CHÚ THÍCH
BẢN DỊCH
NGHI THỨC THÁNH LỄ 1992
CỦA
UỶ BAN PHỤNG TỰ
NGHI THỨC THÁNH LỄ
trích từ
SÁCH LỄ RÔ-MA 1992
Bản dịch của Uỷ Ban Phụng Tự
Danh sách Uỷ Ban Phụng Tự năm 1992
Chủ tịch :
Đức cha Nguyễn Sơn Lâm
Tổng thư ký :
Lm. Trần Đình Tứ
Các thành viên : các linh mục
Hoàng Đắc Ánh Nguyễn Công Đoan
Kim Long Trần Văn Hiến Minh
Trần Phúc Nhân Nguyễn Hữu Phú
Đỗ Xuân Quế Nguyễn Ngọc Rao
Nguyễn Ngọc Sơn Trần Ngọc Thao
Trịnh Văn Thậm Nguyễn Ngọc Tỉnh
Phạm Quốc Tuý Hồ Văn Vui
Hồ Văn Xuân
Những người có tham gia ít nhiều rồi rút lui : Trịnh Hưng Kỷ, Nguyễn Ngọc Triêu, Trần Đức Huyên, Bùi Văn Đọc, Võ Đức Minh, Trần Ngọc Quỳnh.
Chú thích : Các tên in nghiêng là thành viên UBPT và cũng là thành viên của Nhóm Phiên Dịch CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ
Thư Tịch
MỤC LỤC
THƯ TỊCH .................................................................................. 4
I. NHẬP ĐỀ ................................................................................ 7
1. Phải cử hành Phụng Vụ bằng tiếng bản xứ ............. 7
2. Bản
dịch
Phụng
Vụ
hiện
hành
chỉ
là bản
văn
tạm
thời
.............................................. 7
3. Bao giờ mới có một bản dịch chính thức ?............... 11
II. PHẦN CHÚ THÍCH .............................................................. 14
A. Phần chung trong Thánh lễ .......................................... 14
1. Nghi thức đầu lễ ........................................................ 14
2. Phụng vụ Lời Chúa ................................................... 30
3. Phụng vụ Thánh Thể ................................................. 44
4. Nghi thức hiệp lễ ....................................................... 68
B. Các kinh Tạ Ơn .............................................................. 87
1. Bốn kinh Tạ Ơn chính thức ...................................... 90
Kinh Tạ Ơn I .............................................................. 90
Kinh Tạ Ơn II ............................................................. 100
Kinh Tạ Ơn III ............................................................ 105
Kinh Tạ Ơn IV ............................................................ 108
2.
Các kinh Tạ
Ơn
được
phép dùng
trong một
vài Giáo Hội
địa phương
.......................... 114
III. KẾT THÚC ........................................................................... 116
MỤC LỤC .................................................................................. 118
THƯ TỊCH
- Aland K., Black M., Martini C.M., Metzger B.M. và Wikgren A., The Greek New Testament (1985, UBS).
- Arndt W.F. và Gingrich F.W., A Greek-English Lexicon of the New Testament and Other Early Christian Literature (Cambridge 1963, At the University Press).
- Bailly A., Dictionnaire grec-francais (Paris 1950, Hachette).
- Biblia Hebraica Stuttgartensia (1968-1976).
- Blaise A., Dictionnaire latin-francais des auteurs chrétiens (Paris 1954).
- Botte B., – Mohrmann C., L’Ordinaire de la Messe (Paris – Louvain, 1953).
- Bùi Đức Tịnh, Văn phạm Việt Nam (Sài gòn 1966), Trung tâm Học liệu).
- Carmignac J., Recherches sur le Notre Père (Paris 1969, Letouzey).
- Các Giờ Kinh Phụng Vụ (CGKPV).
- Denzinger H., - Schonmetzer A., Enchiridion Symbolorum (Freiburg im Breisgau, 1963).
- Dupont J., và Bonnard P., Le Notre Père : Maison-Dieu 85 (Paris 1966, Cerf).
- Đào Duy Anh, Pháp-Việt từ điển (Paris 1952, Minh Tân) ; Hán-Việt từ điển (Sài gòn 1957, Trường Thi).
- Good News, (New York 1966, American Bible Society).
- Huấn thị Hội đồng thực thi Hiến chế Phụng Vụ : Huấn thị về việc phiên dịch các bản văn Phụng Vụ (ngày 25-01-1969).
- Jérémias J., Abba, Jésus et son Père (Paris 1972, Seuil) Paroles de Jésus : Lectio divina 38 (Paris 1963, Cerf).
- Jungmann J. A., Missarum sollemnia (Paris I/1956, II/1957, III/1958, Aubier).
- La Bible de Jérusalem (Paris 1973-1988, Cerf).
- La Bible en francais courant (Alliance Biblique Universelle, 1987).
- Lagrange M. J., Évangile selon Saint Luc (Paris 1936, Gabalda), Évangile selon Saint Jean (Paris 1936, Gabalda).
- La Maison-Dieu (LMB).
- Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, Từ điển Việt Nam, 2 quyển (Sài gòn 1970, Khai Trí) (Đức Trụ).
- Lê Văn Lý, Sơ thảo Ngữ pháp Việt Nam (Sài gòn 1972, Trung tâm học liệu).
- Maertens Th., Pour une meilleure intelligence du Canon de la messe (Brugess 1959).
- Martimort A. G., Introduction à la Liturgie (Paris 1965, Desclée).
- Metzger, A Textual Commentary on the Greek New Testament (London 1971, United Bible Societies).
- Missale Romanum (MR).
- Nghi Thức Thánh Lễ, song ngữ La-Việt (Sài gòn 1969, Uỷ Ban Giám Mục).
- Notitiae Commentarii ad nuntia et studia de re liturgica edenda cura Sacrae congregationis pro Cultu divino.
- Nova Vulgata, Bibliorum Sacrorum editio (Libreria editrice Vaticana 1979).
- Ordinaire de la Messe en 8 langues (Paris 1978, ISBN).
- Osty E., và Trinquet J., La Bible (Paris 1973, Seuil).
- Schurmann H., La Prière du Seigneur (Paris 1965, Orante).
- Septuaginta, Vetus Testamentum Graecum, Auctoritate Academiae Scientiarum Gottingensis editum (1931 và tiếp theo).
- The Greek New Testament (UBS 1985).
- The New English Bible (Oxford 1970, University Press).
- Traduction oecuménique de la Bible : Nouveau Testament / 1973, Ancien Testament / 1976 (Paris 1973/1976, Cerf).
- Từ điển Pháp-Việt (Hà Nội 1988, Nhà xuất bản khoa học xã hội) (TĐPV/HN).
- Từ điển Tiếng Việt (Hà Nội 1988, Nhà xuất bản khoa học xã hội) (TĐTV/HN).
- Từ điển Việt Nam, 2 quyển (Sài gòn 1970, Khai Trí) (Đức Trụ).
- Zerwich M., Analysis philologica Novi Testamenti graeci (Romae 1960, Institutum Biblicum).
I. Nhập đề
I. NHẬP ĐỀ
1. Phải cử hành Phụng Vụ bằng tiếng bản xứ
Phụng Vụ nhằm giúp con người thờ phượng, cầu xin Thiên Chúa và đồng thời, đem lại cho con người ơn cứu độ. Mà, trong các bí tích và nhất là bí tích Thánh Thể là thành phần trọng yếu của Phụng Vụ, làm sao con người có thể thờ phượng, cầu xin Thiên Chúa và lãnh nhận ơn cứu độ một cách ý thức và linh động, nếu không hiểu ý nghĩa mà Phụng Vụ muốn nói qua những cử chỉ và ngôn ngữ Phụng Vụ sử dụng ?
Chính vì thấy trước rằng tín hữu thuộc nhiều ngôn ngữ khác nhau đang sống tứ phương trên mặt đất, sẽ không hiểu tiếng La-tinh và chỉ hiểu tiếng bản xứ của mình, Giáo Hội đã nghĩ đến việc dùng tiếng bản xứ trong Phụng Vụ từ những thế kỷ xa xưa, nhất là tại Công Đồng Tren-tô (1545-1563) và đã giải quyết vấn đề đến nơi đến chốn tại Công Đồng Va-ti-ca-nô II (1962-1965). Chẳng hạn, để giúp đỡ các Giáo Hội địa phương giải quyết vấn đề phiên dịch, Giáo Hội Trung Ương đã cung cấp nhiều tài liệu, đặc biệt nhất là Huấn thị về việc phiên dịch các bản văn Phụng Vụ (ban hành ngày 25 tháng 01 năm 1969). Và cũng vì thế, từ những năm 1969, Giáo Hội Việt Nam đã xúc tiến công trình phiên dịch Các Sách Phụng Vụ sang tiếng Việt và xuất bản các sách đã được phiên dịch ấy, để mọi tín hữu Việt Nam nhờ hiểu mà tham dự các cử hành Phụng Vụ một cách ý thức và linh động hơn.
2. Bản dịch Phụng Vụ hiện hành chỉ là bản văn tạm thời
Một bản dịch lý tưởng là khi dịch giả không những chuyển ý nội dung nguyên văn, mà còn làm cho nội dung của dịch văn cũng tác động trên độc giả hoặc thính giả như xưa kia, nội dung của nguyên văn đã tác động. Muốn vậy, dịch giả ít ra phải có hai điều kiện cần thiết này : một là thấu hiểu nghĩa của nguyên văn ; hai là diễn tả nghĩa của nguyên văn sang dịch văn một cách đầy đủ về nội dung cũng như về tác động.
1) Thấu hiểu nghĩa của nguyên văn là một điều kiện cần thiết. Quả vậy, dịch giả phải thấu hiểu nghĩa nguyên văn. Mà ở đây, nguyên văn không phải là những sinh ngữ, như tiếng Pháp, Đức, Anh hoặc Tây-ban-nha : dầu là khó, những sinh ngữ này cũng còn có người đang nói như tiếng mẹ đẻ, để chúng ta hỏi, chúng ta bàn. Nhưng trong Phụng Vụ, đó là những tử ngữ, như tiếng Híp-ri cổ, A-ram, Hy-lạp và La-tinh, nghĩa là những ngôn ngữ mà ngày nay không ai còn nói như tiếng mẹ đẻ, để chúng ta hỏi, chúng ta bàn.
Do đó, dịch văn đôi khi không đúng với nguyên văn. Xin đan cử một thí dụ :
“Sanctus, Sanctus, Sanctus
Dominus Deus Sabaoth.”
Bản dịch hiện hành là :
“Thánh, Thánh, Thánh,
Chúa là Thiên Chúa các đạo binh.”
Thiết tưởng dịch như thế không được đúng lắm. Nói rõ hơn, câu này được rút ở Is 6,3. Theo văn mạch và văn phạm Híp-ri, ngôn sứ muốn nói và muốn nhấn mạnh sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa và, do đó, “Thiên Chúa các đạo binh” là đồng cách của từ “Chúa”, còn ba tính từ “Thánh, Thánh, Thánh” mới là thuộc từ của từ “Chúa”. Vì thế, phải dịch là :
“Thánh, Thánh, Thánh,
Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, là Đấng Thánh.”
2) Diễn tả nghĩa của nguyên văn sang dịch văn một cách đầy đủ về nội dung cũng như về tác động lại là một điều kiện khác không kém quan trọng. Sau khi nghe thánh Phê-rô giảng, khoảng 3000 người đau đớn trong lòng và chịu phép rửa (Cv 2,37-41). Đồng ý rằng rất khó có một bản dịch đạt được một kết quả như vậy. Tuy nhiên, nhiều khi bản dịch không đạt được kết quả là do dịch giả không nắm vững những yếu tố văn chương của dịch văn cũng như của nguyên văn. Xin đưa cũng câu Phụng Vụ nêu trên làm thí dụ.
Bản La-tinh là :
“Sanctus, Sanctus, Sanctus.”
Bản dịch hiện hành là :
“Thánh, Thánh, Thánh.”
Dịch như thế là sát chữ. Nhưng xét về ý, thì dịch như thế chưa đạt được mục tiêu của nguyên văn. Thật vậy, trong tiếng Híp-ri, lặp lại hai, ba lần là một cách diễn tả “cấp cao nhất tuyệt đối”. Ở đây, Is 6,3 viết : “Thánh, Thánh, Thánh.” Mà, trong ngôn ngữ Việt Nam, khi nghe “Thánh, Thánh, Thánh.” Độc giả không thấy gì là “cấp cao nhất tuyệt đối” cả, nếu chưa lầm tưởng rằng ngôn sứ lúng túng hoặc cà lăm. Nên phải dịch cách nào khác để truyền cảm cho độc giả. Chính vì thế, phải dịch : “Thánh, Thánh, thật là Thánh” hoặc ít ra, “Thánh, Thánh, Chí Thánh.”
Chính vì muốn bản dịch phải đem lại cho độc giả trọn vẹn kết quả của nguyên văn, mà Giáo Hội ước muốn Uỷ Ban Phiên Dịch Phụng Vụ có những người thành thạo trong các môn Thánh Kinh, Thần học, Phụng Vụ, Mục vụ, Ngữ học, Văn chương và Âm nhạc (tc Huấn thị, số 38).
Cũng chính vì thế, năm 1969, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vừa nhanh chóng ban hành một bản dịch Phụng Vụ tạm thời để đáp ứng nhu cầu cấp bách, lại vừa kiên trì xúc tiến một bản dịch Phụng Vụ chính thức thể theo đường hướng của Giáo Hội toàn cầu, để đáp ứng nhu cầu một cách tối đa.
Từ trên dưới 20 năm nay, Thánh lễ đã thay đổi cách thức : linh mục dâng lễ không còn quay lưng về phía giáo dân, linh mục và giáo dân đã cùng nhau chào chúc, hỏi thưa và cầu nguyện. Được như thế, phần lớn cũng là nhờ bản văn Thánh lễ đã được dịch từ tiếng La-tinh sang tiếng Việt : người giáo dân nghe, hiểu và đáp.
Tuy nhiên, bản dịch hiện hành chỉ là bản dịch tạm thời : trong lời nói đầu Sách Lễ Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh (xuất bản năm 1969), Uỷ Ban Giám Mục về Phụng Vụ đã nói rõ như vậy. Và cụ thể, bản dịch ấy còn mang nhiều khuyết điểm, vì đôi khi hàm hồ đến nguy hiểm : Lời nguyện hiệp lễ Chúa nhật XV Thường Niên, chẳng hạn :
“Lạy Chúa, chúng tôi đã lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, xin cho chúng tôi khi năng nhận lãnh nhiệm tích này, được thêm ơn cứu độ. Nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng tôi. A-men.”
Trong lời nguyện này,
- Đức Giê-su ở ngôi thứ ba : “Chúng tôi cầu xin Chúa, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng tôi.”
- Do đó, Chúa mà chúng ta trực tiếp cầu xin ở ngôi thứ hai, phải là Chúa Cha hoặc, cùng lắm là Chúa Thánh Thần, chứ nhất định không phải là Chúa Giê-su Ki-tô : “Lạy Chúa, chúng tôi đã lãnh nhận.”
- Nếu vậy, thì Mình và Máu chúng ta đã lãnh nhận, là Mình và Máu của Chúa Cha hoặc của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là của Đức Giê-su : “Lạy Chúa, chúng tôi đã lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa.”
Có lẽ, xưa nay, chúng ta đọc một đàng mà hiểu một ngả, nên mới không thấy chướng tai, cũng chẳng thấy lạc đạo. Nhưng, nếu bản văn phải hướng dẫn lòng trí tín hữu, thì tất nhiên phải hiệu đính bản dịch càng sớm càng tốt, nhất là những trường hợp sai nghĩa như trên không phải là ít : thử xem lời nguyện hiệp lễ Chúa nhật Thường Niên XII, XXVIII, v.v.).
Đó là chưa nói đến những khuyết điểm về văn chương :
- Mắt đọc “chúng tôi”, mà miệng phải đọc : “chúng con.”
- Sách Lễ Rô-ma xuất bản năm 1971, trang 789, cho ông An-rê làm anh ông Phê-rô, nhưng Sách Bài Đọc xuất bản năm 1973, trang 527, lại cho ông Phê-rô làm anh ông An-rê.
3. Bao giờ mới có một bản dịch chính thức ?
Vì những điều nói trên, cần phải cung cấp cho giáo dân một bản dịch Phụng Vụ tốt hơn, được thực hiện theo đường hướng Giáo Hội đã vạch ra và thích hợp với hoàn cảnh hơn. Thế nhưng, chừng nào ? Vì lẽ thức ăn thiêng liêng là một nhu cầu hằng ngày và cấp bách nên, xét chung, không còn lý do gì để trì hoãn. Ngày nay, chiến tranh đã chấm dứt, Giáo Hội Việt Nam không còn bị phân đôi, con người có thể hướng tới những gì tích cực hơn : ngoài vấn đề khoa học kỹ thuật và kinh tế, còn có vấn đề tôn giáo cho đời sống siêu việt con người. Đó là lý do tại sao Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã thiết lập Uỷ Ban Phụng Tự.
Đây là một uỷ ban mang tính tập thể trong mọi phương diện : thành viên, tư liệu, ngôn ngữ, cách thức, …
Về các thành viên
Uỷ Ban gồm 17 thành viên, chưa kể những thành việc thuộc các Giáo phận khác (như Đà-lạt, Đà Nẵng) không thường trú tại chỗ, nên không làm việc thường xuyên. Các thành viên của Uỷ ban được Đức Giám Mục Chủ Tịch Uỷ Ban Phụng Tự bổ nhiệm theo chuyên môn (Thánh Kinh, thần học, phụng vụ, mục vụ, ngữ học, văn chương và âm nhạc) như Huấn thị Thánh Bộ Phụng Tự đã chỉ dẫn ; và theo tuổi tác (già có, trẻ cũng có), theo Miền (Bắc, Trung, Nam), theo khả năng làm việc (tập thể và thường xuyên).
Về tư liệu
Uỷ Ban đã phiên dịch trực tiếp từ nguyên ngữ (Híp-ri, A-ram, Hy-lạp và La-tinh), dựa trên những tư liệu được xuất bản mới mẻ và khoa học mà Uỷ Ban có trong tay như :
- Về phần Cựu Ước Híp-ri : Biblia Hebraica Stuttgartensia (1968-1976) ;
- Về phần bản dịch Hy-lạp : Septuaginta Vetus Testamentum Graecum, Auctoritate Academiae scientiarum Gottingensis editum (1931 …).
- Về Tân Ước : Novum Testamentum Graece của Nestle-Aland (xuất bản lần thứ 26 năm 1979). The Greek New Testament của K. Aland, M. Black, v.v. (UBS 1985).
Hơn nữa, tuy phiên dịch trực tiếp từ nguyên ngữ, Uỷ Ban luôn luôn để ý đến những bản dịch Thánh Kinh danh tiếng khác : trước hết là Nova Vulgata (1979) được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II viết lời nói đầu (Tông hiến Scripturarum Thesaurus), thứ đến là La Sainte Bible de Jérusalem (1973/1988), La Bible của E. Osty (1973), Nouveau Testament và Ancien Testament (Traduction Oécuménique de la Bible 1973/1976) và các bản dịch Phụng Vụ của các Giáo Hội khác, như : Pháp, Đức, Anh, Ý, Tây-ban-nha, v.v.
Về ngôn ngữ
Uỷ Ban nhắm một ngôn ngữ thích hợp với đại chúng, nhưng luôn luôn xứng đáng với việc phượng thờ.
Về cách làm việc
Uỷ Ban làm việc theo lối tập thể. Lối tập thể được áp dụng đặc biệt trong hai điểm này. Thứ nhất, toàn thể cùng làm, nếu đó là những phần quan trọng, như nghi thức Thánh lễ. Thứ hai, toàn thể duyệt lại, nếu đó là những phần được giao cho tổ (trên dưới 5 người), nhất là khi có vấn đề. Dầu làm việc theo cách nào, tất cả thành viên đều tuân theo nguyên tắc tối thượng. “Thiểu số phục tùng đa số”, sau khi tranh luận kỹ càng. Hơn nữa, vì ý thức khả năng của mình và vì ước muốn mọi người đóng góp, Uỷ Ban đã xin Đức Giám Mục Chủ Tịch gửi bản thảo đến các Đức Giám Mục và xin các Uỷ Ban Phụng Tự Giáo phận tham gia ý kiến.
Để độc giả biết rõ tại sao phải thay đổi hoặc tại sao phải giữ nguyên, Uỷ Ban thấy cần phải trình bày cùng độc giả ít ra một đôi cách dịch quan trọng hoặc lạ tai.
Đó là lý do tại sao có tài liệu CHÚ THÍCH bản dịch NGHI THỨC THÁNH LỄ này.
II. Phần chú thích
II. PHẦN CHÚ THÍCH
Để độc giả theo dõi PHẦN CHÚ THÍCH dễ dàng, chúng tôi dùng sách “NGHI THỨC THÁNH LỄ” song ngữ La-Việt (Sài gòn 1969, Uỷ Ban về Phụng Vụ). Khi bàn đến một từ, chúng tôi có ghi hai số, số trước lấy lại số của sách, số sau chỉ hàng của từ trong số ấy.
A. Phần chung trong Thánh lễ
1. Nghi thức đầu lễ
2/6 “Nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.”
Bắt đầu Thánh lễ, chủ tế làm dấu thánh giá và đọc : “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.”
Đây là công thức hiện hành, dịch sang tiếng Việt một công thức tiếng La-tinh khá quen thuộc trong Thánh Kinh phổ thông : ở Mt 28,19 chẳng hạn, chúng ta đọc : Baptizantes eos in nomine Patris et Filii et Spiritus Sancti.
1) Về mặt chữ, thì dịch như thế là sát. Nhưng hỏi : theo Huấn thị 1969, thì dịch như thế đã tốt chưa ? Thưa chưa, vì những lý do sau đây :
a) Xét về ý nghĩa thần học. Đây là một công thức quan trọng tuyên xưng đức tin “Một Chúa Ba Ngôi” đã có từ Giáo Hội nguyên thuỷ (x. Mt 28,19 ; Didachè). Mà trong công thức Việt Nam hiện hành, niềm tin căn bản ấy chưa được diễn tả một cách rõ ràng : những từ “Cha” và “Con” hàm hồ, không nhất thiết chỉ Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con. Có lẽ vì thấy sự việc này mà cha ông chúng ta đã dịch kinh Gloria Patri et Filio et Spiritui Sancto là : “Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”, nghĩa là thêm hai từ “Đức” và “Chúa”. “Đức” là danh từ đặt trước danh từ chỉ thần thánh hoặc người có địa vị cao quý : Đức Cha, chẳng hạn. Còn “Chúa” là danh từ chỉ Đấng tạo thành trời đất.
b) Xét về ngôn ngữ Việt Nam. Công thức “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” lại càng hàm hồ, dễ hiểu sai, nhất là khi cử hành bí tích Rửa tội. Linh mục thường xưng mình là “cha” và kêu người mình nói chuyện với là “con”, khi đó là những người còn trẻ tuổi. Lúc cử hành bí tích Rửa tội, linh mục tay đổ nước lên đầu một người trẻ tuổi, miệng nói lên ý nghĩa cử chỉ mình làm, rằng : “Cha rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” Nếu tham dự nghi thức rửa tội đứa con mà nghe thấy như vậy, người cha mẹ ngoại giáo sẽ hiểu thế nào ? Theo họ hiểu, thì ông cha rửa tội đứa con mình, nhân danh chính ông cha và chính đứa con mình và nhân danh một vị thần thánh nào đó nữa. Vì thế, cần phải thêm từ “Chúa trước các từ “Cha”, “Con” và “Thánh Thần”.
2) Chúng tôi đề nghị thêm từ “Chúa” như vừa nói, nhưng chúng tôi không gạt bỏ từ “Và” liên kết các từ “Chúa Cha” và “Chúa Con”, như một số người đề nghị. Trong văn phạm La-tinh, cần phải có liên từ “Et” giữa những người, vật hay sự việc được kể, nếu chúng ta dùng liên từ ấy : Maria et flumina et montes (x. Petitmangin, Grammaire latine ‘Paris 1966, Gigord số 98’). Còn trong văn phạm Việt Nam, chúng ta dùng liên từ “Và” để liên kết từ chót với các từ được kể trước (x. Đức Trụ, Tự điển, từ “Và”) hoặc chúng ta cũng có thể bỏ đi (x. Lê Văn Lý, sơ thảo, số 228). Tuy nhiên, công thức La-tinh In nomine Patris et Filii mượn ở công thức Hy-lạp Thánh Kinh, ở Mt 28,19 chẳng hạn. Nhưng liên từ Hy-lạp “kai” mà tiếng La-tinh dịch là “Et” và tiếng Việt Nam dịch là “Và”, thật là phong phú, dùng để liên kết mà cũng dùng để phân biệt (x. F.M. Abel, Grammaire du Grec Biblique (Paris 1927, Gabalda, trang 340). Và theo ý nghĩa của công thức long trọng tuyên xưng một Chúa Ba Ngôi, thì đấy là trường hợp. Từ “Và” trong công thức “Nhân danh Chúa Cha và Chúa Con …” vừa liên kết lại vừa phân biệt Ba Ngôi với nhau. Từ “Và”, trong ngôn ngữ Việt Nam, cũng thế (x. Lê Văn Lý, số 228).
Nói tóm lại, Uỷ Ban đề nghị công thức dấu thánh giá như sau : “Nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. A-men.”
Lời chào đầu lễ
2/14 “Chúa ở cùng anh chị em.”
Lời chào đầu lễ có bốn mẫu. Trong bốn mẫu này, mẫu thứ ba đã tương đối ổn định. Đó là :
- Xướng : “Chúa ở cùng anh chị em.”
- Đáp : “Và ở cùng cha.”
Còn ba mẫu kia cần phải duyệt lại vì những lý do sau đây :
1) Trong cách chào chúc, người Việt Nam chúng ta thường đề danh người được chúc trước, rồi nói lên điều mình chúc sau : “Chúc anh được muôn điều tốt đẹp”, chứ ít khi nói : “Chúc muôn điều tốt đẹp cho anh.” Nói tóm lại, chúng ta không nói : “Chúc sức khoẻ cho anh chị em”, nhưng chúng ta nói : “Chúc anh chị em được mạnh khoẻ.”
2) Hơn nữa, thường chủ từ của động từ “Ở” là một người hay một vật, chứ ít khi là một sự, một tính. Mà trong lời chào đầu lễ này, những “ân sủng, tình thương và ơn thông hiệp” không phải là người, cũng không phải là vật. Vì thế, thay vì “Nguyện ân sủng và bình an của Thiên Chúa… ở cùng anh chị em”, Uỷ Ban xin dịch là : “Xin Thiên Chúa ban cho anh chị em được đầy ân sủng và bình an.”
3) Trong công thức 1 và 3, chúng tôi thêm từ “đầy” tuy nguyên ngữ La-tinh không có. Lý do thuộc loại ngôn ngữ, vì ai cũng ước muốn lời cầu chúc được thể hiện một cách tối đa, đầy tràn. Thêm như vậy không làm hại ý nghĩa nguyên văn, mà còn làm ý nghĩa được sáng tỏ và phù hợp với ngôn ngữ và tâm lý con người.
4) Khi đã sửa lại hai câu xướng, thì tất nhiên phải sửa lại hai câu đáp cho xướng đáp ăn khớp với nhau.
Vì những lý do ấy, Uỷ ban xin đề nghị những kiểu nói khác, để lời chào đầu lễ được dễ hiểu, xuôi tai hơn. Đó là :
“Cầu chúc toàn thể anh chị em được đầy ân sủng.
Xin cũng cầu chúc cha như vậy.”
“Xin Thiên Chúa ban cho anh chị em được đầy ân sủng.
Chúc tụng Thiên Chúa, là Cha Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.”
Các mẫu kinh sám hối
1/ Công thức thứ nhất
3/5 “Thành tâm sám hối.”
Nguyên văn La-tinh không nói rõ ý tưởng này. Nhưng Uỷ Ban thấy cũng nên thêm vào. Quả vậy, muốn “xứng đáng cử hành Thánh lễ”, chúng ta phải đẹp lòng Thiên Chúa. Nhưng muốn đẹp lòng Thiên Chúa, con người tội lỗi phải nhìn nhận tội lỗi, còn phải ăn năn sám hối và quyết tâm trở lại. Vì thế, thiết tưởng nên thêm những từ “thành tâm sám hối”, để nhắc nhở mọi người tham dự Thánh lễ.
3/6 “Cử hành Thánh lễ.”
Bản La-tinh là : ad sacra mysteria celebranda. Bản Việt Nam là : “Để cử hành mầu nhiệm thánh.”
Cử hành là tiến hành một cách trang nghiêm. Mầu nhiệm là một tính từ, có nghĩa là “tài tình đến mức không thể hiểu được bằng lẽ thường.” Trong ngôn ngữ Ki-tô giáo, “mầu nhiệm” được coi như là một danh từ (hiểu ngầm : “phép”, “phép mầu nhiệm”). Ví dụ : “Đây là mầu nhiệm đức tin.”
Nhưng đã là mầu nhiệm, thì làm sao cử hành được ? Đàng khác, trong ngôn ngữ La-tinh Phụng Vụ, thành ngữ sacra mysteria cũng có nghĩa là “Thánh lễ” (Blaise, Dictionnaire, từ Mysterium). Do đó, bản dịch phụng vụ các nước đã dịch rõ theo ý nghĩa ấy : “Eucharistie” (Pháp, Hà-lan), “das Gedašchtnis des Herrn” (Đức).
Vì những lý do ấy, Uỷ Ban đề nghị dịch là : “Cử hành Thánh lễ” trong bản văn Thánh lễ.
3/10 “thiếu sót bổn phận.”
Bản La-tinh là : omissione. Bản Việt Nam là : “Những điều thiếu sót.”
Muốn nói rõ ý nghĩa của từ La-tinh này, thì phải dịch là : “Thiếu sót bổn phận”, “không làm điều phải làm”, vì bỏ qua bổn phận và không làm điều phải làm mới là tội.
Vì thế, xin đề nghị dịch là : “Và thiếu sót bổn phận.”
3/21 “sự sống muôn đời.”
Bản La-tinh là : vita aeterna. Bản Việt Nam là : “cõi trường sinh.”
Vita eaterna không phải chỉ là sống với Thiên Chúa ở một nơi nào đó trong tương lai, mà còn là sống với Thiên Chúa khắp nơi ngay bây giờ, khi chúng ta tin vào Thiên Chúa (x. Ga 5,24). Nhưng cụm từ “cõi trường sinh” dễ bị hiểu lầm, vì từ “cõi”, trong ngôn ngữ Việt Nam, có nghĩa là “vùng đất, khoảng rộng.”
Vì thế, xin đề nghị : “sự sống muôn đời.”
4/3 “Lạy Chúa.”
Bản La-tinh là : Kyrie.
Kyrie eleison là công thức Hy-lạp, nhưng được giữ nguyên trong ngôn ngữ Phụng Vụ La-tinh. Công thức này thường gặp trong các sách Tin Mừng, những người hữu sự thường dùng để kêu xin Đức Giê-su thương xót (x. Mt 20,30.31 ; 17,15).
Kyrie là danh từ Hy-lạp, Christe là danh từ La-tinh, nhưng gốc Hy-lạp. Kyrie và Christe ở hô cách, để trình thưa, kêu gọi. Không có lý do gì mà không phiên dịch rõ ràng hai danh từ này.
Vì thế, xin đề nghị dịch là :
- “Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.”
- “Lạy Chúa Ki-tô, xin thương xót chúng con.”
2/ Công thức thứ hai. (Phần phụ lục, trang 154).
Kinh nghiệm cho thấy khi chủ tế xướng : “Lạy Chúa, xin thương xót chúng con”, cộng đoàn đáp, người thì : “Vì chúng con đã xúc phạm đến Chúa”, người lại : “Xin thương xót chúng con” như công thức thứ nhất. Để tránh trường hợp lộn xộn ấy, chúng ta nên đổi thứ tự : chủ tế đọc câu của cộng đoàn và ngược lại. Nếu vậy, công thức thứ hai sẽ bắt đầu như sau ;
- Chủ tế : “Lạy Chúa, chúng con đã phạm tội làm mất lòng Chúa”.
- Cộng đoàn : “Xin thương xót chúng con.”
Làm như thế chưa phải là thêm bớt, cũng chưa phải là sáng tác, dù ở đây, Phụng Vụ cho phép dùng những hình thức khác (xem Nghi Thức Thánh Lễ 1969, trang 156), miễn là phù hợp với mùa Phụng Vụ hoặc buổi cử hành.
3/ Công thức thứ ba (Phần phụ lục, trang 156)
1) “Lạy Chúa Giê-su.”
Câu La-tinh bắt đầu thế này : Qui missus es (“Đấng được sai đến” ở ngôi thứ hai) và bản Việt Nam dịch sát chữ là : “Chúa đã được sai đến” mà không có tiếng thưa trình, nghe ngắn gọn đến cụt ngủn. Vả lại, trong các lời nguyện Thánh lễ, từ “Chúa” thường dùng để chỉ Chúa Cha, trong lời nguyện Thánh lễ Đức Giê-su biến hình chẳng hạn : “Lạy Chúa, trong ngày biến hình vinh quang của Con Một Chúa”. Đàng khác, khi đọc ba câu xướng kêu cầu (“Chúa đã được sai đến”, “Chúa đã đến trần gian” và “Chúa đang ngự bên hữu Chúa Cha”), chúng ta thấy rằng Đấng chúng ta đang kêu cầu trong ba câu xướng này không phải là Chúa Cha, mà là Chúa Giê-su. Vì những lẽ ấy, Uỷ Ban thêm lời xưng danh Đức Giê-su ở hô cách : “Lạy Chúa Giê-su”, nghĩa là thêm từ “Giê-su”, để lời cầu xin được trang trọng và rõ nghĩa hơn.
2) “để chuyển cầu.”
Trong câu xướng thứ ba, có từ ad interpellandum. Ở đây, interpellare có nghĩa là “tha thiết cầu xin”. Trước khi dâng Thánh lễ mà xin Đức Giê-su “tha thiết cầu xin” cho chúng ta, tức là xin Người đóng vai trò Tư Tế (Dt 5,1-4) và Trung Gian (Dt 9,15 ; 12,24 ; 7,25 và x. TOB/NT, trang 683, chú thích p và r). Nếu vậy thì từ “chuyển cầu” diễn tả đầy đủ ý nghĩa hơn từ “cầu bầu”, nhờ từ “chuyển” (truyền đi, đưa đi).
Kinh Vinh Danh
Đây là một Thánh Thi đã có từ Giáo Hội nguyên thuỷ và bản dịch La-tinh hiện hành đã có ít là từ thế kỷ VII (xem Martimort, trang 344). Vì lý do cổ xưa và văn thể, kinh này có nhiều cách nói khó hiểu.
5/3 “Loài người Chúa thương.”
Bản dịch La-tinh là hominibus bonae voluntatis. Muốn sát chữ, bản văn Việt Nam đã dịch là “người thiện tâm”, người có ý muốn tốt.
Nhưng đó không phải là ý nghĩa của nguyên văn. Thật vậy, câu “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Và bình an dưới thế cho người thiện tâm” dịch câu La-tinh : Gloria in excelsis Deo. Et in terra pax hominibus bonae voluntatis. Mà câu này rút ở bản dịch Phổ thông Lc 2,14. Vì thế, phải xem trong nguyên văn Hy-lạp Lc 2,14 hai từ mà bản Phổ thông dịch là người (hominibus) và thiện tâm (bonae voluntatis) có nghĩa gì.
1) “Thiện tâm.”
Trong Lc 2,14 từ La-tinh bonae voluntatis dịch từ Hy-lạp êuđôkia. Mà trong Thánh Kinh, hai từ êuđôkia và êuđôkêin thường được dùng để nói lên đặc ân, lòng tốt của Thiên Chúa đối với kẻ được Người tuyển chọn. Nên anthropôi êuđôkias là những người được Thiên Chúa thương yêu giáng phúc (x. A. Plummer, St. Luke7 (Edinburg, 1960) 57 ; M. Zerwick, Analysis philologica Novi Testamenti Graeci (Romae 1960, Institutum Biblicum) 134). Vì thế mà Bible de Jérusalem (1948-1988) dịch là “hommes, ooàets de la divine complaisance” ; cha E. Osty dịch là : hommes qui ont la faveur divine” và còn phê phán bản dịch La-tinh rằng : “La traduction de la Vulgate (Pax hominibus bonae voluntatis) ne convient ni à l’expression ni au contexte” (La Bible, 1973, Seuil 2205). Các bản dịch ngày nay, hầu hết, đều theo nghĩa ấy :
- Pháp : “aux hommes qu’il aime”,
- Anh : “to his people on earth”,
- Đức : “den Menschen seiner Gnabe”,
- Tây-ban-nha : “a los hombres que ama el Senõor.”
- ……………..
2) “Người thiện tâm.”
Từ “người” dịch từ La-tinh “hominibus” và từ Hy-lạp “anthropôis”. Thành ngữ “anthropôi êuđôkias” hoặc nói đúng hơn, thành ngữ tương đương với thành ngữ ấy cũng gặp trong các bản văn Cum-ran (JBC/NT, 125) và có nghĩa là “những người được Thiên Chúa ưu đãi”. Nhưng, trong sách Tin Mừng theo thánh Lu-ca (là tác giả đã viết ra những câu này) cũng như trong toàn bộ Tân Ước, thành ngữ ấy có nghĩa là “Thiên Chúa tặng ban ân sủng và bình an cho mọi người, cho toàn thể nhân loại”, như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm và thánh Lu-ca đã thấy đúng, rằng : “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (Lc 3,6 ; x. Is 40,6).
Nếu vậy thì dịch “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” chưa ổn : bình an chính thức và siêu nhiên không do thiện tâm con người mà có, nhưng do tình thương Thiên Chúa ban tặng mà bằng chứng là Ngôi Lời đã làm người (Ga 1,14), sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ (Lc 2,12) và sống giữa loài người chúng ta (Ga 1,14).
Vả lại, dịch “Bình an dưới thế cho người Chúa thương” cũng chưa ổn, vì hàm hồ : câu ấy có nghĩa là có những người Thiên Chúa không thương và do đó, không được cứu độ và bình an.
Vì thế, sau hết, phải dịch là : “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”
3) “thương.”
Nhân dịp, cũng nên lưu ý đến từ “thương”. Trong các từ liên quan đến tình cảm, có lẽ từ “thương” là hợp hơn cả khi nói đến tình thương của Thiên Chúa đối với loài người. Theo tự điển tiếng Việt (KHXH/HN, 1988), thì “thương” là có tình cảm yêu mến, mà có quý trọng và thường tỏ ra quan tâm săn sóc : “Cha thương con.”
5/10 “Lạy Chúa Cha toàn năng.”
Trong một câu tiếng Việt mà có một từ ở hô cách, gọi là “hô khởi từ” (Thưa Bà !), ngôn ngữ Việt Nam thường đặt hô khởi từ ấy trước hết. Ví dụ, chúng ta nói : “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi”, chứ không nói như nguyên văn Hy-lạp : “Chuyện đó can gì đến bà và tôi, thưa bà ?” (Ga 2,4).
Nếu vậy, ở đây, phải đặt : “Lạy Chúa Cha toàn năng” trước những câu : “Chúng con ca ngợi, chúc tụng, thờ lạy, tôn vinh và cảm tạ Chúa.”
5/9 “ngự trên trời.”
Bản La-tinh là : Rex caelestis. Bản Việt Nam là : “Là Vua trên trời.” Uỷ Ban xin thêm từ “ngự” vì những lý do sau đây :
1) Thiên Chúa không phải chỉ “là Vua trên trời”, mà Người còn là Vua dưới đất. Chỉ có điều là nơi Người ở, theo quan niệm bình dân và dễ hiểu, phải là nơi cao cả. Nhưng đối với họ, có nơi nào cao cả hơn trời ? Cũng vì quan niệm như thế mà tác giả Thánh vịnh 32(33),13 đã viết :
“Từ trời cao, nhìn xuống,
Chúa thấy hết mọi người ;
Từ thiên cung Chúa ngự,
Chúa dõi theo người thế.”
2) Ngoài vấn đề trong sáng của tiếng Việt, còn có vấn đề trang trọng của Phụng Vụ. Thiên Chúa là Vua. Mà không ai nói : “Vua ngồi”. Vua thì phải ngự, nghĩa là ngồi trên cao. Ở đây, phải nói : Thiên Chúa ngự trên trời.
3) Sau nữa, còn có vấn đề âm điệu, từ “ngự” với bậc trầm giọng khứ, chen vào bốn từ thuộc giọng bình (hai bậc ngang, hai bậc huyền) : “Là vua trên trời” cũng làm cho giọng câu kinh thay đổi, phong phú hơn.
5/8 “Bởi vì Chúa vinh hiển vô biên.”
Bản La-tinh là : propter magnam gloriam tuam. Bản Việt Nam là : “Chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả Chúa.”
Có người cho bản dịch này khó hiểu : không thấy tại sao Thiên Chúa vinh quang mà chúng ta phải cảm tạ. Tuy nhiên, trước hết, từ “vinh quang” làm túc từ cho bốn động từ của bốn mệnh đề trên (“ca ngợi, chúc tụng, thờ lạy và tôn vinh”) nữa. Vì thế, câu kinh sẽ bớt khó hiểu, khi chúng ta đọc : “Chúng tôi ca ngợi Chúa vì vinh quang cao cả Chúa”. Hơn nữa, chúng ta cũng cảm tạ Chúa, vì vinh quang cao cả mà Người đã ban cho Đức Giê-su trước khi tạo thành trời đất (Ga 17,14) và đã tỏ bày cho chúng ta thấy trên gương mặt (2 Cr 4,6) cũng như trong đời sống của Đức Giê-su, Con Một của Người (Ga 1,14).
Chỉ có điều là câu văn “vinh quang cao cả Chúa” không cụ thể, không dễ hiểu cho bằng câu : “Chúa vinh hiển vô biên.” Vì thế, chúng tôi đề nghị câu này.
5/11 “Lạy Chúa Giê-su Ki-tô.”
Ở đây, cũng như ở những từ “Lạy Chúa Cha toàn năng”, vừa gặp, thiết tưởng nên đem những từ “Lạy Chúa Giê-su Ki-tô” lên đầu câu, vì đó là những danh từ ở hô cách.
5/13 “xoá bỏ tội trần gian.”
Bản La-tinh là : Qui tollis peccata mundi. Bản dịch Việt Nam là : “Chúa xoá tội trần gian.”
Có người đề nghị dịch là : “Chúa mang lấy (hoặc) gánh lấy tội trần gian” thay vì “xoá tội trần gian.” Nhưng chúng ta phải trở lại nguyên văn. Câu “Qui tollis peccata mundi” được rút từ Ga 1,29 : Ecce Agnus Dei, ecce qui tollit peccatum mundi, và động từ La-tinh tollit của bản Phổ thông dịch động từ Hy-lạp airêin của nguyên văn. Thực ra động từ airêin có thể có nghĩa là “nâng lên, mang lấy, cất đi.” Nhưng, trong các tác phẩm của thánh Gio-an, động từ airêin này thường có nghĩa sau hết là “cất đi, vứt đi” (x. 1 Ga 3,5). Cha M. J. Lagrange viết : “Le sens de airo n’est pas douteux : c’est enlever et non prendre sur soi” M. J. Lagrange, Évangile selon Saint Jean, xuất bản lần VI (Paris 1936, Gabalda trang 40). Hầu hết các bản dịch ngày nay đều hiểu theo nghĩa ấy. Ví dụ :
- Nova Vulgata : “qui tollit peccatum mundi”,
- Bible de Jérusalem, E. Osty, La Bible en français courant, TOB/NT “qui enlève le péché du monde”, (x. TOB/NT, 293, chú thích j),
- New English Bible, Good News : “who takes away the sin of the world.” Và các bản dịch Phụng Vụ cũng hiểu theo nghĩa ấy. Ví dụ :
- Pháp : “qui enlèves le péché du monde”,
- Anh : “you take away the sin of the world”,
- Ý : “Tu che togli i peccati del mondo”.
5/14 “khẩn cầu.”
Bản La-tinh là deprecationem. Bản Việt Nam là “cầu khẩn”. Chúng tôi đề nghị là “khẩn cầu”.
Thực thì “cầu khẩn” và “khẩn cầu” cũng như nhau, nếu xét về ý nghĩa. Nhưng, xét về âm thanh, một câu kết với bậc trầm giọng bình (“cầu”) đơn giản hơn, dễ phổ nhạc hơn một câu kết với bậc bổng giọng thượng (“khẩn”) (xem Lê Văn Lý, Sơ thảo, trang 22-23).
5/16 “Thật.”
Bản La-tinh là : Quoniam mà bản Việt Nam dịch là “vì”. Xét về ý nghĩa của từ, dịch như vậy là đúng. Nhưng xét về văn pháp, thì câu văn không được chỉnh. “Vì” là liên từ phụ thuộc, liên kết một mệnh đề phụ vào một mệnh đề chính. Mà chúng ta chấm câu sau “xin thương xót chúng con”. Nên mệnh đề phụ do liên từ “vì” chi phối, không có mệnh đề chính.
Vậy, thay vì liên từ “vì”, chúng ta có thể dùng trạng từ “thật”, có nghĩa tương đương với liên từ “vì”, nghĩa là vừa khẳng định Đức Giê-su là Đấng Thánh, là Đức Chúa và là Đấng Tối Cao, lại vừa nói lên lý do tại sao chúng ta khẩn cầu Người thương xót. Ví dụ : “Anh ấy sẽ thi đậu. Thật, anh ấy giỏi lắm.”
5/16 “(Chỉ có Chúa là) Đức Chúa.”
Bản La-tinh là : Quoniam Tu solus Dominus. Bản dịch là : “Chỉ có Chúa là Chúa.” Dịch như thế chưa được tốt lắm về mặt ngôn ngữ cũng như về mặt thần học.
- Về mặt ngôn ngữ. Trong La ngữ, Tu là đại từ, chỉ ngôi thứ hai, ở số ít, có nghĩa là : ngài, anh, chị, ngươi, mày, v.v. Dominus là danh từ chung, có nghĩa là Chúa. Trong Việt ngữ, chúng ta dịch Dominus là Chúa, mà Tu chúng ta cũng dịch là Chúa. Nên bản dịch Việt Nam không làm nổi bật sự khác biệt của hai từ “Chúa” về ý nghĩa. Nói cách khác, chúng ta nói “Chỉ có Chúa là Chúa” thì cũng y như chúng ta nói : “Chỉ có ngài là ngài.”
- Về mặt thần học. Tu solus Dominus là công thức tuyên xưng đức tin : từ Dominus, ở đây phải được hiểu như ở Cv 2,36. Theo bản văn này, thánh Phê-rô nói : Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Kuriôs. Ở Cv 2,36 từ Hy-lạp Kuriôs mà bản Phổ thông dịch là Dominus, có nghĩa là Thiên Chúa, ngang hàng với Chúa Cha (Cv 2,36 ; Pl 2,6 ; xem TOB/NT 367, chú thích s ; 590, chú thích n, o và y) : từ Gia-vê (Đức Chúa) trong bản Híp-ri đã được dịch là Kuriôs trong bản Hy-lạp và là Dominus trong bản Phổ thông. Nên Kuriôs là Đức Chúa vậy.
Nói tóm lại, để phân biệt từ “Chúa” đại từ với từ “Chúa” danh từ và để làm nổi bật ý nghĩa của từ “Dominus” trong công thức tuyên xưng, Uỷ Ban đề nghị thêm từ “Đức” trước từ “Chúa” thứ hai. Và như vậy, công thức tuyên xưng sẽ là : “Chỉ có Chúa là Đức Chúa.”
5/18 “Chúa muôn đời vinh hiển với Chúa Cha.”
Bản La-tinh là : in gloria Dei Patris. Bản Việt Nam là : “Trong vinh quang Đức Chúa Cha.”
Dịch như thế là sát chữ, nhưng câu văn hơi khó hiểu. Vả lại, từ “in” là một giới từ thường chỉ nơi. Do đó, cách nói : “Trong vinh quang Đức Chúa Cha” dễ bị độc giả hình dung là một nơi hữu hình nào đó. Để câu văn được trong sáng, chúng ta thử phân tách trước khi phiên dịch.
1) Trước hết, phải nói về ý nghĩa của câu : Iesu Christe, cum Sancto Spiritu, in gloria Dei Patris. Đây là một vinh tụng ca về Chúa Ba Ngôi : đầu tiên, tác giả ca tụng Chúa Cha, rồi ca tụng Chúa Con và liên kết Chúa Con vào Chúa Cha, khẳng định vị trí thần linh của Đức Giê-su Ki-tô theo Cv 2,36 và gạt bỏ lạc giáo A-ri-ô. Sau đó, bản dịch La-tinh thêm “Thánh Thần” vào, làm nổi bật tín điều Ba Ngôi (xem B. Capelle, Le texte du Gloria in excelsis Deo, trong Revue d’histoire ecclésiastique, Louvain 1949, trang 439-457).
2) Trong Thánh Thi Gloria in excelsis Deo, có đến ba chữ gloria, và cả ba đều nói về gloria của Chúa Cha Gloria Deo, gloriam tuam và gloria Dei Patris. Có người đề nghị chữ gloria La-tinh bằng một chữ Việt Nam trong cả ba đoạn văn. Tuy nhiên, trong Phụng Vụ, vấn đề trong sáng quan trọng hơn vấn đề “nhất lãm”. Nên phải tuỳ chỗ mà dùng chữ.
3) Trong Thánh Thi Gloria in excelsis Deo, chúng ta dịch từ Gloria thứ nhất là “vinh danh”, từ Gloria thứ hai là “vinh hiển” coi như một tính từ, thêm nghĩa cho danh từ “Chúa”. Sau hết, vì ý nghĩa của từ Gloria thứ hai và Gloria thứ ba giống nhau, Uỷ Ban đề nghị dịch từ Gloria thứ ba như đã dịch từ “Gloria” thứ hai là “vinh hiển”. Như thế, câu kinh sẽ là : “Chúa muôn đời vinh hiển với Chúa Cha” thay vì “trong vinh quang Đức Chúa Cha.”
4) “Muôn đời”. Từ “muôn đời” không có từ tương đương trong bản La-tinh, nhưng được thêm vào để minh nhiên hoá một công thức thường gặp trong Tân Ước, nhất là trong những đoạn văn Phụng Vụ và vinh tụng ca (Pl 4,20 ; 2 Tm 4,8 ; Rm 11,36 ; v.v.). Đàng khác, hai từ “muôn đời” sẽ làm cho câu kinh có được một từ ở bậc trầm giọng bình, tức là thanh “huyền”, nhờ đó âm điệu câu kinh, khi đọc lớn tiếng, sẽ lên xuống, bớt chói tai.
Lời nguyện nhập lễ
6/1
1) Mở đầu.
Bản La-tinh là Oremus. Bản Việt Nam là : “Chúng ta hãy cầu nguyện.” Dịch như thế thật là sát nghĩa, sát chữ, lại còn phong phú về âm thanh : mỗi chữ một thanh khác nhau (chỉ còn thiếu có thanh “hỏi”).
Để lời mời gọi khỏi nhàm tai vì độc nhất, các bản văn Phụng Vụ nước ngoài đã đề nghị rất nhiều kiểu khác. Ở đây, chúng tôi xin đề nghị thêm một lời mời gọi mà thôi. Đó là : “Chúng ta dâng lời cầu nguyện.”
2) Kết thúc.
Trong nguyên văn La-tinh, lời nguyện nhập lễ kết thúc thế này : Per Dominum nostrum Iesum Christum Filium tuum, qui tecum vivit et regnat in unitate Spiritus Sancti, Deus, per omnia saecula saeculorum. Amen. Bản Việt Nam là : “Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Con Chúa, Chúa chúng con, là Thiên Chúa hằng sống hằng trị cùng Chúa làm một với Chúa Thánh Thần muôn đời. A-men.”
Đây là một trong những câu văn Phụng Vụ phức tạp về ý nghĩa cũng như về văn phạm. Trước khi dịch, chúng ta thử phân tích.
a) “Nhờ Đức Giê-su Ki-tô.”
Bản La-tinh là : Per … Iesum Christum. Bản Việt Nam là : “Nhờ Đức Giê-su Ki-tô.”
Theo lẽ thường, danh từ Iesum Christum làm túc từ cho động từ nào đó trong câu. Tuy nhiên, theo các nhà Phụng Vụ, thì danh từ ấy làm túc từ cho động từ “rogamus” (chúng con cầu xin) được hiểu ngầm : dâng lên Chúa Cha qua trung gian Đức Ki-tô (Dt 7,25) là một cách cầu xin thường gặp trong Thánh lễ Rô-ma, như trong đầu Kinh Tạ Ơn I, chẳng hạn : Te igitur, clementissime Pater, per Iesum Christum, Filium tuum, Dominum nostrum, supplices rogamus ac petimus (Lạy Cha rất nhân từ, nhờ Đức Giê-su Ki-tô là Con Cha và là Chúa chúng con, cúi xin Cha đón nhận …”) (Jungmann II, 143 ; Martimort, 145).
b) “Con Chúa, Chúa chúng con.”
Bản La-tinh là : Dominum nostrum, Filium tuum. Bản Việt Nam là : “Con Chúa, Chúa chúng con.”
“Con Chúa” và “Chúa chúng con” là hai đồng vị ngữ : Đức Giê-su là Chúa chúng con và cũng là Con Chúa.
c) “Người hằng sống.”
Bản La-tinh là : qui vivit. Bản Việt Nam là : “(là Thiên Chúa) hằng sống.”
Đây là chỗ phải lưu ý. Cũng như hai đồng vị ngữ ở trên, mệnh đề quan hệ này nói về Đức Giê-su, khẳng định rằng Đức Giê-su hằng sống hiển trị.
d) “Là Thiên Chúa.”
Bản La-tinh là : Deus. Bản Việt Nam là : “Là Thiên Chúa (hằng sống).”
Theo lịch sử bản văn thì, lúc đầu, câu kết phụng vụ Rô-ma không có từ Deus ; hơn nữa, thời tiền Trung cổ, từ ấy cũng chưa có một chỗ đứng cố định. Vả lại, theo Jungmann, có thêm từ Deus thì tốt, nhưng không thêm cũng chẳng mất mát nhiều, vì ý nghĩa mà từ ấy khẳng định, đã được khẳng định trong từ Filium tuum : Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa (Jungmann II, 144, số 38).
Ý nghĩa là như thế. Nhưng dịch sang tiếng Việt thế nào vừa giữ được ý nghĩa thần học lại vừa diễn tả gọn gàng xuôi tai, thì thật là khó. Vì thế, các bản dịch thường phải đảo thứ tự các từ. Điều tối thiểu phải giữ là làm nổi bật ý nghĩa thần học : Chúng ta cầu xin nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng ấy là Chúa chúng ta, là Con Thiên Chúa và hằng sống hiển trị cùng Chúa Cha (x. Cv 2,36 ; Pl 2,9-11).
đ) “Đến muôn thuở muôn đời.”
Bản La-tinh là : Per omnia saecula saeculorum. Bản Việt Nam là : “Muôn đời.”
Để cho câu văn kết thúc lời nguyện thêm vẻ long trọng xứng hợp với ý nghĩa (Kuriôs) và văn chương La-tinh (per omnia saecula saeculorum), chúng tôi đề nghị kéo dài câu kết ra một chút là “đến muôn thuở muôn đời.”
2. Phụng vụ Lời Chúa
Bài đọc thứ nhất (và thứ hai, nếu có)
7/1 1) Mở đầu : “Lời Chúa trong sách (hoặc thư) …”
a) Theo Công Đồng Va-ti-ca-nô II, Thánh lễ dọn ra hai thức ăn thiêng liêng, là Lời Chúa và Thánh Thể. Quan niệm về Lời Chúa một cách sống động như thế, chúng ta nên công bố là “Lời Chúa”, thay vì nói “Bài trích”. Đàng khác, công bố Lời Chúa như vậy, chúng ta nhắc cử toạ nhớ ngay từ đầu rằng điều họ sắp nghe là Lời của Chúa, chứ không phải là lời của người phàm (1 Tx 2,13).
b) Về tên các sách Kinh Thánh, các dịch giả Việt Nam đã phiên âm mỗi người một cách. Dựa trên các nguyên tắc phiên dịch Hiệp Hội Kinh Thánh thế giới đã rút ra từ các kinh nghiệm phong phú các nước, Uỷ Ban đã phiên âm và đặt tên các sách như sẽ thấy. Đây là một vài nguyên tắc căn bản :
- Giữ nguyên những tên đã có sẵn, nếu đã quá quen thuộc, ví dụ : “Giu-se” thay vì “Giô-xếp”.
- Phiên âm từ nguyên ngữ của từ, là Híp-ri, Hy-lạp, chứ không phiên âm qua tiếng La-tinh hoặc tiếng Pháp, tiếng Anh, ví dụ : Khác-gai, Ô-va-đi-a.
- Phiên âm thế nào cho người bình dân có thể đọc dễ dàng khi công bố Lời Chúa. Vì thế, phải viết đúng theo chính tả Việt Nam và biến đa vận các tiếng nước ngoài thành đơn vận (với gạch ngang) trong tiếng Việt Nam, ví dụ : “Ít-ra-en” thay vì Israel”.
7/4 2) Kết thúc : Đó là Lời Chúa.
Để kết thúc, cũng nên nhắc lại rằng : “Đó là Lời Chúa”, dù Phụng Vụ một vài nước đã bỏ. Hơn nữa, có nhắc lại như vậy, cộng đoàn mới có dịp nói lên tâm tình đón nhận Lời Chúa : “Tạ ơn Chúa.”
Tin Mừng
11/6 (Trước khi đọc Tin Mừng) “Môi miệng con”.
Bản La-tinh là : Dominus sit in labiis tuis. Bản Việt Nam là : “Xin Chúa ngự nơi miệng lưỡi con.”
Từ La-tinh Labia có nghĩa là “những cái môi”, nhưng cũng có thể dịch một cách rộng rãi là “miệng lưỡi”. Chỉ có điều là, trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “miệng lưỡi” có nghĩa không đúng theo ý nghĩa chúng ta nhằm. Tự điển Việt Nam (Đức Trụ) viết : “miệng lưỡi” là “có tài ăn nói hoạt bát.” Từ điển tiếng Việt còn viết : “từ ‘miệng lưỡi’ dùng để chỉ lối ăn nói lém lỉnh và thường là thớ lợ, không thật thà.”
Vì thế, Uỷ Ban đề nghị từ “môi miệng”, vì từ “môi miệng” diễn tả đúng theo ý nghĩa chúng ta nhằm, và nhất là vì từ La-tinh “labia” có nghĩa đen là “những cái môi”, như đã nói.
11/6 “Tin Mừng.”
Từ La-tinh là Evangelium. Từ này do từ Hy-lạp êuaggêliôn. Từ êuaggêliôn gồm hai thành phần : êu nghĩa là tốt, và aggêliôn nghĩa là phần thưởng, là lời tạ ơn hoặc hy lễ kính dâng vì cái tin đem đến sự vui mừng. Rồi, từ ấy có nghĩa là “tin tức”. Vì thế, sau hết, từ êuaggêliôn có nghĩa là “tin tốt”, “tin mừng”. Trong Kinh Thánh, từ Hy-lạp “Êuaggêlisasthai” hoặc từ Híp-ri basar có nghĩa là đem tin mừng về ơn cứu độ và về Nước Thiên Chúa (Is 40,66) và, sau hết, về Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ (Mc 1,1).
Ngày xưa, từ Evangelium được phiên âm là sách E-van. Nhưng, khi có thể, phiên dịch tốt hơn phiên âm, để đại chúng có thể hiểu ít nhiều ý nghĩa và tầm quan trọng của từ Evangelium. Vậy, phải dịch làm sao ?
- Trước đây, từ Evangelium được dịch là “Phúc Âm”. Phúc là việc tốt lành, như : giàu, sang, thọ ; còn âm là tiếng. Vậy “Phúc Âm” là danh từ ghép bởi hai từ Hán Việt, có nghĩa là “tiếng tốt, giọng tốt”, rồi “tin tức tốt đem lại sự vui mừng”. Tuy nhiên, từ “Phúc Âm” lại còn có nghĩa là trả lời thư, cái thư trả lời : những người cao tuổi thạo chữ Hán thường hiểu theo nghĩa ấy (Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển (Sài gòn 1957, Trường Thi). Hơn nữa, xét về mặt Phụng Vụ chủ trương dịch một bản văn đúng đắn nhưng phải dễ hiểu đối với đại chúng, thì từ “Phúc Âm” không dễ hiểu hơn từ “E-van” là mấy : một đàng phiên âm từ tiếng Hy-lạp, một đàng phiên dịch ra Hán Việt, là tiếng nói khó hiểu đối với đại chúng.
- Có người đề nghị dịch Evangelium là “Tin Lành”. Nhưng, ngày nay, từ “Tin Lành” đã có một nội dung khác, đã được sử dụng để chỉ một trong những giáo phái Ki-tô giáo, như : National Baptist Convention, Pentecostal Church of God, Seventh-day Adventists, v.v.
- Vì những lý do nói trên mà từ Evangelium đã được phiên dịch là “Tin Mừng” và từ này đã được phổ biến và chấp nhận một cách nhanh chóng, vì từ “Tin Mừng” tránh được những vấn nạn mà các từ “E-van”, “Phúc Âm” và “Tin Lành” gặp phải, và nhất là vì từ “Tin Mừng” dễ hiểu hơn các từ kia.
11/13 “cho (xứng đáng).”
Bản La-tinh là : ut digne …. Bản Việt Nam là : “để con xứng đáng.”
Có lẽ nên dùng chữ “cho xứng đáng” thay vì nói “để xứng đáng” hoặc “cách xứng đáng”. Như vậy, câu kinh nói lên tấm lòng khiêm tốn trước Tin Mừng, trước Lời Chúa hơn và đồng thời, cũng tránh một câu có liên tiếp đến năm chữ thuộc bậc bổng (“của Chúa cách xứng đáng”), nếu chúng ta dịch là “cách xứng đáng.”
12/10 “Chúng con (tôn vinh Chúa).”
Bản La-tinh là : Gloria tibi, Domine. Bản Việt Nam là : “Lạy Chúa, vinh danh Chúa.”
Chúng tôi thêm hai chữ “Chúng con”, cho câu văn Phụng Vụ thêm trang trọng : động từ có chủ từ đầy đủ, nhất là khi thưa cùng Thiên Chúa.
12/16 “Chúng con (ngợi khen Chúa)”.
Chúng tôi cũng thêm hai chữ “chúng con”, để câu văn Phụng Vụ thêm trang trọng.
Kinh Tin Kính
Kinh Tin Kính có một lịch sử lâu đời. Ngày nay, trong Phụng Vụ Tây Phương (Rô-ma), kinh ấy là tiếng nói Đức Tin đáp lại Lời Chúa (Martimort, tr. 366) : chấp nhận chẳng những các điều vừa nghe, mà còn tất cả các điều phải tin trong Giáo Hội. Do đó, khi phiên dịch, phải quan tâm đến một vài yếu tố quan trọng. Một là phải dịch với một ngôn ngữ thích hợp với Phụng Vụ cộng đồng, nhưng đồng thời cũng phải chính xác để diễn tả niềm tin cộng đồng Giáo Hội. Hai là, đây không phải là “Lời nguyện dâng lên Thiên Chúa” mà là “Lời tuyên xưng đức tin”, nên chủ từ của niềm tin phải xưng là “Tôi” (chứ không phải là “Con”), hoặc “Chúng tôi, chúng ta” (chứ không phải là “chúng con”).
15/2 “(Tôi tin kính một Thiên Chúa) duy nhất.”
Bản La-tinh là Credo in unum Deum. Bản Việt Nam là : “Tôi tin kính một Thiên Chúa.”
Tính từ “một” có thể là định phẩm (“một chứ không hai”), nhưng cũng có thể là bất định (“một hôm, một người kia”). Đàng khác, trong kinh Tin Kính, Giáo Hội muốn tuyên xưng rằng : “Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi.” Nếu vậy, bản Việt Nam chưa nhấn mạnh đủ.
Uỷ Ban đề nghị thêm chữ “duy nhất” và câu văn sẽ là : “Tôi tin kính một Thiên Chúa duy nhất.” Nhiều bản dịch Phụng Vụ nước ngoài cũng đã thêm như vậy :
- Pháp : “Je crois en un seul Dieu.”
- Anh : “We believe in one God.”
- Đức : “Wir glauben an den einen Gott.”
- Ý : “Credo in un solo Dio.”
- Tây Ban Nha : “Creemos en un solo Dios.”
Ngay từ bây giờ, cũng nên để ý đến đặc tính “duy nhất” được Giáo Hội nhấn mạnh trong kinh Tin Kính, khi nói về Thiên Chúa (unum Deum), về Đức Giê-su (unum Dominum), về Giáo Hội (unam Ecclesiam) và về phép rửa (unum baptisma). Để đặc tính “duy nhất” ấy được nổi bật trong bản dịch Việt Nam, cũng như trong bản La-tinh, chúng tôi cũng sẽ dùng từ “duy nhất” như bản La-tinh đã dùng từ “unum/unam” trong những đoạn văn liên hệ.
15/7 “Được Chúa Cha sinh ra.”
Bản La-tinh là : ex Patre natum. Bản Việt Nam là : “sinh bởi Đức Chúa Cha.” Dịch như thế thật là sát chữ, nhưng ngôn ngữ Việt Nam phổ thông ít dùng cách nói “thụ động dạng” như các ngôn ngữ Tây Phương (“bởi”). Nên Uỷ Ban đề nghị cách nói “chủ động dạng”, là “được Chúa Cha sinh ra.”
15/7 “Trước (muôn thuở muôn đời).”
Bản La-tinh là : ante omnia saecula. Bản Việt Nam là : “từ trước muôn đời.”
Cách dịch ấy chưa được ổn cho lắm.
- Về mặt ngôn ngữ, từ La-tinh là ante. Mà ante là “trước”, chứ không phải “từ trước”.
- Về mặt thần học, hai giới từ “trước” và “từ” có nghĩa khác nhau.
1) Giới từ “trước” ám chỉ thời điểm đã đến khi thời điểm sắp nói chưa đến. Nên “Chúa Cha sinh ra Chúa Con trước muôn thuở muôn đời”, nghĩa là Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con trước khi có mặt trời, mặt trăng cùng muôn vật thụ tạo.
2) Còn giới từ “từ” luôn luôn biểu thị điểm phát xuất, điểm khởi đầu. Nên “Chúa Cha sinh ra Chúa Con từ trước muôn đời” dễ gợi cho độc giả ý niệm sai lầm rằng sự Chúa Cha sinh ra Chúa Con có khởi điểm, có bắt đầu trong thời gian, dù là trước khi có vạn vật.
15/9 “Chứ (không phải).”
Bản La-tinh là : genitum, non factum, nghĩa là giữa hai động từ genitum và (non) factum không có liên từ nào cả.
Tuy nhiên, đây là hai tư tưởng (sinh ra / tạo thành) trái ngược, mâu thuẫn ngay trong sự việc và ý nghĩa, cần phải làm nổi bật. Để làm nổi bật, có người đề nghị ba liên từ : “nhưng, mà, chứ.” Để lựa chọn, chúng ta thử đưa ra một thí dụ với những liên từ ấy :
- chết mà không sống,
- chết nhưng không sống,
- chết chứ không sống.
Qua những cách nói ấy, chúng ta thấy : muốn nhấn mạnh sự trái ngược của sự việc và ý nghĩa, thì phải dùng liên từ “chứ”. Đó là trường hợp ở đây : Chúa Cha sinh ra (genitum) Chúa Con, chứ không phải tạo thành (factum), như Người đã tạo thành vạn vật.
Có người cho rằng từ “chứ” là “khẩu ngữ” hay “quê mùa”. Tuy nhiên, không thấy từ điển nào nói từ “chứ” là khẩu ngữ hay quê mùa, dầu là từ điển tiếng Việt (Hà Nội / 1988), một từ điển thường đánh giá và ghi chú từ nào là cũ hay khẩu ngữ.
15/9 “Đồng bản thể (với Chúa Cha).”
Bản La-tinh là : consubstantialis (Patri). Bản Việt Nam là : “đồng bản tính (với Đức Chúa Cha).”
Trong thần học kinh viện, từ substantia thường được dịch là “bản thể”. Do đó, từ “consubstantialis” phải được dịch là “đồng bản thể”. Đàng khác, trong ngôn ngữ văn chương, thì “bản thể” là cái nền gốc sâu xa, bất biến của một vật tồn tại, khác với những thuộc tính biến đổi (xem TĐTV/HN). Thế là ngôn ngữ kinh viện và ngôn ngữ văn chương không khác nhau.
Do đó, nên dùng những từ “bản thể”, “đồng bản thể” thay cho những từ “bản tính”, “đồng bản tính” khi dịch những từ substantia, consubstantialis.
15/11 “(Vì loài người) chúng ta.”
Bản La-tinh là : propter nos homines et propter nostram salutem. Bản Việt Nam là : “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi.”
“Tôi” hay “con” ? “Chúng tôi”, “chúng con” hay “chúng ta” ? Đây là một trong những nét đặc thù của ngôn ngữ Việt Nam.
Trong ngôn ngữ Việt Nam, khi một người tự xưng với người ngang hàng hoặc khi không cần tỏ thái độ tình cảm, thì xưng “tôi”. Nhưng, khi người ấy nói với kẻ lớn hơn mình về tuổi tác hoặc chức vị, thì phải xưng “con”, ví dụ : giáo dân xưng “con” với Giám mục, v.v.).
Khi một số người tự xưng với một hoặc nhiều người ngang hàng hoặc xa lạ, thì phải xưng “chúng tôi”. Nhưng, khi một số người tự xưng với một hoặc nhiều người khác lớn hơn mình, thì phải xưng “chúng con”. Sau hết, nếu một số người tự xưng mình với nhau, thì phải xưng “chúng ta”.
Vậy phải xưng làm sao trong kinh Tin Kính ?
1) Ngày xưa, tân tòng phải lãnh nhận kinh Tin Kính (traditio Symboli), học thuộc và, sau hết, trả bài trước mặt Giám mục (redditio Symboli). Ngày nay, khi kinh Tin Kính được đem vào Thánh lễ, thì người đọc kinh Tin Kính không còn phải là tân tòng, mà là toàn thể cộng đồng có mặt, gồm giáo dân, linh mục và giám mục. Hơn nữa, nếu giám mục chủ tế, thì ngài còn phải xướng và đọc : “Tôi tin kính (Martimort, trang 366). Có lẽ vì thế mà, trong nhiều bản văn Phụng Vụ nước ngoài, câu đầu kinh Tin Kính không phải là : “Tôi tin kính”, mà là : “Chúng tôi tin kính” :
- Anh : “We believe”,
- Đức : “Wir glauben”.
2) Vì lịch sử của kinh Tin Kính trong Phụng Vụ là như thế, người tín hữu phải xưng là “tôi” : “Tôi tin kính” (Credo) và phải xưng là “chúng ta” khi đại từ chỉ ngôi ở số nhiều gồm giáo dân, linh mục và giám mục : “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta” (propter nos homines et proter nostram salutem).
3) Có người lập luận rằng : Khi tuyên xưng, người tín hữu chúng ta không tuyên xưng trước mặt nhau là những người đã tin, nhưng chúng ta tuyên xưng trước mặt thiên hạ theo ý nghĩa của Mt 10,32 : “Phàm ai nhận Thầy trước mặt thiên hạ …”. Vì thế, phải xưng hô “chúng tôi”. Tuy nhiên, cho dù giả thuyết ấy đúng đi nữa, thì việc xưng “chúng ta” vẫn đúng. Nói cách khác, “thiên hạ”, dù là tín hữu hay không tín hữu, thì cũng là “loài người”. Vì thế, chúng ta có lý mà xưng hô rằng : “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta”. Và trong trường hợp ấy, lời tuyên xưng đạt tới mục đích đầy đủ : người tín hữu vừa khẳng định, lại vừa loan báo niềm tin của mình cho anh em loài người.
15/13 “Bởi quyền năng (Chúa Thánh Thần).”
Bản La-tinh là : de Spiritu Sancto. Bản Việt Nam là : “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần.”
Ngày nay, từ “phép” có nhiều nghĩa trong đó có nghĩa “khả năng huyền bí tạo nên những điều kỳ lạ” : “hoá phép”, “phép thuật”. Đàng khác, câu văn được rút y nguyên từ Mt 1,20 La-tinh : de Spiritu Sancto, ám chỉ mầu nhiệm nhập thể : Thánh Thần thực hiện công trình sáng tạo (St 1,2 ; Tv 104,30).
Vì thế, để tránh ngôn ngữ gợi lên phù phép hoặc nghi nghĩa và đồng thời, để nói chính nội dung Kinh Thánh của câu văn, Uỷ Ban đề nghị : “Bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.”
15/15 “Dưới thời Phong-xi-ô Phi-la-tô.”
Bản La-tinh là : Crucifixus sub Pontio Pilato. Bản Việt Nam là : “chịu mai táng thời Phong-xi-ô Phi-la-tô.”
1) Xét về văn phạm, thì dịch như thế là không đúng : Phi-la-tô làm túc từ cho động từ “chịu đóng đinh” (crucifixus), chứ không phải cho động từ “mai táng” (sepultus est). Còn nếu xét về lịch sử, thì dưới thời Phi-la-tô, chẳng những Đức Giê-su chịu mai táng, mà còn chịu đóng đinh và chịu khổ hình. Vì thế, nếu muốn diễn tả sự việc theo lịch sử, thì phải đem các từ “dưới thời Phong-xi-ô Phi-la-tô” lên đầu câu và, như vậy, từ “Phong-xi-ô Phi-la-tô” làm túc từ cho cả ba động từ “chịu đóng đinh, chịu khổ hình và mai táng.” Đó là đề nghị của Uỷ Ban.
2) “Thời” và “dưới thời” có khác nhau một chút. “Thời” chỉ khoảng thời gian dài có những sự kiện lớn nào đó : thời cổ đại. Còn cách nói “dưới thời” biểu thị điều sắp nói ra là phạm vi tác động, bao trùm, chi phối của hoạt động hay sự việc được nói đến. Nói ngắn hơn, cách nói “dưới thời” ám chỉ sự liên đới của hai sự việc.
Ở đây, rõ ràng là Phi-la-tô có liên đới và trách nhiệm về cái chết của Đức Giê-su : nếu ông không chịu trách nhiệm về việc mai táng, thì ít ra ông có phần trách nhiệm về việc Đức Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá, như chính câu kinh đã nói (Người chịu đóng định vào thập giá dưới thời Phi-la-tô : crucifixus sub Pontio Pilato) và như Kinh Thánh đã nói : “Còn Đức Giê-su, thì ông (Phi-la-tô) trao cho họ để họ làm gì mặc ý” (Lc 23,25).
Vì thế, nên dịch là : “Dưới thời Phong-xi-ô Phi-la-tô.”
15/17 “Đúng (như lời Thánh Kinh).”
Bản La-tinh là : secundum Scripturas. Bản Việt Nam là “như lời Thánh Kinh.”
Đức Giê-su nói : “Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Mê-si-a phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết trỗi dậy” (Lc 24,46). Đoạn kinh Tin Kính muốn nhấn mạnh sự việc Đức Giê-su sống lại, mà cũng muốn nhấn mạnh sự việc Kinh Thánh được ứng nghiệm. Vì thế, Uỷ Ban thêm chữ “đúng” và câu kinh sẽ là : “Đúng như lời Thánh Kinh.”
15/19 “(Người sẽ trở lại) vinh quang.”
Bản La-tinh là iterum venturus est cum gloria. Bản Việt Nam là “Người sẽ trở lại trong vinh quang.”
Cum mà dịch là “trong” thì không đúng, và chỉ được chấp nhận khi đối chiếu với Mt 16,27 (ên te đôxe / in gloria) mà thôi. Vả lại, từ “trong”, trước hết, là một giới từ không gian. Do đó, người đọc có thể lầm tưởng là một nơi có vinh quang, và Đức Giê-su trở lại nơi đó. Kỳ thực, câu kinh chỉ muốn nhắc lại Mt 16,27 và 24,30 theo đó Đức Giê-su sẽ trở lại một cách vinh quang. Vì thế, Uỷ Ban bỏ chữ “trong”.
15/20 “Vương quyền Người.”
Bản La-tinh là : Cujus regni. Bản Việt Nam là : “Nước Người.”
Câu này ám chỉ Nước Thiên Chúa thường được các sách Tin Mừng nói đến, và điều Đức Giê-su rao giảng trước hết là : “Anh em phải sám hối, vì Nước Thiên Chúa đã đến gần” (Mt 4,17).
Nhưng trong Kinh Thánh, từ Hy-lạp basilêia có rất nhiều nghĩa khác nhau, tuy liên hệ đến nhau, ví dụ : nước, vương quyền, triều đại (xem Arndt-Gingrich). Vì thế mà mỗi người đề nghị một cách. Vậy, để lựa chọn, chúng ta phải coi lại ý nghĩa của mỗi từ.
- Vương quyền. Vương quyền là chính quyền nhà nước, đứng đầu là vua.
- Triều đại. Triều đại là thời gian trị vì của một ông vua hay một dòng vua. Triều đại Quang Trung qua, triều đại Gia Long đến.
- Nước. Nước, trước hết là một vùng đất. Nước Việt Nam, chẳng hạn, là một vùng đất nam giáp biển Nam Hải, bắc giáp Trung Hoa. Vì thế, nước Việt Nam trước sau vẫn là một, cho dù phải trải qua nhiều chế độ, chế độ này qua, chế độ kia đến.
Ở đây, cũng như ở các sách Tin Mừng, vấn đề không phải là vùng đất, vì đối với người tín hữu, “Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài, làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư” (Tv 23,1). Nhưng vấn đề là loài vật và dân cư có ý thức và chấp nhận quyền bính siêu việt của Người hay lại bắt chước tổ tiên, bất tuân lệnh Chúa và sa vào quyền bính Xa-tan. Trái lại, khi họ chấp nhận, thì đó là vương quyền Thiên Chúa đã đến. Và cùng với vương quyền Thiên Chúa, triều đại Thiên Chúa bắt đầu trong thời gian.
Nếu vậy thì có thể nói là vương quyền của Đức Giê-su (nếu muốn nhấn mạnh quyền bính) hoặc triều đại của Người (nếu muốn nhấn mạnh thời gian). Sau khi cân nhắc, Uỷ Ban thấy phải bỏ từ “Nước”. Vả lại, trong hai từ còn lại, Uỷ Ban chọn từ “vương quyền”. Như thế, câu văn sẽ là : “Vương quyền Người sẽ vô cùng vô tận”, vừa nhấn mạnh quyền bính lại vừa nhấn mạnh thời gian : Vương quyền là vương quyền của Đức Giê-su ; vương quyền ấy sẽ không lọt vào tay ai nữa.
15/22 “(Người) phát xuất (từ Chúa Cha và Chúa Con).”
Bản La-tinh là : (ex Patre) procedit. Bản Việt Nam là : “Người (bởi Đức Chúa Cha) mà ra.”
Trong một kinh tuyên xưng đức tin trang trọng, từ “ra”, “mà ra” dường như không thích hợp, có người nhận xét như vậy. Hơn nữa, đây là một tín điều quan trọng rút từ Ga 15,26, tuyên xưng nguồn gốc của Chúa Thánh Thần. Trong Ga 15,26, tác giả dùng động từ êkpôrêuômai, và bản Phổ thông dịch là : procedere (pro/cedere).
Để phiên dịch, Uỷ Ban đề nghị từ “phát xuất”. “Phát xuất” hoặc “xuất phát” là bắt đầu ra đi, lấy đó làm mốc, làm căn cứ để hành động. Như vậy, từ này tránh được hình ảnh “vô-ra”, lại còn trang trọng nhấn mạnh mầu nhiệm về mối tương quan giữa Ba Ngôi.
15/24 “(Dùng) các ngôn sứ (mà phán dạy).”
Bản La-tinh là : locutus est per Prophetas. Bản Việt Nam là : “Dùng các tiên tri mà phán dạy.”
Từ propheta thường được dịch là “tiên tri” hoặc “ngôn sứ”. Vậy nên dùng từ nào cho đúng ? Từ La-tinh propheta hoặc, muốn lên tận gốc, từ Hy-lạp prôphetes gồm hai yếu tố : prô và phemi. Phemi là nói, còn prô trong từ prôphetes có nghĩa là “thay thế cho”. Về từ “prô” trong từ prôphetes, A. Gelin và L. Monloubou có viết : “La particule ‘pro’ qui entre dans la composition du mot grec ‘prophète’ n’est point le ‘pro’ temporel (dire à l’avance), mais plutôt le ‘pro’ substitutif (dire à la place de). Ainsi … le terme grec nous indiquerait plus un prédicateur (forthteller) qu’un prédiseur (foreteller).” (Introduction à la Bible II, Paris 1973, Desclée, trang 241).
Như vậy, Propheta là “người nói thay cho ai” (Thiên Chúa hoặc thần linh) trước khi có nghĩa là “người biết trước.” Vả lại, nhìn vào công việc của các ngôn sứ, chúng ta thấy các ngài thường được sai đi và thay mặt Thiên Chúa, nói những gì Người đã dạy qua Luật Mô-sê, còn yếu tố “biết trước” không phải là yếu tố chính yếu.
Vì thế, chúng tôi xin đề nghị dùng từ “ngôn sứ” để dịch từ Propheta : ngôn sứ là người được sai đi nói thay mặt ai nói chung và thay mặt Thiên Chúa nói riêng trong Kinh Thánh.
15/25 “Hội Thánh (duy nhất).”
Bản La-tinh là : (unam) Ecclesiam. Bản Việt Nam là : “Hội Thánh (duy nhất).”
Từ “Ecclesia” thường được dịch là “Hội Thánh” hoặc “Giáo Hội”.
- “Giáo Hội” là đoàn thể tôn giáo.
- “Hội Thánh” là đoàn thể thánh thiện.
Theo quan niệm Kinh Thánh, đoàn thể Đức Giê-su thiết lập không phải chỉ là tôn giáo, mà còn là thánh thiện, là dân thánh, gồm những người thánh (x. Rm 1,7 ; TOB/NT, 451, chú thích m). Vì thế, Uỷ Ban giữ lại từ “Hội Thánh”, tuy nói rằng “Hội Thánh … thánh thiện” có phần trùng ý.
15/26 “một phép rửa duy nhất.”
Bản La-tinh là : unum baptisma. Bản Việt Nam là : “một phép rửa.”
Như chúng ta biết, thánh Phao-lô khẳng định : “Chỉ có một Đức Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4,5). Vì thế, cũng như khi nói về Thiên Chúa Cha, về Đức Giê-su và về Hội Thánh, Uỷ Ban thấy cần phải thêm từ “duy nhất”, để khẳng định đặc tính “duy nhất” của phép rửa. Và công thức sẽ là : “Tôi tuyên xưng có một phép rửa duy nhất.”
15/27 “(Tôi đợi trông) ngày (kẻ chết sống lại).”
Bản La-tinh là : Exspecto resurrectionem mortuorum. Bản Việt Nam là : “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại.”
Cảm giác đầu tiên khi đọc câu này, là những kẻ chết (nhất là những người thân mến) ra đi, nhưng sẽ sống lại, trở lại trần thế, nên tôi trông đợi. Đàng khác, động từ exspecto có nghĩa là “trông đợi”, nhưng cũng có nghĩa là : “tin tưởng, hy vọng.”
Tín điều này nói về kẻ chết sống lại. Để nói đến sự việc ấy, Kinh Thánh thường dùng thành ngữ : “ngày sau hết.” Theo thánh Gio-an, Đức Giê-su nói : “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54 ; x. 6,39-40.44 ; 11,24). Vì thế, thêm từ “ngày” vào, câu văn không còn hàm hồ, mà còn đi sát với Kinh Thánh hơn.
3. Phụng Vụ Thánh Thể
Dâng bánh
19/3 “Lạy Chúa, là Chúa Tể càn khôn.”
Bản La-tinh là : Benedictus es, Domine, Deus universi. Bản Việt Nam là : “Lạy Chúa, chúc tụng Chúa là Chúa Tể càn khôn.”
Nên đem “lạy Chúa” lên đầu câu (như bản hiện hành đã làm), vì từ Domine ở hô cách, như đã nói trên. Hơn nữa, không nên tách “là Chúa Tể càn khôn” ra khỏi “Lạy Chúa”, vì đó là đồng vị ngữ.
19/7 “Để bánh này.”
Bản La-tinh là : ex quo fiet panis vitae. Bản Việt Nam là : “để trở nên bánh nuôi sống.”
Theo văn phạm, thì cái gì “trở nên” bánh ? Do đó, phải thêm “bánh này” (ex quo) cho dễ hiểu và như vậy, “bánh này” là chủ từ của động từ “trở nên”, chứ không phải “chúng con”, cũng không phải “Chúa”.
Pha nước vào rượu
20/3 “Cũng như giọt nước.”
Bản La-tinh là : Per hujus aquae et vini mysterium. Bản Việt Nam là : “Nhờ mầu nhiệm nước và rượu này.” Dịch như thế là sát chữ. Nhưng ý nghĩa câu kinh thật là khó hiểu. Ý thức như vậy, các bản phụng vụ nước ngoài như Đức, Pháp, Ý đã dịch một cách cụ thể hơn. Theo đó, Uỷ Ban dịch là : “Cũng như giọt nước này hoà chung với rượu …”.
20/4 “Bản tính Thiên Chúa / thân phận con người.”
Nên tránh những cách nói quá trừu tượng như : “nhân tính, thiên tính (nhất là, ngày nay, từ “thiên tính” có một ý nghĩa phổ thông là “tính do trời phú cho”). Vì thế, Uỷ Ban dịch :
- “thông phần bản tính Thiên Chúa” thay vì “tham dự vào thiên tính”,
- “chia sẻ thân phận con người” thay vì “thông phần nhân tính.”
Dâng rượu
21/6 “Sản phẩm từ cây nho.”
Bản La-tinh là : fructum vitis. Bản Việt Nam là : “rượu bởi cây nho.”
Để sát nghĩa, sát chữ hơn, Uỷ Ban dịch là “sản phẩm từ cây nho.”
27/7 “để rượu này.”
Bản La-tinh là : ex quo nobis fiet. Bản Việt Nam là : “để trở nên.”
Cái gì trở nên trong một câu như vậy ? Cũng như trong trường hợp “để bánh này trở nên” vừa nói trên, Uỷ Ban thêm hai từ “(để) rượu này (trở nên)”. Rượu này là chủ từ của động từ “trở nên”.
Kinh Tạ
Ơn
Lời
tiền
tụng
Về ý nghĩa của từ Praefatio, xin xem A. G. Martimort. Ở đây, chúng ta chỉ xác định danh xưng. Bản Việt Nam là : “Kinh Tiền tụng”, điều này không sai. Tuy nhiên, Uỷ Ban đề nghị từ “Lời Tiền tụng”, vì hai lý do chính. Một là trong kinh Tạ Ơn, có nhiều lời nguyện khác nhau. Uỷ Ban dùng từ “Kinh” cho toàn thể kinh Tạ Ơn, và dùng từ “Lời” để chỉ các lời nguyện khác nhau trong kinh Tạ Ơn. Hai là để nói rằng Praefatio không phải là một kinh biệt lập khác với kinh Tạ Ơn, mà Praefatio là một phần, tuy là phần đầu của kinh Tạ Ơn.
27/13 “Chính đáng”, “phải đạo”.
Trong các Tiền tụng, chúng ta thường gặp bốn từ dignum et justum, aequum et salutare.
- dignum et justum, bản Việt Nam dịch là “chính đáng”.
- aequum, bản Việt Nam dịch là “công bình”.
- salutare, bản Việt Nam dịch là “hữu ích cho phần rỗi”.
Như sẽ nói khi đề cập đến kinh Tạ Ơn I, Phụng Vụ Rô-ma thích long trọng và, vì thế, lặp lại một tư tưởng bằng nhiều từ đồng nghĩa hoặc tương tự. Do đó, theo sự chỉ dẫn của Huấn thị về phiên dịch (số 12), không cần, không buộc phải dịch từng chữ. Vì thế, các bản dịch Phụng Vụ các nước không dịch từng chữ. Bản dịch Bồ Đào Nha và Anh chuyển ba từ “dignum, justum và aequum” thành một (é nosso dover / it is our duty). Bản dịch Đức và Pháp chuyển bốn từ dignum, justum, aequum et salutare thành hai (wušrdig und recht / juste et bon).
1) Về hai từ dignum et justum, bản Việt Nam dịch là : “Chính đáng”.
2) Về từ aequum, bản Việt Nam dịch là : “Công bình” là không thiên vị (“phân phối công bình”). Mà từ La-tinh aequus, ae, um có rất nhiều nghĩa và, ở đây, từ ấy phải có nghĩa là “hợp lý, phải lẽ”. Thật vậy, ý nghĩa “công bình” khó hiểu trong văn mạch tạ ơn : tạ ơn là việc hợp lý đúng hơn là việc công bình. Hơn nữa, trong văn mạch cứu độ, Thiên Chúa sáng tạo và cứu độ con người, mà con người chỉ biết tạ ơn, thì đó không phải là công bình.
Vì thế, Uỷ Ban đề nghị từ “phải đạo”. “Phải đạo” là phải đường, đúng với lẽ phải mà, từ xưa, thánh hiền đã dạy : “xử sự phải đạo”, “ăn ở phải đạo”.
3) Về từ salutare. Bản Việt Nam là : “Hữu ích cho phần rỗi.” Từ “phần rỗi” bị coi là quá xưa, nên cần phải dịch lại.
Nhưng salutare nghĩa là gì ? Theo Botte-Mohmann, thì salutare, ở đây, phải hiểu là “sinh ơn cứu độ”. Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa có nhiều lý do. Nhưng lý do đầu tiên và căn bản mà Thánh lễ nhằm tới, là ơn cứu độ nhờ hy lễ Đức Giê-su đã dâng lên Chúa Cha trên thập giá. Nên theo nghĩa đó, Uỷ Ban dịch là “sinh ơn cứu độ.”
27/17 “Thánh, Thánh, Chí Thánh.”
Lời tung hô này được rút ra từ Is 6,3 : một hôm, trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, ngôn sứ I-sai-a thấy Thiên Chúa và thấy các thần Xê-ra-phim tung hô Thiên Chúa.
“Thánh, Thánh, Chí Thánh.”
Bản La-tinh là : Sanctus, Sanctus, Sanctus. Bản Việt Nam là : “Thánh, Thánh, Thánh.” Xét về từ, thì dịch như thế là đúng ; nhưng, xét về ý nghĩa và tâm tình, thì dịch như thế chưa đúng mức.
Khi nghe “Thánh, Thánh, Thánh”, người Do-thái thấy ngay rằng ngôn sứ nhấn mạnh sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa. Thật vậy, sự thánh thiện tuyệt đối của Đức Chúa là một trong những tư tưởng chủ chốt của ngôn sứ I-sai-a. Đàng khác, để nhấn mạnh, văn chương Híp-ri thường dùng kiểu lặp lại hai ba lần, ví dụ : “Đền Thờ của Đức Chúa, Đền Thờ của Đức Chúa, Đền Thờ của Đức Chúa” (Gr 7,4 ; x. 22,29 ; Ed 21,32). Vì thế, khi nói : “Thánh, Thánh, Thánh”, vị ngôn sứ muốn khẳng định qua các thần Xê-ra-phim rằng Thiên Chúa là Đấng chí thánh, tuyệt đối thánh (x. Is 1,4).
Nhưng, khi nghe “Thánh, Thánh, Thánh”, người Việt Nam dễ nghĩ rằng vị ngôn sứ luống cuống hoặc cà lăm. Vậy người dịch phải làm sao lột tả được ý của ngôn sứ và nhớ rằng, trong nghệ thuật phiên dịch, nhân tố là ý, chứ không phải là từ.
Tuy nhiên, cũng phải ghi lại đây để nhớ rằng Uỷ Ban đã phải mất nhiều thì giờ để tìm ra công thức vừa súc tích lại vừa diễn tả đặc tính tuyệt đối của sự thánh thiện của Thiên Chúa. Sau hết, bản dịch được nhiều phiếu hơn hết là : “Thánh, Thánh, Chí Thánh.”
27/17 “Chúa Tể càn khôn.”
Bản La-tinh là : Deus Sabaoth. Bản Việt Nam là : “Thiên Chúa các đạo binh.”
“Đức Chúa các đạo binh”, đó là danh xưng cổ truyền để chỉ Đức Chúa là Tổng tư lệnh các quân đoàn Ít-ra-en (1 Sm 17,45), mà nhất là các quân đoàn thiên thể. Sau này, các ngôn sứ và các Thánh vịnh dùng thành ngữ ấy để chỉ quyền năng của Đức Chúa (Is 6,3 ; Gr 5,14 ; Tv 24,10 ; 89,9).
Để diễn tả tư tưởng ấy, chúng tôi dùng từ “Chúa Tể càn khôn” :
Chúa Tể là người có quyền lực cao nhất ;
Càn khôn là trời đất, vũ trụ.
27/17 “Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn là Đấng Thánh.”
Bản La-tinh là : Dominus, Deus Sabaoth. Bản Việt Nam là : “Chúa là Thiên Chúa các đạo binh.”
Dịch như vậy e rằng không đúng. Về văn phạm của câu này, thì :
- Dominus là chủ từ,
- Deus Sabaoth là đồng vị từ của Dominus,
- Sanctus, Sanctus, Sanctus mới là thuộc từ của Dominus.
Nếu vậy, ý nghĩa câu văn không phải là : “Chúa là Thiên Chúa các đạo binh”, mà phải là : “Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, là Thánh, Thánh, Thánh.” Hoặc, dịch một cách xuôi chảy hơn, chúng ta có thể dịch là : “Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn, là Đấng Thánh.”
27/17 “là Đấng Thánh.”
Bản La-tinh là : Sanctus, Sanctus, Sanctus Dominus Deus Sabaoth. Bản Việt Nam là : “Thánh, Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh.”
Như chúng ta vừa nói, trong ý nghĩa câu văn La-tinh và, đi xa hơn, câu văn Híp-ri, những từ “Thánh, Thánh, Thánh” là thuộc từ của chủ từ “Thiên Chúa”. Đàng khác, trong cấu trúc tiếng Việt, thuộc từ phải đứng sau chủ từ. Nên lẽ ra, phải dịch là : “Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn là Thánh, Thánh, Thánh.”
Nhưng, vì muốn làm nổi bật đặc tính “Thánh” của Thiên Chúa theo thứ tự nguyên văn và theo truyền thống các bản dịch Phụng Vụ, Uỷ Ban đặt “Thánh, Thánh, Thánh” đứng đầu câu và lặp lại từ “Thánh” sau chủ từ “Thiên Chúa”, để làm thuộc từ cho chủ từ này. Và câu văn phải là : “Thánh, Thánh, Thánh, Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn, là Thánh.”
Sau nữa, trong ngôn ngữ Việt Nam, ít khi phải dịch động từ “là” (esse / être), không ai nói : “Trái đất là tròn”, nên không ai dịch : “Thiên Chúa là Thánh”. Nhưng, đàng khác, chính ngôn sứ I-sai-a thường gọi Đức Chúa là “Đấng Thánh” : “Chúng đã khinh màng sấm ngôn Đấng Thánh của Ít-ra-en” (Is 5,19.24 ; 1,4 ; 17,7 ; 10,20 ; 30,11).
Vì thế, nói tóm lại, Uỷ Ban đi đến công thức cuối cùng là : “Thánh, Thánh, Chí Thánh. Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn, là Đấng Thánh.”
27/18 “(Trời đất) rạng ngời (vinh quang Chúa).”
Bản La-tinh là : Pleni sunt caeli et terra gloria tua. Bản Việt Nam là : “Trời đất đầy vinh quang Chúa.”
Dịch như vậy là sát, nhưng có lẽ chưa phải là tốt. Trong câu văn, tư tưởng “đầy” không thích hợp với tư tưởng “vinh quang”. Vì đó, Uỷ Ban dùng từ “rạng ngời” thay cho từ “đầy”. Từ “rạng ngời” vừa diễn tả tư tưởng “dư đầy”, lại vừa thích hợp với tư tưởng “vinh quang” hơn.
Như vậy, câu văn sẽ là : “Trời đất rạng ngời vinh quang Chúa.”
27/20 “(Chúc tụng) Đấng ngự đến (nhân danh Chúa).”
Bản La-tinh là : Benedictus qui venit in nomine Domini. Bản Việt Nam là : “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến.”
Câu này được rút ra từ Mt 21,9 và các bản văn song song. Theo các bản văn này, thì “qui venit in nomine Domini” mà bản Việt Nam dịch là “Đấng nhân danh Chúa mà đến” không phải là một mệnh đề quan hệ, mà là một động từ đã biến thành danh từ và tước hiệu : hôêrkhômênôs (Mt 21,9 ; 11,3). Vì thế, phải liên kết từ “đến” và từ “Đấng”, để có một danh từ và cũng là một thành ngữ Kinh Thánh nói lên tước hiệu. “Anh hùng áo vải” mà diễn tả là “Anh hùng mà mặc áo bằng vải” thì thật là mất mát về mặt văn chương.
Như vậy, câu văn sẽ là : “Đấng ngự đến nhân danh Chúa.” “Đấng” là từ dùng để chỉ người được suy tôn. “Đến” hoặc, đúng hơn, “Ngự đến”, vì Đấng ấy là Vua (x. Mt 21,9). “Đấng ngự đến”, theo Kinh Thánh, là một tước hiệu của Đức Giê-su (x. TOB/NT, 72, chú thích s) như những tước hiệu : Đấng Cứu độ, Đấng Ki-tô, v.v.
Kinh Tạ Ơn : Phần chung
62/15 “(Tất cả) anh em (cầm lấy mà ăn).”
Bản La-tinh là : Accipite. Bản Việt Nam là : “Các con (hãy lãnh nhận).”
Động từ Accipite (trong tiếng La-tinh) cũng như động từ labêtê (trong tiếng Hy-lạp) là những động từ ở ngôi thứ hai số nhiều, có nghĩa là : “Các ông, các bà, các anh, các chị, các em, các con, các cháu, v.v.”
Trong tiếng Việt, cách xưng hô thật là độc đáo. Trước khi chào hỏi hoặc nói chuyện với ai, đương sự phải tìm coi mình thuộc cấp bậc nào trong gia đình người ấy (ông bà, chú bác, anh em, con cháu, v.v.) và xưng hô theo cấp bậc ấy. Vậy, nếu Đức Giê-su và các môn đệ nói với nhau bằng tiếng Việt thì các ngài xưng hô với nhau thế nào ? Đức Giê-su cư xử với các môn đệ với tư thế là Ngôi Lời, là Đấng sẽ Phục Sinh hay với tư thế là Thầy đối với môn đệ ? Muốn trả lời câu hỏi này, trước hết, chúng ta nhìn qua các bản dịch Việt Nam hiện hành, rồi sau đó, nhìn vào các bản văn Kinh Thánh.
A. Các bản dịch Việt Nam hiện hành :
1) Theo bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn (xuất bản năm 1976), thì
a) Ngay từ đầu, Đức Giê-su đã xưng với các môn đệ là : Ta / các ngươi. Ví dụ : “Hãy theo Ta, Ta sẽ cho các ngươi làm ngư phủ bắt người” (Mc 1,17).
b) Cho đến những ngày cuối cùng, Đức Giê-su vẫn giữ cách xưng hô ấy. Ví dụ : “Này là Máu Ta … Và Ta bảo các ngươi : từ nay …” (Mt 26,28-29).
2) Theo bản dịch của linh mục An-sơn Vị (xuất bản năm 1983), thì
a) Lúc đầu, Đức Giê-su xưng với các môn đệ là : Ta / anh em. Ví dụ : “Hãy đi theo Ta, Ta sẽ khiến anh em nên kẻ tung lưới bắt người” (Mc 1,17).
b) Sau đó, Đức Giê-su xưng với các môn đệ là : “Thầy / các con. Ví dụ : “Các con hãy cầm lấy : đây là Máu của Thầy” (Mc 14,22).
3) Theo bản dịch của Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn (xuất bản năm 1985), thì
a) Lúc đầu, Đức Giê-su xưng với các môn đệ là : Tôi / các ông. Ví dụ : “Các ông hãy theo tôi, tôi sẽ biến đổi các ông thành những kẻ đánh lưới người” (Mt 4,19).
b) Sau đó, Đức Giê-su xưng với các môn đệ là : Ta / anh em hoặc Thầy / anh em.
- Ví dụ về trường hợp Ta / anh em : “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Ta” (Mt 26,26).
- Ví dụ về trường hợp Thầy / anh em : “Thầy bảo thật anh em, từ nay Thầy …” (Mt 26,29).
c) Và, theo bản dịch này, thì hình như giữa hai cách xưng hô “Ta / anh em” và “Thầy / anh em”, không có sự phân biệt cố ý. Đọc Mt 26,23-29 hoặc so sánh Mt 26,29 với Mc 14,25 chúng ta sẽ thấy :
Mt 26 Mc 14
23. Đây là Máu Ta 24. Đây là Máu Ta
Máu của Tân Ước Máu của Giao ước
sẽ đổ ra cho nhiều người sẽ đổ ra cho nhiều người
được khỏi tội.
29. Thầy bảo thật anh em 25. Ta nói thật với anh em
từ nay Thầy không uống … Ta sẽ không còn uống …
Nhân vật, đề tài, hoàn cảnh cũng là một nhưng, trong Mt 26,29 thì Đức Giê-su xưng mình là Thầy, còn trong Mc 14,25 thì Người lại xưng mình là Ta.
Nói tóm lại về các bản dịch Tân Ước Việt Nam :
- Linh mục Nguyễn Thế Thuấn : “Ta / các ngươi”.
- Linh mục An-sơn Vị : “Ta / anh em”, rồi “Thầy / các con”.
- Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn : “Tôi / các ông”, rồi “Thầy / anh em” hoặc “Ta / anh em”.
Vậy phải lựa chọn cách xưng hô nào ?
B. Các bản văn Kinh Thánh
Nhìn qua các bản dịch, chúng ta thấy rằng các dịch giả đều đồng ý rằng trước khi chào hỏi hoặc nói chuyện với ai, người Việt Nam phải tìm coi mình thuộc cấp bậc nào trong gia đình người ấy và xưng hô theo cấp bậc ấy. Nhưng hỏi, nếu Đức Giê-su và các môn đệ nói với nhau bằng tiếng Việt, các ngài xưng hô với nhau thế nào ? Thì các dịch giả trả lời khác nhau, kẻ thì “Ta / các ngươi”, người thì “Ta / anh em” rồi “Thầy / các con”, người lại “Tôi / các ông” rồi “Thầy / anh em” hoặc “Ta / anh em”. Nếu muốn lựa chọn, buộc lòng chúng ta phải phân tích lại một số bản văn Kinh Thánh liên hệ. Mà, theo một số bản văn ấy, chúng tôi thấy cách xưng hô “Thầy / anh em” là hợp lý hơn cả. Tại sao ?
Về phía các môn đệ.
Lúc bấy giờ, Đức Giê-su đang ở trạc tuổi 30-40, còn các môn đệ cũng đã lớn : thánh Phê-rô đã có đôi bạn (Mt 8,14-15). Đàng khác, Đức Giê-su giảng dạy các ngài (Mt 5,2 ; 8,28) và nhiều lần, các ngài gọi Đức Giê-su là Ráp-bi, nghĩa là Thầy Tiến sĩ Luật (Mc 9,5 ; Mt 26,25 ; x. Mt 8,2.19 ; Lc 5,5). Trong dịp Đức Giê-su biến đổi hình dạng, thánh Phê-rô nói với Người : “Thưa Ráp-bi …”. Vì thế, khi nói chuyện, các môn đệ phải kêu Đức Giê-su là “Thầy”.
Còn khi tự xưng, các môn đệ phải xưng là “tôi”, “chúng tôi” trong những lần Thầy trò mới gặp nhau. Đức Giê-su và thánh Phê-rô trao đổi với nhau trước khi Người làm phép lạ “hai thuyền đầy cá” và gọi thánh Phê-rô làm môn đệ. Trong trường hợp ấy, chắc là thánh Phê-rô phải nói : “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng Thầy đã bảo, thì tôi xin thả lưới” (Lc 5,5). Nhưng các ngài phải xưng là “con”, “chúng con” khi Thầy trò đã quen biết và chung sống. Trong dịp Đức Giê-su biến đổi hình dạng, thánh Phê-rô chắc là phải nói với Người rằng : “Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá” (Mt 17,4).
Về phía Đức Giê-su.
Đức Giê-su là con người và, trước khi là con người, Người đã là Thiên Chúa Ngôi Hai. Điều này, không ai chối cãi. Vấn đề là, khi làm người tại trần thế, Người đã cư xử với loài người trong tư thế nào ? Trong trường hợp chúng ta đang nói, Người đã xưng hô thế nào với các môn đệ ? Đó là vấn đề phải giải quyết.
Trong những lần gặp nhau đầu tiên, chắc chắn Đức Giê-su không xưng mình là Ta, là Thầy, mà lại càng không gọi các môn đệ là “con”, “các con”. Người ta chỉ xưng hô như vậy giữa những người đã biết nhau. Nhưng, trong những ngày đầu tiên, các môn đệ chưa biết Đức Giê-su là ai.
Còn khi Thầy trò đã thừa nhận nhau, thì chắc chắn Đức Giê-su xưng mình là Thầy. Vấn đề hơi khó giải quyết là Người sẽ gọi các môn đệ làm sao. Nói cách khác, Đức Giê-su cư xử với các môn đệ trong tư thế nào : Ngôi Lời, Đấng Phục Sinh hay là Thầy đối với môn đệ. Muốn trả lời cho câu hỏi ấy một cách khách quan, chúng ta không nên dựa trên những suy diễn chủ quan, mà phải dựa trên những bản văn chính xác. Dưới đây là một vài bản văn Kinh Thánh trực tiếp liên hệ đến vấn đề :
1) Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su nói rõ với các môn đệ về mối tương quan Người muốn có đối với các môn đệ. Người nói : “Thầy gọi anh em là bạn hữu” (philôus : Ga 15,15), nghĩa là, theo định nghĩa của TĐTV/HN, “coi nhau ngang hàng”.
2) Sau khi Phục Sinh, Đức Giê-su nói với thánh nữ Ma-ri-a Mác-đa-la rằng : “Hãy đi gặp anh em (adêlphôus : Ga 20,17) Thầy”. Nghĩa là cũng theo TĐTV/HN, Đức Giê-su coi các môn đệ như anh em, cùng một thế hệ.
3) Cũng trong trường hợp ấy, Đức Giê-su nói với thánh nữ Ma-ri-a Mác-đa-la rằng : “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17). Thế nghĩa là, như Pl 2,6-7 cho biết : “Đức Giê-su, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”. Thế nghĩa là Đức Giê-su coi mình là anh em của các môn đệ và, cùng các môn đệ, gọi Chúa Cha là Thiên Chúa.
4) Đề cập đến ý định Thiên Chúa, thánh Phao-lô có viết cho tín hữu Rô-ma (8,29) rằng : “Những ai Thiên Chúa biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người là Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc (protôtôkôn ên pôllôis adêlphôis). Vì thế, theo thánh Phao-lô, Đức Giê-su là anh, chúng ta là em.
5) Và cũng vì xác tín như vậy mà, trong thư gửi cho tín hữu Cô-lô-xê, tác giả gọi Đức Giê-su là Trưởng Tử và còn nói rõ “Trưởng Tử” theo nghĩa nào : Người là Trưởng Tử, vì sinh ra trước muôn loài thọ tạo, nhưng Người còn là Trưởng Tử trong số người từ cõi chết sống lại (Cl 1,15.18).
6) Sau hết, thiết tưởng không tác giả nào nói rõ ràng tư thế Đức Giê-su muốn có trong mối tương quan giữa Người với các môn đệ cho bằng tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, ngài viết : “Đấng Thánh Hoá (là Đức Giê-su) và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người không hổ thẹn gọi họ là anh em (adêlphôus : Dt 2,11).
Như vậy, trong các cách xưng hô của các bản dịch Việt Nam hiện hành, thì chúng tôi chọn cách xưng hô “Thầy / anh em”, vì theo các bản văn Kinh Thánh thì, đối với các môn đệ, Đức Giê-su muốn cư xử như người anh em. Hơn nữa, chẳng những cách xưng hô “Thầy / anh em” đã phù hợp với tinh thần các bản văn Kinh Thánh, mà các cách xưng hô khác như “Ta / các ngươi” đã bị đánh giá là cũ, lại còn không hợp với bối cảnh bữa Tiệc Ly, vì gợi lên những cảm giác không tốt đẹp.
1) Về từ “Ta”. Theo TĐTV/HN, thì “Ta” đã bị đánh giá là cũ, lại còn bị định nghĩa là “từ dùng để tự xưng khi nói với người khác, thường với tư cách là người trên”. Còn theo TĐVN, thì “Ta” là tiếng tự xưng của người trên đối với kẻ dưới hoặc ngang vai, hoặc với ý kiêu căng.
2) Về từ “ngươi”. Theo TĐTV/HN, thì từ “ngươi” cũng bị đánh giá là cũ, lại còn bị định nghĩa là “từ dùng để gọi người đối thoại, thường là người bề dưới, với ý coi thường”. Còn theo TĐVN thì “ngươi” là tiếng gọi kẻ dưới tay hoặc kẻ nghịch, là tiếng chỉ người cách khinh thường.
Nói tóm lại về cách xưng hô ở Mt 26,26-29 và cũng là lời Truyền Phép. Vì những lý do Kinh Thánh và ngôn ngữ vừa được trình bày, chúng tôi không chọn cách xưng hô “Ta / các ngươi”, “Thầy / các con”, “Ta / anh em”, mà chọn cách xưng hô “Thầy / anh em” như thường gặp trong bản dịch của Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn.
Sau khi trao đổi với nhau nhiều lần, chúng tôi đã quyết định bằng cách bỏ phiếu đến hai lần. Và kết quả là :
- Ngày 09 tháng 07 năm 1987, trong số 15 thành viên có mặt, thì có 10 thành viên tán thành cách xưng hô : “Thầy / anh em”.
- Ngày 14 tháng 01 năm 1988, trong số 16 thành viên có mặt, thì có 11 thành viên tán thành cách xưng hô : “Thầy / anh em”.
62/15 “(Tất cả anh em) cầm lấy (mà ăn).”
Bản La-tinh là : Accipite. Bản Việt Nam là : “(Các con hãy) lãnh nhận.”
Lời Truyền Phép này rút ở Mt 26,26 Hy-lạp và các bản văn song song. Đàng khác, từ mà bản văn dịch là “cầm lấy” là labêtê, do động từ lambano. Nhưng động từ này, trước hết, có nghĩa là “cầm lấy” chứ không phải là “lãnh nhận”. Các bản dịch ngày nay đều theo nghĩa ấy :
- “Prenez” trong Bible de Jérusalem, E. Osty, TOB/NT, ABU ;
- “Take” trong NEB, ABS.
Vì thế, phải dịch là “cầm lấy” chứ không phải “lãnh nhận”.
62/15 “Tất cả anh em cầm lấy.”
Bản La-tinh là : Accipite. Bản Việt Nam là : “Hãy (lãnh nhận).”
Động từ Accipite trong tiếng La-tinh, cũng như động từ Labêtê trong tiếng Hy-lạp, ở lối mệnh lệnh. Trong văn phạm Việt Nam, lối này được mô tả bằng những trợ từ : hãy, nên, xin, v.v. Nhưng, có khi cũng không cần dùng những trợ từ ấy mà vẫn diễn tả được ý khuyên mời hay một mệnh lệnh :
“Bấy lâu mới được một ngày,
Dừng chân, gạn chút niềm tây gọi là.”
Không có trợ từ “hãy”, động từ “dừng chân” vẫn tỏ ý khuyên mời (xem Bùi Đức Tịnh, trang 158). Thì, ở đây, chúng ta cũng có thể bỏ từ “hãy”, cho lời văn được nhẹ nhàng, tự nhiên và thân tình hơn.
62/16 “Đây (là Mình Thầy).”
Bản La-tinh là : Hoc est enim Corpus meum. Bản Việt Nam là : “Này là Mình Ta.”
Câu này rút ở Mt 26,27. Từ “Này” dịch từ Hy-lạp “tôutô.” Tôutô là đại từ chỉ định, giống trung, số ít, có nghĩa là “cái này, cái đây”, làm chủ từ cho động từ êstin. Vì thế, lẽ ra phải dịch là : “Cái này là Mình Ta” ; chỉ có điều lời văn không được tao nhã. Còn nếu dịch : “Này là Mình Ta” thì cũng được ; nhưng, theo TĐTV/HN, thì từ “này” có thể là đại từ, nhưng lại là “phương ngữ”. Còn từ “Đây” thì cũng là đại từ (xem Bùi Đức Tịnh, trang 102), nhưng không bị coi là “phương ngữ”.
Vả lại, nếu trong ngôn ngữ Việt Nam, Đức Giê-su xưng hô với các môn đệ là Thầy chứ không phải là “Ta” (xem số 62/15, trang 57-58) và nếu chúng ta dùng từ “Này”, thì câu văn sẽ là : “Này là Mình Thầy”, nghĩa là trầm quá, vì bốn từ đều ở bậc trầm, giọng bình. Trái lại, nếu chúng ta dùng từ “Đây” thì câu văn bớt trầm.
Do đó, nên dịch là “Đây là Mình Thầy” thay vì “Này là Mình Thầy”.
Vì đây là công thức quan trọng, Uỷ Ban đã quyết định bằng cách bỏ phiếu đến hai lần. Và kết quả là :
- Ngày 09 tháng 07 năm 1987, trong số 15 thành viên có mặt, thì có 9 thành viên tán thành công thức : “Đây là Mình Thầy”.
- Ngày 14 tháng 01 năm 1988, trong số 16 thành viên có mặt, thì có 11 thành viên tán thành công thức : “Đây là Mình Thầy”.
62/17 “Hiến tế (vì anh em).”
Bản La-tinh là : quod pro vobis tradetur. Bản Việt Nam là : “Sẽ bị nộp vì anh em.”
Câu này rút ở Mt 26,26 và các đoạn văn Kinh Thánh song song.
- Mt 26,26 : Hoc est corpus meum.
- Mc 14,22 : Hoc est corpus meum.
- Lc 22,19 : Hoc est corpus meum, quod pro vobis datur.
- 1 Cr 11,23-26 : Hoc est corpus meum, quod pro vobis tradetur.
Khi so sánh câu Truyền phép Thánh Thể với các đoạn văn Kinh Thánh nói trên, chúng ta thấy rằng câu Truyền phép mượn câu “quod pro vobis tradetur” của 1 Cr 11,23-26 và, từ đó, bản văn Việt Nam có câu : “sẽ bị nộp vì anh em”.
Nhưng phải để ý điều này, bản văn Kinh Thánh Hy-lạp không có từ nào diễn tả một cách minh nhiên tư tưởng “tradetur / sẽ bị nộp” cả. Bản Phổ thông đã thêm từ “tradetur” cho bản văn 1 Cr 11,23-26 để quảng diễn cách nói Hy-lạp tô hupêr humon. Vì thế mà bản Phổ thông mới, gọi là Nova Vulgata, đã hiệu đính và bỏ từ tradetur.
- Vulgata : Hoc est corpus meum, quod pro vobis tradetur.
- Vulgata mới : Hoc est corpus meum, quod pro vobis est.”
Vậy phải theo Vulgata hay phải theo Nova Vulgata ? Bản văn Phụng Vụ La-tinh mượn ở bản dịch Vulgata. Mà bản dịch Nova Vulgata dĩ nhiên là chính xác hơn bản Vulgata. Hơn nữa theo Tông hiến Scripturarum thesaurus, Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II ban hành ngày 25 tháng 04 năm 1979, có nói : “Ut ad eam (Novam Vulgatam Editionem) versiones vulgares referantur, quae usui liturgico et pastorali destinantur.” Nghĩa là, đại khái, các bản dịch nhằm phục vụ đại chúng trong lãnh vực Phụng Vụ cũng như mục vụ, đều phải quy chiếu về bản dịch Nova Vulgata này. Thế nghĩa là, chúng ta không phải dịch từ tradetur theo sát nghĩa, sát chữ.
Tuy nhiên, câu quod pro vobis est của bản dịch Nova Vulgata và, đi xa hơn, tô hupêr humon của nguyên văn Hy-lạp 1 Cr 11,23-26 nghĩa là gì ?
1) Trong Tân Ước nói chung và trong trình thuật lập bí tích Thánh Thể nói riêng, thánh Lu-ca và thánh Phao-lô có liên hệ chặt chẽ với nhau về mặt tư tưởng cũng như về mặt văn chương. Mà bản văn Lc 22,19 là tô hupêr humon điđômênôn. Điđômênôn là một động tính từ, có nghĩa là “được ban cho”.
2) Đàng khác, “(tô hupêr humon) điđômênôn” ở Lc 22,19 đi song song với động tính từ (tô hupêr humon) êkkhunnômênôn. Êkkhunnômênôn là “được đổ ra”. Mà “máu được đổ ra” thì, đối lại theo thể văn biền ngẫu, thịt phải được ban cho.
3) Hơn nữa, thịt ấy “được ban cho”, cũng như máu ấy được “đổ ra” trong Giao Ước Mới (Lc 22,20 ; 1 Cr 11,25), như máu bò đã đổ ra làm hy lễ trong Giao Ước cũ (Xh 24,8).
4) Dựa theo ý nghĩa các bản văn Kinh Thánh vừa trích dẫn, các nhà Kinh Thánh xác định nghĩa của từ điđômênôn. Động từ này có ý nói đến thân xác Đức Giê-su được hiến tế trên thập giá (J. Schmid, F. Zoelle, W. F. Arndt và F.W. Gingrich). Và đa số các bản dịch Phụng Vụ nước ngoài cũng diễn tả ý nghĩa “hiến tế” : offerto in sacrificio (Ý), hingegeben (Đức), given up (Anh), v.v.
Sau khi chú giải từ tradetur của bản Phụng Vụ và từ tradetur của bản Phổ thông trong 1 Cr 11,23-26 là nền tảng của từ tradetur của bản văn Phụng Vụ, sau khi chú giải từ điđômênôn của Lc 22,19 là bản văn song song với 1 Cr 11,23-26, nghĩa là bản văn gốc của bản Phổ thông La-tinh, Uỷ Ban đề nghị ra hai từ Việt Nam để lựa chọn : hy sinh và hiến tế.
- Hy sinh. Hy là súc vật tuyền sắc dùng tế thần. Sinh, sanh hoặc sênh là súc vật dùng làm lễ cúng tế. Hy sinh là liều bỏ mạng sống một cách tự nguyện làm lễ tế để mưu ích cho …
- Hiến tế. Hiến là cho cái quý giá của mình một cách tự nguyện. Tế là cúng dâng lễ vật theo nghi thức trọng thể. Hiến tế là cúng dâng mạng sống một cách tự nguyện làm lễ vật.
Theo hai định nghĩa nói trên, thì hai từ “hiến tế” và “hy sinh” đều có vẻ ngang nhau. Có chăng chỉ có một lý do, tuy không nặng ký, nhưng đã làm cho Uỷ Ban nghiêng về từ “hiến tế’. Đó là, trong ngôn ngữ thường ngày nơi người Ki-tô hữu, từ “hy sinh” được hiểu theo nghĩa nhẹ, là nhận về mình sự mất mát, vì một cái gì cao đẹp, nhưng chưa phải chết. Hy sinh một bữa ăn để giúp người nghèo. Tuy nhiên, hy sinh cũng có nghĩa chết vì nghĩa vụ, lý tưởng cao đẹp.
Sau khi trao đổi kỹ càng và nhất là vì phải giải quyết, Uỷ Ban đã bỏ phiếu và, sau đó, đã chọn từ “hiến tế”.
62/17 “Vì (anh em).”
Trong Kinh Thánh, giới từ hupêr, với danh từ hoặc đại từ ở thuộc cách, có nghĩa là “cho, có lợi cho”, khi giới từ ấy nằm trong văn mạch liên hệ đến khổ đau, chết chóc, hiến thân, v.v. (xem Arndt-Gingrich). Mà văn mạch 1 Cr 11,23-26, một cách minh nhiên, liên hệ đến khổ đau, chết chóc, hiến thân : “Trong đêm Người bị nộp” (11,23), “máu đổ ra” (11,25), “chịu chết” (11,26). Nên, ở đây, phiên dịch là : “hiến tế cho anh em, có lợi cho anh em” hoặc “hiến tế vì anh em”, từ “vì” theo cách nói “hy sinh vì tổ quốc”.
63/2 “Vào cuối bữa ăn.”
Bản La-tinh là : postquam caenatum est. Bản Việt Nam là : “sau bữa ăn tối.”
1) Bản La-tinh được rút ở Lc 22,20 (postquam caenavit) và 1 Cr 11,25 (postquam caenavit). Trước hết, phải nhận xét rằng : Lời Truyền phép không những được rút ra từ các đoạn văn Kinh Thánh mà còn rút gọn các đoạn văn ấy (Mt 26,17-29 ; Mc 14,12-25 ; Lc 22,7-23 ; 1 Cr 11,23-26), nên khi đọc Lời Truyền phép, chúng ta dễ có một đôi tư tưởng không đúng với lịch sử. Và đây là một trường hợp.
Khi đọc “sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, …”, chúng ta dễ nghĩ rằng Đức Giê-su truyền phép Bánh trong bữa ăn tối, rồi Người truyền phép Rượu sau bữa ăn tối, và có thể là ngoài bữa ăn hoặc trong một bữa ăn khác. Nhưng, theo các sách Nhất Lãm (Mt 26,26-29 và Mc 14,22-25) cũng như theo truyền thống được lưu lại, thì Đức Giê-su đã truyền phép Bánh và Rượu trong cùng một bữa ăn và trong những lúc quan trọng nhất (xem J. Ricciotti, Vie de Jésus Christ, Paris 1954, Payot, trang 73 và 601).
2) Động từ dêipnesai có nghĩa là “ăn tối”, nhưng cũng có nghĩa là “ăn”, “ăn tiệc” (xem Arndt-Gingrich). Vì thế mà các bản văn nước ngoài dịch là “bữa ăn” (Bible de Jérusalem, TOB/NT, La Sainte Bible en français courant trong Lc 22,20 ; 1 Cr 11,25 : repas).
Vì những lý do ấy, Uỷ Ban đề nghị dịch là : “Vào cuối bữa ăn.”
63/6 “(Người cầm lấy) chén rượu.”
Bản La-tinh là Calicem. Bản Việt Nam là : “chén”. Từ pôteriôn trong tiếng Hy-lạp cũng như từ “calix” trong tiếng La-tinh, là chén nước, chén rượu. Nhưng, trong tiếng Việt, từ “chén” cũng có nghĩa là “chén cơm” :
“Tới đây mượn chén ăn cơm,
mượn ly uống rượu, mượn đàn kéo chơi”
(Đức Trụ, chén).
Vì thế, nên thêm từ “rượu” để nói rằng đây là chén rượu và có rượu.
63/13 “Máu Giao Ước Mới, Giao Ước vĩnh cửu.”
Bản La-tinh là : Sanguinis mei, novi et aeterni testamenti. Bản Việt Nam là : “Máu Ta, Máu tân ước vĩnh cửu.”
1) Đồng ý rằng “tân” là mới, ước là Giao Ước. Nhưng, công thức “Máu tân ước vĩnh cửu” không nhấn mạnh đủ hai đặc tính của Giao Ước Đức Giê-su thiết lập, là “vĩnh cửu” và nhất là “mới”. Hơn nữa, ngày nay, từ “Tân Ước” thường dùng để chỉ phần thứ hai của sách Kinh Thánh : Tân Ước. Vì thế, nên nói rõ ràng là : “Giao Ước Mới”.
2) Một khi đã chấp nhận công thức : “Giao Ước Mới”, thì nên thêm từ “Giao Ước”. Nếu dịch “Giao Ước Mới và vĩnh cửu” câu văn không được tốt đủ : một đàng thì Việt, một đàng lại Hán đi sát bên nhau.
Vì muốn câu văn Phụng Vụ quan trọng này được rõ ràng, cân đối và dễ hiểu, Uỷ Ban đề nghị dịch thế này : “Máu Thầy, Máu Giao Ước Mới, Giao Ước vĩnh cửu.”
63/14 “Muôn người (được ơn tha tôi).”
Bản La-tinh là : pro multis. Bản Việt Nam là : “nhiều người”. Câu này rút từ Mt 26,28 và liên hệ đến Is 53,12. Nhưng từ Hy-lạp pôllôi trong Mt 26,28 cũng như từ Híp-ri rabbim trong Is 53,12 có nghĩa là toàn thể dân Ít-ra-en, mà còn có nghĩa toàn thể dân cư trên mặt đất (Is 42,5-6 ; 44,7 ; 49,9 và 53,8 ; xem TOB/NT, 830, chú thích z). Vì thế mà bản Kinh Thánh nước ngoài dịch theo nghĩa phổ quát. BJ dịch là “la multitude”, rồi còn cắt nghĩa : “Jésus s’attribue la mission de rédemption universelle assignée par Isaie au Serviteur de Yahvé” (BJ, 1452, chú thích g). TOB/NT dịch là “la multitude” và còn nói rõ hơn : “pour la multitude, c’est à dire, selon le sens sémitique de la formule, pour l’ensemble des hommes (xem TOB/NT, 115, chú thích j). Nhiều bản văn Phụng Vụ nước ngoài cũng dịch theo nghĩa ấy : “all men” (Anh), “tutti” (Ý), “todos los hombres” (Tây Ban Nha), “todos os homens” (Bồ Đào Nha), v.v.
Uỷ Ban đề nghị hai từ : “mọi người” và “muôn người”. Sau cùng, Uỷ Ban chọn từ “muôn người”, vì từ này giống với từ Hy-lạp và từ Híp-ri rabbim trong nhiều điểm. Thật vậy, từ “muôn người” có vẻ hạn chế nếu hiểu theo nghĩa đen, nhưng lại rất là phổ quát nếu hiểu theo nghĩa bóng (x. TĐTV/HN). Ví dụ : “Việt Nam muôn năm” không có nghĩa là “muôn năm mà thôi” nhưng là “mọi năm, đời đời”. Nhưng nói “Việt Nam, mọi năm” thì không còn là thanh nhã nữa. Cũng vì một lẽ tương tự, Uỷ Ban chọn từ “muôn người”.
63/16 “tưởng nhớ (đến Thầy).”
Bản La-tinh là : in meam commemorationem. Bản Việt Nam là “mà nhớ đến Thầy.”
Từ commemorationem rút ở Lc 22,19 hoặc 1 Cr 11,25 êis ten êmen anamnesin. Để dịch từ súc tích và phong phú này (xem Notitiae số 54, trang 199), chúng ta thường dùng từ “nhớ” hoặc “tưởng nhớ”.
- Nhớ là nghĩ đến với tình cảm mong được gặp, được thấy.
- Tưởng nhớ là nhớ đến, nghĩ đến (thường là người đã chết) với tình cảm thiết tha (xem TĐTV/HN).
So sánh hai định nghĩa, chúng ta thấy từ “tưởng nhớ” có thêm hai đặc tính sâu xa : Đó là tình cảm thiết tha và nhất là tưởng niệm về người đã chết. Trong mạch văn Lc 22,19, (và cũng là văn mạch của Lời Truyền phép), Đức Giê-su sắp chịu khổ hình (22,11), xác sắp hiến tế (22,19) và máu sắp đổ ra vì môn đệ (22,20). “Mà Người bảo làm” việc này “để nhớ đến Người, để loan truyền Người đã chịu chết” (1 Cr 11,26).
Nên Uỷ Ban chọn từ “tưởng nhớ”.
64/2 “Đây là mầu nhiệm đức tin.”
Có ba lời tung hô. Mỗi lời có hai phần, một của chủ tế, một của cộng đoàn. Trong ba lời, phần chủ tế giống nhau, nhưng phần của cộng đoàn lại khác nhau. Vì thế, thường xảy ra hai trường hợp. Một là, sau khi chủ tế xướng lên, cộng đoàn quanh năm ngày tháng cũng chỉ trả lời theo một kiểu. Thế là Phụng Vụ hoá ra nghèo nàn. Hai là, sau khi chủ tế xướng lên, cộng đoàn trả lời mỗi người theo một kiểu và, kết quả, kiểu nào có đông người hoặc tiếng to, mới lấn át. Thế là lộn xộn ngay vào trung tâm Thánh lễ.
Để cho Phụng Vụ được phong phú và để tránh lộn xộn trong Thánh lễ, nhiều Uỷ Ban Phụng Tự nước ngoài làm ba câu xướng khác nhau cho ba câu đáp cũng đã khác nhau sẵn. Uỷ Ban Phụng Tự Việt Nam cũng đề nghị như thế.
1) Câu thứ nhất : “Đây là mầu nhiệm đức tin.”
Bản Việt Nam của câu đáp có những từ cần xét lại.
- “Lạy Chúa / Domine”. Theo ý nghĩa của câu, chúng ta thấy rằng, trong các lời tung hô, chúng ta thưa cùng Đức Ki-tô. Nhưng, trong các bản dịch Phụng Vụ, từ “Chúa” thường được dùng chỉ Chúa Cha. Nên phải dịch từ Domine của câu tung hô là “Lạy Chúa Ki-tô”, thêm từ “Ki-tô” cho rõ nghĩa.
- “Cho tới khi Chúa lại đến / donec venias”. Câu này rút ở 1 Cr 11,26 ; nhưng hỏi : tuy giữ ngôn ngữ của nguyên văn, mệnh đề phụ chỉ thời gian này có nghĩa gì ? Theo các nhà Phụng Vụ, thì mệnh đề này không những có nghĩa thời gian, mà còn muốn nói lên lòng xác tín và mong đợi (L. Ligier, La Maison-Dieu, số 87, trang 24). Bởi thế, Uỷ Ban biến mệnh đề phụ này (donec venias) thành một mệnh đề độc lập, vì đó cũng là tín điều thiết yếu như hai tín điều trên (Chúa đã chịu chết, Chúa đã sống lại).
Cũng vì muốn làm nổi bật ba tín điều, bản dịch Phụng Vụ tiếng Anh còn bỏ cả hai động từ “loan truyền” và “tuyên xưng”, và chỉ còn lại có ba động từ thiết yếu nói lên ba tín điều : “Christ has died, Christ is risen, Christ will come again”. Không đi xa đến thế, chúng tôi chỉ lặp lại ba lần “chúng con” để nhấn mạnh sự xác tín của cộng đoàn vào mỗi tín điều. Đây là vấn đề văn chương, chứ không phải vấn đề tư tưởng, vì nghĩa “chúng con” đã nằm trong các động từ annuntiamus, confitemur.
2) Câu thứ hai : “Chúng ta hãy tuyên xưng mầu nhiệm đức tin.”
Trong câu đáp, Uỷ Ban cho thêm :
- từ “Ki-tô”, vì lý do đã nói nhân câu thứ nhất.
- từ “(Ki-tô) Phục Sinh”, để quảng diễn một chút tư tưởng quá ngắn gọn do mượn ở 1 Cr 11,26 : Đấng mà chúng ta “loan truyền đã chịu chết và đang đợi chờ”, Đấng ấy đã Phục Sinh.
3) Câu thứ ba : “Cao cả thay, mầu nhiệm đức tin.”
Trong câu đáp, có hai từ cần nói qua :
- Bản Việt Nam là : “Chúa đã dùng thập giá và việc Chúa sống lại để giải thoát.” Xin dịch lại là : “Chúa đã chịu khổ hình thập giá và sống lại vinh quang để giải thoát”.
- “Muôn người”. Uỷ Ban dịch là : “giải thoát muôn người” thay vì “giải thoát chúng con” (nos). “Đấng Cứu Thế” (Salvator mundi) thì phải giải thoát “chúng con”, mà còn phải giải thoát “tất cả những ai tin vào Người” (x. Ga 3,15-16). Vả lại, hai từ “muôn người” làm cho câu văn thêm thanh “huyền” bớt thanh “ngang”.
71/2 “Chính nhờ Đức Ki-tô”
Bản La-tinh là : Per ipsum, … Bản Việt Nam là : “Chính nhờ Người.”
Đây là câu hậu tụng của kinh Tạ Ơn, là một “Vinh tụng ca”. Do đó, khó mà dịch sao cho gọn gàng, súc tích. Thay vì từ “Người” ba lần, chúng tôi nhắc lại “Đức Ki-tô” ba lần vì hai lý do. Một là cho câu văn của Vinh tụng ca thêm long trọng. Hai là đại từ “Người” thay thế danh từ “Đức Ki-tô”. Nhưng, giữa danh từ và đại từ, có một đoạn văn khá dài và, đàng khác, cũng giữa danh từ và đại từ ấy, chủ tế còn phải ngừng lại để cầm đĩa thánh và chén thánh, nâng cả hai lên, rồi mới đọc : “Chính nhờ Người, …” Vì thế, cần phải lặp lại rõ ràng : “Chính nhờ Đức Ki-tô.”
Các bản dịch Phụng Vụ Ý và Bồ Đào Nha cũng làm như thế.
71/5 “Hiệp cùng Chúa Thánh Thần.”
Bản La-tinh là : in unitate Spiritus Sancti. Bản Việt Nam là : “Cùng với Chúa Thánh Thần muôn đời.”
Câu này khó dịch, bởi ý nghĩa không được rõ ràng. Vì thế mà các chuyên gia Phụng Vụ không nhất trí và, đại khái, đề nghị hai cách hiểu chính như sau :
1) Câu này có ý nói về việc Chúa Thánh Thần hiệp nhất chúng ta lại thành một thân thể là Hội Thánh, để chúng ta có thể nhờ Đức Ki-tô mà dâng lên Thiên Chúa mọi tôn vinh chúc tụng (Jungmann, Roguet).
2) Câu này có nghĩa như câu kết dài của lời nguyện và, cũng như “in unitate Spiritus Sancti” của câu kết dài ấy, có ý nhấn mạnh đến sự hiệp nhất trong Thiên Chúa Ba Ngôi (Maertens, Denis-Boulet).
Các bản văn Phụng Vụ nước ngoài để mập mờ như bản La-tinh. Trái lại, bản dịch tiếng Anh nghiêng về ý kiến thứ nhất. Uỷ Ban theo ý kiến thứ nhất này, vì ý kiến này có vẻ mới mẻ và phong phú sau một kinh Tạ Ơn.
Và vì thế, cần phải đưa câu “hiệp nhất với Chúa Thánh Thần” (in unitate Spiritus Sancti) lên trước câu “thuộc về Cha” (Deo Patri).
71/6 “Vinh quang và danh dự.”
Bản La-tinh là : honor et gloria. Bản Việt Nam là : “Chúc tụng và vinh quang.”
Thay vì “chúc tụng” hoặc, đúng hơn, “lời chúc tụng”, Uỷ Ban dịch từ “honor” là “danh dự”. Đồng thời, cũng xin đảo lộn hai từ “vinh quang” và “danh dự” để có một thanh bậc trầm giọng khứ giữa những thanh bậc bổng giọng ngang và bậc trầm giọng bình cuối câu (Ki-tô, Thánh Thần, danh dự, toàn năng, muôn đời, A-men).
4. Nghi thức hiệp lễ
Kinh Lạy Cha
Trong Tân Ước, có hai bản kinh Lạy Cha, một trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu (6,9-13), một trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca (11,2-4). Hội Thánh đã chọn kinh Lạy cha theo thánh Mát-thêu để đọc trong kinh nguyện.
Dịch kinh Lạy Cha từ tiếng Hy-lạp sang các tiếng khác không phải là chuyện dễ. Một là vì bản văn Hy-lạp mang nhiều dấu vết sê-mít. Hai là vì có nhiều cách nói được mượn ở Cựu Ước và ở Do-thái giáo cổ xưa. Vì thế, các nhà Kinh Thánh không nhất trí với nhau về nghĩa của từ ngữ này (x. Mt 6,11) hoặc của công thức kia (Mt 6,13).
Tuy nhiên, Uỷ Ban không chủ trương phỏng dịch bất chấp những từ ngữ Kinh Thánh quan trọng (như : Danh Thánh, vương quyền, ý …). Nhưng Uỷ Ban cũng không chủ trương dịch sát chữ bất kể câu văn có tối nghĩa hoặc sai nghĩa thần học. Đó là lý do tại sao, thỉnh thoảng, bản dịch có một vài từ ngữ hơi lạ.
96/6 “(Lạy Cha) chúng con.”
Bản La-tinh là : Pater noster. Bản Việt Nam là : “Lạy Cha chúng con”.
Dịch như thế là sát nghĩa, lại sát chữ. Theo một vài người khi chào, người Việt Nam không nói : “Chào cha của con” (như trong tiếng Pháp : Bonjour, mon père), “chào cha của chúng con”, mà chỉ nói : “chào cha”. Đàng khác, cũng trong kinh Lạy Cha, thánh Lu-ca (11,2) không có ghi sở hữu đại từ hemon (chúng con), mà chỉ ghi : “Lạy Cha” (Patêr). Sau hết, trong kinh Qaddish, là một lời chúc lành rất giống với kinh Lạy Cha, được người Do-thái dùng sau buổi kinh nguyện, cũng không có những từ “chúng con”. Vì những lẽ ấy, có người đề nghị bỏ chữ “chúng con”.
Tuy nhiên, từ “hemon” ở trong kinh Lạy Cha không phải chỉ là một công thức văn chương ; trái lại, nó nhằm nói lên mối tương quan giữa Thiên Chúa và người tín hữu. Đối với người tín hữu, Thiên Chúa chẳng những là Đấng Tạo Hoá, mà còn là Cha : nhờ ơn tái sinh (Ga 3,5-16 ; 10,10), người tín hữu trở thành anh em với Đức Giê-su (Ga 20,7) và, do đó, được kêu Thiên Chúa là Cha (Ga 1,12 ; 20,17 ; xem TOB/NT, 348, chú thích i). Vì thế, phải giữ từ “chúng con”. Đây là một trong những trường hợp mà văn chương phải nhường quyền ưu tiên cho ý nghĩa.
96/6 “Đấng ngự trên trời.”
Bản Hy-lạp là : hô ên tôis ôuranôis. Bản La-tinh dịch là : Qui es in caelis, và bản Việt Nam dịch là : “(Lạy Cha chúng con) ở trên trời”.
Các chữ Hy-lạp “âhô ên tôis ôuranôis” đưa về từ “patêr” : nghĩa là “Cha ở trên trời”, chứ không phải “chúng con” ở trên trời. Vì thế, phải dịch làm sao cho các chữ Hy-lạp ấy hợp với từ “Cha”. Đàng khác, người phiên dịch phải lưu tâm đến những nét đặc thù của sách mình dịch. Mà một trong những đặc thù của sách Tin Mừng theo thánh Mát-thêu là quan niệm : “Thiên Chúa ngự trên trời”. Dĩ nhiên, Thiên Chúa là Chúa Tể càn khôn, hiện diện khắp nơi. Nhưng, theo quan niệm bình dân, Đấng ấy phải ở một chỗ hết mực xứng đáng và, đàng khác, cũng theo quan niệm bình dân, không có chỗ nào cao cả và xứng đáng với Thiên Chúa hơn các tầng trời. Vì thế mà Thiên Chúa hiện diện nơi kín đáo (Mt 6,6.18) và thấu suốt những gì kín đáo (Mt 6,4.18), nhưng Đấng ấy ngự trên trời (Mt 6,9 ; 7,21 ; 10,32.33 ; 12,50 ; 16,17 ; 18,10.19 ; 5,16.45 ; 6,1.9 ; 7,11 ;18,14 ; xem TOB/NT, 58, chú thích w). Mạo từ hô cũng cho thấy tác giả nhấn mạnh quan niệm ấy : Đấng ấy ngự trên trời.
Vậy, để tách biệt từ “ở trên trời” ra khỏi từ “chúng con” và liên kết với từ “Cha” và, đồng thời, để làm nổi bật tư tưởng đặc thù của thánh Mát-thêu, Uỷ Ban đề nghị dùng từ “Đấng” : “Đấng ngự trên trời”. Từ “Đấng” đứng giữa từ “chúng con” và những từ “ở trên trời”, đưa các từ “ở trên trời” về với từ “Cha”. Như thế, chúng ta sẽ không còn nghe những câu kinh nghịch nghĩa một cách vô ý thức : kẻ xướng vừa đọc “Lạy Cha”, cộng đoàn đã đọc tiếp : “Chúng con ở trên trời”. Hơn nữa, từ “Đấng” còn nhấn mạnh tư tưởng của câu kinh : “Chúa Cha, là Đấng ngự trên trời.”
96/7 “Xin làm cho (danh Cha hiển thánh).”
Kinh Lạy Cha dâng lên Thiên Chúa bảy lời cầu. Trong các động từ nói lên bảy lời cầu ấy, một động từ ở lối tiếp thuộc (êisênêgkes), còn sáu động từ kia ở lối mệnh lệnh. Và hai lối mệnh lệnh cũng như tiếp thuộc đều diễn tả mệnh lệnh, ước muốn.
Ba lời nguyện đầu tiên là : Danh Chúa hiển thánh, Vương quyền Người mau đến và Ý Người thành tựu. Nhưng, theo mạch văn Mt 6,8-9 thì Đấng thực hiện các lời cầu ấy là Thiên Chúa. Vì thế, phải bắt đầu ba lời nguyện bằng câu : “Xin làm cho”.
96/7 “(Xin làm cho Danh Cha) hiển thánh”.
Bản Hy-lạp là : Hagiastheto tô ônôma sôu. Bản La-tinh là : Sanctificetur nomen tuum. Bản Việt Nam là “Danh Cha cả sáng.”
Câu văn Việt Nam có lẽ đã quá xưa và khó hiểu, nên cần phải dịch lại.
Dịch sát, câu văn sẽ là : “Xin Danh Cha được thánh hoá.” Nhưng nói như vậy là sai. Theo quan niệm và ngôn ngữ Do-thái, danh của ai là chính người ấy và, như thế, danh của Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Do đó, xin cho Danh của Thiên Chúa được thánh hoá tức là xin cho Thiên Chúa được thánh hoá. Nhưng Thiên Chúa là Đấng Thánh (Is 6,3). Nên thánh hoá Danh của Thiên Chúa không có nghĩa là thánh hoá Thiên Chúa. Vậy, phải hiểu thế nào ?
Muốn hiểu, trước hết, phải đọc những đoạn văn có lối nói : “thánh hoá Danh Thiên Chúa” và dựa trên những mạch văn mà tìm hiểu. Theo các mạch văn ấy, nhất là theo Ed 36,20-28 thì “thánh hoá Danh Thiên Chúa” có nghĩa là :
- Danh Người vốn là thánh, là vĩ đại, xin Người làm sao cho đừng ai xúc phạm, làm ô danh ấy ;
- Làm cho loài người nghe biết và nhìn nhận Người là Đấng Thánh ;
- Và, như thế, là làm cho Danh thơm, tiếng tốt của Người được lẫy lừng giữa chư dân.
Nghĩa của từ là như thế. Bây giờ phải dịch.
Chú giải đã khó, nhưng phiên dịch càng khó hơn. Sau mấy lần trao đổi, đa số đồng ý với nhau về danh từ “hiển thánh”. Thay vì dịch từng chữ là “Xin làm cho Danh Cha được nên thánh”, chúng tôi đề nghị công thức “Xin làm cho Danh Cha hiển thánh”.
Theo các từ điển thì, đại khái, từ “hiển” có nghĩa là “hoá thành”, nhưng cũng có nghĩa là “làm cho thiên hạ thấy rõ”. Nên, “Xin làm cho Danh Cha hiển thánh” là xin làm cho muôn loài muôn vật thấy rõ rằng Danh Thiên Chúa là Thánh, Thiên Chúa là Đấng Thánh.
96/8 “Vương quyền (Cha)”.
Bản Hy-lạp là : êltheto he basilêia sôu. Bản La-tinh là : Adveniat regnum tuum. Bản Việt Nam là : “Nước Cha trị đến”.
Từ Hy-lạp basilêia, cũng như từ La-tinh regnum, đã được bàn đến khi chú thích từ La-tinh regnum trong kinh Tin Kính. Ở đây, chỉ xin tóm lại mà thôi. Từ Hy-lạp basilêia có ba nghĩa chính này, là : vương quyền, triều đại và nước.
- Vương quyền là chính quyền nhà nước, đứng đầu là vua.
- Triều đại là thời gian trị của một vị vua hay một dòng vua : triều đại Quang Trung qua, triều đại Gia Long đến.
- Nước, trước hết là vùng đất. Nước Việt Nam là vùng đất nam giáp biển Nam Hải, bắc giáp nước Trung Hoa.
Vậy, ở Mt 6,10 từ basilêia phải dịch thế nào ? Chắc chắn phải dịch là Vương quyền hoặc Triều đại, chứ không thể dịch là Nước được.
1) Xét về ngôn ngữ. Nước là một vùng đất trước sau như một, dù cho trong vùng đất này có nhiều chế độ thay nhau đến rồi qua đi. Vì thế, chế độ này qua đi, chế độ kia đến, chứ Nước không đến mà cũng chẳng qua đi.
2) Xét về thần học. Loài người sống dưới Vương quyền Xa-tan quỷ dữ. Hôm nay, cũng trên loài người ấy, chúng ta xin cho Vương quyền của Xa-tan qua đi và xin cho Vương quyền Thiên Chúa đến, như các ngôn sứ đã từng tiên báo qua các thời đại.
Nói tóm lại, thay vì “Nước”, Uỷ Ban dùng từ “Vương quyền”. Khi Thiên Chúa giải thoát và thống trị loài người, thì đó là Vương quyền của Người được thể hiện và Triều đại của Người đã đến. Và đó chính là điều chúng ta kêu cầu khi đọc kinh Lạy Cha.
96/8 “(Vương quyền Cha) mau đến.”
Bản Hy-lạp là : êltheto he basilêia. Bản La-tinh là : Adveniat regnum tuum. Bản Việt Nam là : “Nước Cha trị đến”.
Dịch như thế, thiết tưởng chưa hết ý của lời nguyện. Theo quan niệm người Do-thái bấy giờ, vương quyền của Thiên Chúa trước sau gì cũng phải đến, bởi lẽ Thiên Chúa đã hứa (Ga 11,27 ; 6,14 ; 1,9 ; Mt 11,3 ; Lc 7,19). Nên Đức Giê-su không cần phải dạy “Xin vương quyền Thiên Chúa”, nhưng Người muốn dạy : “Xin Vương quyền Thiên Chúa đến mau.”
Theo lịch sử cứu độ, thì Vương quyền ấy đã đến với Đức Giê-su (Mt 4,17 ; 3,2 ; xem TOB/NT, 48, chú thích h). Người đã đến chu toàn sứ mệnh cứu độ, rồi Người lại đi về cùng Chúa Cha, nhưng hẹn ngày trở lại (Ga 14,3 ; Mt 16,27 ; 25,31 ; 1 Tx 4,16-17 ; 1 Cr 11,26 ; 16,22 ; Kh 22,17.20 ; 1 Ga 2,28). Theo lời kết của sách Khải huyền, Đức Giê-su khẳng định Người đến ngay tức khắc và khẳng định đến ba lần như vậy (Kh 22,7.12.20) rằng : “Đây, Ta đến ngay tức khắc”. Cùng với người tín hữu mọi thời đại, chúng ta mong đợi Đấng Cứu Độ và Vương quyền Thiên Chúa mau đến thế gian và trở lại ngay tức khắc.
Vì thế mà Uỷ Ban thêm chữ “mau”, để diễn tả tư tưởng của Mt 6,10 và tâm trạng của Kh 22,7.12.20. Và câu kinh sẽ là : “Xin cho vương quyền Cha mau đến.”
Dù sao, lời nguyện “Nước Cha trị đến” phải nói là khó hiểu, lạ tai vì hai lẽ đơn sơ này. Một là ít khi ai nói : “Nước của một nhà vua đến”, không ai nói “nước Việt Nam đến”. Hai là cũng phải lưu ý nhiều mới thấy được chữ “trị” đi với chữ “Cha” hay đi với chữ “đến” : thiết tưởng, trong ngôn ngữ Việt Nam, không có động từ “trị đến”, mà chỉ có hai động từ, là “trị” và “đến”. Nếu vậy thì câu kinh phải hiểu rằng : “Nước mà Cha trị, Vương quyền mà Cha đứng đầu, chúng con xin cho Nước ấy đến, chúng con xin cho Vương quyền ấy đến”.
96/9 “(Ý Cha) thành tựu.”
Bản Hy-lạp là : g(h)ênetheto tô thêlema sôu. Bản La-tinh là : Fiat voluntas tua. Bản Việt Nam là : “Ý Cha thể hiện.”
“Thể hiện” là làm cho thấy rõ nội dung trừu tượng nào đó bằng hình thức cụ thể. Nhưng, ở đây, không phải chỉ có đi từ nội dung trừu tượng sang hình thức cụ thể. Quả vậy, thì ao-rít của động từ g(h)inômai ám chỉ một việc đã hoặc phải được thực hiện một cách toàn diện và đúng mức (xem F. M. Abel, Grammaire du Grec Biblique (Paris 1927, Gabalda, 254-257 ; TOB/NT, 58, chú thích z). Nếu vậy thì chúng ta xin cho Thánh Ý Thiên Chúa chẳng những được thể hiện (đi từ trừu tượng đến cụ thể), mà còn phải được “thành tựu” nữa. “Thành tựu” là thành công một cách tốt đẹp. Và lời nguyện sẽ là : “Xin làm cho Ý Cha thành tựu dưới đất cũng như trên trời.”
96/10 “lương thực cần dùng”.
Bản Hy-lạp là : artôn êpiôusiôn. Bản La-tinh là : panem quotidianum. Bản Việt Nam là : “Lương thực hằng ngày.”
Nhưng êpiôusiôs nghĩa là gì ? Đây là một trong những từ khó hiểu và khó dịch nhất trong Tân Ước. Hơn nữa, trong toàn bộ Tân Ước, từ ấy chỉ tìm thấy có một lần ở đây mà thôi, nên không có văn mạch nào khác giúp tìm hiểu. Phương pháp còn lại là ngữ nguyên. Dưới đây là những ngữ nguyên và ý nghĩa của từ êpiôusiôs được các tác giả đề nghị.
1) “Cần dùng.”
Từ êpiôusiôs có thể do từ êpi và từ ôusia mà ra và có nghĩa là “cần để sống”. Nên artôs êpiôusiôs là bánh cần dùng để sống. Nghĩa này phù hợp với tư tưởng Đức Giê-su, vì kinh Lạy Cha nằm trong văn mạch Mt 6,1-34. Mà, theo văn mạch này, thì người môn đệ của Đức Giê-su không nên quá lo lắng đến kho tàng (6,19), đến tiền của (6,24) và đến ngày mai, vì “ngày mai, cứ để ngày mai lo” (6,17). Còn về ngữ nguyên, tuy không được chắc chắn (TOB/NT, 59, chú thích b), nhưng cũng có thể được (J. Carmignac, trang 130).
2) “Ngày mai.”
Từ êpiôusiôs có thể do động từ êpêimi mà lối vô định là êpiênai (chứ không phải êpêinai) và có nghĩa là sắp đến, tương lai (xem A. Bailly, Dictionnaire Grec-Francais, từ êpiôusiôs). Nên artôs êpiôusiôs là bánh tương lai, bánh cho ngày mai. Tuy nhiên, nghĩa này không phù hợp với tư tưởng Đức Giê-su. Vì Người dạy : “Anh em đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai, cứ để ngày mai lo” (Mt 6,34).
3) “Ngày nay.”
Từ êpiôusiôs có thể do từ êpi ten ôusan (hiểu ngầm hemêran) và có nghĩa là “ngày nay”. Nên artôs êpiôusiôs có nghĩa là bánh ngày nay. Nghĩa này rất thích hợp với tư tưởng Đức Giê-su như đã nói trên. Tuy nhiên, ngữ nguyên không được cho là chắc lắm (J. Carmignac, trang 132).
Theo một số tác giả khác, từ êpiôusiôs cũng có nghĩa là “ngày nay”, nhưng lại do động từ êpêimi-êpiênai và, một cách xác định hơn, do từ ngữ he êpiôusia (hiểu ngầm hemêra). Từ ngữ này thường có nghĩa là “ngày sắp đến, ngày mai”, như vừa nói ở số 2). Nhưng từ ngữ ấy cũng có nghĩa là “ngày nay”. Nên artôs êpiôusiôs nghĩa là “bánh ngày nay”. Về ngữ nguyên, lối cắt nghĩa này có vẻ vững chắc. Còn về ý nghĩa của từ ngữ, chúng ta cũng thấy có trong văn chương đời và đạo, chẳng hạn : Platon, trong Criton 44A ; Xenophon, trong Anabase I,7,2 ; sách Châm ngôn trong Kinh Thánh 27,1 (xem J. Dupont, trang 24 ; TOB/NT, 59, chú thích b ; J. Carmignac, trang 135). Còn về ý nghĩa của mạch văn thì, như vừa nói trên, nghĩa này rất phù hợp với tư tưởng Đức Giê-su, vì Người dạy đừng quá lo lắng về ngày mai và, vì thế, chỉ xin lương thực cho ngày nay.
4) “Hằng ngày.”
Sau hết, bản La-tinh dịch từ êpiôusiôs là quotidianus, nghĩa là “hằng ngày”. Nên artôs êpiôusiôs là lương thực hằng ngày. Tuy nhiên, nghĩa này cũng không phù hợp với điều Đức Giê-su dạy, vì xin bánh hằng ngày là xin cho ngày nay, mà còn xin cho ngày mai, cho tương lai. Mà xin như thế là trái với điều Người dạy. Thực ra, nếu muốn dịch êpiôusiôs là “hằng ngày”, thì có thể dịch như vậy trong kinh Lạy Cha của sách Tin mừng theo thánh Lu-ca. Thật vậy, thánh Lu-ca dùng động từ điđômi ở thì hiện tại. Mà thì hiện tại trong văn phạm Hy-lạp chỉ một hành động liên tục. Vả lại, theo thánh Lu-ca, Đức Giê-su dạy chúng ta xin bánh mỗi ngày (kath’hemêran). Nên có thể dịch artôs êpiôusiôs là bánh hằng ngày (xem M. Zerwich, Analysis, Lc 11,3 từ êpiôusiôs). Nhưng, trong kinh Lạy Cha của sách Tin Mừng thứ nhất, thánh Mát-thêu dùng động từ điđômi ở thì ao-rít. Mà thì ao-rít, trong văn phạm Hy-lạp, thường chỉ một hành động duy nhất, chính xác (xem J. Dupont, trang 25 ; M. Zerwich, Graecitas biblica (Romae 1960, Instituto Biblico) trang 75 số 242). Nên artôs êpiôusiôs trong sách Tin Mừng theo thánh Mát-thêu không thể dịch là “bánh hằng ngày” được. Và, như vậy, bản dịch Việt Nam không được chính xác cho lắm.
Nói tóm lại, từ êpiôusiôs trong Mt 6,11 chỉ có thể có hai nghĩa mà thôi : hoặc là “cần dùng”, hoặc là “hôm nay, ngày mai”. Sau khi đắn đo, Uỷ Ban cho nghĩa “cần dùng” vì những lý do sau đây. Một là ý nghĩa của lời nguyện : xin bánh cần dùng cho phù hợp với tư tưởng Đức Giê-su hơn. Hai là nhiều tác giả theo nghĩa ấy (xem X. E. Lohmeyer, Das Vater unser, trang 144 ; J. Jérémias, Paroles de Jésus, trang 77 ; P. Bonnard, L’Evangile selon saint Matthieu (Paris 1963), Delachaux trang 86-87). Ba là ý nghĩa “bánh hôm nay” và “bánh cần dùng” cũng không đối nghịch, nếu chưa phải là đồng nghĩa. Bốn là vấn đề văn chương : nếu chúng ta dịch từ êpiôusiôs là “ngày nay, hôm nay”, thì lời nguyện sẽ là : “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hôm nay”.
“Hôm nay” hoặc “ngày nay” lặp lại hai lần trong một lời cầu ngắn, thiết tưởng không xuôi tai cho lắm.
96/11 “(Xin tha) tội”.
Bản Hy-lạp là : ôphêilemata. Bản La-tinh là : debita. Bản Việt Nam là : “nợ”.
Từ ôphêilêma có nghĩa là “nợ”. Nhưng, cũng trong kinh Lạy Cha, thánh Lu-ca lại viết : “tội” (xin tha “tội”). Vậy phải dịch “nợ” hay “tội” ?
Nợ ở đây là nợ chúng ta mắc với Thiên Chúa, nên không phải là nợ bạc tiền, nhưng là những lỗi lầm. Sở dĩ thánh Lu-ca dịch là “tội” (hamartias), còn thánh Mát-thêu dịch là “nợ” (ôphêilemata), là do ảnh hưởng tiếng A-ram : theo các tác giả, thì sách Tin Mừng Mát-thêu bằng hy ngữ được dịch từ tiếng A-ram, là tiếng Đức Giê-su nói khi giảng dạy. Mà, trong tiếng A-ram, từ “khôba” có nghĩa là nợ ; đặc biệt trong ngôn ngữ các thầy Ráp-bi, từ ấy còn có nghĩa là “tội” (xem W. F. Arndt và F. W. Gingrich, từ ôphêilema, ôphêilo, trang 603). Do đó, có sự khác biệt giữa hai thánh Mát-thêu và Lu-ca về danh từ (xem J. Jérémias, Paroles de Jésus, trang 61). Nhưng, tựu trung, nghĩa của từ vẫn là một : “tội” nghịch cùng Thiên Chúa, vì tội là gì nếu không phải điều thiếu sót như nợ với Thiên Chúa ?
Bản dịch Việt Nam đang dùng từ “nợ”. Nhưng, trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “nợ” không có nghĩa là ‘tội”. Vì thế, để lời nguyện được rõ nghĩa, tưởng nên dịch từ ôphêilema là “tội’ (xem M. Zerwich, Analysis, Mt 6,12 ; TOB/NT, 59, chú thích c). Và câu kinh sẽ là : “Xin tha tội cho chúng con.”
96/12 “(có) lỗi”.
Bản Hy-lạp là ôphêilêtais. Bản La-tinh là : debitoribus. Bản Việt Nam là : “kẻ có nợ”.
Từ ôphêilema là nợ, là tội. Cũng vậy, từ ôphêilêtes là người mắc nợ, người có tội. Vậy, nếu chúng ta dịch ôphêilema ở số 12a là “tội”, thì lẽ ra chúng ta phải dịch từ ôphêilêtes ở số 12b là “người có tội”, và lời cầu xin sẽ phải là : “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có tội với chúng con.”
Tuy nhiên, giữa loài người với nhau, nhất là khi đứng trước mặt Thiên Chúa, khó có ai dám coi anh em mình là người có tội phạm đến mình. Vì thế, sau khi suy nghĩ và thăm dò ý kiến nhiều tín hữu và giáo xứ, Uỷ Ban xin đề nghị dùng từ “lỗi” thay vì từ “tội”. Và câu kinh sẽ là : “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Đây là một trong những trường hợp mà phiên dịch theo từng chữ phải nhường quyền ưu tiên cho phiên dịch theo ý nghĩa.
96/12 “(Cũng) tha.”
Từ aphekamên đã đặt một vấn đề khó giải thích về mặt bản văn, và quan trọng hơn về mặt thần học. Theo bản văn tương đối mới mẻ nhất, tức là The Greek New Testament và A. Textual Commentary on the Greek New Testament, thì phải đọc là aphekamên, chứ không phải aphiômên. Aphekamên là động từ aphiemi ở thì ao-rít. Mà thì ao-rít thường chỉ việc quá khứ (xem The Analytical Greek Lexicon (London – Samuel Bagster) trang XIII). Mạch văn cũng phù hợp với ý nghĩa của thì ao-rít : chúng ta phải tha thứ cho anh em trước đã, Thiên Chúa mới tha thứ cho chúng ta (Mt 6,14-15).
Tuy nhiên, trong nhiều bản chép tay, nhất là trong những bản chép tay thời sau, động từ này lại ở thì hiện tại và, do đó, có nhiều bản dịch theo các bản chép tay này mà để động từ ở thì hiện tại.
Hơn nữa, trong kinh Lạy Cha, thánh Lu-ca (11,4) lại viết : “Vì chúng con cũng tha” : aphiômên. Động từ aphiômên này ở thì hiện tại (xem J. Carmignac, trang 230-235).
Vả lại, một số tác giả (như : J. Dupont, J. Jérémias, v.v.) cho rằng động từ ở thì ao-rít, nhưng là một ao-rít do ảnh hưởng A-ram và có giá trị thì hiện tại.
Cũng theo các tác giả này thì, ngoài lý do ảnh hưởng văn chương A-ram, còn có lý do thần học. Nếu động từ aphekamên phải hiểu theo nghĩa quá khứ, thì sự chúng ta tha thứ phải có trước sự Thiên Chúa tha thứ và, hơn nữa, còn nên như mẫu mực cho Thiên Chúa trong việc tha thứ. Mà như thế là không đúng (xem J. Dupont, trang 27 ; J. Jérémias, trang 62).
Sau hết là lý do thực tiễn. Rất nhiều bản văn Phụng Vụ nước ngoài hiểu động từ aphekamên theo nghĩa hiện tại.
Vì hai cách hiểu đều có những lý do mạnh mẽ và những tác giả giá trị, mỗi người có thể tự do lựa chọn. Đó là nói về cách hiểu. Còn về cách dịch, thì lý tưởng là dịch động từ aphekamên ấy làm sao mà độc giả có thể hiểu động từ ấy ở hiện tại cũng được, mà hiểu ở thì quá khứ cũng được. Mà tiếng Việt chúng ta không đòi hỏi phải luôn luôn xác định về thì của các động từ. Cha Lê Văn Lý viết : “Việt ngữ ít chú ý hạng mục thì” (xem Lê Văn Lý, trang 72). Bùi Đức Tịnh cũng nói thế : “Để chỉ các thời, động từ không có những hình thức nhất định ; chỉ khi cần nói rõ về thời gian, ta mới thêm những trạng từ đặc biệt : “đã, vừa, mới có, v.v.” (xem Bùi Đức Tịnh, trang 92).
Do đó, Uỷ Ban xin đề nghị : dịch lấp lửng như sau : “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha.”
96/13 “Xin đừng để sa (chước cám dỗ).”
Bản Hy-lạp là : Me êisênêgkes. Bản La-tinh là : Ne inducas. Bản Việt Nam là : “Xin chớ để sa.”
Êisênêgkes là động từ êisphêro ở lối tiếp thuộc, thì ao-rít. Êisphêro nghĩa là “đem vào, dẫn vào hoặc dẫn đến”. Nhưng “Me êisênêgkes” nghĩa là gì ? Đây cũng là một trong những chữ khó hiểu, khó dịch trong Tân Ước. Cho đến nay, các tác giả đưa ra hai cách hiểu và dịch từ này.
- Một là : “Xin đừng dẫn”.
- Hai là : “Xin đừng để sa”.
Về cách hiểu thứ nhất. Rất nhiều bản dịch nước ngoài đã dịch theo cách thứ nhất này (ví dụ : La Bible de Jérusalem, La Bible của E. Osty, TOB/NT, La Sainte Bible của Alliance Biblique Unverselle, The New English Bible của Oxford University Press, Good News của American Bible Society, v.v.). Để biện hộ cho cách hiểu và cách dịch này, J. Dupont viết : “N’édulcorons pas cette image en reportant sur l’homme une initiative que le texte attribue à Dieu de nous empêcher d’entrer dans la tentation, de notre propre mouvement : nous lui demandons de ne pas nous y mettre” (J. Dupont, trang 28).
Về cách hiểu thứ hai. Có nhiều tác giả lại hiểu và dịch theo cách thứ hai. Để biện hộ cho cách thứ hai này, J. Carmignac đã nghiên cứu tỉ mỉ từ êisphêro : xin xem J. Carmignac, trang 268-304. Sau khi nghiên cứu thêm động từ êisêrkhômai và những động từ liên hệ, tác giả cho thấy rằng êisphêro eis là đem vào trong, chứ không phải đem đến, dẫn đến mà thôi. Và, từ đó, tác giả đưa đến một kết luận rất quan trọng, là phân biệt giữa “đem đến” và “đem vào trong”. Đó là then chốt của vấn đề, vì “đến cơn cám dỗ” là tự nộp mình, là ưng thuận theo cơn cám đỗ, là sa cơn cám dỗ.
Trong Kinh Thánh (cũng như trong văn chương Do-thái thời bấy giờ) có nhiều đoạn văn làm sáng tỏ lối nói “đi vào trong cơn cám dỗ”, ví dụ : Mt 26,41. Trong đoạn văn này, Đức Giê-su bảo các môn đệ cầu nguyện để khỏi “đi vào trong cơn cám dỗ”. Nói như thế, Người không có ý bảo các môn đệ xin cho khỏi bị cám dỗ, vì, vừa trước đó, Người tiên báo các ông sẽ bị cám dỗ (Mc 14,27 ; Mt 26,31), Xa-tan xin và được phép sàng sảy các môn đệ, ông Phê-rô sẽ bị thử thách và Người sẽ cầu xin cho ông khỏi mất lòng tin (Lc 22,31-32). Vì thế, xin cho khỏi đi vào trong cơn cám dỗ là xin sao cho, khi cơn cám dỗ đến, anh em được trung thành, đừng bị thua, đừng rơi vào bẫy, đừng ưng thuận theo cơn cám dỗ (xem J. Carmignac, trang 273).
Ở 1 Cr 10,13 cũng vậy, thánh Phao-lô viết : “Thử thách đã xảy đến cho anh em, Thiên Chúa sẽ không để anh em bị thử thách quá sức anh em.”
Vả lại, một cách gián tiếp, thánh Gia-cô-bê (1,13) cũng hướng chúng ta về nghĩa ấy, ngài nói : “Bị cám dỗ, đừng ai nói : ‘Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ’, vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai”. Vì thế, Người cũng chẳng đưa ai vào cơn cám dỗ. Và cũng vì thế, khi Người dạy chúng ta xin, chắc chắn Người không dạy chúng ta xin Thiên Chúa đừng dẫn chúng ta vào cơn cám dỗ, vì Thiên Chúa không bao giờ làm như thế. Nên điều Người dạy chúng ta xin, là xin đừng để chúng ta sa ngã.
Hơn nữa, đa số các giáo phụ và các nhà thần học cũng hiểu như vậy (xem J. Carmignac, trang 274-281 ; TOB/NT, 59, chú thích d).
Sau hết, cách hiểu và dịch này có phần ưu tiên, vì bản dịch hiện hành đã dịch sẵn như vậy.
Nói tóm lại, sau khi nghiên cứu để làm sáng tỏ vấn đề và trả lời cho những vấn nạn gửi đến từ một vài nơi, Uỷ Ban đề nghị cách hiểu thứ hai và xin giữ câu kinh như cũ, là : “Xin đừng để chúng con.”
96/14 “(Khỏi) sự dữ.”
Bản Hy-lạp là : apô tôu pônerôu. Bản La-tinh là : a malo. Bản Việt Nam là : “khỏi sự dữ”.
Từ Hy-lạp tôu pônerôu có thể được hiểu hai cách. Theo cách thứ nhất, từ ấy là từ tô pônerôn có nghĩa là : “sự dữ”, ở thuộc cách. Theo cách thứ hai, từ ấy là từ hô pônerôs có nghĩa là : “người dữ” ở thuộc cách. Vì lẽ từ ấy có thể có hai nghĩa, nên chúng ta thường thấy hai cách dịch ấy trong các bản dịch. Vậy, trước khi lựa chọn, chúng ta cũng nên coi qua lý lẽ của đôi bên.
Về cách hiểu thứ hai : “Người dữ”. Trước hết, xưa nay, đa số các tác giả đều hiểu theo nghĩa thứ hai (xem J. Dupont, trang 31). Vả lại, về văn phạm và theo lệ thường, thì túc từ của động từ ruômai apô là người, còn túc từ của động từ ruômai êk là sự. Ở đây, giới từ của động từ ruômai là apô. Nên tôu pônerôu, ở đây, phải hiểu là “của, khỏi người dữ”. Sau hết, về ý nghĩa, Kinh Thánh thường nói ma quỷ rình rập nuốt chúng ta (1 Pr 5,8-9). Mà, trong Kinh Thánh nói chung và trong sách Tin Mừng Mát-thêu nói riêng (Mt 5,37 ; 13,9.38 ; P. Bonnard, l’Evangile selon saint Mathieu (Paris 1963, Delachaux) trang 87 ; J. Dupont, trang 31,d và so sánh Mt 6,13 với 2 Tx 3,3 và Ga 17,15), ma quỷ, Xa-tan cũng thường bị gọi là “người dữ, kẻ dữ”. Nên, ở đây, tôu pônerôu có thể hiểu là danh từ giống đực, có nghĩa là “kẻ dữ”, ở thuộc cách.
Về cách hiểu thứ nhất. Cách hiểu này cũng có những lý lẽ đáng kể.
- Trước hết, trong sách Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, hai nghĩa (“người dữ” và “sự dữ”) đều có thể được. Nghĩa thứ nhất, chúng ta gặp ở Mt 5,11 ; 6,23 ; v.v. Còn nghĩa thứ hai, chúng ta gặp ở Mt 13,19. Vì thế mà, sau khi lựa chọn, các tác giả còn ghi chú : ou “du mal” (Bible de Jérusalem, E. Osty, TOB/NT ; xem TOB/NT, 60, chú thích e), or “from evil” (The New English Bible).
- Thứ đến là văn mạch Phụng Vụ. Sau kinh Lạy Cha, chủ tế đọc kinh “Xin cứu” (Libera, được gọi là embolismus). Kinh này nhằm quảng diễn lời nguyện sau hết của kinh Lạy Cha : “Cứu chúng con khỏi …” (x. A. G. Martimort, trang 429). Mà kinh “Xin cứu” (Libera) này nói đến “khỏi mọi sự dữ” (ab omnibus malis), “khỏi tội lỗi” (a peccato), và “khỏi mọi biến loạn” (ab omni perturbatione). Vì thế, khi đặt kinh “Xin cứu” sau kinh Lạy Cha và, nói riêng, sau lời nguyện : “Xin cứu chúng con khỏi” đọc trong Thánh lễ, Hội Thánh đã muốn hiểu từ “tôu pônerôu” của kinh Lạy Cha theo nghĩa “sự dữ” mà kinh “Xin cứu” cụ thể hoá là tội lỗi, biến loạn.
Do đó, Uỷ Ban chọn nghĩa “sự dữ” sau khi cân nhắc khá lâu.
Kinh “Xin cứu” (Libera)
97/3 “Cho thời đại.”
Bản La-tinh là : in diebus. Bản Việt Nam là : “Những ngày.”
Kinh “Xin cứu” quảng diễn các lời nguyện của kinh Lạy Cha, nhất là những lời nguyện cuối cùng. Nhưng, như chúng ta biết, bầu khí của kinh Lạy Cha là bầu khí cánh chung liên hệ đến mọi người, như Đức Giê-su đã nói : “Nếu những ngày ấy không được Chúa rút lại, thì không ai được cứu thoát” (Mt 24,22). Sa ngã trong cơn thử thách ấy mới là sự dữ khủng khiếp nhất.
Để nói lên hoàn cảnh nghiêm trọng của tập thể, Uỷ Ban đề nghị từ “thời đại” thay cho từ “những ngày đang sống”.
97/1 “Ngày hồng phúc … đến.”
Bản La-tinh là : Beatam spem. Bản Việt Nam là : “Niềm hy vọng hồng phúc.”
Câu kinh này rút ở Tt 2,13. Uỷ Ban dựa trên ý nghĩa đoạn văn này mà dịch, để câu kinh được dễ hiểu hơn. Và câu kinh sẽ là : “Đang khi chúng con đợi chờ ngày hồng phúc, ngày Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Độ chúng con, vinh quang ngự đến.”
97/11 “Vì Cha là Vua.”
Bản La-tinh là : Quia tuum est regnum, et potestas et gloria in saecula. Bản Việt Nam là : “Vì Chúa là Vua uy quyền và vinh hiển muôn đời.”
Bản văn nhấn mạnh ba yếu tố của Thiên Chúa ; “regnum, potestas và gloria”. Bản Việt Nam chưa làm nổi bật được ba yếu tố ấy. Vả lại, đây là một câu tung hô xưa Hội Thánh đã sử dụng trong Phụng Vụ và, sau đó, nhiều bản chép tay đã đem vào sau kinh Lạy Cha. Vì thế, chúng tôi thấy nên lặp lại một số chữ như : “là” (cũng như bản La-tinh lặp lại chữ “et”), trước là để đề cao ba yếu tố của Thiên Chúa và, sau nữa, là để dễ dàng phổ nhạc, nếu có thể. Như vậy, câu kinh sẽ là :
“Vì Cha là Vua, là Chúa quyền năng,
là Đấng vinh hiển muôn đời.”
Kinh xin Bình an
98/1 “Thầy / anh em”.
Xin xem phần Truyền phép, số 62/15.16.
99/2 “Anh chị em luôn được bình an.”
Chúng tôi cũng đề nghị một lời cầu chúc quen thuộc với kiểu nói tiếng Việt hơn, như đã trình bày trong phần Nghi thức đầu lễ (Lời chào đầu lễ, ở trang 16).
101/1
Bẻ Bánh Thánh
Bản La-tinh là : Haec commixtio Corporis et Sanguinis. Bản Việt Nam là : “Chớ gì sự hoà Mình và Máu.”
Uỷ Ban dịch lại, cho câu văn thích hợp với cách nói tiếng Việt hơn : “Xin Mình và Máu Chúa Giê-su Ki-tô hoà lẫn với nhau, cho chúng con được sống muôn đời.”
Chuẩn bị hiệp lễ
1) Bản La-tinh là : Per hoc Corpus … Bản Việt Nam là : “Xin dùng Mình và Máu Thánh, cứu con.”
2) Bản La-tinh là : Perceptio Corporis … Bản Việt Nam là : “Chớ gì việc rước Mình và Máu Thánh đừng nên …”
Ở hai đoạn văn này, Uỷ Ban cũng xin dịch lại cho câu văn thích hợp với cách nói tiếng Việt hơn :
1) “Xin Mình và Máu Thánh Chúa đây, cứu con …”
2) “Con sắp rước Mình và Máu Thánh Chúa, xin đừng để con vì thế mà …”
Giới thiệu Chiên Thiên Chúa
104/6 “Ngự đến cùng con.”
Bản La-tinh là : Sub tectum meum. Bản Việt Nam là : “Ngự vào nhà con.”
Câu này rút ở Mt 8,8 ; Giáo Hội chỉ đổi puer meus (đầy tớ tôi) ra anima mea (linh hồn tôi) cho hợp với hoàn cảnh rước Mình và Máu Thánh. Thế là bản Phụng Vụ đã uyển chuyển vì hoàn cảnh. Thì Uỷ Ban cũng xin uyển chuyển thêm vì hoàn cảnh.
Khi thưa với Đức Giê-su, ông đại đội trưởng nói : “Tôi chẳng đáng Ngài vào dưới mái nhà tôi.” Nhưng, khi thưa cùng Đức Giê-su trước khi lãnh nhận Mình và Máu Thánh, người tín hữu chỉ xin rước Chúa vào lòng, chứ không xin rước Chúa về nhà. Nên chẳng những cần phải lấy “linh hồn” thay cho “đầy tớ”, mà còn phải lấy “con, hồn và xác con” thay cho “mái nhà con”.
Và lẽ ra còn phải uyển chuyển hơn nữa mới rõ ý, vì ông đại đội trưởng thấy Đức Giê-su chỉ cần phán một lời, chứ không cần đến nhà ; trái lại, trong Thánh lễ, chúng ta xin Người chẳng những phán một lời, mà còn vào hồn xác chúng ta nữa.
Vì những lý do ấy, Uỷ Ban cũng chuyển “nhà con” ra “linh hồn con” hoặc “con” như nhiều bản dịch Phụng Vụ nước ngoài : Ý, Anh, Pháp, Hà-lan, …
Tráng chén
1) “Mình và Máu Chúa.”
Bản La-tinh là : Quod (ore sumpsimus). Bản Việt Nam là : “Điều (mà chúng con lãnh nhận bằng miệng)”. Uỷ Ban nói rõ ra điều ấy là điều gì : “Lạy Chúa, miệng chúng con vừa rước Mình và Máu Chúa.”
2) “Ân huệ này.”
Bản La-tinh là : De munere temporali. Bản Việt Nam là : “Ơn đời này.” Uỷ Ban cũng nói rõ “ơn đời này” là việc rước Chúa, chứ không phải bất cứ ơn nào lãnh nhận khi còn tại thế. “Và ước chi ân huệ này …”
113 Lời chúc lành cuối lễ
“Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.”
Uỷ Ban đề nghị công thức này, như đã trình bày trong phần Nghi thức đầu lễ (dấu Thánh giá) trang 14.
Giải tán Cộng đoàn
114/3 “Lễ đã kết thúc.”
Bản La-tinh là : Missa est. Bản Việt Nam là : “Lễ xong.”
Một số ý kiến nhận xét rằng công thức giải tán “Lễ xong” hơi cụt. Vậy Uỷ Ban xin đề nghị :
“Thánh lễ đã kết thúc,
chúc anh chị em ra về bình an.”
B. Các kinh Tạ
Ơn
(Preces eucharisticae)
Trước khi đề cập đến từng kinh Tạ Ơn, cần phải nêu lên một vài điểm chung liên quan đến các kinh ấy.
Danh xưng : kinh Tạ Ơn
Trong phần Phụng Vụ Thánh Thể, phần chính được gọi là Prex eucharistica. Prex eucharistica nghĩa là gì ? Bản Việt Nam dịch là : “Kinh nguyện Thánh Thể”. Nhưng kiểu nói này dễ bị hiểu sai là : “Kinh nguyện với Thánh Thể trước Nhà Chầu”. Và, từ đó, kiểu nói ấy còn thu gọn quá đáng mầu nhiệm Thánh Thể vào sự hiện diện bí tích của Đức Giê-su sau khi Bánh và Rượu đã được truyền phép thành Mình và Máu Thánh Người.
Chúng tôi xin đề nghị dịch là : kinh Tạ Ơn, vì những lý do sau đây :
- Một là từ La-tinh eucharistica do từ Hy-lạp êukharistia, nghĩa là sự biết ơn, tạ ơn.
- Hai là chính quy chế Institutio generalis Missalis Romani (số 54) cũng định nghĩa Prex eucharistica là Prex gratiarum actionis et sanctificationis.
Ý nghĩa rút ra từ ngữ nguyên và định nghĩa rút ra từ Quy chế được nói lên rõ ràng trong phần đầu của Lời tiền tụng và cũng là phần đầu của kinh Tạ Ơn. Đó là câu : “Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta.”
Cách xưng hô với Thiên Chúa
Trong các kinh Tạ Ơn, bản La-tinh xưng với Thiên Chúa khi thì “Cha” (Pater), khi thì “Chúa” (Dominus), khi lại “Thiên Chúa” (Deus). Trong một kinh đọc liên tục mà thay đổi cách xưng hô như vậy, kể cũng lạ tai, chẳng khác nào, khi nói chuyện, một tín hữu xưng với linh mục khi thì “linh mục”, khi lại “cha”. Vì cũng ý thức như vậy mà một số bản dịch Phụng Vụ nước ngoài như Ý, Bồ Đào Nha cũng uyển chuyển trong cách xưng hô này.
Thay đổi cách xưng hô trong một kinh như vậy lại càng chói tai trong tiếng Việt. Trong tiếng La-tinh cũng như trong đa số các tiếng khác (kể cả tiếng Trung Hoa) thì, sau khi xưng “Cha” (Pater) chẳng hạn, văn phạm các tiếng ấy chỉ dùng đại từ thay thế hoặc hiểu ngầm. Ví dụ trong kinh Tạ Ơn IV, lời Tiền tụng xưng Pater sancte, nhưng rồi đại từ tibi, te thay thế Pater, hoặc es, fecisti (danh từ Pater hoặc đại từ tu được hiểu ngầm hoặc diễn tả trong đuôi động từ). Trong tiếng Việt, chúng ta không thể làm như vậy, mà phải nói ra, lặp lại, “Lạy Cha chí thánh, tạ ơn Cha, tôn vinh Cha, Cha là, Cha còn …”. Mà, nếu trong một kinh, chúng ta nghe “Cha, Cha, Cha”, rồi “Chúa, Chúa, Chúa” thì đã có kẻ nói : “bốn Cha, ba Chúa”. Điều ấy lại càng chói tai, vì nội dung tình cảm của hai từ “Cha” và “Chúa” khác nhau : con người đang thưa với Thiên Chúa như con thưa với Cha ; rồi, bỗng nhiên, con người ấy lại thưa với Thiên Chúa như người xa lạ.
Để giải quyết những thắc mắc ấy và dựa theo cách dịch của những Giáo Hội Công Giáo một số nước khác, Uỷ Ban đề nghị thống nhất cách xưng hô. Cụ thể là, trong các kinh Tạ Ơn, chúng ta xưng hô với Thiên Chúa là “Cha”, vì một đôi lý do sau đây :
- Khi đọc các lời nguyện, trong Thánh lễ cũng như ngoài Thánh lễ, chúng ta đã kêu Thiên Chúa là “Chúa” nhiều rồi.
- Hơn nữa, theo tinh thần kinh Lạy Cha sẽ đọc sau kinh Tạ Ơn, danh xưng “Cha” giúp người tín hữu nhớ lại rằng nhờ Chúa Ki-tô, chúng ta được diễm phúc gọi Thiên Chúa là Cha, và rằng cùng Chúa Ki-tô, chúng ta dâng lời nguyện và lễ tế lên Chúa Cha. Sau hết và cụ thể hơn, Thiên Chúa mà chúng ta xưng hô trong các kinh Tạ Ơn, là Chúa Cha : nhờ Chúa Ki-tô là Chúa Con, chúng ta cầu xin Chúa Cha đổ ơn Chúa Thánh Thần xuống để thánh hoá lễ phẩm. Do đó, chúng ta nên nói rõ, để mọi người dễ ý thức trong phần quan trọng này của Thánh lễ.
1. Bốn kinh Tạ Ơn chính thức
Kinh Tạ Ơn I
Đây là một bản văn La-tinh cổ kính, viết với lối văn rườm rà đặc biệt của tiếng La-tinh. Hơn nữa, các thời đại về sau còn thêm bớt, sửa đổi, khiến nhiều khi ý tưởng thêm phức tạp, lời văn thêm nặng nề.
Vì thế, nói chung, bản văn rất khó dịch. Nếu dịch sát với từ ngữ và kết cấu của tiếng La-tinh, thì bản dịch sẽ khó hiểu và không giúp ích bao nhiêu cho tín hữu thời nay. Trong trường hợp này, người dịch phải đọc lại các chỉ dẫn của Thánh Bộ Phụng Tự, ví dụ :
- Trong những bản văn La-tinh cổ xưa, có những từ ngữ khó hiểu, khó dịch. Vì thế, “khi dịch, cần phải cắt nghĩa thêm và đôi khi tán rộng ra (la traduction demandera alors des éclaircissements et parfois quelques paraphrases) để diễn tả đúng ý nghĩa nguyên thuỷ” (Huấn thị, số 33).
- “Tiếng La-tinh có những đặc tính của nó, như : thích kết cấu câu với những mệnh đề phụ, lối văn hoa mỹ và nhiều lời. Đó là những cái không nên đưa vào những bản văn bằng tiếng địa phương dùng trong Phụng Vụ. Những bản văn này phải phù hợp với đặc tính của mỗi ngôn ngữ (…). Những đòi hỏi đó lại càng đúng đối với những ngôn ngữ xa tiếng La-tinh, nhất là những ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ Tây Phương” (Nhập đề về kinh Tạ Ơn của Thánh lễ trẻ em, số 11).
Nhận định tổng quát xong, chúng ta đi vào những từ ngữ quan trọng.
51/9 “Thánh hoá.”
Bản La-tinh là : Benedicas. Bản Việt Nam là : “Ban phúc.”
“Ban phúc cho những lễ vật”, cách nói này không dễ hiểu lắm. Trong văn mạch, từ benedicere có nghĩa là “làm cho thành của thánh dành riêng cho Thiên Chúa”. Vì thế, Uỷ Ban dịch là : thánh hoá. Và câu kinh sẽ là : “Xin Cha thánh hoá lễ phẩm.”
51/10 “lễ phẩm tinh tuyền này.”
Bản La-tinh là : Haec dona, haec munera, haec sacrificia illibata. Bản Việt Nam là : “Những lễ vật hiến tế tinh tuyền thánh thiện này.”
Đây là một trong nhiều trường hợp cho thấy lối văn dài dòng của tiếng La-tinh. Vì thế, như đã nói trên, không nhất thiết phải dịch từng chữ (xem Huấn thị, số 12). Và Uỷ Ban xin dịch gọn là : “lễ phẩm tinh tuyền này.” Bản dịch Phụng Vụ Pháp cũng làm như thế.
51/16 “Đức Thánh Cha.”
Bản La-tinh là : Papa. Bản Việt Nam là : “Đức Giáo Hoàng.”
Ở đây, có nhiều đề nghị khác nhau cần xét lại.
1) “Đức Giáo Hoàng”. Từ này khá quen thuộc. Tuy nhiên, trong cách dùng của Giáo Hội, chúng ta thường thấy những từ : Summus Pontifex, Pontifex Maximus, Papa, Beatissimus Pater, v.v. Nhưng, trong các từ này, không thấy có từ nào nói lên tính cách vua chúa cả. Vì thế, từ “Đức Giáo Hoàng” không diễn tả một cách chính xác chức năng của vị mà bản văn La-tinh gọi là Papa. Có ý kiến còn đề nghị không dùng từ “Đức Giáo Hoàng”, vì từ ấy có vẻ phong kiến.
2) “Giáo Chủ.” Từ này tương đối mới mẻ, xuất hiện vào những thập niên 60/70. Nhưng, theo các tự điển, thì Giáo Chủ là :
- Vị Sáng lập một tôn giáo (xem Đào Duy Anh, Đức Trụ, Nguyễn Văn Khôn và TĐTV/HN). TĐTV/HN còn cho ví dụ : “Muhammad là Giáo chủ Hồi giáo.”
- Nhưng từ “Giáo Chủ” cũng có nghĩa tương đương với Hồng Y (xem TĐTV/HN, Đức Trụ). Tự điển Đức Trụ còn cho ví dụ : “Hồng Y Giáo chủ Richelieu.”
3) “Đức Thánh Cha.” Từ này nhằm dịch những từ La-tinh : Papa, Beatissimus Pater. Dù sao, từ này cũng dịch và, đồng thời, cũng nói lên phần nào ý nghĩa của vị Papa, vì Papa là Cha, trước kia là Pha-pha, vì Papa là người cha chung trong một tôn giáo mà thành phần được thánh Phao-lô gọi là thánh (Rm 1,7).
51/17 “Giáo phận (chúng con).”
Bản La-tinh là : Antistite nostro. Bản Việt Nam là : “Đức Giám Mục T. chúng con.”
Trong tiếng Việt, chúng ta không quen nói như vậy, nhưng phải nói : “Đức Giám Mục chúng con” hoặc, một cách đầy đủ và chính xác hơn, “Đức Giám Mục giáo phận chúng con.”
Vì thế, Uỷ Ban đề nghị : “Đức Cha T. là Giám Mục giáo phận chúng con.”
51/18 “Các vị trung thành với giáo lý chân chính.”
Bản La-tinh là : Orthodoxis. Bản Việt Nam là : “Trung thành.”
Từ orthodoxus thường làm chúng ta nghĩ ngay đến anh em Ki-tô hữu thuộc phái gọi là “Chính thống”. Nhưng, trước tiên, từ ấy có nghĩa là người có một giáo lý chân chính (orthosdoxa). Và, trong kinh Tạ Ơn này, phải hiểu theo nghĩa quan trọng ấy.
Để tránh sự hiểu lầm dễ có và cũng để làm nổi bật ý nghĩa quan trọng ấy, Uỷ Ban phiên dịch rõ ràng, tuy hơi dài chút ít, là : “Các vị trung thành với giáo lý chân chính” mà, theo N. M. Denis-Boulet, là các giám mục đang hiệp thông với Đức Thánh Cha.
51/20 “Phục vụ.”
Bản La-tinh là : Cultoribus. Bản Việt Nam là : “Gìn giữ.”
Theo Botte-Mohrmann, thì fidei cultoribus không phải chỉ là “những người gìn giữ đức tin”, mà còn là “phục vụ đức tin”, một đức tin công giáo và tông truyền.
52/14 “(Thiên Chúa) thật.”
Bản La-tinh là : Deo vero. Bản Việt Nam là : “Thiên Chúa chân thật.”
Cách nói Deus vivus et verus, chúng ta đã gặp ở 1 Tx 1,9. Trong đoạn văn này, thánh Phao-lô đặt Thiên Chúa đối lập với ngẫu tượng, và đặt “thật” đối lập “giả”. Nhưng tính từ “chân thật” có nghĩa là “thành thật, ngay thẳng”, chứ không có nghĩa là “thật” (theo nghĩa đối lập với “giả”).
Vì thế, Uỷ Ban dùng từ “thật”, như đã dùng trong kinh Tin Kính khi nói về “Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật.”
59/3 “Và cũng là lễ phẩm.”
Bản La-tinh là : Sed et cunctae familiae tuae. Bản Việt Nam là : “Và của toàn thể gia đình Chúa.”
Lời Hanc igitur nói đến linh mục cử hành (servitutis nostrae) và tín hữu tham dự (sed et cunctae familiae tuae). Để nêu rõ tư tưởng hai thành phần nói trên (linh mục và tín hữu) và toàn thể gia đình Chúa là Giáo Hội cùng dâng lễ phẩm, Uỷ Ban lặp lại “và cũng là lễ phẩm của …”
59/4 “Vui lòng (chấp nhận).”
Bản La-tinh là : Placatus. Bản Việt Nam là : “Khoan hồng.”
Trong tiếng La-tinh cổ điển, từ placatus nói về một vị thần “nguôi giận”. Nhưng, trong Phụng Vụ, nghĩa của từ placatus đã giảm đi rất nhiều (x. Botte-Mohrmann, trang 79 ; Th. Maertens, trang 58). Vì thế mà nhiều bản dịch Phụng Vụ nước ngoài không dịch (Anh) hoặc dịch nhẹ (Pháp : “dans ta bienveillance” ; Ý : “con benevolenza” ; Đức : “gnašdig”). Nhưng từ “khoan hồng” có vẻ hơi mạnh, vì “khoan hồng” là đối xử rộng lượng với kẻ có tội : “khoan hồng đối với kẻ phạm tội biết hối cải.” Vì thế, Uỷ Ban dịch : “Vui lòng (chấp nhận).” Vả lại, trong cách nói tiếng Việt, cách nói “vui lòng chấp nhận” thường nghe hơn là “khoan hồng chấp nhận.”
61/4 “(Của lễ) thiêng liêng.”
Bản La-tinh là : Rationabilem. Bản Việt Nam là : “Được hoàn hảo.”
Lại một lần nữa, chúng ta gặp lối văn La-tinh Phụng Vụ cổ điển. Năm từ dồn dập : Benedictam, adscriptam, ratam, rationabilem và acceptabilem, một thể văn dùng để nhấn mạnh tính cách khẩn khoản của lời xin. Theo Huấn thị số 12, thì không buộc phải dịch từng chữ. Và, do đó, các bản dịch Phụng Vụ nước ngoài cũng không giữ tất cả và xoay nhiều kiểu khác nhau. Ở đây, Uỷ Ban cân nhắc các từ và cắt nghĩa một vài từ khó hiểu.
- Trong các từ, thì từ ratam không có chỗ đứng vững vàng trong các bản chép tay. Từ benedictam, chúng ta đã gặp ngay từ đầu kinh Tạ Ơn mà Uỷ Ban đã dịch là “thánh hoá”. Còn ba từ adscriptam, rationabilem và acceptabilem được nhiều bản chép tay làm chứng.
- Trong ba từ kỳ cựu này, từ rationabilem có nội dung hơi lạ. Theo các nhà Phụng Vụ thì, ở đây, Giáo Hội muốn nhấn mạnh khía cạnh “bí tích” của lễ phẩm. Cũng vì đặc tính “bí tích” này mà Đức Giê-su đã chọn Bánh và Rượu làm yếu tố của mầu nhiệm Thánh Thể. Vì thế, Giáo Hội xin Chúa Cha làm cho lễ phẩm vật chất được lãnh nhận tất cả đặc tính “thiêng liêng” của nó. Đó là nghĩa của từ rationabilis mà Giáo Hội dùng để dịch từ Hy-lạp lôg(h)ikôs (x. B. Botte, trong Excursus 5 (Rationabilis) về Nghi thức Thánh lễ).
61/5 “Ut” : để ? hầu ?
Bản La-tinh là : Ut (nobis) corpus). Bản Việt Nam là : “Hầu (trở nên).”
Theo văn phạm, từ Ut là liên từ đứng đầu một mệnh đề phụ chỉ mục đích. Nhưng, theo lịch sử các bản văn Phụng Vụ, các nhà chuyên môn cho rằng mệnh đề này giải thích phần trên và, do đó, liên từ Ut này không có nghĩa là “hầu, để” mà có nghĩa là : “nghĩa là” (Th. Maertens, trang 65-66). Cùng với các bản dịch Phụng Vụ Đức, Pháp, Anh, Uỷ Ban cũng dịch theo nghĩa ấy.
61/5 “Cho chúng con được hưởng nhờ.”
Bản La-tinh là : Nobis. Bản Việt Nam là : “(Hầu trở nên) cho chúng con.”
Câu văn như thế khó hiểu. Có lẽ phải hiều “nobis”, nhân xưng đại từ này, theo nghĩa tặng cách chỉ ích lợi (datif d’intérêt). Khi viết về kinh này, thánh Tô-ma A-qui-mô nói : “Non tamen ibi videtur sacerdos orare ut consecratio impleatur, sed ut nobis fiat fructuosa : unde signanter dicit, ut nobis corpus et sanguis fiat” (Summa theologica III, 83, 4, ad 7 ; A. M. Roguet, Les Prières eucharistiques, trong La Vie spirituelle, số 545 (1/1968) trang 82 ; Table ouverte-La messe d’aujourd’hui (Paris 1969) trang 168).
Vì thế, Uỷ Ban dịch nobis là : “Cho chúng con được hưởng nhờ.”
62/3 “Tối.”
Bản La-tinh là : Qui pridie. Bản Việt Nam là : “Hôm trước ngày chịu nạn.”
Uỷ Ban dịch rõ là : “Tối hôm trước ngày chịu khổ hình”, theo bản dịch Phụng Vụ Đức : Am Abend vor seinem Leiden.
62/10 “Chúc tụng tạ ơn.”
Bản La-tinh là : Gratias agens benedixit. Bản Việt Nam là : “Tạ ơn Chúa, đọc lời chúc tụng.”
Theo cách dịch này, thì có hai mệnh đề độc lập diễn tả hai hành động độc lập liên tiếp, đang khi trong tiếng La-tinh là một động tính từ (agens) và một động từ (benedixit). Muốn hiểu rõ hơn mối tương quan giữa hai động từ (tạ ơn và chúc tụng), chúng ta phải lên đến nguyên văn là : Mt 26,26 ; Mc 14,22 ; Lc 22,19 và 1 Cr 11,24.
Trong nguyên văn, không có hai động từ, mà chỉ có một, tuy hai thánh Mát-thêu và Mác-cô dùng động từ êulôg(h)êo, còn hai thánh Lu-ca và Phao-lô dùng động từ êukharisteo. Hơn nữa, khi dùng không bổ ngữ (absolument), hai động từ ấy chỉ một hành động gồm hai ý tưởng là ca tụng và tạ ơn (x. Arndt-Gingrich).
Vì thế, phải dịch làm sao thành một mệnh đề mà gồm hai ý tưởng ấy. Uỷ Ban đề nghị là : “Dâng lời chúc tụng tạ ơn” thay vì : “Tạ ơn Chúa, đọc lời chúc tụng.”
65/6 “Đã chịu khổ hình.”
Bản La-tinh là : Beatae passionis. Bản Việt Nam là : “Cuộc khổ hình hồng phúc.”
Cuộc khổ hình không bao giờ là hồng phúc. Nên phải phân tích, tán rộng chút ít (x. Huấn thị, số 33). Đức Giê-su chịu khổ hình, nhưng nhờ đó mà loài người được hồng phúc. Hồng phúc gì ? Thưa : ở kinh Tạ Ơn III, có thành ngữ tương tự là salutifera passio, nghĩa là nhờ Đức Giê-su chịu khổ hình mà loài người được cứu độ.
Vì thế, muốn có bản văn dễ hiểu, chúng ta có thể dịch là : “Chịu khổ hình để cứu độ muôn người.” Cũng vậy, bản Phụng Vụ Đức đã dịch là : Heilbringendes Leiden.
65/11 “Hy lễ tinh khiết.”
Bản La-tinh là : Hostiam puram, hostiam sanctam, hostiam immaculatam. Bản Việt Nam là : “Lễ vật thanh khiết, lễ vật thánh thiện, lễ vật tinh tuyền.”
Uỷ Ban đề nghị : “Hy lễ tinh khiết, vẹn tuyền, hy lễ vô cùng thánh thiện.” Lặp lại từ “hy lễ” hai lần thay vì ba, nhấn mạnh như vậy đã đủ (x. Huấn thị, số 12).
66/5 “A-ben, người công chính.”
Bản La-tinh là : Munera pueri tui justi Abel. Bản Việt Nam là : “Lễ vật của A-ben, tôi trung của Chúa.”
Abel justus (trong tiếng La-tinh), cũng như Abêl hô dikaiôs (trong tiếng Hy-lạp) là một thành ngữ Kinh Thánh, mượn ở Mt 23,35. Dt 11,4 còn cắt nghĩa thành ngữ này : “Ông A-ben đã được chứng nhận là người công chính.” Nếu vậy thì tính từ “công chính” đi với A-ben, chứ không đi với “tôi trung”. Vì lẽ đó, muốn cho câu văn nhẹ nhàng và làm nổi bật cách nói : “Abel justus”, một số bản dịch Phụng Vụ nước ngoài không dịch từ “pueri tui”, ví dụ, Pháp : “Abel le juste”, Ý : “Abele il giusto”, Tây Ban Nha : “el justo Abel” …
66/9 “Bánh rượu.”
Bản La-tinh là : Quod obtuli … Melchisedek sanctum sacrificium. Bản Việt Nam là : “Lễ vật thánh thiện và tinh tuyền của Men-ki-xê-đê thầy cả thượng phẩm của Chúa.”
Trong một đoạn văn ngắn, mà đủ thứ từ diễn tả lễ vật : hostia, munera, sacrificium, rồi sacrificium, hostia. Nếu có thể, cũng nên nhất trí về một số danh từ phải phiên dịch như sau :
1) Oblatio (trước khi truyền phép), dona, munera nhấn mạnh ý nghĩa “dâng tiến”, nên phải dịch là : “Của lễ”, “lễ phẩm”, “lễ vật”.
2) Oblatio (sau khi truyền phép), hostia, sacrificium nhấn mạnh ý nghĩa “sát tế”, “tế lễ”, nên phải dịch là : “Hy lễ”, “lễ tế”, “hiến tế”, “tế phẩm”.
Ở đây, sanctum sacrificium, immaculatam hostiam là lễ vật của Men-ki-xê-đê, nhưng, nói một cách chính xác, lễ vật này là bánh và rượu (St 14,18) : bánh rượu này đáng được gọi là “thánh thiện (sanctum) và “vẹn tuyền” (immaculatam) vì báo trước và tượng trưng cho Thánh lễ Tạ Ơn.
Vì thế Uỷ Ban dịch như bản Phụng Vụ Anh, là “bánh và rượu”. Và câu kinh sẽ là : “Và bánh rượu thượng tế Men-ki-xê-đê đã dâng tiến.”
67/4 “Bàn thờ thiên quốc.”
Bản La-tinh là : Sublime altare. Bản Việt Nam là : “Bàn thờ cao sang.”
Các bản dịch Phụng Vụ các nước Ý, Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Đức nói rõ là “bàn thờ trên trời.”
Vì thế, Uỷ Ban dịch là : “Bàn thờ thiên quốc.”
68/7 “Các bậc tổ tiên.”
Người Việt Nam có tiếng là sùng kính tổ tiên. Vì thế, khi tham dự Thánh lễ và, đến phần cầu cho kẻ chết, người tín hữu Việt Nam không thể không nhớ đến tổ tiên. Để biểu lộ tâm tình dân tộc cao quý ấy một cách công khai và tập thể, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã xin và đã được Toà Thánh cho phép thêm lời cầu cho “các bậc tổ tiên cùng thân bằng quyến thuộc đã qua đời.”
Vì thế mà, trong phần nhớ đến kẻ qua đời của các kinh Tạ Ơn, phải thêm vài hàng, là : “Các bậc tổ tiên cùng thân bằng quyến thuộc.”
68/11 “Nơi hạnh phúc.”
Bản La-tinh là : Locum refrigerii. Bản Việt Nam là : “Nơi mát mẻ.”
Kiểu nói này hình như bắt nguồn từ những xứ nóng nực ở miền Nam Âu Châu : “Nơi mát mẻ” có nghĩa là “nơi hạnh phúc” (Jungmann, III, trang 165 ; Botte-Mohrmann, trang 123-139 ; Th. Maertens, trang 103-104). Huấn thị về phiên dịch (số 11 và 25) nêu chính kiểu nói này ra làm thí dụ cho những trường hợp không tất nhiên phải dịch sát chữ.
Uỷ Ban dịch là “nơi hạnh phúc” như bản dịch Phụng Vụ Anh và Ý.
69/4 “Lượng từ bi hải hà.”
Bản La-tinh là : De multitudine miserationum. Bản Việt Nam là : “Lượng từ bi.”
Cách nói này mượn của Tv 50,3 : “Xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm”. “Lượng hải hà” là một thành ngữ chúng ta quen dùng để chỉ lòng bao dung, tha thứ, rộng lớn như sông như biển (x. TĐTV và TĐVN).
Vì thế, Uỷ Ban dùng thành ngữ ấy mà dịch : “Lượng từ bi hải hà.”
69/7 “Thánh Gio-an Tẩy Giả.”
Bản La-tinh là : Ioanne. Bản Việt Nam là : “Thánh Gio-an.”
Đây là thánh Gio-an Tẩy Giả, chứ không phải Gio-an tông đồ. Để độc giả không lầm lẫn, Uỷ Ban thêm hai chữ “Tẩy Giả”. Các bản văn Phụng Vụ Anh, Pháp và Tây Ban Nhan cũng đã thêm như vậy.
Kinh Tạ Ơn II
Nói chung, kinh Tạ Ơn II cũng như trong các kinh Tạ Ơn còn lại, thiết tưởng không cần phải nói lại những gì đã nói trong các kinh Tạ Ơn trước.
72/11 “Chúa đã phán.”
Bản La-tinh là : Verbum per quod. Bản Việt Nam là : “Ngôi Lời, nhờ Người, Cha đã …”
Uỷ Ban đề nghị cách nói cụ thể hơn và, đồng thời, gợi lên nền tảng Kinh Thánh của câu kinh (St 1,1 – 2,4a). Đó là : “Lời của Cha, Cha đã phán ra, để sáng tạo muôn loài.”
72/13 “Bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.”
Bản La-tinh là : Incarnatum de Spiritu Sancto et ex Virgine natum. Bản Việt Nam là : “Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể và sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh.”
Dựa vào kinh Tin Kính, Uỷ Ban dịch : “Đã nhập thể bởi quyền năng Chúa Thánh Thần và được Đức Trinh Nữ sinh ra.”
72/14 “Giang tay, để … Nhờ vậy,”.
Bản La-tinh là : Qui adimplens et acquirens …, extendit manus. Bản Việt Nam là : “Để chu toàn, để gầy dựng, Người giang tay, hầu …”.
Trong một câu ngắn, mà có đến ba mệnh đề phụ chỉ mục đích (để, để, hầu). Vả lại, động tính từ (adimplens, acquirens) không nhất thiết hàm ý nghĩa mục đích.
Uỷ Ban dịch : “Người đã giang tay để tiêu diệt sự chết và biểu dương sự sống lại. Như vậy, Người đã chu toàn …” Theo cách dịch này, câu văn bớt nặng nề vì quá nhiều mệnh đề phụ chỉ mục đích, đem lý do đầu tiên (“chu toàn tôn ý”) và kết quả sau cùng (“quy tụ một dân thánh”) của công trình cứu độ xuống cuối câu, vừa làm nổi bật lại vừa chuyển sang lời chúc tụng sau đó.
74/3 “Đổ ơn Thánh Thần xuống.”
Bản La-tinh là : Spiritus tui rore. Bản Việt Nam là : “Dùng ơn Thánh Thần Chúa.”
Uỷ Ban dịch : “Xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống”, để giữ lại phần nào ý nghĩa và hình ảnh của từ ros (sương, chất lỏng). Bản dịch Phụng Vụ Ý và Tây Ban Nha cũng dịch như thế : Con l’effusione del tuo Spirito / con la efusión de tu Espiritu.
74/4 “Để biến thành.”
Bản La-tinh là : Ut fiant. Bản Việt Nam là : “Để trở nên.”
Bản La-tinh không đặt vấn đề, vì fiant ám chỉ một chủ từ ở số nhiều : ở đây, là dona. Nhưng trong câu Việt ngữ, mệnh đề “để trở nên” không có chủ từ. Xét về văn phạm, thì chủ từ có thể là “Cha”, vì “Cha” là chủ từ của động từ trước, tuy xét về ý nghĩa thì chủ từ là “lễ phẩm” (dona).
Nhưng, nếu thay vì từ “trở nên”, chúng ta dùng từ “biến thành”, thì câu văn không còn bị phê bình. “Trở nên” luôn là nội động từ (công việc trở nên khó khăn), còn từ “biến thành” có thể là nội động từ (nước biến thành hơi), nhưng cũng có thể là ngoại động từ (biến căm thù thành sức mạnh).
Vì thế, “để biến thành Mình và Máu Đức Giê-su” có nghĩa là : “để (lễ phẩm) biến thành Mình và Máu Đức Giê-su”, mà cũng có nghĩa là : “để Cha biến lễ phẩm này thành Mình và Máu Đức Giê-su”.
75/3 “Khi bị nộp và tự hiến thân.”
Bản La-tinh là : Qui cum Passioni voluntarie traderetur. Bản Việt Nam là : “Khi tự ý nộp mình chịu khổ hình.”
Mệnh đề Qui cum Passioni voluntarie traderetur ngắn gọn, nhưng rất súc tích, vì gồm hai tư tưởng quan trọng :
1) “Bị trao nộp” (traderetur). Đức Giê-su bị Giu-đa trao nộp (Mt 26,15-16 ; Mc 14,10-11 ; Lc 22,3-6), bị Phi-la-tô trao cho người ta đóng đinh vào thập giá (Mt 27,26 và song song) và đó cũng là Thánh Ý Chúa Cha. Thánh Phao-lô viết : “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32).
2) “Tự hiến thân” (voluntarie). Tuy bị trao nộp, Đức Giê-su không miễn cưỡng, mà chính Người còn tự trao nộp, tự hiến thân vì chúng ta (Gl 2,20 ; Ep 5,25). Do đó, các bản dịch Phụng Vụ Anh, Pháp, Đức, Hà-lan, Trung Hoa, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đều phân biệt hai ý tưởng ấy. Cũng theo chiều hướng ấy, Uỷ Ban dịch : “Khi bị trao nộp và tự hiến thân chịu khổ hình.”
78/6 “Tế lễ phụng thờ.”
Bản La-tinh là : Tibi ministrare. Bản Việt Nam là : “Phụng sự Chúa.”
Astare coram te et tibi ministrare. Theo văn mạch, từ ministrare không phải chỉ là phụng sự nói chung, nhưng là phục vụ tại bàn thờ, cử hành phụng vụ. Bản dịch Phụng Vụ Ý là : Compiere il servizio sacerdotale, còn bản dịch Phụng Vụ Tây Ban Nha là : Celebrando esta liturgia. Cùng các bản dịch Phụng Vụ ấy, Uỷ Ban dịch : “được đến trước tôn nhan và tế lễ phụng thờ.”
78/11 “Hoàn hảo về đức mến.”
Bản La-tinh là : In caritate perficias. Bản Việt Nam là : “Kiện toàn trong đức mến.”
- “Kiện toàn” là làm cho có đầy đủ các bộ phận về mặt tổ chức, để có thể hoạt động bình thường, ví dụ : kiện toàn chính quyền các cấp.
- “Trong đức mến” nghĩa là gì ? (Perficias) in caritate. Giới từ “in” có nghĩa là “trong”, mà còn nhiều nghĩa khác, như : khi, bằng, về mặt, đối với : Pietas in Patria : lòng yêu (đối với) tổ quốc. Ở đây, giới từ “in” phải hiểu theo nghĩa “xét về”, “về phương diện”. “Về phương diện đức mến, xét về đức mến”.
Vì thế, thay vì nói “kiện toàn trong đức mến”, phải nói là : “Hoàn hảo về đức mến”. Dĩ nhiên, chúng ta cũng xin Thiên Chúa kiện toàn Hội Thánh đầy đủ các bộ phận về mặt tổ chức, nhưng chúng ta đặc biệt xin Người làm cho Hội Thánh hoàn hảo về đức mến.
78/12 “Trong niềm hiệp thông với Đức Thánh Cha.”
Bản La-tinh là : Una cum Papa nostro. Bản Việt Nam là : “Xin nhớ đến Hội Thánh Chúa lan rộng khắp hoàn cầu, cùng với Đức Giáo Hoàng.”
Có người sợ rằng cầu như thế là : “Cầu xin cho Đức Thánh Cha cũng lan rộng khắp hoàn cầu.” Có người lại sợ rằng cầu như thế là làm cho kẻ khác lầm tưởng rằng, xưa nay, Đức Thánh Cha và các Giám Mục ở ngoài Hội Thánh.
Una cum có nghĩa là : cùng nhau (conjointement, de compagnie). Để tránh những cách hiểu bất ngờ nhưng có thể như vừa nói trên, Uỷ Ban dịch : “Trong niềm hiệp thông với Đức Thánh Cha.”
Về từ “Đức Thánh Cha”, chúng ta đã bàn đến ở 51/3.
78/14 (Cầu cho tín hữu đã qua đời). “Nhờ bí tích Thánh Tẩy.”
Bản La-tinh là : Qui complantatus fuit similitudini mortis Filii tui simul fiat et resurrectionis ipsius. Bản Việt Nam là : “Kẻ đã chết như Con Chúa, thì cũng được sống lại như Người.”
Câu này mượn ở Rm 6,5. Tất cả văn mạch Rm 6,1-11 nói về sự chết và sự sống lại nhiệm mầu của người tín hữu với Đức Ki-tô trong phép Rửa. Do đó, các bản dịch Phụng Vụ Đức, Pháp, Anh, Trung Hoa, Ý đều nói rõ đến phép Rửa. Dựa vào các bản dịch ấy. Uỷ Ban cũng thêm “Nhờ bí tích Thánh Tẩy” và dịch tiếp : “(Những) người tín hữu này đã cùng chết với Chúa Ki-tô, xin Cha cho được cùng sống lại với Người.”
78/22 “Lòng thương xót của Cha.”
Bản La-tinh là : In tua miseratione. Bản Việt Nam là : “Trong tình thương của Chúa.”
Trong lời cầu cho kẻ chết của cả ba kinh Tạ Ơn mới, đều có đặc điểm này, là Giáo Hội cầu nguyện cho ba loại người :
1) Giáo Hội cầu cho anh chị em tín hữu. Kinh Tạ Ơn II gọi loại người này là : “Anh chị em tín hữu chúng con đang an nghỉ chờ ngày sống lại.”
2) Giáo Hội còn cầu cho mọi người thiện chí đã qua đời (P. Jounel trong La Maison-Dieu, số 94, trang 52, 61, 71 ; A. M. Roguet, trong La Vie spirituelle, 1/1968, trang 86 ; Table ouverte, trang 180). Kinh Tạ Ơn II gọi loại người này là : Omnium in tua miseratione defunctorum. Các bản dịch Phụng Vụ Đức, Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha không dịch ba chữ in tua miseratione, có lẽ vì những chữ này không có trong Ordo Missae ban hành trước năm 1969 và sau mới thêm vào trong Missale Romanum, editio typica, 1970. Cũng vậy, Nghi thức Thánh lễ song ngữ La-Việt xuất bản năm 1969, không dịch ba từ này, nhưng sách lễ Rô-ma Việt ngữ, xuất bản năm 1971, có dịch ba chữ này, là “trong tình thương của Chúa”. Nhưng “qua đời trong tình thương của Chúa” nghĩa là gì ? Bản Phụng Vụ Ý dịch là : tutti i defunti che si affidano alla tua clemenza. Uỷ Ban theo hướng ấy và dịch là : “Những người đã qua đời mà chỉ còn biết nhờ vào lòng thương xót của Cha.”
3) Sau hết, Giáo Hội cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc đã lìa cõi thế.
Theo ý nguyện của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức Thánh Cha có cho phép nhớ đến tổ tiên. Do đó, Uỷ Ban dịch : “Đặc biệt, xin Cha nhớ đến các bậc tổ tiên và thân bằng quyến thuộc chúng con đã lìa cõi thế.”
78/27 “Qua mọi thời đại.”
Bản La-tinh là : Qui tibi a saeculo placuerunt. Bản Việt Nam là : “Sống đẹp lòng Chúa khi ở trần gian.”
Cách nói : Omnibus sanctis qui tibi a saeculo placuerunt, mượn ở Anaphora thánh Ba-xi-li-ô (xem A. Hašnggi và I. Pahl, Prex eucharistica, Fribourg 1968, trang 352-353), mở rộng cái nhìn ra toàn thể lịch sử nhân loại (P. Jounel, trong La Maison-Dieu, số 94, trang 53). C. Vagaggini dịch từ a saeculo trong Anaphora nói trên là depuis le commencement (Le Canon de la Messe et la réforme liturgique (Paris 1967) trang 47). Bản Phụng Vụ Đức dịch là von Anbeginn der Welt, bản Ý là in ogni tempo, Tây Ban Nha là a través de los tiempos, Pháp là de tous les temps, Anh là throughout the ages.
Theo ý nghĩa ấy, Uỷ Ban dịch là : “Qua mọi thời đại.”
Kinh Tạ Ơn III
Kinh Tạ Ơn III là bản văn hiệu đính một kinh Tạ Ơn do C. Vagaggini đề nghị trong cuốn La Canon de la messe et la réforme liturgique (trang 122-131).
80/3 “(Đều) phải (ca ngợi Cha).”
Bản La-tinh là : Merito. Bản Việt Nam không dịch.
Các bản dịch Phụng Vụ Pháp, Đức, Ý, Bồ Đào Nha không dịch từ merito. Nhưng bản dịch Anh và Tây Ban Nha thì có dịch : rightly / con razón. Thiết tưởng nên dịch từ merito, vì từ này ở vị trí đầu mệnh đề là để nhấn mạnh và vì từ này báo trước mệnh đề phụ chỉ duyên cớ (quia / vì) đi sau. C. Vagaggini (trang 123) dịch là : Il est juste que toute créature te loue. Uỷ Ban dịch ngắn gọn là “Phải” và câu văn sẽ là : “Muôn vật Cha đã tạo thành đều phải ca ngợi Cha.”
81/10 “Truyền dạy.”
Bản La-tinh là : Cujus mandato. Bản Việt Nam là : “Thừa lệnh Người mà …”.
Để câu văn được xuôi hơn, có lẽ nên biến “cujus mandato” thành mệnh đề có ngôi mà chủ từ là Đức Ki-tô : các bản dịch nước ngoài, như Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha cũng làm như vậy.
Uỷ Ban dịch là : “Chính Người đã truyền dạy chúng con cử hành Thánh lễ này.”
82/3 “Bị trao nộp.”
Bản La-tinh là : “Tradebatur.” Bản Việt Nam là : “Bị nộp.”
Về từ này, chúng ta đã gặp ở kinh Tạ Ơn II (75/11).
85/2 “Tưởng nhớ.”
Bản La-tinh là : Memores. Bản Việt Nam là : “Khi kính nhớ.”
Bản Việt Nam đã biến tính từ memores thành một mệnh đề chỉ thời gian : “Khi kính nhớ.” Vả lại, câu này : Memores … vivum et sanctum quả là dài. Để cho câu văn dễ hiểu, Uỷ ban làm theo lối Phụng Vụ Đức, là làm ra hai mệnh đề, quảng diễn hai ý tưởng chính : tưởng niệm và dâng tiến (xem P. Jounel, La Maison-Dieu, số 94, trang 56). Và lời nguyện sẽ là : “Giờ đây, chúng con tưởng nhớ Con Cha, … chúng con dâng lên Cha.”
85/10 “Nhận đây chính là hy lễ.”
Bản La-tinh là : Agnoscens Hostiam. Bản Việt Nam là : “Khi Chúa nhận ra đó là.” Nhận ra là thấy rõ nhờ phân biệt ra được : “Nhận ra tiếng người quen.” Nhưng, ở đây, từ agnoscere không nhằm nghĩa ấy. “Nhận” có nghĩa là : thâu nhận, chấp nhận, mà cũng có nghĩa là thừa nhận, chịu là đúng : “Phải nhận rằng anh ấy nói đúng.” Ở đây, từ agnoscere có nghĩa thứ ba này.
85/11 “Giao hoà.”
Bản La-tinh là : Placari. Bản Việt Nam là : “Nguôi lòng Cha.”
- Cujus voluisti immolatione placari : theo văn phạm, thì đi sát với từ voluisti là từ placari, chứ không phải từ immolatione. Nên không thể dịch là : “Cha muốn hiến tế.”
- Hơn nữa, từ voluisti có nghĩa nhẹ, đến nỗi các bản dịch nước ngoài không dịch (Anh, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha).
- Chủ từ của việc dâng tiến (immolatione) cần phải minh nhiên hoá.
- Từ placari đã được đề cập ở kinh Tạ Ơn I (số 59/4).
Sau khi xác định ý nghĩa và cân nhắc từ ngữ, Uỷ Ban đề nghị : “Con Cha dâng tiến (immolatione), để nhân loại được giao hoà (placari) cùng Cha”. Các bản dịch nước ngoài cũng diễn tả như vậy. Pháp : nous a rétablis dans ton Alliance ; Anh : Had reconciled us to yourself ; Đức : Mit dir versošhnt hat ; v.v.
85/17 “in primis.”
Bản La-tinh là : In primis (cum beatissima). Bản Việt Nam là : “Nhất là với.”
Từ La-tinh in primis, Uỷ Bản không dịch, vì xét ra không cần thiết lắm : các bản dịch Phụng Vụ Pháp, Đức, Anh, Hà-lan, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha cũng không dịch.
85/27 “Được đức tin vững vàng.”
Bản La-tinh là : In fide firmare. Bản Việt Nam là : “Được vững mạnh trong đức tin.”
Cách nói này không tự nhiên, vì thế, xin đề nghị là : “Xin cho Hội Thánh Cha được đức tin vững vàng.”
85/28 “Chúng con xin ơn này.”
Bản La-tinh là : Cum famulo tuo … acquisitionis tuae. Bản Việt Nam là : “Cùng với tôi tớ Chúa.”
Cum famulo tuo … acquistionis tuae : tất cả đoạn này liệt kê các thành phần trong Giáo Hội. Vì câu văn quá dài, nên Uỷ Ban làm một câu riêng và, do đó, phải thêm : “Chúng con xin ơn này.”
85/32 “Xin nhậm lời, xin thương quy tụ.”
Bản La-tinh là : adesto, conjunge. Bản Việt Nam là : “Xin nhậm lời, xin đoàn tụ.”
Uỷ Ban muốn giữ thứ tự các ý tưởng của bản La-tinh và tránh bớt những mệnh đề phụ do liên thuộc đại từ (“mà”) chi phối. Vì thế, xin đề nghị : “Cha đã muốn cho gia đình Cha đến sum họp trước tôn nhan, thì xin đoái thương nhậm lời chúng con cầu nguyện.”
85/36 “Tổ tiên, thân bằng, quyến thuộc.”
Xin xem phần chú giải ở 68/1.
87/11 “Xin nhớ đến.”
Bản La-tinh là : Sed et fratres. Bản Việt Nam là : “Chúng tôi cũng xin Chúa …”.
Trong tiếng La-tinh, câu Sed et fratres nostros … largiris dài quá và, do đó, câu văn dịch Việt Nam hiện hành cũng quá dài. Nên cần phải cắt câu và, đồng thời giữ mạch lạc tư tưởng giữa các câu. Uỷ Ban đề nghị :
“Xin Cha nhớ đến … ly trần.
Đặc biệt, xin Cha nhớ đến … đã qua đời.
Xin thương nhận … nước mắt chúng con.
Bấy giờ, chúng con … cho thế gian.”
Kinh Tạ Ơn IV
Kinh Tạ Ơn IV có một giọng điệu hứng khởi và sắc thái Kinh Thánh đặc biệt, nhất là trong phần đầu. Vì thế, trong bản dịch, chúng tôi cố gắng gợi lại giọng điệu và sắc thái ấy.
88/19 “Thay lời cho vạn vật.”
Bản La-tinh là : Per nostram vocem. Bản Việt Nam là : “Nhờ tiếng nói của chúng con.”
“Vạn vật nhờ tiếng nói của chúng con” nghĩa là gì ? Vạn vật phải ca tụng Thiên Chúa (x. kinh Tạ Ơn III, số 80/1). Nhưng chỉ con người được Thiên Chúa ban cho trí khôn và tiếng nói để diễn tả điều trí khôn hiểu biết, còn vạn vật khác thì không có trí khôn, không có tiếng nói, cũng không biết nhờ con người ca tụng. Vì thế, con người phải hiểu biết và ca tụng thay cho vạn vật.
Uỷ Ban dịch : “Thay lời cho vạn vật dưới thế.”
89/2 “Xưng tụng.”
Bản La-tinh là : Confitemur tibi. Bản Việt Nam là : “Chúng con tuyên xưng.”
Do ảnh hưởng của Kinh Thánh, động từ confiteor trong Phụng Vụ nhiều khi gồm cả ý nghĩa “tuyên xưng”, ca tụng và tạ ơn (Blaise, từ Confiteor ; VTB, từ Confession). Tuy nhiên, các bản dịch khó mà diễn tả hết ba ý, nên thường chỉ lấy một mà thôi. Bản dịch Anh : “We acknowledge” ; Đức : “Wir preisen” ; Ý : “Lodiamo”. Uỷ Ban đề nghị dùng từ “xưng tụng”, để nói lên ít ra là hai ý : tuyên xưng và ca tụng.
89/14 “Dùng các ngôn sứ.”
Bản La-tinh là : Per prophetas erudisti. Bản Việt Nam là : “Nhờ các tiên tri, Cha dạy dỗ.”
- “Dùng”. Nghĩa đầu tiên của từ “Nhờ” là yêu cầu người khác làm giúp cho việc gì : “Nhờ thầy chữa bệnh.” Nhưng mối tương quan giữa Thiên Chúa với ngôn sứ “Tạo hoá / thụ tạo”. Nên thay vì từ “Nhờ”, Uỷ Ban đề nghị từ “dùng”, theo nghĩa thường nghe : “Biết dùng người.”
- “Ngôn sứ”.
Xin xem lời chú giải trong kinh Tin Kính 15/13.
89/30 “Người đã chết.”
Bản La-tinh là : Mortuus est. Bản Việt Nam là : “Đấng đã chết.”
Câu La-tinh : Et, ut non amplius … compleret đã phức tạp, lại còn dài. Bản Việt Nam đã dịch sát : “Và, để cho chúng con không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho (Người là) Đấng đã chết và sống lại vì chúng con, thì lạy Cha, từ nơi Cha …” đã tới đây, mà chúng ta chưa thấy mệnh đề chính.
Uỷ Ban biến câu La-tinh ấy thành hai câu, nhưng vẫn làm nổi bật trọng điểm là việc Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần : “Người đã chết và sống lại, để chúng con … chỉ sống cho Người. Vì thế, từ nơi Cha, Người đã sai Chúa Thánh Thần …”.
89/32 “Ân huệ mở đầu.”
Bản La-tinh là : Primitias. Bản Việt Nam là : “Ơn đầu mùa.”
Chúa Thánh Thần là Primitiae. Từ ngữ này mượn của Rm 8,23 nhưng ý tưởng cũng có trong 1 Cr 15,20 và Rm 11,16 : Chúa Thánh Thần là ơn Thiên Chúa ban trước để bảo đảm cho ơn đầy đủ Chúa sẽ ban trong tương lai (xem TOB/NT, 470, chú thích n ; 478, chú thích p).
Primitiae là ơn đầu mùa. Từ “ơn đầu mùa” hơi khó hiểu. Thay vào đó, Uỷ Ban dịch là “ân huệ mở đầu” : các bản Phụng Vụ nước ngoài dịch : “First gift” (Anh) ; “erste Gabe” (Đức) ; “premier don” (Pháp) ; “primo dono” (Ý).
90/7 “Biến thành.”
Bản La-tinh là : Fiant. Bản Việt Nam là : “Để trở nên.”
Uỷ Ban dịch là : “Để biến thành.” Xin xem lại kinh Tạ Ơn II (74/7) ; xem kinh Tạ Ơn I (61 : Quam oblationem) và kinh Tạ Ơn III (81 : Supplices ergo).
90/10 “Khi cử hành.”
Bản La-tinh là : Ad celebrrandum. Bản Việt Nam là : “Hầu cử hành.”
- “Cử hành”. Cũng như động từ “trở nên” của bản dịch Việt Nam (x. 90/1), động từ “cử hành” không có chủ từ rõ rệt trong một văn mạch mà độc giả phải tìm hiểu câu kinh qua giáo lý hơn là qua chính bản văn.
- “Khi”. Vả lại, giới từ “ad” có nghĩa gì ở đây ? Có phải là “xin Thiên Chúa biến lễ phẩm thành Mình và Máu Đức Giê-su, để chúng con cử hành mầu nhiệm” không ? Thiết tưởng là không. Đàng khác giới từ “ad” có rất nhiều nghĩa trong đó có nghĩa : vào thời gian đã định. Bản dịch Phụng Vụ Ý cũng hiểu giới từ “ad” theo nghĩa thời gian.
Nên Uỷ Ban thấy phải minh nhiên hoá và dịch là : “Xin Thiên Chúa biến lễ phẩm thành Mình và Máu Thánh, khi chúng con cử hành mầu nhiệm.”
92/6 “(Chén) rượu nho.”
Bản La-tinh là : Calicem, genimine vitis repletum. Bản Việt Nam là : “Chén đầy rượu.”
Cách nói : Genimen vitis dùng để chỉ rượu nho, mượn của Mt 26,29. Câu Phụng Vụ hình như nhấn mạnh đến chất rượu nho hơn là đến tình trạng chén đầy (J. Gélineau, trong Anaphores nouvelles (Paris 1968) trang 50). Bản dịch Phụng Vụ Đức là : “Den Kelch mit Wein” ; bản dịch Ý : “Il calice del vino” ; bản dịch Tây Ban Nha : “El caliz lleno del fruto de la vid.”
Đàng khác, ở Việt Nam, nhiều khi linh mục chỉ cử hành Thánh lễ với một chút rượu mà thôi, mà đọc là chén đầy rượu thì linh mục nói không đúng, lại còn bị cộng đoàn dự lễ hiểu lầm.
Vì thế, Uỷ Ban dịch là : “Chén rượu nho”.
94/5 “Xuống cõi âm ty.”
Bản La-tinh là : Ad inferos. Bản Việt Nam là : “Ngục tổ tông.”
Từ inferi dịch từ Híp-ri sơol trong Cựu Ước. Theo quan niệm cổ truyền của người Do-thái thì, sau đời này, con người tồn tại như một cái bóng : Sơol là nơi quy tụ những cái bóng ấy (Is 38,18 ; St 37,35).
Để dịch một quan niệm cổ truyền, Uỷ Ban muốn dùng một từ ngữ cũng cổ truyền tiếng Việt, là “âm ty”. Đức Giê-su đã xuống cõi âm ty, tức là Người đã chết thực sự, đồng thời, đã thắng thần chết.
94/8 “Vinh quang ngự đến.”
Về cách nói này, chúng ta đã gặp trong kinh Tin Kính, xin xem 17/10 ; x. 11/10).
94/19 “Khi dâng lễ tế này.”
Bản La-tinh là : Hanc oblationem offerimus. Bản Việt Nam là : “Xin nhớ đến mọi người mà chúng con cầu nguyện cho khi dâng của lễ này.”
Bản Việt Nam phải thêm chữ (chúng con cầu nguyên cho) mà câu văn chưa được rõ nghĩa. “Mọi người mà chúng con cầu nguyện cho” có thể bị hiểu là : “Chúng con không cầu cho hết mọi người ; nhưng những người chúng con cầu nguyện cho, thì xin Cha nhớ đến.”
Uỷ Ban đề nghị : “Khi dâng lễ tế này, chúng con xin Cha nhớ đến mọi người.”
94/22 “Xin dâng lễ.”
Bản La-tinh là : Offerentium et circum astantium. Bản Việt Nam là : “Những người dâng lễ, những người hiện diện chung quanh đây.”
- Circum astantim là những người đang hiện diện trong Thánh lễ.
- Offerentium là những người xin dâng lễ. Phụng Vụ Pháp dịch là : “Les fidèles qui présentent cette offrande”. Phụng Vụ Anh cũng dịch là : “those who take part in this offering”. Còn Phụng Vụ Đức, cũng vậy : “Jene die ihre Gaben spenden.”
Nhưng cách dịch của bản Việt Nam hơi mơ hồ. “Những người dâng lễ”, đối với thính giả, có thể hiểu là những người tham dự Thánh lễ, nghĩa là những người mà chúng ta vừa nói đến, “những người đang hiện diện nơi đây” (circum astantium). Vì thế, Uỷ Ban thêm một chữ : “Xin”. Câu văn sẽ là : “Những người xin dâng lễ.”
94/35 “Tình trạng hư nát vì tội lỗi và sự chết.”
Bản La-tinh là : A corruptione peccati et mortis. Bản Việt Nam là : “Khỏi tội lỗi và sự chết.”
Đây là một ý tưởng Kinh Thánh quan trọng. Thiên Chúa dựng nên con người không phải để con người hư nát. Vậy con người bị hư nát là do chính con người : chết chóc vì tội lỗi (Kn 1,13 ; 2,23tt). Bản Việt Nam chưa quảng diễn sự hư nát là một ý tưởng quan trọng và cụ thể.
Uỷ Ban đề nghị : “Khỏi tình trạng hư nát vì tội lỗi và sự chết.”
94/38 “Muôn phúc lộc chan hoà.”
Bản La-tinh là : Bona cuncta. Bản Việt Nam là : “Mọi ơn lành.”
Dịch như thế dĩ nhiên là đúng. Uỷ Ban chỉ muốn đề nghị một công thức khác vì một vài lý do sau đây. Thứ nhất, nên có một câu văn trang trọng hơn, để làm nổi bật hồng ân Thiên Chúa ban cho thế giới. Thứ hai, nên có một câu văn hơi dài một chút để kết thúc câu kinh một cách êm dịu. Thứ ba, về âm điệu câu kinh, cần kết thúc câu kinh bằng bậc trầm giọng huyền (“hoà”), sau mười câu kết thúc bằng bậc trầm gióng khứ (“tạo”), hoặc bằng bậc bổng giọng bình (“Cha, Ma-ri-a, Cha, Cha, con”) hoặc bằng bậc bổng giọng khứ (“Chúa, giới”) hoặc nhập (“mắt, chết”).
2. Các kinh Tạ Ơn được phép dùng trong một vài Giáo Hội địa phương
Ngoài bốn kinh Tạ Ơn chính thức, còn có các kinh Tạ Ơn khác đã được phép dùng trong một vài Giáo Hội địa phương. Đó là hai kinh Tạ Ơn Thánh lễ Hoà Giải, và ba kinh Tạ Ơn Thánh lễ Trẻ Em và kinh Tạ Ơn dùng trong các dịp hội họp (bốn mẫu). Ở đây Uỷ Ban xin phiên dịch để kính tường.
Khi phiên dịch các kinh Tạ Ơn này, Uỷ Ban theo phương pháp và đường hướng đã áp dụng khi phiên dịch các kinh Tạ Ơn chính thức. Nhưng, đồng thời, Uỷ Ban cũng áp dụng những chỉ dẫn của Thánh Bộ Phụng Tự đã đưa ra khi ban bố những kinh Tạ Ơn này.
Tuy nhiên, thiết tưởng không cần phải ghi lại đây lời chú thích vì hai lý do chính. Thứ nhất, hiện giờ các nơi chưa có nguyên văn để đối chiếu khi đọc bản dịch và lời chú thích. Thứ hai, Thánh Bộ Phụng Tự để cho Uỷ Ban các Giáo Hội địa phương được khá tự do quảng diễn, thêm bớt khi phiên dịch các kinh Tạ Ơn ấy. Vì thế, chúng ta không bị gò bó với nguyên văn và, cũng vì thế, không còn vấn đề phiên dịch sai đúng nữa.
III. Kết thúc
III. KẾT THÚC
Bản dịch Phụng Vụ này do Uỷ Ban Phụng Tự Hội Đồng Giám Mục Việt Nam thực hiện. Nhưng, đúng hơn, phải nói rằng đây là công trình của nhiều Uỷ Ban Phụng Tự của nhiều giáo phận trong Giáo Hội Việt Nam.
Dựa vào bản dịch Phụng Vụ hiện hành và còn dựa vào một số bản dịch khác, Uỷ Ban đã thảo ra một bản dịch Phụng Vụ mới. Đức Giám Mục Chủ Tịch Uỷ Ban Phụng Tự đã trình bản dịch ấy để xin các Giáo phận đóng góp. Trong thời gian được ấn định trước, các nơi đã gửi về cho Uỷ Ban nhiều nhận xét và thư từ. Nhìn vào khối lượng thư ấy, chúng tôi cảm động vô cùng vì thấy các Giáo phận đã quan tâm đến công việc chung này.
Vì tầm quan trọng của Phụng Vụ và cũng để đáp lại nhiệt tình của các Giáo phận, toàn bộ Uỷ Ban Phụng Tự đã ngồi lại nghiên cứu từng lá thư. Có những đề nghị được thu nhận hoàn toàn : khi đọc bản dịch sau hết này, các Uỷ Ban Phụng Tự các Giáo phận sẽ nhận ra những đề nghị của mình. Lại có những đề nghị được đánh giá để, từ đó, Uỷ Ban đi đến một cách dịch khác tốt hơn. Nói chung, mọi đề nghị từ các nơi gửi về đều hữu ích cho công trình phiên dịch bản văn Phụng Vụ sau hết này.
Nói như vậy, phải chăng là bản dịch này đã hoàn hảo ? Thưa không. Và người ý thức về việc này hơn hết, chính là các thành viên của Uỷ Ban Phụng Tự :
- Cách xưng hô “Thầy / anh em” đòi phải bỏ ra mấy buổi họp.
- “Ác thần” hay “Sự dữ”, gặp trong kinh Lạy Cha, đã là mối tranh luận sôi nổi giữa Nhóm CGKPV và Nhóm Kinh Thánh.
- Về lời Truyền phép “Đây là Mình Thầy” cần phải bỏ phiếu đến hai lần cách nhau sáu tháng để quyết định (ngày 09-07-1987 và ngày 14-01-1988).
- Và còn nhiều trường hợp khác chỉ giải quyết bằng nguyên tắc “thiểu số phục tùng đa số”, một nguyên tắc tiên quyết mà mọi thành viên phải tôn trọng để làm việc chung một cách dân chủ và hữu hiệu.
Nhớ lại một vài chuyện như thế, mỗi thành viên đều ý thức rằng nhiều chỗ trong bản dịch không được mọi người đồng ý. Thế thì ai dám cho rằng bản dịch này là hoàn hảo ?
Tuy nhiên, không lẽ cứ ngồi đó mà đợi một bản dịch tuyệt hảo chưa có và sợ sẽ không bao giờ có ? Đàng khác, anh chị em giáo dân Việt Nam đang cần một bản văn Phụng Vụ để đọc, để hiểu, để cầu nguyện.
Đó là lý do tại sao Hội Đồng Giám Mục Việt Nam phải đưa ra và phổ biến bản dịch Phụng Vụ này.
Mục lục