NHÌN LẠI “NGHI THỨC THÁNH LỄ 2006”
Suốt bốn thập niên qua và cho đến hết đời, chúng ta vẫn đợi mong có một bản dịch Sách Lễ Roma. Vì đó là phương tiện vô cùng cần thiết cho việc thờ phượng Thiên Chúa và quy tụ Dân Chúa. Bao nhiêu nỗ lực của Giáo Hội Việt Nam đã đâm hoa kết trái. Giờ phút chờ đợi đã đến. Nghi Thức Thánh Lễ 2006 (NTTL) đã chào đời.
Biết bao phẩm bình đã nở rộ trong suốt mấy tháng qua. Chúng tôi cũng đã đọc tất cả những lời phê bình khen chê từ nhiều phía. Nhưng thú thực chưa có giờ để viết nên những lời đóng góp với Giáo Hội Việt Nam, mặc dù được bạn bè yêu cầu. Bây giờ, sau nhiều ngày tháng dâng lễ theo cuốn NTTL của Ủy Ban Phụng Tự trực thuộc Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam, chúng tôi xin mạo muội đưa một vài nhận định thô thiển như sau.
I. ƯU ÐIỂM
Trước tiên, không ai có thể phủ nhận NTTL có một số ưu điểm .
1. Cùng hay Cũng ? Bao nhiêu năm chúng tôi đã cố gắng sửa sai cho cộng đoàn Dân Chúa về một số từ trong Kinh Tin Kính, nhưng không thành công. Nhờ sự sắp đặt khéo léo của Ban Phụng Tự HÐGMVN, chúng tôi chẳng cần phải nhắc nhở cộng đoàn về cách đọc Kinh Tin Kính nữa.
Trong bản dịch cũ, khi đọc Kinh Tin Kính, chúng ta rất khó đọc đúng về Chúa Thánh Thần. Làm sao phân biệt được “cũng” và “cùng” trong câu : “Người cùng được phụng thờ” ? Thường cộng đoàn đọc “Người CŨNG được phụng thờ.” Lý do vì tất cả những chữ đều thuộc loại trầm bình thanh. Người ta có khuynh hướng đọc “cùng” ra “cũng” vì không thể giữ lâu nhiều âm trong cổ họng. Hơn nữa, đọc như thế, chúng ta đã hạ giá Chúa Thánh Thần xuống dưới Chúa Cha và Chúa Con rồi. Vô tình “rối đạo” mà không hay !
Bây giờ, NTTL đã đặt chữ “cùng” đó lại đằng sau, nên cộng đoàn đọc rất đúng. Ðây là nguyên văn : “Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con.” Trước và sau chữ “cùng,” các chữ đều không thuộc loại trầm bình thanh. Thế nên, nó vẫn giữ nguyên tính chất và được đọc lên dễ dàng. Hơn nữa, vị trí của chữ “cùng” đi với chữ “với” như hai giới từ ghép theo luật bằng trắc rất tự nhiên.
2. “Chúng ta” hay “Chúng tôi.” Hơn nữa, chữ “chúng ta” thay thế cho “chúng tôi” cũng rất phù hợp với tâm hồn và văn hóa Việt Nam. Thường tiếng ngoại quốc không phân biệt chúng ta với chúng tôi. Tiếng Việt Nam có chữ CHÚNG TA rất độc đáo. CHÚNG TA gồm cả ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai số nhiều. Muốn diễn tả như thế, tiếng ngoại quốc phải dùng tới hai chữ ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai. Chúng ta chỉ cần dùng một từ duy nhất. Tuyệt vời !
Bản NTTL đã chọn được một từ rất hay để diễn tả đúng ý nghĩa của bản văn ở đây. Tất cả cộng đoàn cùng tuyên xưng đức tin, nhưng vẫn không quên trong lời tuyên xưng đó vẫn có “chúng tôi” và “anh” hay “chị” trong đó. Tất cả đều hợp tiếng tuyên xưng đức tin, chứ không phải chỉ có “chúng tôi” mà thôi. Ðúng hơn, lúc tuyên xưng đức tin, chúng ta cùng hợp tiếng với các thần thánh trên trời và các linh hồn trong luyện ngục để nói lên đức tin của tất cả “chúng ta.” Chữ “chúng tôi” nhiều khi làm chúng ta cảm tưởng có sự phân biệt giữa các phe nhóm.
Trong câu giáo dân thưa sau khi linh mục đọc lời hô hào trước khi đọc lời nguyện dâng lễ, chữ “chúng ta” cũng được dùng rất hợp tình hợp lý. “Chúng ta” bao gồm cả giáo dân lẫn linh mục, nghĩa là toàn thể cộng đoàn Dân Chúa. Trong khi, chữ “chúng con” trong câu đáp cũ của Sách Lễ Rôma 1992 không bao gồm linh mục và có thể làm cho một số người dễ nhạy bén chẻ sợi tóc làm tư để bắt mọi người phải chú ý tới vấn đề “cha” , “con.” Mệt !
3. “Lỗi lầm” hay “điều gian ác” ? Trước khi dâng lễ vật, linh mục rửa tay và đọc theo bản cũ : “Xin rửa con sạch mọi điều gian ác.” Thú thật, khi đọc chữ “gian ác,” chúng tôi thấy nổi da gà. Nhưng bản NTTL đã giúp linh mục “thoải mái” một tí, vì đã theo sát bản văn Kinh thánh và thực tế hơn.
4. “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an.” Có những người đã góp ý nên giữ lại công thức cầu chúc trong Sách Lễ Roma 1992. Họ lập luận, nhiều người ra khỏi nhà thờ là đi thẳng về nhà, chứ không đi chỗ nào khác. Lập luận kiểu đó, hoàn toàn không dựa trên Kinh thánh chút nào.
Thực tế, câu chúc kết lễ đó có cả một bề dầy Kinh thánh rất lớn. Ðúng ra, không có chữ “bình an” trong câu đó. Trong tiếng Latinh, linh mục chỉ đọc : “Ite, missa est.” Nếu dịch sát, chúng ta có thể đọc : “Xin anh chị em hãy ra đi, thánh lễ kết thúc rồi.” Câu chúc vắn tắt này nhắc lại mệnh lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu : “Anh em hãy đi ...” Bởi đó, sau khi đã được nuôi dưỡng bằng Mình Máu Chúa và được Lời Chúa dạy dỗ, người tín hữu thấy đã đến lúc phải ra đi thực hành mệnh lệnh Chúa truyền dạy. Họ phải thi hành sứ mệnh làm chứng cho Chúa trong cuộc sống.
Tóm lại, NTTL, đã dịch câu chúc bình an này rất hay và có sức thuyết phục rất lớn. Sau khi lễ xong, dù về nhà hay đi đâu, người giáo dân cũng phải làm chứng cho Chúa.
5. “... theo thánh ý Chúa.” Ðây là câu gần câu kết thúc của lời nguyện với Chúa Giêsu sau câu tung hô kết thúc lời nguyện sau Kinh Lạy Cha. “Theo thánh ý Chúa” hay hơn câu “như ý Chúa muốn” ở bản văn Thánh Lễ Roma 1992. Kiểu nói “như ý Chúa muốn” làm cho câu văn quá bình dân, không hợp với nghi thức trang trọng của Phụng vụ. Ðọc “thánh ý Chúa” ai cũng hiểu là “ý Chúa muốn” rồi.
II. KHUYẾT ÐIỂM
Rất nhiều người đã phê bình NTTL rồi. Nhiều vị phân tích và phê bình rất sâu sắc và chuyên môn. Chúng tôi chỉ xin bổ khuyết đôi chút để cùng nhau nhìn lại.
1. BẢN VĂN
a. Có “Chúa” hay không ? Khi lấy lại công thức làm dấu thánh giá cũ, NTTL đã bỏ chữ “Chúa.” Lý do các vị đưa ra rất nhiều. Nhưng lý do chính được nêu lên : không thấy chữ “Chúa” trong các bản văn Latinh, Ðức, Anh, Pháp v.v. Bởi vậy, chữ “Chúa” mới bị trục ra khỏi “Cha, Con, Thánh Thần.”
Có lẽ chưa bao giờ có cảnh loạn chữ như vậy ! Không thể lấy ngôn ngữ khác làm mẫu cho Văn hóa Việt Nam. Văn hóa chúng ta rất trọng lễ nghĩa. Chẳng hạn, chúng ta không thể dịch : “Jesus said,” thành “Giêsu đã nói.” Bắt buộc chúng ta phải thêm chữ Chúa trước Thánh Danh Giêsu. Dịch từ tiếng Latinh, Pháp, Ðức v.v cũng vậy thôi.
Bởi vậy, thiết tưởng không nên bỏ chữ “Chúa” trước Thánh Danh cực trọng như vậy. Nếu sợ người ta hiểu lầm có ba Chúa, thì nên sợ bị hiểu lầm khi chúng ta đọc Kinh Tin Kính với chữ “Ðức Chúa” trước từng Ngôi.
b. “... là của ...” Hai chữ này nằm trong câu tung hô kết thúc lời nguyện sau Kinh Lạy Cha. Nguyên văn : “Vì vương quyền, uy lực và vinh quang là của Chúa đến muôn đời. Thiết tưởng tiếng Việt Nam kiểu nói “là của” nằm trong lối nói bình dân, giao thiệp hàng ngày. Bản văn Phụng vụ phải trang trọng hơn. Bởi vậy, không nên dịch “y chang” từng chữ từ tiếng ngoại quốc. Xin đề nghị, thay vì nói “là của,” chúng ta nên dịch như sau : “Vì vương quyền, uy lực và vinh quang thuộc về Chúa muôn đời.”
c. “Khi tự nguyện nộp mình chịu khổ hình.” Ðây là công thức đọc trước lời truyền phép. Về phương diện ngữ học, tất cả các chữ trong câu này đều thuộc loại trầm bình thanh. Rất khó đọc, vì toàn những âm nằm sâu trong cổ họng. Có lẽ quý vị dịch thuật đã không lưu ý tới thực tế và nguyên tắc ngữ học, nên mới sắp đặt những chữ quá nặng nề liền nhau như vậy. Tại sao lại bỏ chữ “tự ý” trong bản dịch cũ ? Có gì khác nhau về ý nghĩa giữa chữ “tự ý” và “tự nguyện” ?
d. “Tôn Nhan” hay “Tôn Nhan Chúa” ? Trong bản văn NTTL, không thống nhất cách dùng nhiều từ. Ðiển hình khi thì dùng chữ “Tôn Nhan” trong Kinh Tiền Tụng Ðức Mẹ II (trang 52), khi thì dùng “Tôn Nhan Chúa” ở Kinh Nguyện Thánh Thể II (trang 86). Thiết nghĩ viết hoa chữ “Tôn Nhan” đã hàm ý Chúa trong đó rồi. Hơn nữa, phải đọc thêm chữ “Chúa” sau chữ “Tôn Nhan” rất khó cho chủ tế.
e. “Thánh Tông Ðồ” (Kinh Nguyên Thánh Thể II, trang 86) Nếu theo sát bản văn Latinh, Pháp, Anh v.v, chúng ta không thấy có chữ Thánh trước “Tông Ðồ.” Ở đây khác hẳn chữ “Chúa” nêu trên. Tông Ðồ viết hoa đã đủ kính trọng đối với Nhóm Mười Hai của Chúa rồi. Không cần phải thêm chữ “Thánh” nữa.
f. Cầu nguyện cho người đã qua đời. Không hiểu tại sao bản dịch NTTL lại bỏ chữ trong ngoặc như “các” trước chữ “tôi tớ Chúa” và chữ “những” trước chữ “kẻ đã chết” trong phần cầu nguyện cho những người quá cố ? Vậy những lễ dâng cho nhiều người quá cố thì sao ? Việc lấy bổng lễ theo ý chỉ và việc nhắc tới nhiều linh hồn trong một thánh lễ là hai việc hoàn toàn khác nhau. Dù chỉ là một chi tiết nhỏ, nhưng cũng xin vui lòng lưu ý !
g. Ðiệp ngữ. Rất nhiều điệp ngữ trong bản dịch NTTL. Xin vui lòng xem lại các Kinh Tiền Tụng và các kinh khác nữa.
h. “... dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.” Ðây là câu kết thúc phần thống hối đầu thánh lễ. Cả bản 1992 và 2006 đều dịch như thế. Dĩ nhiên phải hiểu sự sống Thiên Chúa có ngay đời này và cả đời sau nữa. Nhưng thiết nghĩ “sự sống” là một danh từ trừu tượng. Không thể dẫn ai tới một thứ gì trừu tượng. Chỉ có thể dẫn ai tới một nơi hay một tình trạng nào đó. Ví dụ, không thể nói : Chúa đưa dẫn chúng ta đến sự thánh thiêng. Thay vào đó, có thể nói : Chúa dẫn đưa chúng ta vào tình trạng hay một nơi thánh thiêng.
Bởi vậy, xin đề nghị dịch như sau : “Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội, và cho chúng ta tham dự vào cuộc sống muôn đời.”
2. TÊN RIÊNG
a. Gạch nối. Chúng ta còn rất nhiều lấn cấn trong vấn đề dịch tên riêng. Từ trong nguyên tắc đã không có sự thống nhất với nhau. Có người chủ trương gạch nối giữa các chữ. Có người không. Gạch nối như thế cũng bất tiện. Thế nên, chọn lối viết liền và đánh dấu theo tiếng Việt để dễ đọc là đường lối tương đối dung hòa.
b. Lấn cấn. Nhưng đi xa hơn nữa, có người nêu ra hai ba nguyên tắc trái ngược nhau. Ví dụ, mới đoạn trước chủ trương phải trở về tiếng gốc của tên nhân vật. Sau đó lại nói phải quy ra tiếng Latinh để phiên âm. Và họ đưa ra ngay những ví dụ. Chẳng hạn, không nên dịch là thánh Ða Minh, nhưng nên dịch theo tiếng Latinh là Ðôminicô. Nhưng nếu phải trở về gốc, thiết tưởng gốc của thánh Ða Minh là Tây Ban Nha : Ðômingô.
c. Tên Việt Nam. Ði sâu vào văn hóa Việt Nam, chúng ta mới thấy một nguyên tắc nữa cần được đưa vào việc dịch thuật. Bình thường các tên riêng khi dịch sang tiếng Việt, người ta hay dùng hai chữ, ít khi dùng tới ba chữ. Ðặt tên bảng hiệu thường cũng chỉ dùng hai chữ mà thôi. Ðó là lý do tại sao khi dịch người ta dùng Phan Sinh thay vì Phanxicô, Âu tinh thay Augustinô, Ða Minh thay Ðôminicô hay Ðômingô v.v. Riêng tên thánh Ða Minh vừa sát với tên gốc, vừa mang ý nghĩa có tính cách lịch sử. “Ða Minh” nhắc tới ngôi sao sáng trên trán thánh nhân.
3. NGUYÊN TẮC LÀM VIỆC
a. Ðám đông. Hình như chưa có một nguyên tắc rõ ràng trong lề lối làm việc. Có những việc có thể trưng cầu ý kiến đám đông. Nhưng cũng có những việc thuộc lãnh vực chuyên môn, không thể lấy ý kiến đám đông được. Nguyên tắc này đã bị vi phạm trầm trọng. Ngay trong chính phủ dân chủ, người ta chỉ bầu các chức vụ dân cử. Nhưng khi đụng tới vấn đề hành chánh chuyên môn, không thể lấy ý kiến của đám đông. Người đứng đầu hành chánh chuyên môn phải là một người có khả năng và được cấp trên bổ nhiệm.
Không ai có thể chối cãi việc dịch thuật Phụng vụ thuộc lãnh vực chuyên môn. Cùng lắm quần chúng chỉ có thể được tham vấn, chứ không có quyền quyết định. Họ có thể cho biết cảm nghiệm hay những khó khăn khi áp dụng bản văn dịch thuật Phụng vụ. Ủy Ban Phụng Tự (UBPT) trực thuộc HÐGMVN đã cho biết công khai việc lấy ý kiến của đa số các địa phận trên toàn quốc về NTTL. Ðó là nền tảng xác định giá trị của NTTL, bất chấp những ý kiến của những người chuyên môn đầy tâm huyết.
b. Chuyên môn. UBPT cũng nói tới việc mời một vài nhà chuyên môn về ngữ học vào trong Ủy Ban. Hình như những nhà chuyên môn này không những được hỏi ý kiến mà còn được quyền bỏ phiếu quyết định trong UBPT (?). Nếu đúng thế, họ đã vượt quá lãnh vực chuyên môn của mình mà xâm phạm nguyên tắc dân chủ và hành chánh trầm trọng trong khi làm việc.
c. Ghi Tên Dịch Giả. Nhiều người nhắc đi nhắc lại luật cấm ghi tên các dịch giả trong sách Phụng vụ. Thực tế, trừ những sách Kinh Thánh, cả ba Sách Lễ không hề thấy ghi tên dịch giả nào. Có nên nhắc kỹ quá về một việc không ai lỗi phạm không ?
d. UBPT. Dựa theo nguyên tắc trên, có người lại đi quá xa. Theo họ, không nên thắc mắc những vị nằm trong UBPT có chuyên môn hay không, càng không nên biết tên của những quý vị đó. Chỉ nên vâng phục để đi đến hiệp nhất mà thôi.
Có lẽ ý kiến này thuộc thế kỷ 12, chứ không phải thế kỷ 21. Hai việc hoàn toàn khác nhau. Không được nêu tên trong sách, chứ không ai cấm công bố danh sách những người chịu trách nhiệm bản dịch NTTL trong UBPT. Không thể vâng lời mù quáng. Nên cho biết cả danh sách lẫn chuyên môn của từng vị để bảo đảm giá trị bản văn. Nếu không lầm, thiết nghĩ có nhiều vị không chuyên môn về những môn cần cho việc dịch thuật bản văn Phụng vụ. Có vị chuyên môn lãnh vực khoa học lại làm chuyện văn chương. Có vị chuyên môn sáng tác ... lại điều hành một ủy ban đòi nhiều kiến thức về mọi mặt Kinh Thánh, Phụng vụ, văn chương, ngôn ngữ v.v.
Phụng vụ là cao điểm và là sự sống của Giáo Hội. “Bản dịch là một thành tố rất quan trọng, nhưng không phải độc nhất, làm cho nền phụng vụ bằng tiếng địa phương trở thành "đỉnh cao và nguồn suối" phát sinh đời sống Kitô hữu. Vượt trên tất cả những vấn đề ảnh hưởng tới phụng vụ, tinh thần cộng tác huynh đệ giữa Ủy Ban với Thánh Bô Phụng Tự và Kỷ luật về Bí Tích mới bảo đảm phụng vụ có một chỗ đứng nòng cốt trong đời sống đức tin của người Công giáo.”
Ðúng thế, cần nắm vững mối tương quan với Tòa Thánh Vatican. Nhưng việc cộng tác giữa chúng ta cũng quan trọng và cần thiết cho tiền đồ GHVN. Nếu không đối thoại chân thành, chúng ta không bao giờ có thể đạt kết quả tốt đẹp như Thiên Chúa và Giáo Hội mong muốn. Tất cả Giáo Hội Việt Nam đang hướng về HÐGMVN !!!
Lm Giuse Ðỗ Vân Lực, O.P.
dzuize@gmail.com