Clarisses), các nữ tu của Thánh Đa-minh, các nữ tu dòng Thăm
Viếng (Visitandines) và các nữ tu dòng Thánh Biển Đức (ở
Staniatki). Đó là những trung tâm cầu nguyện lớn lao: cầu nguyện và thống
hối và cả dạy giáo lý nữa.
Tôi nhớ lại có lần đã ngỏ lời với các nữ tu
dòng kín: “Ước mong chấn song sắt nầy liên kết các chị với thế giới và không
chia cách các chị. Các chị hãy bao trùm mặt địa cầu bằng chiếc áo choàng cầu
nguyện của các chị!” Tôi xác tín rằng các chị thân yêu đó, sống rải rắc trên
khắp địa cầu, luôn ý thức là họ sống cho thế giới và không ngừng phục vụ
Giáo Hội hoàn vũ bằng sự tự hiến, đời sống thinh lặng và sự cầu nguyện thâm
sâu.
Bất cứ giám mục nào cũng có thể tìm ở nơi họ
một sự hỗ trợ lớn lao. Hơn một lần, tôi đã có kinh nghiệm đó, khi phải đối
diện với những vấn đề nan giải, tôi đã xin những hội dòng chiêm niệm khác
nhau hỗ trợ tôi bằng lời cầu nguyện. Tôi cảm thầy quyền lực của sự can thiệp
đó, và nhiều lần tôi đã cám ơn những người hội họp nhau trong những phòng
nhỏ cầu nguyện đã giúp đỡ tôi vượt lên trên những hoàn cảnh tuyệt vọng, xét
theo bản tính con người.
Các nữ tu Ursulines có một ký túc xá ở
Cracovie. Mẹ Angela Kurpisz luôn luôn mời tôi giảng cấm phòng cho các
nữ sinh. Tôi năng lui tới dòng nữ tu Ursulines áo tím ở Jaszczurówka
(Zakopane). Hằng năm tôi được hưởng lòng hiếu khách của họ.
Có một tập tục như sau: nửa đêm ba mươi Tết
dương lịch, tôi dâng Thánh Lễ nơi dòng nữ Phan-xi-cô ở Cracovie. Sáng mồng
một Tết dương lịch, tôi tới dòng các nữ tu Ursulines ở Zakopane, rồi đi
trượt tuyết.
Thông thường vào thời kỳ đó, trời đổ tuyết
nhiều. Một cách tổng quát, tôi ở lại nơi các nữ tu nầy cho tới ngày 6 tháng
giêng. Vào ngày đó, tôi ra đi lúc xế trưa, để kịp dâng Thánh Lễ lúc 6 giờ
chiều ở nhà thờ chính tòa Cracovie. Sau đó, có cuộc gặp gỡ ở Wawel để trao
đổi quà Giáng Sinh.
Tôi nhớ lại lần kia, trong khi đi trượt tuyết,
có lẽ với cha Józef Rozwadowski (giám mục tương lai ở Lódz), cả hai
chúng tôi bị lạc trong miền phụ cận thung lũng Chocholowska. Kế đó,
chúng tôi phải chạy “như điên” – theo như thành ngữ thông dụng – để tới kịp
giờ.
Thường khi, ngay cả trong những ngày tĩnh tâm,
tôi đi tới Pradnik Czerwony, nơi dòng các nữ tư Thánh Albert
(Albertines). Tôi cảm thấy rất thoải mái ở đây. Tôi lui tới Rzaska,
vùng phụ cận Cracovie. Tôi là bạn thân của các tiểu muội dòng Charles de
Foucauld và tôi hợp tác với họ.
Như đã nhấn mạnh trên đây, tôi đã trải qua
nhiều ngày ở đan viện Biển Đức Tyniec. Chính tôi đã cấm phòng ở đó.
Tôi biết cha Piotr Rostworowski rất nhiều. Tôi cũng đã nhiều lần xưng
tội với cha. Tôi cũng biết cha Augustyn Jankowski là một nhà nghiên
cứu Thánh Kinh và bạn đồng sự trong ngành giáo dục. Cha thường gởi cho tôi
những sách mới.
Tôi đi đến Tyniec và ở nơi các cha dòng Thánh
Romuald (Camaldules) ở Bielany trong những ngày tĩnh tâm. Khi
tôi còn là linh mục trẻ, tôi đã hướng dẫn những cuộc cấm phòng cho các giáo
sư đại học thuộc giáo xứ Saint-Florian. Tôi nhớ lần kia, ban đêm
xuống nhà thờ: rất đỗi ngạc nhiên, tôi thấy nhiều sinh viên cầu nguyện và
theo chỗ tôi biết, họ đã quyết định thay phiên nhau chầu liên tục suốt đêm.
Các dòng tu phục vụ Giáo Hội và cũng phục vụ
giám mục nữa. Thật khó mà không đánh giá cao chứng tá đức tin của họ, căn cứ
trên những lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời, cũng như nếp sống lấy
nguồn cảm hứng từ lề luật của các vị Thánh nam nữ sáng lập dòng. Chính nhờ
một sự trung tín như thế mà những hội dòng khác nhau có thể duy trì đặc sủng
khởi nguyên và làm cho sinh hoa kết quả xuyên qua nhiều thế hệ.
Người ta cũng không thể quên gương bác ái
huynh đệ là khởi nguồn của mỗi cộng đoàn tu trì. Do bản tính con người,
thỉnh thoảng có thể nảy sinh một đôi vấn đề, nhưng một giải pháp luôn luôn
có thể tìm ra nếu giám mục biết lắng nghe cộng đoàn tu trì, tôn trọng quyền
tự trị hợp pháp của họ và nếu cộng đoàn tu sĩ đến lượt mình, biết công nhận
thực sự nơi giám mục là người có trách nhiệm tối hậu về mục vụ trên địa hạt
giáo phận.
3.- Các linh mục
Trong tổng giáo phận Cracovie, những ơn gọi
đông hơn và có nhiều năm, thật dồi dào đặc biệt. Chẳng hạn sau tháng 10 năm
1956, những đơn xin nhập chủng viện gia tăng rõ rệt. Cũng xảy ra như thế vào
thời gian kỷ niệm một ngàn năm nước Ba-lan nhận phép thánh tẩy. Hình như đó
là một định luật, cứ sau những biến cố lớn lao, số ơn gọi lại gia tăng. Quả
thật, những ơn gọi nảy nở trên đất mùn của đời sống cụ thể dân Chúa.
Đức Hồng Y Sapieha đã nói: đối với giám mục,
chủng viện là “con ngươi” (“pupilla oculi”), cũng như nhà tập
đối với cha bề trên hội dòng vậy. Điều đó thật dễ hiểu: những ơn gọi là
tương lai của giáo phận hay của dòng tu và sau cùng là của Giáo Hội.
Riêng cá nhân tôi, tôi chăm lo các chủng viện
một cách đặc biệt. Ngay hôm nay đây, hằng ngày tôi vẫn cầu nguyện cho tất cả
các chủng viện ở Roma và một cách tổng quát hơn, cho hết mọi chủng viện ở
trong nước Ý, Ba-lan và trên thế giới. Tôi cầu nguyện một cách đặc biệt cho
chủng viện Cracovie. Chính từ nơi đó tôi đã xuất thân và tôi muốn ít nhất là
đền ơn bằng cách đó.
Khi còn là giám mục Cracovie, tôi đã theo dõi
các ơn gọi với một sự chú ý đặc biệt. Vào khoảng cuối tháng sáu, tôi được
thông báo số những người xin được nhận vào chủng viện cho năm kế tiếp. Sau
đó, khi họ sống ở trong chủng viện, tôi đã gặp gỡ từng người một. Tôi đã trò
chuyện với từng người, hỏi thăm tin tức gia đình họ và cùng với họ, nhận
thức ơn gọi của họ. Tôi cũng mời những chủng sinh xem lễ sáng trong nhà
nguyện của tôi rồi dùng điểm tâm. Đó là cơ hội rất tốt để tìm hiểu họ.
Đêm vọng Giáng Sinh, tôi hay dùng bữa ăn tối ở
chủng viện hoặc mời các chủng sinh tới tòa tổng giám mục, ở đường
Franciszkanska. Họ không về với gia đình để vui mừng trong các ngày lễ và
bằng một cách nào đó, tôi muốn tưởng thưởng họ vì sự hy sinh nầy.
Tất cả những điều đó có thể thực hiện được khi
tôi còn ở Cracovie. Tại Roma, điều đó khó hơn, bởi vì các chủng sinh ở đây
đông đúc hơn. Tuy nhiên, đích thân tôi đã thăm viếng tất cả và tùy dịp thuận
tiện, tôi đã mời các vị bề trên của họ tới Vatican.
Giám mục không thế bỏ lỡ cơ hội trình bày cho
giới trẻ lý tưởng cao đẹp của thiên chức linh mục. Quả tim người trẻ có thể
hiểu biết “tình yêu điên rồ” đòi buộc sự tận hiến bản thân mình. Không có
tình yêu nào lớn hơn Tình Yêu với chữ Y viết hoa! Trong cuộc hành hương sau
cùng của tôi ở Tây-ban-nha, tôi đã thổ lộ điều nầy với giới trẻ:
“Tôi được phong chức linh mục khi hai mươi sáu
tuổi. Kể từ đó, năm mươi sáu năm trôi qua. Khi nhìn lui lại và nhớ tới những
năm dài đó trong cuộc đời tôi, tôi có thể cam đoan rằng thật đáng để tự hiến
dâng đời mình vì cớ Chúa Kitô và qua tình yêu đối với Ngài, hy sinh để phục
vụ con người. Thật đáng để hy sinh mạng sống mình vì Phúc Âm của Chúa và vì
anh em mình!” (Madrid, 3 tháng năm 2003). Giới trẻ đã hiểu sứ điệp của tôi
và đã đồng thanh la vang lên như một điệp khúc: “Thật đáng! Thật đáng!”
Sự ân cần đối với những ơn gọi cũng biểu lộ
trong việc chăm lo việc chọn lựa đúng đắn những ứng sinh lãnh chức linh mục.
Giám mục phó thác cho các cộng sự viên của ngài, như là những người đào
luyện ở trong chủng viện, thi hành nhiều trách nhiệm liên hệ đến tác vụ đó,
nhưng trách nhiệm lớn lao nhất đối với việc đào tạo linh mục vẫn thuộc phần
vụ của ngài.
Thật sự chính giám mục chọn lựa và kêu gọi
nhân danh Chúa Kitô, khi ngài tuyên bố trong nghi lễ truyền chức: “Nhờ sự hộ
trì của Chúa Giêsu Kitô là Chúa Cứu Chuộc chúng ta, chúng tôi chọn anh em
làm linh mục” (Sách Lễ Roma, Phong Chức linh mục).
Đó là một trách nhiệm lớn lao. Thánh Phaolô đã
cảnh cáo Timothée: “Anh đừng vội đặt tay trên ai” (1Tm 5, 22).
Lời cảnh cáo đó không phát sinh bởi sự nghiêm ngặt đặc biệt nhưng do quan
điểm sơ đẳng nhất thuộc về trách nhiệm đối với một thực trạng có giá trị
siêu đẳng, được trao phó vào tay chúng ta. Chính vì sự tự hiến và huyền
nhiệm của phần rỗi mà phải ấn định những đòi hỏi bắt buộc đối với chức linh
mục.
Tôi muốn nhắc lại ở đây Thánh Józef
Sebastian Pelczar (1842-1924), giám mục giáo phận Pzemysl, mà tôi được
dịp phong hiển thánh vào ngày sinh nhật thứ tám mươi ba của tôi, cùng với
Thánh Urszula Ledóchowska, đã được tôi nhắc nhở trên đây. Thánh giám
mục Pelczar được biết đến ở Ba-lan, đặc biệt bởi những tác phẩm của ngài.
Tôi sung sướng được nhắc lại ở đây quyển sách của ngài với nhan đề: “Suy
niệm về đời sống linh mục”.
Tác phẩm nầy được phát hành ở Cracovie khi
ngài còn là giáo sư đại học Jagellon. (Một ấn bản mới nhất được ra đời cách
nay vài tháng.) Quyển sách đó là thành quả đời sống tâm linh phong phú của
ngài và đã có một ảnh hưởng sâu đậm trên nhiều thế hệ linh mục Ba-lan, đặc
biệt vào thời đại của tôi. Theo một cách nào đó, đời sống linh mục của tôi
cũng được nhào nắn bởi tác phẩm khổ hạnh nầy.
Tarnów
và thành phố Przemysl bên cạnh là hai trong nhiều giáo phận, xét theo
tỷ lệ trên thế giới, có nhiều ơn gọi nhất. Trong giáo phận Tarnów, đức giám
mục là Đức Cha Jerzy Ablewicz, bạn tôi. Ngài đến từ Przemysl, thuộc
di sản thiêng liêng của Thánh Józef Pelczar.
Họ là những mục tử chân chính, đặt lên hàng
đầu những ràng buộc trước hết đối với chính họ, rồi đối với những linh mục
và chủng sinh. Tôi thiết tưởng đó là bí quyết của việc có nhiều ơn gọi trong
những giáo phận đó. Những lý tưởng cao đẹp và có nhiều ràng buộc sẽ lôi cuốn
giới trẻ.
Tôi luôn ấp ủ vào lòng sự hợp nhất giữa “linh
mục đoàn” (“presbyterium”). Để được tiếp xúc dễ dàng với các linh
mục, liền sau Công Đồng Vatican II, tôi lo thiết lập hội đồng linh mục (năm
1968) để thảo luận những chương trình liên quan tới sinh hoạt các linh mục
đảm trách các linh hồn. Theo định kỳ trong năm, được tổ chức trong những
phân bộ khác nhau thuộc tổng giáo phận những cuộc gặp gỡ để bàn tới những
vấn đề cụ thể mà các linh mục nêu lên.
Qua cách sống của mình, giám mục chứng tỏ “mô
hình Chúa Kitô” không phải lỗi thời, cho dẫu ngay cả trong những điều kiện
thực tế ngày nay. Người ta có thể nói được một giáo phận phản ảnh cách thức
hành xử của vị giám mục.
Những nhân đức của ngài – như khiết tịnh, thực
hành đức khó nghèo, tinh thần cầu nguyện, đức tính giản dị, lương tâm nhạy
cảm – theo một nghĩa nào đó, được khắc ghi vào con tim các linh mục. Những
người nầy, đến lượt họ, chuyển đạt những giá trị đó cho các tín hữu đã được
giao phó. Và chính nhờ thế, giới trẻ được khích lệ đáp lại một cách đại độ
tiếng gọi phát ra từ Chúa Giêsu.
Khi đề cập đến vấn đề nầy, tôi không thể không
nhớ tới những người đã rời bỏ chức linh mục. Giám mục cũng không thể quên họ
được: họ cũng được quyền có một chỗ trong quả tim người cha. Thảm kịch của
họ đôi khi tỏ lộ những bất cẩn trong vấn đề đào luyện linh mục.
Cũng nằm trong việc đào luyện linh mục đó là
sự cảnh cáo can đảm trong tình huynh đệ, khi xét thấy cần và về phần linh
mục, sẵn sàng đón nhận một sự cảnh cáo như thế. Chúa Giêsu đã nới với các
tông đồ: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi
nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục
được người anh em.” (Mt 18, 15).
4.- Ngôi nhà giám mục
Những cơ hội gặp gỡ người khác không chỉ thực
hiện qua các cuộc viếng thăm mục vụ và những sự can dự công khai khác. Trong
ngôi nhà số 3, đường Franciszkanska, cửa được rộng mở cho tất cả mọi người.
Giám mục là mục tử. Vì vậy, ngài phải tiếp xúc với mọi người, sống cho mọi
người và phục vụ mọi người. Mọi người luôn được tiếp xúc thẳng với tôi. Cổng
vào mở sẵn cho tất cả họ.
Dinh giám mục là trung tâm của nhiều cuộc gặp
gỡ khác nhau, của những khóa họp khoa học. Chính đó cũng là trung tâm diễn
ra “những cuộc họp dành cho các gia đình”. Một trong các phòng ốc được sắp
xếp để người ta tham khảo các vấn đề về gia đình.
Lúc bấy giờ là thời kỳ mà mọi cuộc tụ tập của
giáo dân dù quan trọng thế nào đều bị chính quyền xem như hoạt động chống
lại nhà nước. Ngôi nhà giám mục trở nên nơi trú ẩn.
Tôi đã mời đủ hạng người: những nghiên cứu
gia, triết gia, những nhà nghiên cứu khoa học nhân văn. Cũng chính ở đó diễn
ra những cuộc hội họp thường xuyên với các linh mục. Nhiều lần phòng khách
dùng làm phòng họp. Như đã nhắc đến, Viện Thần Học Gia Đình và các đại chủng
viện “Kler-med” cũng diễn ra ở đó. Người ta có thể nói được ngôi nhà đó “đầy
sinh khí”.
Gắn liền với ngôi nhà tổng giám mục Cracovie
là nhiều kỷ niệm liên hệ tới khuôn mặt của vị tiền nhiệm vĩ đại của tôi,
hiện đang còn lưu lại trong ký ức nhiều thế hệ linh mục như là chứng tá
không thể sánh kịp về mầu nhiệm tình phụ tử. Vị “hoàng tử dũng cảm”,
chính đó là danh xưng người ta thường gọi Đức Tổng Giám Mục Adam Stefan
Sapieha như thế.
Ngài đã trải qua hai trận thế chiến và thời kỳ
chiếm đóng với tước hiệu đó. Chắc chắn ngài đã có một chỗ đặc biệt trong
lịch sử ơn gọi của tôi. Chính ngài đã đón tiếp sự triển nở ban đầu của ơn
gọi đó. Tôi đã đề cập tới điều đó trong quyển sách “Ơn gọi của tôi: Tặng
phẩm và huyền nhiệm”.
Đức Hồng Y hoàng tử Sapieha là một nhà quý tộc
Ba-lan theo đúng nghĩa danh xưng đó. Ngài sinh ra ở Krasiczyn, vùng
phụ cận Przemysl. Tôi cố ý tới đó một lần để ngắm xem lâu đài mà ngài đã
sinh ra. Ngài trở thành linh mục giáo phận Lvov. Vào thời đại Đức Piô X,
ngài phục vụ ở Vatican, trong vai trò bí thư. Trong thời gian đó, ngài đã
giúp ích rất nhiều cho Ba-lan.
Vào năm 1912, ngài được bổ nhiệm giám mục và
được Đức Piô X tấn phong trực tiếp cùng chỉ định ngôi tòa Cracovie. Đức Cha
Sapieha đã tiếp nhận tổng giáo phận Cracovie cũng năm đó, ít lâu trước khi
Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ.
Trong thế chiến, ngài đã thành lập ủy ban giám
mục Cracovie để giúp đỡ những nạn nhân bị tai họa chiến tranh, thường được
gọi là “ủy ban hoàng tử giám mục”. Cùng với thời gian, ủy ban đó mở rộng
hoạt động cho đến đỗi bao trùm toàn cõi đất nước. Đức Cha Sapieha tích cực
hoạt động một cách lạ thường trong những năm khói lửa, và như thế ngài đưọc
cả nước hết sức tôn trọng.
Ngài chỉ trở thành hồng y sau Đệ Nhị Thế
Chiến. Từ thời kỳ Olesnicki, đã có những hồng y ở Cracovie là các Đức Tổng
Giám Mục Danajewski và Puzyna. Tuy nhiên, Đức Cha Sapieha xứng đáng hơn tất
cả với tước hiệu “Hoàng Tử dũng cảm”.
Vâng, Đức Hồng Y Sapieha đối với tôi là một
mẫu mực thực sự, bởi vì trước hết ngài là một mục tử. Trước khi Đệ Nhị Thế
chiến bùng nổ, ngài đã tấu trình với Đức Thánh Cha là ngài muốn từ bỏ trọng
trách thuộc tổng giáo phận Cracovie để hưu trí. Nhưng Đức Piô XII không đồng
ý. Đức Thánh Cha đã trả lời ngài: “Hiện nay chúng ta đang gặp phải chiến
tranh, người ta cần tới Hiền Huynh.” Đức Hồng Y Sapieha đã qua đời trong
chức vị hồng y trên ngai tòa Cracovie vào lúc được tám mươi hai tuổi.
Trong bài giảng Thánh Lễ an táng, Đức Hồng Y
giáo chủ Wyszynski đã nêu lên những câu hỏi thật có ý nghĩa. Ngài nói:
“Các anh em linh mục thân mến, khi chúng tôi
nhìn xem anh em, chúng tôi là những người đã đón tiếp anh em và là bạn hữu
của anh em. Anh em là những người đang tụ họp như là một vòng cung chắc
nịch bằng những quả tim bao quanh quan tài nầy đang chứa đựng thi hài của
con người mảnh khảnh đó, một con người không thể so sánh với anh em được về
tầm vóc lẫn sức lực. Hởi các linh mục Cracovie, tôi tha thiết muốn hỏi anh
em, để tăng trưởng kinh nghiệm của tôi và để đào sâu sự minh triết mà một
mục tử cần đến:
Anh em yêu mến điều gì nơi ngài? Điều gì nơi
ngài đã chinh phục quả tim anh em? Anh em đã thấy điều gì nơi ngài? Tại sao
anh em đã gắn bó với tâm hồn đó, cũng như toàn thể nước Ba-lan? Quả thật ở
đây người ta có thể nói tới tình yêu của linh mục đoàn (presbyterium)
giáo phận đối với đức tổng giám mục của mình.”
(Ksiega Sapiezynska, Cracovie 1986, tr.
776).
Quả đúng như thế, cuộc lễ an táng đó vào tháng
bảy năm 1951 là một biến cố phi thường xảy ra vào thời Staline: một đám tang
dài đi từ đường Franciszkanska tới Wawel, với một đoàn người chắc nịch bước
đi, trong đó có các linh mục, những tu sĩ và giáo dân. Họ bước đi và chính
quyền không dám quấy rầy đoàn người đi theo quan tài. Họ cảm thấy bất lực
khi đối diện biến cố đó.
Người ta có thể tưởng tượng vì lẽ đó, họ đã có
thể tạo ra vụ kiện hồi tố đối với Đức Hồng Y Sapieha, sau vụ kiện đối
với triều chính thuộc tổng giáo phận Cracovie. Đảng Cộng Sản không dám đụng
tới ngài khi còn sống, mặc dù chính ngài đã dự kiến điều đó, đăc biệt khi họ
đã bắt bớ Đức Hồng Y Mindszenty, giáo chủ Hung-gia-lợi, nhưng họ không có
can đảm làm như vậy.
Chính vào thời đại của ngài mà tôi vào chủng
viện: trước hết tôi là chủng sinh, sau đó trở thành linh mục. Đối với ngài,
tôi có một sự tín nhiệm rất lớn và có thể nói được, tôi yêu mến ngài cũng
như các linh mục khác vậy. Người ta thường thấy viết trong các sách rằng,
bằng một cách nào đó, Đức Hồng Y Sapieha đã chuẩn bị cho tôi, điều đó có thể
đúng. Đó cũng là một trách nhiệm của vị giám mục: chuẩn bị những ai có thể
thay thế mình, tùy hoàn cảnh.
Các linh mục đánh giá ngài cao, có thể vì ngài
là một hoàng tử, nhưng họ yêu mến ngài trước tiên bởi vì đó là một người
cha, vì ngài đầy lòng ân cần đối với con người. Và chính đó là điều đáng kể
nhất: một giám mục phải là một người cha.
Thật vậy, không người đàn ông nào biểu lộ trọn
vẹn tình phụ tử, bởi vì điều đó chỉ thể hiện trọn vẹn nơi Thiên Chúa là Cha.
Nhưng chúng ta tham dự một cách nào đó vào tình phụ tử của Chúa. Tôi đã biểu
thị chân lý đó trong bài suy niệm về sự huyền nhiệm của người cha nhan đề là
“Những tia sáng của tình phụ tử”.
5.- Tình phụ tử theo
gương Thánh Giuse
Mục vụ giám mục dĩ nhiên là một trọng trách,
nhưng giám mục phải chiến đấu bằng tất cả nghị lực để đừng trở thành một
“công bộc”. Ngài không bao giờ quên mình là một người cha. Như tôi đã
nói, hoàng tử Sapieha được yêu mến rất nhiều, bởi vì ngài là một người cha
đối với các linh mục.
Khi tôi nghĩ tới một người có thể được xem như
người giúp đỡ hay mẫu mực cho tất cả những ai được kêu gọi tham gia vào tình
phụ tử - trong đời sống gia đình hay trong đời sống linh mục và hơn thế nữa
là trong sứ vụ giám mục – chính Thánh Giuse đã tới trong trí óc tôi.
Đối với tôi, việc tôn kính Thánh Giuse cũng
được gắn liền với kinh nghiệm của tôi ở Cracovie. Đường Poselska, gần
dinh giám mục, có các nữ tu dòng Thánh Bernard. Trong ngôi thánh đường của
họ, được đích xác cung hiến cho Thánh Giuse, ở đó có chưng bày Mình Thánh
Chúa ngày đêm. Trong những lúc rảnh rỗi, tôi đến đó để cầu nguyện và ánh mắt
tôi thường hướng về bức tượng tuyệt đẹp của người cha được coi là cha của
Chúa Giêsu, rất được tôn kính trong ngôi thánh đường đó.
Cũng một lần kia, tôi đã giảng cấm phòng cho
các luật gia. Tôi luôn ưa thích tưởng tới Thánh Giuse trong bối cảnh
Thánh Gia Thất: Chúa Giêsu, Mẹ Maria, Thánh Giuse. Tôi đã kêu cầu cả ba
Đấng hộ phù, khi phải đối diện với nhiều vấn nạn khác nhau. Tôi hiểu một
cách dễ dàng sự hợp nhất và tình yêu đã hòa hợp nhau trong Thánh Gia Thất:
ba con tim, một tình yêu. Một cách đặc biệt, tôi đã phó thác cho Thánh Giuse
mục vụ gia đình.
Ở Cracovie, còn có một ngôi thánh đường khác
được cung hiến cho Thánh Giuse, đó là thánh đường Podgórze. Tôi đã
lui tới đó trong những cuộc thăm viếng mục vụ của tôi.
Nguyện đường Thánh Giuse ở Kalisz cũng
trang trọng lắm. Ở đó thường quy tụ những nhóm hành hương tạ ơn, có các linh
mục đi theo. Họ là những cựu tù nhân ở Dachau. Trong trại tù Đức Quốc Xã đó,
một nhóm người bị lưu đày đã phó thác mình cho Thánh Giuse và họ đã được cứu
thoát.
Khi được về lại Ba-lan, hằng năm họ bắt đầu đi
hành hương để tạ ơn Thánh Giuse ở nguyện đường Kalisz và họ luôn mời tôi
cùng tháp tùng với họ. Ở giữa họ, có Đức Tổng Giám Mục Kazimierz
Majdanski, Đức Giám Mục Ignacy Jez, cũng như Đức Hồng Y Adam
Koslowiecki, thừa sai ở Phi châu.
Thiên Chúa Quan Phòng đã chuẩn bị Thánh Giuse
làm tròn vai trò người cha của Chúa Giêsu Kitô. Trong Tông Huấn tôi dành cho
Ngài “Redemptoris Custos” (“Đấng Bảo Trợ Chúa Cứu Thế”), tôi
đã viết: “Căn cứ theo những văn bản Phúc Âm, việc hôn nhân của Mẹ Maria làm
nền tảng pháp lý cho tình phụ tử của Thánh Giuse. Chính vì để đảm bảo sự
hiện diện của một người cha nơi Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã chọn Thánh Giuse
làm chồng Mẹ Maria. Do đó, tình phụ tử của Thánh Giuse – sự liên hệ đặt để
Ngài rất gần gũi với Chúa Kitô, cứu cánh của mọi lựa chọn và của mọi tiền
định – được thông qua bởi việc hôn nhân với Mẹ Maria” (số 7).
Thánh Giuse được kêu gọi làm chồng rất thanh
sạch của Mẹ Maria, chính để phục vụ trong vai trò người cha đối với Chúa
Giêsu. Tình phụ tử của Thánh Giuse, cũng như tình mẫu tử của Rất Thánh Nữ
Đồng Trinh Maria, trước hết mang một đặc tính Kitô học.
Tất cả những đặc ân của Mẹ Maria xuất phát bởi
sự kiện Mẹ là Mẹ Chúa Kitô. Cũng giống như thế, hết mọi đặc ân của Thánh
Giuse phát xuất bởi sự kiện Ngài có trọng trách phục vụ Chúa Kitô trong tư
cách người cha.
Chúng ta biết Đức Kitô ngỏ lời với Thiên Chúa
bằng “Abba” (“Cha”), một tiếng dịu dàng thân mật mà con cái
trong nước của Ngài ngỏ với người cha của họ như vậy. Có lẽ Ngài cũng ngỏ
với Thánh Giuse, bằng cách dùng cũng một tiếng đó, như những đứa trẻ khác.
Không biết có thể nói hơn nữa về huyền nhiệm
của tình phụ tử loài người hay không? Trong tư cách con người, chính Đức
Kitô đã có kinh nghiệm về tương quan dòng hệ với Thánh Giuse. Sự đối diện
với Thánh Giuse như là người cha được lồng vào trong sự mạc khải mà tiếp
theo đó Chúa Kitô đã gọi Thiên Chúa là Cha. Đó là một sự huyền nhiệm thâm
sâu.
Với tư cách Thiên Chúa, Đức Kitô đã có kinh
nghiệm riêng về tình phụ tử Thiên Chúa và sự liên hệ giữa Chúa Ba Ngôi.
Trong tư cách con người, ngài có kinh nghiệm về dòng hệ nhờ Thánh Giuse. Về
phần mình, Thánh Giuse ban tặng cho trẻ nhỏ Giêsu lớn lên bên cạnh mình sự
hỗ trợ quân bình thuộc dương tính, sự sáng suốt nhận định những vấn nạn và
lòng quả cảm.
Ngài đã làm trọn vai trò của mình với những
đức tính của người cha tuyệt vời nhất trong các người cha, múc lấy sức mạnh
trong suối nguồn tuyệt đỉnh “là nguồn mọi gia tộc trên trời dưới đất”
(Ep 3, 15). Và cùng một trật, đối với những gì liên hệ đến thực tế
nhân sinh, Thánh Giuse đã dạy bảo nhiều điều cho Con Thiên Chúa. Và ngài đã
xây dựng một mái ấm gia đình trên trần thế để hiến tặng cho Người Con đó.
Cuộc đời Chúa Giêsu đối với Thánh Giuse là một
sự khám phá liên tục về chính ơn gọi của ngài để làm người cha. Ngài đã trở
thành người cha một cách phi thường mà không phải là nguồn gốc làm nên thân
thể của Người Con đó. Phải chăng đó là sự thực hiện tình phụ tử đã được đề
xuất như là mẫu mực đối với tất cả chúng ta là linh mục và giám mục sao?
Và kỳ thực, tất cả những gì tôi đã thi hành
trong mục vụ của tôi thì tôi đã sống điều đó như là một sự thể hiện tình phụ
tử đó: rửa tội, giải tội, cử hành Thánh Thể, giảng dạy, khuyên bảo, khuyến
khích…tất cả những điều đó luôn luôn đối với tôi là một sự thực thi chính
tình phụ tử đó.
Cần phải suy nghĩ một cách đặc biệt về mái ấm
gia đình mà Thánh Giuse đã xây đắp cho Con Thiên Chúa khi đề cập tới vấn đề
độc thân của linh mục và giám mục. Quả thật đời sống độc thân cho phép có
thể thực hiện một cách trọn vẹn hình thức tình phụ tử đó: một thứ phụ tử
trong trắng, hiến dâng trọn vẹn cho Chúa Kitô và Đức Mẹ Đồng Trinh. Thoát
khỏi mọi ràng buộc cá nhân đối với đời sống gia đình, linh mục có thể tự
hiến hết con tim mình cho sứ vụ mục tử.
Vì vậy người ta hiểu được sự cương quyết theo
đó Giáo Hội thuộc nghi lễ La-tinh đã bảo vệ truyền thống độc thân đối với
các linh mục của mình, chống lại những áp lực mà qua bao thế kỷ, đã biểu lộ
khi nầy hay khi khác. Quả thật đó là một truyền thống với nhiều đòi hỏi,
nhưng chứng tỏ một sự phong phú đặc biệt, vì đã mang lại nhiều hoa trái
thiêng liêng.
Tuy nhiên cũng có lý do vui mầng khi nhận
thấy các linh mục lập gia đình trong Giáo Hội Công Giáo Đông phương đã cống
hiến những chứng tá tuyệt vời về lòng nhiệt thành thi hành mục vụ. Đặc biệt,
trong cuộc chiến đấu chống lại Cộng Sản, các linh mục lập gia đình thuộc
Giáo Hội Đông phương cũng can trường không kém các linh mục độc thân. Như
Đức Hồng Y Josyf Slipyj đã nhận xét trước kia, khi đối đấu với các
đảng viên Cộng Sản, họ đã chứng tỏ một sự can đảm cũng như các linh mục độc
thân vậy.
Vả lại, cần phải nhấn mạnh đến những lý do
thần học sâu xa hỗ trợ vấn đề độc thân linh mục. Thông Điệp “Sacerdotis
caelibatus” (“Tư Tế độc thân”) ban hành năm 1967 bởi vị tiền
nhiệm đáng kính của tôi, được tóm gọn như sau (Xem số 19-34):
- Trước hết có một động cơ thuộc Kitô học:
khi được làm trung gian giữa Chúa Cha và nhân loại, Đức Kitô đã sống độc
thân để tự hiến trọn mình phục vụ Thiên Chúa và loài người. Ai quyết định
thi hành sứ vụ của Chúa Kitô thì cũng được kêu gọi chia sẻ sự hiến tặng đó.
- Tiếp đến có một động cơ thuộc Giáo Hội
học: Đức Kitô đã yên mến Giáo Hội, tự hiến trọn vẹn chính mình cho Giáo
Hội để làm cho Giáo Hội trở nên hiền thê sáng lạn, thánh thiện và không tì
vết của Ngài. Qua việc lựa chọn đời sống độc thân, thừa tác viên được thánh
hiến đã chọn tình yêu đó của Chúa Kitô đối với Giáo Hội làm tình yêu của
mình và từ đó rút ra một sức mạnh siêu nhiên để có khả năng sinh sản dồi dào
về mặt thiêng liêng.
- Cuối cùng có một động cơ thuộc cánh chung
học: khi kẻ chết sống lại, như Chúa Giêsu đã nói, “người ta chẳng lấy
vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mt
22, 30). Đời sống độc thân của linh mục tiên báo thời cánh chung của phần
rỗi sẽ đến cùng dự đoán một cách nào đó sự viên mãn của Nước Trời, và như
thế xác quyết những giá trị siêu đẳng đó một ngày kia sẽ chói lọi nơi hết
mọi con cái của Chúa.
Trong ý hướng tranh cãi về vấn đề độc thân,
người ta thường đưa ra luận cứ sự cô đơn của đời sống linh mục và giám mục.
Căn cứ theo kinh nghiệm của tôi, tôi bác khước một cách mạnh mẽ một luận cứ
như vậy. Riêng cá nhân tôi, không bao giờ tôi cảm thấy cô đơn.
Ngoài ý thức thân cận với Chúa Giêsu, ngay cả
trên bình diện nhân linh, tôi luôn luôn có nhiều người chung quanh. Tôi đã
xây đắp nhiều mối liên hệ thân tình với các linh mục – các cha quản hạt, các
cha chánh xứ và phó xứ - cùng với nhiều giáo dân thuộc mọi giai tầng.
6.- Sống với dân
chúng
Còn phải nghĩ tới mái ấm gia đình mà Thánh
Giuse đã xây đắp cho Con Thiên Chúa, khi nói tới bổn phận làm cha của giám
mục, đó là sống với những ai đã được giao phó. Quả thật mái ấm gia đình của
giám mục là giáo phận. Không những vì ngài phải ở đó, làm việc ở đó, nhưng
trong một ý nghĩa thâm sâu hơn: mái ấm gia đình của giám mục là giáo phận
bởi vì chính đây là nơi mà mỗi ngày ngài phải thể hiện lòng trung thành của
ngài đối với Giáo Hội, Hiền Thê của ngài.
Khi đối diện với những sự lơ là dai dẳng trong
lãnh vực đó, Công Đồng Trente đã nhấn mạnh và xác định nghĩa vụ đối
với giám mục phải định xứ trong giáo phận mình. Cũng một trật, Công Đồng đã
biểu lộ một trực cảm thâm sâu: giám mục phải ở với Giáo Hội của mình trong
mọi thời điểm quan trọng. Nếu không có một lý do chính đáng, giám mục không
được rời giáo phận trong thời gian quá một tháng.
Như thế ngài hành xử như một người gia trưởng
tốt lành, thường xuyên ở với những người thuộc về mình và khi phải xa lìa
họ, cảm thấy một sự luyến tiếc cùng ao ước trở về sống giữa họ càng sớm càng
tốt.
Khi nhắc lại điều đó, tôi nhớ tới khuôn mặt
của vị giám mục trung thành ở Tarnów, Đức Cha Jerzy Ablewicz. Các
linh mục trong giáo phận đều biết ngài không tiếp ai ngày thứ sáu. Quả thật,
vào ngày đó, ngài đi bộ hành hương đền thánh Đức Mẹ của giáo phận ở Tuchów.
Ngài vừa đi vừa soạn bài giảng cho Thánh Lễ Chúa nhật.
Người ta biết ngài chỉ đi ra ngoài giáo phận
vì miễn cưỡng mà thôi.
Ngài luôn luôn ở giữa những người thuộc về
ngài, trước hết bằng lời cầu nguyện, sau đó bằng những sinh hoạt. Nhưng
trước nhất bằng lời cầu nguyện.
Sự huyền nhiệm của tình phụ tử chúng ta được
triển nở chính nhờ lời cầu nguyện. Trong tư cách là những con người của đức
tin, bằng lời cầu nguyện, chúng ta hiện diện trước Mẹ Maria và Thánh Giuse
để khấn cầu các Ngài hộ phù và như thế, cùng với các Ngài và với tất cả
nhũng ai được Chúa giao phó, chúng ta xây đắp tổ ấm cho Con Thiên Chúa là
Giáo Hội Thánh của Ngài.
7.- Nhà nguyện ở số
3, đường Franciszkanska
Nguyện đường ở dinh tổng giám mục Cracovie đối
với tôi có một ý nghĩa rất đặc biệt. Chính ở đó tôi đã được phong chức linh
mục bởi Đức Hồng Y Sapieha ngày 1 tháng 11 năm 1946, cho dù nơi thường được
phong chức là nhà thờ chính tòa. Quyết định của Đức Giám Mục gởi tôi du học
ở Rome đã ảnh hưởng đến nơi chốn và ngày giờ tôi được phong chức linh mục.
Thánh Phao-lô, từ đó cho đến nay là tông đồ
thành thạo, đã viết cho Timothée vào cuối đời ngài: “Hãy luyện tập sống
đạo đức; vì luyện tập thân thể thì lợi ích chẳng là bao, còn lòng đạo đức
thì lợi ích mọi bề, bởi Chúa hứa ban sự sống hiện tại cũng như tương lai cho
người có lòng đạo đức” (1Tm 4, 7-8).
Nguyện đường trong dinh giám mục, gần cho đến
đỗi chỉ cần vói tay thì tới, là một đặc ân cho bất cứ một giám mục nào,
nhưng điều đó cùng một trật trở nên một cam kết lớn lao đối với ngài. Nhà
nguyện cũng gần để trong đời sống giám mục, tất cả mọi chuyện – giảng dạy,
lấy những quyết định, thi hành mục vụ - được phát sinh dưới chân Chúa Kitô
ẩn mình trong Phép Thánh Thể.
Về điều đó, riêng cá nhân tôi đã có thể nhận
xét những tập quán như thế nào của Đức Tổng Giám Mục Cracovie, hoàng tử
Sapieha. Đức Hồng Y Giáo Chủ Wyszynski, trong bài giảng tang lễ ở Wawel, đã
nói về ngài bằng những ngôn từ nầy:
“Giữa những khía cạnh cuộc sống của ngài, có
một điều làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Lần kia, khi kết thúc một ngày làm
việc, trong những khóa họp của hội đồng giám mục đôi khi nhọc nhằn biết bao,
mọi người mệt mỏi vội vã trở về phòng, con người không hề biết mệt đó, trái
lại, đi vào nhà nguyện lạnh lẽo của mình và ở lại đó với Chúa trong bóng tối
của đêm trường. Trong thời gian bao lâu? Tôi không rõ. Trong những giờ làm
việc khuya trong dinh tổng giám mục, không bao giờ tôi được nghe những bước
chân của Đức Hồng Y trở về từ nhà nguyện.
Tuy nhiên, tôi biết một điều là với tuổi già,
ngài được quyền nghỉ ngơi. Nhưng Đức Hồng Y đã dùng cái cài bằng vàng để kẹp
lại sự nhọc nhằn của một ngày dài làm việc và gắn vào viên kim cương của lời
cầu nguyện. Ngài đúng là một người cầu nguyện”
(Ksiega sapiezynska, Cracovie 1986, tr.
776).
Tôi phải cố gắng bắt chước một gương mẫu không
thể sánh kịp. Trong nhà nguyện riêng của tôi, không những tôi cầu nguyện,
nhưng tôi còn ngồi và viết lách nữa. Chính ở đó tôi đã viết sách, trong đó
có bản chuyên khảo “Personne et Acte” (“Con Người và Hành Động”).
Tôi tin chắc nguyện đường là nơi phát xuất một
sự cảm hứng đặc biệt. Đó là một đặc ân lớn lao có thể cư ngụ và làm việc
trong khung cảnh sự Hiện Diện đó. Một sự Hiện Diện hấp dẫn, như một nam châm
cực mạnh.
Người bạn thân thiết của tôi là André
Frossard, giờ đây đã ly trần, trình bày một cách sâu đậm sức mạnh và vẻ
đẹp của sự Hiện Diện đó, trong quyển sách của ông “Dieu existe, je L’ai
rencontré” (“Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”).
Để vào trước Mình Thánh Chúa cách thiêng
liêng, không phải luôn luôn cần thiết đi vào nhà thờ thực sự. Tôi luôn có
một sự nhận thức ở nội tâm là chính Chúa Kitô mới là chủ ngôi nhà giám mục
và chúng ta, những giám mục, chỉ là những người tạm thời thuê nhà mà thôi.
Điều đó đúng ở đường Franciszkanska trong gần hai mươi năm và cũng đúng như
thế ở tại Vatican.
CHƯƠNG NĂM
TẬP THỂ TÍNH
GIÁM MỤC
“Người
lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi
rao giảng.”
(Mc 3, 14)
1.- Giám mục trong
giáo phận mình
Đối với tôi, Công Đồng Vatican II là một khích
lệ lớn lao để tăng cường hoạt động mục vụ của tôi. Thật vậy, kể từ nay, mọi
việc phải bắt đầu từ đó.
Ngày 3 tháng 6 năm 1963 Đức Thánh Cha Gioan
XXIII băng hà. Chính ngài đã triệu tập Công Đồng và Công Đồng được khai
mạc ngày 11 tháng 10 năm 1962. Tôi được tham dự ngay từ buổi đầu. Khóa đầu
tiên khai mạc vào tháng 10 và bế mạc ngày 8 tháng 12. Tôi đã tham dự các
khóa họp với các nghị phụ, trong tư cách giám mục phó của tổng giáo phận
Cracovie.
Sau khi Đức Gioan XXIII băng hà, vào ngày 21
tháng 6 năm 1963, mật nghị hồng y đã bầu tân giáo hoàng là Đức Tổng Giám Mục
Milan, tức Đức Hồng Y Giovanni Battista Montini, với danh hiệu Phao-lồ VI.
Vào mùa thu năm đó, Công Đồng tiếp tục khóa hai và tôi cũng có mặt, cũng một
chức vị.
Ngày 13 tháng giêng năm 1964, tôi được bổ
nhiệm làm tổng giám mục Cracovie. Sự bổ nhiệm của tôi được công bố ít lâu
sau đó và ngày 8 tháng 3, vào Chúa nhật “Laetare”, tôi đã tiến vào
nhà thờ chính tòa Wawel cách trọng thể.
Tôi nhớ lại, khi bước vào ngưỡng cửa nhà thờ
chính tòa, Giáo Sư Franciszek và Đức Cha Bohdan Niemczewski đã
đón tiếp tôi. Họ dẫn tôi vào trong nhà thờ chính tòa và ở đó tôi phải ngồi
vào ngai giám mục đã để trống sau khi Đức Hồng Y Sapieha và Đức Tổng Giám
Mục Baziak qua đời.
Tôi không nhớ lại chính xác bài diễn văn tôi
đọc lúc bấy giờ, nhưng tôi còn nhớ đó là những tâm tư đầy xúc động liên quan
đến nhà thờ chính tòa Wawel cũng như di sản văn hóa của ngôi thánh đường đó
mà tôi đã gắn bó “mãi mãi”, như tôi đã nhấn mạnh trên đây.
2.- Dây pallium
Tôi cũng nghĩ tới dấu chỉ sâu kín và cảm động
của dây pallium mà tôi nhận lãnh trong cùng năm 1964 đó. Trên toàn
thế giới, bằng dấu chỉ hiệp nhất với Chúa Kitô Mục Tử Nhân Hậu và với vị đại
diện của Ngài để chu toàn trọng trách của Thánh Phê-rô, các tổng giám mục
mang trên vai dấu chỉ đó, được đan dệt bằng lông cừu làm phép ngày lễ Thánh
Agnès.
Trong cương vị giáo hoàng, nhiều lần tôi đã
trao lại dây đó cho những tân tổng giám mục, vào dịp lễ hai Thánh Tông Đồ
Phê-rô và Phao-lồ. Biểu tượng đẹp đẽ biết bao!
Dưới hình dáng dây pallium, chúng ta có
thể nhận ra hình ảnh con chiên mà Vị Mục Tử Nhân Hậu mang trên vai để giải
cứu và nuôi dưỡng nó. Qua biểu tượng đó, trước tiên đã hiện rõ điều hợp nhất
tất cả chúng ta, trong tư cách giám mục: đó là sự ân cần và trách nhiệm đối
với dân chúng đã được giao phó cho chúng ta. Chính trên nền tảng của sự ân
cần và trách nhiệm đó mà chúng ta phải vun trồng và bảo vệ sự hợp nhất.
Kể từ ngày 8 tháng 3 năm 1964 là ngày tôi nhận
lãnh tổng giáo phận Cracovie một cách long trọng, tôi đã tham gia Công Đồng,
nhưng kể từ đó với tư cách tổng giám mục tổng giáo phận và cứ như thế cho
đến ngày Công Đồng bế mạc vào ngày 8 tháng 12 năm 1965.
Kinh nghiệm đối với Công Đồng, những cuộc gặp
gỡ trong đức tin với các giám mục thuộc Giáo Hội hoàn vũ và cùng một trật,
trách nhiệm mới được giao phó đối với Giáo Hội Cracovie, đã cho phép tôi
hiểu sâu sắc hơn vị thế của giám mục trong Giáo Hội.
3.- Giám mục trong
Giáo Hội địa phương của ngài
Vị thế mà Chúa nhận từ đã phân định cho giám
mục trong Giáo Hội như thế nào? Ngay từ đầu, căn cứ vào sự kiện giám mục
được hòa nhập vào sự kế tục các tông đồ, trải dài trước mắt họ là Giáo Hội
hoàn vũ.
Ngài được sai đi cho toàn thế giới,
và chính vì lý do đó, ngài trở thành dấu chỉ về Công Giáo tính của Giáo Hội.
Tôi đã nhận thức chiều kích hoàn vũ đó của Giáo Hội kể từ khi tôi biết đọc
lên những lời tuyên xưng đức tin: “Tôi tin Giáo Hội duy nhất, thánh
thiện, Công giáo và tông truyền.”
Rõ ràng chính cộng đồng hoàn vũ đó đã thu nhận
nơi mình những chứng tá phát sinh từ nhiều không gian, thời gian và những
nhân vật được Thiên Chúa lựa chọn cùng hợp nhất với nhau “từ A-dong, từ Abel
là người Công Chính cho đến người được lựa chọn sau cùng” (Lumen Gentium,
số 2).
Những chứng tá và những liên kết đó được nhận
thức một cách hùng hồn trong phụng vụ tấn phong giám mục, đến cả việc nhắc
nhở sự nguyên vẹn của lịch sử cứu độ, với hạn kỳ kết thúc là sự hợp nhất mọi
người trong Nước Thiên Chúa.
Hết mọi giám mục, trong khi mang trên mình
trách nhiệm của Giáo Hội hoàn vũ, cũng được đặt để ở trung tâm điểm của một
Giáo Hội đặc biệt, tức cộng đoàn mà Chúa Kitô đã giao phó cho ngài, để rồi
qua mục vụ giám mục của ngài, được thể hiện một cách luôn trọn hảo hơn huyền
nhiệm Giáo Hội của Chúa Kitô, dấu chỉ phần rỗi cho tất cả chúng ta.
Trong Tông Hiến Lumen gentium, chúng ta
đọc được:
“Giáo Hội của Đức Kitô đó hiện diện thật sự
trong hết mọi hội đồng hợp pháp của các tín hữu địa phương. Họ hợp nhất chặt
chẽ với các mục tử của họ, cũng được gọi là những Giáo Hội trong Tân Ước []
Trong hết mọi cộng đoàn quây quần chung quanh
bàn thờ, dưới mục vụ thánh của Đức Giám Mục, được tỏ lộ biểu tượng của đức
ái và của sự ‘hợp nhất Nhiệm Thể Chúa Kitô mà ngoài đó ra không thể có được
sự cứu độ’.
Trong những cộng đoàn đó, cho dẫu thông thường
chỉ nhỏ bé và nghèo nàn hoặc sống rải rác, Chúa Kitô vẫn hiện diện, do bởi
Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, Công giáo và tông truyền, họp lại với nhau”
(số 26)
Huyền nhiệm của ơn gọi giám mục trong Giáo Hội
hệ tại bởi sự kiện ngài vừa hiện diện trong một cộng đoàn hữu hình đặc biệt
mà ngài đã được giao phó, cùng một trật ngài cũng ở trong Giáo Hội hoàn vũ.
Cần thiết phải hiểu rõ sự liên kết đặc biệt đó.
Hiển nhiên đó là một sự giản lược và cuối cùng
là một sự không thấu hiểu được gây nên bởi huyền nhiệm theo đó giám mục đại
diện Giáo Hội hoàn vũ trong cộng đoàn giáo phận – đối với tôi đó là Cracovie
– và đồng thời ngài đại diện cộng đoàn giáo phận trên bình diện Giáo Hội
hoàn vũ, cũng giống như các đại sứ đại diện quốc gia của họ và những cơ quan
quốc tế.
Giám mục là dấu chỉ của sự hiện diện Chúa Kitô
trong trần thế. Và đó là một sự hiện diện đưa đến việc gặp gỡ giữa những con
người với nhau ở bất cứ nơi nào. Chúa đã gọi họ đích danh, đã vực họ dậy, đã
yên ủi họ bằng việc loan báo Tin Mừng và tập họp họ chung quanh cùng một bàn
tiệc.
Do đó giám mục thuộc về trần gian trọn vẹn và
về Giáo Hội hoàn vũ, ngài sống ơn gọi của mình, xa cách những thành phần
khác trong giám mục đoàn, để được liên kết chặt chẽ với những người mà ngài
qui tụ trong Giáo Hội đặc thù của ngài nhân danh Chúa Kitô.
Cùng một trật, chính vì những người mà ngài
qui tụ, ngài trở nên biểu tượng của sự vượt thoát tình trạng đơn độc của họ,
bởi vì ngài làm cho họ liên hệ với Chúa Kitô. Và ở trong Chúa Kitô, họ cũng
liên hệ với hết những ai đã được Chúa chọn trước khi tạo dựng vũ trụ, cũng
như với những người ngày nay Chúa đang kết hợp lại trên toàn thế giới, và
với những người Ngài sẽ tập hợp sau họ trong Giáo Hội của Ngài, cho đến
những kẻ được kêu gọi trong giờ sau hết.
Hết thảy mọi người được hiện diện trong Giáo
Hội địa phương qua mục vụ và biểu tượng của giám mục.
Giám mục thi hành mục vụ của mình với tinh
thần trách nhiệm thực sự khi ngài biết dấy lên nơi tín hữu của ngài một tình
cảm hiệp thông mãnh liệt với chính ngài và qua bản thân ngài, với hết mọi
tín hữu của Giáo Hội trên khắp hoàn vũ.
Chính tôi đã có kinh nghiệm về sự hiệp nhất
thân tình đó trong cuộc sống của tôi ở Cracovie, cùng với những linh mục,
các dòng tu và giáo dân. Xin Chúa thưởng công bội hậu cho họ!
Thánh Augustinô, khi van xin sự giúp đỡ và
hiểu biết, thường có thói quen ngõ lời với tín hữu như sau:
“Đa số là Kitô hữu mà không cần phải là giám
mục. Họ đến với Chúa bằng một con đường có lẽ dễ dàng hơn và chắc chắn họ
bước đi với một nhịp điệu thanh thoát như mang lên mình một gánh nhẹ nhàng.
Về phần chúng tôi, chúng tôi là Kitô hữu, vì
vậy chúng tôi sẽ phải trả lẽ với Chúa về chính cuộc đời chúng tôi. Vả lại
chúng tôi là giám mục, do đó chúng tôi sẽ phải trả lẽ với Chúa về sự quản lý
của chúng tôi”
(Bài Giảng 46, 1, 2: Giáo Phụ Học
La-tinh: 38, 271).
Đó là huyền nhiệm về sự gặp gỡ thần bí của
những người “thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh
7, 9) với Đức Kitô hiện diện trong giám mục giáo phận mà chung quanh ngài
quây quần Giáo Hội địa phương, trong một thời điểm lịch sử nhất định. Dũng
lực biết bao mối tương quan đó! Chúa Kitô liên kết và hàn gắn chúng ta bởi
những mối ràng buộc tuyệt diệu biết bao!
Tôi đã có kinh nghiệm đó trong thời gian Công
Đồng nhóm họp. Một cách đặc biệt, tôi đã có kinh nghiệm về tập thể tính giám
mục: toàn thể giám mục đoàn cùng với Thánh Phê-rô! Tôi đã sống lại kinh
nghiệm đó một cách hết sức đặc biệt trong những buổi Tĩnh Tâm mà tôi thuyết
giảng vào năm 1976 cho giáo triều Roma, hợp nhất chặt chẽ chung quanh Đức
Phao-lồ VI. Tôi sẽ trở lại đề tài nầy dưới đây.
4.- Tập thể tính giám
mục
Nên hướng tư tưởng trở về lúc ban đầu. Do
thánh ý của Chúa và Thầy chúng ta, mục vụ tông đồ đã được thiết lập. Cộng
đồng “những kẻ Ngài muốn” (Mc 3, 13) tăng trưởng chung quanh
Ngài. Ở giữa cộng đồng đó được đào luyện những thành viên khác nhau với nhân
cách vững mạnh, đứng đầu là Thánh Phê-rô.
Trong hàng ngũ đệ tử và bạn hữu Chúa Kitô, bất
cứ một tân giám mục nào được đưa vào đều qua lời mời gọi và sự tấn phong. Đó
là giám mục đoàn! Sự tham gia vào cộng đoàn đức tin, chứng tá, yêu thương và
trách nhiệm đó là một quà tặng mà chúng ta cùng nhau nhận lãnh khi được mời
gọi và được tấn phong. Quà tặng đó lớn lao biết bao!
Đối với mỗi người trong chúng ta là giám mục,
sự hiện diện của những người khác tạo nên một sự hỗ trợ được diễn tả bằng sự
liên kết qua lời cầu nguyện và thừa tác vụ, qua chứng tá sự chia sẻ những
thành quả của mục vụ giám mục.
Về quan điểm đó, những cuộc gặp gỡ và những
liên hệ của tôi với các giám mục qua các cuộc thăm viếng “ad limina
Apostolorum” đã mang lại cho tôi ngày hôm nay một sự an ủi thật đặc
biệt. Tôi hết sức ao ước những gì mà ân sủng Chúa thực hiện qua con tim,
khối óc và bàn tay mỗi vị giám mục được mọi người biết đến và yêu mến.
Hiện nay những phương tiện truyền thông trở
nên dễ dàng khiến có thể gặp gỡ thường xuyên hơn và hiệu quả hơn. Điều đó
giúp tất cả chúng ta là những giám mục của Giáo Hội Công giáo truy tầm những
phương cách để củng cố tập thể tính giám mục, nhất là bằng sự hợp tác có
trách nhiệm trong các hội đồng giám mục địa phương và qua sự trao đổi kinh
nghiệm trong đại gia đình Giáo Hội trên toàn thế giới.
Nếu các giám mục gặp gỡ nhau và chia sẻ những
buồn vui cũng như những ưu tư của họ, chắc chắn điều đó sẽ giúp họ củng cố
“linh đạo hiệp thông” như tôi đã đề cập tới trong Tông Thư “Ngàn Năm Thứ
Ba Đang Tới” (“Novo millenio ineunte”) (số 43-45).
Ngay trước khi được chọn lên ngai tòa Thánh
Phê-rô, tôi đã gặp gỡ nhiều giám mục trên toàn thế giới, dĩ nhiên gặp thường
hơn các giám mục những quốc gia Âu châu gần nhất. Đó là những cuộc gặp gỡ
nhằm hỗ trợ nhau.
Một số cuộc gặp gỡ đó, nhất là với các giám
mục sống trong những quốc gia dưới ách thống trị độc tài Cộng Sản, đôi khi
thật cảm động. Chẳng hạn tôi hồi tưởng tang lễ Đức Hồng Y Stefan Trochta,
trong nước Tiệp Khắc trước đây, khi chính quyền Cộng Sản ngăn trở sự tiếp
xúc với Giáo Hội địa phương hoặc ngay cả việc làm cho những cuộc gặp gỡ đó
không thể thực hiện được.
Trước khi các Đức Hồng Y quyết định tôi phải
là người ngồi vào ngai tòa Thánh Phê-rô, cuộc gặp gỡ sau cùng của tôi với
các giám mục một quốc gia lân bang đã xảy ra ở Đức quốc, nơi mà cùng với Đức
Giáo Chủ Wyszynski, chúng tôi đã thực hiện một cuộc thăm viếng mục vụ
vào tháng chín năm 1978. Đó cũng là một biểu tượng quan trọng về sự hòa giải
giữa những quốc gia liên hệ.
Tất cả những cuộc gặp gỡ đó đã được tiếp nối
một cách phi thường và mãnh liệt qua những cuộc gặp gỡ thường nhật của tôi
với các giám mục thuộc nhiều phần đất khác nhau trên thế giới đã cho phép
tôi được thực hiện từ khi tôi được nhắc lên ngai tòa Thánh Phê-rô.
Những cuộc thăm viếng “ad limina
Apostolorum” là một cách diễn tả đặc biệt tập thể tính giám mục. Theo
nguyên tắc, cứ năm năm một lần (đôi khi trễ hơn), các giám mục trên toàn thế
giới lần lượt đến Vatican và người ta tính ra hơn hai ngàn giáo phận. Ngày
nay chính tôi đón tiếp họ.
Trước đây, vào thời Đức Phao-lồ VI, chính Đức
Thánh Cha đón tiếp tôi. Tôi rất thích những cuộc gặp gỡ như thế với Đức
Phao-lồ VI. Tôi đã học hỏi nhiều điều nơi ngài, đặc biệt về diễn tiến của
những cuộc gặp gỡ đó.
Tuy nhiên dần dần, tôi đã soạn thảo sơ đồ của
riêng tôi: trước hết, tôi đón tiếp riêng mỗi vị giám mục, kế đó tôi mời cả
nhóm dùng một bữa ăn và sau cùng, chúng tôi dâng Thánh Lễ chung vào buổi
sáng hôm sau và chúng tôi có cuộc gặp gỡ chung.
Tôi đã rút tỉa nhiều điều hữu ích từ những
cuộc gặp gỡ của tôi với các giám mục. Tôi có thể nói một cách đơn giản là
nhờ các ngài “tôi hiểu biết Giáo Hội” hơn. Tôi phải thực hiện điều đó một
cách thường xuyên bởi vì, qua các giám mục, tôi luôn học được nhiều điều mới
mẻ. Qua những cuộc đàm đạo với các ngài, tôi hiểu biết tình hình Giáo Hội
trên những phần đất khác nhau của thế giới: ở Âu châu, Á châu, Mỹ châu, Phi
châu và Đại Dương châu.
Chúa đã cho tôi sức khỏe cần thiết để có thể
thăm viếng nhiều quốc gia – tôi có thể nói được là phần lớn các quốc gia.
Những cuộc du hành đó mang một sắc thái quan trọng đặc biệt, bởi vì sự lưu
lại có tính cách cá nhân tại một quốc gia, dù vắn vỏi đi nữa, cho phép thấu
hiểu nhiều điều. Mặt khác, nhờ những cuộc gặp gỡ đó, tôi có thể tiếp xúc
trực tiếp với dân chúng và điều đó mang lại lợi ích lớn lao trên bình diện
giữa các cá nhân với nhau cũng như trên bình diện giáo sĩ.
Đối với Thánh Phao-lồ cũng thế, ngài du hành
không ngừng. Chính vì thế, khi người ta đọc những gì ngài đã viết cho các
cộng đoàn khác nhau, người ta có cảm tưởng như ngài ở gần họ, như thể ngài
hiểu rõ những cá nhân sinh sống ở những nơi đó cùng với những khó khăn của
họ. Chính điều đó có giá trị qua mọi thời đại, kể cả thời đại chúng ta.
Tôi luôn yêu thích những cuộc tông du. Với
tôi, rõ ràng trọng trách đó đã được ban cho vị giáo hoàng bởi chính Chúa
Kitô, theo một nghĩa nào đó. Ngay khi còn là giám mục giáo phận, những cuộc
thăm viếng mục vụ làm tôi ưa thích và tôi xét thấy rất quan trọng để tìm
hiểu điều gì xảy ra nơi các giáo xứ, để hiểu biết giáo dân và gặp gỡ họ cách
trực tiếp.
Thăm viếng mục vụ ngày nay trở thành một quy
phạm của giáo luật, trong thực tế đã được gợi ý bởi kinh nghiệm của cuộc
sống. Ở đây, mẫu mực chính là Thánh Phao-lồ. Thánh Phê-rô cũng thế, nhưng
trước tiên là Thánh Phao-lồ.
5.- Các nghị phụ
Trong phiên họp đầu tiên của Công Đồng, khi
tôi còn là giám mục phụ tá tổng giáo phận Cracovie, tôi được dịp cám ơn Đức
Hồng Y Giovanni Battista Montini đối với quà tặng quí giá và độ lượng
mà tổng giáo phận Milan đã trao tặng cộng đoàn Thánh Florian ở Cracovie: Ba
quả chuông mới (một quà tặng tượng trưng nhưng gây xúc cảm biết bao, nhất là
vì danh xưng gắn vào ba quả chuông đó: “Mẹ Trinh Vương”, ‘Thánh
Ambroise-Charles Borromée” và “Thánh Florian”).
Quà tặng đã được yêu cầu bởi cha Tadeusz
Kurowski, bề trên cộng đoàn Thánh Florian. Đức Hồng Y Montini là người
luôn tỏ ra ân cần đối với dân Ba-lan, đã biểu lộ một con tim cởi mở rất lớn
đối với dự án đó và ngài cũng tỏ ra am hiểu tường tận về sự quan tâm của tôi
mà lúc bấy giờ chỉ là một giám mục trẻ.
Những giám mục đồng sự người Ý, có thể nói
được là đóng vai trò chủ nhà đối với Công Đồng và đối với Tòa Thánh Vatican
nói chung, luôn luôn làm tôi ngạc nhiên về sự thân tình và về cảm thức của
họ đối với thế giới.
Trong khóa họp đầu tiên của Công Đồng, tôi có
được một kinh nghiệm tuyệt vời về phổ quát tính của Giáo Hội qua những sự
tiếp xúc giữa tôi với các giám mục Phi châu mà sự hiện diện của các ngài khá
đông. Các ngài ngồi nhiều chỗ khác nhau trong Vương Cung Thánh Đường Thánh
Phê-rô mà ở đó, như đã biết, đang diễn ra công tác của Công Đồng.
Ở giữa các ngài, có những thần học gia lỗi lạc
và những mục tử nhiệt tình. Họ có nhiều điều để cống hiến. Trong ký ức tôi,
một vị nổi bật nhất là Đức Cha Raymond-Marie Tchidimbo, tổng giám mục
Conakry. Ngài bị đau khổ nhiều vì ông tổng thống Cộng Sản của quốc gia ngài
và cuối cùng ngài phải bị lưu đày.
Tôi có nhiều mối liên hệ thường xuyên và thân
tình với Đức Hồng Y Hyacinthe Thiandoum, một vị có một nhân cách đặc
biệt. Còn một khuôn mặt lỗi lạc khác nữa, đó là Đức Hồng Y Paul Zoungrana.
Cả hai ngài thuộc văn hóa Pháp nên nói ngôn ngữ đó thông thạo như tiếng mẹ
đẻ. Tôi kết giao một mối thân tình với hai vị giáo sĩ đó khi tôi ở ngôi nhà
dành cho giáo sĩ Ba-lan.
Tôi cảm thấy rất thân cận với Đức Hồng Y người
Pháp là Gabriel-Marie Garonne. Ngài lớn hơn tôi hai mươi tuổi. Ngài
đối xử với tôi một cách thân tình, có thể nói được là trong tình bạn. Ngài
được cất nhắc lên tước vị hồng y đồng thời với tôi và sau Công Đồng, ngài
trở thành tổng trưởng Bộ Giáo Dục Công Giáo. Hình như ngài cũng đã tham dự
Mật nghị Hồng Y.
Một giáo sĩ người Pháp khác mà tôi đã có những
liên hệ thân tình, đó là thần học gia Dòng tên Henri de Lubac mà
chính tôi đã cất nhắc lên tước vị hồng y nhiều năm sau đó. Công Đồng là thời
gian ưu đãi để làm quen với các giám mục và những thần học gia, đặc biệt ở
trong những ủy ban khác nhau.
Khi đề cập tới sơ đồ 13 (về sau trở thành Tông
Hiến về Giáo Hội trong thế giới ngày nay “Gaudium et spes – “Vui
Mầng và Hy Vọng”) và khi nói về nhân cách, cha de Lubac đến gặp
tôi và nói: “Vâng, vâng, vâng, theo chiều hướng đó.” Ngài đã khích lệ tôi
như thế và chính đó là một việc đặc biệt quan trọng đối với tôi, bởi vì tôi
tương đối còn trẻ.
Tôi còn liên kết tình bạn với các giáo sĩ
người Đức. Với Đức Hồng Y Alfred Bengsch, trẻ hơn tôi một tuổi. Với
những Đức Hồng Y Joseph Hoffner ở Cologne, Đức Hồng Y Joseph
Ratzinger – tất cả các ngài là những giáo sĩ đã được chuẩn bị về thần
học một cách đặc biệt.
Cách riêng tôi nhớ tới Giáo Sư Ratzinger, lúc
bấy giờ rất trẻ. Trong tư cách chuyên viên thần học, ngài đã tháp tùng Đức
Hồng Y Joseph Frings, tổng giám mục Cologne, tham dự Công Đồng. Sau
đó ngài được bổ nhiệm tổng giám mục Munich bởi Đức Phao-lồ VI là vị đã cất
nhắc ngài lên tước vị hồng y.
Ngài đã hiện diện trong Mật Nghị Hồng Y giao
phó cho tôi mục vụ của ngai tòa Thánh Phê-rô. Khi Đức Hồng Y Franjo Seper
qua đời, tôi đã xin ngài kế tục đảm nhận trọng trách tổng trưởng Thánh Bộ
Giáo Lý Đức Tin. Tôi cảm tạ Chúa về sự góp mặt và giúp đỡ của Đức Hồng Y
Ratzinger. Ngài là một người bạn rất đáng tin cậy.
Buồn thay! Chỉ còn sống sót trên cõi đời nầy
một số ít giám mục và hồng y đã tham dự Công Đồng Vatican II (11 tháng 10
năm 1962 – 8 tháng 12 năm 1965). Đó là một biến cố đặc biệt thuộc về Giáo
Hội và tôi cảm tạ Chúa đã cho tôi tham dự từ ngày đầu cho đến ngày cuối.
6.- Hồng Y Đoàn
Theo một nghĩa nào đó, trung tâm điểm của Hội
Đồng Giám Mục Thế Giới là Hồng Y Đoàn bao quanh Đấng Kế Vị Thánh Phê-rô và
nâng đỡ ngài trong chứng tá đức tin trước toàn thể Giáo Hội. Tôi đã được ghi
danh vào Hồng Y Đoàn năm 1967.
Đặc biệt Hội Nghị Hồng Y thể hiện nguyên tắc
hợp tác và củng cố hỗ tương trong đức tin mà trên đó được xây dựng toàn bộ
công tác thừa sai của Giáo Hội. Sứ vụ của Thánh Phê-rô đã được Chúa Giêsu
phân định như sau: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của
anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32).
Ngay từ những thế kỷ đầu, các Đấng Kế Vị Thánh
Phê-rô tìm sự cộng tác của giám mục đoàn, linh mục đoàn và phó tế đoàn. Họ
chịu trách nhiệm với các ngài trong kinh thành Roma và các giáo phận lân cận
(được gọi là “các giáo phận quanh Roma”). Người ta bắt đầu gọi họ là “viri
cardinales”.
Dĩ nhiên, qua các thế kỷ, những hình thức của
một sự hợp tác như thế đã được biến đổi. Nhưng ý nghĩa chủ yếu – một biểu
tượng đối với Giáo Hội và đối với thế giới – thì không thay đổi.
Bởi vì trách nhiệm mục vụ của Đấng Kế Vị Thánh
Phê-rô trải dài trên khắp thế giới, do đó dần dần xuất hiện đúng lúc trong
thế giới Kitô giáo, những “viri cardinales”. Họ đã trở nên thân cận
với Đấng Kế Vị Thánh Phê-rô với trách nhiệm và sự kiện luôn sẵn sàng để làm
chứng tá cho đức tin kể cả việc phải đổ máu ra, nếu cần. (Chính vì thế áo
các ngài nhuộm màu đỏ, như máu các thánh tử đạo).
Tôi cảm tạ Chúa về sự hỗ trợ như thế và về sự
chia sẻ trách nhiệm trong việc quản trị Giáo Hội mà các Đức Hồng Y thuộc
giáo triều Roma và trên thế giới đã cống hiến cho tôi một cách độ lượng.
Khi các ngài càng sẵn sàng để hỗ trợ cho kẻ
khác thì các ngài càng làm vững mạnh niềm tin của họ và do đó, các ngài cũng
có thể đương đầu với trách nhiệm lớn lao trong việc lựa chọn Đấng sẽ đảm
nhận Trọng Trách của Thánh Phê-rô, được thể hiện dưới tác động của Chúa
Thánh Linh.
7.- Các hội nghị giám
mục
Cuộc đời giám mục của tôi trong thực tế đã bắt
đầu với việc công bố việc triệu tập Công Đồng. Như đã biết, thể chế hội nghị
giám mục thế giới được thiết lập bởi Đức Thánh Cha Phao-lồ VI ngày 15
tháng 9 năm 1965, là thành quả của Công Đồng. Trải qua nhiều năm, nhiều hội
nghị khác cũng được thực hiện. Vị tổng thư ký được giao phó một trọng trách
lớn để đặc trách những hội nghị đó.
Trước tiên là Đức Hồng Y Wladyslaw Rubin
mà những tang thương ngài phải trải qua trong cuộc thế chiến đã kết thúc ở
Roma là nơi ngài đã tới đó qua ngã Liban. Đức Phao-lồ VI đã giao cho ngài
việc thành lập văn phòng tổng thư ký. Đó không phải là một công việc dễ
dàng.
Tôi đã tìm cách hỗ trợ ngài, trong khả năng có
thể được, nhất là bằng việc đưa ra nhiều ý kiến hữu ích. Về sau, nhiệm vụ
của ngài được đảm trách bởi Đức Hồng Y Josef Tomko là người được Đức
Hồng Y Jan Pieter Schotte kế tục.
Như tôi đã nói, những hội nghị thì nhiều.
Ngoài những hội nghị diễn ra dưới triều đại của Đức Thánh Cha Phao-lồ VI,
còn có những hội nghị về gia đình, bí tích hòa giải và thống hối, vai trò
giáo dân trong đời sống Giáo Hội, việc đào tạo linh mục, đời sống thánh
hiến, giám mục đoàn. Ngoài ra còn có những hội nghị có tính cách đặc biệt:
hội nghị nước Hòa Lan, hội nghị kỷ niệm hai mươi năm bế mạc Công Đồng II và
hội nghị đặc biệt về Liban.
Cũng có những hội nghị mang tính cách lục địa:
những hội nghị giám mục Phi châu, Mỹ châu, Á châu, Đại Dương châu và hai hội
nghị giám mục Âu châu. Mục đích nhắm tới là xuyên qua mọi lục địa trước
thiên niên kỷ, để Giáo Hội hiểu rõ hơn bằng cách nắm bắt được những vấn nạn
ngõ hầu chuẩn bị cho năm thánh 2000. Chương trình đó đã được thực hiện. Giờ
đây phải nghĩ tới hội nghị mới với chủ đề bí tích Thánh Thể.
Trong đời sống giám mục của tôi, tôi đã có cơ
hội tiếp cận với kinh nghiệm hội nghị: quả thật đã có hội nghị rất quan
trọng của tổng giáo phận Cracovie, được tổ chức nhân dịp kỷ niệm chín trăm
năm ngày sinh nhật Thánh Stanislas. Hiển nhiên đó là một hội nghị
hoàn toàn có tính cách giáo phận. Hội nghị đó đã không diễn ra trong viễn
kiến của Giáo Hội hoàn vũ, nhưng nằm trong viễn tượng khiêm tốn hơn của Giáo
Hội địa phương.
Dẫu thế, một hội nghị giáo phận vẫn có tầm mức
quan trọng đáng kể đối với một cộng đoàn tín hữu khi hằng ngày phải trải qua
những vấn nạn như nhau, gắn liền với việc thực hành đức tin trong những hoàn
cảnh xã hội và chính trị rõ rệt.
Công việc của hội nghị Cracovie nhằm hội nhập
vào đời sống cộng đoàn địa phương những điều mà Công Đồng đã nói tới. Tôi đã
lập chương trình cho hội nghị đó vào những năm 1972-1979, bởi vì Thánh
Stanislas – như tôi đã nói – là giám mục từ 1072 đến 1079. Tôi muốn làm sống
lại những năm tháng đó chín trăm năm sau.
Kinh nghiệm quan trọng nhất là công việc của
những nhóm hội nghị rất đa dạng và đầy cam kết. Đó là một hội nghị mục vụ
đích thực: hết thảy các giám mục, linh mục và giáo dân cùng sát cánh làm
việc bên nhau. Tôi đã kết thúc hội nghị đó trong tư cách giáo hoàng, nhân
cuộc thăm viếng Ba-lan đầu tiên của tôi.
8.- Cuộc Tĩnh Tâm đối
với giáo triều Roma, trong triều đại Đức Giáo Hoàng Phao- lồ VI
Tôi không bao giờ quên được những cuộc Tĩnh
Tâm thật đặc biệt đó. Từ những cuộc Tĩnh Tâm như thế nảy sinh một sự thực
tập là quà tặng lớn lao của Chúa đối với những ai thực hành được. Đó là thời
gian người ta buông bỏ những điều còn lại để gặp gỡ Chúa và bắt đầu lắng
nghe một mình Ngài.
Chắc chắn điều đó tạo nên cơ hội hữu ích đặc
biệt đối với những “người cấm phòng”. Chính vì thế mà người ta không nên làm
áp lực trên người đó, nhưng nên đánh thức ở nơi họ một sự ao ước ở bên trong
có được một kinh nghiệm như vậy.
Thật vậy, đôi khi người ta có thể nói với một
người nào đó: “Hãy đến nhà dòng Camaldoli hay nhà dòng Biển Đức ở
Tyniec, để gặp lại chính mình”. Nhưng theo nguyên tắc một sự tiến hành
như thế phải là thành quả của sự ước muốn nội tâm.
Giáo Hội trong tư cách là một định chế, khuyên
bảo các linh mục một cách đặc biệt nên có những cuộc tĩnh tâm (Giáo Luật,
điều 276, tiết 2, mục 4). Nhưng qui phạm giáo luật chỉ là một yếu tố thêm
vào sự ao ước phát xuất từ trong con tim.
Tôi đã nhắc lại là nhiều lần chính tôi đã có
những cuộc tĩnh tâm ở đan viện Biển Đức Tyniec. Nhưng tôi cũng năng lui tới
nhà dòng Camaldoli ở Bielany, chủng viện Cracovie và Zakopane. Từ khi tôi ở
Roma, tôi đã tham dự cuộc Tĩnh Tâm với giáo triều trong tuần lễ đầu Mùa
Chay.
Trong những năm gần đây, những cuộc Tĩnh Tâm
đó luôn được hướng dẫn bởi những vị thuyết giảng khác nhau. Nhiều vị thật
đáng khâm phục về phương diện hình thức lẫn nội dung, đôi khi cả vì sự khôi
hài của họ.
Chẳng hạn đó là trường hợp cha Dòng Tên
Tomas Spidlik, người Tiệp Khắc. Chúng tôi đã cười rất nhiều qua những
bài thuyết trình của ngài và điều đó cũng hữu ích cho chúng tôi nữa. Ngài đã
biết trình bày với một tinh thần dí dỏm những chân lý sâu sắc và như thế,
ngài đã biểu lộ một tài năng vĩ đại.
Những cuộc Tĩnh Tâm đó đã trở lại trong ký ức
tôi khi tôi trao mũ hồng y cho cha Spididlik trong thượng hội nghị hồng y
sau cùng.
Những vị thuyết giảng thì đa dạng và thông
thường thật ưu tú. Chính tôi đã mời Đức Cha Ablewicz và đó là vị giáo
sĩ Ba-Lan duy nhất, ngoài tôi ra, đã đến thuyết giảng Tĩnh Tâm ở Vatican.
Riêng cá nhân tôi đã thuyết giảng Tĩnh Tâm ở
Vatican trước Đức Phao-lồ VI và các cộng sự viên của ngài. Có một vấn đề khi
chuẩn bị. Đầu tháng 2 năm 1976, Đức Cha Wladyslaw Rubin đã gọi điện
thoại cho tôi báo tin là Đức Thánh Cha Phao-lồ VI xin tôi giảng Tĩnh Tâm vào
tháng 3. Như vậy chỉ còn hai mươi ngày để tôi soạn bài giảng và chuyển dịch.
Tựa đề mà tôi đưa ra cho những buổi suy tư đó
là: “Biểu Tượng của sự Mâu Thuẫn”. Tựa đề đó không được đề nghị nhưng
đã xuất hiện sau cùng, như là tổng hợp những gì mà tôi có ý muốn trình bày.
Sự thật đó không phải là một chủ đề, nhưng theo một ý nghĩa, đó là lời chủ
yếu mà hội tụ về đó những gì tôi đã trình bày trong những bài thuyết giảng
khác nhau.
Tôi nhớ lại những ngày đã dành ra để soạn
thảo. Có hai mươi đề tài để chuẩn bị. Tôi phải xác định những đề tài đó và
soạn thảo một mình. Để có sự yên tĩnh cần thiết, tôi đi tới miền Zakopane,
ngụ tại nhà dòng các nữ tu Thánh Ursula (Ursulines), mặc tu phục màu xám ở
Jaszczurówska. Tôi đã viết những bài suy niệm cho đến trưa, đi trượt tuyết
ban chiều và buối tối tiếp tục viết nữa.
Cuộc gặp gỡ đó với Đức Phao-lồ VI trong bối
cảnh cuộc Tĩnh Tâm, thật đặc biệt quan trọng đối với tôi, bởi vì làm cho tôi
ý thức về sự nhanh nhẹn cần thiết phải có đối với giám mục khi nói về đức
tin của mình ở nơi nào mà Chúa đòi hỏi phải làm. Về điều đó, hết mọi giám
mục cần phải có, ngay cả Đấng Kế Vị Thánh Phê-rô, như Đức Phao-lồ VI lúc bấy
giờ đã cần đến sự sẵn sàng của tôi.
9.- Việc thực thi
Công Đồng
Công Đồng là một biến cố lớn lao và đối với
tôi, là một kinh nghiệm khó quên. Từ Công Đồng trở về, tôi được phong phú
thêm lên. Một khi về lại Ba-lan, tôi đã viết một quyển sách trong đó tôi
trình bày những hướng đi đã chín mùi trong tôi qua những khóa họp Công Đồng.
Qua các trang giấy, có thể nói được tôi đã tìm
cách đúc kết nội dung những giáo huấn của Công Đồng và tôi đã lấy tựa đề: “Nguồn
Gốc của sự Đổi Mới. Nghiên Cứu về sự Thực Thi Công Đồng Vatican II”.
Sách đó đã được xuất bản ở Cracovie năm 1972 bởi Hiệp Hội Thần Học Ba-lan
(PTT).
Sách đó cũng muốn trình bày như một lời cảm tạ
đối với những gì mà ân sủng Chúa, qua sự nhóm họp của Công Đồng, đã tác dụng
trên cá nhân tôi, trong tư cách giám mục. Quả thật, Công Đồng Vatican II đã
thảo luận một cách đặc biệt những nghĩa vụ giám mục.
Công Đồng Vatican I đã bàn luận về quyền tối
cao của giáo hoàng. Đặc biệt Công Đồng Vatican II dừng lại nơi các giám mục.
Để nhận ra điều đó, chỉ cần có trong tay những văn kiện Công Đồng, nhất là
Tông Hiến Tín Lý “Lumen gentium” (“Ánh sáng muôn dân”).
Giáo huấn thâm sâu của Công Đồng đối với giám
mục đoàn dựa trên sự qui chiếu về ba chức năng (munus) của Chúa Kitô:
ngôn sứ, tư tế và vương giả. Tông Hiến “Lumen gentium” (“Ánh sáng
muôn dân”) đề cập đến điều đó ở những số 24-27.
Nhưng những văn bản khác của Công Đồng cũng
qui chiếu về ba chức năng (“tria munera”) nói trên, trong đó nên chú
ý đặc biệt đến sắc lệnh “Christus Dominus” (“Chúa Kitô”) làm
nổi bật một cách chính xác trách nhiệm mục vụ của các giám mục.
Khi tôi từ Roma về lại Ba-lan, đã bùng nổ vấn
đề liên quan đến thông điệp thời danh của các giám mục Ba-lan gởi cho các
giám mục Đức quốc. Trong thông điệp đó, các giám mục Ba-lan tuyên bố đồng ý
tha thứ, nhân danh đồng bào của mình, về những điều thiệt hại phải chịu do
quân đội Đức Quốc Xã gây nên, trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến. Cùng một trật,
các ngài xin tha thứ về những lỗi lầm mà quân đội Ba-lan đã vi phạm đối với
dân chúng Đức quốc.
Tiếc thay! Thông điệp đó đã gây ra nhiều cuộc
bút chiến, nhiều điều ngộ nhận, nhiều điều vu khống. Cử chỉ hòa giải đó mà
trong thực tế đã có tính cách quyết định, như đã tỏ lộ thời gian sau đó,
nhằm bình thường hóa những mối quan hệ giữa dân chúng Đức quốc và Ba-lan, đã
làm phật ý chính quyền Cộng Sản rất nhiều.
Hậu quả là họ trở nên cứng rắn đối với Giáo
Hội. Điều đó không tạo thành bối cảnh tốt đẹp nhất cho những cuộc lễ lạt
mừng ngàn năm Ba-lan được nhận lãnh bí tích thánh tẩy bắt đầu ở Gniezno vào
tháng tư năm 1966.
Ở Cracovie, những lễ lạt đã xảy ra vào dịp lễ
kính thánh Stanislas ngày 8 tháng 5. Ngay hôm nay đây, còn sống động trong
ký ức tôi hình ảnh đoàn lũ dân chúng đông đảo đi kiệu từ Wawel đến Skalka.
Chính quyền không dám quấy rối đám người đông đảo và kỷ luật đó.
Trong những cuộc lễ lạt mừng ngàn năm đó,
những sự căng thẳng gây nên bởi thông điệp của các giám mục được giảm bớt và
hầu như biến mất và người ta có thể theo đuổi việc giảng dạy môn giáo lý
thích hợp dựa trên ý nghĩa ngàn năm đón nhận Tin Mừng trong đời sống quốc
gia.
Thông thường cuộc rước kiệu “Mình Thánh
Chúa” (“Corpus Domini”) hằng năm là một cơ hội tốt đẹp để rao
giảng. Trước thế chiến, cuộc rước kiệu trọng thể để tôn vinh Mình Máu Thánh
Chúa Kitô khởi hành từ nhà thờ chính tòa Wawel và đi đến Rynek Glówny, ngang
qua những đường sá và công viên trong thành phố.
Trong thời gian chiếm đóng, viên toàn quyền
người Đức là Hans Frank đã cấm cuộc rước kiệu như thế. Về sau, vào
thời Cộng Sản, chính quyền chấp nhận một cuộc rước kiệu ngắn hơn: từ nhà thờ
chính tòa Wawel cho tới sân gần nhất của lâu đài hoàng gia.
Chỉ vào năm 1971 cuộc rước kiệu mới có thể đi
qua bên kia đồi Wawel như trước. Bấy giờ tôi tìm cách sắp xếp những đề tài
suy niệm ở mỗi bàn thờ khác nhau trên hành trình rước kiệu, làm thế nào để
có thể trình bày trong bối cảnh giáo lý về Phép Thánh Thể, những khía cạnh
khác nhau của chủ đề lớn lao về “tự do tôn giáo” rất thời sự vào thời
điểm đó.
Trong những mô hình khác nhau của việc sùng
kính đạo đức có tính cách bình dân đó, tôi thiết tưởng được ẩn tàng một câu
trả lời cho một vấn nạn đôi khi được phơi bày ra ánh sáng liên quan đến ý
nghĩa của truyền thống được thể hiện qua những cuộc biểu dương, cho dẫu trên
bình diện địa phương. Tựu trung, câu trả lời khá đơn giản: sự hòa điệu giữa
các con tim tạo nên một sức mạnh.
Đâm rễ sâu trong những gì là cổ kính, hùng
dũng, sâu sắc và cùng một trật, rất thân thiết trong con tim, sẽ tạo nên một
sức mạnh nội tâm phi thường. Nếu sự đâm rễ sâu đó cũng gắn liền với mãnh lực
táo bạo của trí tưởng tượng và tư duy con người, không còn lý do gì để phải
lo sợ cho tiền đồ đức tin và những tương giao giữa con người với con người
trong lòng dân tộc.
Chính ở trong sự phong phú của truyền thống mà
nền “văn hóa” thực sự được vun bồi để củng cố mối thân tình giữa các
công dân và cho phép họ có ý thức là mình thuộc về một đại gia đình để chống
đỡ và tăng cường cho niềm xác tín của mình.
Đặc biệt ngày nay, trách nhiệm lớn nhất của
chúng ta, trong lãnh vực toàn cầu hóa, bao gồm việc phát huy những truyền
thống lành mạnh, nâng đỡ lòng dũng cảm của quần chúng trong vấn đề tư duy,
một viễn kiến hướng về tương lai, cũng như lòng kính trọng và quí mến đối
với những gì thuộc về quá khứ.
Chính quá khứ được tiếp nối trong con tim
người đời qua những ngôn từ của người xưa, những ký hiệu thời cổ, những hoài
niệm và tập quán kế thừa từ nhiều thế hệ đã qua.
10.- Các giám mục
Ba-lan
Trong thời gian tôi thi hành mục vụ ở
Cracovie, những mối liên hệ thân tình đã nối kết tôi với các giám mục ở
Gorzów. Đó là ba đức cha: Wilhelm Pluta, Jerzy Stroka và Ignacy
Jez. Tôi xem các ngài như những bạn hữu chân tình. Chính vì thế tôi đã
đi tìm gặp các ngài, ngay cả ngoài những vấn đề liên quan đến việc phục vụ.
Với Đức Cha Stroka, chúng tôi đã quen
biết nhau trong thời gian còn ở Cracovie khi ngài làm giám đốc chủng viện
Silésie. Trong chủng viện đó, chính tôi là giáo sư: tôi dạy đạo đức học,
thần học luân lý căn bản và luân lý xã hội.
Với ba vị tôi vừa nhắc đến, Đức Cha Ignacy
Jez hiện đang còn sống. Ngài có tài thiên phú về tính hài hước: ngài
biết phát biểu bằng cách nói khôi hài, chẳng hạn như về tên của ngài là Jez
(trong ngôn ngữ Ba-lan tiếng đó có nghĩa là “cái vòng” hay “tóc xoắn”).
Với tư cách là giám mục thường trú, ở trong
tổng giáo phận của tôi, tôi có vài giám mục phụ tá như các Đức Cha Julian
Groblicki, Jan Pietraszko, Stanislaw Smolenski và Albin
Malysiak. Chính tôi đã tấn phong hai vị sau nầy.
Tôi rất thích Đức Cha Albin vì tính
năng động của ngài. Tôi còn nhớ đến ngài khi ngài còn là cha xứ Nowa Wies,
một trong những khu vực ở Cracovie. Đôi khi tôi thích gọi ngài bằng biệt
danh là “Albin nhiệt tình”
Đức Giám Mục Jan Pietraszko là một nhà
thuyết giảng tuyệt vời, một người làm cho cử tọa hứng khởi. Đức Hồng Y
Franciszek Macharski, người kế vị tôi ở Cracovie, đã khởi động vụ án
phong thánh cho ngài năm 1994. Vụ án đó giờ đây đang ở giai đoạn cứu xét tại
Roma.
Tôi cũng nhớ rất rõ hai vị giám mục phụ tá
kia: trong nhiều năm, chúng tôi đã tìm cách cùng nhau phục vụ Giáo Hội thân
yêu Cracovie của chúng tôi, trong tinh thần hiệp thông huynh đệ.
Trong thành phố lân cận là Tarnów, có Đức Cha
Jerzy Ablewicz mà tôi đã nhắc đến. Tôi đến thăm ngài thường xuyên:
thật ra chúng tôi sinh cùng thời – ngài chỉ hơn tôi một tuổi.
Đức Giám Mục ở Czestochowa – Đức Cha Stefan
Barela, luôn đối xứ với tôi rất thân tình. Trong bài giảng Thánh Lễ kỷ
niệm hai mươi lăm năm phong chức linh mục của tôi, tôi đã nói:
“Chức vụ giám mục như một khám phá bổ túc, một
khám phá mới về chức linh mục. Tuy nhiên điều khám phá mới đó cũng được thực
hiện trên căn bản cùng một tiêu chuẩn: trước tiên người ta phải hướng về
Chúa Kitô, Mục Tử độc nhất và Giám Mục của mọi tâm hồn và cũng hướng về Chúa
Kitô một cách thâm sâu hơn, hăng say hơn và đòi hỏi hơn.
Điều đó thực hiện được bằng cách hướng đến các
linh hồn, những linh hồn bất tử, được chuộc lại bằng giá Máu Chúa Kitô.
Hướng về các linh hồn có thể không có tính cách tức thời như trong công việc
hằng ngày của một linh mục trong giáo xứ - cha chánh xứ hay cha phó xứ.
Ngược lại, đó là một tầm nhìn rộng lớn hơn, bởi vì trước mặt giám mục mở ra
cộng đồng Giáo Hội toàn vẹn.
Trong lương tâm chúng tôi là những giám mục
của Công Đồng Vatican II, Giáo Hội là nơi gặp gỡ của toàn thể gia đình nhân
loại, là nơi hòa giải, xích lại gần nhau bất chấp mọi trở ngại, xích lại gần
nhau bằng đối thoại, xích lại gần nhau bằng cái giá của sự đau khổ.
Có thể điều đó đúng với chúng tôi – những giám
mục Ba-lan thời đại Công Đồng Vatican II – chúng tôi phải trả giá bằng sự
đau khổ hơn là qua việc đối thoại”
(Kalendarium Zycia Karola Wojtyly,
Cracovie 1983, tr. 335-336).
Chính ở Silésie mà Đức Cha Hertbert Bednorz
thi hành mục vụ và trước ngài có Đức Cha Stanislaw Adamski. Đức Cha
Bednorz được bổ nhiệm làm giám mục phó. Khi tôi được bổ nhiệm tổng giám mục,
tôi đã đi thăm hết các giám mục trong tổng giáo phận và cũng vì vậy tôi đã
đến Katowice ra mắt Đức Cha Adamski. Cùng ở với ngài có các Đức Cha
Julian Bieniek và Jósef Kurpas.
Chúng tôi với các giám mục ở Silésie rất thông
hiểu nhau. Tôi gặp gỡ các ngài thường xuyên vào Chúa nhật cuối cùng của
tháng năm tại nguyện đường Đức Bà Piekary. Nhà thờ chính tòa tại đây
được thiết lập vào thế kỷ XVII là một nơi sùng kính Đức Trinh Vương Maria,
Mẹ Công Chính và Tình Thương.
Tại nguyện đường Đức Bà Piekary chính vào ngày
đó, tuôn về những đoàn người hành hương thuộc nam giới. Đức Cha Bednorz
thường mời tôi thuyết giảng. Chúa nhật cuối tháng năm tạo nên môt biến cố
đặc biệt: đó là cuộc hành hương của những công nhân mỏ. Họ biểu thị một
chứng tá khác thường trong nước Cộng Hòa Nhân Dân Ba-lan.
Những người tham dự nghe giảng thường kèm theo
những tràng pháo tay nổ dòn khi nghe những điều trình bày tỏ rõ sự đối kháng
về những đường hướng đang bàn cãi nằm trong chính sách chính phủ đang theo
đuổi, liên quan đến vấn đề tôn giáo hay phong hóa, chẳng hạn việc nghỉ ngơi
vào Chúa nhật. Về vấn đề đó, ở Silésie, một câu nói của Đức Cha Bednorz đã
trở thành châm ngôn đối với dân chúng: “Chúa nhật thuộc về Thiên Chúa và
thuộc về chúng ta nữa.”
Sau Thánh Lễ, Đức Cha Bednorz thường có thói
quen ngõ lời với tôi như sau: “Vậy thì chúng con đợi tới năm sau để nghe một
bài giảng khác tương tư.” Đối với tôi, dân chúng ở Piekary đã nêu lên một
chứng tá tuyệt vời bằng cuộc hành hương vĩ đại của họ. Tự bản chất chứng tá
đó nói lên điều gì đặc biệt khác thường.
Chiếm một chỗ rất đặc biệt trong quả tim của
tôi, đó là Đức Hồng Y Andrzej Maria Deskur, hiện nay là chủ tịch danh
dự Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội. Tôi đã cất nhắc ngài lên tước
vị hồng y ngày 25 tháng 5 năm 1985. Kể từ lúc khởi đầu triều đại giáo hoàng
của tôi, ngài luôn hỗ trợ tôi rất nhiều, đặc biệt qua những đau khổ cũng như
những ý kiến chỉ bảo của ngài.
Trong khi nhắc tới các giám mục, tôi không thể
không trưng dẫn Thánh bổn mạng của tôi là Thánh Charles Borromée. Khi
tôi nhớ tới khuôn mặt của ngài, tôi bị xúc động bởi sự trùng hợp do những
biến cố và mục vụ.
Ngài là giám mục Milan vào thế lỷ XVI, vào
thời kỳ Công Đồng Trente. Còn tôi, Chúa đã ban ơn cho tôi làm giám mục thế
kỷ XX và đúng vào Công Đồng Vatican II. Với tất cả hai, chúng tôi được trao
phó cũng một sứ vụ: việc thực thi công đồng.
Tôi có thể nói được, suốt những năm triều đại
giáo hoàng của tôi, việc thực thi công đồng luôn ở hàng đầu trong tâm tưởng
của tôi. Tôi luôn kinh ngạc về sự trùng hợp đó và cảm thấy thích thú bởi sự
dấn thân dũng cảm của vị thánh đó: Sau công đồng, Thánh Charles hiến trọn
cuộc đời giám mục cho những cuộc thăm viếng mục vụ trong giáo phận ngài, lúc
bấy giờ có khoảng tám trăm giáo xứ.
Tổng giáo phận Cracovie trước đây nhỏ hơn, tuy
nhiên tôi không thể thực hiện hết các cuộc thăm viếng đã được bắt đầu. Giáo
phận Roma hiện nay được giao phó cho tôi cũng lớn nữa: có 333 giáo xứ. Cho
tới nay tôi đã thăm viếng 317 giáo xứ. Như vậy còn lại 16 giáo xứ tôi phải
thăm viếng.
CHƯƠNG
SÁU
THIÊN CHÚA
VÀ LÒNG CAN ĐẢM
“Nầy
con đây, con đến để thực thi ý Ngài”
(Dt 10, 7)
1.- Mạnh mẽ trong đức
tin
Tôi còn ghi khắc trong ký ức tôi những lời nói
của Đức Hồng Y Stefan Wyszynski ngày 11 tháng 5 năm 1946: “Làm
giám mục là mang lên mình cái gì có quan hệ với thánh giá, bởi vì Giáo Hội
đặt để thánh giá trên ngực giám mục. Trên thánh giá, phải chết cho chính bản
thân mình; nếu không như thế thì không có sự viên mãn của chức tư tế. Vác
thánh giá lên mình không phải dễ dàng, cho dẫu thánh giá được làm bằng vàng
và được nạm ngọc.“
Mười năm sau, ngày 16 tháng 3 năm 1956, Đức
Hồng Y còn nói: “Giám mục có bổn phận phải hành động, không những bằng lời
nói, bằng phụng vụ, mà còn bằng việc chấp nhận đau khổ nữa.”
Đức Hồng Y Wyszynski đã trở lại với những tư
tưởng đó vào một dịp khác. Ngài nói: “Đối với một giám mục, thiếu dũng cảm
là khởi đầu của sự thất bại. Ngài có thể tiếp tục là tông đồ không? Bởi vì
đối với một tông đồ, làm chứng cho chân lý là điều thiết yếu. Và điều đó
luôn đòi buộc sự dũng cảm.” (Zapiski wiezienne, Paris, 1982, tr.
251).
Những lời nói sau đây cũng của ngài nữa:
“Nhược điểm lớn nhất của tông đồ là sự sợ hãi.
Đó là sự yếu kém về đức tin trong quyền lực của Thầy Chí Thánh. Chính sự yếu
kém đó đánh thức dậy sự sợ hãi. Và sự sợ hãi bức bách con tim cùng bóp nghẹt
cổ họng. Lúc bấy giờ tông đồ không còn tuyên xưng đức tin nữa. Họ còn là
tông đồ không?
Những tông đồ rời bỏ Thầy mình khiến các tên
đao phủ bạo dạn thêm lên. Người nào im hơi lặng tiếng khi đối diện với kẻ
địch thù vì một lý do nào đó thì làm cho kẻ thù địch mạnh dạn thêm lên. Sự
sợ hãi của tông đồ là đồng minh trước tiên đối với những kẻ thù nghịch. Công
việc hàng đầu nằm trong sách lược của những kẻ nghịch đạo là ‘bằng sự sợ
hãi, bắt buộc người ta phải im hơi lặng tiếng’.
Sự khủng bố mà hết mọi chính thể độc tài sử
dụng được đo lường bằng sự sợ hãi của các tông đồ. Sự im lặng chỉ mang tính
cách nghĩa khí tông đồ khi không xoay mặt đi trước kẻ vả mình. Đó là điều mà
Đức Kitô đã làm khi Ngài im lặng. Nhưng qua dấu chỉ đó, Ngài chứng tỏ sức
mạnh của Ngài. Đức Kitô không để cho người khác làm Ngài khiếp sợ. Sau khi
đi ra giữa đám đông, Ngài đã dũng cảm nói với họ: ‘Chính tôi đây’”
(Tài liệu đã trích dẫn, tr. 94).
Quả thật, người ta không thể xây lưng lại với
chân lý, cũng không thể ngưng loan báo hay che giấu, ngay cả đối với chân lý
khó khăn mà sự biểu lộ kèm theo một sự đau khổ lớn lao. “Các ông sẽ biết
sự thật và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Gio 8, 32) – đó là
trách nhiệm của chúng ta và cũng một trật là điểm tựa của chúng ta!
Như thế, không có khoảng trống dành cho việc
đành phải làm theo, cũng không có phương sách cơ hội chủ nghĩa thuộc cách xử
sự khôn khéo của người đời. Phải làm chứng tá cho chân lý, ngay cả phải trả
giá bằng việc bị bắt bớ, cho đến phải đổ máu mình ra, như chính Chúa Kitô đã
làm và giám mục Stanislas ở Szczepanów là một trong những vị tiền
nhiệm của tôi đã làm trong thời đại của ngài.
Chắc chắn chúng ta sẽ phải đương đầu với nhiều
thử thách. Không có gì lạ thường hết. Điều đó thuộc về đời sống đức tin. Ở
trong vài trường hợp, những thử thách chỉ nhẹ nhàng, ở những trường hợp khác
thì khó khăn hơn nhiều và ngay cả bi đát nữa.
Trong những thử thách, chúng ta cảm thấy đơn
độc, nhưng không bao giờ ân sủng của Chúa bỏ rơi chúng ta, ân sủng của một
đức tin chiến thắng. Chính vì thế, chúng ta có thể cương quyết dự kiến vượt
lên trên mọi thử thách một cách khải hoàn, ngay cả những thử thách cam go
nhất.
Vào năm 1987, ở Westerplatte thuộc
Gdansk, khi đề cập đến điều đó với giới trẻ Ba-lan, tôi đã nhắc tới nơi chốn
đó như là một biểu tượng hùng hồn của lòng trung tín trong thời điểm bi
thương. (Westerplatte là một bán đảo ở về phía bắc thành phố lịch sử Gdansk
độ 7 cây số.)
Chính ở nơi đó, vào ngày 1 tháng 9 năm 1939,
một nhóm binh sĩ trẻ tuổi người Ba-lan gồm 180 người, trong khi chiến đấu
chống lại tàu thiết giáp của quân đội xâm lăng Đức quốc xã là
Schleswig-Holstein mà vũ lực và những phương tiện chiến đấu trổi vượt rõ
rệt, đã đương đầu với thử thách vô bờ bến đó bằng cách cung hiến một chứng
ta hiển hách của lòng quả cảm, kiên trì và trung tín. Trận đánh đó đã mở màn
cho Đệ Nhị Thế Chiến.
Tôi đã dẫn chứng điều đó, bằng cách mời gọi
trước tiên những người trẻ suy nghĩ chín chắn về tương quan giữa ‘sống
hơn lên’ và ‘có nhiều hơn lên’, và tôi đã cảnh báo họ:
“Đừng bao giờ chỉ nhằm thắng thế để ‘có được nhiều hơn’. Bởi vì lúc
bấy giờ con người có thể đánh mất điều cao quí nhất: đó là tình nhân loại,
lương tâm và phẩm cách của mình.”
Trong viễn tượng đó, tôi đã khuyến khích họ:
“Chúng con phải yêu sách điều đó nơi chính bản thân chúng con, cho dẫu người
khác không yêu sách chúng con điều đó.”
Và tôi đã khai triển thêm: “Hởi các bạn trẻ,
mỗi một người trong chúng con cũng phải tìm cho ra một ‘Westerplatte’ trong
cuộc đời mình. Một chiều kích về những bổn phận phải đảm đương và phải chu
toàn. Một lý do chính đáng mà người ta không thể không chiến đấu. Một bổn
phận, một nghĩa vụ mà người ta không thể miễn trừ, không thể trốn tránh. Nói
tóm lại, có một thứ tự thuộc những chân lý và những giá trị cần phải ‘duy
trì’ và ‘bảo vệ’: ở trong mình và chung quanh mình. Vâng: phải bảo vệ cho
mình và cho kẻ khác” (Ngày 12 tháng 7 năm 1987).
Con người luôn luôn cần những gương mẫu để bắt
chước. Nhất là họ cần đến ngày nay, trong thời đại chúng ta đang bị lôi cuốn
bởi biết bao sự xúi biểu thất thường và trái ngược.
2.- Các thánh ở
Cracovie
Nhắc tới những gương mẫu nên bắt chước, không
thể quên các thánh. Các thánh và các chân phước là quà tặng lớn lao biết bao
đối với mỗi giáo phận! Tôi thiết nghĩ, đối với hết thảy các giám mục, thật
cảm động lạ thường khi nêu lên gương mẫu những người nam và người nữ cụ thể,
những người nổi bật bởi đức tính anh hùng, nuôi dưỡng bởi đức tin. Sự xúc
động gia tăng khi những người đó đã sống những thời điểm gần gũi chúng ta.
Tôi vui mầng đã dấn thân vào những vụ án phong
thánh cho những Kitô hữu lỗi lạc gắn liền với tổng giáo phận Cracovie. Tiếp
theo sau đó, với tư cách là giám mục Roma, tôi đã có thể công bố những nhân
đức anh hùng của họ và khi các vụ án đã hoàn tất, họ được ghi tên vào sổ bộ
các chân phước và các thánh.
Trong thế chiến, khi tôi làm nhân công tại
xưởng máy Solvay ở gần Lagiewniki, tôi nhớ lại đã nhiều lần đến bên phần mộ
nữ tu Faustine, lúc bấy giờ chưa là chân phước. Tất cả những gì ở nơi
chị thật đặc biệt, bởi vì không thể dự kiến nơi một thiếu nữ cũng giản dị
như chị. Làm sao lúc bấy giờ tôi có thể tưởng tượng được là tôi sẽ phong
chân phước cho chị trước và rồi sau đó phong thánh nữa?
Sau khi vào tu ở một đan viện tại Varsovie,
chị được chuyển về Vilnius và cuối cùng ở Cracovie. Vài năm trước thế chiến,
chính chị đã có thị kiến về Chúa Giêsu nhân từ đã xin chị trở thành tông đồ
đối với việc sùng kính lòng Lân Mẫn Chúa, nhằm phổ biến rộng rãi trong Giáo
Hội.
Nữ tu Faustine qua đời năm 1938. Kể từ đó,
khởi đầu từ Cracovie, việc sùng kính đó đã đi vào quỹ đạo lớn của những biến
cố có tầm vóc quốc tế.
Khi trở thành tổng giám mục, tôi đã giao phó
cho một linh mục là giáo sư Ignacy Rózycki xem xét những bản viết của
chị. Ban đầu ngài từ khước. Rồi cuối cùng, ngài đã chấp nhận và nghiên cứu
tường tận những tài liệu sẵn có. Sau cùng, ngài tuyên bố: “Đó là một nhà
thần bí tuyệt diệu.”
Sư huynh Alber – thầy Adam
Chmielowski – đã chiếm một chỗ đặc biệt trong ký ức của tôi và hơn thế
nữa, trong con tim của tôi. Thầy phải chiến đấu trong cuộc nổi loạn tháng
giêng mà một viên đạn đã làm thầy bị thương nặng ở chân. Kể từ thời gian đó,
thầy bị tàn phế và phải mang chân giả.
Đối với tôi, thầy là một khuôn mặt đáng kính
phục. Tôi đã gắn bó với thầy rất nhiều về mặt tinh thần. Tôi đã viết một vở
bi kịch về thầy với tựa đề “Sư huynh của Chúa”.
Nhân cách của thầy đã hấp dẫn tôi. Tôi thấy
nơi thầy một gương mẫu thích hợp với tôi: thầy đã buông bỏ nghệ thuật để trở
nên kẻ phục vụ những người nghèo – những “kẻ mặt mày lem luốc” như thời đó
người ta thường gọi những người ăn xin. Tiểu sử của thầy đã giúp tôi rất
nhiều trong việc từ bỏ nghệ thuật và kịch nghệ để vào tu học ở chủng viện.
Mỗi ngày tôi đều đọc Kinh Cầu các thánh của
đất nước Ba-lan, trong đó cũng có ghi tên thánh Albert. Trong các thánh ở
Cracovie, tôi cũng nhớ tới thánh Jacek Odrowaz là một vị thánh lớn
của thành phố đó.
Thánh tích của ngài đặt để trong thánh đường
các cha Đa-minh. Tôi rất năng đến nguyện đường đó. Thánh Jacek là một vị
thừa sai vĩ đại: từ Gdansk, ngài đã di chuyển về hướng đông, cho tới Kiev.
Trong nhà thờ các cha dòng Phan-xi-cô, cũng có
phần mộ chân phước Aniela Salawa, một gia nhân tầm thường. Tôi đã
phong thánh ở Cracovie ngày 13 tháng 8 năm 1991. Cuộc đời của ngài là chứng
cớ cho thấy công việc của một gia nhân, được hoàn tất trong tinh thần đức
tin và hy sinh, có thể đưa tới sự thánh thiện. Tôi thường thăm viếng ngôi mộ
của ngài.
Các thánh Cracovie, tôi xem các ngài như những
vị bảo hộ tôi. Tôi có thể kể ra một danh sách thật dài: thánh Stanislas,
thánh nữ hoàng Hedwig, thánh Gioan Katy, thánh Casimir
hoàng tử của vua và những vị khác. Tôi tưởng tới các ngài và cầu xin các
ngài cho đất nước tôi.
Các thánh nam nữ tử đạo
“Lạy Thánh Giá Chúa Kitô, con xin tán tụng,
tán tụng Thánh Giá Ngài luôn mãi!
Từ Thánh Giá Chúa phát ra quyền năng và sức
mạnh,
ở nơi Thánh Giá Chúa là sự chiến thắng.”
(Krzyzu Chrystusa)
Tôi không bao giờ đeo thánh giá trên ngực một
cách thờ ơ. Đó là một cử chỉ mà tôi thường kèm theo một lời cầu nguyện. Từ
hơn bốn mươi lăm năm nay, thánh giá được để trên ngực tôi, bên cạnh quả tim
tôi.
Yêu mến thánh giá có nghĩa là yêu mến sự hy
sinh. Các thánh tử đạo là những mẫu mực đối với tình yêu đó, chẳng hạn Đức
Cha Michal Kozal, được tấn phong giám mục ngày 15 tháng 8 năm 1939,
hai tuần lễ trước khi Đệ Nhị Thế Chiến khai mào.
Ngài đã không bỏ rơi đoàn chiên của ngài trong
cuộc xung đột, cho dẫu người ta có thể thấy trước cái giá mà ngài phải trả
đối với điều đó. Ngài đã hy sinh mạng sống mình trong trại tập trung Dachau
mà ở đó ngài đã trở thành mẫu mực và sự hỗ trợ tinh thần cho những linh mục
bị làm tù binh như ngài.
Vào năm 1999, tôi đã có dịp phong thánh một
trăm lẻ tám vị tử đạo là những nạn nhân của Đức Quốc Xã trong đó có ba giám
mục: Đức Cha Antoni Julian Nowowiejski, tổng giám mục Plock, vị phụ
tá của ngài là Đức Cha Leon Wetmanski và Đức Cha Wladyslaw Goral
ở Lublin.
Cùng với các ngài cũng được nâng lên vinh dự
bàn thờ những linh mục, nam nữ tu sĩ và giáo dân. Một sự kết hợp như thế
trong đức tin, trong yêu thương và trong sự tử đạo giữa những mục tử cùng
đoàn chiên tề tựu xung quanh thánh giá Chúa Kitô thật có ý nghĩa đặc biệt.
Linh mục Ba-lan – Thánh Maximilien Kolbe
– là một gương mẫu được nhiều người biết đến về sự hy sinh bởi tình yêu
trong trại tập trung Auschwitz, tự hiến mạng sống mình cho một tù nhân khác
mà ngài không quen biết. Tù nhân đó là một người cha gia đình.
Còn có các vị tử đạo khác, gần gũi chúng ta
hơn trong thời gian. Tôi muốn gợi lại với nhiều xúc động những cuộc gặp gỡ
của tôi với Đức Hồng Y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận. Trong năm
thánh đáng ghi nhớ 2000, ngài đã giảng Tĩnh Tâm tại Vatican.
Khi cảm ơn ngài về những bài suy niệm, tôi đã
nói: “Chính ngài là chứng nhân Thánh Giá trong những năm dài ngục tù ở
Việt-nam. Ngài đã thường kể lại những sự kiện và những giai đoạn trong thời
gian đau khổ của ngài ở trong nhà tù. Và như thế, ngài đã xác tín một cách
thật an ủi rằng, khi tất cả đều sụp đổ chung quanh chúng ta và cũng có thể ở
trong chúng ta nữa thì Chúa Kitô là nơi nương tựa bất diệt” (ngày 18 tháng 3
năm 2000).
3.- Thánh Stanislas
Ở trong sâu kín của những khuôn mặt rạng rỡ
thuộc các vị thánh Ba-lan, bằng đôi mắt con tim, tôi thấy nổi bật lên hình
bóng vĩ đại của vị giám mục tử đạo là Thánh Stanislas. Như đã nhắc
nhở, tôi đã dành trọn một bài thơ mà trong đó tôi đã gợi lại sự tử đạo của
ngài. Khi đọc bài thơ đó thì hầu như nhìn vào một tấm kiếng soi lịch sử của
Giáo Hội ở Ba-lan. Đây là vài đoạn của bài thơ đó:
1
Tôi muốn mô tả Giáo Hội – Giáo Hội của tôi
khai sinh cùng thời với tôi,
nhưng không chết đi với tôi –
và tôi không chết với Giáo Hội
vì Giáo Hội luôn trổi vượt lên tôi –
Giáo Hội: chiều sâu và đỉnh cao của bản thể
tôi.
Giáo Hội: gốc rễ tôi bám trụ
trong quá khứ và trong tương lai,
Bí Tích của sự sống tôi trong Thiên Chúa là
Cha.
Tôi muốn mô tả Giáo Hội – Giáo Hội của tôi
gắn liền với đất đai xứ sở tôi
(đã có chép: “tất cả những gì con ràng
buộc dưới đất
sẽ được ràng buộc ở trên trời”) –
và đất đai xứ sở tôi gắn liền với Giáo Hội
tôi.
Đất đai xứ sở tôi ở lưu vực sông Vistule
với những chi lưu nước trào dâng vào mùa
xuân,
khi tuyết tan trong rặng núi Carpates.
Giáo Hội gắn liền với đất đai xứ sở tôi
bởi vì những gì ràng buộc ở đó
phải được ràng buộc trên trời.
2
Có một người mà ở nơi họ
đất đai xứ sở tôi biết được ràng buộc trên
trời.
Có người đó, những người đó…
Ở thời nào, cũng có…
Nhờ họ, đất đai xứ sở thấy chính mình
trong bí tích của một cuộc sống mới.
Đất đai xứ sở là quê hương tôi:
bởi vì ở đó nhà Cha đã được cưu mang,
ở đó nhà Cha đã được phát sinh.
Tôi muốn mô tả Giáo Hội của tôi
qua một người với danh xưng Stanislas,
danh xưng được viết trong biên niên sử xa
xưa nhất
bởi lưỡi kiếm của hoàng đế Boleslas.
Nhà vua đã viết tên đó trên nền đá hoa nhà
thờ chính tòa
khi dòng máu đào phun ra.
3
Tôi muốn mô tả Giáo Hội của tôi qua tên gọi
nhờ đó dân chúng nhận lãnh thánh tẩy lần
thứ hai,
một thánh tẩy bằng máu; để rồi sau đó được
tùng phục,
và không chỉ một lần,
thánh tẩy của nhiều thử thách khác nhau –
thánh tẩy ước muốn mà ở trong đó
nhận ra hơi thở vô hình của Chúa Thánh Thần
–
qua một Tên Gọi
cắm trên mô đất của sự tự do con người
ngay cả trước khi có tên gọi Stanislas.
4
Trên mô đất của sự tự do con người
đã nảy sinh Mình và Máu
bị đâm thâu bởi lưỡi kiếm nhà vua
ở chính con tim phát ra lời rao giảng của
bậc tư tế,
bị đâm thâu ở đáy sọ,
bị đâm thâu ở trong thân mình còn sống…
Mình và Máu lúc bấy giờ chưa có thời giờ
sinh ra –
lưỡi kiếm đã đâm thâu tới chất kim loại
chén rượu lễ
và bánh thánh.
5
Có lẽ hoàng đế đã nghĩ: ngày hôm nay từ nhà
ngươi
sẽ không còn nảy sinh Giáo Hội nữa –
sẽ không còn nảy sinh dân tộc nghe lời rao
giảng
vì bị chịu hình phạt cả mình và máu;
Sẽ nảy sinh từ thanh kiếm, từ thanh kiếm
của ta
mà giữa lưng chừng thanh kiếm,
sẽ xé tan những lời nói nhà ngươi;
sẽ phun ra dòng máu tuôn đổ…
Có thể nhà vua đã nghĩ như thế.
Nhưng hơi thở vô hình của Thần Trí Chúa
sẽ cùng một lúc củng cố
lời rao giảng bị chặt đứt và thanh kiếm:
cột xương sống bị chặt đứt,
đôi bàn tay đẫm máu…
Ngài phán: cùng nhau từ đây trở đi
chúng con sẽ bước đi,
không gì sẽ có thể chia lìa các con!
Tôi muốn mô tả Giáo Hội của tôi mà trong
đó,
qua bao thế kỷ,
lời rao giảng và máu đào cùng nhau sánh
bước,
được hợp nhất bởi hơi thở vô hình của Thần
Trí Chúa.
6
Cỏ lẽ Satnislas đã nghĩ: lời nói của ta
sẽ cảm động nhà vua và sẽ hoán cải nhà vua;
ở trước cửa nhà thờ chính tòa,
nhà vua sẽ tới như hối nhân,
nhà vua sẽ tới, bị hao mòn vì chay trường,
bị xâu xé bởi chuỗi tiếng nói nội tâm…
Nhà vua sẽ tới gần bàn thánh Chúa,
như đứa con hoang đàng.
Lời rao giảng đã không cải hoán được,
Máu Đào sẽ hoán cải –
đối với vị giám mục,
có thể chưa kịp có thời giờ suy nghĩ:
hãy xa khỏi ta chén đắng nầy.
7
Trên mô đất tự do chúng ta thanh kiếm rơi
xuống,
trên mô đất tự do chúng ta máu đào đổ
xuống.
Trong hai điều đó, điều gì sẽ thắng thế?
Thế kỷ đầu đang hồi kết thúc
và thế kỷ thứ hai bắt đầu.
Hãy nắm VẬN MỆNH trong bàn tay chúng ta,
VẬN MỆNH của một thời điểm sẽ đến.
4.- Thánh địa
Đã từ lâu, tôi ôm ấp trong lòng điều ao ước
được thực hiện một cuộc hành hương trên những bước đường của tổ phụ
Abraham, bởi vì tôi đã đi hành hương nhiều nơi trên mọi phần đất thế
giới. Đức Phao-lồ VI đã đến Thánh Địa khi ngài khởi hành lần đầu tiên.
Tôi muốn thực hiện chuyến đi đó vào năm thánh
2000. Sẽ phải bắt đầu từ Ur ở Chaldée, trên phần đất Irak hiện nay mà từ đó,
đã rất nhiều thế kỷ, Thánh tổ phụ Abraham đã ra đi, đáp lại tiếng gọi của
Chúa (xem Sáng Thế Ký 12, 1-4).
Rồi tôi sẽ có thể tiếp tục đi đến Ai-cập, theo
những vết chân tổ phụ Môi-sen là đấng đã hướng dẫn dân Do-thái ra
khỏi miền đất đó và đã đến dưới chân núi Sinai để nhận lãnh Mười Điều Răn
như là nền tảng giao ước với Thiên Chúa.
Lúc bấy giờ tôi có thể thực hiện cuộc hành
hương của tôi ở Thánh Địa, bắt đầu từ nơi Truyền Tin. Rồi tôi đi đến
Bethléem là nơi Chúa Giêsu đã sinh ra, và ở những nơi gắn liền với
cuộc đời và sứ vụ của Ngài.
Nhưng cuộc hành trình của tôi đúng ra đã không
thực hiện được như tôi dự định. Tôi không thể thực hiện giai đoạn đầu, theo
những vết chân tổ phụ Araham. Chỉ đó là nơi độc nhất mà tôi không thể tới,
bởi vì chính quyền Irak không cho phép.
Vì vậy tôi tới Ur ở Chaldée bằng tâm
trí, trong một buổi lễ được tổ chức theo ý đó trong sảnh đường Phao-lồ VI.
Ngược lại, tôi đã đến được Ai-cập, ở chân núi Sinai, nơi mà Thiên
Chúa đã mạc khải Thánh Danh Ngài cho ông Môi-sen. Tôi đã được các đan sĩ
Chính Thống Giáo tiếp đón. Các thầy rất hiếu khách.
Kế đó tôi đến Bethléem, rồi Nazareth
và cuối cùng ở Jérusalem. Tôi đã đến Vườn Cây Dầu, rồi Nhà
Biệt Ly và dĩ nhiên là Núi Sọ ở Golgotha. Đó là lần thứ hai tôi
đi viếng Thánh Địa. Tôi đã đến đó lần đầu trong tư cách tổng giám mục
Cracovie, trong thời gian Công Đồng.
Ngày cuối cùng của cuộc hành hương năm thánh
2000, tôi đã dâng Thánh Lễ gần mộ Chúa Kitô, với vị quốc vụ khanh Tòa Thánh
là Đức Hồng Y Angelo Sodano và với những thành viên khác của phủ Quốc Vụ
Khanh.
Còn nói gì hơn nữa? Chuyến đi đó thật vĩ đại,
một kinh nghiệm lớn lao. Thời gian quan trọng nhất của suốt cuộc hành hương
chắc chắn là trạm dừng chân trên đỉnh Núi Sọ, đỉnh núi Chúa bị đóng
đinh và gần Ngôi Mộ Chúa cũng là nơi Ngài đã phục sinh. Những tâm tư của tôi
trào dâng trong xúc động, cũng như lần tôi thăm viếng Thánh Địa đầu tiên.
Lúc bấy giờ tôi đã viết:
“Hỡi nơi chốn, nơi chốn của Thánh Địa – đã
chiếm một chỗ như thế nào trong tôi! Do đó tôi không thể dẫm lên đất đó dưới
bàn chân tôi, tôi phải quì gối. Và như thế ngày nay chứng thật đất đó là nơi
gặp gỡ. Tôi quì xuống – và như thế tôi đã đóng ấn.
Đất đó sẽ tồn tại ở đây với dấu ấn của tôi
– đât đó sẽ tồn tại, sẽ tồn tại – và tôi sẽ mang đất đó theo tôi, tôi sẽ
biến đất đó ở trong tôi thành một nơi chứng tích mới. Tôi ra đi như một
chứng nhân để làm chứng tá qua nhiều thế kỷ.”
(Hành hương Thánh Địa - 3. “Những căn
tính”).
Nơi Cứu Rỗi! Không nói được nhiều hơn: “Tôi
sung sướng được đi tới đó.” Có điều gì hơn thế nữa: đó là dấu ấn của sự đau
khổ tột độ, dấu ấn của sự chết cứu độ, dấu ấn của sự Phục Sinh.
5.- Abraham và Chúa
Kitô: “Lạy Chúa, nầy Con đây, Con đến thực thi thánh ý Ngài.”
Đấng tổ phụ của đức tin và lòng can đảm từ
ngài tuôn ra phải thể hiện nơi mỗi người chúng ta điêu nầy là “vâng nghe
tiếng Chúa gọi và ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11,
8). Tác giả thư gởi giáo đơàn Do-thái đã viết những lời đó khi nói về ơn gọi
của tổ phụ Abraham, nhưng cũng liên hệ đến hết mọi ơn gọi của con
người, kể cả ơn gọi rất đặc biệt nhất được thể hiện trong sứ vụ giám mục:
lời kêu gọi được trở nên những người đầu tiên trong đức tin và đức ái.
Chúng ta đã được tuyển chọn và kêu gọi để
ra đi, và không phải chúng ta ấn định mục tiêu cho cuộc hành
trình. Chính Đấng đã truyền lệnh cho chúng ta ra đi, thực hiện điều đó:
Thiên Chúa thành tín, “Thiên Chúa của Giao Ước”.
Gần đây tôi đã trở về với khuôn mặt của tổ phụ
Abraham qua một bài suy niệm có tính cách thi ca. Tôi trích dẫn ra đây một
đoạn:
Thưa tổ phụ Araham –
Đấng đã đi vào trong lịch sử loài người,
chỉ mong ước qua ngài được tỏ lộ huyền
nhiệm
ẩn giấu từ khi vũ trụ được tạo thành,
huyền nhiệm đó còn xưa hơn cả vũ trụ!
Nếu hôm nay chúng ta đi tới những nơi đó,
mà xưa kia tổ phụ Abraham đã từ đó ra đi,
nơi ngài đã nghe Tiếng Chúa,
nơi đã thực hiện lời hứa,
chính là để người ta dừng chân nơi ngưỡng
cửa –
để tới được lúc khởi đầu của Giao Ước.”
(Ở
xứ của núi Moriyya)
Trong những suy niệm về ơn gọi giám mục mà tôi
trình bày hôm nay, tôi cũng muốn trở về với khuôn mặt Abraham là cha
chúng ta trong đức tin, và nhất là cuộc gặp gỡ của ngài với Chúa Kitô
Cứu Thế mà về thể xác, là “con cái Abraham” (xem Mt 1, 1),
nhưng đồng thời cũng hiện hữu “trước khi có Abraham, bởi vì Ngài Hằng Hữu”
(xem Gio 8, 58).
Từ cuộc gặp gỡ đó, ánh sáng chiếu giãi trên
huyền nhiệm ơn gọi chúng ta trong đức tin, và trên hết mọi trách nhiệm cùng
lòng can đảm cần thiết tương ứng.
Người ta có thể nói đó là một huyền nhiệm với
hai bộ mặt. Trước tiên là huyền nhiệm về những gì, nhờ ơn Chúa, đã xảy đến
trong lịch sử loài người. Và huyền nhiệm về tương lai, tức niềm hy vọng: đó
là huyền nhiệm về ngưỡng của, mà mỗi người trong chúng ta, căn cứ vào cũng
một ơn gọi, phải vượt qua và được nâng đỡ bởi đức tin, không thối lui trước
bất cứ điều gì, bởi vì biết mình đã đặt để niềm tin vào ai (xem 2Tm
1, 12).
Trong huyền nhiệm đó, được liên kết một cách
chặt chẽ, không thể phân cách, tất cả những gì đã xảy ra ngay từ ban đầu,
những gì đã đến từ trước khi tạo thành vũ trụ và những gì còn
phải đến về sau nữa.
Như thế đức tin, trách nhiệm và lòng can đảm
của mỗi người chúng ta được ghi khắc trong huyền nhiệm của sự thành tựu kế
hoạch Thiên Chúa. Đức tin, trách nhiệm và lòng can đảm của mỗi người trong
chúng ta xem ra cần thiết, bởi vì tặng phẩm của Chúa Kitô cho thế giới có
thể được biểu lộ một cách phong phú toàn diện.
Không những một đức tin được duy trì trong ký
ức di sản nguyên vẹn của những huyền nhiệm Thiên Chúa, mà còn là một đức tin
có can đảm mở ra và tỏ bày một cách luôn mới mẽ di sản đó trước những người
mà Chúa Kitô đã sai môn đệ của Ngài đến với họ.
Đó là một trách nhiệm không chỉ giới hạn trong
việc bảo toàn những gì đã được giao phó mà còn có can đảm đem hết khả năng
mình ra để tăng trưởng thêm lên (xem Mt 25, 14-30).
Khởi từ tổ phụ Abraham, đức tin của mỗi con
cái ngài bao gồm việc vượt thoát liên tục những gì thân thiết, những gì đặc
thù, những gì thân quen để mở ra tới một chân trời xa lạ, căn cứ vào chân lý
phổ quát và vào tương lai chung cho tất cả mọi người ở nơi Thiên Chúa.
Tất cả chúng ta được mời gọi tham gia vào tiến
trình vượt thoát khỏi phạm vi thường tình đó, phạm vi thân cận với chúng ta
nhất. Chúng ta được mời gọi hướng về Thiên Chúa ở nơi Chúa Giêsu Kitô là
Đấng đã vượt thoát chính mình, bằng cách “phá đổ bức tường ngăn cách là
sự thù ghét” (Ep 2, 14), để đem chúng ta về với Ngài bởi Thập
Giá.
Chúa Kitô muốn nói với chúng ta: trung tín
theo tiếng gọi Chúa Cha, con tim mở rộng với hết mọi người gặp
gỡ; hành trình mà trên đó không có được một nơi “gối đầu” (Mt
8, 20) và cuối cùng Thập Giá nhờ đó người ta đạt tới chiến thắng
của sự phục sinh.
Chính Chúa Kitô là Đấng can đảm đi về phía
trước và “không dừng lại” trước khi mọi việc được hoàn tất, trước khi
“lên cùng Cha của Ngài cũng là Cha của chúng ta nữa” (Gioan
20, 17), Đấng “vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi đến
muôn đời” (Dt 13, 8).
Do đó đức tin chính là sự kiện con người không
ngừng mở ra đối với sự kiện Thiên Chúa tuôn tràn không dứt trên thế giới
loài người. Đó là hành trình con người đi tới Thiên Chúa, một Thiên Chúa mà
về phần Ngài, đem những con người xích lại với nhau.
Lúc bấy giờ người ta đạt tới điều mà tất cả
những gì đặc thù đối với mỗi cá nhân trở nên đặc điểm chung cho mọi người và
những gì thuộc kẻ khác cùng một trật trở thành của tôi.
Chính đó là nội dung chứa đựng trong những lời
người cha nói với người con trưởng trong dụ ngôn “đứa con hoang đàng”: “Tất
cả những gì của cha đều là của con” (Lc 15, 31). Thật có ý nghĩa
khi chính những lời nói đó được lặp lại trong lời nguyện tư tế của Chúa
Giêsu như là những lời Chúa Con ngỏ với Chúa Cha: “Tất cả những gì của
Con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của Con” (Gio
17, 10).
Trong khi sắp xảy đến điều mà Ngài nhận biết
như là “giờ của Ngài” (xem Gio 7, 30; 8, 20; 13, 1), chính
Chúa Kitô đã nói về tổ phụ Abraham một cách thật ngạc nhiên biết bao đối với
những người nghe Ngài: “Ông Abraham là cha các ông đã hớn hở vui mầng vì
hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ” (Gio
8, 56).
Như vậy niềm vui của tổ phụ Abraham là gi?
Phải chăng ngài đã đoán thấy tình yêu và lòng dũng cảm mà “con ngài”
xét vế mặt xác thịt, là Chúa Giêsu và là Đấng Cứu Chuộc, phải đi “đến
cùng để thực thi ý Cha” (xem Dt 10, 7)?
Rõ ràng chính trong những biến cố của cuộc Khổ
Nạn Chúa Kitô mà chúng ta tìm thấy sự quy chiếu cảm động nhất về huyền nhiệm
tổ phụ Abraham, khi ngài được hỗ trợ bởi đức tin, đã rời bỏ quê hương và
trẩy đi xa đến một nơi vô định, và nhất là khi con tim bị khắc khoải giày
vò, ngài đã dẫn lên núi Moriyya, đứa con mình hằng bao năm trông đợi và
thương mến, để hiến tế như của lễ hy sinh.
Khi đến “giờ của Ngài”, Chúa Giêsu đã
nói với các môn đệ ở cùng Ngài trong vườn Giết-sê-ma-ni như thánh Phê-rô,
Thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan là những môn đệ được Ngài thương yêu cách đặc
biệt: “Đứng dậy! Ta đi nào!” (Mc 14, 42). Ngài không là kẻ duy
nhất phải “đi” để thực thi thánh ý Chúa Cha: các môn đệ cũng phải đi với
Ngài nữa.
Lời mời gọi đó – “Đứng dậy! Ta đi nào!”
– đã ngỏ một cách thật đặc biệt, với chúng ta là những giám mục, những bạn
hữu tiêu biểu nhất của Ngài. Cho dẫu những lời nói đó bao hàm một thời điểm
thử thách, một cố gắng phi thường, một thập giá đớn đau, chúng ta không được
để cho sự sợ hãi thắng thế. Đó là những lời nói cũng chất chứa niềm vui và
sự an bình là thành quả của đức tin.
Trong một trường hợp khác, cũng với ba môn đệ
đó, Chúa Giêsu đã mời gọi họ rõ ràng như sau: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!”
(Mt 17, 7). Tình yêu Thiên Chúa không chất chồng trên chúng ta những
gánh nặng chúng ta không thể vác nổi. Ngài không đòi hỏi chúng ta những điều
chúng ta không thể đương đầu. Khi Ngài đòi hỏi, Ngài ban cho sự hỗ trợ cần
thiết.
Khi nhắc lại điều đó, tôi muốn đề cập đến nơi
chốn mà tình yêu Chúa Kitô Đấng Cứu Thế đã đưa dẫn tôi, yêu cầu tôi đi khỏi
quê hương tôi để sinh hoa kết quả ở nơi khác, nhờ Ân Sủng của Ngài, một hoa
trái được tồn tại (xem Gio 15, 16).
Lặp lại những lời nói của Thầy Chí Thánh và
Chúa chúng ta, tôi cũng nói lại như vậy với mỗi người trong anh em, thưa Chư
Huynh đáng kính trong Giám Mục Đoàn: “Đứng dậy! Ta đi nào!” Chúng ta
hãy đi trong sự tín thác vào Chúa Kitô. Ngài đồng hành với chúng ta trên
cuộc lữ thứ trần gian, cho đến đích điểm mà chỉ một mình Ngài biết./.
+ Gioan Phaolo 2, PP