TIN VUI
Web site ww.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com
MỤC LỤC
TÒA THÁNH VÀ VIỆC NUÔI BỆNH NHÂN TRONG ”TÌNH TRẠNG THỰC VẬT”
Vài chi tiết chung quanh việc Mở Án Phong Chân Phước Cho Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
Lễ Giỗ lần thứ 5 của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận tại Nha Trang
Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ Nha Trang khai mạc Năm Thánh Kim khánh thành lập dòng
Hội Têrêxa Hài Đồng Giêsu đến với bà con vùng lũ lụt
ĐHY Nguyễn Văn Thuận với Linh đạo Hy Vọng, Công lý và Hòa Bình
10 Điều Tâm Niệm của Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận
TĨNH TÂM HIỆN TẠI – NHÌN LẠI QUÁ KHỨ VÀ HƯỚNG ĐẾN TƯƠNG LAI
Con nuôi: yêu thương chăm sóc không thôi chưa đủ !
Tương quan giữa cha sở với các nữ tu, ban hành giáo và các đoàn thể trong giáo xứ (tiếp theo và hết)
SỐNG LỜI CHÚA
Lc 16, 10-13 {hoặc 1-13}
"Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: {"Một người phú hộ kia có một người quản lý, và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: 'Tôi nghe nói anh sao đó? Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay, anh không thể làm quản lý nữa'. Người quản lý nghĩ thầm rằng: 'Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào, để khi mất chức quản lý, thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ'.
"Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: 'Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm thùng dầu'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại: năm mươi'. Rồi anh hỏi người khác rằng: 'Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm giạ lúa miến'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi'. Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng.
"Phần Thầy, Thầy bảo các con: Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.}
"Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con?
"Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được". Đó là lời Chúa.
Bất kỳ ở thời nào, sự thật thà và trung tín là những đức tính cần thiết, là nguyên tắc sống trong việc đối nhân xử thế. Đọc đoạn Tin Mừng “quản lý bất trung, gian lận”, chúng ta nghĩ rằng Đức Kitô phải kết án người quản lý gian lận này; nhưng lạ thay, Ngài còn khen ngợi ông là người khôn ngoan, biết tính toán để bảo đảm cuộc sống tương lại. Thật khó hiểu!
Tại sao Đức Kitô lại khen người quản lý bất trung và khôn ngoan ?
Đọc kỹ đoạn Tin Mừng, chúng ta nhận thấy tất cả câu chuyện đều quy chiếu về cách thức quản trị của cải tiền bạc. .
Trước hết, phải nhận ra rằng Đức Kitô không đồng tình với sự gian lận của người quản lý: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16, 8). Nhưng Ngài lại khen sự khôn ngoan khéo léo trong cách biết xử dụng tiền bạc của cải trong đời sống.
Lý do anh ta được khen ngợi là “biết dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè’. Đây là quan niệm sáng suốt về việc sử dụng của cải tiền bạc, một phương tiện để tạo tình thân thiện, để chia sẻ với anh em đồng loại, giúp họ thoát khỏi cảnh đói khổ, vì chúng đem lại biết bao nhiêu hậu quả về thể xác cũng như tinh thần, chứ không là mục đích của đời người. Tiền bạc tự nó không phải là xấu, nó chỉ xấu khi trở thành mục đích đời sống, trở thành thần tượng, chủ nhân ông, nắm quyền sai khiến con người. Lúc đó con người trở nên tham lam, gian lận, bất công, vô nhân với đồng loại của mình : “ Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, quả cân nặng thêm, ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc để mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ” ( x Am 8, 4-7).
Theo quan niệm Kitô giáo, chúng ta không là chủ nhân tiền bạc của cải, nhưng chỉ là người quản lý thôi. Với nhiệm vụ quản lý này, chúng ta phải biết hành động khôn ngoan; chia sẻ với những anh em nghèo khổ đói khát, và chia sẻ theo ý chủ nhân là Thiên Chúa, chứ không phải hành động theo tư tưởng hẹp hòi, ích kỷ của con người. Công dồng Vatican II khẳng định : “Của cải trần gian phải được phân phối công bình cho mọi người” (Hiến chế mục vụ, số 69).
Từ câu chuyện sử dụng tiền bạc của cải, Đức Kitô dạy chúng ta :
- Việc quản lý tiền của chỉ là vấn đề nhỏ mà chúng ta không biết khôn ngoan, khéo léo để thi hành cho đúng, thì làm sao chúng ta được tin tưởng giao phó thi hành những việc quan trọng, lớn lao hơn trong việc rao giảng Nước Trời.
- Mỗi người chúng ta được mời gọi tự vấn lương tâm về việc sử dụng tiền bạc của cải xem có sống đúng theo tinh thần Phúc âm không ? Của cải không chỉ là tiền bạc, nhưng còn là tài năng, sức khoẻ, thời gian…chúng ta phải quản lý thế nào để được gọi là người biết sử dụng khôn ngoan những tài năng Thiên Chúa đã ban cho.
Đoạn kết bài dụ ngôn, Đức Kitô khẳng định rằng : “Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền của được”. Trong cuộc sống, chúng ta thường làm tôi hai chủ: Thiên Chúa ở nhà thờ và Thần tiền, của cải, lợi lộc trong cuộc sống hằng ngày. Đức Kitô đòi hỏi chúng ta một sự lựa chọn dứt khoát : Thiên Chúa làm chủ hay Tiền của làm chủ đời sống chúng ta, vì : “không ai có thể làm tôi hai chủ”.
Đây là sự lựa chọn cấp bách, lựa chọn tức thời trong cuộc sống hằng ngày. Sự lựa chọn này có quyền định đoạt đời sống vĩnh cứu cho mỗi người trong chúng ta. Chúng ta chọn Chủ nào ? Thiên Chúa hay Tiền của ? Thật là một cơ may cho chúng ta : đầy tớ lại có quyền chọn chủ, một chuyện lạ lùng hiếm thấy
Nt. Nguyễn Thị Bạch Tuyết
Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm
CON ĐƯỜNG TU ĐỨC
"Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều được vượt qua Biển Đỏ. Tất cả đều được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Maisen. Tất cả cùng ăn một thức ăn thiêng liêng, tất cả cùng uống một thức uống thiêng liêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô.
"Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc...
"Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã" (1 Cr 10,1-5.12).
Những lời trên đây của thánh Phaolô gợi ý cho tôi thấy: Cuộc đời là một hành trình. Vì thế, giáo dục đi theo con người cũng là một hành trình.
Thánh Phaolô chỉ cho thấy một điều rất quan trọng, đó là: Mọi người đều có thể nhận được một nền giáo dục chung như nhau. Thế nhưng, phần đông đã sống mất lòng Chúa, họ đã quỵ ngã, họ đã dừng lại giữa đường, họ đã không được vào cõi phúc.
Do đó, thánh Phaolô cảnh báo: Lúc này, ai tưởng mình đứng vững, thì đừng dám chắc mình sẽ đi tới cùng. Cảnh báo của thánh Phaolô thực là đáng sợ.
Cảnh báo này sẽ hướng dẫn hành trình suy tư của tôi trong bài này. Tôi xin phép nói về kinh nghiệm đời tôi như một chia sẻ.
I. Nền giáo dục chung cho mọi Kitô-hữu
Ngay từ chặng đầu tiên của cuộc đời, tôi đã nhận được nền giáo dục Kitô-hữu.
Nền giáo dục này được rút ra từ những sách giáo lý truyền thống. Nội dung được chia thành 4 phần:
1/ Tin: tức là những gì phải tin.
2/ Xin: tức là những gì phải xin.
3/ Chịu: tức là những gì phải chịu.
4/ Giữ: tức là những gì phải giữ.
Tôi tin theo kinh Tinh Kính. Tôi xin theo kinh Lạy Cha. Tôi chịu theo bảy phép bí tích. Tôi giữ theo Mười Điều răn Chúa và Sáu Điều răn Hội Thánh.
Lớn lên, tôi được dẫn vào chiều sâu giáo dục Kitô-hữu, qua việc học hỏi Phúc Âm.
Tiếp theo là những lớp thần học: Thần học tín lý, thần học luân lý. Hạnh các thánh cũng là một yếu tố quan trọng của việc giáo dục Kitô-hữu.
Những sách dạy, những lớp đào tạo đều chung cho mọi người.
Thêm vào những yếu tố chung đó còn có những cái chung khác trong giáo dục Kitô-hữu đã tác động đến tôi, đó là bầu khí tôn giáo của Hội Thánh nói chung và Hội Thánh Việt Nam nói riêng theo từng giai đoạn lịch sử.
Nền giáo dục chung ấy có làm cho mọi Kitô-hữu Việt Nam trở thành những Kitô-hữu giống nhau không? Kinh nghiệm trả lời là "không".
Nền giáo dục chung ấy có làm cho mọi Kitô-hữu Việt Nam được rỗi linh hồn cả không? Cảnh báo của thánh Phaolô không cho phép ta trả lời "có" hay "không" một cách dễ dàng.
Lý do là vì, mặc dù được hưởng một nền giáo dục chung, mỗi người vẫn có những yếu tố riêng.
II. Một số những yếu tố riêng của mỗi người trong hành trình giáo dục
1/ Cách tiếp thu
Giáo dục Kitô-hữu có thể ví như việc gieo giống vào tâm hồn con người. Giống thì như nhau, tất cả đều tốt. Nhưng có thể người này tiếp nhận cách này, người khác có thể tiếp nhận cách khác, tuỳ lòng mỗi người.
Dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã đưa ra xưa giúp ta dễ hiểu: "Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên sỏi đá, chỗ đất không có nhiều, nó mọc ngay, vì đất không sâu. Nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chúc, hạt được ba chục" (Mt 13,3-9).
Rồi chính Chúa Giêsu cắt nghĩa về lòng người. Lòng người có những khác biệt. Khác biệt về tính tình, về khát vọng, về thói quen, nên mỗi người sẽ tiếp thu nền giáo dục Kitô-hữu với những cách khác nhau. Khác nhau đến mức dẫn đưa đến những hậu quả tốt xấu rõ ràng. Thưởng phạt sẽ tuỳ theo đó.
2/ Cách sử dụng
Nền giáo dục Kitô-hữu cũng ví như một kho báu. Có thể là mọi người đều được một số nén bạc như nhau. Cũng có thể là mỗi người được Chúa tặng một số nén bạc khác nhau tuỳ khả năng. Nhưng với điều kiện là ai cũng phải dùng số vốn đó để sinh ra lời lãi.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn ông chủ giao phó tài sản của mình cho các đầy tớ. Sau một thời gian, ông đòi các đầy tớ tính sổ. Lúc đó mới thấy: Có người biết sử dụng tốt, có người sử dụng xấu. Thưởng phạt sẽ tuỳ theo đó (x. Mt 25,14-30).
3/ Cách phấn đấu với những nghịch cảnh
Trong hành trình cuộc sống, người Kitô-hữu không mãi được yên ổn. Cho dù nền giáo dục Kitô-hữu vẫn đồng hành với họ, nhưng mỗi người trong họ phải tự mình đối phó với những nghịch cảnh xảy tới.
Các nghịch cảnh của Kitô-hữu được thánh Gioan tông đồ kể ra khá nhiều. Có thể xếp chúng thành 4 nhóm:
- Nhóm những quỷ Satan,
- Nhóm những phòng trào xấu của thế tục,
- Nhóm những kẻ chống đối người tốt chỉ vì ghen tương và hẹp hòi,
- Nhóm những người đạo đức hình thức. Họ bị khiển trách, nên tức mình muốn phản công lại.
Bốn nhóm này tấn công người Kitô-hữu một cách ác liệt. Người bị nhiều, người bị ít. Sức mạnh lúc như vũ bảo, lúc tế nhị như làn gió nhẹ. Kết quả là có người chiến thắng, có người thất bại nhất thời, có người thất bại vĩnh viễn.
4/ Cách đối phó với những thử thách
Hành trình cuộc sống không tránh được những thử thách. Có thử thách đoán trước được. Có thử thách rất bất ngờ.
Tuổi già, sức yếu, là những thử thách tuy đoán trước được, nhưng chỉ khi xảy tới và ở lại trong tôi, tôi mới thấy đó là một thứ đêm dài giữa những ban ngày mau qua.
Những chứng bệnh thể xác và tâm hồn, khi muốn chọn tôi làm quê hương, sẽ biến tôi thành bãi chiến trường giữa hy vọng và thất vọng.
Những cảnh đời thê thảm, cứ mãi xảy ra hằng ngày xung quanh tôi, sẽ dễ ngấm vào tâm trạng tôi, khiến tôi bồn chồn, nặng nề, chìm lặng trong cõi cô đơn đau đớn.
Thử thách nặng nề nhất là cảnh tối tăm của sự loại trừ, ruồng bỏ. Cảnh đó diễn lại cảnh Chúa Giêsu trong những giờ phút cuối đời: Bị xa lánh, bị kết án, bị chối từ, cả đến Chúa Cha xem ra cũng bỏ rơi. "Lạy Thiên Chúa của con, sao Cha bỏ con" (Mc 15,24). Có rơi vào thử thách này, mới thấy mình rơi xuống đáy vực thẳm hãi hùng.
Những vụng về, những yếu đuối, những lỗi lầm của tôi cũng là những thử thách, gợi lên trong tôi những câu hỏi không trả lời được về ý nghĩa cuộc đời.
Còn bao nhiêu thứ thử thách nữa tôi phải đối phó.
Hầu hết mọi thử thách đều rất riêng tư. Cách đối phó cũng riêng tư. Nền giáo dục Kitô-hữu vẫn soi sáng, nhưng không chia sẻ được nỗi đau riêng tư của người Kitô-hữu bị thử thách.
Tới đây, chúng ta có thể thấy khá rõ: Cuộc đời mỗi người là một hành trình. Nền giáo dục Kitô-hữu cũng là một hành trình. Hành trình của mỗi người có những yếu tố chung và có những yếu tố riêng. Nền giáo dục Kitô-hữu rất phong phú, nhưng không chịu trách nhiệm về số phận của từng người. Mỗi người có trách nhiệm về những lựa chọn của mình.
Chính vì thế, mới có cảnh báo đáng sợ của thánh Phaolô: Một số người không đẹp lòng Chúa và không tới đích, một số người được đẹp lòng Chúa và tới đích.
Bí quyết nào để hành trình của ta được tới đích?
III. Bí quyết tiềm ẩn trong nền giáo dục Kitô-hữu
Câu trả lời vắn gọn của tôi là: Trong mọi sự, kể cả trong phấn đấu, tôi phải rất khiêm nhường, rất khó nghèo, và hoàn toàn phó tác nơi tình yêu thương xót Chúa.
Rất khiêm nhường là chúng ta nhìn nhận tất cả những gì tốt trong ta, đều là quà tặng nhưng không của Chúa. Ta chẳng là gì, ta chẳng có gì, ta không đáng gì. Hơn nữa, ta là kẻ tội lỗi, cần sám hối, cần gắn bó với Chúa.
Rất khó nghèo là: Chúng ta tuyệt đối chọn Chúa, chứ không chọn gì khác, kể cả những công việc coi như làm sáng danh Chúa. Ta hết sức phấn đấu phục vụ, nhưng ta sẵn sàng dứt bỏ mọi sự, không để mình bị ràng buộc vào bất cứ việc gì, sự gì. Lòng ta hoàn toàn khó nghèo, nhận mình chỉ là đầy tớ vô ích.
Hoàn toàn phó thác nơi Chúa giàu lòng thương xót là: Ta tin tình yêu xót thương của Chúa vượt xa hẳn mọi tội lỗi của ta. Với sám hối, ta tin vào Chúa là Đấng hay xót thương.
Một tấm lòng cực kỳ nghèo khó, hết mực khiêm tốn, trọn vẹn mở ra gởi mình nơi Chúa tình yêu. Đối với tôi, đó là bí quyết tôi tìm được trong nền giáo dục Kitô-hữu.
Bí quyết này mỗi ngày mỗi biến đổi tôi, nhất là khi tôi tham dự thánh lễ. Nơi đây, tôi được gặp Đức Kitô, được tập trung vào Người.
Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà tôi được ơn tha thứ, được ơn biết yêu thương và sống theo thánh ý Chúa, được ơn biết phấn đấu trong tinh thần khiêm nhường, khó nghèo và phó thác.
Từ Người, tôi được trở nên của lễ sống động, để thường xuyên ca tụng Chúa và cầu nguyện cho mọi người.
Khi con người được Chúa biến đổi thành của lễ, thì tinh thần "của lễ" sẽ đồng hành suốt hành trình cuộc đời chúng ta. Tinh thần ấy cũng sẽ đồng hành với hành trình giáo dục, một giáo dục được mang tên là "Kitô-hữu".
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin giúp con luôn thuộc về Chúa, luôn cùng với Chúa đi về Nhà Cha, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, và hiệp thông với Hội Thánh Chúa, một cách khiêm nhường, khó nghèo và phó thác không hề lay chuyển.
ĐGM. GB. Bùi Tuần
HIỆP THÔNG GIÁO HỘI
VATICAN. Hôm 14-9-2007, Bộ Giáo lý Đức tin đã công bố một văn kiện ngắn dưới dạng hỏi thưa, xác định nghĩa vụ phải tiếp tục cung cấp nước và lương thực cho bệnh nhân ở trong tình trạng thực vật trường kỳ (Vegetative state).
Câu hỏi thứ I: phải chăng việc cung cấp nước và
lương thực, qua đường tự nhiên hoặc nhân tạo, cho bệnh nhân ở trong tình trạng
thực vật là điều bó buộc về luân lý, trừ khi lương thực ấy không thể được cơ thể
bệnh nhân hấp thụ hoặc chúng không thể được cung cấp cho bệnh nhân ấy mà không
tạo nên một sự thiếu thốn trầm trọng về thể lý?
Trả lời: "Đó là điều bó buộc. Việc cung cấp lương
thực và nước, dù là qua con đường nhân tạo, theo luật chung, là phương thế bình
thường và tương ứng để duy trì sự sống. Vì thế, nó là điều bắt buộc theo mức độ
và cho đến lúc nó chứng tỏ đã đạt được mục tiêu của nó là cung cấp nước và nuôi
sống bệnh nhân. Như thế, người ta tránh sự đau khổ và cái chết cho bệnh nhân vì
kiệt sức và thiếu nước.
Câu hỏi thứ 2: Có thể ngưng cung cấp nước và
lương thực qua đường nhân tạo cho một bệnh nhân ở trong tình trạng thực vật
trường kỳ, khi các bác sĩ có thẩm quyền phán đoán với sự chắc chắn luân lý rằng
bệnh nhân sẽ không bao giờ hồi tỉnh lại hay không?
Trả lời: Không được làm như vậy. Một bệnh nhân ở
trong tình trạng ”thực vật” trường kỳ là một con người, với nhân phẩm cơ bản, vì
thế phải cung cấp cho họ sự săn sóc bình thường và tương ứng, nói chung, sự săn
sóc này bao gồm việc cung cấp nước và lương thực, kể cả bằng con đường nhân tạo”.
Văn kiện của Bộ giáo lý đức tin cho biết hai câu trả lời
trên đây đã được ĐTC Biển Đức 16 phê chuẩn và truyền công bố.
Văn kiện mang chữ ký ngày 1-8-2007 của ĐHY Tổng trưởng
William Levada và vị Tổng thư ký là Đức TGM Angelo Amato, dòng Don Bosco.
Kèm theo bản trả lời 2 câu hỏi trên đây là một bài giải
thích dài của Bộ giáo lý đức tin nói về nguồn ngọn của Văn kiện là để trả lời
những câu hỏi do HĐGM Hoa Kỳ nêu lên, trong thư đề ngày 11-7 năm 2005 với chữ ký
của Đức Cha Chủ tịch William Skylstad. Đối tượng của hai câu hỏi là: phải chăng
việc cung cấp nước và lương thực cho các bệnh nhân ấy, nhất là việc cung cấp qua
đường nhân tạo, là một gánh nặng quá lớn đối với họ, đối với thân nhân hoặc cho
hệ thống y tế, đến độ, dưới ánh sáng của luân lý Công Giáo, chúng có thể coi là
một phương thế ngoại thường hoặc không tương ứng, vì thế chúng không phải là
điều bó buộc về luân lý.
Hai câu trả lời của Bộ giáo lý đức tin mạnh mẽ tái khẳng
định lập trường do ĐGH Gioan Phaolô 2 đưa ra trong diễn văn ngày 20-3-2004, dành
cho các tham dự viên một Hội nghị quốc tế về ”Những biện pháp nâng đỡ sự sống và
tình trạng thực vật. Những tiến bộ khoa học và tình trạng tiến thoái lưỡng nan
về luân lý”.
Trong phần giải thích, Bộ giáo lý đức tin nhấn mạnh rằng
dù trong tình trạng bị bệnh nặng, bị hôn mê, ở trong tình trạng 'thực vật', bệnh
nhân vẫn là con người, với phẩm giá cần phải được tôn trọng. ”Một người, cho dù
bị bệnh nặng hoặc bị cản trở không thể thi hành các chức năng cao nhất, thì vẫn
và sẽ luôn là một con người, không bao giờ trở thành thực vật hay là một con vật”.
Bộ giáo lý đức tin nói đến một số trường hợp ngoại trừ
hãn hữu như: tại một vài miền rất hẻo lánh và nghèo cùng cực, việc cung cấp nước
và lương thực một cách nhân tạo cho bệnh nhân như thế là điều không thể thực
hiện được, và khi một điều không thể, thì không ai bị bó buộc phải thi hành. Và
cũng có trường hợp bệnh nhân không thể hấp thụ lương thực và nước, và vì thế có
cung cấp những thứ ấy cho họ thì cũng vô ích. Ngoài ra người ta không loại trừ
trường hợp việc cung cấp nước và lương thực cho bệnh nhân ở trong tình trạng
thực vật như thế là một gánh nặng thái quá hoặc một sự bất tiện quan trọng, ví
dụ do những phức tạp trong việc sử dụng các dụng cụ trợ giúp. (SD 14-9-2007)
Radio Vatican
Anh Chị Em thân mến,
“Since dominico non possumus!” Chúng tôi không thể sống nếu không có tặng ân này của Chúa, không có ngày của Chúa: Đó là câu trả lời vào năm 304 được Kitô hữu ở Abitene là Tunisia ngày nay, khi họ bị bắt đang cử hành Thánh Lễ Chúa Nhật bị cấm đoán và bị mang ra trước quan tòa. Họ bị tra hỏi tại sao họ đã cử hành Thánh Thể Chúa Nhật Kitô Giáo, cho dù họ biết rằng đó là một trọng phạm. “Sine dominico non possumus”: nơi chữ dominicum/dominico có hai ý nghĩa quyện chặt lấy nhau, và chúng ta một lần nữa cần phải biết được mối hiệp nhất của chúng. Trước hết, là tặng ân của Chúa – tặng ân là là chính Chúa: Đấng Phục Sinh, Đấng Kitô hữu cần được gần gũi và có thể đến gần để họ sống đúng căn tính của họ. Tuy nhiên, khả năng có thể đến gần này không phải chỉ là một cái gì đó linh thiêng, nội tại và chủ quan: cuộc gặp gỡ với vị Chúa này được ghi khắc trong thời gian vào một ngày đặc biệt. Bởi thế nó được ghi khắc nơi cuộc sống hằng ngày, về thể lý và chung nhau của chúng ta, một cách tạm thời. Nó cống hiến cho thời đại của chúng ta một trọng tâm, một trật tự nội tại mà từ đó cho tất cả đời sống của chúng ta nữa. Đối với những Kitô hữu này thì Thánh Thể Chúa Nhật không phải là một giới răn mà là một nhu cầu nội tâm. Không có Ngài là Đấng bảo trì đời sống của chúng ta thì chính sự sống trở thành trống rỗng. Làm việc mà thiếu mất hay phản lại cái trọng tâm ấy sẽ làm cho đời sống hụt hẫng chính cái nền tảng của nó, sẽ lấy đi mất cái phẩm giá và vẻ đẹp nội tại của nó.
Phải chăng thái độ của thành phần Kitô hữu thời ấy cũng áp dụng cho cả chúng ta là thành phần Kitô hữu ngày nay nữa? Phải, đúng thế, chúng ta cũng cần một thứ liên hệ để nâng đỡ duy trì chúng ta, cống hiến cho chúng ta hướng đi và chất liệu cho đời sống của chúng ta. Cả chúng ta nữa cũng cần đường lối đến với Đấng Phục Sinh, Đấng bảo trì chúng ta vượt qua và vượt trên sự chết. Chúng ta cần cuộc gặp gỡ mang chúng ta lại với nhau ấy, một cuộc gặp gỡ cống hiến cho chúng ta khổng trống tự do, một cuộc gặp gỡ cho chúng ta thấy được những gì vượt ra ngoài cái hối hả ồn ào của cuộc sống hằng ngày trước tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa là khởi điểm và là đích điểm cho cuộc hành trình của chúng ta.
Dĩ nhiên, nếu chúng ta lắng nghe Phúc Âm hôm nay, nếu chúng ta lắng nghe những gì Chúa Kitô đang nói với chúng ta, nó sẽ khiến chúng ta cảm thấy run sợ: “Ai trong các con không từ bỏ tất cả những gì mình có và tất cả mọi liên hệ với gia đình của mình thì không thể làm môn đệ của Thày”. Chúng ta sẽ phản kháng lại rằng: Chúa ơi, Chúa đang nói gì vậy? Gia đình không phải là những gì thế giới cần đến hay sao? Phải chăng không cần đến tình yêu cha mẹ, tình yêu giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng với nhau hay sao? Chẳng lẽ chúng con không cần đến sự sống, đến niềm vui của sự sống hay sao?Và chẳng lẽ chúng con cũng không cần con người ta đầu tư vào những sự tốt lành của thế giới này và xây dựng trái đất chúng con đã lãnh nhận, nhờ đó hết mọi người có thể tham dự vào các tặng ân của nó hay sao? Không phải là việc phát triển của trái đất này cùng với những sản vật của nó là một trách nhiệm nữa chúng con phải gánh chịu hay sao? Nếu chúng ta lắng nghe Chúa Kitô kỹ vàng hơn, nhất là nếu chúng ta lắng nghe Người trong bối cảnh của hết mọi sự Người đang nói với chúng ta, bấy giờ chúng ta mới hiểu rằng Chúa Giêsu không đòi hỏi hết mọi người như nhau. Mỗi người có một công việc đặc biệt, mỗi người được chỉ định một đường lối riêng của vai trò làm môn đệ. Trong Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đang trực tiếp nói về ơn gọi đặc biệt của 12 Vị, một ơn gọi không giống với nhiều người đi theo Chúa Giêsu trong cuộc hành trình lên Giêrusalem. Trước hết nhóm 12 Vị cần phải chế ngự cái ô nhục của Thập Giá, sau đó họ cần phải thực sự sẵn sàng từ bỏ hết mọi sự; họ phải sẵn sàng chấp nhận một công việc dường như ngu xuẩn để ra đi tới tận cùng trái đất, và với nền giáo dục tối thiểu của mình, loan báo Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô cho một thế giới đầy những tự hào về cái uyên bác của nó và có học thức thực sự hay rõ ràng - và dĩ nhiên là cho cả thành phần nghèo khổ và đơn hèn nữa. Họ cần phải sẵn sàng chịu tử đạo trong cuộc hành trình của họ đi vào cái thế giới mênh mông này, để làm chứng cho Phúc Âm của Vị Chúa Tử Giá và Phục Sinh. Nếu những lời của Chúa Giêsu trên đường lên Giêrusalem, một cuộc hành trình có nhiều người đi theo hộ tống Người, ngỏ cùng 12 Vị trước tiên, thì ơn gọi của họ dĩ nhiên vượt ra ngoài giây phút lịch sử mà đi vào tất cả mọi thế kỷ mai hậu. Người kêu gọi dân chúng thuộc tất cả mọi thời đại để tin tưởng tuyệt đối vào Người, từ bỏ hết mọi sự, để có thể hoàn toàn dấn thân cho Người, nhờ đó cũng hoàn toàn dấn thân cho những người khác, ở chỗ tạo nên những ốc đảo của một thứ tình yêu vô vị kỷ trong một thế giới là nơi thường chỉ coi quyền lực và sang giầu là tất cả mọi sự. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì đã ban cho chúng ta những con người nam nữ ở mọi thế kỷ, thành phần từ bỏ tất cả mọi sự vì Người, nhờ đó trở thành những dấu hiệu rạng ngời cho tình yêu của Người. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến những con người như Biển Đức và Scholastica, Phanxicô và Clara Assisi, Elizabeth Hung Gia Lợi và Hedwig ở Silesia, I gnatio ở Loyola, Teresa ở Avila , và trong thời đại của chúng ta đây có Mẹ Têrêsa và Cha Piô. Bằng cả cuộc đời của mình, những con người ấy đã trở thành một thông dịch viên sống động cho giáo huấn của Chúa Giêsu, một giáo huấn qua đời sống của họ đã trở nên gần gũi và tỏ tường với chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho con người trong thời đại chúng ta đây lòng can đảm biết từ bỏ hết mọi sự để trở nên thuận lợi cho hết mọi người.
Tuy nhiên , nếu giờ đây chúng ta trở lại với bài Phúc Âm một lần nữa, chúng ta nhận thấy rằng Chúa không chỉ nói về một số ít cá nhân và công việc đặc biệt của họ; yếu tính của những gì Người nói áp dụng cho hết mọi người. Trọng tâm của vấn đề được Người bày tỏ ở một chỗ khác qua những lời: “Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó; còn ai mất sự sống mình vì Thày họ sẽ giữ được nó. Vì có lợi lộc gì cho con người nếu họ chiếm được cả và thế gian mà lại đánh mất chính bản thân mình?” (Lk 9:24f). Ai muốn giữ sự sống mình chỉ để cho mình thì sẽ mất nó. Chỉ khi nào hiến thân mình đi chúng ta mới nhận được sự sống của mình. Nói cách khác, chỉ có kẻ nào yêu thương mới khám phá thấy sự sống. Và tình yêu bao giờ cũng đòi phải vươn ra ngoài bản thân mình, nó bao giờ cũng đòi phải lìa bỏ bản thân mình. Ai chỉ nhìn bản thân mình, ai muốn người khác cho mình mà thôi, thì sẽ mất cả bản thân lẫn người khác. Không thật sự đánh mất đi bản thân mình ấy sẽ không có sự sống. Cái khôn nguôi thèm khát sự sống, quá ư là lan tràn trong dân chúng ngày nay, dẫn tới chỗ cằn cỗi của một sự sống bị thua thiệt. “Ai mất sự sống mình vì Thày…”, Chúa Kitô phán: một cuộc thực sự ra khỏi bản thân mình chỉ khả dĩ nếu trong tiến trình này chúng ta tiến tới chỗ, không bị rơi vào trống không mà vào bàn tay của Tình Yêu hằng hữu. Chỉ có tình yêu của Thiên Chúa, Đấng mất bản thân mình vì chúng ta và ban mình cho chúng ta, mới làm cho chúng ta cũng có thể trở thành tự do, có thể ra đi và nhờ đó thực sự tìm thấy sự sống.
Đó là tâm điểm của những gì Chúa Kitô muốn nói với chúng ta bằng những lời lẽ dường như khó nghe trong bài Phúc Âm Chúa Nhật này. Bằng giáo huấn của mình, Người cống hiến cho chúng ta niềm tin tưởng rằng chúng ta có thể xây dựng trên tình yêu của Người, tình yêu của Vị Thiên Chúa nhập thể. Nhìn nhận điều này là cái khôn ngoan của điều bài đọc hôm nay nói với chúng ta. Một lần nữa, chúng ta thấy rằng tất cả kiến thức của thế gian chẳng lợi lộc gì cho chúng ta trừ phi chúng ta biết sống, trừ phi chúng ta nhận ra những gì thực sự quan trọng trong đời sống.
“Sine dominico non possumus!” Đời sống không phát triển nếu không có Chúa và không có ngày thuộc về Người. Chúa Nhật đã từng được biến đổi trong các xã hội Tây phương của chúng ta thành một thứ cuối tuần, thành thời gian giải trí tiêu khiển. Thời gian giải trí tiêu khiển là điều tốt và cần, nhất là giữa cái vội vã kinh khủng của thế giới tân tiến này; mỗi một người trong chúng ta đều biết điều ấy. Tuy nhiên, nếu thời gian tiêu khiển giải trí này thiếu tính cách tập trung nội tại, thiếu một cảm quan chung chung về đường hướng, thì cuối cùng nó trở thành thời gian bị phí phạm không củng cố cũng chẳng xây dựng chúng ta. Thời gian giải trí tiêu khiển đòi hỏi một thứ tập trung – một cuộc hôi ngộ với Đấng là nguồn gốc và đích điểm của chúng ta. Vị đại tiền nhiệm của tôi ở tòa giám mục Munich và Freising, Đức Hồng Y Faulhaber , có lần đã nói như thế này: Hãy cống hiến cho linh hồn ngày Chúa Nhật của nó, và hãy cống hiến cho ngày Chúa Nhật linh hồn của nó.
Vì Chúa Nhật tối hậu là việc hội ngộ Chúa Kitô Phục Sinh nơi lời Chúa và một cách bí tích mà phạm vi của cuộc hội ngộ này trải dọc suốt toàn thể thực tại. Các Kitô hữu sơ khai đã cử hành ngàu đầu tiên trong tuần này như là ngày của Chúa, vì nó là ngày của sự phục sinh. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, Giáo Hội cũng tiến tới chỗ ý thức được rằng ngày đầu tiên trong tuần là ngày bình minh của việc tạo thành, ngày được Thiên Chúa phán: “Hãy có ánh sáng” (Gen 1:3). Bởi thế, Chúa Nhật cũng là ngày lễ tạo sinh hằng tuần của Giáo Hội nữa – ngày lễ tạ ơn và hân hoan về việc tạo thành của Thiên Chúa. Ở vào lúc khi mà thiên nhiên tạo vật đang bị đe dọa bằng rất nhiều cách thức qua hoạt động của con người, chúng ta cần phải phát động một cách ý thức về khía cạnh này của Chúa Nhật nữa. Bởi thế, đối với Giáo Hội sơ khai, ngày thứ nhất càng ngày càng được đồng hóa với ý nghĩa truyền thống của ngày thứ bảy, Ngày Hưu Lễ. Chúng ta tham dự vào việc nghỉ ngơi của Thiên Chúa, một sự nghỉ ngơi bào gồm toàn thể nhân loại. Như thế, chúng ta cảm nhận về ngày nay một cái gì đó tự do và bình đẳng nơi tất cả mọi tạo vật của Thiên Chúa.
Trong Lời Nguyện Nhập Lễ của Chúa Nhật tuần này, chúng ta trước hết nhớ rằng qua Người Con của mình, Thiên Chúa đã cứu chuộc chúng ta và đã làm cho chúng ta thành con cái yêu dấu của Ngài. Thế rồi chúng ta xin Ngài hãy âu yếm nhìn xuống trên tất cả những ai tin tưởng vào Chúa Kitô để ban cho chúng ta tự do đích thực và sự sống vĩnh hằng. Chúng ta xin Thiên Chúa hãy thương đoái nhìn xuống. Chính chúng ta cần đến cái nhìn đoán thương này chẳng những vào Chúa Nhật mà còn hơn thế nữa, vươn tới cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Như chúng ta xin, chúng ta biết rằng cái nhìn âu yếm ấy đã được ban cho chúng ta rồi. Ngoài ra, chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã thừa nhận chúng ta làm con cái của Ngài, Ngài đã thực sự đón nhận chúng ta vào hiệp thông với chính mình Ngài. Làm con của một người nghĩa là, như Giáo Hội sơ khai đã ý thức, trở thành một con người tự do, chứ không phải là một nô lệ, song là một phần tử trong gia đình. Nó còn có nghĩa là thành phần thừa hưởng nữa. Nếu chúng ta thuộc về Thiên Chúa, Đấng quyền năng trên hết mọi quyền năng, thì chúng ta không hãi sợ gì và được tự do. Để rồi chúng ta là những người thừa tự. Gia sản Ngài đã để lại cho chúng ta là chính bản thân Ngài, là tình yêu của Ngài. Vâng, lạy Chúa, chớ gì gia sản này được ăn sâu vào linh hồn của chúng con, để chúng ta ý thức được niềm vui được cứu chuộc. Amen.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
Roma (18/09/2007) - Trong những ngày này chúng ta tưởng nhớ Ðức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, nguyên Chủ Tịch Hội Ðồng Toà Thánh Công Lý và Hòa Bình, qua đời được 5 năm (2002-16/9-2007). Cũng trong dịp này, tin về việc mở án phong chân phước cho Ngài đã được chính thức loan báo.
1. Lễ giỗ Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận tại Nghĩa Ðịa Thành Phố Rôma
Vào lúc 16 giờ chiều ngày 15 tháng 9 năm 2007, tại Nghĩa địa Thành phố Rôma, Campo Verano, khu vực dành cho các Kinh sĩ Ðền Thờ Thánh Phêrô, nơi có phần mộ của Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê, Ðức Hồng Y Bernard Law, nguyên Tổng Giám Mục Boston (U.S.A.), và hiện điều hành sinh hoạt của Vương Cung Thánh Ðường Ðức Bà Cả tại Rôma, và là bạn của Ðức Cố Hồng Y Phanxicô, đã chủ sự thánh lễ giỗ lần thứ 5 của Ngài.
Hiện diện tham dự Thánh Lễ, có các linh mục Việt Nam tại Rôma, với hai người em gái của Ngài là Bà Tiên (từ Australia) và Bà Hồng (từ Canada), với thân nhân và bạn hữu của Ðức Cố Hồng y, cùng với Anh Chị em tu sĩ Việt Nam khác tại Rôma. Cũng có một phái đoàn người công giáo Việt Nam đến từ Hoa Kỳ, do Cha Châu hướng dẫn.
2. Lễ Giỗ Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận tại nhà thờ Santa Maria della Scala, Trastevere Roma
Chúa nhật 16 tháng 9 năm 2007, Thánh lễ tưởng niệm Ðức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê đã được cử hành lúc 11 giờ sáng ngày 16-9-2007, tại nhà thờ Santa Maria della Scala, nhà thờ hiệu tòa của Ðức Hồng Y Phanxicô. Thánh lễ do Ðức Hồng Y Renato Raffaele Martinô, người kế vị Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê, trong chức vụ Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, chủ sự. Cùng đồng tế có Ðức Cha Gianpaolo Crepaldi, Tổng thư ký Hội Ðồng này, với đông linh mục Việt Nam và ngoại quốc.
Tham dự thánh lễ này có Ðức Hồng Y Angelo Sodano, Niên trưởng Hồng Y đoàn, và Ðức Hồng Y Roger Etchagaray, vị tiền nhiệm của Ðức cố Hồng Y. Các nhân viên của Hội đồng Tòa Thánh.
Trong bài giảng, Ðức Hồng Y Renato Raffaele Martino đã giải thích các bài đọc sách thánh của Chúa nhật 24 Quanh năm C, đồng thời cũng đã nêu lên những điểm đặc biệt trong đời sống của Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê và là những điểm đã đánh động vị giảng thuyết hơn cả.
Vào cuối bài giảng, Ðức Hồng Y chủ tế đã chính thức loan báo Hội Ðồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình quyết định mở án phong thánh cho Tôi tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, nguyên chủ tịch của cơ quan này.
Sau Thánh Lễ Ðức Cha Crepaldi đã cám ơn Ðức Hồng Y Angelo Sodano và Roger Etchagaray, mọi người tới tham dự Thánh lễ để cảm tạ Thiên Chúa.
Ngài cũng xin mọi người cùng đọc kinh "Xin ơn" nhờ lời bầu cử của Tôi Tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ðây là lần đâu tiên kinh này được mọi người cùng đọc trong niềm vui về việc mở án phong chân phước cho Ðức Cố Hồng Y.
3. Buổi Gặp Gỡ ÐTC, ngày 17-9-2007 tại Castel Gandolfo
Sau cùng, vào lúc 12 giờ 30 ngày 17-9-2007, Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI đã dành cho Hội Ðồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình buổi tiếp kiến đặc biệt nhân ngày lễ giỗ thứ V của Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê. Cùng tham dự buổi tiếp kiến này cho các người đứng đầu hai tổ chức "Foundation Thánh Mattheô" để lo vụ phong thánh cũng như để thăng tiến xã hội tại Á Châu và Phi Châu, và "International Observer Francis-Xavier Nguyễn Văn Thuận" với mục đích phổ biến giáo huấn xã hội của Hội Thánh. Các thân nhân và bạn bè của Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê cũng được tham dự vào buổi triều yết này.
Trong buổi triều yết này, Ðức Thánh Cha đã đọc một bài diễn văn về Ðức Hông Y Phanxicô Xaviê, nhắc nhở tới gương anh hùng của Ngài. Ðức Thánh Cha cũng vui mừng được tin mở án phong thánh cho Ðức Cố Hồng y Phanxicô Xaviê. Trong dịp này Hội Ðồng Tòa Thánh cũng cho biết vị cáo thỉnh viên của vụ án phong thánh là Bà Silvia Monica Coreale.
4. Tiếp tục công việc lo phong thánh
Trong vụ án lo phong thánh cho Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê, Hội Ðồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình là người khởi xướng (Oratore). Vì theo luật phong thánh bất cứ ai, tín hữu hay một pháp nhân trong Giáo Hội, cũng có thể xin Tòa Thánh mở án phong thánh cho một tín hữu khác mà họ thấy là cuộc đời có sự thánh thuện (fama sanctitatis), sống đức tin đức cậy và đức mến một cách tận căn. Ðồng thời lại chiếu tỏa Phúc âm qua đời sống thường ngày một cách lạ lùng và bền bỉ. Vì thế tín hữu này đáng nên gương cho người khác, nhất là qua việc Giáo hội chính thức thừa nhận mẫu gương này qua việc tuyên phong lên bậc chân phước, rồi bậc hiển thánh.
Trở lại với vụ án phong thánh cho Ðức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê, Hội Ðồng Tòa Thánh Công Lý Hòa Bình đã xin Tòa Thánh mở án phong thánh, và sau khi được chấp thuận, đã bổ nhiệm Vị Cáo Thỉnh viên, đó là Bà Silvia Monica Coreale. Ngày 17-9-2007, trong buổi triều yết Ðức Hồng Y Martinô đã giới thiệu Vị cáo thỉnh viên này với Ðức Thánh Cha. Vị này phải biết về Giáo luật, thần học, tu đức, và phải theo một khóa về các tòa trong Giáo Hội và một khóa học về việc điều hành một vụ án phong thánh.
Văn phòng Cáo thỉnh viên được đặt tại trụ sở của Hội Ðồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình. Vậy từ nay mọi công việc sẽ do Vị cáo thỉnh viên này thu xếp. Xin đề địa chỉ như sau (như trong ảnh và Lời cầu xin ơn lành với Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê):
Postulazione della Causa di
beatificzione del Servo di Dio
Card. Francois Xavier Nguyễn Văn Thuận
Presso il Pontficio Consiglio della Giustizia e della Pace
Piazza San Calisto n. 16
00120 CITTA' DEL VATICANO.
Bây giờ Vị Cáo thỉnh viên sẽ liên lạc với Tòa Giám Quản của Giáo phận Rôma (Vicariato di Roma), để được chính thức mở án (apertura canonica) theo giáo luật tại Rôma (như thiết lập văn kiện mở án, đặt cử vị chánh án, Difensore della fede, vị lục sự...). Tại sao lại mở án tại Rôma, mà không ở chỗ khác? Vì theo luật phong thánh, tín hữu chết ở đâu thì mở án phong thánh ở đó, trừ khi được Bộ Phong thánh cho phép mở án ở chỗ khác.
Tại Tòa giám quản Rôma, đó là giai đoạn I thuộc cấp giáo phận, tiến hành công việc. Sau khi hoàn thành cấp giáo phận, thì vụ án sẽ được đưa lên Bộ Phong thánh. Ðó là cấp hai của vụ án. Vị cáo thỉnh viên sẽ xem xét tất cả những gì liên quan đến vị Tôi Tớ Chúa (sự thánh thiện, bút tích, hoạt động... và các chứng từ các nơi gửi đến, cũng như điều tra cặn kẽ các chứng từ và các phép lạ có được nhờ lời cầu cử của vị tôi tá Chúa (điều tra tại cấp giáo phận: nơi xẩy ra phép lạ).
Tất cả những việc này đòi rất nhiều thời giờ cũng như phương tiện vật chất, sự cộng tác của mọi người bằng lời cầu nguyện và các đóng góp khác. Phải cầu nguyện để tìm ra ý Chúa, vinh danh Hội Thánh và để vụ án được tiến hành tốt đẹp. Mọi người cộng tác qua các đóng góp khác về tài liệu xác thực, bằng việc sống gương của vị Tôi Tớ Chúa, bằng sự bình tĩnh để việc điều tra được tiến hành cách quân bình và khách quan; đóng góp bằng vật chất tiền bạc để lo chi phí cho văn phòng cáo thỉnh viên.
Do đó Hội Ðồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình đã cho mở một Fondation gọi là "Foundation San Matteo" trực thuộc Hội Ðồng Tòa thánh Công Lý và Hòa Bình để lo cho việc này và cũng để trợ giúp các nơi nghèo khó tại Á Châu và Phi Châu. Những ai muốn đóng góp xin gửi về quỹ trên, theo địa chỉ như trên, xin đề rõ như sau "per Foundation San Matteo".
Ngoài ra Hội Ðồng Tòa Thánh cũng còn một tổ chức khác lấy tên là "Foundation International Observer Cardinal Francis-Xavier Nguyễn Văn Thuận" với mục đích lo phổ biến học thuyết xã hội của Giáo Hội.
Chúng ta tiếp tục cảm tạ Thiên Chúa vì hồng ân con người Ðức Hồng Y Phanxicô và gương sáng của Ngài. Chúng ta cũng cầu nguyện nhiều, để nếu đẹp ý Chúa và để làm sáng danh Chúa, cho vụ án được tiến hành tốt đẹp và nhanh chóng đưa vị Tôi Tớ Chúa sớm được tôn kính tại bàn thờ. Cũng cần bình tĩnh để mọi công việc được tiến hành tốt đẹp.
Rôma, ngày 18-9-2007.
Lm. Phanxicô Borgia Trần Văn Khả
Kính thưa Ðức Hồng Y, Anh em thân mến trong hàng Giám mục và linh mục,
Anh Chị Em thân mến,
Tôi ngỏ lời chào đón tất cả, chúng ta tập họp nơi đây để tưởng nhớ Ðức Hồng Y rất quý mến của chúng ta Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, mà Chúa đã kêu gọi Ngài về với Chúa ngày 16 tháng 9 cách đây 5 năm, tuy nhiên vẫn còn sống động trong tâm trí và con tim của những ai đã biết con người tốt lành của người tôi tớ trung thành của Chúa. Chính tôi cũng còn giữ lại một số những kỷ niệm cá nhân qua những cuộc gặp gỡ mà tôi có dịp gặp Ngài trong các năm Ngài phục vụ tại Giáo triều Rôma.
Tôi xin chào Ðức Hồng Y Renato Raffaele Martino, là Chủ Tịch, và Ðức Cha Gianpaolo Crepaldi, là Tổng Thư Ký Hội Ðồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình, cùng với các nhân viên của Hội Ðồng này. Tôi chào thăm các thành viên của "Hội Thánh Matthêô" được thiết lập để tưởng nhớ Ðức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, các thành viên của Hội "L'Osservatore internazionale", mang tên của Ngài, được thiết lập để phổ biến học thuyết xã hội cuả Hội Thánh, cũng như các thân nhân và bạn hữu của Ðức Cố Hồng Y. Tôi xin ngỏ lời cám ơn chân thành tới Ðức Hồng Y Martino, vì những lời ngài vừa nói nhân danh các người có mặt nơi đây.
Tôi mượn dịp này để một lần nữa đem ra ánh sáng, chứng từ đức tin thật rạng ngời mà vị mục tử anh hùng này đã để lại cho chúng ta. Giám mục Phanxicô Xaviê - như thói quen Ngài hay giới thiệu mình như thế - được gọi về Nhà Cha năm 2002, sau một thời gian dài chịu bệnh mà Ngài đã đương đầu với biến cố này trong niềm phú thác hoàn toàn vào thánh ý của Thiên Chúa.
Một thời gian trước khi Ngài được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Hội Ðồng Toà Thánh Công Lý và Hòa Bình, sau đó Ngài trở thành Chủ tịch của chính Hội Ðồng này, Ngài khởi sự việc xuất bản Tập "Bản tóm lược học thuyết xã hội của Giáo Hội" (Compendio della dottrina della Chiesa).
Làm sao chúng ta có thể quên được những nét đặc biệt của sự thân thiện đơn sơ của Ngài? Làm sao chúng ta không đưa lên ánh sáng cho mọi người biết khả năng mà Ngài có được để đối thoại và để làm cho mình gần gũi người khác?
Chúng ta tưởng nhớ Ngài với sự thán phục lớn lao, trong khi chúng ta nghĩ lại trong tâm trí chúng ta những dự phóng lớn lao và tràn đầy Hy vọng, đã làm cho Ngài luôn sống động và Ngài tìm cách thế để dễ dàng loan truyền ra và thuyết phục nhiều người; sự dấn thân đầy nhiệt huyết của Ngài để quảng bá học thuyết xã hội của Hội Thánh giữa những người nghèo trên thế giới, và lòng hăng say truyền bá Phúc âm trong lục đia Á Châu của Ngài, khả năng Ngài điều hợp các hoạt động bác ái và thăng tiến con người mà Ngài làm tăng thêm và nâng đỡ tại những nơi nặng nề nhất trên thế giới.
Ðức Hồng Y Văn Thuận là một con người của Hy Vọng, Ngài sống bằng Hy Vọng, Ngài phổ biến Hy Vọng cho tất cả những ai Ngài gặp. Chính nhờ năng lực thiêng liêng này mà Ngài đã chống lại được tất cả những khó khăn thể lý và luân lý. Hy Vọng đã nâng đỡ Ngài khi là Giám mục bị cô lập trong vòng 13 năm trời, xa cách khỏi cộng đoàn giáo phận của Ngài;
Hy Vọng giúp đỡ Ngài biết nhìn ra qua cái vô lý của các biến cố xẩy đến cho Ngài - không bao giờ được xét xử trong những năm tù ngục - một kế đồ của sự quan phòng của Thiên Chúa.
Tin về bệnh ung thư Ngài, căn bệnh đưa Ngài tới cái chết, tin này đã đến với Ngài cùng lúc với việc Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đặt Ngài làm Hồng Y, vị Giáo Hoàng này tỏ ra với Ðức Hồng Y một sự trân trọng và tình cảm thật lớn lao.
Ðức Hồng Y Văn Thuận thường nhắc lại rằng Kitô hữu là một con người của từng giờ, của lúc này, của giây phút hiện tại, cần được đón nhận và sống với tình yêu Chúa Kitô. Trong khả năng sống giây phút hiên tại này chiếu tỏa ra cái sâu thẳm của việc từ bỏ trong bàn tay Thiên Chúa và tính đơn sơ như trong Phúc âm dạy mà chúng ta tất cả đều kính phục Ngài. Và làm sao có thể xấy ra điều này - người ta tự hỏi - một người đặt tin tưởng vào Chúa Cha trên trời mà lại từ chối để mình được ôm ấp vào cánh tay của Chúa Cha sao?
Anh Chị Em thân mến,
Tôi vui mừng đón nhận tin về việc khởi sự án phong chân phước cho vị ngôn sứ đặc biệt của niềm Hy Vọng Kitô giáo, và trong khi chúng ta trao phó linh hồn ưu tuyển của Ngài cho Chúa, chúng ta cầu nguyện để gương của Ngài trở nên giáo huấn vững chắc cho chúng ta. Cùng với lời cầu chúc này Tôi vui lòng ban phép lành cho Anh Chị Em.
Bản dịch Việt ngữ của Lm. Phanxicô Borgia Trần Văn Khả
(Rôma, ngày 18-9-2007)
Đ.Ô. Trần Văn Khả (dịch)
Nha Trang, Việt Nam (LB 17/09/2007) - Vào ngày 16/9/2007, nhân dịp kỉ niệm 5 năm ngày Ðức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận qua đời, tại Vatican diễn ra nghi lễ tưởng niệm Ðức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, đồng thời cũng khởi sự tiến trình phong Chân phước (Beatus) cho Ngài. Ðây là niềm vinh dự lớn lao, không những cho người Công giáo Việt Nam mà còn cho cả dân tộc Việt Nam, và cho Giáo hội hoàn vũ nữa.
Nhân dịp này Liệu cũng xin chép lại một vài chi tiết về thể thức để được tôn vinh Chân Phước và Hiển Thánh của Giáo Hội chúng ta. Ðể được tôn vinh lên hàng Chân Phước hay Hiển Thánh, theo thông lệ, việc đầu tiên là một tổ chức của Giáo Hội, Hội Dòng, hay Giám Mục giáo phận, hay hàng Giám Mục thuộc quốc gia liên hệ đệ đơn với hồ sơ đính kèm trình bày về một nhân vật nào trong hàng Giáo Sĩ Tu Sĩ, hay Giáo dân nổi danh về đời sống hành Ðạo, để xin Toà Thánh cứu xét và nếu xứng đáng nêu cao nhân vật đó làm tấm gương trong sáng cho toàn dân soi chung, nghĩa là đưa lên danh dự bàn thờ làm mộ phạm cho mọi người tôn kính. Nhân vật đó sẽ lần lượt được ghi danh sách những bậc tôn kính sau đây:
- Bậc Tôi Tớ Chúa (Servus Dei)
Từ khi hồ sơ được Toà Thánh chấp nhận. Tập hồ sơ này sẽ tiếp tục được nghiên cứu trong thời gian lâu dài hay mau chóng tùy các tổ chức của Giáo Hội, hay các Dòng Tu, hay hàng Giám Mục quốc gia có khả năng cung cấp tài liệu sẽ được đòi hỏi, nhất là những tài liệu chắc chắn minh chứng đời sống nhân vật đề cử đó có tầm quan trọng, đích đáng đặc biệt.
- Bậc Ðáng Kính (Venerabillis)
Nếu đời sống vị Tôi Tớ Chúa qủa thật xuất chúng, nghĩa là theo các chứng tham khảo bằng giấy tờ đã thực sự tận hiến cho Chúa, hay đã phục vụ tha nhân với mức cao độ. Thí dụ, chết thay cho người khác, hy sinh xả kỷ trong bịnh viện, trại phong cùi, sống thánh thiện khó nghèo, chịu Tử Ðạo... Lúc đó Toà Thánh sẽ công nhận tính cách anh hùng, nhân đức của các Ngài, và ghi nhận vào sổ các Bậc Ðáng Kính.
- Bậc Chân Phước (Beatus)
Tức là khi vị Ðáng Kính được nâng lên, xứng đáng danh dự tôn kính trên bàn thờ một cách công khai. Theo truyền thống của Giáo Hội, từ bậc Ðáng Kính sáng bậc Chân Phước, thường ra phải chờ đợi chừng 50 năm, nhất là phải chứng minh bằng hai phép lạ. Thời gian 50 năm có thể rút ngắn lại, tuy nhiên điều kiện hai phép lạ thế nào cũng phải có, nhất là khi những vị Ðáng Kính không phải Tử Ðạo. Các phép lạ nói đây thường là những phép lạ chữa những tật bịnh nguy hiểm, trầm trọng, lâu dài, và cứu chữa một cách tức tốc, ngoài sự dự trù của con người. Ðể tuyên bố phép lạ chính xác hay không, phải qua nhiều phen khám nghiệm và điều tra của Ủy Ban Bác Sĩ được Tòa Thánh chấp nhận.
Bậc Hiển Thánh (Sanctus)
Từ bậc Chân Phước lên bậc Hiển Thánh cũng cần một thời gian khoảng vài chục năm và thêm vào đấy phải cần một phép lạ khác nữa. Giáo Hội đi trong thời gian, do đó bao giờ cũng đòi hỏi những bằng chứng thật vững chắc, là vì việc tôn phong Hiển Thánh được toàn dân xác nhận là một việc tôn thờ Thiên Chúa thật cao cả, và tôn kính các bậc Thánh nhân là một hành động chính đáng.
Riêng về Ðức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, các tổ chức sau đây đã đệ đơn xin Giáo Hội phong Chân Phước (Beatus) cho Ngài:
- Hội Ðồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hòa Bình,
- Quỹ Thánh Mathêu tưởng niệm Ðức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận,
- Hội Quan sát Quốc tế Ðức Hồng Y Văn Thuận về Học thuyết xã hội Công Giáo,
- Thân nhân và bạn hữu của Ðức Cố Hồng Y,
- Cộng đoàn Việt Nam ở Roma.
Trần Ðình Liệu
Giáo phận Nha Trang tổ chức Lễ Giỗ lần thứ 5 của Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (+16/9/2002), nguyên Giám mục Nha Trang từ 1967-1975, trong tâm tình hiếu thảo tri ân và cầu nguyện cho việc mở hồ sơ phong chân phước của Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê được thuận lợi và tốt đẹp.
Lúc 9g30 sáng Chúa nhật ngày 16/9 tại Nhà thờ Chánh Tòa Nha Trang Đức cha chính Phaolô Nguyễn Văn Hòa và Đức Cha phó Giuse Võ Đức Minh cùng khoảng 80 linh mục trong và ngoài giáo phận cử hành Lễ Giỗ cho vị Giám mục Việt Nam tiên khởi của Giáo phận Nha Trang. Sự tham dự đông đảo của các linh mục triều và dòng thuộc 3 giáo hạt của Giáo phận Nha Trang, tuy các linh mục bận việc mục vụ giáo xứ vào Chúa nhật, đại diện các dòng tu và giáo dân đầy chật nhà thờ Chánh Tòa nói lên tâm tình hiếu kính của đoàn con giáo phận Nha Trang đối với vị chủ chăn kính yêu. Đặc biệt ngày Lễ Giỗ lần thứ 5 cũng là ngày Tòa thánh bắt đầu mở án phong Chân phước cho Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
Trong bài giảng dựa vào ba bài đọc của Chúa nhật 24 Thường niên Đức Cha Phaolô mời gọi cộng đoàn phụng vụ hãy biết cầu nguyện, dâng việc hy sinh cho những người tội lỗi như ông Môisen đã làm đối với dân Do Thái khi họ phản nghịch Thiên Chúa (Xh 32, 7-11.13-14). Tâm tình cầu nguyện và hy sinh sẽ giúp cảm hóa anh chị em lỗi lầm như việc Chúa đã làm trong trường hợp của thánh Phaolô (1Tm 1, 12-17). Đó là thái độ của con người đối với nhau. Về phía Thiên Chúa, Người luôn tìm kiếm con chiên lạc, đồng bạc bị mất, luôn chờ mong người con hoán cải trở về (Lc 15, 1-32). Người không bao giờ kết án kẻ lầm lỗi biết sám hối, đồng thời còn có nhiều cách thế khác nhau để biến đổi, làm cho con người lỗi lầm được trở nên tốt hơn. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ thất vọng về chính mình cũng như anh chị em khi chúng ta lầm lỗi.
Thái độ và tâm tình yêu thương, tha thứ, mong muốn điều tốt đẹp cho mọi người theo các bài đọc Chúa Nhật 24 được thể hiện rõ nét nơi cuộc đời Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận trong thời gian làm chủ chăn giáo phận, trong thời gian bị giam tù cũng như thời gian làm việc tại Rôma. Nhiều người đã được cảm hóa nhờ chứng kiến gương sáng và đời sống đạo đức của Đức cố Hồng y. Cuộc đời đạo đức của Đức Hồng y được sự kính phục của mọi thành phần. Việc chính Hội đồng Tòa thánh Công lý và Hòa bình tích cực đứng ra xúc tiến việc xin mở án phong chân phước cho Đức Hồng y Phanxicô Xaviê cho thấy ảnh hưởng tinh thần của Đức Hồng y đối với Giáo hội hoàn vũ.
Thánh lễ kết thúc lúc 10g45. Sau đó, quý cha và một số tu sĩ về Tòa Giám mục tham dự nghi thức làm phép Nhà Tổ vừa mới được chỉnh trang lại. Đây chính là ngôi nhà mà Đức Hồng y Phanxicô Xaviê đã ở, làm việc và cầu nguyện trong thời gian làm Giám mục Giáo phận Nha Trang. Đức cha chính Phaolô đã làm phép ngôi Nhà Tổ, bàn thờ và nhà nguyện mới của Tòa Giám Mục Nha Trang.
Lễ Giỗ lần thứ 5 của Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận được kết thúc bằng bữa ăn trưa đầy tình huynh đệ và niềm hân hoan của hai Đức Cha, quý linh mục và một số quan khách.
GP. Nha Trang
Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ Nha Trang đã tổ chức khai mạc Năm Thánh mừng kim khánh
thành lập dòng bằng buổi diễn nguyện vào lúc 7 giờ tối ngày 14/09/2007 và Thánh
Lễ khai mạc vào lúc 9 giờ ngày 15/09 tại nguyện đường hội dòng.
Đêm diễn nguyện với chủ đề Tri Ân – Sám Hối – Hoà Giải – Canh Tân được mở đầu bằng tốp ca ‘Biển Rừng hội ngộ’ với đàn T’rưng và sáo trúc như dõi tìm dấu ấn Khiết Tâm giữa lòng Việt tộc để chào mừng hai Đức cha giáo phận, quý cha, quý tu sĩ và quan khách đến hiệp thông cầu nguyện với gia đình hội dòng.
Tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, tri ân các bậc tiền nhân, quý ân nhân được diễn tả qua hợp ca ‘Đây mùa Hồng Ân’, rước đuốc thiêng, kiệu di ảnh, niệm hương và dâng hoa. Tiếp theo là hành trình nội tâm với vũ khúc tạ tội, hát kinh hoà bình, dâng quyết tâm hậu linh thao năm 2007 của chị em Khiết Tâm để bày tỏ lòng sám hối - hoà giải với Thiên Chúa và anh chị em đồng loại. Buổi diễn nguyện được tiếp nối bằng các vũ điệu lời ca tán dương Mẹ Khiết Tâm và quyết cùng Mẹ ra khơi.
Đêm diễn nguyện kết thúc bằng nghi thức sai đi được Đức cha phó Giuse Võ Đức Minh mồi nến Phục Sinh và chuyền ngọn lửa đó đến cho Ban Phụ trách dòng cùng toàn thể chị em Khiết Tâm và cộng đoàn tham dự trong lời ca ‘Thắp sáng lên’ như lời đoan hứa canh tân và hân hoan lên đường phục vụ giữa lòng giáo phận và giáo hội quê hương.
Thánh lễ khai mạc Năm Thánh mừng 50 năm thành lập dòng vào lúc 9 giờ sáng do Đức cha chính Phaolô Nguyễn Văn Hoà chủ sự cùng với Đức cha phó Giuse, Đức ông Tổng đại diện Giuse Maria Trần Thanh Phong, Đức ông Phêrô Nguyễn Quang sách và gần 60 linh mục đồng tế. Trước thánh lễ, Đức ông Tổng đại diện Giáo phận đọc sắc lệnh khai mở năm Thánh do Toà Thánh ban phép và Đức cha Phaolô công bố khai mạc Năm thánh cho hội dòng.
Trong bài giảng lễ, Đức cha Phaolô tập trung vào ý nghĩa Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ, Bổn mạng của hội dòng, và nói rằng Trái Tim Đức Mẹ không chỉ biểu tượng của tình yêu thương mà còn biểu lộ tất cả tâm hồn và cuộc đời Đức Mẹ trong sự gắn kết, hiệp thông với cuộc đời Chúa Giêsu – Con Mẹ. Qua đó, ngài nhắn nhủ chị em Khiết Tâm ý thức sâu xa hơn về đời thánh hiến với trái tim yêu thương và kết hiệp với Chúa Kitô.
Thánh lễ cũng có sự tham dự của Đại diện Dòng Phaolô tỉnh dòng Đà Nẵng, quý Hội Dòng trong giáo phận, quý Hội đồng Giáo xứ và Hội các bà mẹ Công giáo Giáo xứ Bình Cang và quý gia đình Khiết Tâm Đức Mẹ tại thế.
Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ do Đức cha Marcello Piquet (1888-1966), Giám mục tiên khởi của giáo phận Nha Trang, thành lập ngày 15/09/1958, đặt cơ sở nhà mẹ tại phước viện Mến Thánh Giá Bình Cang và được dòng Thánh Phaolô Đà Nẵng huấn luyện trong giai đoạn đầu thành lập.
Hội dòng Khiết Tâm Đức mẹ Nha Trang là một Hội dòng chiêm niệm và hoạt động tông đồ, thuộc Giáo phận Nha Trang. Châm ngôn của dòng là "Để trong mọi sự, Thiên Chúa được hết lòng yêu mến". Hoạt động của dòng bao gồm: giáo dục văn hoá cho giới trẻ, hoạt động bác ái xã hội, ưu tiên cho trẻ em và những người nghèo khó bất hạnh, công tác mục vụ tại các giáo xứ, và giáo dục đức tin đặc biệt cho các dự tòng và trẻ em.
Hiện nay, hội dòng gồm có 256 nữ tu, hiện diện trên 5 giáo phận trong và ngoài nước.
Nhà Chính của dòng Khiết Tâm Đức Mẹ Nha Trang hiện ở Võ Cang, Vĩnh Trung, TP Nha
Trang, gần nhà thờ Giáo xứ Bình Cang.
Sau cơn bão số 2 và áp thấp nhiệt đới gây ra mưa to đến
rất to nhiều ngày trên diện rộng, bao gồm các tỉnh miền trung nhất là khu vực Hà
tĩnh và quảng Bình, nước các con sông, hồ, đê dâng cao và một số vùng như Huyện
Hương khê Hà Tĩnh, Cồn Sẻ, Quảng Lộc Quảng Trạch, Quảng Bình. Nhiều nơi bị chìm
trong nước. Lũ đã cuốn trôi nhiều nhà cửa, đồ dùng, loài vật, nhiều bà con vùng
lũ không có cái ăn cái mặc.
Đáp lời kêu gọi của Đức Cha Phaolô Cao Đình Thuyên, Giám
Mục Giáo Phận Vinh, và Cha Phanxicô Đinh văn Quỳnh, Linh Giám Gia Đình Têrêxa
Giáo Phận. Anh phụ trách Hội Têrêxa Hài Đ?ng Giêsu khu vực phía Bắc đã phát động
trong toàn Hội Têrêxa Hài Đồng Giêsu từ Thái Bình đến Hà Tĩnh quyên góp tiền,
lương thực, thực phẩm, quần áo, chăn màn, sách bút và đồ dùng học tập để kịp
thời cứu trợ anh chị em bà con các vùng bị lũ lụt, trên tinh thần lá rách đùm lá
nát theo linh đạo của Thủ Bản Hội Têrêxa HĐ Giêsu là “phục vụ những người nghèo,
bệnh tật, đau khổ với tinh thần bác ái Kytô giáo ”.
Trong một thời gian ngắn anh chị em các Chi Hội các vùng
miền đã quyên góp được hàng nghìn bộ quần áo các loại, hàng chục chăn màn, các
anh chị em đã đem về giặt là và đóng vào thùng cáttông.
1. Chi Hội Xuân Hoà Thái Bình;
- Quần áo chăn màn :10 thùng và góp được 650.000đ
2. Phân Hội và các Chi Hội Hạt Đồng Tháp Diễn Châu Giáo
Phận Vinh.
- Quần áo chăn màn : 140 thùng.
- Sách giáo khoa các loại : 850 cuốn
- Vở ôly học sinh : 360 quyển và 30 bút bi.
3. Phân Hội và các Chi Hội Giáo Hạt Cửa Lò Giáo Phận
Vinh.
- Quần áo chăn màn : 285 thùng.
- Thực phẩm cá : 1 tấn 50kg.
- Vở viết học sinh : 4.500 cuốn
- Bút bi Thiên Long : 5.000 bút.
- đồ dùng học tập, máy tính tay: 1 thùng.
4. Phân Hội và Chi Hội Hà Tĩnh những Chi Hội nơi không bị
lũ lụt :
- Quần áo chăn màn : 350 thùng
- Sách học sinh Oli : 600 cuốn :
- Sách giáo khoa các loại : 50 thùng
- Gạo tiền : 400kg và 27.000.000đ (Hai bảy triệu đồng)
Tổng Hội đã gửi ra 5.000.000đ (Năm triệu đồng) để chia sẻ
cùng bà con lũ lụt.
Tất cả số tiền và hàng hoá trên được đại diện anh chị em
các Phân Hội và Chi Hội khu vực phía bắc cùng với Cha linh Giám Giáo Hạt Cửa Lò
Phêrô Nguyễn văn Khang, Cha Pharaen Trần Xuân Nhàn đã trao tận tay cho bà con
vùng bị lũ lụt thuộc hai khu vực Cồn Sẻ, Vĩnh Phước Quảng Bình và Hương Khê Hà
Tĩnh. Những thành quả trên tuy không đáng là bao song đó là những cánh hồng nhỏ
dâng Thiên Chúa nhờ Chị Thánh Têrêxa HĐ Giêsu.
Chân thành tri ân những tấm lòng của hội viên Têrêsa dành
cho bà con vùng lũ lụt.
Hồng Thắm- Cửa Lò
TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO
Vào ngày cuối tuần này từ ngày 15-17/9/2007, nhân dịp kỉ niệm 5 năm ngày ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận qua đời, tại Vatican diễn ra nghi lễ tưởng niệm Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê, đồng thời cũng khởi sự tiến trình phong Chân phước cho Ngài. Đây là niềm vinh dự lớn lao, không những cho người Công giáo việt Nam mà còn cho cả dân tộc Việt Nam, và cho Giáo hội hoàn vũ nữa.
Động lực nào đã thúc đẩy các tổ chức như Hội Đồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hòa Bình, Quỹ Thánh Mathêu tưởng niệm ĐHY Nguyễn Văn Thuận, Hội Quan sát Quốc tế ĐHY Văn Thuận về Học thuyết xã hội Công Giáo, thân nhân và bạn hữu của Đức Cố Hồng Y, cũng như cộng đoàn Việt Nam ở Roma, đã có sáng kiến xin khởi sự tiến trình phong chân phước cho Ngài chỉ trong một thời gian ngắn nhất sau khi Ngài qua đời có 5 năm?
Thưa chính là tình yêu của Ngài cho Thiên Chúa, cho Giáo hội, cho Tổ quốc, cho tha nhân, và cuộc sống chứng nhân đức tin kiên cường của Ngài.
Ai gặp Ngài cũng cảm nhận từ nơi Ngài một cảm tình sâu đậm đặc biệt, để rồi sau khi gặp Ngài, ai cũng tưởng là mình chiếm một chỗ nhất và rất đặc biệt trong con tim của Ngài. Vì ĐHY yêu thương hết mọi người, ngay cả với kẻ thù, bằng một tình yêu chân thật là lòng kính trọng dễ mến.
Thứ đến gương sáng của Ngài và những đoạn đường thử thách cam go mà Ngài đã trải qua là bằng chứng hùng hồn làm cho mọi người phải ngưỡng mộ và ứu ái.
Những sách Ngài viết mang tựa đề “Hy Vọng” và nhất là Bộ sách “Toát yếu Học Thuyết xã hội của Giáo hội”, trong đó nêu ra những tấm gương trung thực về cuộc đời hy sinh và gắn bó với Giáo hội của Ngài, trong đó Ngài đưa ra những suy luận dễ cảm kích lòng người. Đó là những giáo huấn có căn bản hầu có thể mang lại nền công lý và hòa bình cho xã hội và cho thế giới.
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê từ giã chúng ta vào mùa Thu năm 2002 sau một thời gian dài chịu bệnh, Ngài đã sống cuộc sống như một người đơn giản cùng với niềm hy vọng Kitô giáo. Mấy năm trước đó, Ngài được ĐGH John Paul II chỉ định làm Phó chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Công lý và Hòa bình, và sau này trở thành Chủ tịch Hội đồng này.
Hôm nay Giáo phận Roma khởi sự tiến trình phong Chân Phước và phong Thánh cho Đức Hồng Y Thuận là thời điểm rất đặc biệt cho chúng ta nhìn lại một số những hoạt động của Ngài, đặc biệt liên quan tới “Linh đạo sống” của Ngài đã được thể hiện ra sao.
Linh đạo Hy Vọng:
Những cuốn sách mà ĐHY Thuận viết đều có một tựa đề mang chữ “Hy Vọng” và chính cuộc sống của Ngài cũng phát hiện cho ta thấy dù trong hoàn cảnh khó khăn thế nào Ngài cũng sống trong niềm hy vọng vào Chúa, hy vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn.
Đối với người Công giáo Việt Nam, ai trong chúng ta cũng đã từng được nghe và viết về cuộc sống của Đức Hồng Y đáng mến của chúng ta, về kinh mghiệm tù đầy và những mẫu truyện Ngài kể cho chúng ta qua “Đường Hy Vọng”, qua “2 chiếc bánh và 5 con cá”... Vì vậy tôi không muốn nhắc lại ở đây để khỏi mất giờ của qúi độc giả. Tôi chỉ xin tóm tắt như sau:
Đức Cha Nguyễn văn Thuận trong suốt 13 năm tù đầy và bị biệt giam, tách rời khỏi đoàn chiên của giáo phận, nhưng vị giám mục kiên cường đó luôn luôn có niềm Hy Vọng và cậy trông vào Chúa và Đức Maria. Cũng do niềm hy vọng đó mà dù đối diện với những nghịch cảnh to lớn, Ngài luôn sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa, tin tưởng vào Chúa quan phòng. Chính trong khung cảnh tù đầy, Ngài đã có dịp cảm hóa những cai tù. Ngài yêu mến họ, trở nên thân tình với họ, và thay đổi con người họ.
Thế rồi trong thời gian chịu bệnh, khi phải mổ cục biếu trong bụng, hay những ngày cuối đời, Ngaì luôn phó thác vào tình yêu Chúa quan phòng, Ngàì cầu nguyện liên lỉ, và còn trở nên chứng nhân niềm tin cho những người chung quanh, an úi và nâng đỡ họ, thay vì họ nâng đờ ngài. Ngài không phải là con người sống về quá khứ, cũng không phải cho tương lai mà như Ngài nói là “sống giây phút hiện tại”. Ngài hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha nhân từ, sống vui tươi trong mỗi phút giây hiện tại, không bao giờ mất niềm hy vọng và tin tưởng. Chúng ta có thể thấy nơi Ngài một cuộc sống tinh thần Phúc Âm phó thác như “trẻ thơ” mà Đức Giêsu nói tới.
Niềm hy vọng đó đã biến cải môi trường và biến tình trạng bất công thành công lý, nó có thể biến đổi con người, thay đổi tâm can của nhân thế. Đó được coi là căn bản cho chương trình biến đổi thế giới mới. Xin đưa ra đây một tỉ dụ: Vào năm 1987 trong thời gian bị tù tách biệt tại nhà giam Giang Xá, Hà Nội, ngài đã có thề viết những lời kinh nguyện của niềm Hy vọng. Sau này thành sách “Đường Hy Vọng”. Những trang nhật ký này được viết bằng tiếng Ý, ngoài bìa đề là “Học tiếng ngoại quốc”, vì thế các người gác tù tò mò muốn biết học tiéng ngoại quốc ra sao. Đức Cha Thuận đã làm quen với gác tù, trước đây là kẻ thù, giờ là bằng hữu, sau những cuộc trao đổi và học tiếng ngoại ngữ với Đức Cha Thuận. Thế mới biết dù trong hoàn cảnh khó khăn cũng có thể biến sự dữ thành khí cụ của tình thương. Biến cái xấu thành tốt và với tình thương thì cái gì cũng có thể được biến đổi.
Sau đây chúng tôi cũng xin đan cử ra những người không phải là người Việt Nam chúng ta, nhưng có dịp sống chung, làm việc chug với ĐHY nên họ đều có những cảm tình rất sâu xa và lòng ngưỡng mộ tuyệt vời với Đức Hồng Y của chúng ta.
Người đầu tiên chúng tôi muốn đề cập đến là Đức Cha Giampaolo Crepaldi, đã từng làm việc với Đức Hồng Y tại Hôị Đồng Công Lý và Hòa Bình, đã kể lại rằng: “Khi làm việc tại Văn phòng Giáo hoàng Công lý và Hòa bình dưới thời ĐHY Thuận, tất cả các nhân viên trong đó đều nhận xét Ngài là một con người đáng yêu, một mối chân tình đơn sơ dễ mến. Đức Cha Giampaolo Crepaldi lúc đó là Tổng thư Ký Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hòa Bình, đã ghi nhận lại như sau: Chúng tôi gọi thân tình gọi Ngài là Francesco Nguyên Van Thuân, nhưng khi đi thăm nước Tanzania hay tại Nigeria, chúng tôi gọi Ngài là “Bác Francis” (Phanxicô Xaviê là tên thánh của Ngài), hay dơn giản hơn chúng tôi gọi ngài là “zio Francesco, bác Francescô, hay hơn nữa chỉ gọi là ‘Francesco’”. Ngài để ý tới từng người một trong chúng tôi”.
Chính vì sự mộ mến đó mà ĐC Crepaldi đã sáng lập ra Tổ chức L’Osservatorio internazionale Cardinale Van Thuân sulla Dottrina sociale della Chiesa – Quan sát viên quốc tế ĐHY Nguyễn Văn Thuận về Học thuyết xã hội của Giáo hội được cống hiến và đặt tên ĐHY qúi mến của người Việt nam chúng ta, với mục đích làm sống lại những kỉ niệm của một chứng nhân Đức tin vĩ đại, chứng nhân bác ái và hy vọng Kitô giáo, đó là ĐHY Nguyễn Văn Thuận. Những điều giảng dậy của Ngài đã là nguồn cảm hứng trong tất cả các hoạt động và được diễn đạt lan tràn trong Học thuyết xã hội về Giáo hội.
Tổ chức này được thành lập từ tháng 5 năm 2004 với chủ chương giáo huấn và ghi nhớ trong tâm trí chúng ta về con người Đức Hồng Y, và với lời cầu nguyện cho chúng ta được dấn thân hơn trong các công tác cụ thể.
ĐC Giampaolo Crepaldi là người công tác gần gũi và là bạn thân tình của Đức Cố Hồng Y qua bao năm cũng nhắc lại những đức tính nhân bản, sự hiếu khách và đức tính thân tình của ĐHY đối với mọi người, nhưng đồng thời Ngài có những viễn tượng lớn lao, những dỉnh cao hy vọng mà ĐHY đã diễn đạt trong khi biên soạn cuốn Học thuyết Xã hội Công Giáo của Giáo hội chú tâm tới những người nghèo của thế giới, việc truyền giảng Tin Mừng tại Á châu, hoạt động bác ái giúp cổ võ và nâng đỡ năm châu bốn bể.
Chính qua cảm hứng về đức ái và niềm hy vọng trực tiếp từ các lời giảng dậy của ĐHY Nguyễn văn Thuận mà ngày nay nhiều người tiếp tục ghi nhớ ĐHY qua những công trình mà ĐHY đã khởi sự và đưa ra chiều hướng linh đạo Giáo thuyết cã hội của Giáo hội. Khởi đi từ Công lý và từ Hòa bình, hai đối tượng truyền giáo của Học thuyết xã hội của Giáo hội mà chính ĐHY Thuận là một hình ảnh thiết thực đã nhập thể vào đó.
Linh đạo về Công Lý và Hòa Bình:
ĐC Crepaldi nhận định rằng ĐHY Thuận là chứng nhân cho công lý và hòa bình, Ngài đã chứng minh rằng đó không chỉ là hành động nhân bản hay là thành quả máy móc trên phương diện xã hội hay chính trị mà là một ơn gọi cho mỗi người được chính Đức Giêsu Kitô kêu gọi để thể hiện. Chính trong cuộc sống gắn bó và thân mật với Chúa Kitô và trong Giáo hội mà ĐHY Thuận đã cho chúng ta một sức mạnh về quyền năng của một chứng nhân như vậy.
Nói cho cùng điều đó lại không phải là nhiệm vụ của Giáo thuyết xã hội của Giáo hội sao? Cái đó không phải là những là những định chế về luân lý xã hội hay là thủ bản về các định luật, nhưng đó chính là việc tuyên giảng Đức Kitô trong các thực tại trần thế và như vậy đề nghị ra một cuộc sống mới mà không chỉ là trong phạm vi chính trị.
Như vậy rõ ràng đó là sứ mệnh truyền giáo của Giáo hội, nó biểu trưng chiều hướng thiết yếu trong chương trình cứu độ của Chúa, và được đặt nền móng trong chính đời sống của cộng đồng Giáo hội, một diền đạt về đức tin trong hy vọng và trong đức ái. ĐHY Nguyễn văn Thuận đã chứng minh sự hiệp nhất của 3 nhân đức thân2 học trong cuộc sống của người Kitô hữu, và trong chức vụ là chủ tịch Hội đồng Công lý và Hòa bình, Ngài đã muốn rằng hoạt động của Hội đồng có thể hướng tới việc phát huy Học thuyết xã hội của Giáo hội trong chính bản tínhc ủa mình như một khí cụ cho việc truyền giáo đi đôi với làm chứng trong việc sống đức tin, không những chỉ trong lý thuyết nhưng trên hết là bằng những hành động và qua đời sống Kitô hữu trong chính những thể chế xã hội. Như vậy có một sự gắn bó chặt chẽ và sâu xa giữa Đức Hồng Y với tư thế Ngài là chủ tịch Hội Đồng Công lý và Hòa bình, với sứ mạng của Học thuyết xã hội của Giáo hội và với tổ chức Osservatorio do Đức TGM Crepaldi khởi xướng.
Giữa những khía cạnh khác nhau của cuộc sống Kitô hữu nơi con người Đức Hồng Y Thuận -- lòng yêu mến Giáo hội, sự trung thành với Đức Thánh Cha, gương kính mến Đức Mẹ Maria – tất cả những hành động này đã được chứng thực một cách anh dũng trong suốt 13 năm tù đầy của Ngài trong nhà tù Cộng sản Việt Nam, một điể, nổi bật nhất là “Linh đạo của Niềm Hy Vọng”.
Ngài sử dụng từ ngữ “Hy Vọng” trong tất cả các tác phẩm của Ngài, ngay trong cuốn biên khảo về cuộc đời của Ngài mà Hội Đồng Giáo Hoàng đã phát hành bằng tiếng Ý sau cái chết của Ngài đã chứng minh điều đó. ĐHY Thuận chính là con người của Hy vọng, chính Ngài đã sống niềm hy vọng đó và dối diện với những nghịch cảnh của cuộc sống cũng bằng niềm Hy vọng. Với sức mạnh của Hy vọng, ngài đã vượt thắng những bất hạnh xẩy ra trong suốt cuộc sống của Ngài, mà đối với tinh thần nhân loại của một con người bình thường chắc rằng trước những nghịch cảnh lớn lao như vậy đã bị đè bẹp.
Khả năng biến đổi này bắt nguồn từ hy vọng Kitô giáo, từ khả năng của Ngài là đổi mới trái đất và đó chính là trọng tâm của những tương quan xã hội được diễn tả trong Học thuyết xã hội của Giáo hội, mục đích là phục vụ thế giới nhằm biến đổi nó theo chương trình của Tình yêu Thiên Chúa. Đây chính là Linh Đạo của Đức Hồng Y Thuận, chính Ngài đã thông đạt sứ điệp này cho biết boa nhiêu người Ngài đã tiếp xúc với.
Trong thực tế của thế giới hôm nay thì niềm hy vọng Kitô giáo thật là cần thiết hơn bất cứ lúc nào hết. Đối với các bạn trẻ, ĐHY Thuận đã yêu thương họ hết mình, nói cho họ biết rằng họ cần được đề nghị để sống trong niềm hy vọng của yêu thương. Đối với người nghèo khó, ĐHY Thuận cũng yêu thương họ với chính tình yêu mà Chúa Giêsu đã trối lại, Ngài chỉ họ họ thấy rằng họ cần phải tin tưởng vào khả năng của chính mình và cho họ biết rằng họ ở trong lòng yêu thương của Chúa. Với những chứng nhân Kitô hữu thời nay, có thể nói ĐHY Thuận là vị linh hướng và là mẫu gương chứng nhân tuyệt hảo và biểu trưng nhất, vì cuộc sống của Đức Hồng Y có thể nói được là cuộc tử đạo mỗi ngày, nhất là torng những năm sống trong tù đầy..
Cuốn "Toát yếu Giáo Huấn xã hội của Giáo Hội" do ĐHY Thuận soạn:
Cuốn Toát yếu Giáo Huấn xã hội của Giáo Hội do ĐHY Nguyễn Văn Thuận biên soạn khi còn là Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa Bình, đã được người kế nhiệm là ĐHY Renato Martino đem đi giới thiệu với các Liên Hội Đồng Giám Mục các Châu lục như tại Á châu, Phi châu, Mỹ châu và Âu châu. Cuốn sách này được xuất bản từ năm 2004 và Đức Hồng Y Martinô đã giới thiệu tác phẩm này với cả các quốc gia Cộng sản như tại Nga, Cuba và Angola, v.v...’
Ngày 25/10/2004, ĐHY Martino đã giới thiệu cuốn sách như sau: “Hôm nay tôi rất vui mừng công bố tài liệu đã phải chờ đợi từ lâu này: “Quyển Toát yếu Học thuyết Xã hội của Giáo Hội”. Tài liệu này đã được Hội đồng Giáo hoàng đặc trách Công lý và Hòa bình soạn thảo - theo yêu cầu của Đức Thánh Cha, và sách này được đề tặng cho ngài - và Hội đồng hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung. Quyển Toát yếu này có giá trị cho tất cả mọi người - người Công giáo, các Kitô hữu khác, mọi người thiện chí - đang tìm kiếm những dấu chỉ chắc chắn của sự thật hầu cổ vũ mạnh mẽ hơn thiện ích xã hội của những con người và của những xã hội. Công trình này đã bắt đầu cách đây năm năm dưới nhiệm kỳ của vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Công trình đã phải trì hoãn vì bệnh tật và cái chết của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê, và tiếp đến là sự thay đổi chức vụ chủ tịch của Hội đồng Giáo hoàng đặc trách Công lý và Hòa bình”.
Quyển Toát yếu có cấu trúc đơn giản và trong sáng. Có ba phần theo sau phần dẫn nhập. Phần thứ nhất, gồm bốn chương, đề cập đến những tiền đề cơ bản của Học thuyết Xã hội của Giáo hội - kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại và xã hội, sứ mệnh của Giáo hội và bản chất của học thuyết xã hội, con người và các quyền con người, các nguyên tắc và các tiêu chuẩn của Học thuyết Xã hội của Giáo hội.
Phần thứ hai, gồm bảy chương, đề cập đến các nội dung và các chủ đề cổ điển của học thuyết xã hội - gia đình, việc làm, đời sống kinh tế, cộng đoàn chính trị, cộng đoàn quốc tế, môi trường và hòa bình.
Phần thứ ba, khá ngắn, chỉ có một chương, gồm một loạt những chỉ dẫn cho việc sử dụng Học thuyết Xã hội của Giáo hội trong hoạt động mục vụ của Giáo hội và trong đời sống của người Kitô hữu mà trước tiên là người giáo dân. Phần kết luận có tiêu đề “Để xây dựng nền văn minh tình thương” là một diễn ngữ ẩn chứa mục đích của toàn bộ tài liệu này.
Mục đích cuối cùng của Học thuyết xã hội Công giáo là để giúp những người Công giáo và Kitô hữu Kitô hữu “nên thánh trong những hoàn cảnh bình thường nhất của cuộc sống”. Chứng tá cá nhân -- hoa trái của một đời sống Kitô hữu “trưởng thành”, sâu xa và chín muồi -- không thể xao lãng bổn phận phải xây dựng một nền văn minh mới, trong việc đối thoại với những ngành tri thức khác nhau của nhân loại, trong việc đối thoại với các tôn giáo khác và với tất cả mọi người thành tâm thiện chí, hầu mang lại một nền nhân bản toàn diện mang dấu ấn của sự liên đới.
Tóm lại, tính cách đại đồng
của niềm hy vọng Kitô giáo được chứng thực qua cuộc sống của ĐHY Nguyễn Văn
Thuận trong cuộc sống nơi trần thế mở ra cho tất cả chúng ta -- dù thuộc dân tộc,
mầu da, tôn giáo, hay chính kiến nào đi nữa – lời mời gọi yêu thương, tha thứ,
cộng tác, để tiến tới một hình thức hành động chung nhằm mang lại Công lý và Hòa
Bình khởi nguồn từ Tình yêu của Thiên Chúa.
Tóm tắt tiểu sử Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn
Thuận (1928-2002):
Theo Vietcatholic News
1. Tôi sẽ sống hết sức trọn vẹn giây phút hiện tại.
2. Tôi sẽ ý thức giữa Thiên Chúa với những việc làm của Thiên Chúa.
3. Tôi sẽ vững vàng nắm giữ cái bí quyết duy nhất đó là cầu nguyện.
4. Tôi sẽ thấy được nơi Thánh Thể năng lực duy nhất của tôi.
5. Tôi sẽ chỉ có một đức khôn ngoan duy nhất là khoa học Thập Giá.
6. Tôi sẽ trung thành với sứ vụ của tôi trong Giáo Hội và cho Giáo Hội như là một chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô.
7. Tôi sẽ tìm kiếm sự bình an thế giới không thể ban tặng.
8. Tôi sẽ thực hiện một cuộc cách mạng bằng sự canh tân trong Thánh Thần .
9. Tôi sẽ nói một ngôn ngữ duy nhất và mặc bộ đồng phục duy nhất là Đức Bác Ái.
10. Tôi sẽ có một tình yêu rất đặc biệt là Đức Trinh Nữ Maria.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo bản tiếng Anh trong website Google
http://en.wikipedia.org/wiki/Nguyen_Van_Thuan
Trước đã nói, nay báo Tuổi trẻ lại tiếp tục đề cập đến nỗi lòng của những bà mẹ không con, số ra từ ngày 9.9.2007 đến nay.
Quả thực, nếu lấy chồng mà không có con nối dõi tông đường; không con để vui, để hú hí trò chuyện và chia sẻ tình thương thì, thà đi câu cá, đi du lịch còn sướng hơn là lập gia đình.
Người nữ sẽ làm mẹ. Giờ lại không con, nên việc tìm cách có được con do máu mủ của mình là điều hợp lý, phải lẽ. Và các bà đã phải cậy nhờ đến khoa học, bệnh viện giúp cho có con qua việc thụ thai nhân tạo. Còn hơn thế nữa, họ còn chọn con theo phái tính mà gia đình mong muốn nữa.
Các bà có lý do chính đáng. Còn Giáo hội?
- Hôn nhân là để chia sẻ tình yêu, và qua tình yêu này, con người tìm về Thiên Chúa -Đấng đã mời gọi con người hưởng phúc yêu thương trong hôn nhân. Mà đặc tính của hôn nhân là chung thuỷ, hiến thân trọn vẹn cho nhau, mở ngõ cho sự sống ra đời là con cái, kết tinh của tình yêu cha mẹ.
- Vậy, đứa con thụ thai nhân tạo có phải phải thực sự phát xuất từ tình yêu dâng hiến của cha mẹ?
- Khi hành xử như vậy là xúc phạm đến Thiên Chúa, vì con người can thiệp vào quyền tối cao liên quan đến sự sống, đến giới tính mà Ngài muốn.
- Khi chọn được một thai nhi, một đứa bé như ý, con người sẽ phải lại bỏ đi biết bao nhiêu mầm sống, biết bao nhiêu phôi thai không như ý, không đạt yêu cầu.
- Không bảo đảm chất lượng sức khoẻ ưu tuyển. Để trứng thụ tinh, chỉ một tinh trùng khoẻ nhất, chất lượng nhất được chọn trong số nhiều triệu tinh trùng khác.
- Kỳ thị phái tính. Kỳ thị phái tính ngày nay vẫn còn trên thế giới. Ý muốn có con trai hay con gái tuy là điều muốn chính đáng đi nữa, thì đây cũng không phải là tuyệt đối đến độ người ta được phép tìm mọi cách để đạt được mục đích với bất cứ phương thế nào, giá nào. Trọng nam khinh nữ, không phải là tiêu chuẩn hành động hợp với luân lý công giáo vốn đề cao sự bình đẳng nam nữ, vì tất cả đều được thừa hưởng hồng ân Chúa ban.
Thông điệp Tin Mừng về sự sống chương 3, số 60 ĐGH Gioan Phaolô II nói : “Một số người toan tính biện minh cho việc phá thai bằng cách chủ trương rằng kết quả của thụ thai, ít là cho đến một số ngày nào đó, không thể được coi như một sự sống con người có bản vị riêng. Thực ra, ngay từ khi trứng được thụ tinh, thì đã bắt đầu một sự sống, sự sống này không phải là sự sống của người cha cũng chẳng phải của người mẹ, nhưng là một hữu thể người mới được phát triển cho chính mình”.
Khoa di truyền học hiện đại cũng chứng minh rằng ngay từ giây phút đầu tiên nơi phôi thai đó đã có xác định về tương lai của sinh vật ấy. Đó là một nhân vị, một cá vị với những đặc tính riêng của mình được minh định thật rõ ràng.
Giáo hội cũng có lý do chính đáng và căn bản khi nhìn nhận và chấp nhận sự thật về Đấng Tuyệt đối. Đấng luôn chia sẻ, cảm thông với con người trong mọi hoàn cảnh. Qua đó, Thiên Chúa muốn mời gọi con người tìm đến tình yêu thật. Tình yêu thật không hề bị giới hạn hay ràng buộc ở chuyện giàu hay nghèo, giỏi hay dốt, ít con hay nhiều con hoặc không có con. Tình yêu là tình yêu. Tình yêu vượt lên trên tất, bao trùm tất cả, nhưng lại không hề bị khống chế bởi những tạo vật khác.
Thanh Thanh
Tham khảo :
- Giải đáp thắc mắc về luân lý, Lm. Augustinô Nguyễn Văn Dụ năm 2004
- Giáo lý Hội thánh công giáo toàn tập năm 1997
(Chút suy tư sau những ngày tĩnh tâm của các linh mục trẻ tỉnh Tiền Giang)
Linh mục là một chiếc “điện thoại di động” (ĐTDĐ) mà Thiên Chúa đã mua về bằng giá Máu của Ngài. Mở đầu cho những ngày tĩnh tâm của anh em linh mục trẻ thuộc tỉnh Tiền Giang, Giáo phận Mỹ Tho, cha bề trên Đan Viện Thiên Phước, Philipphê Hoàng Kim Tâm, đã ví von như thế. Chiếc điện thoại là phương tiện để liên lạc. “Điện-thoại-di-động-linh-mục” là chiếc điện thoại mà Thiên Chúa dùng để nói với con người, thế nhưng liệu nó có thể truyền đạt rõ ràng và chính xác Lời Chúa được không nếu như nó không có thời gian để được tiếp năng lượng? Chính vì lý do ấy mà từ ngày 10 đến 13 tháng 9 năm 2007, anh em linh mục từ khóa 1 đến khóa 6 (ĐCV thánh Giuse Sài Gòn) thuộc tỉnh Tiền Giang mới có mặt tại Đan Viện Xitô Phước Hải – Vũng Tàu để được “sạc-pin”.
Thời gian tĩnh tâm là thời gian “ĐTDĐ-linh mục” đón nhận nguồn năng lượng. Nguồn năng lượng ấy được đón nhận bằng 2 sợi dây: nói và nghe. Dây nói giúp linh mục chuyển thông sứ điệp nguồn là Lời Chúa và dây nghe giúp linh mục biết lắng nghe tiếng Chúa, lắng nghe những gì là đích thực, bởi chính cái chân thực của những gì được nghe mới làm nên giá trị thực của con người linh mục chứ không phải là cái gì khác.
Đến với những ngày tiếp nhận năng lượng, mỗi người đều mang lấy nơi mình một tâm trạng khác nhau. Có cha mang tâm trạng thật vui vì những gì mình đã làm được, cũng có cha rất buồn vì những gì mình đang gặp phải. Thế nhưng dù là vui hay buồn, có lẽ mỗi cha đều đặt mình trước “Nguồn” để hỏi xem “điều nào là điều con làm đẹp lòng Chúa?”, “đâu là việc mà con thi hành phù hợp với Thánh Ý?”; và tháng ngày qua, từ khi đón nhận thánh chức “con đã được gì và đã mất gì?”.
Trả lời cho những câu hỏi ấy lại phải quay trở về với những gợi ý của cha giảng tĩnh tâm: “linh mục là một cái nhà kho” mà Thiên Chúa đã xây dựng để làm nơi phân phát những gì cần thiết cho dân Chúa. Tất cả những gì người linh mục làm trong khi thi hành xứ vụ của mình tại giáo xứ chính là lấy đi từ trong kho của mình. Nhưng “hàng hóa” trong kho này là thật hay là giả thì phải coi kho này lấy nguồn hàng từ đâu. Nếu lấy nguồn hàng từ “Tổng-Kho-Giêsu-Kitô” thì đó là nguồn hàng “xịn” đó là thứ hàng thật cần cho ơn cứu độ của dân Chúa. Còn nếu như “kho-hàng-linh-mục” lấy từ nơi đâu khác thì tất cả những gì linh mục đem phân phát đó là những thứ giả trá làm hủy hoại dân Chúa và hủy hoại chính con người linh mục. Như vậy nhãn hiệu hàng thật của “kho-hàng-linh-mục” không gì khác ngoài nhãn hiệu Kitô.
Để đón nhận được “hàng thật”, kho linh mục chỉ có thể là cái kho giống “Tổng Kho”, tức là đồng hình đồng dạng với Đức Kitô; một gợi ý chẳng phải là mới mẻ, nhưng thật sự chẳng bao giờ cũ. Bởi lẽ ngày nào linh mục không mặc lấy Đức Kitô ngày ấy tất cả những gì linh mục làm là giả dối. Như vậy người linh mục cần có một con tim không vụ lợi, một lối sống không suy tính, một cách nói không hậu ý và luôn luôn thực hiện “chính sách” Tin Mừng. Được như thế thì người linh mục mới có thể cử hành phụng vụ cho đúng việc phụng vụ, mới có thể không còn vịnh vào việc mục vụ để quên thánh hóa bản thân, mới có thể luôn gắn kết với Giáo Hội chứ không gắn với ai khác và nhờ đó mà có thể đồng hành với dân Chúa trong cái thăng trầm của đời sống mỗi ngày.Kết thúc những ngày tĩnh tâm, gần 20 anh em linh mục trẻ quây quần bên nhau với những chia sẻ mục vụ rất vui vẻ, tự nhiên và cảm thông. Thiết nghĩ nhờ vậy mà từng người mới có thể hướng về tương lai với nụ cười, như gợi ý của cha giảng tĩnh tâm. Cười để lạc quan tiến bước, cười để hết mình thi hành sứ vụ cách “độc đáo” để làm cho “tương lai vĩ đại hơn.” Dù có khó khăn và đôi khi buồn bã nhưng giúp nhau cười để mọi người đều “hướng tâm lên.”
Lm. Giuse TRẦN THANH LONG
- Ông theo đạo nào?
- Tôi theo đạo Ông Bà. Còn ông?
- Tôi theo đạo Tin Lành.
- Còn tôi theo đạo Công Giáo.
Những câu đối đáp trên cho thấy phần nào cái tâm trạng chung của nhiều Kitô hữu chúng ta, đó là theo đạo hay đi đạo đồng nghĩa với học đạo, sống đạo, và hành đạo. Chính vì vậy, nhiều người sau khi lãnh phép Thánh Tẩy là coi như tự nhiên biết đạo, tự nhiên là người có đạo, và do đó, không cần thiết tha, không cần tìm hiểu, và không cần sống đạo.
NHỮNG HÌNH THỨC ĐẠO THEO
“Lậy Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Tôi lấy được vợ, tôi thôi nhà thờ”. Theo đạo hay đạo theo. Quan niệm này ngày nay đang xẩy ra dưới nhiều hình thức: theo đạo để có người yêu. Theo đạo để kiếm được địa vị. Theo đạo vì công ăn việc làm. Theo đạo vì bố mẹ mình có đạo. Theo đạo vì được rửa tội ngay từ còn nhỏ. Theo đạo vì thấy người trong đạo làm gì thì mình làm như vậy. Theo đạo vì thấy đạo vui vui, vì thấy đạo đáp ứng phần nào nhu cầu tâm linh của mình. Theo đạo để có chỗ mà cầu xin mỗi khi mình cần một cái gì. Với một số đông khác, theo đạo cùng nghĩa với việc gia nhập các hội đoàn, đoàn thể, các hoạt động tôn giáo.
Như vậy, linh mục chính xứ vì bất đồng ý kiến với một số vị trong hội đồng, mà đập bàn quát tháo, bất mãn rồi bất mãn bỏ phòng họp đi ra ngoài.
Không được bầu làm trưởng ban tổ chức, ông chủ tịch đã vùng vằng bỏ họp ra về. Ông đã giận linh mục chính xứ và cũng từ đó thôi luôn không tham dự các sinh hoạt của giáo xứ. Bỏ thánh lễ, và bỏ đạo.
Không được chị em tín nhiệm bầu lại trong nhiệm kỳ khóa hai nên nghỉ sinh hoạt với hội, và cũng cấm luôn người con trai không cho làm huynh trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể trong giáo xứ.
Xưng tội “cha mới” thiêng hơn “cha cũ”. Xưng tội cho vui.
Tóm lại hình thức theo đạo, hay đạo theo đối với nhiều người còn cùng nghĩa với việc:
Tham dự các hội đoàn, đoàn thể. Tham gia các hoạt động tôn giáo để có chút danh tiếng, để xã giao và tạo cơ hội hùm hạp, làm ăn.
Tham dự các nghi lễ, và lãnh nhận các bí tích cho vui, hoặc tỏ ra là mình có đạo.
Kinh kệ dài dòng, hoặc đọc thuộc lòng những kinh sách mà không một chút suy tư.
Đếm coi bao nhiêu lễ mình dự, bao nhiêu lễ mình xin, và bao nhiêu ơn toàn xá, đại xá mình được để tin rằng với những bảo đảm tinh thần ấy sẽ được lên Thiên Đàng.
Những việc làm trên là một hình đạo theo, theo đạo chứ không sống đạo. Hành động theo cảm tính. Hoạt động vì ham danh, vì được người khác nể trọng. Tham dự các bí tích cho vui, ai sao tôi vậy. Đây không phải là sống đạo, vì những hành động ấy không mang lại sức sống tâm linh và làm nẩy sinh hoa trái của đời sống tâm linh thực sự.
SỐng đẠo
Đề cập đến hình thức đạo theo hay theo đạo, chúng ta không nhắm tới những người sau khi đã khôn lớn, bằng tác động thần linh học hỏi, khám phá, và cảm nhận được Đức Tin. Những Kitô hữu này đúng ra là nhận biết Chúa một cách muộn màng, chứ không phải là những kẻ theo đạo hoặc đạo theo như một số vẫn tự hào và cho mình là đạo gốc, đạo dòng thường quan niệm. Thánh Kinh đã nói rõ về điều này khi Chúa Giêsu dùng thí dụ người chủ thuê thợ làm vườn cho mình, trong đó có người được thuê từ sáng sớm, một số khác muộn màng hơn. Hoặc khi Ngài nói về nước trời thì cho biết là nhà Cha của Ngài có nhiều chỗ.
Những người đạo từ trong bụng mẹ đạo ra. Những người vừa sinh ra mấy ngày đã được mang đi rửa tội chưa chắc đã “có đạo”, nếu như không “sống đạo”. Ở một nghĩa nào đó, họ vẫn là những người theo đạo, hay đạo theo. Theo đạo bố mẹ, theo đạo anh chị em, theo đạo vì từ đời ông bà, cha mẹ đã theo đạo, và nay không muốn bỏ.
Học đạo, sống đạo, và hành đạo. Đây là ba điểm quan trọng trong đời sống Kitô hữu của một cursillista, thuộc phong trào Cursillo. Một phong trào Công Giáo Tiến Hành có tầm mức quốc tế và hiện thu hút rất nhiều Kitô hữu thuộc đủ mọi thành phần dân Chúa gồm hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, tu sỹ nam nữ, và giáo dân.
Ba điểm sống trên rất phù hợp với đường hướng sống đạo mà Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã vạch ra cho Giáo Hội và riêng mỗi một Kitô hữu, đó là: “Lời Chúa, Thánh Thể, cầu nguyện, và bác ái huynh đệ.”
Người Kitô hữu sau khi đã trở thành con Chúa, dù là từ lúc còn nhỏ do cha mẹ đem đến thánh đường để nhận phép Thánh Tẩy, hoặc sau này do tự ý mình gia nhập Giáo Hội, cần thiết nhất là phải “sống đạo”. Sống đạo chứ không chỉ theo đạo.
Sống đạo là sống với Lời Chúa, sống bằng Thánh Thể, sống bằng cầu nguyện, và sống bằng những hành vi bác ái như Đức Gioan Phaolô II đã nhắc nhở, và như chính Chúa Giêsu đã truyền dậy: “Người ta sẽ cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ thầy, là các con yêu thương nhau” (Jn 13:35).
Đọc kinh rang rang ngoài miệng chưa phải là cầu nguyện, và vì thế, chưa phải là sống đạo cách trưởng thành.
Cầu nguyện theo những kinh bổn đã được soạn sẵn, mặc dù đó là những tâm tình của nhiều vị thánh, hoặc những nhà đạo đức cũng chưa phải là sống đời cầu nguyện.
Cầu nguyện là thưa truyện với Chúa. Nói với Chúa như con nói với cha. Cầu nguyện như tâm tình cầu nguyện mà Chúa Giêsu dậy trong Thánh Kinh. Chúa cầu với Chúa Cha như thế nào? Và Chúa bảo các Tông Đồ cầu như thế nào, nơi chốn và cách thế, là cầu nguyện để sống đạo, và sống đạo do cầu nguyện. Đem tinh thần và Lời Chúa vào đời sống của mình bằng cách đối diện với Chúa, lắng nghe và thực hành Lời ngài dậy bảo.
Rước Thánh Thể cho qua lần chiếu lệ, không đem sức sống của Thánh Thể vào đời sống tâm linh và làm tăng trưởng cuộc sống ấy, chưa gọi là rước Chúa để sống đạo. Nhiều Kitô hữu vừa ra khỏi thánh đường đã cãi lẫy, gây sự, và có những hành vi thiếu hoặc lỗi đức ái, như vậy không phải là rước Thánh Thể để sống đạo. Không phải là có Chúa trong cuộc đời của mình.
Làm ngơ và không quan tâm đến những đau khổ, bất hạnh của anh chị em mình bằng cách khỏa lấp tính tham lam, hà tiện, hẹp hòi, kiêu căng qua những kinh kệ, qua những lần đến thánh đường, qua những buổi lễ lạc, tổ chức linh đình đó không phải là sống đạo.
Sống đạo là sống Lời Chúa:
“Lời Chúa là đèn soi lối con đi, là ánh sáng soi đường của con” (Ps 119:105). Người Kitô hữu thực sự phải học, phải say mê, và phải sống Lời Chúa. Nhưng cho đến nay, một điều xem như hiển nhiên là phần đông người Công Giáo Việt Nam trong lứa tuỗi 50 trở lên thuộc lòng nhiều kinh bổn, thuộc lòng nhiều ca vãn, nhưng biết ít về Kinh Thánh. Trong nhà nhiều người Công Giáo còn không có một cuốn Thánh Kinh. Có thể nói đây là lối sống đạo “đọc kinh”. Đọc kinh thay cho sống đạo.
Phần lớn, hay có thể nói là toàn tòng các thánh đường ở Việt Nam, ngay cả tại các cộng đoàn Công Giáo Việt Nam ở Hoa Kỳ, mỗi ngày Chúa Nhật trước thánh lễ đều có đọc kinh rang rang. Kinh Mười Điều Răn, kinh Phúc Thật Tám Mối, kinh Tin Cậy Mến. Nhưng nếu hỏi tại sao và ở đâu Chúa đã ban 10 điều răn, hoặc cái ý chính của 10 giới răn ấy là gì thì có lẽ nhiều người không biết. Và phần đông sẽ cho rằng, đó là 10 điều phải giữ để khỏi phải sa địa ngục. Riêng về Phúc Thật Tám Mối, nếu có hỏi tại sao nghèo lại là cái phúc. Đói khát sự công chính, hoặc khóc lóc là cái phúc, nhiều người cũng sẽ không biết phải trả lời ra sao. Nhưng bảo đọc 10 giới răn, hoặc 8 mối phúc thật thì hầu hết đều đọc thuộc lòng. Đó cũng là lý do nhiều người vẫn coi Chúa như “quan tòa” nghiêm ngặt và khó tính, nên ráng phải giữ, phải tránh những điều phiền hà, những cái có thể làm cho mình bị phạt, không được vào Thiên Đàng.
“Vô tri bất mộ”. Không hiểu Chúa, không biết ngài làm sao yêu mến. Không yêu mến làm sao sống, và làm sao có thể truyền bá hoặc rao giảng. Để mộ mến, để sống thân mật, và để hãnh diện nói với người khác về Thiên Chúa, cách tốt nhất là phải hiểu ngài, và biết ngài. Làm cách nào? Bằng cách đọc và suy ngẫm Thánh Kinh. “Có lời tiên tri chép rằng: “Chúng sẽ được Thiên Chúa dậy dỗ. Những ai nghe tiếng Chúa Cha và học nơi người hãy đến với ta” (Jn 6:45).
“Chúa có lời ban sự sống đời đời” (Jn 6:68). Thánh Phêrô đại diện cho các Tông Đồ thưa với Chúa trong khi ngài buồn lòng vì một số không tin ngài và đã bỏ đi.
Chúa có lời ban sự sống. Chính ngài là Lời của Thiên Chúa. Cũng chính ngài là sự sống: “Thật vậy, Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban người Con duy nhất của ngài để những ai tin vào ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời” (Jn 3:16).
Vậy, để cầu nguyện như Chúa muốn ta cầu nguyện. Cầu nguyện để Chúa nhận lời. Cầu nguyện để kết hợp mật thiết với Chúa. Và để hiểu được ý nghĩa cao cả của Thánh Thể. Để Thánh Thể trở nên của ăn, của uống nuôi dưỡng linh hồn và làm thăng tiến đời sống tâm linh. Để đức ái được bén rễ trong đời sống thường ngày. Để biết mở rộng lòng mình trước những nỗi khổ của người khác. Biết mở rộng vòng tay ôm ấp những người nghèo khổ, và giúp đỡ những anh chị em đang cần sự giúp đỡ, người Kitô hữu phải ghi khắc, yêu mến, và suy niệm Lời Chúa. Xem Chúa dậy mình những gì khi cầu nguyện. Xem sức sống thần linh của Chúa tác động như thế nào trong đời sống tâm linh. Và nhất là phải sống bác ái như thế nào để được gọi là con Thiên Chúa. Là người Kitô hữu.
Tóm lại, sống Lời Chúa là sống mật thiết với Thánh Thể. Sống Lời Chúa là sống cầu nguyện. Và sống Lời Chúa là sống bác ái huynh đệ.
Tóm lại, để sống đạo chứ không theo đạo, chúng ta cần chỉnh đốn lại lối sống đạo, và các hình thức sống đạo có vẻ bề ngoài, hình thức rườm rà kinh kệ, linh đình rước sách, rầm ran tổ chức. Cần dồn nỗ lực vào việc học hỏi và suy niệm lời Chúa. Điển hình nhất là mở những lớp giảng dậy về Thánh Kinh. Những lớp hướng dẫn Thánh Kinh. Chúng ta chỉ có thể sống đạo cách trưởng thành, sống đạo cách sống động qua việc tìm gặp và sống ý nghĩa của Lời Chúa. Và chỉ có thế, chúng ta mới dám sống chết với Chúa như Thánh Phêrô đã thưa với ngài: “Bỏ thầy chúng tôi biết theo ai?”. Và cùng với Phêrô, chúng ta xác tín: “Thầy có lời ban sự sống” (Jn 6:68).
Sau hết, như Mẹ Maria, chúng ta phải: “Ghi nhận và suy niệm trong lòng” (Lc 2:19) Lời Chúa. Đây là chính là phương thế giúp tăng trưởng đời sống tâm linh của Kitô hữu chúng ta. Đây chính là sống đạo chứ không theo đạo.
Trần Mỹ Duyệt
Theo Tâm linh vào đời
Năm 1984, Hoa kỳ đã tái lập quan hệ ngoại giao với Iraq và xếp Iraq ra ngoài danh sách các nước chuyên gây ra các cuộc khủng bố. Các nước phương Tây cũng theo chân Hoa kỳ mà đứng về phía Iraq, cung cấp chuyên viên, kỹ thuật, nguyên liệu, … nhất là trong cuộc chiến Iran-Iraq.
Không nói ra nhưng ai cũng thấy được sự cuốn hút của Iraq là những mỏ ‘vàng đen’. Thế mà hôm nay, qua các bản tin thế giới hằng ngày, ai cũng thấy các cuộc khủng bố đang trở lại và liên tục xảy ra ở Iraq mà binh sĩ Hoa kỳ luôn đứng vào vị trí đầu bảng trong số các nạn nhân.
Khủng bố được định nghĩa là dùng bạo lực mà làm cho người khác phải khuất phục vì khiếp sợ. Đặc điểm của người khủng bố là thích dùng đến cái lý của kẻ mạnh, lấy mục đích biện minh cho phương tiện, và bất chấp sự thiệt hại của người vô tội miễn là đem lại thắng lợi cho mình.
Có rất nhiều dạng khủng bố, như đánh bom tự sát, bắt con tin, … nhưng còn có nhiều cuộc khủng bố không đổ máu khác đang âm thầm diễn ra ngay trong cuộc sống bình thường, trong một chiến trường khác, nơi mà những kẻ ham lợi nhuận “đàn áp kẻ nghèo khó và muốn tiêu diệt hết những kẻ bần cùng trong cả nước” (Am 8,4).
Cũng như những kẻ đánh bom tự sát, người ham lợi đã làm hại người khác : “Chúng tôi lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát”…, nhưng trước hết là họ làm khổ chính mình : suốt đời họ là nhọc mệt không biết nghỉ ngơi, chỉ mong sao cho mau qua ngày Sabbat để bán lúa mạch. Đồng tiền làm cho họ xa lạ với Chúa - hạnh phúc thật của họ - và trở nên kẻ thù cho chính mình : họ bị bắt làm con tin, chịu khuất phục và làm theo mọi đòi hỏi của đồng tiền.
Tự sức mình, không ai là người giầu có và mạnh mẽ vì tất cả những gì họ là và họ có đều chỉ là bụi tro. Là người bình thường, thông minh hay bị thiểu năng tâm thần, có phải là do chọn lựa và cố gắng của người ta không?
Và Chúa thật đã yêu thương con người biết bao khi ban chính mình cho họ làm sản nghiệp, khi “nâng cao kẻ túng thiếu từ chỗ bụi tro” (Tv 112,7).
Thân bụi tro còn dám mong gì hơn?
Ơn cứu độ, bình an và sự giầu có thật chỉ đến cho những ai mà sản nghiệp của họ là Thiên Chúa, khi đó họ “được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch” (1Tm 2,2).
Nhưng tiền của, ngoài vai trò cần thiết tự nhiên, đôi khi lại lấn chiếm một chỗ đứng tối thượng trong đời sống con người, như một ngẫu thần.
Ngày nay, trong bối cảnh xã hội văn minh và khoa học, người ta ít còn tin tưởng và tôn thờ các ngẫu thần của thời xưa như mặt trời, mặt trăng, thần sấm, thần sét v.v… nhưng họ lại có các ngẫu tượng khác, là của cải, tính ham mê khoái lạc, tính vô tiết độ, … thay thế chỗ cho Mercury (thần lanh lợi, tiền bạc), Bacchus (thần rượu chè), Venus (thần ái tình)…
Có sự giầu có bởi tiền bạc và sự giầu có bởi niềm tin vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Chúa gọi tiền bạc là ‘tiền của gian dối’ vì chúng chỉ đem lại một sự giầu có giả hiệu, không ổn định và rất mau qua; nhưng thật đáng buồn vì có nhiều người theo Chúa mà tỏ ra kém nhạy bén, kém sắc sảo và mạnh mẽ khi tìm hạnh phúc Nước Trời mai sau, không được như một thương gia khi tìm kiếm tiền của trần gian : “con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng”. Căn bệnh nan y đó chỉ có thể được chữa trị tận gốc bằng một chọn lựa dứt khoát : “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”.
Sau Thế chiến II, một quân nhân người Ý muốn có một vật gì để làm kỷ niệm nên anh đã đi tìm những kỷ vật trong cuộc chiến. Anh tìm thấy một tấm gương gợi nhắc lại thật nhiều kỷ niệm. Tấm gương đó cao bằng đầu và rất rộng nên anh phải ghé lưng vác về cách vất vả. Đi đường, anh phải lo toan gìn giữ sao cho tấm gương khỏi vỡ. Có nhiều đêm anh phải tìm nhà thuê để gửi miếng kính đó, còn mình thì ở chỗ khác. Những đêm không ngủ cạnh tấm gương làm anh mất ngủ và mất sức.
Vừa mang vác vừa lo lắng quá sức nên một ngày kia, khi đang đi anh đã đánh rớt tấm gương làm cho nó bể ra từng mảnh. Mới đầu, anh thấy rất buồn, nhưng sau lại thấy mình thảnh thơi, và anh tự hỏi không biết hôm trước mình làm chủ tấm gương hay tấm gương làm chủ mình.
Tôi cũng là anh lính đó với tấm gương nặng trên lưng là tiền của và tài sản đang đợi ngày tan tành tất cả. Thế thì còn gì có phúc hơn khi tôi có thể đem lại cho chúng một giá trị vĩnh cửu cho hạnh phúc đời đời của tôi : “Hãy dùng tiền gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”.
Quy luật cho hạnh phúc đời đời Chúa đã ban cho tôi. “Vậy con hãy qui hướng mọi cái về Cha như cứu cánh chính của con, vì chính Cha đã ban cho con mọi cái .” (Imit III, IX, 4)
Lm. HK
Hằng năm vào đầu mùa Xuân, ngày Mùng Một Tháng Giêng âm lịch, ngày mừng lễ Tết Nguyên Đán cho mọi người, theo phong tục tập quán bên Việtnam cùng bên Trung hoa.
Sang tiết mùa Thu, ngày 15. Tháng Tám Âm lịch, còn gọi là ngày Rằm Tháng Tám, có lễ Tết cho trẻ em thiếu nhi. Vào ngày này, ban đêm mặt Trăng chiếu sáng tròn đầy trên nền trời.
Vào ngày này lúc trời vừa tối, các em thiếu nhi tay cầm đèn có ngọn nến hay đèn điện cháy sáng đi rước vui chơi ca hát những bài hát thiếu nhi tuổi thơ. Và các em còn nhận được qùa bánh nữa.
Các em vui mừng hạnh phúc và cả người lớn cũng cảm thấy vui mừng hạnh phúc theo.
Chiếc lồng đèn các em cầm
trong tay được làm bằng giấy mầu hay vật dụng khác. Nhưng đều có vẽ khắc hình
các con thú vật như chim chóc, gà, thỏ, nai, cá và có cả hình em bé chạy nhảy
vui đùa nữa. Những hình ảnh này nổi bật rõ nét khi ánh sáng ngọn nến, hay đèn
điện trong lồng đèn bật chiếu sáng lên
Ánh sáng tỏa ra từ chiếc lồng đèn trên tay em bé phát tỏa
ánh sáng vàng mờ nhạt. Ánh sáng đó không mạnh để nhìn thấy vật chung quanh gần
đó. Nhưng ánh sáng đó vừa đủ nhận ra gương mặt, đôi mắt trong sáng ngây thơ vô
tội của em bé cầm đèn.
Ánh sáng đó không phát tỏa hơi nóng làm khó chịu chói mắt, khi nhìn vào đèn. Nhưng ánh sáng đó mang đến không khí thi vị êm dịu.
Ánh sáng phát tỏa ra từ chiếc đèn lồng trung thu trên tay em bé gợi nhớ đến ánh sáng cây nến Rửa Tội. Cây nến Rửa tội cũng không to lớn. Cây nến này được đốt thắp lên từ ngọn lửa cây nến Chúa Giêsu phục sinh: ánh sáng đức tin.
Làn nước Bí tích Rửa tội đem lại sức sống cho hạt giống hay cây rễ đức tin được gieo trồng trong tâm hồn con người.
Ánh sáng đức tin phát tỏa từ cây nến Rửa Tội, tuy nhỏ yếu nhạt, nhưng đủ soi chiếu cho tâm hồn nhận ra thế nào là sự tốt lành thánh thiện, thế nào là tình yêu bác ái niềm vui, thế nào đường tội lỗi sự dữ.
Antoine de Saint Exupe´ry đã thuật lại cuộc đối thọai giữa cậu Hoàng Tử nhỏ và chú Chó Sói về tình yêu: „ Cậu Hoàng tử nhỏ trở lại với chú Chó Sói: Adieu, chào tạm biệt Bạn!
Chú chó Sói nói lại: Adieu chào tạm biệt Bạn!. Nhưng tôi muốn nói với Bạn điều bí ẩn mầu nhiệm. Nó đơn giản thôi: Người ta nhìn thông thường bằng đôi con mắt, nhưng chỉ nhìn rõ ràng sáng tốt với trái tim tâm hồn! Vì những gì căn bản thiết yếu ẩn dấu không thể nhìn bằng đôi con mắt thường được.“
Ánh sáng chiếu tỏa từ trong chiếc lồng đèn Trung Thu làm nổi bật rõ nét những hình thù tô vẽ trên đèn.
Ánh sáng đức tin cây nến Rửa Tội, qua đời sống người đã nhận lãnh Bí tích Rửa tội của một tâm hồn ngay chính kính sợ Thiên Chúa, sống theo giới luật Chúa, luật Giáo Hội Chúa truyền dạy, cùng lòng kính trọng thiên nhiên và con người, cũng làm nổi bật rõ nét khuôn mặt Thiên Chúa tình yêu, nguồn sự sống đã khắc ghi trong tâm hồn cuộc sống của họ.
Hình ảnh các em thiếu nhi đi ca hát với chiếc đèn lồng Trung Thu trong tay là hình ảnh sống động nói lên sức sống phát triển đang đà vươn lên.
Hình ảnh đó cũng hình ảnh rao truyền sự sống cùng tình yêu Thiên Chúa giữa con người. Ánh sáng chiếc lồng đèn, sức sống vui tươi hạnh phúc, cùng tâm hồn hồn nhiên niềm tin của các em thiếu nhi vẽ nên hình ảnh đó.
Vì chỉ có ánh sáng mới có thể soi sáng; chỉ có Đức tin mới có thể truyền bá Đức tin; chỉ có sự sống mới có thể làm phát sinh sự sống.
Điều này luôn rất cần thiết cho đời sống gia đình, cho xã hội, cho Hội đoàn, cho Cộng đoàn Giáo Hội của Chúa ở trần gian.
Hình ảnh các em thiếu nhi đi rước đèn cũng là hình ảnh đi tìm kiếm niềm vui hạnh phúc. Các em thiếu nhi không đi tìm điều đó một mình. Nhưng cùng với mọi người, và cùng với mọi người chia sẻ niềm vui hạnh phúc đó.
Trong đời sống Đức tin cũng thế, như Chúa phán: ” Nước Trời ở giữa các con” ( Lc 17,21). Vì thế, đi tìm Nước Trời một mình sẽ không thấy; xây dựng Nước Trời một mình sẽ không thành công.
Phải chăng đây là cung cách sống chân thành của một nếp sống tương quan liên đới cùng xây dựng Nước Chúa trong lòng Giáo Hội Chúa Giêsu ở trần gian?
Tết Trung Thu Rằm Tháng Tám năm Đinh Hợi - 2007
LM. Nguyễn Ngọc Long
SỐNG CHỨNG NHÂN
MAHATMA GANDHI: MỘT KITÔ HỮU KHÔNG TÊN
Cha Ninan Tharakan Anniyil là Linh Mục
Công Giáo nghi lễ syro-malankar, bang Kerala, Nam Ấn Độ. Năm 1983 tại Giáo Hoàng
Học Viện Poona, Cha trình luận án cử nhân thần học tựa đề: ”Mahatma Gandhi hay
là Kitô-hữu không tên”.
Gandhi tên thật là Mohandas KaramChand Gandhi (1869-1948), nhưng được biết đến nhiều hơn dưới tên gọi ”Mahatma Gandhi”.
Mahatma theo ngôn ngữ ấn giáo có nghĩa là ”tâm hồn cao cả”, tương đương với chữ ”thánh thiện” bên Công Giáo. Hình ảnh Gandhi gắn liền với tinh thần ”bất bạo động” trong cuộc chiến dành lại nền độc lập cho Ấn Độ. Nhưng tinh thần ”bất bạo động” này mang ý nghĩa rất tích cực nơi Gandhi. Bởi vì, ông rút tỉa nó từ giáo huấn Tin Mừng của Kitô-giáo, đặc biệt từ Bài Giảng Tám Mối Phúc Thật của Đức Chúa GIÊSU KITÔ.
Cha Ninan Tharakan Anniyil viết.
Là tín đồ ấn giáo 100% nhưng suốt đời mình, ông Gandhi luôn được hình ảnh Đức Chúa KITÔ theo sát, và có thể nói - một cách nào đó - ông truyền giảng và thực thi giáo huấn của Chúa.
Thời gian du học tại thủ đô Luân Đôn của Anh Quốc, khi còn là sinh viên, giúp Gandhi có cơ hội tiếp xúc với thế giới tây phương, nhất là với giáo huấn của Kitô-giáo. Gandhi say mê đọc Kinh Thánh - đặc biệt Tân Ước - và yêu thích cách riêng ”Bài Giảng Trên Núi” tức ”Tám Mối Phúc Thật” của Đức Chúa GIÊSU. Bài giảng làm đảo lộn tư tưởng và thay đổi lối sống. Từ chàng trai da đen Ấn độ, muốn học đòi lối sống trưởng giả của các chàng trai thời đại Anh Quốc, Gandhi bừng tỉnh cơn mơ dại dột, trở về với tư cách đúng đắn của một thanh niên Ấn Độ đơn sơ và chân chính.
Sau này, khi trở về nước, lao mình vào chính trường, trở thành nhà triết học và nhà ái quốc, điều động phong trào quốc gia đòi độc lập cho Ấn Độ, ông Gandhi luôn theo sát giáo huấn của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Đó là lòng yêu chuộng hòa bình và tôn trọng sự thật.
Tấm gương Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng chịu đau khổ chết treo trên Thập Giá vì rao giảng Sự Thật và vì trung thành với Sự Thật, ghi sâu trong tâm trí Gandhi, tín đồ ấn giáo sùng đạo.
Năm 1922, khi bị điệu ra trước tòa án vì bị kết tội gọi là ”phản loạn”, Gandhi từ chối biện hộ cho mình, lấy lý do ông đã viết và nói lên sự thật, và nếu sự thật có vi phạm luật pháp quốc gia, thì ông sẵn sàng chấp nhận án phạt nặng nề nhất.
Thái độ cứng rắn khi đối diện với sự thật, hẳn là thái độ mà ông Gandhi rút tỉa từ giáo huấn Tin Mừng của Đức Chúa GIÊSU. Đó cũng là thái độ im lặng của Đức Chúa GIÊSU khi Ngài xuất hiện trước các tòa án, trước khi lãnh nhận bản án tử hình.
Nhà triết học Gandhi thích dùng thành ngữ ”Sự Thật là THIÊN CHÚA” hơn là ”THIÊN CHÚA là Sự Thật”. Đây là thành ngữ đặc biệt do Gandhi sáng tác, nói lên khía cạnh tích cực của cuộc sống con người. Đối với ông, ”Sự Thật là THIÊN CHÚA”, có nghĩa là, khi bạn tìm kiếm và tôn trọng Sự Thật, thì Sự Thật sẽ dẫn đưa bạn đến với THIÊN CHÚA. Rồi Gandhi nhấn mạnh thêm: ”Sự Thật là THIÊN CHÚA và con đường dẫn đến THIÊN CHÚA là con đường bất bạo động”.
Một quan điểm đặc thù khác nơi Gandhi: Sự Thật không hẳn là Sự Thật siêu hình hay cảm nghiệm thần bí, nhưng là ”Sự Thật luân lý”, nghĩa là: ”Sự Thật đối chiếu với lương tâm con người”. Quan niệm về Sự Thật này hoàn toàn khác lạ đối với Ấn giáo. Do đó, cung cách hành xử của Gandhi như: đưa lề luật luân lý vào trong đời sống chính trị và tuyệt đối trung thành với lương tâm trong mọi quyết định quan trọng, chắc hẳn là cung cách ảnh hưởng sâu xa bởi Kitô-giáo.
Còn một điểm khác nữa, đối với ông Gandhi, ”Nước Trời”, ”Nước THIÊN CHÚA” trước tiên, nằm trong nội tâm con người. Ông Gandhi viết:
- Kinh nghiệm làm cho tôi tin rằng Nước THIÊN CHÚA ở trong chính chúng ta. Và chúng ta có thể thể hiện Nước Chúa, không phải bằng cách kêu lên: ”Lạy Chúa, Lạy Chúa”, nhưng bằng cách thi hành thánh ý THIÊN CHÚA và giáo huấn của Ngài. Vì vậy, nếu chúng ta chờ đợi Nước THIÊN CHÚA như một cái gì đến từ bên ngoài, thì quả thật chúng ta đã lầm đường. .
Với những điểm trình bày trên đây chúng ta có thể nói: ”Mahatma Gandhi” là Kitô-hữu thực thụ, nhưng không mang danh hiệu Kitô-hữu mà thôi!
... ”Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được THIÊN CHÚA ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được THIÊN CHÚA cho thỏa lòng.
Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được THIÊN CHÚA xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy THIÊN CHÚA.
Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con THIÊN CHÚA.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.
Anh
em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên Trời thật lớn lao”
(Mátthêu 5,3-12).
(”MISSIONS ÉTRANGÈRES DE PARIS”, Février/1993, trang 37-40).
CÙNG ĐỌC & SUY GẪM
TT - Tiết trời vào thu hơi se lạnh, trời trong xanh dẫu vẫn còn những đợt mưa dầm. Tôi nhớ những ngày này năm xưa thời còn bao cấp, ông tổ trưởng đến từng nhà thu tiền bán bánh trung thu rồi phát cho mỗi hộ một hộp, loại bánh nhỏ xíu, nhân thập cẩm không biết thứ gì
TT - Tiết trời vào thu hơi se lạnh, trời trong xanh dẫu vẫn còn những đợt mưa dầm. Tôi nhớ những ngày này năm xưa thời còn bao cấp, ông tổ trưởng đến từng nhà thu tiền bán bánh trung thu rồi phát cho mỗi hộ một hộp, loại bánh nhỏ xíu, nhân thập cẩm không biết thứ gì.
Nhà tôi đông người, hộp bánh có tí teo, mỗi đứa cắn vèo một miếng là hết nên cũng chẳng nhớ mùi vị nó ngon dở thế nào. Ba tôi thương con, ráng làm thêm để kiếm tiền mua bánh cho chúng tôi ăn đỡ thèm. Cuối ngày làm việc, người ba lấm lem bụi đất, quần áo vá chằng vá đụp bước vào tiệm bán bánh trung thu lẳng lặng lấy ra những đồng tiền còn dính đầy mồ hôi đưa cho cô nhân viên mậu dịch để đổi lấy những tấm bánh thơm ngon về cho chúng tôi.
Rồi chúng tôi lớn khôn. Đứa nào cũng nghèo, riêng tôi nghèo nhất. Là nhân viên hành chính một phường nhỏ ở quận 4, mức lương ba cọc ba đồng, chẳng bao giờ tôi thỏa mãn nổi những nhu cầu thiết yếu của vợ con. Mặc cho sự nghèo của tôi, mỗi năm trung thu cứ đến, chị Hằng cứ trên cao soi sáng khắp thế gian. Ngày càng nhiều hiệu bánh mới lạ, hấp dẫn với những tên gọi rất mỹ miều.
Nhìn những lát bánh được cắt ra làm mẫu với hình ảnh lòng đỏ trứng tròn vành vạnh như trăng rằm giữa trời thu, tôi cứ muốn mua mấy hộp về cho các con ăn đỡ thèm. Nhưng vợ tôi cản: "Mua chi tốn tiền anh. Cơ quan anh thế nào cũng có người cho mà”. Đúng là năm nào cũng có người cho 1-2 hộp, nhưng chỉ vào những ngày giáp rằm, sau rằm lúc bánh trung thu đang vào mùa đại hạ giá. Thôi thì trước sau cũng được ăn, ráng chờ vậy, như chúa Trịnh ngày xưa ăn mầm đá, chờ càng lâu càng ngon.
Cuối cùng rồi cũng có một lần vào năm ngoái tôi được tặng một hộp bánh thật ngon ngay ngày mồng một tháng tám. Hộp bánh hải sản, gà quay, vi cá... dễ đến gần 200.000 đồng. Vợ tôi chép miệng: "Hộp bánh này chắc mắc tiền lắm, ăn uổng quá. Mà có ngon gì đâu. Bánh thập cẩm thì cũng như bánh bía, bánh đậu xanh thì cũng như đậu xanh hấp vậy thôi. Mình đem cho cô giáo các con đi. Con mình bệnh hoài, ngày nào cũng nhờ cô cho uống thuốc. Lâu nay chẳng tặng cô thứ gì. Nay nhân dịp có hộp bánh ngon mình biếu cô đi".
Vợ nói cũng có lý, tôi đành nghe theo, nhưng lại phát sinh một vấn đề mới là con tôi có tới hai cô giáo, không thể chỉ tặng một cô, cũng không thể chờ coi có ai tặng thêm một hộp nữa rồi mới đem biếu luôn vì bánh biếu càng sớm càng có giá trị. Tôi phải mua thêm một hộp bánh loại rẻ tiền hơn chứ mua hộp bánh 200.000 đồng thì thâm hụt hết cả tuần tiền chợ. Lúc tặng, cô nhận hộp bánh loại rẻ tiền tuy cũng cảm ơn nhưng ánh mắt cô như biết nói khi nhìn sang hộp bánh của cô kia. Tôi thầm rủa cái tội "ngu" của mình.
Có hộp bánh mắc tiền chi cho khổ vậy không biết. Đã thế, các con ở nhà ngày nào cũng hỏi bánh, tôi muốn mua đại một hộp cho chúng ăn nhưng vợ tôi lại cản: "Tháng này đã hụt tiền vì mua bánh tặng cô rồi, lại nhằm mùa khai giảng nên trăm thứ tốn kém. Thôi ráng đợi ít bữa coi có ai cho nữa không". Nhưng cuối cùng chẳng có ai cho, lúc đó đã qua rằm, tôi mua bánh "đại hạ giá” cho con ăn. Hậu quả là cả nhà bị xổ ruột.
Thời gian thoi đưa, một mùa trung thu nữa lại đang đến. Nhìn những hộp bánh chất cao ngất ngưởng ngoài các tiệm, tôi lại nao lòng nhớ đến những mùa trung thu đã qua. Chúng tôi đã không còn quá khốn khó với những chiếc bánh trung thu như thời bao cấp năm xưa, nhưng cũng chưa đủ dư dả để có thể thưởng thức một chiếc bánh trung thu mà không băn khoăn về giá trị của nó. Nhìn các con mà thương chúng chưa một lần được ăn miếng bánh ngon. Thôi thì mỗi năm có một lần, tôi tự bỏ tiền ra mua một hộp bánh thật ngon, thật sớm để vợ chồng con cái cùng thưởng thức. Tôi sẽ tiết kiệm các khoản chi phí khác. Ở đời biết đủ thì đủ, đợi đủ đợi đến bao giờ. Dẫu còn nhiều khó khăn, nhưng gia đình tôi vẫn phải được thư thả phá cỗ đêm trăng như cha tôi ngày xưa tảo tần đem niềm vui về cho các con.
CAO MINH (TP.HCM
Theo báo tuổi trẻ
TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH
Mỗi năm tại Pháp có khoảng hơn 4.000 trẻ em người nước ngoài được người Pháp nhận làm con nuôi. Cha mẹ nuôi hết lòng yêu thương chăm sóc con, nhưng họ vẫn gặp những điều chẳng như ý. Tình yêu thôi chưa đủ sao ?
Đúng vậy ! Nuôi con nuôi thì tình yêu không thôi vẫn chưa đủ. Khi lớn lên, nhiều đứa con nuôi thường trải qua một thời khủng hoảng dữ dội về nguồn cội. Đã có một số cha mẹ nuôi gặp cảnh trớ trêu đau lòng.
Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn, nó quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện đi đàng nào !
Nhiều bậc cha mẹ nuôi
con nuôi với tất cả tình thương yêu bao bọc lại được trả nghĩa bằng sự oán hận.
Vì đâu nên nỗi ?
Ông Paul nhớ lại buổi đầu gặp con nuôi ở Braxin mà ông cho là một cuộc hạnh ngộ, một cuộc gặp gỡ tràn đầy hạnh phúc. Ông bà Paul là những tín hữu công giáo nhiệt thành, có chân trong nhiều tổ chức từ thiện quốc tế giúp đỡ các nước thuộc ‘thế giới thứ ba’, rất cảm thương các trẻ em vô gia đình. Ông bà muốn giúp đỡ một trong những em bé bất hạnh đó, đã liên lạc với một linh mục. Vị này vui mừng cấp báo: “Tôi biết trường hợp mnột cô bé lang thang hè phố có đứa con gái hai tuổi đang bú. Cô ta đang muốn cho đi…”
Vợ chồng ông sang tận Braxin rước cháu bé về nuôi. Mãi mười năm sau ông còn rưng rưng kể lại chuyến đi mà ông miêu tả là một cuộc “phục sinh”. Ông kể: “Tôi ẵm cháu lên, cháu quơ bàn tay bé xíu lên mặt tôi, kêu: ‘Ba ba!’. Bây giờ sau nhiều năm, tình yêu thương đã trở thành nỗi cay đắng. Vào tuổi mười hai, Célia (tên cháu gái) bắt đầu giở chứng. Cháu trốn khỏi nhà, ẵm theo một mớ tiền, đàn đúm với đám trẻ bụi đời. Cháu hay sừng sỏ với mẹ nuôi. Bà kể: "Làm như cháu trút hết lên đầu tôi sự căm thù hung hãn dành cho mẹ đẻ, người đã ruồng bỏ cháu. Chúng tôi cứ nghĩ có tình yêu: ‘dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng’. Ai có ngờ đâu… Vợ chồng tôi kể như hòan toàn thất bại”.
Không chỉ gia đình ông bà Paul, mà rất nhiều cha mẹ nuôi khác cũng gặp cảnh cay đắng tương tự. Một đứa trẻ được yêu thương cưng chiều từ tấm bé, bây giờ lớn lên, quát vào mặt mẹ nuôi: “Tôi nói cho bà biết: bà không phải là mẹ tôi. Bà đã bỏ tiền ra để mua tôi về ! Bây giờ hãy để tôi yên ! Tôi muốn xéo đi nơi nào, mặc xác tôi !”. Bậc cha mẹ trong cơn buồn cùng cực cũng đã trả lời: “Ừ ! Đi đi ! Về với cái gốc chuối đã đẻ ra mày !”. Và thế là đứa trẻ cảm thấy bị bỏ rơi lần thứ hai.
Đã năm năm rồi mà bây giờ nghĩ lại, cô Anne vẫn còn sợ hãi cái thời kỳ “nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà”. Cô kể: “Tất cả bắt đầu khi cháu Denis (đứa con nuôi) được 14 tuổi. Một hôm cháu hất tung bàn ăn lên, bát đĩa đồ ăn rơi bể loảng xoảng”. Người anh chen vào: “Hôm khác, Denis lấy tay đấm bể cửa sổ. Hôm khác nữa, lại lấy chân giậm thình thình vào tường, đập bể một cái tủ gỗ, tát vào mặt con…”.
Bây giờ thì Denis, đứa con nuôi ấy, đã ra đi. Nhưng mỗi lần nhớ lại những ngày chung sống, cô Anne lại sợ xanh mặt. Vợ chồng cô đã lặn lội sang tận nước Columbia tìm nó. Lúc đó nó đã 8 tuổi và đã có vài ba năm đi bụi trên hè phố... Hai vợ chồng (cô Anne và Louis), những tín hữu thuần thành, vẫn ôm ấp mộng nuôi một đứa con để nguôi đi nỗi buồn tang tóc khi đứa con sơ sinh của họ bị bạo bệnh mà qua đời. Bây giờ thì Denis đã nhập bọn với băng nhóm bụi đời ở một thành phố lân cận. Anhy Louis đã bỏ nhiều ngày để đi tìm nó về nhưng nó vẫn chứng nào tật nấy, nên anh chị đành gởi con vào Fondation d’Auteuil, một cơ sở chuyên nuôi dạy trẻ em khó dạy.
Cơ sở này mỗi năm nhẫn vào mấy chục thanh niên con nuôi người nước ngòai mà cha mẹ nuôi đã bó tay không dạy nổi. Chúng là những đứa trẻ vô kỷ luật, dễ nổi khùng, rất khó vào nề nếp. Giám đốc cơ sở này cho biết: “Nhiều bậc cha mẹ có thiện ý, muốn đem tất cả tấm lòng ra nuôi nấng đỡ nâng những đứa trẻ lạc loài, những mong đem lại tương lai hạnh phúc cho chúng, nhưng họ cảm thấy nản lòng vì công mình bỏ ra đã thành công cốc !”.
Có bao nhiêu trường hợp nuôi con nuôi thất bại như vậy ? Chưa có con số chính thức, vì đây là một vấn đề cấm kỵ. Nhưng đã thấy nhiều bậc cha mẹ nuôi thất bại lên tiếng lai rai đây đó. Từ 1980 đến nay, có khoảng 65.000 trẻ em người nước ngòai được các gia đình người Pháp nhận làm con nuôi. Các em ấy đến từ khắp nơi trên thế giới. Giờ đây các em đều đã lớn, đã biết băn khoăn suy nghĩ. Em gái Célia đề cập ở đầu bài này đã tố cáo cha mẹ nuôi: “Họ đã làm tôi mất gốc. Bây giờ tôi có trở về Braxin, tôi sẽ là người nước ngoài ! Còn ở đây với bố mẹ nuôi, tôi cũng chỉ là một kẻ xa lạ, chẳng giống ai ! Tôi rất yêu mẹ nuôi tôi, nhưng sau nhiều lần ăn cắp và đi bụi, tôi cãi nhau với bà dữ dội. Bây giờ tôi cảm thấy ghét bà. Tôi nói với bà: “Đừng đi tìm tôi làm gì nữa ! Tôi chẳng cần gì cả !”.
Còn Denis hiện sống tại nhà người bạn gái cách nhà cha mẹ nuôi 500 cây số. Denis nói: “Tôi yêu gia đình bố mẹ nuôi tôi, đồng thời tôi cảm thấy thù hận. Bố mẹ khi nhận tôi làm con nuôi đã không hề hỏi ý kiến tôi mà chỉ nói vớI tôi: “Con sẽ hoàn toàn là con của bố mẹ”. Nhưng tại sao lại là tôi ? Tại sao mẹ ruột tôi lại ruồng bỏ tôi ? Tôi là ai ?”
Theo nhà phân tâm học Lévy-Soussan, chuyên về con nuôi, đứa con nuôi nào cũng vậy (dù nhỏ tuổi), đều có những dây dưa thắc mắc nêu trên. Nên khi các em lớn lên, những thắc mắc này trỗi dậy cũng là điều bình thường. Khi đến tuổi thanh niên (14 - 25), trẻ sẽ tra vấn về lịch sử của nó: mình đã bị ruồng bỏ như thế nào, đã đến với gia đình cha mẹ nuôi ra sao ?… Lo âu, xao xuyến, người thanh niên tìm cách đặt lại vấn đề về mối liên hệ giữa mình và cha mẹ nuôi.
Tuổi thanh niên là tuổi đặt lại vấn đề:
Theo bà Le Boursicot, thẩm phán chuyên về con nuôi (chính bà cũng có một con nuôi) thì: "Cha mẹ nuôi là những bậc cha mẹ mong manh, họ thường hay lo âu, hay hỏi han các nhà tâm lý hơn các bậc cha mẹ bình thường. Một trrục trặc nhỏ cũng có thể gợi cho họ ý nghĩ: ‘Tôi không mang nặng đẻ đau. Tôi không biết trong mã di truyền của cháu có những yếu tố nào’… Tình cảm này mau chóng trở thành một kẽ nứt. Ý nghĩ cho rằng: con mình đấy nhưng thật ra chỉ là con người ta, cứ ngày càng chín muồi. Khi trẻ còn nhỏ, họ cuồng nhiệt muốn nó trăm phần là con của mình . Dần dần trẻ lớn lên, họ chẳng thấy nó có nét gì giống họ cả. Và cứ thế, càng ngày họ càng chán nản.”
Theo bà thẩm phán này, khi trẻ lớn lên, nỗi thương tâm bị từ bỏ trở lại quất vào mặt cha mẹ nuôi như một cái bu-mê-răng (vũ khí hình tam giác của thổ dân Úc, ném đi đụng kẻ thù xong quay trở lại tay người ném).
Bà cho biết: “Con nuôi nhạy cảm với nỗi sợ bị bỏ rơi đến nỗi chỉ một la rầy nhẹ nhàng cũng được tiếp nhận như một sự ruồng bỏ mới. Nỗi sợ này càng mạnh mẽ khi trẻ có một quá khứ u buồn, bị cha mẹ ruột ruồng bỏ, trong khi hiện nay cháu chưa có với cha mẹ nuôi một mối thâm tình bền chặt để có thể tin chắc như đứa con ruột rằng dẫu có thế nào cha mẹ mình cũng không bỏ mình được, và rằng mặc dầu có khó khăn nhất thời, cuộc sống (trong gia đình này) cũng sẽ là cuộc sống đáng sống. Đề có câu trả lời khẳng định cho những thắc mắc này, đứa con nuôi đặt ra những ‘trắc nghiệm’ cho cha mẹ nuôi của mình”.
Nhiều cha mẹ nuôi có khuynh hướng cho rằng tình yêu của họ sẽ là phép mầu nhiệm ‘dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng’. Nhưng hỡi ôi ! Đó là một quan niệm quá lạc quan ! Nhưng theo nhận xét của bà Delannoy, một nhà giáo dục có con nuôi, thì lại khác. Bà đã phỏng vấn 150 gia đình để viết cuốn sách nhan đề “Au risque de l’adoption” (Cũng liều mà nhận con nuôi). Tình yêu của cha mẹ nuôi, theo bà, thường có tính cách loại trừ mọi liên hệ quá khứ của đứa trẻ, trong khi đứa trẻ muốn tìm sự độc lập của riêng nó. Nhà tâm lý Pascal Roman cho biết: “Các cha mẹ nuôi mơ ước có một tình yêu quá lý tưởng với con họ, nên mọi mối bất đồng đều bị họ cảm nhận như một sự chối bỏ”. Điều này được bà Delannoy công nhận: “Chúng ta có với con nuôi một một mối liên hệ quá gắn bó, quá khó bẻ gãy !”.
Đối diện với cơn lốc phụ rẫy, các cha mẹ nuôi cảm thấy mình cô đơn. Nhất là khi đứa con ấy họ tự mình lặn lội ra nước ngoài tìm kiếm, không nhờ một cơ quan trung gian nào. Nay xảy ra sự chẳng may, họ chỉ biết đấm ngực trách mình, chẳng nhờ ai giúp đỡ được. Thường họ nhờ đến pháp luật. Một bà mẹ nghe con nuôi nói: “Bà không phải là mẹ tôi !”. Bà đã trả lời: “Đúng, nhưng Tòa đã phán quyết con là con nuôi của mẹ, thì mẹ không thề bỏ con”. Nghe vậy, nhiều đứa trẻ đã cảm thấy vững dạ và đã trở lại sống ngoan hiền hiếu thảo.
Bà Aubépine, gốc Hàn quốc, năm 1972 đã được một người Pháp nhận làm con nuôi. Đến tuổi trường thành bà đã trải qua một thời kỳ khùng hoảng, nên gần bốn mươi mà tính khí bà vẫn hung hăng. Nhưng có hai biến cố đã thay đổi đời bà: một là bà lấy được một người chồng yêu thương, hai là bà nhận một đứa trẻ người Hoa 6 tháng tuổi làm con nuôi. Bà kể : “Tôi đã nhờ người dạy cháu nói tiếng Hoa và tôi cũng giải thích với cháu bằng tiếng Hoa: con nuôi là gì. Mẹ con sống rất hòa hợp. Tôi cho rằng nhận nuôi một đứa trẻ là cháu có thế nào mình nhận như vậy, kể cả quá khứ cũa cháu, nguồn cội của cháu. Chứ không phải coi cháu như người mình mơ ước.
Bà Aubépine đã liên lạc với cha mẹ ruột của cháu bé, và đã giúp đỡ một cháu gái con nuôi khác đã nhiều lần có toan tính tự tử. Bà kể: “Tôi nói với cháu ấy: cháu đã không lựa chọn cha mẹ nuôi, nhưng cháu phải chấp nhận họ. Trong lúc đời cháu nguy nan nhất, không phải cha mẹ ruột của cháu, mà là cha mẹ nuôi của cháu bây giờ đã săn sóc yêu thương cháu”.
Huỳnh Hay
Nhân ngày Tết trung thu, ngày vui cho trẻ, nhưng có lẽ người cảm thấy ấm áp hơn đó là những ai có hạnh phúc làm cha làm mẹ. Nhân dịp này tôi xin được chia sẻ một số suy tư về con trẻ, là những đối tượng mà Chúa Giêsu yêu thương và dạy chúng ta noi theo:
“Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng”.
Phụ huynh thường băn khoăn lo lắng tìm đủ cách để giáo dục con em. Đây là bổn phận và là một việc rất chính đáng đối với các phụ huynh. Tuy nhiên chúng ta đừng quên rằng trong tay chúng ta đang có những kho báu vô giá. Nhiều giá trị nơi con em chúng ta cần ngưỡng mộ, giữ gìn và học hỏi . Càng suy nghĩ tôi thấy là Chúa dạy “trở nên như trẻ nhỏ” thật quá sâu sắc và ý nghĩa.
Trước hết, chúng ta phải thừa nhận, có trẻ con trong nhà là có niềm vui, có sự tươi mát và gia đình tràn đầy sinh khí. Điều gì đã tạo nên bầu khí đó?
Trẻ là mầm sống, chúng đang lớn, chúng là dấu hiệu của sự sống . Chúng đầy năng lực, vì trẻ con luôn sống hết mình . Chúng vươn tới trước , không e dè, sợ sệt, không phòng vệ. Khi chơi, chúng chơi hết mình, và chỉ biết có chuyện chơi mà thôi. Trẻ không bị những thứ khác chi phối. Làm gì trẻ cũng để mình cuốn hút và để tất cả tâm lực vào đó.
Trẻ em sống thật con người của mình. Chúng hoàn toàn thoải mái và không phải bận tâm lo nghĩ người ta nhìn mình, nghĩ gì, nói gì về mình, trong lòng làm sao, vui buồn chúng đều tỏ ra không dấu diếm, tránh né hay phòng vệ. Chúng không mang mặt nạ hay tìm cách để cho mình được khen ngợi, được vượt trội hơn các bạn. Chúng không biết thêm thắt để người ta đánh giá cao hay tìm cách lấy lòng người khác. Tính trong sáng của trẻ được nhân gian đề cao và tin tưởng, những gì trẻ nói ra, rất đáng tin cậy.
“Ra đường hỏi người già, vào nhà hỏi con trẻ”.
Chỉ trẻ con mới sống chan hòa, không phân biệt phái tính, khi chơi hay chung đụng, chúng không để ý là chúng chơi với con trai hay gái, không phân biệt bạn mình theo đạo nào. Trẻ cũng không cần biết bạn mình đẹp hay xấu, diện mạo hoặc giàu nghèo đối với trẻ không nghĩa lý gì cả. Chúng chỉ biết “con người” mà chúng đang tiếp xúc, đang chơi với hoặc đang gần.
Trẻ con chẳng lấy làm quan trọng những gì mà thế gian, người đời đánh giá cao hay tìm kiếm. Tầm quan trọng chúng dành cho mỗi người là ở con tim. Trẻ sẵn sàng thương yêu và sống nhờ tình yêu. Những người chức cao quyền trọng đối với trẻ con chẳng là gì cả. Những kẻ mà người lớn cho là quan trọng thì chẳng gây cho trẻ một ấn tượng nào.
Trẻ con rất nhạy cảm, với nỗi đau của người khác, và cũng rất nhạy cảm với những thái độ chúng ta đối với chúng. Trẻ rất gần với những giá trị nhân bản, chúng quảng đại, rất dễ cảm thông, khoan dung và chạnh lòng… Trẻ không so đo tính toán hơn thiệt, tìm lợi hay cạnh tranh, giành giựt như người lớn. Điển hình cho những giá trị đó là câu chuyện của bé Tâm, một học sinh tiểu học.
“Tâm dự cuộc thi chạy đua tại trường, ở vòng một, Tâm đã về nhất, em được đeo một giải “ruybăng” trên ngực. Tâm rất hãnh diện nhìn cha mẹ và cô giáo ở giảng đài đang vui mừng và hài lòng về em. Đến vòng hai, Tâm cũng là bé chạy nhanh nhất, ai cũng đặt nhiều hy vọng và chắc chắn em sẽ thắng vòng này nữa. Chỉ còn một vài bước nữa là Tâm đến đích, ai cũng thở phào nhẹ nhỏm. Bất chợt, Tâm dừng lại và né sang một bên, Bình sau em tiến lên và thắng vòng hai. Khi xong cuộc, cha mẹ và cô giáo hỏi lý do em dừng lại. Tâm mĩm cười nhẹ nhàng trả lời: “Con đã có một dây “ruybăng” rồi, bạn Bình của con chưa có”.
Thật là cao đẹp, trong sáng, tình người đơn giãn mà sâu đậm. Đơn giản như tâm hồn một trẻ thơ. Quyền lợi, thắng lợi, không thể chiến thắng cái tâm tốt lành của chúng. Đúng là “nhân chi sơ, tính bản thiện”. Trong tương quan, trong tình cảm, trẻ không đòi hỏi điều kiện gì , chúng không có hậu ý, mà tin tưởng, hồn nhiên trong các mối quan hệ.
Có lẽ thế giới này đầy dẫy chiến tranh, bạo lực… vài con người đã mất đi bản chất cao quý của một đứa trẻ. Để sống còn, không ít người lớn tham lam, lắt léo, mưu mô và dối trá. Giữa người lớn và trẻ con có vô vàn cái khác biệt. Nhiều lúc tôi nghĩ tại sao người lớn chúng ta đánh mất đi những giá trị mà chúng ta đã được trang bị khi bước chân vào trần gian này! Xin phụ huynh cùng tôi nghĩ suy nguyên nhân và tìm cách cùng tôi chuộc lại những giá trị mà cuộc đời và tuổi trẻ của chúng ta đã làm rơi rụng. Có phải vì thế mà Chúa Gêsu nói chúng ta phải được “sinh lại”? Có lẽ một trong những điều giúp chúng ta “tái sinh” tinh thần trẻ thơ là quan sát và học lại từ trẻ con những nét đẹp cơ bản từ bản chất của một sinh linh bé bỏng, mà chính phụ huynh đã tạo nên hình hài.
Trẻ đang mang trong mình những hạt giống lành mạnh . Chúng ta, những bậc làm cha mẹ, nhà giáo dục, hay người lớn. Chúng ta làm gì để duy trì hay để phá vỡ những giá trị cao quý đó? Nhiều lần chúng ta quở trách trẻ vì chúng đã nói thật, đã tốt với người khác, hay đã chân thành tỏ ra những gì chúng nghĩ, chúng làm.
“Một hôm, có người mẹ đón con từ trường Mẫu giáo về. Bà ghé bên lề đường mua một ít cam. Khi người bán hàng tìm bao để đựng, bà đã bốc thêm một quả bỏ vào rổ cam đã mua. Cậu bé thấy mẹ làm như thế bèn gọi to: “Mẹ ơi, không phải là của mình”. Người mẹ tức bực, giáng cho bé một cái tát cực mạnh”.
Người lớn của chúng ta đã làm ô nhiễm, lệch lạc tâm trí trẻ với những loại ứng xử như thế. Dần dần trẻ lớn lên và đã học được rằng: muốn yên thân, khỏi bị đòn, không nên nói những điều mình biết, dù điều đó đúng.
Trẻ chỉ biết cười, và đầy hy vọng vào ngày mai. Tính lạc quan giúp cho trẻ dám “tiến tới” trong những gì chúng muốn, chúng thích và chúng làm. Chúng vui thú tưởng tượng, nghĩa là đầu óc của chúng đầy sáng tạo . Chúng có thể xây những lâu đài bằng cát, và rồi bị sóng biển cuốn trôi, chúng tiếp tục xây, và vẫn hăng say không mệt mỏi, chúng bắt đầu, rồi lại bắt đầu lại một cách hết mình . Trẻ con không biết cằn nhằn, nếu có, đó chỉ là lập lại những gì người lớn đã làm mà thôi.
Trẻ con sống sung mãn, đầy sinh lực và đầy niềm vui. Chúng sống đúng như ước muốn mà Chúa Giêsu đã nói:
“Ta đến để các con được sống, và sống dồi dào”.
Ước mong chúng ta duy trì được nụ cười và cái tâm trạng sáng sủa trẻ thơ, và làm hiện lên nét đẹp của con trẻ đang bị vùi lấp trong chúng ta.
NT. M. Thécla Trần Thị Giồng
Dòng Đức Bà
Bánh trung thu tượng trưng cho sự đoàn viên, là thứ không thể thiếu để cúng trăng và thổ địa công vào mỗi mùa Trung thu. Phong tục ăn bánh trung thu vào Tết Trung thu bắt đầu từ cuối đời nhà Nguyên bên Trung Quốc đến nay.
Trong dân gian có rất nhiều truyền thuyết giải thích vì sao cứ đến tết Trung thu người ta lại ăn bánh trung thu. Nhưng truyền thuyết được phổ biến nhất là trong những năm cuối triều đại nhà Nguyên, bọn thống trị áp bức bóc lột nhân dân rất tàn khốc, khiến dân chúng bất mãn và nuôi ý chí phản kháng mãnh liệt.
Hồi ấy có hai vị lãnh tụ của phong trào nông dân khởi nghĩa là Chu Nguyên Chương và Lưu Bá Ôn đã tổ chức nhân dân vùng lên chống lại bè lũ thống trị tàn bạo. Để có thể truyền đạt tin tức và mệnh lệnh một cách bí mật, người ta đã làm những cái bánh hình tròn, trong những cái bánh này đều có nhét thêm một tờ giấy ước định thời gian khởi nghĩa là lúc trăng sáng nhất trong đêm rằm tháng Tám âm lịch. Sau đó những cái bánh này được người ta truyền đi cho nhau và trở thành một phương tiện liên lạc. Phương pháp này tỏ ra hết sức hiệu nghiệm, tin tức hô hào khởi nghĩa đã được truyền đi khắp nơi.
Về sau người Trung quốc lấy việc làm bánh Trung thu vào ngày rằm tháng Tám để kỷ niệm sự kiện ấy. Như vậy phong tục ăn bánh Trung thu trong ngày tết Trung thu dần dần đã được lưu truyền cho tới ngày nay.
Mộng Tuyền ( sưu tầm)
ĐỌC SÁCH
2. Hội Đồng Giáo Xứ: cánh tay nối dài của cha sở.
Cha sở không thể cùng một lúc mà hiện diện khắp nơi
trong giáo xứ của mình, bởi vì ngài không phải là...Thiên Chúa, do đó mà cánh
tay ngắn ngủi năm tấc của ngài cũng không thể vươn tới những khu xóm hoặc những
gia đình trong giáo xứ, cho nên Hội Đồng Giáo Xứ chính là cánh tay nối dài của
cha sở mình.
Những thành viên trong Hội Đồng Giáo Xứ chắc chắn sẽ có những trình độ và khả
năng không giống nhau, và nếu cha sở là người luôn nhìn thấy được thánh ý
Chúa nơi các cộng sự viên của mình, thì những cái “không giống nhau” ấy sẽ
là những lợi thế để cha sở khuyến khích họ phát huy khả năng của mình, và với
tài “dụng nhân như dụng mộc” của ngài, thì việc trình độ và khả năng khác nhau
của họ sẽ bổ sung cho nhau, để giáo xứ như một tòa nhà được xây dựng bởi các vật
liệu không giống nhau, nhưng thật sự bổ sung cho nhau.
Mỗi xóm giáo đều có một thành viên của Hội Đồng Giáo Xứ, chính vị này sẽ là cánh tay nối dài của cha sở trong xóm giáo mình: ai bệnh nặng, ai cần đưa Mình Thánh Chúa, ai cần xức dầu.v.v...thì chính vị này sẽ biết và báo cáo cho cha sở. Gia đình nào neo đơn cần giúp đỡ, trẻ em nào không thể đến trường vì gia đình nghèo.v.v...tất cả những việc đó cha sở làm gì biết được nếu không có “cánh tay nối dài” của mình báo lại sự việc !
Đám đông dân chúng đi theo Chúa Giê-su để nghe Ngài giảng đã mấy ngày, bụng đói rồi, ai mách với Chúa Giê-su là “ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”(Ga 6, 9a) , đó không phải là các tông đồ đã báo cáo cho Ngài biết sao ? Và phép lạ bánh hóa nhiều nuôi hơn năm ngàn người ăn đã được thực hiện, người ta không những ăn no nê mà còn thu lại được mười hai thúng đầy.
Có một vài giáo xứ mà những “cánh tay nối dài” của cha sở không vươn đến được các khu xóm, bởi vì có một vài “cánh tay nối dài” chưa thực hiện được trách nhiệm và bổn phận của mình, họ coi việc được làm trong ban Hội Đồng Giáo Xứ là một giai cấp ăn trên ngồi trước các giáo dân khác, cho nên họ hành xử như là một cha phó của cha sở: chỉ tay năm ngón, cũng hạch sách giáo dân, cũng to tiếng nạt nộ người này người nọ, đôi lúc làm cho giáo dân cảm thấy bất mãn và không muốn đến nhà thờ vì có những “cánh tay nối dài” ấy. Đương nhiên cha sở biết rõ từng “cánh tay nối dài” của mình, và dùng tình yêu thương của một mục tử nhân hậu mà nhắc nhở để giúp họ thấy được việc mình đang làm là phục vụ chứ không phải được phục vụ...
C. TƯƠNG QUAN VỚI CÁC HỘI ĐOÀN.
Giáo xứ là một cộng đoàn được quy tụ để cùng nhau tôn vinh thờ phượng Thiên Chúa
ngay tại trần gian này, và đó chính là nét nổi bật của Giáo Hội Công Giáo, nói
lên tinh thần hiệp nhất, tương thân tương ái để cùng nhau nên thánh. Do đó,
chúng ta có thể định nghĩa rằng: Một giáo xứ lớn mạnh và phát triển là một giáo
xứ có các hội đoàn, có các ban ngành đang hoạt động trong giáo xứ, mà cha sở
chính là nhân tố quyết định để các hội đoàn sống động, các ban ngành hăng say
làm việc tông đồ.
Tùy theo nhu cầu của giáo xứ mà cha sở thành lập các hội đoàn như:
- Thiếu Nhi Thánh Thể.
- Đạo binh Đức Mẹ (Legio Mariae).
- Hội Con Đức Mẹ.
- Giới Mẹ Gia Đình, giới cha Gia Đình.
- Hướng đạo.
- Ca đoàn.
- Ban giúp lễ (lễ sinh).
- Ban xã hội.v.v...
Cha sở chính là vị tuyên úy cao nhất của các đoàn thể trong giáo xứ, và có cha phó hoặc các nữ tu cộng tác với ngài trong việc dạy dỗ hướng dẫn các hội đoàn đi đúng mục đích của nó là: nên thánh, truyền giáo và trở nên mẫu mực cho mọi người.
Tương quan giữa cha sở và các hội đoàn trong giáo xứ là điều hết sức quan trọng, và bởi vì ngài là linh hướng của các hội đoàn, cho nên ngài có bổn phận nói “câu chuyện dưới cờ” cho họ, tức là ngài ban của ăn tinh thần cho nó được sống và hoạt động, do đó mà ngài có bổn phận phải nghiên cứu tôn chỉ và mục đích của các hội đoàn đã được thành lập trong giáo xứ, để không còn cảnh nói qua loa, lập lại, nói chung chung như có một vài cha sở đã làm, nghĩa là hội đoàn nào ngài cũng đều giáo huấn như nhau, mà không khơi dậy tinh thần tôn chỉ mục đích của hội đoàn ấy. Cho nên, chúng ta không lạ gì có những hội đoàn trong giáo xứ chỉ loe ngoe vài mạng, nguyên nhân sa sút thì có nhiều, nhưng nguyên nhân lớn nhất là họ không tìm thấy ân sủng của Thiên Chúa ban cho qua đoàn thể mà họ đang tham dự, bởi vì có lẽ cha sở ít quan tâm, ít gần gủi với họ, ít chia sẻ kinh nghiệm tu đức với họ chăng ?
Hội đoàn trong giáo xứ thì nhiều, nhưng nếu cha sở coi trọng hội đoàn này mà coi nhẹ đoàn thể khác, thì sự chia rẻ trong giáo xứ sẽ có cơ hội bùng phát, và các hội đoàn sẽ trở thành những phe nhóm nói xấu nhau, tranh giành ảnh hưởng trong giáo xứ mà quên mất mục đích của hội đoàn mình là phục vụ Thiên Chúa qua giáo xứ, quên mất bổn phận của mình là làm cho nhiều người được biết Chúa hơn qua đời sống cá nhân và của hội đoàn mình. Điều này càng không thể tránh được khi trình độ về giáo lý của giáo dân còn kém, về quan niệm nhận thức sống đạo của những người già và lớp người trẻ quá chênh lệch nhau, của những giáo dân cấp tiến và bảo thủ trong đời sống tôn giáo.
Bảo vệ sự hiệp nhất giữa các đoàn thể trong giáo xứ là trách nhiệm của cha sở với sự cộng tác của Hội Đồng Giáo Xứ và các ban ngành, hoặc nói cách chính xác hơn: cha sở là người tạo nên sự đoàn kết các thành phần trong giáo xứ, bởi vì ngài là đầu nên ngài hướng dẫn, ngài là cha nên ngài là đầu nối hòa giải giữa con cái trong nhà với nhau, ngài là mục tử nên ngài đối xử bình đẳng với tất cả con chiên của mình mà không phân biệt chiên ghẻ hay chiên lành.
Các hội đoàn đều bình đẳng
Tất cả các đoàn thể được thành lập trong giáo xứ đều là vì ích lợi cho phần rỗi của giáo dân, đều thuộc về giáo xứ mà cha sở là người lãnh đạo cao nhất của hội đoàn, là người chịu trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa và Giáo Hội về các hội đoàn trong giáo xứ của mình.
Có một vài giáo xứ mà cha sở coi trọng hội đoàn này,
vì những thành viên trong hội đoàn ấy làm được nhiều việc cho giáo xứ và cho cha
sở, như hội mẹ gia đình, hoặc hội Legio Mariae, và coi nhẹ đoàn thể kia vì họ
chẳng làm gì to tát cho giáo xứ như ban giúp lễ, nhóm chia sẻ Lời Chúa.
v.v...chính việc “kỳ thị” ấy của cha sở đã ươm mầm chia rẻ giữa các giáo dân
trong giáo xứ của mình, và khiến cho uy tín của cha sở giảm xuống trong việc
quản trị và giáo huấn giáo xứ của mình. Bởi vì cha sở là gia trưởng của đại gia
đình giáo xứ, các đoàn thể là những phương tiện hữu ích, làm cho người tín hữu
dễ dàng đạt đến sự thánh thiện khi tham gia sinh hoạt trong một hội đoàn, cho
nên tính cách công bằng, vô tư và yêu thương của ngài, cần phải trãi dài trên
tất cả các hội đoàn trong giáo xứ không phân biệt một đoàn thể nào.
Mỗi hội đoàn đều có tôn chỉ và mục đích của nó, cha sở -sau khi nghiên cứu- thì
đặt một phần trách nhiệm của giáo xứ trên hội đoàn ấy, chẳng hạn như: trách
nhiệm của hội đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể là giáo dục và hướng dẫn thiếu nhi trong
giáo xứ; hội Con Đức Mẹ thì quy tụ các thiếu nữ trong giáo xứ lại với nhau để
học hỏi giáo lý và phục vụ Chúa; hội các bà mẹ thì cổ võ nhau dạy dỗ con cái,
noi gương Đức Mẹ Maria chăm lo cho gia đình. v.v... và đó chính là trách nhiệm
xây dựng giáo xứ của hội đoàn, nhưng quan trọng hơn và trước hết là cha sở phải
quan tâm và hướng dẫn mọi đoàn thể sống Lời Chúa, qua chính cuộc sống của mỗi
thành viên trong các hội đoàn, để hội đoàn có sức sống vươn lên và tồn tại.
Đương nhiên, không buộc cha sở phải luôn tham dự các
buổi họp nếu nội quy của hội đoàn không buộc phải có vị linh hướng tham dự, bởi
vì có cha phó hoặc các nữ tu đảm nhiệm phần linh hướng thay mặt cha sở, nhưng
chính ngài cần phải động viên, và, ít nữa mỗi tháng một lần đến tham dự với các
đoàn thể, để khích lệ tinh thần của họ. Việc làm này làm cho các hội đoàn trong
giáo xứ cảm thấy “an tâm” hơn, vì họ thấy cha sở luôn hiện diện với họ, bởi vì
đứa con nào cũng cảm thấy an tâm khi có cha mẹ cùng đi với chúng nó, đàn chiên
nào cũng cảm thấy an toàn khi có vị mục tử dẫn dắt luôn đi sát bên chúng nó.
Bình đẳng giữa các hội đoàn trong giáo xứ cũng là một sức mạnh tiềm tàng của
giáo xứ, và nói lên được bản lĩnh lãnh đạo của cha sở, bởi vì thành công nhất
của cha sở không phải là xây dựng nhà thờ, nhưng là xây dựng một giáo xứ hòa
thuận, yêu thương và bình đẳng.
Lời kết
Mỗi thời mỗi khác, mỗi thời mỗi thay đổi, nhưng vai trò lãnh đạo và phục vụ của cha sở trong một giáo xứ thì không khác gì cả, có khác chăng là cha sở chỉ là người được sai đến với các giáo xứ, và sẽ thay đổi khi thời hạn phục vụ đã mãn, và giáo xứ thì vẫn luôn là giáo xứ của giáo dân, cho nên vai trò lãnh đạo của ngài luôn cần được sự hổ trợ của ơn Chúa Thánh Thần và sự giúp đỡ của các thành phần Dân Chúa trong giáo xứ của ngài, mà cụ thể là các tu sĩ nam nữ đang phục vụ trong giáo xứ, Hội Đồng Giáo Xứ và các ban ngành đoàn thể do ngài thành lập hoặc đã được thành lập từ trước.
Những tương quan nầy rất phức tạp, không phải một sớm một chiều mà có được, nhưng là do quá trình phục vụ, xem xét, suy tư, bàn hỏi và cầu nguyện của cha sở cũng như sự hợp tác của giáo dân mà có.
Tương quan giữa cha sở với các thành phần Dân Chúa trong giáo xứ, không phải là tương quan của một chủ nhân ông thích sai khiến hơn là làm việc, thích nóng nảy hơn là trầm tĩnh, thích được cung phụng hơn là phục vụ; cũng không phải là tương quan của một giám đốc thích hạch hỏi hơn là tìm hiểu cảm thông, thích la lối thóa mạ hơn là suy tư, thích đòi hỏi hơn là bắt tay làm việc, nhưng là một tương quan được đặt trên nền tảng yêu thương của Đức Ái, mà thánh Phao-lô tông đồ đã dạy qua thư gởi cho giáo đoàn Ê-phê-sô 4, 31-32:“Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại bỏ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô” , chỉ có trong Đức Ái thì sự tương quan giữa cha sở và các thành phần giáo dân trong giáo xứ mới trọn vẹn, có ý nghĩa mà thôi.
Xã hội càng phát triển thì giáo dân sẽ như những cánh chim bay đi tìm cuộc sống mới, tìm kế sinh nhai nơi các công trường, công sở và giáo xứ sẽ có những đổi thay nhiều mặt, mà nét nổi bật nhất chính là sự tương quan giữa cha sở và giáo dân sẽ không còn mặn nồng như trước đây nữa, giáo dân đến nhà thờ sẽ ít hơn. Do đó mà cha sở phải luôn là người chủ động làm cho các tương quan này ngày càng củng cố hơn bằng cách chủ động cùng với Hội Đồng Giáo Xứ đi thăm viếng giáo dân, chủ động đưa ra những hoạt động tông đồ với sự cộng tác của các hội đoàn trong giáo xứ, để các thành phần giáo dân trong giáo xứ có cơ hội tham gia và càng cảm thấy yêu mến giáo xứ nhiều hơn...
Lời nguyện của cha sở:
Lạy Chúa Giê-su,
Đấng là mục tử nhân lành và hay thương xót,
Đấng rất khiêm nhường và rất yêu thương,
Chúa đã xuống thế làm người,
để nối lại tương quan giữa con người
với Thiên Chúa Cha,
đó là tương quan giữa cha và con
mà nguyên tổ chúng con đã đánh mất
trong vườn địa đàng.
Hôm nay,
Chúa đã chọn con làm mục tử của đàn chiên Chúa,
trong giáo xứ giữa những giáo dân,
để con trở nên chiếc cầu nối giữa những tương quan:
tương quan giữa Chúa với con người
tương quan giữa cha sở với giáo dân
tương quan giữa cha sở với các tu sĩ nam nữ
tương quan giữa giáo dân với nhau,
để tình thương của Chúa được hiện diện trong giáo xứ,
và triển nở trong tâm hồn các giáo dân.
Nhưng con tài hèn sức yếu, với nhiều khuyết điểm,
xin Chúa ban cho con ơn khôn ngoan
để con biết hướng dẫn đàn chiên.
Ban cho con ơn nhẫn nại
để con biết thông cảm và chờ đợi.
Ban cho con ơn vui vẻ
để con biết mĩm cười trước những chống đối.
Ban cho con ơn đạo đức
để con sống noi gương Chúa là vị mục tử nhân hậu.
Để con trở nên một cha sở khiêm tốn,
một mục tử hy sinh, và một người cha nhân hậu,
hết mình vì đàn chiên...
Amen.
Lễ thánh Phê-rô và Phao-lô
29.6.2007
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.