TIN VUI
Tuần san Bạn trẻ Công Giáo - Số 100 CN 26.08.2007
Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com
Hoặc : tinvuivietnam@gmail.com
Cộng đoàn Taizé tưởng niệm 2 năm vị sáng lập bị sát hại.
ĐTC giúp 200,000 Mỹ Kim cho các nạn nhân động đất Peru
Lễ khấn dòng Dòng Nữ Trợ Thế Thánh Tâm Chúa Giêsu
Đại hội giới trẻ Lạc Viên giáo phận Đà Lạt
Thánh lễ khấn trọn của 15 nữ tu Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ Nha Trang
LINH MỤC, NGƯỜI ĐƯỢC THÁNH HIẾN
Người Công giáo Việt Nam đối diện với đại dịch HIV/AIDS
Tương quan giữa cha sở với các nữ tu, ban hành giáo và các đoàn thể trong giáo xứ (tiếp theo)
SỐNG LỜI CHÚA
Lc 13, 22-30
"Người ta sẽ từ đông chí tây đến dự tiệc trong nước Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được. Khi chủ nhà đã vào và đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: 'Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi'. Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi từ đâu tới'. Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: 'Chúng tôi đã ăn uống trước mặt ngài và ngài đã giảng dạy giữa các công trường chúng tôi'. Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta'. Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên sau hết".
Đó là lời Chúa.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hình ảnh “cửa hẹp”: Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào.
Thánh Phaolô trong bài đọc II thì dùng chữ "rèn luyện": Những người chịu rèn luyện sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính. Có trải qua rèn luyện, có đi vào cửa hẹp thì mới tìm được sự sống.
Năm nay, cả 3 giáo xứ cận kề chúng tôi, chỉ có 2 em đậu đại học. 3 Xã với hơn 30 ngàn dân mà chỉ có 2 sinh viên. Đường vào đại học là cánh cửa hẹp.
Năm nay, Chủng viện Nicolas Phan thiết tổ chức thi tuyển chủng sinh cho các học sinh vừa tốt nghiệp phổ thông trung học. Có 78 thí sinh, nhưng chỉ chọn 10 dự tu. Đường vào Chủng viện là cánh cửa hẹp.
Đường vào Đại học hay Chủng viện phải qua cửa hẹp, thí sinh mới vào được. Trải qua bao rèn luyện của những năm tháng học hành gian nan cực khổ mới đạt được bước khởi đầu. Rồi còn biết bao cánh cửa hẹp, bao rèn luyện khác nữa đang đợi phía trước.
Tại sao gian nan cực khổ giúp ta nên người?
Đọc Vietcatholic ngày 21.8.07, với bài “Từ ngôi làng nhỏ ở Bạc Liêu đến NASA, câu chuyện thành công của hai vợ chồng người Mỹ gốc Việt”, tôi thấy hai vợ chồng tiến sĩ đã đi qua “cửa hẹp”, rèn luyện với gian nan cực khổ để đạt tới hạnh phúc, vinh quang hôm nay.
Từ một nông dân ở ngôi làng nhỏ bé, hẻo lánh tại tỉnh Bạc Liêu trở thành khoa học gia tài giỏi trong đội ngũ của Trung tâm Không gian NASA tại Hoa Kỳ. Câu chuyện tưởng chừng như một giấc mơ, nhưng đối với vợ chồng tiến sĩ Trịnh Hữu Phước và Võ Thị Diệp, nó đã trở thành hiện thực.
Tiến sĩ Phước hiện là kỹ sư phi hành không gian, phụ trách phát triển động cơ hoả tiễn cho phi thuyền bay đi từ mặt trăng. Tiến sĩ Diệp là kỹ sư vật liệu cấu trúc, sáng chế và thử nghiệm vật liệu dùng cho động cơ hoả tiễn nhiên liệu đặc của phi thuyền con thoi. Cả hai vợ chồng đang làm việc cho Trung tâm Không gian NASA, chi nhánh Marshall ở thành phố Huntsville, bang Alabama.
Tiến sĩ Diệp chia sẽ: Tôi
sinh ra và lớn lên trong gia đình 9 anh em, ở một ngôi làng rất nhỏ ở tỉnh Bạc
Liêu. Giống như bao nhiêu gia đình nông dân khác, tôi lớn lên, làm ruộng, và có
gia đình, nhưng riêng cá nhân tôi, lúc nào tôi cũng có một mơ ước là được đi học
và có một bước tiến xa hơn nữa.Sau biến cố năm 1975, hoàn cảnh gia đình tôi khó
khăn, trong gia đình có tổ chức một cuộc đi vượt biên. Như tất cả những ai đã
từng đi vượt biên sẽ hiểu nỗi gian nan, vất vả của hành trình này. Tôi trốn đi
rất nhiều lần, đến lần thứ 3 hay thứ 4 mới thành công. Khi đặt chân tới đất Mỹ
này lúc đó tôi khoảng 17 tuổi. Tôi không vào trung học được vì nếu như vậy sẽ
không thể đi làm kiếm tiền nuôi bản thân và giúp đỡ gia đình ở Việt Nam rất cần
sự giúp đỡ của tôi.Cho nên tôi quyết định chỉ đi học tiếng Anh để thi bằng GED.
Sau khi đậu được bằng GED, tôi mới vào cao đẳng cộng đồng để học thử. Nhờ sự cố
gắng trường kỳ và sự miệt mài, tôi cảm thấy mình có khả năng vào được đại học
của Mỹ, nên tôi tiếp tục cố gắng học lên đến bằng cao học. Sau đó, tôi đi làm
được 1 năm rồi trở lại trường, học tiếp bằng tiến sĩ hoá học.
Tiến sĩ Phước tâm sự: Tôi sinh năm 1962, xuất thân từ một
làng nhỏ ở Bạc Liêu. Sau khi học hết lớp 3, tôi may mắn hơn những người khác
trong làng là được gia đình cho ra ngoài chợ để học. Sau 1975, gia đình gặp khó
khăn nên tôi rời Việt Nam năm 1979. Qua đây, giống như những người Việt Nam tị
nạn khác, trong thời gian đầu rất khó khăn.Ban ngày tôi đi học, ban đêm làm gác
dan cho mấy cái building hoặc biệt thự nhỏ để kiếm thêm tiền sinh sống. Mùa hè
tôi vào mấy xưởng bò để kiếm tiền thêm. Vào trường học, khi học sinh ăn trưa thì
tôi đi rửa chén để phụ thêm tiền học. Nhưng may mắn là tôi cũng học khá, rồi sau
này lên đại học thì được học bổng nên cũng đỡ hơn.
Hồi mới qua Mỹ, giống như bà xã tôi, tôi cũng chưa có bằng trung học ở Việt Nam, cho nên tôi phải học GED, giống như bổ túc văn hoá. Tôi đậu được GED 6 tháng sau khi đến Mỹ. 6 năm sau, tôi nhận bằng cao học và đi làm cho Cơ quan không gian NASA của Mỹ.Nhưng may mắn là ở đây họ rất khuyến khích mình đi học thêm nữa. Cho nên, đến năm 2004 tôi lấy được bằng tiến sĩ ở trường University of Alabama ở thành phố Huntsville.
Tiến sĩ Diệp: Ngược dòng thời
gian khoảng 1980, tất cả người Việt tị nạn mình ai cũng khổ sở, ai cũng có bầu
nhiệt huyết, mà con đường tiến thân duy nhất là con đường học vấn. Cho nên, ai
cũng phải cố gắng đi học, vừa học vừa làm. Tôi đi học về phải ghé vào nhà hàng
làm thâu ngân.Có nhiều lúc buồn ngủ từ trong tim, trong ruột gan, tôi phải tự
ngắt vào người mình cho đau điếng để tỉnh ngủ. Cuối tuần, tôi phải đến nhà người
ta chùi dọn. Có nhiều lúc lau dọn nhà cho người ta, tôi suy nghĩ trong tương lai
mình phải làm sao cho bằng họ. Thành ra, cuối cùng bây giờ, nói về vật chất
thôi, những gì họ có trong nhà thì tôi cũng có khả năng có được như họ. Có nhiều
khi tôi cũng suy nghĩ không biết nếu bây giờ tôi trở lại, những người đó sẽ nghĩ
mình như thế nào, vì lúc đó họ nhìn mình với cặp mắt là một người lao công.
Tiến sĩ Phước: Phải cố gắng, vì mình sống phải có mục
đích. Cuộc đời bằng phẳng thì ai cũng có thể làm được hết, nhưng sự khó khăn mới
là thách đố cho mình để học hỏi nhiều hơn. Cho nên, mình phải ráng phấn đấu,
ráng cố gắng.
Gian nan, cực khổ nhằm giúp con người ta nên người và trở
nên Kitô hữu tốt. Bởi vì:
Cửa vào Nước Trời hẹp vì được làm theo kích thước thấp và bé của Chúa Giêsu. Chúa đã hạ mình thấp xuống làm người, vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Chúa đã trở nên bé nhỏ trong thân phận người nghèo, gia đình nghèo, làng quê nghèo.
Điều kiện để vào Nước Trời phải vất vả cố gắng. Chúa Giêsu đã nói rõ ràng “Anh em hãy ra sức vào qua cửa hẹp”. Ai muốn vào Nước Trời đều phải đi qua khung cửa hẹp. Chúa nói trong tâm thế lên đường tiến về Giêrusalem.Theo cái nhìn của Thánh Luca, cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc hành trình tiến về Giêrusalem, mà điểm đến là Núi Sọ và vinh quang Phục sinh. Ai muốn làm môn đệ Người cũng phải lên đường như thế “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mỗi ngày mà theo Ta”. Đường chật hẹp vẫn luôn là tuyến đường của những bước chân theo lối mở của Bài Giảng Trên Núi. Cuộc ra đi và lên đường đầy cam go, thử thách, đòi hỏi nhiều quyết tâm và chiến đấu, nhất là ra đi và lên đường khỏi con người cũ, con người tội lỗi. Cửa hẹp là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời.
Muốn vào Nước trời, chỉ có con đường Chúa Giêsu đã đi,
chỉ có cánh cửa hẹp Chúa đã qua. Ai muốn đi thì phải noi gương Người và quyết
tâm theo Người.
Trong bộ sách “Thao thức” gồm 5 cuốn, xuất bản vào tháng 5.2007, Đức Cha Bùi Tuần có viết bài suy tư về “cửa hẹp, đường hẹp”. Từ nhỏ, lúc mới đi tu, tôi đã được nghe dạy: “hãy đi vào cửa hẹp, đường hẹp”. Bấy giờ, tôi hiểu một cách trông trống: đi vào cửa hẹp đường hẹp là đi vào lối sống tránh xa tội lỗi, và phải giữ một số kỷ luật để nên người đạo đức.
Khi lớn, lúc đã biết mở sách Phúc Âm, tôi mới được đọc Lời Chúa Giêsu về lời dạy đó: “Hãy qua cửa hẹp mà vào. Vì cửa rộng và đường thênh thang đưa đến diệt vong. Nhiều nguời lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường thật thì đưa đến sự sống. Nhưng ít người tìm được lối ấy” ( Mt 7,13-14). Tôi tin vào Lời Chúa là chân lý ban sự sống, nên tôi đón nhận Lời Chúa với lòng cảm tạ.
Để học và để thực hiện Lời Chúa đi vào đường hẹp, ta phải có những quyết tâm. Quyết tâm phải cụ thể, rõ ràng, khả thi theo hoàn cảnh của mình. Quyết tâm từng ngày. Quyết tâm làm những việc lành nhỏ có thể làm hơn là việc lớn khó có thể làm. Quyết tâm những gì chính mình sẽ làm, chứ không đòi hỏi kẻ khác làm thay. Quyết tâm với sự tự do của người con Chúa, chứ không do ai áp đặt. Quyết tâm với tinh thần trách nhiệm cao, chính mình chịu trách nhiệm về việc mình làm. Quyết tâm làm thì nhất định sẽ làm, chứ không quyết tâm theo nghi thức bề ngoài, hoặc theo thói quen máy móc. Nhất là quyết tâm tận dụng mọi phương tiện trong tầm tay,để mỗi ngày trở nên một người tu thân đích thực và biết dấn thân tận tình tận sức cho tin mừng theo mẫu gương Đức Kitô. Những quyết tâm như vậy sẽ là những bước thường xuyên khiêm tốn đi vào cửa hẹp, một đường hẹp mở ra một chân trời sự sống mới. (x. Thao thức 4, trang 195).
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
CON ĐƯỜNG TU ĐỨC
Trong bất cứ thánh lễ nào, tôi cũng lãnh nhận được nhiều ơn thánh. Nhưng thánh lễ dành cho các bệnh nhân thường là cơ hội, để tôi lãnh nhận được nhiều ơn thánh hơn.
Không phải bệnh tật là những lễ vật cao quí. Nhưng cao quí là chính những người mang gánh nặng bệnh tật. Bệnh tật được đặt trên những tấm lòng nghèo khó. Ðơn sơ chỉ với niềm tin, lửa mến và tâm tình phó thác. Nhất là với sự phù trợ âm thầm của Chúa Thánh Linh.
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ rằng: "Khi Ðấng phù trợ đến, Ðấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha. Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha. Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em sẽ làm chứng về Thầy, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu" (Ga 15,26-27).
Dựa trên lời Chúa Giêsu hứa trên đây, tôi nhìn mọi môn đệ Chúa là các chứng nhân. Nhưng một trong các chứng nhân đặc biệt chính là những bệnh nhân có ơn Chúa Thánh Thần.
Nội dung làm chứng về Chúa của họ không cần tìm ở đâu xa. Bởi vì nội dung đó, họ tìm được ngay từ Phúc Âm, từ Chúa, từ tình trạng bệnh tật của chính mình.
Nội dung đó rất súc tích. Nhưng tôi để ý đến ba điều sau đây:
Ðiều thứ nhất họ làm chứng là mầu nhiệm sự chết và sự sống lại.
Mầu nhiệm này được kể như căn bản cuộc đời. Chúa Giêsu đã sống mầu nhiệm đó một cách thiết thực. Người đã rao giảng mầu nhiệm đó với tất cả tình yêu chân thành tha thiết. Ðể được sống lại vinh hiển, thì phải chết lành. Ðể được sống lại trong cõi sống của Thiên Chúa, thì phải chết đi về phía tội lỗi. Ðể được tham dự vào hạnh phúc trường sinh, thì phải chết đi về phía những gì trái với hạnh phúc đó.
Các bệnh nhân được ơn Chúa Thánh Thần sẽ sống các chân lý cứu độ ấy với chính cuộc sống đau bệnh của mình. Dù mang bệnh tật và đau đớn, họ có thể nhìn các giá trị cuộc đời với cái nhìn rõ hơn, sâu hơn, xa hơn và chính xác hơn.
Chúa Giêsu hứa: "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thực toàn vẹn" (Ga 16,13). Sự thực toàn vẹn do Chúa Thánh Thần ban cho các bệnh nhân sẽ giúp họ làm chứng những đau đớn trong đời sống có ý nghĩa nào, có mục đích nào.
Trong cái nhìn đó, họ sẽ lợi dụng mọi giây phút khổ đau, để mến Chúa. Mến Chúa nhiều hơn trước, mến Chúa với ý nguyện dâng hiến mạnh mẽ và chân thành hơn trước. Cùng với lòng mến Chúa, họ sẽ cầu nguyện nhiều hơn trước.
Ðiều thứ hai họ làm chứng là tinh thần cầu nguyện.
Trong Kinh Thánh, Chúa nhắn nhủ: "Cha đứng ngoài cửa và gõ. Ai nghe và mở cửa ra, thì Cha sẽ vào" (Kh 3,20).
Tiếng Chúa gọi bao giờ cũng rất nhỏ nhẹ, nhưng người bệnh thường nghe thấy một cách dễ dàng, vì người bệnh thường rất mong được gặp Chúa. Họ mở cửa lòng hầu như thường xuyên, để đón Chúa. Với họ, gặp Chúa đã là một cách cầu nguyện.
Tôi thường thấy các bệnh nhân cầu nguyện một cách rất hồn nhiên, đơn sơ. Có khi chỉ bằng vài lời, chỉ bằng một cái nhìn, chỉ bằng một cử chỉ cầm lấy ảnh tượng thánh và chuỗi Mân côi.
Ðiều mà họ khát mong nhất, khi gặp Chúa, là ơn bình an. Bình an cho mình, bình an cho những ai chăm sóc mình, bình an cho tất cả những người thuộc về mình. Sự bình an mà họ xin với Chúa, là sự bình an hợp với thánh ý Chúa.
Tôi có kinh nghiệm là khi xin ơn bình an theo thánh ý Chúa, người bệnh sẽ được nhận lời. Họ sẽ cảm nhận được sâu sắc một sự bình an thiêng liêng từ Chúa ban cho. Chính sự bình an đó sẽ là một chứng từ để bệnh nhân làm chứng về Chúa.
Ðiều thứ ba họ làm chứng là ơn liên đới.
Với ơn Chúa, người bệnh sẽ nhận ra sự bình an của mình do bao người gần xa đã và đang góp phần vào. Họ biết ơn tất cả những người đã sống liên đới tích cực với mình. Với ơn Chúa, người bệnh sẽ dâng cuộc đời mình làm thánh lễ, để cầu cho Hội Thánh, cho Quê Hương, cho gia đình, cho những người thân, cho những người còn xa Chúa. Họ thực sự đồng cảm, đồng hành với chính Chúa Cứu thế trong việc cứu đời.
Họ biết mình sống tốt và chết lành nhờ bao người khác. Họ biết mình sống tốt và chết lành, để góp phần vào công cuộc cứu độ bao người gần xa.
Ðến trước toà Chúa, họ sẽ làm chứng cho bao người đã có lòng tốt phục vụ họ. Bao người cũng sẽ làm chứng là họ đã được ơn trở lại nhờ bệnh nhân này, bệnh nhân kia. Nhất là chính Chúa Giêsu sẽ khen thưởng cho những ai đã có lòng thương xót đối với nhau, như lời Người đã hứa: "Phúc thay ai thương xót người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương" (Mt 5,7).
Với những chia sẻ trên đây, tôi mong mọi người tin Chúa sẽ có một cái nhìn mới mẻ về bệnh nhân. Và từ cái nhìn mới mẻ đó, chúng ta sẽ thực hiện chuyến đi về với Chúa Cha trong sự đồng cảm, đồng hành với Chúa Giêsu, nhờ ánh sáng và lửa mến đầy bình an của Chúa Thánh Thần.
ĐGM. GB Bùi Tuần
HIỆP THÔNG GIÁO HỘI
Rome, 17/08/07 - Vào ngày 16
tháng 8 vừa qua, cộng đoàn đại kết Taizé tại Pháp đã cử hành nghi lễ tưởng niệm
2 năm Thầy Roger, vị sáng lập cộng đoàn đại kết Taizé, bị một kẻ mắc bệnh tâm
thần đâm chết ở tuổi 90 trong lúc thầy đang cầu nguyện.
Nhân dịp này đài phát thanh Vatican đã thực hiện cuộc
phỏng vấn thầy Alois, người kế vị thầy Roger trong việc điều hành cộng đồng đại
kết Taizé.
Thầy Alois cho biết cộng đồng tưởng nhớ vị sáng lập trong
những lời kinh nguyện. Thầy nói. “Trong buổi cầu nguyện đêm nay chúng tôi tưởng
nhớ đến hồng ân, đời sống và cái chết của vị sáng lập”
Thầy Alois cũng cho biết cộng đoàn Taizé vẫn tiếp tục sứ
mệnh là đưa các nhóm Kitô Giáo hợp nhất lại với nhau trong cộng đoàn đại kết.
Thầy nói: “ Giờ đây, đối với chúng tôi, điều quan trọng là hoan nghênh tất cả
các bạn trẻ đến từ các giáo hội khác nhau, các cộng đoàn khác nhau, quá trình
khác nhau. Ví dụ chúng tôi có nhiều bạn trẻ đến từ các quốc gia Chính Thống Giáo
như Romania, Ukrainia, Nga, nhiều bạn trẻ Công Giáo cũng như Tin Lành.
Thầy Alois nói tiếp: “Taizé vẫn tập trung vào việc đưa
tất cả các người Kitô Giáo hợp nhất lại với nhau qua lời kinh nguyện. Một ngày 3
lần, chúng tôi cùng cầu nguyện với nhau. Chúng tôi rất chú ý vào những lời kinh
nguyện trong tâm tình thờ lậy, lắng nghe, lắng nghe lời Chúa. Chúng tôi có những
giây phút thầm lặng suy tư, cảm tạ Thiên Chúa và cùng hát với nhau”
Thầy Alois cũng cho biết thời điểm cho sự đoàn kết giữa
các người Kitô Giáo là khẩn thiết. Thầy nói: “Chúng tôi nghĩ rằng kinh nguyện là
việc chuẩn bị cho tâm hồn hiểu ý Chúa, là muốn mọi ngưòi Kitô giáo hợp nhất lại
với nhau và ngày nay điều khẩn thiết là các người Kitô Giáo phải tiếp tục con
đường hòa giải.
VATICAN. ĐTC Biển Đức XVI
gửi 200 ngàn mỹ kim qua trung gian Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum, Đồng Tâm, để góp
phần cứu trợ các nạn nhân bị động đất tại Peru.
Ngân khoản trên đây sẽ được ĐHY Tarcisione Bertone, Quốc
vụ khanh Tòa Thánh, mang đến Peru, trong cuộc viếng thăm của ngài tại đây vào
tuần tới, để bày tỏ sự gần gũi tinh thần và tình liên đới của ĐTC với các nạn
nhân bị động đất.
Thông cáo của Tòa Thánh công bố hôm 20-8-2007 nói rằng
qua cử chỉ nói trên, ĐTC cũng muốn biểu lộ mối quan tâm của Giáo Hội hoàn vũ đối
với những người bị mất thân nhân và tài sản, đồng thời Ngài khích lệ tất cả các
tín hữu và các tổ chức từ thiện của Giáo Hội dấn thân bao nhiêu có thể trong
những hoạt động bác ái huynh đệ có phối hợp để giúp đỡ dân chúng bị nạn, trong
niềm tôn trọng các ưu tiên được xác định ở địa phương và trong niềm hòa hợp với
Giáo Hội địa phương.
Theo thống kê mới nhất về cuộc động đất chiều ngày
14-8-2007 tại Peru, có hơn 500 người bị thiệt mạng, 2 ngàn người bị thương và
200 ngàn người bị mất gia cư và sản nghiệp.
Mặt khác, Caritas quốc tế đã gia tăng trợ giúp cho các nạn nhân tại Peru. Hơn 100 tấn thuốc men, lương thực, chăn mền và nước uống được chuyển từ thủ đô Lima tới các thành phố Pisco, Ica và Chincha, để được 200 người thiện nguyện phân phát cho 10 ngàn gia đình trong những ngày tới đây. (SD 20-8-2007)
(Radio Veritas Asia 19/08/2007) - Thứ Bảy, ngày 18 tháng 8 năm 2007, Chị Chiara Lubich, 87 tuổi, sáng lập viên và là chủ tịch của Phong Trào Tổ Ấm, Focolare, đã được thị xã Mollens, vùng Valais, Thụy Sĩ, tôn vinh với tước hiệu danh dự "Người Công Dân Quý Phái" của thị xã. Ðược biết, từ năm 1974 đến nay, mỗi năm, Chị Chiara Lubich đều đến sống tại thị xã Mollens này, một thời gian. Khi trao tước hiệu danh dự "Người Công Dân Quý Phái" cho Chị, Ông Stéphane Pont, Chủ Tịch Hội Ðồng Thị Xã Mollens đã giải thích như sau: "Thị Xã Mollens hãnh diện có được một nhân vật nổi tiếng thế giới đến cư ngụ... Vì thế, đây là việc tự nhiên chúng ta làm một cái gì đó để tôn vinh nhân vật danh tiếng này, Chị Chiara Lubich."
Ðược biết, Chị Chiara Lubich sinh tại thành phố Trentô, miền Bắc Italia, vào năm 1920. Năm 1943, giữa thời thế chiến thứ hai, cùng với vài người bạn, Chị Chiara Lubich đã bắt đầu sống thực hành giáo huấn phúc âm trong cảnh sống hằng ngày. Nhóm bạn sống phúc âm này quy tựu lại với nhau thành một cộng đoàn nhỏ, gọi là "Focolare", tức "Tổ Ấm", khai sinh một phong trào sống phúc âm giữa đời, mà hiện nay được biết đến với tên gọi "Phong Trào Tổ Ấm", có mặt tại 182 quốc gia, thuộc khắp năm châu, với khoảng 4 triệu thành viên. Ðiều đặc biệt là trong số thành viên của Phong Trào "Tổ Ấm", có cả những thành viên kitô, nhưng không phải là công giáo, đến từ 350 giáo hội kitô, hoặc cộng đồng giáo hội kitô khác nhau. Và có cả những anh chị em hồi giáo, do thái giáo, phật giáo, ấn độ giáo, lão giáo, vân vân,... đến sinh hoạt trong phong trào. Như thế, với dòng thời gian, từ một "tổ ấm" nhỏ sống tinh thần phúc âm, một phong trào lớn được khai sinh, dựa trên tinh thần tu đức hiệp thông, quy tựu những con người thuộc mọi lứa tuổi, chủng tộc, văn hoá, ngôn ngữ, ngành nghề, hoàn cảnh xã hội. Ðó là những con người dấn thân trở thành "men tình yêu thương", nhắm xây dựng một thế giới liên đới hơn, hiệp nhất hơn.
Riêng tại Thụy Sĩ, Phong Trào Tổ Ấm đã có mặt hoạt động từ năm 1962; và hiện có 1,500 thành viên tích cực hoạt động và khoảng 30,000 cảm tình viên. Trên bình diện xã hội, kinh tế và chính trị, tại Thụy Sĩ, phong trào Tổ Ấm nhắm đến việc xây dựng, cùng với tất cả mọi công dân trong nước, một thế giới huynh đệ giữa tất cả mọi người, một thế giới biết chia sẻ công bằng những của cải tài nguyên, một thế giới hoà bình. Chẳng hạn như trên bình diện kinh tế, Phong Trào Tổ Ấm tại Thụy Sĩ , đã khai sinh dự án có tên gọi là "Kinh Tế của Hiệp Thông", quy tựu được 700 công cuộc kinh doanh tham dự.
Nhìn chung, trong hơn 60 năm sinh hoạt, Phong Trào Tổ Ấm do chị Chiara Lubich sáng lập và làm chủ tịch, đã gợi hứng và khai sinh biết bao sáng kiến cụ thể, cho người lớn, cũng như cho các bạn trẻ và cho cả những trẻ nhỏ nữa.
Ðể đáp lại tình trạng bất bình đẳng xã hội, chị Chiara Lubich, vào năm 1991, đã thành lập tại Sao Paolo, bên Brazile, dự án kinh tế được gọi là "Kinh Tế của Hiệp Thông"; Hiện nay, sáng kiến này hoạt động tại nhiều quốc gia trên thế giới, theo gợi hứng của tu đức hiệp thông của phong trào Focolare.
Dấn thân của Chị Chiara Lubich đã mang lại nhiều giải thưởng tôn vinh chính cá nhân của Chị: năm 1977, Chị được giải thưởng Templeton vì sự Tiến Bộ Tôn Giáo; năm 1996, giải thưởng của UNESCO vì sự giáo dục cho Hoà Bình; năm 1998, giâi thưởng Âu Châu vì Nhân Quyền. Ðặc biệt, từ năm 1996 đến nay, chị Chiara Lubich, đã nhận được 9 Bằng Tiến Sĩ Danh Dự, từ các Ðại Học tại Âu Châu, Châu Mỹ La Tinh, Á Châu và Hoa Kỳ. Nhiều thành phố trên thế giới đã công nhận Chị là "Công Dân Danh Dự" của thành phố. Chị là đương kim chủ tịch của Hội Ðồng Thế Giới Các Tôn Giáo Phục Vụ Hoà Bình (WCRP). Chị đã thuyết trình ngày 24 tháng Giêng năm 2007, trong Hội Nghị Liên Tôn tại Assisi, Italia.
Chị Chiara Lubich là một giáo dân đơn sơ, nhưng có một uy quyền tinh thần cao nhất. Ðược Ðức Gioan XXIII chấp nhận, được Ðức Phaolô VI lắng nghe, và được Ðức Gioan Phaolô II mộ mến, Chị Chiara Lubich đã tham dự hai Thượng Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới.
(Ðặng Thế Dũng)
BÀ
RỊA -- Ngày 17.8.2007, tôi tham dự Lễ Khấn Dòng tại nguyện đường Dòng Nữ Trợ Thế
Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đức Cha Toma Nguyễn Văn Trâm, Giám Mục Giáo Phận Bà Rịa
chủ tế. Tôi thấy có nét đặc biệt của Hội Dòng này là Mẹ Bề Trên từ Tây Ban Nha
qua Việt Nam nhận lời khấn của các khấn sinh.
Tuyên khấn trọn đời:
Tuyên khấn lền đầu:
GIỚI THIỆU VÀI NÉT VỀ ĐẶC TRƯNG VỀ LINH ĐẠO VÀ SỨ MỆNH
CỦA HỘI DÒNG
SƠ LUỢC
Hội Dòng là hồng ân mà Chúa Thánh Linh ban cho Giáo Hội, được thành lập tại Ciempozuelos ngày 31 - 05–1881. Do Cha Thánh Benito Menni – Linh Mục Dòng Gioan Thiên Chúa với sự cộng tác của Mẹ Maria Josefa Recio và Mẹ Maria Angustias Gimenez
TÂM NIỆM VÀ DI CHÚC TINH THẦN CÁC ĐẤNG SÁNG LẬP
Sống tinh thần Trợ Thế bằng việc kết hợp chiêm niệm với hoạt động Tông Đồ, trong khi trung thành với “ Luật đầu tiên ” đã được các vị sáng lập ban cho Dòng là: Cầu Nguyện, Làm Việc, Chịu Đựng, Hy Sinh, Yêu mến Chúa và Trầm Lặng.
SỨ MỆNH
Dòng có nhà mẹ ở Roma, với sứ mệnh đặc biệt trong Giáo Hội là thực hành bác ái Trợ Thế cách riêng đối với các bệnh nhân tâm thần và các người bất túc, noi gương tình yêu của Đức Kitô mà Thánh Tâm của Ngài là biểu tượng.
MỤC ĐÍCH
Mục đích của Hội Dòng là tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng cách họa lại nơi mỗi Nữ Tu những tâm tình của Thánh Tâm Chúa Giêsu, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Và như thế, Hội Dòng tiếp tục trong Giáo Hội và cho thế giới sứ mệnh cứu độ của Chúa Kitô bên cạnh những người mắc bệnh tâm thần và những người bất túc về thể xác và nhất là những người nghèo. Hội Dòng cũng chấp nhận các hoạt động Tông đồ khác miễn là chúng phù hợp với đặc sủng Trợ Thế của Hội Dòng.
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM LINH ĐẠO
Sống Yêu thương tring Tình yêu Phục vụ
Hội dòng đón nhận tinh thần đó từ nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu, tin tưởng phó thác bản thân cho Ngài, ra sức suy nghĩ, yêu mến và ước ao cùng một cách như Ngài.
Hội dòng sẽ tìm được sức mạnh để bền đỗ trong ơn gọi Bác ái của mình nhờ việc cử hành, lãnh nhận và tôn thờ Thánh Thể, là nguồn mạch của sự thông hiệp, sự sống và tình yêu cũng như trong sự cảm nghiệm về Mầu Nhiệm Ba Ngôi và việc siêng năng suy niệm sự thương khó Chúa Giêsu. Cũng trong chiều kích đó, Hội dòng cũng được chung hưởng trọn vẹn niềm vui của Đức Kitô Phục Sinh.
Sự hiện diện của Hội Dòng
I. Châu Âu:
II. Châu Mỹ La Tinh
1. Tây Ban Nha
1. Mêhicô
2. Bồ Đào Nha
2. Colombia
3. Italia
3. Ecuador
4. Pháp
4. Perú
5. Anh
5. Bolivia
6. Ba Lan
6. Chile
7.Argentia
8. Uruguay
9. Brasil
III. Châu Phi
IV. Châu Á
1. Liberia
1. Philippin
2. Ghana
2. Việt Nam
3. Cameroun
3. Ấn Độ
4. G. Ecuatoria
5. RD. del Congo
6. Mozambique
Hiện nay, Hội Dòng đón nhận nhiều người khuyết tật, nuôi dưỡng tận tình chu đáo. Hội Dòng cũng tuyển chọn ơn gọi từ các em học sinh lớp 9 đến lớp 12.
Có thể liên hệ với Nhà dòng qua các địa chỉ:
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chuẩn bị cho Đại hội Giới
Trẻ của Giáo Phận vào cuối năm 2007, và hướng về Đại hội Giới Trẻ Thế Giới
7/2008 tại Sydney bên Úc Châu, Ban mục vụ Giới Trẻ Giáo Xứ Lạc Viên đã tổ chức
Đại Hội Giới Trẻ với hai ngày cắm trại (18 & 19/8/2007) cùng những sinh hoạt vui
chơi và cầu nguyện. Đây là lần đầu tiên Giáo Xứ Lạc Viên tổ chức đại hội nhằm
quy tụ 600 người trẻ đi vào sinh hoạt nề nếp, góp phần xây dựng xã hội, Giáo Xứ,
gia đình và chính bản thân người trẻ trong những sinh hoạt lành mạnh và năng
động của giới trẻ.
1* NỔI LỬA LÊN !
Ngay từ 6 giờ 30 sáng thứ Bảy 18/8/2007, hơn hai trăm các
bạn trẻ người Churu thuộc hai bản làng Diom’A và B’Kăn đã có mặt tại trung tâm
Diom, nơi nền nhà thờ Diom mà sau năm 1975 đã bị phá bỏ. Anh Lã Minh Đăng,
trưởng ban mục vụ giới trẻ của Giáo Xứ, đã có mặt tại vị trí cách đây 49 năm
(1958) đã đặt bàn thờ Diom để trao lửa cho các bạn trẻ. Hai bạn trẻ, một nam một
nữ, đóng khố truyền thống của người Churu, đã lên nhận đuốc lửa, và sau một vài
bài múa cồng chiêng, đã dẫn đoàn chạy đuốc về nhà thờ Lạc Viên. Sang đến phần
đất của Giãn Dân, khoảng năm chục bạn trẻ của Giáo Khu 5 đã chờ sẵn, và sẵn sàng
nối đuôi tiếp sức cho đoàn rước lửa. Ra đến bờ sông Đa Nhim, gần một trăm bạn
trẻ của Giáo Khu 2 đã chờ sẵn bên này sông trong tiếng hát và reo hò. Chiếc cầu
quá nhỏ không thể mau chóng chuyên chở đoàn người, một vài bạn trẻ nôn nóng nhảy
xuống sông, lội suối vì dòng sông cũng không nhiều nước lắm. Thế là cả đoàn
người trẻ không ngại ướt quần cũng mau chóng lội suối băng sông trong tiếng reo
hò và hát vang bài ca người trẻ : “Lạy Chúa chúng con về từ bốn phương trời…”.
Đoàn rước đã băng qua lối mòn của cánh đồng rau để tiến
ra đường lộ. Các bạn trẻ người K’Ho ở Labouye chào đón đoàn rước đuốc và nhập
đoàn diễu hành trên đường phố. Tại khuôn viên nhà thờ Lạc Viên có tới ba trăm
bạn trẻ thuộc các Giáo Khu 1, 3, 4 đang xếp hàng chào đón lửa thiêng từ Diom
đến. Đúng 7 giờ 30, cha Quản Xứ mở đầu lời khai mạc bằng ngôn ngữ Churu, đại ý
cám ơn các bạn trẻ Diom và B’Kăn đã mang lửa từ nơi linh thiêng nhất cách đây 49
năm là ngọn lửa của bàn thờ Diom để đem về đây hâm nóng cho tuổi trẻ Lạc Viên,
nối gót cha ông, giữ vững đức tin và sống đạo yêu thương.
Tại lễ đài của Giáo Xứ, một ngọn đuốc cùng với logo cao
12 mét, do nhóm anh em tình nguyện dàn dựng cả mấy tuần nay, đang chờ lửa thiêng
để thắp sáng cho hai ngày đại hội Giới Trẻ. Sau lời chào và dẫn giải ý nghĩa
ngày đại hội, linh mục Quản Xứ Lạc Viên đã nhận lửa vào trao cho một bạn trẻ
người Kinh. Các bạn trẻ cùng múa bài “Nổi lửa lên !”, và ngọm lửa cứ cao dần lên
để châm lửa vào cây đuốc của Đại hội. Chủ đề của Đại hội là “Yêu như Giêsu & Yêu
trong Giêsu”, được trình bày trên logo : chữ GIÊSU nằm trong tấm bánh trắng hình
tròn, và bên dưới là chữ YÊU nằm gọn trong chén lễ màu vàng, trên cùng là chùm
nho và bông lúa miến với hai chữ TRONG và NHƯ. Băng reo và bài hát chủ đề đã
được cất lên trong suốt hai ngày đại hội : “Như Giêsu ngày xưa, Người đã đến
sống với anh em. Bao đau thương trần gian, Người đã gánh trên vai của mình”. Bài
múa tập thể “Trong Giêsu, chúng ta là tấm bánh…” đã nhanh chóng đưa các bạn trẻ
vào cuộc trại.
Sau giờ khai mạc là phần thi dựng lều trại của các tổ
trên phần sân cỏ đá bóng của Giáo Xứ. Công tác dựng trại đến 9 giờ 15 là hoàn
tất để các trại sinh đi vào sinh hoạt vòng tròn với các trò chơi truyền thống
của dân tộc như kéo co, đập niêu, nhảy bao bố….Để chuẩn bị cho bữa ăn trưa là
cuộc thi nấu cơm, vừa di chuyển vừa thổi cơm trên quang gánh và lắm lúc phải
chạy hoặc lắc lư theo nhạc. Nhìn chung, nồi cơm nào cũng chín, duy chỉ một nồi
nấu cơm thành cháo, mà lại là cháo sống. Ban chiều lại tiếp tục các trò chơi dân
gian và thi nấu ăn. Các đầu bếp trổ tài nấu nướng và trình bày ý nghĩa món ăn
của tổ mình theo ba tiêu chuẩn : ngon, đẹp và ý nghĩa.
2* ĐÊM CANH THỨC : bốn đêm trong một đêm.
Cao điểm của ngày sinh hoạt chính là đêm diễn nguyện với chủ đề Tình phụ tử, gợi hứng từ Tin Mừng Luca 15,11-32, kêu gọi con cái trở về với tình thương của cha mẹ, do ca đoàn Vô Nhiễm diễn xuất cùng với những lời ca tiếng hát đưa mọi người hướng về vị Cha chung trên trời. Sau đó là phần giới thiệu các ban mục vụ giới trẻ của các Giáo Khu muốn ra mắt toàn thể bà con trong Giáo Xứ. Mỗi tổ có hai phút để tự giới thiệu, nói lên khát vọng và quyết tâm của mỗi tổ trong Giáo Khu.
Sau đêm diễn nguyện là đêm lửa trại cũng thật linh thiêng
và đầm ấm. Sau những bài hát, điệu múa và cả những tiếng hú âm u để gọi lửa, và
rồi lửa thiêng từ ngọn đuốc đã phóng xuống đốt cháy đống củi. Các tiết mục văn
nghệ do các tổ tự biên tự diễn càng làm cho ánh lửa thêm bập bùng một khi đã
“nổi lửa lên, nối vòng tay lớn”.
Một điều hết sức thú vị là đêm ẩm thực được bày bán với
giá cả phải chăng, phục vụ các trại sinh cùng bà con Giáo Xứ và các khách tham
quan. Phố ẩm thực đuợc các bà mẹ dày dạn kinh nghiệm cùng các cô gái mới lớn và
các chàng trai đảm đang đứng ra tự nấu nướng các món ăn đặc sản của Giáo Khu
mình. Người Kinh với các Phố Trâu, Phố Sò, Phố Ốc, Phố Cua, Phố Bún, Phố Rau Răm,
còn các phố của người Thượng thì lại đặc sắc hơn nữa. Phố Diom có món cà đắng
nấu với da trâu, khó nuốt một tí nhưng lại đậm đà có hậu. Phố Labouye có món
cháo chua, đặc sản của người Thượng, thoạt nhìn cứ như “cháo heo” vì nấu với gạo
lứt còn nguyên vỏ cám, có cả bèo, hoa chuối rừng và lác đác một vài con cá lòng
tong. Phố B’Kăn thì không đâu bằng, với món nhậu khoái khẩu là thịt lu, một loại
chuột núi chuyên ăn rễ cây. Các bạn trẻ B’Kăn đã phải rủ nhau lên núi cả tuần
trước để đào chuột núi, mỗi con khoảng gần một ký. Mỗi thực khách ghé phố B’Kăn
được mời chào cầm một cái ống tre bên trong có nhồi thịt lu, và tự nướng trên
than hồng lửa trại vẫn còn nóng hổi. Phố nào cũng ca hát múa nhảy, cũng hiếu
khách chào đón bạn bè.
Sau đêm ẩm thực là đêm giới nghiêm, nghĩa là các trại sinh không đuợc phép ra khỏi khuôn viên nhà thờ, không uống rượu, không quậy phá … để ngày mai còn sức lên đường.
3* NỐI VÒNG TAY LỚN.
Sáng ngày hôm sau, giới trẻ tập trung tại lễ đài để thi
đố vui về lịch sử Giáo Xứ bằng cách lần luợt quay “chiếc nón quai thao của bà
thánh Đê” để ghi điểm cho tổ mình. Sau đó, giới trẻ đi vào sinh hoạt trò chơi
lớn với chủ đề “Tuổi trẻ và cách sống mới”. Các tổ phải tìm và giải mật thư,
vượt chướng ngại vật, vào núi lên suối, phải chiến đấu và phải lanh trí thì mới
dành được chiến thắng.
Thánh lễ vào lúc 11 giờ 30 trưa Chúa Nhật vừa là đỉnh cao,
vừa là điểm hội tụ của giới trẻ, do các cha trong Giáo Hạt Đơn Dương đến đồng tế
để tạ ơn và cầu nguyện cho giới trẻ của Giáo Xứ. Bữa ăn chia tay trưa hôm ấy có
rất nhiều vị quan khách, có cả phía chính quyền đến khích lệ và chúc mừng cho sự
thành công của đại hội.
Đại hội Giới Trẻ Giáo Xứ Lạc Viên kết thúc vào lúc 3 giờ
chiều ngày Chúa Nhật 19/8/2007, hứa hẹn những sinh hoạt hàng tháng hàng năm của
giới trẻ, vì mỗi tổ đều tự nguyện đưa ra những sinh hoạt cụ thể sắp tới của mình
như lễ chiều thứ Bảy đầu tháng, thăm viếng và đọc kinh mỗi khi trong khu xóm có
người qua đời, rủ nhau làm công tác vệ sinh mương cống trong khu xóm…
Ngọn đuốc được vặn nhỏ dần để tiễn đưa các bạn trẻ lên đường : “Như Giêsu ngày xưa, Người đã đến sống với anh em…”, và có muôn vàn “Giêsu hôm nay” đang giang rộng vòng tay nối kết anh chị em mình. Đại hội đã làm xong nhiệm vụ của mình là “Nổi lửa lên ! Nối vòng tay lớn”.
www.simonhoadalat.com
Ngày 22/08/2007 Nhà Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ Nha Trang (Bình Cang) bỗng đông vui, nhộn nhịp hơn. Vì vào lúc 8g00, tại Nguyện Đường Hội Dòng, Đức Cha chính Giáo Phận Nha Trang Phaolô Nguyễn Văn Hòa đã chủ tế thánh lễ tuyên khấn trọn đời cho 15 nữ tu lớp Thục của Hội Dòng Khiết Tâm, cùng với Đức Ông Tổng Đại Diện Giuse Maria Trần Thanh Phong, Đức Ông Phêrô Nguyễn Quang Sách, các cha Hạt Trưởng và hơn 60 linh mục trong và ngoài giáo phận.
Trong thánh lễ còn có sự hiện diện của quý Bề Trên các
Dòng tu, quý tu sĩ nam nữ cùng quý phụ huynh, thân nhân, ân nhân của các nữ tu:
1. Nt.
Marie Thục Ngân
2. Nt. Marie Thục Trang
3. Nt. Thérèse Thục Oanh
4. Nt. Lucie Thục Châu
5. Nt. Thérèse Thục Lan
6. Nt. Agnès Thục Khanh
7. Nt. Thérèse Thục Vy
8. Nt. Elisabeth Thục Tiên
9. Nt. Marie Thục Chinh
10. Nt. Marie Thục Đoan
11. Nt. Agnès Thục Trân
12. Nt. Thérèse Thục Giang
13. Nt. Marie Thục Linh
14. Nt. Thérèse Thục Quyên
15. Nt. Anne Thục San
"Lễ khấn dòng của các Nữ tu là một giao ước, là một lễ cưới huyền nhiệm. Trong thánh lễ, Đức cha chủ sự sẽ làm phép nhẫn cho các Nữ tu, xỏ nhẫn vào tay từng người. Chiếc nhẫn ấy là dấu chỉ các Nữ tu từ nay là hôn thê, là người yêu của Chúa. Lễ cưới của các Nữ tu không có xe hoa, không có chú rể, vì Tân Lang là Đức Kitô. Các Nữ tu trở thành tân nương, nhưng vẫn là những trinh nữ thanh khiết. Hình ảnh ấy, Thánh Phaolô ước muốn cho Giáo hội. Ngài mong cho Giáo hội được tinh tuyền như một người trinh nữ. Các trinh nữ được hiến thánh trong Giáo Hội luôn được quý trọng, được đề cao. Các Nữ tu thường xuyên tiếp xúc với Chúa, gặp gỡ Chúa, và đó là điều làm cho Chúa sung sướng, hạnh phúc, các Nữ tu sẽ được Chúa dẫn đi sâu vào đường lối của Người. Người đã đạt tới Vinh Quang bằng Con Đường Thập Giá. Người đạt tới tột điểm của hạnh phúc kinh qua con đường khổ nạn. Đó là đường lối mà Chúa Cha đã vạch ra cho Chúa Kitô, cho Giáo hội và cho mỗi một người Kitô hữu. Ai muốn là môn đệ của Người, đều phải theo con đường ấy. Các Nữ tu khấn dòng đã chọn con đường ấy một cách đặc biệt hơn..." (Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Đối với người tu sĩ, đặc biệt là các tân vĩnh khấn, ba
lời khấn Khiết Tịnh - Khó Nghèo - Vâng Phục là rất quan trọng, có thể nói là kim
chỉ nam định hướng cho suốt cả cuộc đời ơn gọi. Nhưng để giữ hoàn hảo và trọn
vẹn ba lời khấn này, đòi hỏi người tu sĩ cần phải nổ lực hết mình và nhất là cần
phải có tình yêu, trước hết là tình yêu đối với Thiên Chúa, vị Phu Quân độc nhất
của đời mình, thứ đến là tình yêu đối với tha nhân mà mình gặp gỡ và tiếp xúc
hằng ngày. Mà như trong bài giảng của Đức cha chính, ngài cũng đã nói, chỉ có
tình yêu người tu sĩ mới vượt qua được mọi thử thách trong cuộc sống hầu giữ
vững ba lời khấn của người tu sĩ. Và cũng phát xuất từ tình yêu mà Chúa Giêsu đã
mời gọi và chọn chúng ta "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã
chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái. .." (Ga
15,16)
Qua lời tuyên khấn của mình, từ đây các tân vĩnh khấn sẽ
chính thức là thành viên của Gia Đình Hội Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ. Hơn thế nữa "Lạy
Đấng Tình Quân con tôn thờ, con nay thuộc về Chúa, Chúa nay thuộc về con. .." và
"để từ nay con sống là sống cho tình yêu, và từ nay con chết là chết cho tình
yêu...".
Cuối lễ, Chị Tổng Phụ Trách Hội Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ
Nha Trang chân thành cảm ơn Đức Cha Chính Giáo phận, các Đức Ông, Quí Cha,
quý Bề Trên, quý Tu sĩ và quí Ân - Thân nhân, và xin mọi người tiếp tục
cầu nguyện cho các nữ tu trong đời sống tận hiến...
Sau lời cảm ơn của Chị Tổng Phụ Trách là lời cảm ơn
của đại diện thân nhân của các tân vĩnh khấn.
Jos. Lưu Kiên
TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO
Anh Chị Em rất thân mến,
1. Quy tụ trong nhà Chúa hôm nay, gia đình giáo phận cùng nhau cử hành lễ trao tác vụ Linh Mục cho 18 phó tế. Trước hết, tôi xin gởi lời chào thân ái đến anh em linh mục, anh chị em tu sĩ và giáo dân, các phụ huynh và các tiến chức. Đồng thời, với tư cách là người đứng đầu trong gia đình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với các vị đồng hành với các tiến chức trong hành trình đào tạo, đối với quý gia đình phu huynh và tất cả những ai đã góp phần vật chất và tinh thần để cung những người thợ cho vườn nho của Chúa, đáp ứng nhu cầu của đoàn chiên Chúa trong thành phố nầy.
Qua nghi thức trao tác vụ Linh Mục, Thiên Chúa sẽ thánh hiến các tiến chức, sẽ trao ban cho họ ơn thánh hiến. Xin mọi người hãy dành một ít phút để tâm suy nghĩ về ý nghĩa của ơn thánh hiến nầy và tìm cách vun phân tưới nước cho ơn thánh hiến đó phát triển và đơm bông kết trái cho cộng đồng dân Chúa.
2. Ơn thánh hiến là ơn trao cho các tiến chức khả năng và trách nhiệm trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô. Khả năng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô nghĩa là gì? Thưa có nghĩa là trở nên giống Chúa Kitô là Lời yêu thương của TC ngỏ với dân Người, trở nên giống Chúa Kitô là tấm bánh bẽ ra vì sự sống con người, trở nên giống Chúa Kitô là Đấng thánh thiện như Cha trên trời, là Đấng hiền lành và khiêm tốn phục vụ cho Tin Mừng và phần rỗi của mọi người. Tóm lại, ơn thánh hiến là ơn giúp cho Linh Mục khắc hoạ lại khuôn mặt Chúa Kitô Mục tử như lòng Chúa mong ước.
3. Vì phần rỗi của mọi người, ơn thánh hiến trao cho LM những nhiệm vụ gì? Thưa ơn thánh hiến trao cho LM những nhiệm vụ rất cụ thể nầy: (1) chiếu toả ánh sáng chân lý của CK khi giảng dạy, (2) mang lấy tâm tình yêu thương và hy sinh của CK khi cử hành các bí tích, (3) bày tỏ lòng nhân hậu và bao dung của CK khi giao tiếp với mọi người, (4) mặc lấy phong cách hiền lành và khiêm tốn phục vụ của CK khi đồng hành với cộng đoàn tín hữu trong mọi sinh hoạt, mặc lấy thái độ của CK trân trọng và chăm lo cho sự sống và phẩm giá của mọi người, đặc biệt người nghèo khổ, bất hạnh.
4. Trên đường bước theo Chúa Kitô, trở nên giống Chúa Kitô, Linh Mục còn có bổn phận thi hành Lời Chúa dạy hãy quên mình và bỏ mình.
(1) Quên mình có nghĩa là gì? Thưa có nghĩa là phải từ bỏ cách suy nghĩ và hành động theo ý riêng ích kỷ hẹp hòi, để tâm trí luôn tìm ý Chúa được thể hiện qua Lời Chúa, qua giáo huấn và đời sống của Giáo Hội, và chuyên tâm thi hành ý Cha trên trời trong mọi tình huống của cuộc đời.
(2) Bỏ mình có nghĩa là gì? Thưa có nghĩa là phải rũ bỏ thói quen chiều theo lòng tham sân si, rập khuôn theo thói đời và sự khôn ngoan thế gian, để tâm hồn luôn mở rộng cho sự soi sáng và dẫn dắt của Chúa Thánh Thần trên Đường Giêsu là đường dẫn đến chân lý và yêu thương phục vụ.
5. Trong hành trình trở nên giống Chúa Kitô, Linh Mục luôn có Chúa Kitô đồng hành như Người đã đồng hành với hai môn đệ về làng Emmau. Ngoài ra, Linh Mục được Chúa Kitô ký thác cho Mẹ Người, như đã ký thác người môn đệ thân yêu.
Giờ dây tôi cũng ký thác anh em tiến chức cho sự phù trợ và giáo dục của Người Mẹ Hiền Maria, ký thác cho sự nâng đỡ và lời cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, của hàng linh mục, của gia đình thân thuộc.
Anh em tiến chức hãy đón Người Mẹ Hiền và mọi thành viên trong gia đình về nhà mình, hãy luôn gần gũi với mọi người. Nếu được thế, tôi tin rằng cuộc đời của anh em sẽ chan chứa bình an và niềm vui, anh em sẽ tìm gặp lẽ sống trong công cuộc xây dựng niềm tin yêu và hy vọng cho gia đình thân thuộc của mình, cho gia đình giáo xứ và giáo phận của chúng ta.
Xin Thiên Chúa hoàn tất việc Người đã khởi sự nơi anh em. Xin Thiên Chúa chúc lành cho mọi người góp phần và hỗ trợ cho việc hình thành và đào tạo những mục tử như lòng Chúa mong ước.
+ ĐHY. GB. Phạm Minh Mẫn
(Ghi lại từ bài giảng trong thánh lễ trao tác vụ Linh Mục tại Nhà Thờ Chính Tòa Sài Gòn, ngày 29.6.2007)
Ngày 21 tháng 8, giới nghệ sĩ sân khấu thành phố hiện diện đông đủ để tiễn biệt bà Bảy Năm, một nghệ sĩ lão thành, chuyên thủ vai “mẹ” trong những vở kịch nổi tiếng đi sâu vào lòng người như : “Lá sầu riêng”, “Bông hồng cài áo”. Bà ra đi ở cái tuổi chín mươi hai sau bảy mươi năm phục vụ và xây dựng dáng hình người mẹ gắn liền với phận số người con, hy sinh chịu đựng tất cả dẫu thiệt thòi đến bản thân, chỉ mong sao cho con nên người và được hạnh phúc. Trong một bài viết, nghệ sĩ Bạch Tuyết đã kết luận : “Bằng tài năng và nỗ lực qua những vai diễn, bà Bảy Năm đã hình thành một tượng đài trong lòng công chúng, đó là tượng đài người mẹ”.
Hôm nay, các bà mẹ Công Giáo Giáo phận hiện diện nơi đây không để tiễn đưa ai, nhưng để chung vui cầu nguyện xung quanh tượng đài người mẹ Công giáo, thánh nữ Mônica, một vị thánh gương mẫu chu toàn nhiệm vụ làm mẹ. Thánh Mônica chu toàn nhiệm vụ làm mẹ thế nào?
Sinh sống tại Bắc Phi, một vùng thuộc nước Algérie ngày nay, nơi mà nếp sống bình thường của một phụ nữ chỉ diễn ra quanh quẩn nơi gia đình, tương tự như tại Việt Nam”Đàn ông việc nhà, đàn bà việc bếp”, ngay cả tương tự như một số nước Châu Âu thuở nào, ví dụ người Đức vốn quan niệm công việc của phụ nữ dưới hai chữ K là Kids- Con cái. Kitchen – Bếp núc và Kirche – Nhà thờ, thánh Mônica dành hết tâm lực cho gia đình. Gia đình ấy có cha là rường cột và mẹ là mái che. Gia đình ấy có ba người con trong đó cậu út Augustinô “quậy” hơn cả khiến bà mẹ không ngừng lo lắng, từ việc học hành tới cung cách cư xử, nhất là nỗi lo đã trở thành cơm ăn hằng ngày và giấc ngủ hàng đêm của người mẹ là mong cho con mình được trở thành Kitô hữu. Không chỉ là con ngoan trong gia đình mà còn là con thảo của Thiên Chúa.
Chính nỗi lo ấy thúc đẩy thánh nữ “dõi theo” từng bước trong đời Augustinô. Nếu “dõi theo” là ngôn từ của hình sự thì “dõi theo”là ngôn ngữ của tấm lòng. Đó là cánh tay vươn ra muốn ấp ủ như gà mẹ bồn chồn đợi con về. Augustinô học giỏi, học xa nhà khiến mẹ càng thêm lo lắng mong chờ. Con đi Rôma, mẹ lên Rôma; con xuống Milan, mẹ xuống Milan. Mẹ dõi theo con từng bước trong đời.
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ, suốt cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con”. Vần thơ ai đó viết lên đúng cho tâm tình các mẹ, nhưng xem ra lại còn đúng hơn cho tâm tình thánh nữ Mônica- người mẹ chu toàn bổn phận với cả tấm lòng tự nhiên.
Nếu “dõi theo” con là ánh nhìn của người mẹ trên đường đời của con cái, giống như bất cứ bà mẹ nào trong chúng ta thì quyết tâm đánh thức tình cảm tốt lành nơi người con phải được xem như kỹ thuật đã được vận dụng để trở thành nghệ thuật nhuần nhị nơi thánh nữ Mônica. Tất cả khởi đi từ tấm lòng, lòng mẹ bao la như Biển Thái Bình” con như sông nước xa khơi, mẹ như bờ cát vọi vời trông theo”. Và thánh nữ đã đi đến cùng bằng tấm lòng của mình.
Trên trang bìa báo “Mẹ Hiền”, luôn có hình ảnh thánh nữ Mônica cúi đầu trên thánh Augustinô với những giọt nước mắt âm thầm. Không phải vô tình hình ảnh ấy được chọn, mà hữu ý tô đậm dòng chảy tự nhiên của tấm lòng người mẹ đối với con cái. Tôi muốn nói tới” nước mắt”, không phải nước mắt cá sấu khóc mướn thương vay mà là nước mắt chân thành ấp áp, có khả năng khua thức lương tâm, giúp cảnh tỉnh tìm về với hân lý tri thức, giúp quay gót trở về với lễ nghĩa gia phong, cũng như giúp vươn lên đạo hạnh đổi đời.
Tất nhiên không phải vì cảm thức tội lỗi “con hư tại mẹ cháu hư tại bà” như trong ca dao Việt Nam mà thánh Mônica đã khóc, nhưng chỉ vì tương lai của thánh Augustinô. Người giàu người nghèo gì cũng khóc hết, nhưng nước mắt Mônica vừa là khóc do quãng đời sa đà của Augustinô, vừa là khóc cho một tương lai ăn năn đổi đời để nên đạo đức thánh thiện của con mình.
Dõi theo bằng đức tin, đánh thức bằng nước mắt, nhưng kết quả là “cuộc trở về của Augustinô” chỉ có được khi kết hợp với việc cầu nguyện đêm ngày. Cuộc trở về rất tự nhiên của Augustinô là về lại mái nhà xưa trong lòng mẹ âu yếm như chiếc nôi êm ếm đã sẵn chờ. Con cái có thể bỏ cha mẹ chứ cha mẹ nào lại nỡ bỏ con như cách diễn tả của một lời thoại trong vở kịch” Lá sầu riêng” : “ Khi con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con theo mẹ cả ngày ; nhưng khi con lớn, mẹ cho con cả cuộc đời, sao con đành lòng bỏ mẹ đi hoài hả con?”. Cuộc trở về sâu thẳm hơn nơi tâm hồn Augusttinô là về với Thiên Chúa trong niềm tin Công giáo. Nếu sau này thánh nhân có diễn tả tư tưởng “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn con mới được nghỉ ngơi yên hàn”, thì thiết nghĩ đó không phải là ý nghĩ đột xuất” như ánh nắng chiếu ấm áp tim ta tình cờ”, mà chính là âm vang của kinh nghiệm cá nhân mình.
Có thể nói, dõi theo và đánh thức, vốn là hướng đi tự nhiên của tình mẹ, sẽ dẫn đến kết quả tự nhiên là tích cực, nhưng sẽ chỉ mang đến hiệu quả siêu nhiên khi Augustinô trở thành Kitô hữu vì có yếu tố thiêng liêng chính là việc cầu nguyện. Cầu nguyện liên lỉ không mỏi mệt như Mônica đã cầu nguyện dõi theo đeo bám và nước mắt vắn dài.
Tiểu sử kể : Ở Carthage, vị Giám mục trọng tuổi thấy một bà thường xuyên ngồi phía cuối nhà thờ gục đầu khóc nức nở. Ngài lân la hỏi chuyện và được biết những giọt nước mắt kia rớt xuống một phần là vì người con trai của bà đang lao đầu vào cuộc sống phóng đãng, và một phần khác là để cho người con ấy gặp được cơ hội tìm đến với đức tin Công giáo. Vị Giám mục an ủi : Thiên Chúa sẽ không để những giọt nước mắt của người mẹ vô ích và người con kia sẽ không bị hư mất. Quả thật, Augustinô nhờ mẹ mình cầu nguyện, đã đón nhận bí tích Rửa tội vào lễ Phục sinh năm 387 tại Milan trong tay của thánh Ambrôsiô.
Nếu “mẹ tròn con vuông” là kiểu nói Việt Nam nhằm diễn tả sự bình an của việc sinh nở, thì ở đây xem ra cũng có một sự an bình tâm hồn nở sinh. Thánh Mônica yên tâm khi đã vuông tròn thiên chức làm mẹ vừa tầm; và có thể nói cả Augustinô nữa cũng yên tâm khi đã vuông tròn phận vụ làm con bằng khả năng tri thức biết biện phân chọn lựa và biết hồi tâm sám hối. Thảo nào sau này trong cuốn “ Tự Thuật” ngài đã để lại những cảm nghiệm không thể xóa nhoà và những cảm nghĩ sâu sắc về long thương xót bao dung của Thiên Chúa khi cúi xuống với nỗi khốn cùng tội luỵ của con người.
Tóm lại, dõi theo bước đi, khua thức lương tâm và cầu nguyện liên lỉ, đó là những việc thánh nữ Mônica đã thực hiện trong cương vị làm mẹ. Mừng lễ ngài hôm nay, mỗi bà mẹ Công giáo cũng nhận ra gướng sống cho chính mình. Nếu hiện tại cuộc sống gia đình ta êm ấm con cái thảo hiền, thì đây là lễ dâng trong tâm tình cảm ta. Nếu ít may mắn hơn gia đình ta đang phải đau buồn vì sự hư hỏng của một thành viên nào đó trong những tệ nạn xã hội, thì đây lại là lễ dâng trong ước vọng đầy vơi, mong cho thành viên ấy sớm được tìm về và xin cho mình chóng được thấy ngày bình an.
Nhìn lên thánh Bổn mạng Mônica, tượng đài người mẹ Công Giáo với lòng mến yêu trông cậy, chắc chắn ta cũng sẽ nhận được những ơn lành từ kinh nghiệm quý giá cuộc đời và từ kinh nghiệm trung chuyển đắt lời yêu thương.
Giuse Vũ Duy Thống
Giám mục Phụ tá Giáo phận Tp. HCM
Đại dịch HIV/AIDS đang gia tăng một cách đáng sợ ở đất
nước chúng ta. Theo số liệu được công bố trên gia trang của UNAIDS Việt Nam -
Chương trình phối hợp của Liên Hiệp Quốc về HIV/AIDS - thì ở Việt Nam hiện nay,
cứ khoảng 60 hộ có một hộ có người đang sống với HIV. Xem ra chiến dịch phòng
chống đại dịch HIV/AIDS ở nước ta chưa mang lại nhiều kết quả vì số người bị
nhiễm ngày càng tăng. Năm 2000, số người nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam là 122.000
người, sáu năm sau con số đó tăng lên hơn gấp đôi, vượt trên 280.000 người.
Trung bình mỗi ngày Việt Nam có hon 100 ca nhiễm mới.
Kế hoạch phòng chống và phương pháp chữa trị cũng chưa
hữu hiệu. Mặc dù nhiều tổ chức quốc tế đang tài trợ nhiều triều mỹ kim để điều
trị người nhiễm bằng thuốc đặc trị ARV, nhưng cho đến tháng 6 năm 2006, tại Việt
Nam mới chỉ có 1500 người được điều trị bằng ARV nhờ tiền của chính phủ Mỹ,
trong khi đó số người chết vì AIDS trong năm 2005 là 14.000 người.
Ðối diện với đại dịch HIV/AIDS, người Công giáo Việt Nam
đã và đang đóng góp gì? Trong những trang sau, chúng tôi muốn giới thiệu một số
thông tin và hoạt động phục vụ những người có HIV/AIDS của một số người Công
giáo dấn thân. Hy vọng những chứng từ sống động này sẽ khơi dậy sức sống Tin
Mừng: Yêu thương & phục vụ nơi các Giáo xứ và các Hội Dòng.
1- Kitô giáo, tôn giáo nhập cuộc
Kitô giáo, tự bản chất, là một tôn giáo nhập cuộc, lăn
lưng vào đời để cứu vớt, cải tạo cuộc đời từ nền tảng. Chính Ðức Kitô, Con Thiên
Chúa, đã tự nguyện mang thân phận con người, làm người với mọi người và như mọi
người, để đem đến cho cuộc đời một ý nghĩa, một giá trị đích thực và một lý
tưởng dấn thân phục vụ. Thánh Gioan viết: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết
được tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng
ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1 Ga 3,16).
Trải qua hơn 2000 năm hiện diện, Giáo hội Công giáo đã có
một bề dày lịch sử về hành động dấn thân phục vụ nói chung và công tác bác ái từ
thiện nói riêng. Rất nhiều Dòng tu đã được thành lập để chuyên lo công tác giáo
dục, nuôi dưỡng, chăm sóc những người nghèo khổ, bệnh tật, già nua hay cô nhi
quả phụ. Ngay tại Việt Nam, trước biến cố 1975, giới tu sĩ Công giáo điều khiển
rất nhiều cơ sở giáo dục, y tế và từ thiện. Nhiều trường học, trại phong, trung
tâm khuyết tật, nhà dưỡng lão, nhà tế bần, viện mồ côi … hiện nay còn mang dấu
ấn Công giáo.
Sau biến cố 75, tất cả các cơ sở giáo dục, y tế, xã hội,
bác ái từ thiện … đều trao lại cho Nhà Nước quản trị. Cùng với Giáo hội, giới tu
sĩ đã trải qua một giai đoạn thật bi đát, nhưng hào hùng và ý nghĩa nhất. Cả một
thế hệ tu sĩ trẻ bỗng dưng trở thành công dân hạng hai, bị bứng khỏi môi trường
giáo dục, y tế và xã hội! Họ sống lây lất, dật dờ bên lề xã hội mới. Vì lý tưởng
tu trì, nhiều người đành phải “xếp bút nghiên” và tất cả mộng ước được phục vụ
đất nước trong chuyên ngành của mình, để âm thầm kiếm sống qua ngày, bằng công
việc lao động chân tay …
Nhưng, ngay giữa giai đoạn khó khăn đó, khi mà các tu sĩ
phải rút lui vào bóng tối, thì một số sinh viên Công giáo đã hăng say học hỏi
Lời Chúa và dấn thân phục vụ các thành phần nghèo khổ nhất trong xã hội. Người
phong, trẻ em khuyết tật và bệnh nhân nghèo ở vùng sâu, vùng xa là ưu tiên số
một của giai đoạn này. Với thời gian, nhiều thành viên của nhóm đã ra trường hay
đổi đi nơi khác, nhưng nhóm lại được tiếp sức bởi một số người mới đến. Và họ
vẫn kiên trì với công tác dấn thân phục vụ những người bị bỏ quên.
Đầu thập niên 90’, nhờ chính sách Đổi Mới, cuộc sống
tương đối dễ chịu hơn. Công tác từ thiện cũng khởi sắc hơn, nhờ sự tiếp tay của
các anh chị thiện nguyện thuộc ngành xã hội và sự hỗ trợ của nhiều người Việt ở
trong cũng như ngoài nước. Giữa thập niên 90’ công tác giúp đỡ bệnh nhân phong
đã được tổ chức khá qui củ và bệnh phong cũng không còn là một căn bệnh nan y
như ngày xưa. Nhiều thiện nguyện viên hướng ưu tiên hoạt động sang lãnh vực khác.
Đây là giai đoạn các Mái ấm tư nhân Công giáo bắt đầu xuất hiện để phục vụ các
trẻ em khuyết tật, khiếm thính, khiếm thị, người già neo đơn, trẻ em đường phố,
các trẻ gái có nguy cơ bị lạm dụng tình dục, các cô gái mãi dâm...
2- Hình thành các nhóm chăm sóc người có HIV/AIDS
Ca nhiễm HIV đầu tiên ở Việt Nam được phát hiện vào tháng
12 năm 1990 nơi một cô gái làm nghề mãi dâm từ Campuchia trở về Tây Ninh. Vào
thời điểm đó, trong nước chưa mấy ai để ý đến việc phòng chống hay chăm sóc các
bệnh nhân HIV/AIDS. Nhưng một nhóm bác sỹ và điều dưỡng Công giáo đã đi tiên
phong trong việc đối diện với cơn dịch của thế kỷ. Năm 1995, bác sĩ Nguyễn Đăng
Phấn và một vài đồng nghiệp đã bắt đầu thực hiện các ca mổ cho bệnh nhân AIDS và
người nhiễm HIV bị viêm tắc hoặc vỡ động mạch. Đa số các bệnh nhân này bị gia
đình bỏ rơi, sống lang thang, không có người thay băng, chăm sóc vết thương.
Chính vì vậy, chỉ một thời gian ngắn sau đó, họ phải trở lại bệnh viện trong
tình trạng nặng hơn… Con số bệnh nhân ngày càng tăng, và việc chăm sóc sau khi
giải phẫu trở thành nhu cầu khẩn thiết.
Để đáp ứng nhu cầu khẩn cấp đó, vào Giáng sinh năm 1996,
linh mục Vũ Khởi Phụng và bác sĩ Nguyễn Đăng Phấn đã tổ chức lớp tập huấn cho
cho các bạn trẻ thiện chí. Lớp tập huấn này đã tạo được một luồng hứng khởi chưa
từng thấy. Nhưng cũng như nhiều lớp tập huấn và phong trào khác, thứ lửa rơm này
cũng mau tắt và chóng tàn. Tuy nhiên, nó cũng để lại dấu ấn tích cực: một vài
nhóm nhỏ được khai sinh và vẫn kiến trì dấn thân phục vụ các bệnh nhân HIV/AIDS.
Trong giai đoạn này, hình thành nhiều nhóm thiện nguyện
do các giáo dân điều phối. Cùng với các nhóm thiện nguyện này, một số bác sỹ và
chuyên viên xã hội tiếp tục tổ chức các khóa tập huấn dự phòng và gây ý thức
trong đại chúng về cơn dịch HIV/AIDS. Với thời gian, công tác chăm sóc các bệnh
nhân HIV/AIDS được tổ chức qui củ hơn, nhờ sự cộng tác chặt chẽ giữa các bác sỹ,
các linh mục, các tu sĩ với các nhóm thiện nguyện. Bất chấp mọi khó khăn, các
nhóm cũng đã tổ chức được nhiều cuộc tập huấn, các buổi tĩnh tâm hay chia sẻ Lời
Chúa để nâng cao kiến thức chuyên môn và để đáp ứng nhu cầu tâm linh của các
thiện nguyện viên.
Đầu thập niên 90’ cuộc sống tu trì tại Việt Nam như được
tái sinh. Đại đa số các Hội Dòng “được mùa về ơn gọi”. Con số các tu sĩ theo học
các ngành y tế và xã hội ngày càng tăng cao. Hậu quả tích cực là vào cuối thập
niên 90’, người ta lại vui mừng nhìn thấy bóng dáng của người tu sĩ trong lãnh
vực y tế và giáo dục.
Đặc biệt, với sự chấp thuận của Sở Y tế và UBND Thành
phố, ngày 29 tháng giêng năm 2000, các Chị Nữ Tử Bác Ai khởi công xây dựng Trung
Tâm Mai Hòa, Củ Chi, để săn sóc các bệnh nhân AIDS ở giai đoạn cuối, đồng thời
giúp họ chuẩn bị chết bình an và trong phẩm gía. Ngày 12-7-2001, Trung tâm đi
vào hoạt động, nhưng chỉ được nhận những bệnh nhân AIDS bị bỏ rơi từ các bệnh
viện Nhà nước chuyển về. Ngoài ra, số giường tại Trung tâm cũng còn rất hạn chế,
vì vậy nhiều bệnh nhân ở giai đoạn cuối vẫn phải chết bên ngoài Trung tâm.
Từ tháng 8 năm 2001 đến tháng 5 năm 2003, Lm Nguyễn Ngọc
Sơn, Nữ tu Hồng Quế với nhiều tu sĩ và giáo dân khác liên tiếp tổ chức cá khóa
cai nghiện và hậu cai. Nhóm cố gắng kết hợp các phương pháp y học, tâm lý, xã
hội và tâm linh. Nhóm cũng gặt hái được một số thành quả đáng khích lệ, nhưng vì
hoàn cảnh xã hội khó khăn … nên chương trình phải tự động ngưng.
Ngày 25-2-2004 Sở Lao Động Thương binh và Xã hội gởi Hồng
y Gb. Phạm Minh Mẫn một văn thư mời giới tu sĩ cộng tác trong việc chăm sóc bệnh
nhân HIV/AIDS tại Trung Tâm Trọng Điểm, Bình Phước, do Sở quản lý. Sau nhiều
cuộc họp với Bề trên các Dòng tu, ngày 30-3-2004 Ban Mục Vụ Chăm Sóc Người Có
HIV/AIDS ra đời và hơn một tháng sau, ngày 5-5-2004, 10 tu sĩ đầu tiên lên đường
đi phục vụ các bệnh nhân AIDS tại Trọng Điểm. Cộng đoàn Mai Linh ra đời.
Trong lá thư mục tử Mùa Vọng công bố ngày 28-11-2004,
Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn mời gọi người Công giáo trong Tổng Giáo
phận "cầu nguyện, chăm sóc và điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS, đồng thời an ủi
những người thân trong gia đình của họ để họ có thể sống trong hy vọng và bình
an”. Theo ngài, người môn đệ đích thực của Đức Kitô không thể "hờ hững" trước
nỗi đau của các bệnh nhân HIV/AIDS.
Đây cũng chính là giai đoạn bùng phát cơn bệnh của thế kỷ
tại Việt Nam. Số bệnh nhân HIV/AIDS tăng lên một cách ghê gớm, với hiện tượng
tam hóa: trẻ hóa, nông thôn hóa và Miền Bắc hóa. Riêng tại Tp. HCM, vào năm
2003-2004, số người bị nhiễm tăng gần 200% và Nhà Nước phải thiết lập khoảng 20
Trung Tâm để quản thúc và chữa trị các người nghiện ma túy và những người có
HIV/AIDS.
Hưởng ứng lời kêu gọi của vị Chủ Chăn và để trả lời nhu
cầu khẩn cấp của các bệnh nhân, cuối năm 2004, với sự yểm trợ của Tu viện Mai
Khôi, bác sĩ Nguyễn Đăng Phấn và linh mục Nguyễn Thái Hợp, cùng với nhóm Đức tin
& Văn hóa quyết định thành lập Phòng Khám Từ thiện Mai Khôi. Đây là một Phòng
Khám Từ thiện dành cho các bệnh nhân có hòan cảnh đặc biệt (HIV/AIDS), đa số ở
vào giai đoạn cuối của căn bệnh hiểm nghèo này. Phòng Khám bắt đầu hoạt động từ
cuối năm 2004 và chính thức được Sở Y tế Thành phố cấp giấy phép vào ngày 6
tháng 5 năm 2005.
Để hỗ trợ cho Phòng Khám, Nhóm Đức tin & Văn hóa có thêm
hai căn nhà ở ngoại ô thành phố làm chỗ trú ngụ cho các bệnh nhân không cửa
không nhà hay bị gia đình từ bỏ. Mặc dù còn gặp rất nhiều khó khăn về mặt pháp
lý, nhưng trên địa bàn thành phố, hiện có một số Nhà mở bán chính thức, do các
anh chị thiện nguyện điều khiển, để săn sóc bệnh nhân AIDS vào giai đoạn cuối.
Nhóm Đức tin & Văn hóa cũng đang xúc tiến xây dựng “Mai Anh Gia Trang” làm nơi
nuôi dưỡng cho các bà mẹ và trẻ em bị nhiễm.
Với ước muốn góp phần cho chương trình giáo dục dự phòng
HIV/AIDS trong giới Công giáo, đầu năm 2005, một nhóm thiện nguyện viên đã âm
thầm khảo sát về “Hiện trạng ý thức, kiến thức và thái độ ứng xử của người Công
giáo đối với HIV/AIDS” tại 4 giáo xứ Tử Đình, Từ Đức, Nguyễn Duy Khang và Thị
Nghè. Mặc dù cuộc khảo sát sơ khởi này còn nhiều giới hạn về thời gian và nhânn
sự, nhưng nhóm khảo sát đã đưa ra kết luận về đề nghị rất hữu ích.
3- Bức tường thành kiến cao vời vời!
Yêu thương, chia sẻ và tận tình giúp đỡ những người bất
hạnh, nghèo nàn, đói khát … đã trở thành một bổn phận và một nét đẹp trong luân
lý Kitô giáo. Giáo hội Việt Nam đã cụ thể hóa lòng yêu thương người nghèo bằng
rất nhiều hành động dấn thân và sáng kiến bác ái xã hội. Sự quan tâm đặc biệt mà
giới Công giáo dành cho các bệnh nhân phong, các em khuyết tật, khiếm thính,
khiếm thị, trẻ em đường phố, trẻ mồ côi, người già neo đơn... là một thí dụ điển
hình.
Tuy nhiên, nếu người Do Thái ngày xưa coi người phong là
hạng người ô uế, tội lỗi, bị Chúa phạt, nên phải loại ra khỏi xã hội và bị mọi
người lánh xa, thì ngày nay nhiều người cũng đang đối xử với những người có
HIV/AIDS tương tự như vậy. Dân chúng vẫn đinh ninh rằng HIV/AIDS là căn bệnh
chết người, dễ lây lan và chưa có thuốc chữa trị, cho nên cần xa tránh hay phải
cách ly họ để tránh những tai họa khôn lường cho xã hội. Tệ hơn nữa, dư luận
nghĩ r?ng t?t c? nh?ng ngu?i nhi?m HIV/AIDS d?u thuộc thành phần hư hỏng, nguy
hiểm, choi b?i tr?c tán, phá làng, phá xóm … nên tỏ thái độ khinh ghét, hay lạnh
nhạt, hờ hững. Vì vậy, nếu hiện nay nhiều người đặc biệt quan tâm giúp đỡ và
chữa trị cho bệnh nhân phong và các trẻ em khuyết tật, thì rất ít người dấn thân
phục vụ những có HIV/AIDS. Quần chúng thường đồng hóa người có HIV/AIDS với
người tội lỗi, vô đạo đức, sống bừa bãi, phóng túng, bởi vì đường lây nhiễm
chính của HIV/AIDS vẫn là ma túy, chích choác, mãi dâm, đồng tính luyến ái. Theo
dư luận, nếu một ai đó bị căn bệnh thế kỷ nói trên thì nào có oan uổng gì! Cũng
đáng đời bọn nó thôi!
Việc coi những người nhiễm HIV/AIDS là hạng người hư
hỏng, không có phẩm chất đạo đức, là một trong những nguyên nhân sâu xa của kỳ
thị và phân biệt đối xử. Tính “sĩ diện hão” của ngu?i Vi?t Nam cũng khiến nhiều
gia đình không thể nào chấp nhận sự có mặt của một đứa con có HIV/AIDS trong gia
đình. Nhiều cha mẹ nhất quyết đuổi con ra khỏi nhà, không phải vì không còn
thương con, mà vì quá xấu hổ và quá bẽ bàng với thân nhân và xóm diềng vì “đứa
con hư” đó.
Không ai phủ nhận mộ số kỷ niệm u buồn và nhiều hậu quả
đau thương mà các con nghiện đã để lại cho xã hội. Tuy nhiên, tình thương Kitô
giáo luôn đòi hỏi chúng ta biết vượt qua thành kiến để mở rộng tấm lòng với các
nạn nhân của căn bệnh thế kỷ. Đàng khác, chúng ta cũng không thể vội vàng cho
rằng họ bị như vậy là hoàn toàn do tội lỗi cá nhân hay đã bị Chúa phạt. Sự kiện
nhiêu khê, phức tạp và đa diện hơn nhiều!
Nếu bình tâm phân tích vấn đề, chúng ta sẽ nhận ra rằng
nhiều người là nạn nhân khốn khổ của xã hội Việt Nam ở thời tranh tối tranh sáng
này. Một xã hội mất định hướng, thiếu công bằng, với hệ thống giáo dục xuống cấp
thê thảm và gia đình vắng bóng tình thương, tan hoang hay đổ vỡ đã đẩy nhiều
người trẻ vào cạm bẫy của ma túy. Có những người chưa hề biế đến gia dình và
cũng chẳng hiểu tình yêu gia dình là gì! Có những người khác do hoàn cảnh nghèo
khổ, túng quẫn không thể vươn lên được, nên nản chí, tuyệt vọng, nhắm mắt tìm
đến “thuốc trắng” để "giải sầu" mà không lường được hậu quả kinh khủng của nó.
Đại đa số các em trẻ là do bạn bè hay những con nghiện
chuyên nghiệp rủ rê, lôi cuốn. Phần đông chẳng ai trong số họ muốn rơi vào cái
bẫy khủng khiếp của ma túy, mà chỉ ngô nghê nghĩ rằng hút, hít một vài lần để
giải sầu hay cho biết mùi đời, chẳng nguy hiểm gì. Nào ngờ một khi cái bẫy đã
sập xuống, thì họ chẳng còn cơ hội thoát thân. Nhà thơ Bùi Giáng diễn tả một
cách thật sắc nét hậu quả bi thảm của những trò vui đùa thiếu ý thức:
Tưởng rằng đùa vui trong chốc lát, Nào ngờ đùa mãi tới
điêu linh.
Thiết tưởng phải nói thêm rằng tại Việt Nam hôm nay HIV/AIDS đã bắt đầu chuyển sang cho người vợ và những đứa con. Vì kém hiểu biết và quá chủ quan, nên con số phụ nữ và trẻ em bị nhiễm tăng nhanh một cách đáng sợ. Và như vậy, có những bé thơ vô tội và những người vợ đức hạnh cũng trở thành người mang mầm bệnh HIV/AIDS.
4- Liên đới và trách nhiệm
Nếu nhận thức của người Việt Nam nói chung và giới Công
giáo nói riêng về HIV/AIDS còn rất yếu, thì một số thiện nguyện viên Công giáo
đã ý thức rõ rệt thảm họa của cơn dịch thế kỷ này. Ngay từ đầu thập niên 90’, Lm
Nguyễn Khảm đã có người lên tiếng báo động về hiểm họa HIV/AIDS và đề nghị biện
pháp giáo dục dự phòng. Từ đó đến nay, bất chấp những khó khăn và giới hạn pháp
lý, các thiện nguyện viên Công giáo vẫn không ngừng lập Nhà Mở, Phòng Khám để
săn sóc, chữa trị những người bị nhiễm và đưa ra nhiều sáng kiến mới để đối phó
với căn bệnh của thế kỷ.
Tuy nhiên, thiên kiến, kỳ thị, phân biệt đối xử và thái
độ bêu xấu những người có HIV/AIDS vẫn tiếp tục ngự trị trong xã hội chúng ta.
Nguyên nhân của tình trạng này có lẽ vừa do thiếu thiếu thông tin về con đường
lây nhiễm HIV/AIDS, vừa phản ảnh thái độ luân lý loại trừ. Một số chứng từ và
suy nghĩ trong tập sách nhỏ này sẽ giúp người đọc hiểu rõ hơn vấn đề. Một linh
mục đã đưa ra một đề nghị chính đáng: “Bệnh Sida cũng là bệnh”. Hơn thế
nữa, họ là những bệnh nhân khốn khổ, đau thương, bi đát nhất, vì mang căn bệnh
hiểm nghèo nhất và chưa có thuốc chữa trị. Tệ hơn nữa, họ còn là những bệnh nhân
bị loại trừ, bêu xấu và khinh ghét nhất.
Ðối diện với thực trạng này, nguười Công giáo Việt Nam
chúng ta nên và phải có thái độ nào? Các giáo xứ và Giáo phận có thể đóng góp gì
vào công tác điều trị, chăm sóc những người có HIV/AIDS? Phải chăng tất cả những
gì chúng ta làm hay không làm cho các bệnh nhân khốn khổ này là làm hay không
làm cho chính Đức Kitô (Cf. Mt 25, 31tt)? Làm sao phát động giáo dục dự phòng để
ngăn chận đại dịch HIV/AIDS và để xây dựng một xã hội lành mạnh hơn?
Công đồng Vatican II long trọng xác quyết trách nhiệm và
sứ vụ của người Công giáo trong thê giới hôm nay: “Nỗi vui mừng và niềm hy vọng,
sầu khổ và âu lo của con người hôm nay, nhất là của người nghèo và của những ai
đau khổ, cũng là nỗi vui mừng, niềm hy vọng, sầu khổ và âu lo của các môn đệ Đức
Kitô. Không có gì đích thực nhân loại mà không có âm vang trong cõi lòng người
môn đệ Đức Kitô.” (Gaudium et Spes, 1).
Công bằng xã hội luôn giữ một vai trò quan trọng trong sứ
vụ rao giảng Tin Mừng ở thời đại chúng ta. Tuy nhiên, từ viễn quan của Kitô giáo
và trong bối cảnh của toàn cầu hóa, giữa công lý và tình thương có một tương
quan rất biện chứng. Không thể có yêu thương đích thực nếu thiếu công lý, nhưng
khi vắng bóng tình thương công lý sẽ là một công lý chết, lạnh lùng, thiếu sinh
khí và thiếu con tim. Thế nên, đức Gioan Phaolô II đã gọi “Liên đới là một nhân
đức kitô giáo … Dưới ánh sáng đức tin, sự liên đới không chỉ để mà liên đới,
nhưng còn hướng tới những chiều kích đặc thù của Kitô giáo, đó là thái độ hoàn
toàn vô vị lợi, sự tha thứ và hoà giải” (Quan tâm đến vấn đề xã hội, số 40).
“Aids & lòng tin”, do tổ Y tế – Xã hội của CLB Phaolô
Nguyễn Văn Bình xuất bản, muốn ghi lại các hoạt động, tin tức và bài viết của
một số người Công giáo đã và đang dấn thân phục vụ những người có HIV/AIDS, mà
hôm nay gọi là những người B20. Ước mong tài liệu này sẽ góp phần giúp người
Công giáo hiểu rõ hơn hiểm họa của đại dịch HIV/AIDS, đồng thời hăng say hơn
trong công tác giáo dục dự phòng, cũng như trong hành động dấn thân cụ thể để
xoa dịu nỗi đau và nỗi nhục của các bệnh nhân.
Lm Nguyễn Thái Hợp, O.P.
Đầu đề Tin Mừng Dữ Dội chắc sẽ làm cho nhiều người ngạc nhiên thắc mắc. Tin Mừng của Chúa Giêsu mà dữ dội sao? Chẳng phải là Tin Mừng toát ra một bầu khí yêu thương, hiền hoà, bao dung, yêu chuộng hoà bình và bất bạo động bao trùm đó sao? Tôi đồng ý như thế, tôi vẫn biết là có vố số những người đã tìm thấy trong lời dạy về tình thương và thái độ bất bạo động nguyên lý cho sự dấn thân xã hội, chính trị của họ, ví dụ như ba khuôn mặt còn khá quen thuộc với nhiều người trong chúng ta là Mẹ Têrêxa Calcutta, mục sư Tin Lành Martin Luther King và nhà anh hùng Ấn Độ Mahatma Gandhi. Dầu vậy, tôi cứ vẫn thấy Tin Mừng của Chúa là dữ dội, ngay cả--hay đúng hơn nhất là Bài giảng trên núi (Mt các chương 5, 6, 7) mà Gandhi lấy làm một nguồn cảm hứng cho cuộc đấu tranh hoà bình của mình chống lại thực dân Anh, dành độc lập cho đất nước.
"Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà vào cõi sống còn hơn là có đủ hai hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục" (Mt 18, 8-9; x. Mt 5, 19-20). Không những chúng ta cần hy sinh những gì có thể đưa tới tội trọng mà còn phải biết dám liều mình, hy sinh đến cả mạng sống mình để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa.
"Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14, 26). "Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được" (Mt 6, 24). Trong thời văn minh hưởng thụ ngày nay, khi mà đứng trước một nhu cầu duy nhất người ta có thể có cả chục cả trăm khả năng để chọn lựa, thì nhiều người sẽ coi đòi hỏi dứt khoát trên là vô cùng đau đớn, có khi vượt quá sức mình.
"Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: 'Chớ giết người'; ai giết người thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bi5 đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt" (Mt 5, 21-22).
"Anh em đã nghe Luật dạy rằng: 'Chớ ngoại tình'. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì lòng đã ngoại tình với người ấy rồi" (Mt 5, 27-28).
"Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không? Đức Giêsu đáp: 'Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy'" (Mt 18, 21-22).
Có những lời dạy của Tin Mừng, mới nghe qua thì rất "nhẹ nhàng", nhưng gẫm sâu hơn lại thấy vô cùng dữ dội, ví dụ: "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: 'Mắt đền mắt răng đền răng'. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài..." (Mt 5, 38-40). Hoặc: "Anh em đã nghe Luật dạy: 'Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù'. Con Thầy. Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em..." (Mt 5, 43-44). Những đòi hỏi như trên thường bị hiểu sai. Đây không phải là dung túng sự ác hay bất công. Chúa Giêsu muốn người môn đệ của Người bứt ra khỏi vòng bạo lực, bẻ gãy vòng luẩn quẫn của cái ác: nếu cứ dùng cái ác đáp lại cái ác thì vòng luẩn quẫn sẽ không bao giờ chấm dứt, mà còn có nguy cơ ngày càng gia tăng. Người môn đệ Chúa hãy đứng cao hơn cái "thường tình" của "thế gian". "Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế [tội lỗi] chẳng làm như thế sao? v. v. " (Mt 5, 46).
Tôi nghĩ Tin Mừng dữ dội là do sự đòi hỏi vô cùng của sự hoàn thiện và của tình thương của Cha trên trời mà các môn đệ Chúa Giêsu, vốn là những con người yếu đuối và tội lỗi, phải noi theo (x. Mt 5, 48 và Lc 6, 36). Giáo lý Tin Mừng không hề kêu gọi bạo lực nhưng nó đòi hỏi người tín hữu phải qyết liệt với mình, làm mạnh với mình, dám dùng "bạo lực" với mình, nếu nói được như thế, bởi lẽ nó bắt ta đi ngược với xu hướng tội lỗi vốn ăn sâu trong ta, đi ngược với sự khôn ngoan thế gian nữa.
Biết bao nhiêu người đã chịu thiệt thòi, thậm chí dám chấp nhận cái chết vì trung thành với tất cả các đòi hỏi của Tin Mừng. Nhưng cũng có những Kitô hữu chỉ lựa lọc trong Tin Mừng những gì phù hợp với chọn lựa trần tục hoặc ý thức hệ của mình mà lơ là những yêu tố khác. Chẳng hạn người theo xã hội chủ nghĩa thì hầu như chỉ thấy những lời răn đe nghiêm khắc của Chúa đối với những người giàu có tham lam, ích kỷ và bất công. Hoặc một số người nhân danh Tin Mừng đòi hỏi kẻ khác phải lên tiếng tố giác những vi phạm nhân quyền trong một chế độ chính trị nào đó, nhưng lại không chấp nhận cho ai có thái độ hoà giải với những kẻ thù chính trị mà mình cho là không thể nào tha thứ và hoà giải được. Những thái độ như thế là bất nhất đối với các đòi hỏi của Chúa. Còn thái độ thông thường nhất là tìm cách làm giảm nhẹ các đòi hỏi ấy cho vừa sức tự nhiên mình. Đây là thái độ mà có lẽ hầu hết chúng ta phải khiêm tốn và đơn sơ nhìn nhận trước mặt Chúa, để rồi cố gắng "sám hối và tin vào Tin Mừng" mỗi ngày một hơn. Chẳng thà như thế còn hơn là cố tình bóp méo Lời Chúa khi dùng nó phục vụ cho lập trường riêng của mình.
(19-8-2007)
Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô
Bài giảng quan trọng nhất của Chúa Giêsu là bài giảng trên núi. Mở đầu bài giảng quan trọng nhất, Chúa Giêsu đưa ra lề luật mới là Tám mối Phúc thật, lề luật quan trọng nhất của Tân Ước. Phúc thật đầu tiên của phần quan trọng nhất này lại là sự nghèo khó, tinh thần nghèo khó: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 3). Tôi coi lời Chúc Phúc của Chúa là lời Chúc Phúc cho tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, thấy mình cần Thiên Chúa, ước mong được Chúa ngự vào tâm tư của mình. Vì thế, cái nghèo khó mà Chúa chúc phúc không chỉ là nghèo vật chất, thiếu thốn cái ăn, cái mặc, mà còn bao gồm nhiều thái độ sống như: thái độ sống siêu thoát trước vật chất, là khước từ sự tham lam vật chất, là sự khiêm nhường, là đói tình thương, thiếu thốn đời sống tinh thần, bị cướp bóc văn hóa, bị tước đoạt từ vật chất, tình yêu đến nội tâm…
Trong bài này, chúng ta chỉ nói đến mối phúc thứ nhất, “phúc cho ai có tinh thần nghèo khó”, trong tương quan với người biết để cho lòng mình tha thiết ước mong được Chúa lấp đầy nội tâm. Họ luôn luôn sống đơn sơ, sống từ bỏ và phó thác trọn đời mình cho Chúa. Ta tạm gọi họ là những người biết để cho mình đói khát Thiên Chúa.
Cũng cùng một ý nghĩa với Phúc thật đầu tiên theo khía cạnh đói khát Thiên Chúa, nơi khác Chúa Giêsu đã thốt lên lời cầu nguyện với Chúa Cha: “Con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan và thông thái biết, Cha lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy” (Mt 11, 25). Như vậy, trong lời cầu nguyện của mình, Chúa Giêsu mạc khải: Những người nghèo của Thiên Chúa được Thiên Chúa yêu thương cách riêng. Họ được nhận biết Thiên Chúa, nhận biết ân huệ của Người và lãnh nhận phần rỗi Thiên Chúa ban, bởi đó là “ý Cha muốn như vậy”.
I. CHỌN LỰA THẾ GIAN THAY THIÊN CHÚA.
Người đàn ông ở độ tuổi trung niên đến xin cho con trai của ông được rước lễ trọng thể, nhân dịp giáo xứ chúng tôi tổ chức rước lễ trọng thể vào một ngày giữa tháng 7, dù con ông đang học giáo lý ở một giáo xứ khác. Tôi đồng ý với điều kiện, cha xứ, nơi mà em đang học giáo lý cho phép. Nếu chuyện chỉ có thế thì không còn gì đáng nói. Nhưng lần thứ hai, đến gặp tôi, ông cho biết, con ông học ở một trường tư, nội trú có tiếng là nghiêm khắc trong vấn đề kỷ luật và học tập. Đầu tháng 7 này, con ông bắt đầu tựu trường để vào lớp 12. Bình thường, trường đã nghiêm khắc. Bây giờ lên lớp 12, chắc chắn nhà trường sẽ còn nghiêm khắc hơn. Vì thế, con ông không dám và cũng không được phép nghỉ học bất cứ ngày nào. Trong khi tuần đầu của tháng 7 là tuần các em chuẩn bị rước lễ trọng thể ở giáo xứ chúng tôi tĩnh tâm. Nhưng vì luật của nhà trường như thế, cho nên người đàn ông đòi tôi phải cho em khỏi tĩnh tâm, và vẫn cho phép em cùng được rước lễ chung với các học viên khác.
Nghe xong câu chuyện, tôi buồn quá, thở hắt ra mà không biết phải nói lời nào. Chọn lựa của người Công giáo thời nay là như thế sao: Sự học hành thay Thiên Chúa. Kiến thức ở đời thay lý lẽ đức tin. Giá trị trần thế thay giá trị Nước Trời. Cái chóng qua thay cho vĩnh cửu. Kiến thức đức tin bị đạp xuống hàng thứ yếu, đẩy kiến thức học vấn của đời tạm bợ vượt lên hàng chủ yếu. Kiến thức đức tin là đường lối của Thiên Chúa, là phương hướng dẫn con người đến gặp chính Thiên Chúa, lại bị đạp xuống hàng thứ yếu, có khác gì Thiên Chúa đã bị người ta đạp xuống để cuộc đời vượt lên! Hóa ra đời mới là “thiên chúa” của họ, còn Thiên Chúa lại bị họ biến thành một thứ xa xí phẩm nào đó, có cũng được, không có cũng không sao. Sao mà đáng thương quá! Thiên Chúa vì đã bị người đời loại bỏ. Mà kẻ loại chính Thiên Chúa không ai khác hơn là chính con cái trong nhà, là người Công giáo chính hiệu, là chính con Thiên Chúa. Và càng đáng thương hơn cho lối suy nghĩ nông nổi dẫn đến cả một quyết định, cả một chọn lựa sai lầm lớn không thể nói hết. Người ta chấp nhận hình thức và sẵn sàng phục vụ thứ hình thức ấy một cách giả trá thay cho thực chất, thay cho lòng yêu mến Chúa thật. Chỉ cần đánh lừa lương tâm rằng, con tôi đã rước lễ rồi, thế là đủ, chẳng cần để ý đến việc nó có hiểu biết gì về bí tích mà nó lãnh nhận hay không.
Tĩnh tâm là dịp các em dọn lòng ăn năn tội, xưng thú tội để xứng đáng hơn với bí tích các em lãnh nhận. Tĩnh tâm sẽ giúp các em nâng tâm hồn lên cùng Chúa, nhìn nhận thân phận yếu hèn của mình, khám phá tình thương của Chúa, đưa các em đến gần Chúa hơn, yêu mến Chúa, yêu mến bí tích mà các em sẽ lãnh nhận suốt đời. Tĩnh tâm quan trọng đến như vậy, hơn nữa cả một đời chỉ có một lần duy nhất, vậy mà người ta nỡ nhẫn tâm ăn cướp mất thời gian châu báu ấy. Kẻ ăn cướp thời gian quý giá ấy là cả hai cha con, cả gia đình của đương sự nói riêng, và tất cả những ai đang tìm thay thế Thiên Chúa bằng những hào nhoáng của thế gian nói chung.
Không biết có nặng lời quá không, khi tôi còn muốn quy trách nhiệm nặng hơn rằng: Ông bà ta thường nói: “Gieo giống nào, gặt giống ấy”. Trong lãnh vực đức tin, không phải chỉ gặt cái mình gieo, nhưng sẽ gặt kết quả đã trổ sinh nhiều hoa trái hơn cái đã gieo. Cha mẹ dạy con cái gì, thì chính cha mẹ, chứ không ai khác, sẽ lãnh lấy gấp nhiều lần kết quả mà mình đã dạy. Và nếu cha mẹ mà dạy con, hơn thế, làm gương cho con đánh đổi Thiên Chúa để chọn cuộc đời, thì hậu quả còn khó lường đến mức độ nào! Nghĩ như thế mà cảm thấy não lòng.
II. THIÊN CHÚA, SỰ GIÀU CÓ CỦA NGƯỜI NGHÈO.
Với thái độ chỉ biết tạo cho mình đói thế gian, cũng là sự chọn lựa thế gian thay Thiên Chúa, con người sẽ đắm mình trong thế gian, còn Thiên Chúa bị loại trừ. Bởi thế, cái nghèo của nhân loại hôm nay không đơn thuần là nghèo vật chất, nghèo kiến thức do dốt nát, nhưng là cái nghèo nguy hiểm: nghèo Thiên Chúa, nghèo tinh thần. Thà nghèo vật chất, nghèo sự hiểu biết ở đời này mà giàu Thiên Chúa, giàu tình yêu mến, giàu đời sống tinh thần. Bởi khi có Chúa, người ta sẽ có nhau, nhưng loại trừ Thiên Chúa, người ta dễ trở thành đối thủ của nhau, sẽ loại trừ nhau, thế giới sẽ mất hết bình an, nguy cơ bạo tàn, khủng bố, đổ máu nhau… càng lớn.
Một mặt, Nước Trời chỉ dành cho ai thấy mình đói khát Thiên Chúa. Bởi thế, khi Chúa Giêsu chúc“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 3), là chúc phúc cho tất cả những ai biết cậy trông vào Chúa, biết để cho lòng mình đói khát Thiên Chúa, đói khát sự thánh thiện, đói khát tình yêu và ân huệ của Chúa. Giàu có về nhiều phương diện nhưng lại nghèo Thiên Chúa, thì đó là một cái giàu vô nghĩa, một cái giàu đẩy xa người ta ra khỏi cùng đích của đời mình. Sống mà không biết mình đi đâu, mình sẽ về đâu thì có khác gì đời sống của vật chất, của cát bụi. Vì thế, khi người ta nghèo Thiên Chúa, nhưng lại chỉ tìm kiếm cái giàu nơi thế gian, người ta không chỉ đánh mất Nước Trời, đánh mất lời chúc Phúc của Chúa Giêsu. Người ta không chỉ đánh mất lời chúc phúc còn hơn cả một lời chúc phúc, vì đó là Phúc Thật, Phúc để sống dồi dào, sống viên mãn, mà còn vô phúc ngay trong cuộc đời này, vô phúc ngay khi người ta còn đang đồng hành với nó.
Mặt khác, tưởng rằng, khi người ta chối bỏ Thiên Chúa, người ta sẽ tự do làm chủ đời mình, làm chủ vận mạng của mình, nào ngờ, người ta lại đánh mất chính mình. Tưởng rằng làm nghèo hình ảnh Thiên Chúa nơi tâm hồn, để được giàu có, sung túc những phương diện của đời sống, thì người ta lại rơi vào trạng thái chông chênh, bấp bênh của nội tâm. Người ta sẽ mất. Cái mất lớn nhất là mất chính ý nghĩa của đời mình. Tưởng rằng sẽ khôn ngoan, nào ngờ trở nên ngu dại. Trong lời cầu nguyện cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã khẳng định như thế: “Con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan và thông thái biết, Cha lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy”.
Giàu có mà làm gì, khôn ngoan mà làm gì khi tầm nhìn của kẻ giàu có ấy, kẻ khôn ngoan ấy chỉ trong tầm tay, đui trước vô biên, mù với siêu nhiên, hoàn toàn xa lạ với mạc khải của Thiên Chúa. Giàu để được gì, khôn ngoan để được gì khi mà Thiên Chúa, Đấng là nguồn sống thật, là sự giàu có thật, là sự không ngoan thật, là cùng đích tất cả lại trở nên Đấng “giấu không cho những nhà hiền triết khôn ngoan và thông thái biết”. Hóa ra sự giàu có mà con người tìm kiếm trong đời chỉ là một sự nghèo khó, trần trụi không gì bằng. Còn những ai khiêm nhường, bé mọn mới thật sự trở nên cao trọng, giàu có. Họ thật xứng đáng là người lãnh lấy chính Thiên Chúa là chân lý toàn vẹn. Bởi Người chẳng những không “che giấu” mình trước họ, mà còn “mạc khải” cho họ. Có Chúa, dẫu nghèo, con người vẫn giàu có.
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Nước Trời thật sự thuộc về người nghèo. Thế gian có thể tìm kiếm được khoái cảm mà họ muốn, nhưng những khoái cảm ấy không làm đời họ dài thêm. Người đàn ông trong câu chuyện bên trên muốn trang bị cho con của ông giàu có về sự học hành, lớn lao về đường công danh, bảo đảm cho tương lai đời nó. Khi trang bị chon con mình, ông cũng đồng thời nghĩ tới ông, nghĩ tới gia đình ông bằng một giấc mơ thiên đàng trần thế về danh giá ở đời, về sự nổi nang, ngưỡng mộ trong ánh mắt mọi người xung quanh. Nhưng ông lầm. Tìm kiếm trần thế mà không tháp nhập trần thế vào sự cứu độ siêu nhiên, ông có thể tìm được thành công trần thế, nhưng chắc chắn đời đời vắng bóng siêu nhiên. Chỉ trong sự cứu độ siêu nhiên của Chúa, đời ta mới đạt tới vĩnh cửu. Vì thế, nếu chỉ tìm kiếm trần thế, đó là sự đánh cắp đời mình, cắt đứt vĩnh cửu. Cắt đứt vĩnh cửu là làm ngắn đời mình. Chính ông đã tự gieo, cũng như đã gieo vào tâm tư của con ông lối suy nghĩ, lối sống làm ngắn đời mình. Ông đã đánh cắp đời mình đã vậy, lại còn đánh cắp đời con của ông. Nguy hiểm hơn khi sự đánh cắp này có dấu hiệu “di truyền”. Không biết có bi quan lắn không, nếu nói rằng, một khi con ông “thừa hưởng” thái độ đánh cắp ấy của ông, thì nó sẽ còn bao nhiêu lần đánh cắp như thế đến bao nhiêu thế hệ con người! Siêu nhiên mà vắng bóng, vĩnh cửu mà bị đánh mất, Thiên Chúa bị đẩy xa đời người, người giàu vẫn nghèo tận cùng. Nghèo không thể nói hết.
Đối với Kitô hữu, chúng ta cần biết rằng, làm giàu Thiên Chúa mới là tất cả ý nghĩa của đời mình. Thiên Chúa là Vĩnh Cửu. Ai làm giàu Thiên Chúa, người đó bước vào vĩnh cửu. Vì thế, ta cần hiểu rằng, nơi Phúc Thật thứ nhất, Chúa Giêsu dạy ta phải có thái độ phó thác tuyệt đối của một người có tinh thần nghèo khó trọn vẹn. Bởi chỉ có tinh thần nghèo khó, ta mới thấy mình chẳng là gì, chẳng có gì. Tất cả là bởi Chúa, phát xuất từ Chúa. Chính bản thân ta cũng chỉ là bụi đất, rồi sẽ trở về bụi đất. Tất cả những hy vọng, những tìm kiếm, những bươn chãi, những tranh giành, những vất vả, những hao mòn lặn lội mới có trong cuộc đời này đều chỉ là hư không, tất cả chỉ là một trò ảo thuật. Ta không là chủ đời mình, càng không bao giờ là chủ những gì mình tạo ra. Cùng với sự tắt thở của thân xác, ngay lập tức, ta trở thành thây ma thối rữa, nhơ nhớp.
Cuộc đời mà ta đồng hành với nó, chỉ là người bạn bạc bẽo. Lẽ nào ta chọn sự bạc bẽo làm chúa của mình thay Thiên Chúa đầy lòng xót thương, Đấng mà ta phải tôn thờ suốt đời! Đừng quên , những người chỉ biết tìm kiếm sự thông thái, tìm kiếm khôn ngoan trần thế sẽ, bị Chúa che giấu. Chúa chỉ mạc khải chính Chúa cho những người bé mọn, những người nghèo khó thật sự, và phó thác trọn đời mình trong tay Chúa.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con. Chúng con xin lặp lại chính lời cầu nguyện của Chúa Giêsu mà Vinh danh Cha rằng: Chúng con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan và thông thái biết, Cha lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy, nên suốt đời, chúng con nguyện trở thành người nghèo của Cha, biết phó thác đời mình trong tay Cha. Xin dẫn dắt chúng con đi tới, để chúng con hạnh phúc mãi mãi vì được ở trong nhà Cha.
Lm. VŨ XUÂN HẠNH
Nguyên nghĩa :
Vu Lan phiên âm từ phạn ngữ Ullambaha, Trung Hoa dịch là "giải đảo huyền" với nghĩa cởi mở những hình phạt khủng khiếp như treo ngược tội nhân hay giải thoát những cực hình trong các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Cầu Hồn: Viết tắt của chữ cầu nguyện cho các linh hồn: Ngay từ đầu, Hội Thánh vẫn kính nhớ những người quá cố và cầu nguyện cho họ, đặc biệt trong Thánh lễ để một khi họ được thanh luyện họ được hưởng Thánh nhan Chúa. Việc bố thí, hy sinh hãm mình cũng là cách cầu nguyện cho các linh hồn. Kinh Thánh minh chứng : “vì thế, ông Giuđa Ma-ca—bê-ô xin dâng lễ đền tôi cho những người chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12, 46)
Những cách thức cầu nguyện cho người đã qua đời.
Cầu nguyện.
Người chết không còn làm gì được để sinh phúc chuộc lỗi, cho nên chỉ còn nhờ vào những người đang sống và gia tài các Thánh.
Sau khi nghe Ngài Mục Kiền Liên thỉnh cầu phương pháp báo hiếu, Phật dạy rằng:
"Này Mục Kiền Liên ! Mẹ của ông do lòng tham lam, độc ác, đã tạo ra tội lỗi nặng nề trải qua nhiều kiếp, nay sanh trong ác đạo, làm loài ngạ quỷ, nên không thể một mình ông cứu độ được. Mặc dù lòng hiếu thảo của ông vô tùng lớn lao, cũng không sao chuyển được hoàn cảnh chẳng khác gì chiếc thuyền con, không thể chở được tảng đá lớn. Vậy ông phải nhờ oai thần của chúng tăng trong mười phương, đức lớn như biển, mới cứu độ mẹ ông được giải thoát. Ta nay sẽ vì ông, chỉ dạy phương pháp cứu rỗi, khiến cho mẹ ông xa lìa được các điều tội lỗi.
Này Mục Kiền Liên ! Ngày rằm tháng bảy là ngày tự tứ của chư tăng trong mười phương, sau ba tháng an cư, kiết hạ, sách tấn tu hành. Ngày ấy là ngày hoan hỷ của chư Phật, vì thấy chư tăng sau ba tháng an cư, kiết hạ, sách ấn tu hành. Ngày ấy là ngày hoan hỷ của chư Phật, vì thấy chư tăng sau ba tháng an cư kiết hạ, đã tiến bộ rất nhiều trên đường tu học, các nghiệp được thanh tịnh, ba món vô lậu học, các nghiệp được tăng trưởng, công đức thêm nhiều và đến ngày viên mãn. Vậy ông nhân ngày ấy làm lễ Vu Lan Bồn để báo hiếu cho mẹ ông.
Ông hãy sắm đủ các món trai diên trăm mùi, năm thứ trái, cùng hương dầu đèn nến, giường chỏng, chiếu chăn, mùng mền, quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay; tóm lại là đủ bốn món cúng dường quý báu ở trong đời. Rồi ông phải thân hành đi rước các vị đại đức tăng trong mười phương, hoặc các vị thiền định trong núi rừng, chứng được bốn quả thánh, hoặc có vị kinh hành dưới cội cây được sáu phép thần thông tự tại như hàng Thanh Văn, Duyên Giác, các vị Thánh Tăng, hoặc các vị Thập Địa Bồ Tát thị hiện làm thầy tỳ kheo...v.v... Ông phải thành tâm kính lễ trai tăng cúng dường thỉnh cầu chư tăng chú nguyện cho vong linh mẹ ông được thoát khổ. Nhờ công đức chí thành chú nguyện cho vong linh mẹ ông sẽ được siêu thoát. Cũng như tảng đá dù nặng trăm cân, song có nhiều người khiêng, thì đời đi đâu cũng được".
Phật giáo dùng ngày Rằm tháng Bảy để cầu nguyện cho các linh hồn, truyền thống Kitô giáo đưa việc cầu nguyện cho các linh hồn vào trong Thánh Lễ từ cuộc canh tân phụng vụ thời Charlemagne (Thế Kỷ 7); dưới ảnh hưởng của dòng Cluny, các dòng thuộc nhà mẹ Cluny, dùng ngày 2 – 11 hằng năm để tưởng nhớ những người quá cố, dần dần lan rộng ra và trở thành phổ biến trong Hội Thánh.
Hiệp thông với các tín hữu đã qua đời: “ Nhận biết sự hiệp thông này trong lòng toàn Nhiệm thể Chúa Giêsu Kitô, ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Hội Thánh lữ hành hết lòng kính mến, tưởng nhớ những người đã chết và dâng lời cầu cho họ, “Vì cầu nguyện cho người chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý tưởng lành thánh. Khi cầu nguyện cho họ, chúng ta không chỉ giúp họ mà còn làm cho lời họ chuyển cầu cho chúng ta hiệu quả hơn” (GLTC số 958)
Dâng Lễ Vật.
Ngài Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy, đến ngày rằm tháng bảy làm lễ Vu Lan, sắm đủ các vật liệu, rước chư tăng trong mười phương thành tâm kính lễ trai tăng cúng dường, nên vong mẫu của Ngài thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, sanh về cảnh giới lành.
Việc xin lễ cầu nguyện xuất phát từ lòng thành kính của ông GiuĐa Ma-ca-bê-ô “xin dâng lễ đền tội cho những người chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12, 46). Hội Thánh vẫn kính nhớ và cầu nguyện cho những người qua đời, đặc biệt là trong mỗi Thánh lễ Hội Thánh cử hành. Thánh Gioan Kim khẩu khi giảng bài 1 Cr 41, 5, nói rằng: “Chúng ta hãy giúp họ và hãy nhớ đến họ. Nếu các con của ông Gióp đã được thanh luyện nhờ việc hiến lễ của cha (G 1, 5), tại sao chúng ta còn nghi ngờ là những lễ tế của chúng ta dâng lên Thiên Chúa, để cầu nguyện cho người quá cố, lại không đem đến cho họ một phần an ủi nào? Đừng do dự giúp đỡ và cầu nguyện cho những người đã qua đời”
Hy sinh, Đền tội, Sửa mình.
Thượng Toạ Thích Thanh Từ dạy các môn sinh:
“Ngày Rằm tháng Bảy được gọi là ngày chúng Tăng Tự Tứ là thể theo sinh hoạt của Tăng đoàn thời đức Phật. Thời tiết ở Ấn Độ từ tháng Tư đến tháng Bảy là mùa mưa, đất ẩm ướt, trùng kiến bò lên đầy đường. Chúng Tăng đi khất thực thì dẫm đạp côn trùng làm tổn hại sinh mạng của chúng và làm tổn giảm lòng từ bi của mình, nên đức Phật dạy từ Rằm tháng Tư đến Rằm tháng Bảy, tất cả Tăng Ni họp lại một chỗ để tu học, gọi là kiết hạ an cư: kiết là kết, tức là nguyện trước Phật và chúng Tăng suốt ba tháng ở yên một chỗ đã qui định để tu học, không ra khỏi phạm vi ấy. Đến ngày Rằm tháng Bảy làm lễ Tự Tứ: tự là mình, tứ là mặc tình, tức là qua ba tháng ở yên tu học, chư Tăng Ni đối trước những bậc trưởng thượng, cấu xin các Ngài từ bi chỉ lỗi, nếu các Ngài có thấy, nghe hay nghi mình có lỗi, để mình nhận lỗi và sám hối cho ba nghiệp được thanh tịnh. Tinh thấn Tự Tứ của Phật dạy rất là đặc biệt. Vì tất cả chúng ta, ai ai cũng mang cái bệnh tự cao ngã mạn, lúc nào cũng thấy mình hơn người, có định kiến cho mình là đúng, nên ít khi chịu nghe lời nhắc nhở xây dựng của ai, dầu người đó là bậc cha mẹ hay thầy bạn. Ngày Tự Tứ, Tăng Ni tự mình cầu xin bậc trưởng thượng chỉ lỗi và dạy bảo để sám hối, sửa đổi. Đó là việc làm rất hay và hữu ích cho việc tu tiến. Người lớn chỉ lỗi, người nhỏ giác ngộ nhận lỗi và sửa đổi thì mới thành người tốt, làm cho Tăng đoàn lớn mạnh. Do đó, đức Phật rất vui, nên ngày Tự Tứ cũng gọi là ngày Phật hoan hỷ.”
Hội thánh cũng khuyên chúng ta cầu nguyện, làm việc hãm mình và nhường ân xá cho các linh hồn. Con đường tiến đến hoàn thiện là con đường đi qua Thập Giá. Không thể đạt được tới sự thánh thiện, nếu không từ bỏ và chiến đấu nôi tâm. Sự tiến bộ thiêng liêng đòi hỏi sự dày công tu luyện và khổ chế, từng bước giúp người tín hữu sống trong bình an, hoan lạc các mối phúc thật.
Từ bi, hỷ xả, Đức ái.
Tôi nhớ có lần nghe Thượng Toạ Thích Thanh Từ giải thích chữ “Hỷ xả” qua việc bố thí như sau: “Hỷ xả là tinh thần hoan lạc trong khi bày tỏ lòng từ bi với mọi người hay với vạn vật. Hỷ xả không lệ thuộc vào vật chất trao tặng, nhưng nơi tấm lòng. Ví dụ có người cúng dường rất nhiều của cho Nhà Chùa, còn tôi, chỉ có vài chục rất ít cúng dường, hay là không có đi nữa, nếu tôi vui mừng với người đã cúng dường rất nhiều của cải kia, trước mặt Phật, tôi cũng có công như người giàu có nọ”.
Có thể trích dẫn ra đây tiêu chuẩn đức mến, người Kitô hữu cần kiện toàn, mà Thánh Phao lô viết cho công đoàn Cô-rin-tô: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
CÂU CHUYỆN SUY TƯ
Lá thư của đứa bé gái gửi cho ba má nó được viết bằng nỗi buồn trống vắng, nó cầu nguyện để được ước muốn cho ba má nó nghèo đi.
Theo lá thư của nó: Ngày xưa khi gia đình còn nghèo, ba mẹ nó đều có thời gian để chăm sóc gia đình. Mỗi sớm, ba gọi cả nhà dậy sớm, đi bộ dọc theo các công viên để tập thể dục, khi về mỗi người được một ly sữa đậu nành ấm áp, sau khi tắm rửa ba nó chở nó đi học rồi ba đi làm. Mẹ cũng đi làm, chiều về ghé ngang chợ mua sắm chuẩn bị bữa cơm tối trong gia đình. Cả nhà ùa vào chuẩn bị bữa ăn chung, vui vẻ biết bao.
Từ ngày ba nó làm khấm khá lên, mẹ nó cũng làm biếng hơn, thuê người về giúp việc, mọi chuyện buồn vui trong gia đình giờ đây không còn thuận tiện để nói, Ba đi làm về trễ hơn, mẹ cũng chẳng ghé chợ để mua sắm nên cũng đi đầu đó rồi mới về nhà. Riêng nó, mọi chuyện đưa đón đều nhờ vào bác xe ôm, không còn đi bộ mỗi sáng, không còn tâm sự được với ba hay mẹ nữa. Mọi chuyện ngày xưa dường như đã lùi xa, khung cảnh gia đình là những rạn vỡ. Ba không còn về với mẹ thường xuyên, nên mẹ cũng đi tìm niềm vui riêng của mẹ, còn nó muốn níu kéo nhưng sức bé nhỏ sao níu nổi. Nó cầu nguyện, ước muốn gia đình nó nghèo trở lại như xưa, tuy tiền bạc không rộng rãi nhưng bù lại có nhiều tình cảm không thể mua bằng tiền bạc, ước mơ ấy nó không biết gửi vào đâu, đăng báo để trong lúc nào rảnh rỗi, ba hay mẹ tình cờ đọc được lá thư này mà quay trở về.
Bạn thân mến. Mỗi người có một nước trời nhỏ bé ví như kho tàng ở trong ruộng kia khi thấy được kho tàng trong ruộng, ông chôn xuống và về bán tất cả những gì mình có mà mua lấy thửa ruộng ấy. Cũng giống như người kia tìm thấy viên ngọc quý, ông về bán tất cả những gì mình có để mua viên ngọc ấy.
Chọn lựa để giữ lấy điều tốt đẹp nhất là đem bán tất cả những đam mê, những dục vọng, những cái xấu làm tổn hại hoặc có khi cần hy sinh những điều chính đáng được hưởng để mua lấy thửa ruộng có kho tàng hoặc sắm lấy viên ngọc quý. Chỉ có một cơ hội nếu vụt mất trong đời này thì thật tiếc, viên ngọc quý trong những gia đình bị đánh mất.
TKH
TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH
Chị Nguyệt lập gia đình với anh Tùng. Tình yêu và hạnh phúc chẳng có, mà chỉ có bạo hành và khổ đau. Mẹ chị thương chị, nhưng chẳng biết làm cách nào, chỉ thở dài: “Phận số đành phải chịu, chứ thay đổi sao được”, “Nuôi con là đức, lấy chồng là mệnh mà”.
Việc lập gia đình của người Công giáo chúng ta cũng được mọi người tin nhận, là việc Chúa se định.
Nền văn hóa Việt Nam cũng cho việc lấy vợ lấy chồng, có sự can thiệp của ông Tơ bà Nguyệt. Đã là việc se duyên của ông Trời, thì muốn thoát cũng chẳng được.
Những quan niệm trên rất có cơ sở, một chàng trai, một cô gái, đầu tiên chẳng quen biết nhau, rồi do cái duyên nào đó đưa đẩy, hai người gặp nhau, cảm nhau, yêu nhau và sau đó thành vợ thành chồng, cùng ăn cùng ở, sinh con, đẻ cái và cùng làm việc để nuôi sống cái tổ ấm của mình … Trong một thế giới đầy người như hôm nay, việc đó quả thực phải có một bàn tay se định.
Thời đại “Trọng nam khinh nữ”, thời đại mà người đàn bà phải “Tam tòng tứ đức”, có lẽ bây giờ chỉ còn trong truyện cổ, trong phim tình cảm Hàn quốc. Còn cách chung, vợ chồng đều đã ngang cơ với nhau, thậm chí nhiều gia đình, ảnh hưởng của bà vợ đè bẹp cả quyền uy của ông chồng.
Một gia đình, ông áp chế bà hoặc bà áp chế ông, thì chỉ có họa, chứ phúc sao được. Vì hạnh phúc chỉ có thể có, tồn tại và thăng tiến nếu cả hai biết sống bình đẳng với nhau. Chồng và vợ phải là bạn đời của nhau. Đã là bạn, thì không nên có tệ nạn “Chồng chúa vợ tôi” hoặc ngược lại. Là bạn, mà là bạn đời, nghĩa là suốt đời mình. Điều đó đòi hỏi cả hai phải có nghệ thuật ứng xử đẹp với nhau.
Về phía các đấng mày râu, có người đã đưa ra chiến thuật: “Cách tốt nhất để đối phó với vợ, là sợ vợ”.
Thời phong kiến ở nước ta, trong gia đình, chồng phải tỏ ra oai phong cho vợ sợ, chớ không thể sợ vợ.
Trong tình yêu, nam đi tìm nữ chớ không có lệ nữ đi tìm nam: “Trâu tìm cột, chớ cột nào tìm trâu”. Thế nên, dù đã tàn xuân, đã “Quá đát”, nhưng người nữ vẫn phải chờ. Trong bạn bè, thì “Nam nữ phải thọ thọ bất thân”.
Những chiêu bài trọng nam khinh nữ đó, hôm nay, không còn hợp thời nữa. Tuy nhiên, nó vẫn như quả bom, đã nổ từ lâu, nhưng phóng xạ của nó vẫn gây nên nhiều méo mó, xô lệch trong những tương quan nam nữ.
Ơ các quốc gia Au Mỹ hiện nay, quan điểm “Lady first”, “Phụ nữ là trước tiên”, hầu như được mọi người tôn trọng. Nó được coi là điểm không thể thiếu của một người đàn ông ga lăng. Đi chung với nhau, đàn ông phải biết dành “Quyền” mang vali dùm phụ nữ, cho dù chiếc vali đó chỉ nặng chưa đến ký lô. Cô bạn bước lên xe, thì ông bạn phải biết điệu, đỡ cô ấy lên, mặc dù cô ấy đang là vận động viên nhảy sào, có thể nhảy qua cả chiếc xe hơi. Một nàng tiên đưa tay ra, thì ông “Lưu Nguyễn” trước khi bắt tay, phải đưa bàn tay đó lên môi, hôn cái đã. Không làm thế, là không văn minh.
Như thế, cả Ta lẫn Tây, việc tôn trọng phụ nữ đang được đề cao. Với phụ nữ “Bên ngoài”, còn nên đối xử như thế, thì tại sao với “Người nữ trong trướng” tại sao cứ phân chia cao thấp? Tại sao cứ phải “Vợ sợ”, còn “Sợ vợ” lại không được? Bài toán “Sợ vợ”, bởi đó, nên được giải trình. Nếu sợ vợ là một điều đáng xấu hổ, thì làm “Vợ sợ” cũng chẳng có gì là vinh. Nếu bài toán sợ vợ, ẩn chứa một “Hàm số”. Tôn trọng vợ, cưng chiều vợ, cư xử bình đẳng với vợ để nuôi dưởng hạnh phúc, thì đáp số của nó rất đáng được trân trọng.
Chúng ta thử nêu lên một vài trường hợp:
Một bản điều tra, liên quan đến vấn đề sợ vợ, đã cho biết, trong 100 bà có chồng là trí thức, có tiếng tăm ngoài xã hội, thì có 90 bà được “Chồng sợ”. Nghĩa là 90%. Lý do các trí thức gia sợ mang tiếng là vũ phu, gia đình xào xáo, nên đành nhịn để trong ấm ngoài êm. Ngược lại, trong thành phần lao động, cờ bạc, rượu chè, nghiện ngập … thì các bà vợ lại sợ chồng một phép. Bởi vì trái ý các ông, là các biện pháp “Già đòn non nhẽ” được áp dụng liền.
Trong những gia đình bề thế, khá giả, tỷ lệ các “Đấng lang quân” sợ vợ vượt trên 70%. Còn trong những gia đình nghèo khổ, khó khăn, con số “Râu quặp, yếu ken” chưa đến mức 10%.
Như thế sợ vợ là sang, chứ đâu có hèn.
Chẳng nên nghĩ rằng, sợ vợ là “Yếu ken”, nếu người sợ vợ dù thấy được cái sức mạnh của phái xấu, nhưng lại cảm được cái yếu của phái đẹp, nếu đánh đập, nặng lời với nàng, nàng sẽ đau, sẽ khổ. Nếu phụ rẫy nàng, nàng sẽ xót xa tủi phận, nên chỉ còn con đường, nhường nhịn vợ, nhu thuận để trung hòa cùng vợ, sẵn sàng gạt bỏ “Cái mạnh” của mình, để nuôi dưỡng hạnh phúc gia đình. Chịu nhịn một chút, điều đó đâu có khó lắm, nhưng lại bảo trì được hạnh phúc, một gia sản quý báu, thì đâu có thiệt thòi gì?
Có người còn chủ trương, sợ vợ là bài học dạy con biết xử đẹp với phái yếu, nếu là con trai. Và biết tiêu chuẩn chọn chồng, nếu là con gái.
Như vậy nhiều người la hoảng: “Trời đất ơi, sợ vợ đời cha chưa đủ sao, lại còn xúi dại cả đời con kế nghiệp”.
Người chủ trương sợ vợ liền giải trình: “Này nhá, con trai thấy cha cư xử dịu dàng tử tế với mẹ, sau này lấy vợ, nó cũng kế nghiệp cái gia tài tốt đẹp đó, để không khi nào hiếp đáp vợ mình”. Một người cha đã khuyên cậu con vừa có vợ: “Con hãy đối xử với vợ con như bố đã đối xử với mẹ con”. Lời khuyên, quả thực, rất đáng đề cao.
Còn với con gái, thấy cha như vậy, nó cũng thầm mong, sau này cũng sẽ kiếm được một người chồng, biết cưng yêu chiều chuộng nó như vậy.
Có một bà mẹ đã khuyên con gái:
Mẹ biết
Con đã bắt đầu tuổi yêu.
Mẹ biết,
Con đã bắt đầu tuổi nhớ.
Mối tình đầu bao giờ chẳng thiêng liêng đẹp đẽ.
Các chàng trai săn đón quanh con,
Tấm lưới thần sẽ được giăng lên,
Chú nhện nhỏ thế nào không mắc lưới.
Tấm lưới của tình yêu nhẹ nhàng như gió thổi.
Con mắt thường chẳng nhìn thấy được đâu.
Những bó hoa … sự chăm sóc ban đầu.
Giờ tan học … chàng trai nào đón đợi?
Đường thì xa, mà con thì nhỏ dại.
Mẹ nhìn con lòng không khỏi lo thầm.
Giá như là ở chiến trường,
Mẹ có thể còn là lá chắn.
Nhưng tình yêu trong cuộc đời trắc ẩn,
Sẽ làm con điêu đứng si mê.
Con sẽ quên những lời mẹ dặn dò.
Kinh nghiệm sống của người này,
Không dạy được cho người khác.
Chỉ có điều, con gái của mẹ ơi!
Nếu con gặp được người yêu con nhất.
Đừng bao giờ để mất nghe con.
(Nguyễn Thị Hồng Ngát)
Làm sao cô gái, vừa đến tuổi yêu, có thể nhận ra cậu trai nào yêu cô hơn cả, yêu thật tình, chứ không phải yêu kiểu đào mỏ, kiểu chiếm đoạt, nếu chưa có mô hình đó trong đầu óc, nhờ thấy được cách sống của người cha?
Cuộc tranh đấu cho nữ quyền, mãi đến gần giữa thế kỷ 20, ở một quốc gia hàng đầu về dân chủ và tự do, như Hoa Kỳ, còn gặp khó khăn, phụ nữ vẫn chưa được đi bầu, nói chi đến quốc gia khác. Người phụ nữ, như thế, cả hàng trăm năm trước, ngoài xã hội đã thiệt thòi, vào gia đình lại càng thiệt thòi hơn, nào chăm con, lo chồng và hàng trăm thứ việc “không tên”.
Các xã hội văn minh, hôm nay, đã thay đổi cách đối xử với phụ nữ. Việt Nam mình cũng đang trên đường đi tới văn minh, chẳng lẽ lại không đủ rộng lượng, biếu người vợ mình một chữ “Sợ”, để nàng vui sao?
Một cụm từ có mặt đã lâu, trong xã hội chúng ta là “Trao đổi hai chiều”. Hai tiếng “Sợ vợ” cũng phải lịch sự đáp lễ. Cái sợ của quí ông là “Món quà danh dự”, riêng tặng quí bà. Hòn đất đã ném đi, hòn chì cần ném lại, ông đã thò con gà, bà phải thò chai rượu, cuộc tình mới đẹp đẽ được. Bởi vậy, quí bà hãy cố đáp lại nghĩa cử của quí ông bằng tất cả vốn liếng của sự dịu dàng, đôn hậu, đảm đang của mình. Gia đình, nhờ đó, mới có chất văn hóa.
Ngược lại, nếu quí bà thấy quí ông “Yếu ken” quá, liền nhảy phốc lên bàn thờ, tung ra chưởng độc “Đả phu hồng pháp”, thì gia đình chỉ còn là “Văng” hóa, văng cửa sổ, trổ nóc tôn mà thôi. Sợ mà mất đi một chiều thì chỉ còn là: “Sợ hãi”, là “Khiếp sợ”. Hạnh phúc lúc đó, nếu còn tí chút, thì cũng không còn là thực, mà chỉ là sự níu kéo một bóng hình hạnh phúc nào đó.
Nhường nhịn nhau, trong cuộc sống chung, là rất quan trọng. Nhường nhịn nhau không thiệt, mà lời rất nhiều: “Một sự nhịn là chín sự lành” mà, Thánh Phaolô cũng khuyên chúng ta: Hãy “Thương mến nhau với tình huynh đệ và coi người khác hơn mình” (Rm 12,10). Người khác mà còn nên làm, thì vợ chồng mình sao lại bỏ, phải làm nhiều hơn mới phải.
Coi người khác hơn mình, đặc biệt với vợ chồng, không phải vì sợ, vì mặc cảm, yếu ken, mà chỉ vì lòng bác ái yêu thương, muốn cho vợ hay chồng mình phấn khởi hài lòng, để nhờ đó, gia đình hòa thuận an vui. Người được nhường, cũng đừng vì thế, mà lên nước, nhưng phải thấy được sự tự chủ của bên kia, thậm chí nhiều lúc họ phải “Sát tế” cả những ý thích cá nhân của họ nữa đấy.
Thấy được điều đó, là thấy được trách nhiệm của mình, phải làm gì để đền đáp sự hy sinh của người bạn. Một trong những đền đáp ý nghĩa nhất, là hãy nhường nhịn lại bạn mình.
Chồng nhịn, vợ cũng nhịn, thì bất hòa làm sao có thể bùng nổ. Không có bất hòa, là có yêu thương. Và ở đâu có yêu thương, ở đó có Chúa ngự trị. Có Chúa ngự trị, tức là đã có Thiên Đàng.
Trích tập sách “ Tình không như là mơ” của Lm. Hồng Nguyên
ĐỌC SÁCH
b. Tình liên đới cùng sứ mệnh.
Sứ mệnh của linh mục theo thánh Công Đồng Vatican II là “Vì được tham dự chức vụ của các Tông Đồ theo phận vụ mình, nên các linh mục được Thiên Chúa ban ơn sủng để làm thừa tác viên của Chúa Giê-su Ki-tô giữa muôn dân, và thi hành chức vụ thánh rao giảng Phúc Âm để muôn dân được trở nên hiến lễ đẹp lòng Chúa và được Thánh Thần thánh hóa (1) , chính vì với sứ mệnh cao cả ấy mà các linh mục được sai đến với muôn dân, đặc biệt là các cộng đoàn giáo xứ.
Sứ mệnh này càng được nổi bật hơn khi linh mục thi hành chức vụ mục tử tại giáo xứ của mình, ngài như một người cha gia đình biết chăm nom cho con cái của mình, ngài biết đứa con nào đau ốm bệnh hoạn để đặc biệt săn sóc, ngài luôn hỏi han động viên những đứa con mạnh khỏe của mình biết vươn lên thành những con người tốt của xã hội và Giáo Hội; ngài cũng là một chủ nhà biết quản lý gia nghiệp mà Thiên Chúa –qua Giáo Hội- đã trao phó cho mình, trong đó có cộng đoàn các nữ tu phục vụ cùng với sứ mệnh mà Chúa Giê-su đã trao cho họ: trở nên ánh sáng cho thế gian và muối cho đời.
Các nữ tu đến phục vụ trong giáo xứ của ngài, ngài hết sức quan tâm và làm sao cho các nữ tu này có một cuộc sống xứng với đời sống tận hiến của họ, nhất là để các nữ tu khi tự nguyện phục vụ trong giáo xứ của ngài, không cảm thấy bị áp lực vì cha sở không những lạnh nhạt với họ, mà còn tỏ ra bất cần họ qua những thái độ và lời nói, đôi lúc không tôn trọng các nữ tu là những người cũng như mình: đã tận hiến đời mình cho Thiên Chúa, để phục vụ Ngài qua tha nhân, mà cụ thể là các giáo dân trong giáo xứ của ngài. Bởi vì, sứ mệnh của các nữ tu không khác gì sứ mệnh của cha sở, nghĩa là các nữ tu cũng được Chúa Giê-su trao cho sứ mệnh rao giảng Phúc Âm cho mọi người, chiếu theo tôn chỉ và mục đích của hội dòng, bởi vì có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời (Mt 19, 12b), họ chính là những người dâng mình làm tôi tớ Chúa, họ chính là các tu sĩ nam nữ cũng như các linh mục vậy. Sứ mệnh này của các nữ tu cũng đã được thánh Công Đồng Vatican II xác định và khen ngợi: “Vì thế, thánh Công đồng công nhận và khen ngợi nam nữ tu sĩ sống trong tu viện, trường học, bệnh viện hoặc trong các xứ truyền giáo, đang trang điểm Hiền Thê Chúa Giê-su bằng tấm lòng khiêm tốn và kiên trung trong sự tận hiến và quảng đại phục vụ mọi người dưới muôn vàn hình thức” (2) .
Tình liên đới trong sứ mệnh rao truyền Lời Chúa cho mọi người này, làm cho các linh mục –nhất là cha sở- có bổn phận coi các nữ tu đang phục vụ trong giáo xứ của mình như là những nguời cộng tác đắc lực trên cánh đồng truyền giáo, mà không cần phải lựa chọn coi họ là người thuộc hội dòng nào, là người miền Bắc, miền Trung hay miền Nam, hoặc là tu hội nào để đón nhận đến trong giáo xứ của mình.
Cùng chung sứ mệnh rao giảng Lời Chúa cho mọi người, nhưng có một vài nơi cha sở không đối xử tốt với các nữ tu đang làm việc trong giáo xứ của mình, các ngài coi nữ tu ngang hàng với mọi giáo dân, và có khi với thái độ lạnh nhạt và kẻ cả của các ngài, mà giáo dân hiểu lầm rằng nữ tu chỉ là những con người đến để phục vụ giáo xứ, là người giúp việc cho cha sở, là để cha sở sai khiến trong các việc của nhà thờ nhà xứ. Có một vài nữ tu than phiền rằng cha sở của giáo xứ mà họ đến phục vụ quá nóng tính và hay la mắng họ, bởi vì có những lúc vì bận công việc học hành, hoặc trong cộng đoàn có những công tác mà họ chưa đến nhà xứ kịp thì cha sở lớn tiếng nạt nộ; có một vài nữ tu cảm thấy chán nản không muốn đến nhà thờ phục vụ vì ngại gặp cha sở, bởi vì ngài “không phân biệt được” giữa các nữ tu và những giáo dân nữ khác, nghĩa là ngài to tiếng nạt họ ngay giữa chỗ đông người...
Không một ai phủ nhận công lao của các nữ tu phục vụ trong giáo xứ, khi giáo dân thấy các em nhỏ trong giáo xứ dâng hoa rất đẹp, ca đoàn hát hay và các đoàn thể hoạt động sôi nổi nhiệt thành, tất cả đều có bàn tay cộng tác của các nữ tu đang phục vụ trong giáo xứ. Cha sở không thể một mình mình làm cho giáo xứ phát triển toàn diện, nhưng ngài cần phải có nhiều bàn tay cộng tác; ngài cũng không thể một mình xây dựng các đoàn thể trong giáo xứ, nhưng ngài cần có những tâm hồn nhiệt thành cộng tác, mà nhiệt thành và trung thành phục vụ nhất đối với các đoàn thể chắc chắn là không ai hơn được các nữ tu trong giáo xứ của mình. Bởi vì đó chính là sứ mệnh của các nữ tu đang phục vụ trong giáo xứ, sứ mệnh trở thành muối cho đời và ánh sáng cho người này cần đáng được các cha sở đồng cảm, chia sẻ và nâng đỡ mà không đòi hỏi một điều kiện nào khác.
Giáo Hội –qua mọi thời đại- luôn trân trọng những ơn gọi tận hiến để phục vụ Thiên Chúa qua con người của những tâm hồn quảng đại nhiệt thành, mà cha sở là người đại diện Giáo Hội cách hữu hình nhất tại giáo xứ của mình, ngài cần phải bày tỏ lòng quý mến này với các tu sĩ nam nữ đang phục vụ cách vô vị lợi trong giáo xứ mà mình đang coi sóc, và coi đó như là một ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa đã ban cho giáo xứ của mình. Bởi vì như thánh Phao-lô tông đồ đã nói: “Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người”( 1 Cr 12, 4-6), cho nên cha sở càng hiểu rất rõ rằng, việc phục vụ của các nữ tu trong giáo xứ cũng là một sứ mệnh quan trọng và cao cả như sứ mệnh của chính mình vậy, tức là rao giảng Lời Chúa cho mọi người bằng việc thực hành các công việc trong giáo xứ như giặt khăn thánh, tập hát, dạy giáo lý, hướng dẫn các hội đoàn.v.v...và các ngài càng tâm đắc hơn nữa khi suy tư đến lời dạy của Chúa Giê-su: “Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được phần thưởng dành cho bậc công chính” (Mt 10, 41), mà các tu sĩ nam nữ đang phục vụ trong giáo xứ của các ngài không phải là ngôn sứ của Tân Ước, không phải là người công chính sao ? Chắc chắn các nữ tu đang phục vụ tại giáo xứ là những ngôn sứ sống động trong việc rao giảng Lời Chúa cho tha nhân, bởi vì chỉ có những ngôn sứ chất chứa Lời Chúa trong lòng mới hăng say phục vụ, và chỉ có những nữ tu mới phục vụ tha nhân cách vô vị lợi mà thôi mà thôi.
Các đức tính nhân bản thì có nhiều, nhưng nơi các nữ tu đang giúp xứ có hai đức tính trổi vượt mà chúng ta –cha sở cũng như giáo dân- phải trân trọng và coi đó món qùa mà Thiên Chúa gởi đến cho giáo xứ mình, đó là:
- Phục vụ vô vị lợi.
- Tính nhẫn nại.
(còn tiếp)
(1) Sắc lệnh về “Chức vụ và đời sống các linh mục”, chương 1, 2.
(2)Công đồng Vat. II. “Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội”, chương 48.